intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Hán Nôm: Nghiên cứu văn bản Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án góp phần làm rõ đặc điểm văn bản của tác phẩm Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương trên nhiều phương diện, như: Lịch sử hình thành văn bản, quá trình truyền bản, số lượng văn bản, tác giả, ngôn ngữ thể hiện trong tác phẩm. Từ đó khái quát vai trò của tác phẩm trong đời sống Phật pháp và đời sống văn hóa xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Hán Nôm: Nghiên cứu văn bản Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NCS NGUYỄN DANH LONG (PHÁP DANH THÍCH VÂN PHONG) NGHIÊN CỨU VĂN BẢN “BẢO ĐỈNH HÀNH TRÌ BÍ CHỈ TOÀN CHƯƠNG” Ngành: Hán Nôm Mã số: 9.22.01.04 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM HÀ NỘI – 2024
  2. Công trình được hoàn thành tại Học viện Khoa học xã hội Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Tá Nhí 2. PGS. TS. Vương Thị Hường Phản biện 1: PGS. TS. Hà Văn Minh Phản biện 2: PGS. TS. Phạm Văn Khoái Phản biện 3: PGS. TS. Lã Minh Hằng Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ họp tại Học viện Khoa học xã hội giờ ngày tháng năm 2024 \ Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - Thư viện Quốc gia Việt Nam
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tác phẩm Thích thị Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương 釋氏寶鼎行 持秘旨全章 còn gọi là Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương 寶鼎行持秘旨全 章 (gọi tắt là Bảo đỉnh hành trì 寶鼎行持), tác phẩm do Đệ Trúc Lâm tam tổ Huyền Quang 玄光 tên thật là Lý Đạo Tái 李道載 (1254 - 1334) định bản (thu thập, sửa chữa và biên tập). Tác phẩm sử dụng chữ Hán và có xen chữ Nôm, ghi chép các nghi lễ trong đạo Phật, các bài văn hướng dẫn cách thức thực hành nghi thức hành lễ trong trai đàn, như: đề ngạch sớ, đề Kim đồng Ngọc nữ, lễ phát hỏa trong phát tấu, giải oan, phá ngục, v.v... Bảo đỉnh hành trì được lưu hành rộng rãi trong các chùa Phật ở Việt Nam, thư viện tư gia, thư viện địa phương, thư viện trung ương và các thầy cúng. Tác phẩm từ trước đến nay vẫn được coi là bí chỉ của Thiền phái Trúc Lâm và tác phẩm này cũng được coi là tác phẩm thực hành nghi lễ tôn giáo tiêu biểu cho biểu hiện nhập thế của Phật giáo Trúc Lâm. Là một tu sĩ Phật giáo, ngay từ khi mới xuất gia tu đạo, tôi vô cùng hâm mộ công hạnh của các vị hoàng đế nhà Trần. Điều khiến tôi từng phải trăn trở suy nghĩ tại sao các vị hoàng đế triều Trần lại sẵn sàng từ bỏ ngai vàng cao quý để đến với cảnh chùa hoang vắng tĩnh mịch? Phải chăng do sự tốt đẹp của tư tưởng Phật giáo hay cảnh giới của các vị hoàng đế nhà Trần trong thời đại bình yên mới? Và trách nhiệm vì dân vì nước của các vị ấy có giống như trách nhiệm xây dựng Thiền phái của riêng người Việt?... Sự uyên áo mầu nhiệm của Thiền phái đã đồng hành cùng với lòng tin của Phật tử suốt chặng đường lịch sử đó như thế nào?... Tôi thấy cần thiết phải có nghiên cứu sâu hơn, kỹ hơn về văn bản tác phẩm này. Vì thế tôi đã lựa chọn “Nghiên cứu văn bản Bảo Đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương” làm đề tài luận án Tiến sĩ Hán Nôm của mình. 2. Mục tiêu khoa học Luận án nghiên cứu văn bản học nhóm văn bản Bảo đỉnh hành trì, tiến hành xác lập thế hệ bản sao và xác định bản tin cậy (thiện bản). Từ đó, nghiên cứu giá trị tác phẩm Bảo đỉnh hành trì về nội dung và nghệ thuật, nhằm giới thiệu tác phẩm Phật giáo do Đệ tam tổ Huyền Quang định bản 1
  4. trong đời sống văn hóa Phật giáo thời Trần gắn liền với Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử trong đời sống văn hoá hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu nhóm văn bản Bảo đỉnh hành trì hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (06 bản) VHv.1096, VHv.1097, AH.a1/4, A.2838, AC.225, A.2760 và Thư viện Quốc gia Việt Nam (03 bản): R.311 R.332. R.3199. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án đi sâu nghiên cứu văn bản tác phẩm Bảo Đỉnh hành trì ở các vấn đề như: văn bản, tác giả, nội dung và hình thức; vấn đề ảnh hưởng của tác phẩm trong đời sống văn hóa Phật giáo nói riêng và văn hóa xã hội nói chung. Ngoài ra, khi cần có sự đối chiếu, so sánh, tìm luận cứ chứng minh cho các luận điểm đã đưa ra, chúng tôi sẽ có thể mở rộng nghiên cứu tới các văn bản Hán Nôm khác viết về Thiền phái Trúc Lâm. 4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý thuyết Trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc sưu tầm, bảo tồn, nghiên cứu khai thác và phát huy văn hóa truyền thống, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Những tri thức về Ngữ văn Hán Nôm, Phật học, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng được vận dụng lý thuyết nghiên cứu khoa học trong từng chương của luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, luận án đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp nghiên cứu văn bản học Hán Nôm; Phương pháp nghiên cứu Mộc bản học; Phương pháp nghiên cứu Phật học, văn hóa học; Nghiên cứu liên ngành: Nhằm đối chiếu vấn đề trên nhiều bình diện có mối liên quan tới nhau… 5. Đóng góp mới của đề tài 2
  5. - Giới thiệu một cách có hệ thống văn bản Bảo đỉnh hành trì từ văn khắc mộc bản đến các văn bản in từ mộc bản (thư tịch). - Làm rõ các vấn đề văn bản như: Cấu trúc văn bản, tác giả văn bản, xác định bản nghiên cứu và biên dịch công bố (thiện bản) tác phẩm Bảo đỉnh hành trì. - Nghiên cứu giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm Bảo đỉnh hành trì, giải mã, giới thiệu về tác phẩm Phật giáo, hướng tới sự bảo tồn và phát huy giá trị của tác phẩm. - Giới thiệu vai trò của văn bản Bảo đỉnh hành trì trong hệ thống tác phẩm Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử. - Nghiên cứu các hoạt động sinh hoạt văn hóa, hành trì khoa nghi và những vấn đề Phật giáo của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử trong đời sống tín ngưỡng, văn hóa bản địa.... - Khẳng định vai trò của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử trong đời sống chính trị tư tưởng, văn hóa xã hội, tôn giáo qua văn bản Bảo đỉnh hành trì. - Phiên âm toàn bộ và tuyển dịch một nội dung trong tác phẩm Bảo đỉnh hành trì. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận - Luận án góp phần cung cấp cái nhìn khái quát về một văn bản của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cũng như những tác động của tác phẩm trong lịch sử và đời sống xã hội hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận án góp phần làm rõ đặc điểm văn bản của tác phẩm Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương trên nhiều phương diện, như: Lịch sử hình thành văn bản, quá trình truyền bản, số lượng văn bản, tác giả, ngôn ngữ thể hiện trong tác phẩm. - Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc thực hành nghi lễ tôn giáo và nghiên cứu đời sống tâm linh của người Việt. 7. Kết cấu của luận án 3
  6. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án sẽ được triển khai thành 4 chương chính với các nội dung được xác định nghiên cứu chủ yếu như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Chương 2: Khảo sát văn bản Bảo đỉnh hành trì. Chương 3: Quá trình truyền bản và nội dung, tác giả tác phẩm Bảo đỉnh hành trì Chương 4: Ảnh hưởng của tác phẩm Bảo đỉnh hành trì trong đời sống văn hóa xã hội. Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử phát triển trong thời kỳ quốc gia Đại Việt độc lập tự chủ và Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn tới đời sống văn hóa xã hội đương thời. Tác phẩm Bảo đình hành trì là tác phẩm tiêu biểu cho tư tưởng Phật giáo thời Trần. Vì vậy, với mục đích nghiên cứu để làm rõ những vấn đề về văn bản như đã nêu, luận án đồng thời cũng làm rõ hơn về các vấn đề: Giá trị nội dung văn bản, mối liên hệ qua lại giữa tín ngưỡng tôn giáo và thực hành tín ngưỡng, sức ảnh hưởng của nội dung văn bản tới đời sống xã hội hiện nay. 1.1. Lược khảo các công trình nghiên cứu về Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử 1.1.1. Tư liệu Hán Nôm về Thiền phái Trúc Lâm Yên tử Đến đời Lý - Trần, chữ Hán được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội. Các văn kiện chính thức của triều đình như chiếu chỉ, sắc lệnh đều viết bằng chữ Hán. Sách Đạo giáo nguyên lưu 道教源留 do Hòa thượng Phúc Điền biên soạn ghi nhận, năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736) đời Lê Ý Tông, vị sư Tổ thứ hai chùa Liên Tông là Hòa thượng Tính Tuyền vâng chiếu lệnh của triều đình sang đỉnh Hồ Sơn ở Quảng Châu nước Thanh tu học và thỉnh kinh. Khi về nước Sư tổ đã sưu tầm được 300 bộ sách đưa về cất giữ tại chùa Càn An ở Hà Thành. 4
  7. Một tác phẩm được cho rằng khắc in sớm từ cuối đời nhà Trần đề cập đến các vị xuất gia tu hành của Thiền phái, đó là Thánh đăng lục 聖燈 錄. Tam tổ thực lục 三祖實錄 là công trình được ra đời vào thế kỷ XVIII do Thiền sư Tính Quảng và Ngô Thì Nhậm sưu tầm, tập hợp. Bộ Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書 đã biên dịch giới thiệu thân thế sự nghiệp của chư vị tiền bối của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, như Quốc sư Phù Vân (còn có các tên Trúc Lâm, Đạo Viên, Viên Chứng), Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ và vị sư tổ thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là Trần Nhân Tông (Phật hoàng Trần Nhân Tông, Đầu Đà Hoàng Giác Điều Ngự). Sách An Nam chí lược 安南志略 mô tả về núi Yên Tử rằng, tên núi còn gọi là Yên Sơn hoặc là Tượng Sơn. Đại Nam nhất thống chí 大南一統 志 chép rất chi tiết về cảnh quan và chùa chiền ở Núi Yên Tử. Lịch triều hiến chương loại chí 歷朝憲章類志 của Phan Huy Chú 潘輝注 (1782- 1840) viết về Yên Tử như sau: “Núi Yên Tử cảnh trí lại càng lạ tuyệt. Vua nhà Trần thường xuất gia tu ở núi ấy. Trúc Lâm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục 竹 林 慧 忠 上 士 語 錄 (Thượng sĩ ngữ lục 上士語錄) của Trần Quốc Tảng (Tuệ Trung Thượng Sĩ), tác phẩm ghi lại các cuộc đối thoại giữa Thượng sĩ Tuệ Trung và học trò về triết học Phật giáo, nhất là triết thuyết của phái Trúc Lâm ở Yên Tử. Thiền uyển tập anh 禪苑集英, bản cổ nhất được biết đến là bản được trùng san năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715). Khóa hư lục 課虛錄 của Trần Thái Tông được Đào Duy Anh giới thiệu, phiên dịch và chú (1974), NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội;... 1.1.2. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử qua một số các công trình biên dịch Bộ Thơ văn Lý - Trần (NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội; Tập 1, 1977; Tập 2 (quyển thượng), 1988; Tập 3, 1978) có lẽ là công trình sớm thu thập tài liệu về Thiền phái và đã dịch chú và giới thiệu thơ văn của chư vị thuộc Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Bộ Thơ văn Ngô Thời Nhậm, gồm 5 tập do Lâm Giang chủ biên (2003 – 2006), NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội xuất bản. Tập 5 biên dịch và giới thiệu tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh (văn). Nội dung tác 5
  8. phẩm nêu lên những tư tưởng chủ yếu của phái Trúc Lâm cùng một số bài kệ, tiểu sử của 3 vị tổ phái Thiền Tông Trúc Lâm như: Trần Nhân Tông (tổ thứ nhất), Pháp Loa (tổ thứ hai) và Huyền Quang (tổ thứ ba). Tổng tập văn học Nôm Trúc Lâm Yên Tử, NXB. Thông tin và Truyền thông, xuất bản năm 2014; tác phẩm phiên âm và giới thiệu các văn bản Nôm mộc bản hiện lưu giữ tại chùa Vĩnh Nghiêm. Lê Mạnh Thát (1980) trong Chân Nguyên thiền sư toàn tập do Tu thư Vạn Hạnh xuất bản, in Roneo, hai tập, nghiên cứu về con người và sự nghiệp của Thiền sư Chân Nguyên và sưu tầm các tác phẩm của Chân Nguyên. Toàn tập Minh Châu Hương Hải của Lê Mạnh Thát (2000), NXB. Tp. Hồ Chí Minh. Nội dung sách giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp cùng trước tác của Thiền sư Hương Hải. Thiền tông bản hạnh (2021) được giới thiệu trong Trúc Lâm Yên Tử Phật giáo tùng thư đã tiếp thu quan điểm của Hoàng Thị Ngọ. Ngoài ra, còn một số các tác phẩm dịch thuật khác của các học giả tiền bối như Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh, Hòa thượng Thích Thanh Từ, thầy Lê Mạnh Thát và nhiều quý vị khác. Trúc Lâm Yên Tử Phật giáo tùng thư do Thích Thanh Quyết và Trịnh Khắc Mạnh đồng chủ biên, cùng sự tham gia của Trần Trọng Dương, Dương Văn Hoàn, Phạm Văn Tuấn, Thích Vân Phong và Lê Quốc Việt, do NXB. Khoa học xã hội ấn hành năm 2021... 1.1.3. Các công trình, bài viết nghiên cứu về Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, NXB. Sài Gòn xuất bản năm 1973 trong phần đạo Phật và văn hóa, tác giả nghiên cứu từ cứ liệu các văn bia thời Lý - Trần. Thanh Từ trong Thiền sư Việt Nam (1973), Tu viện Chơn Không xuất bản, giới thiệu thân thế và sự nghiệp của các thiền sư Việt Nam thuộc các phái, như: Tì Li Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Hoàng Xuân Hãn đã giới thiệu văn bản Thiền tông bản hạnh trên Tạp chí Phật học Vạn Hạnh, Sài Gòn năm 1966; sau đó tiếp tục được giới thiệu trên Tập san Khoa học xã hội, số 5, 6, 7 (Paris, Cộng hòa Pháp) vào 6
  9. các năm 1978, 1979, 1980. Hoàng Thị Ngọ đã khảo cứu, phiên âm và chú thích Thiền tông bản hạnh, NXB. Văn học, 2009. Trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Tài Thư chủ biên (1988), ở phần thứ hai viết về Phật giáo từ thời Ngô đến thời Trần (giữa thế kỷ X - thế kỷ XIV. Cùng chủ đề lịch sử Phật giáo Việt Nam, có bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát (2002), NXB. Tp. Hồ Chí Minh. Nguyễn Hùng Hậu (1997), với công trình Lược khảo tư tưởng Trúc Lâm Việt Nam đã tập trung nghiên cứu, nêu ra những điểm độc đáo, đặc sắc của Phật giáo thời Trần, đặc biệt là của Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm (1997), ra mắt tác phẩm Tuệ Trung Thượng Sĩ với Thiền tông Việt Nam, do Tp. Hồ Chí Minh xuất bản. Đặc biệt là Thiền tông bản hạnh của Hòa thượng Chân Nguyên được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Nghiên cứu về Tam tổ trong Nghiên cứu về Trúc Lâm tam tổ, Luận án TS. do Thích Thanh Đạt thực hiện năm 2000, bảo vệ tại Hội đồng đào tạo Viện Sử học, tập trung nghiên cứu thân thế sự nghiệp hoằng dương Phập pháp của ba vị sư tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử (Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang). Tam tổ hành trạng 三祖行狀 đã được Trần Tuấn Khải dịch (1971), NXB. Phủ Quốc vụ khanh xuất bản tại Sài Gòn. Năm 2007, Phạm Văn Tuấn bảo vệ luận văn với đề tài Kiến tính thành Phật của Chân Nguyên thiền sư. Luận văn đã sưu tầm, giới thiệu và khảo cứu hệ thống văn bản Kiến tính thành Phật 見姓成佛. Trong luận văn tác giả đã khảo sát rất kỹ vấn đề văn bản học của tác phẩm này. Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam của Hà Văn Tấn, NXB. Hội Nhà văn, 2005; tại mục “Chùa Việt Nam”, tác giả cho người đọc tiếp xúc với một diện mạo mới khẳng định sự hưng thịnh của văn hóa Phật giáo Lý–Trần, trong đó có nhiều chùa, tháp,… thuộc hệ thống chùa Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Chùa Yên Tử, do Trần Trương biên soạn (2011), NXB. Văn hóa Thông tin ấn hành. Kỷ yếu hội thảo Tuệ Trung Thượng Sĩ với Thiền tông Việt Nam, do Trung tâm Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Khoa học xã hội TP Hồ Chí Minh tổ chức năm 1993, tập hợp nhiều bài viết về thân thế, sự nghiệp, tư tưởng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đối với văn hóa Việt Nam nói chung và Thiền tông Việt Nam 7
  10. nói riêng. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Phật hoàng Trần Nhân Tông - Con người và sự nghiệp, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013, tập hợp 68 bài viết về thân thế, sự nghiệp, tư tưởng của Trần Nhân Tông đối với đất nước, văn hóa xã hội Việt Nam nói chung và Thiền tông Việt Nam nói riêng. Luận án Tiến sĩ Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm do Thích Phước Đạt bảo vệ năm 2008 tại Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP Hồ Chí Minh đã nghiên cứu lịch sử truyền thừa Thiền phái Trúc Lâm trong bối cảnh lịch sử dân tộc của thời đại thời Lý-Trần. Nghiên cứu văn bia tỉnh Bắc Giang, luận án TS. của Nguyễn Văn Phong, Học viện Khoa học xã hội bảo vệ năm 2016, có mục viết về Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử trên đất Bắc Giang... Bài “Khảo về Thanh Mai Viên Thông tháp bi” của Phạm Văn Tuấn (2014), Tạp chí Hán Nôm, số 6 (127) tiến hành giám định văn bản, so sánh, dịch thuật, đưa ra một văn bản gần nhất với bản gốc của Thanh Mai Viên Thông tháp bi... Qua tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ở trên cho thấy, Thiền phái Trúc Lâm được đã đề cập và quan tâm nghiên cứu từ rất lâu. Có rất nhiều nghiên cứu có giá trị về mặt học thuật, thành tựu đạt được trong các nghiên cứu trong lịch sử là rất lớn. 1.1.4. Một số công trình sưu tầm, nghiên cứu, biên dịch về khoa cúng Bộ Việt Nam Phật điển tùng san 越南佛典叢刊 do Tổng hội Phật giáo Bắc Kì phát hành năm 1943, dưới sự bảo trợ của EFEO tại Hà Nội. Trong đó đáng chú ý tập Lễ tụng hành trì tập yếu chư nghi 禮 誦 行持 集 要 諸 儀 có tuyển chọn một số khoa nghi hành trì của Phật giáo do Thiền phái Trúc Lâm biên soạn, hiệu đính. Tạp tiếu chư khoa 雜 醮 諸 科, bộ sách được in năm Tự Đức thứ 12 (1859) từ bản khắc gỗ lưu tàng tại chùa xã Xuân Lôi, huyện Vũ Giang, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay, mộc bản lưu tại chùa Diên Phúc, xã An Viễn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Ninh. Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu được cả hai bản khắc in vào năm Tự Đức và Thành Thái, kí hiệu A.899/1-3, VHv.1109, A.1950/1-5... Thủy lục chư khoa 水陸諸科. do nhà sư Tuệ Đăng Chân Nguyên 慧 登真源, phái Trúc Lâm (Yên Tử) soạn. Tăng Thống Thanh Như Sa Môn 清 如沙門 đề tựa. Các khoa cúng trong chùa trên cạn và dưới nước được các vị 8
  11. Tổ sư Thiền môn soạn từ rất lâu đời nhằm làm phương tiện độ sinh: thỉnh phật, nghinh sư, chiêu hồn, tiếp vong linh, tẩy uế, tạo lỗi, sám hối v.v. Sách đã được dịch giả Quảng Minh dịch nghĩa, phiên âm, chú thích, NXB. Hồng Đức xuất bản năm 2013. Thích điển kì an diên sinh công văn 釋典祈安延生公文. Thiền Hòa Tử 禪和子, tự Đức Tông 德宗 soạn. Liêu Vĩnh đường in năm Lê Cảnh Hưng thứ 35 (1774). Gồm 68 bài văn cúng Phật (tấu, sớ, điệp, bạch, trạng, tụng kinh, sám hối…) để cầu yên, cầu thọ, trừ bệnh, giải oan… Ứng phó dư biên 應赴餘編總集. Sách là bản in từ bản khắc gỗ vào năm Thành Thái thứ 7 (Ất Mùi 1895), được khắc bản tại chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, tổng Bất Phí, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh xưa, do trụ trì Chính Đại biên tập. Tác phẩm Ứng phó dư biên 應赴餘編總集 cũng được chọn làm đề tài nghiên cứu của học viên Cao học Thích Minh Trí ngành Hán Nôm với tiêu đề là Nghiên cứu văn bản Ứng phó dư biên tổng tập, bảo vệ năm 2020 tại Đại học KHXH và NV, Đại học quốc gia Hà Nội. Viện Nghiên cứu còn lưu giữ được rất nhiều văn bản, tác phẩm về các khoa nghi và thực hành khoa nghi. Trong đó có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biển như: Đại Đà la kinh 大陀羅經 do nhà sư Nguy Nguy, tự Phổ Lợi in lại tại chùaThánh Chúa, năm Tự Ðức thứ 13 (1860). Công văn độ âm 攻 文 度 音 do Bình Dân Nguyễn Văn Khẩn soạn năm Nhâm Tuất... Về các công trình nghiên cứu, cũng có rất nhiều các nghiên cứu đề cập đến những vấn đề khoa nghi, thờ cúng của Phật giáo, đáng chú ý có một số nghiên cứu sau: Tác phẩm Truyện cụ Nguyễn Du của Lê Thước, năm 1924, nhà in Mạc Đĩnh Chi, Hà Nội, trong tác phẩm này có đề cập tới Thí thực cô hồn văn với tiêu đề Văn chiêu hồn; Năm 1965 Xuân Diệu có bài Đọc văn chiêu hồn của Nguyễn Du in trên Tạp chí Văn học số 11 đã bình luận và giảng giải về giá trị tác phẩm Văn chiêu hồn của Nguyễn Du. Và còn nhiều nhà nghiên cứu khác đã giới thiệu và tìm hiểu về bài văn Tế cô hồn. Những nghiên cứu về các bài văn tế cô hồn có nội dung tương tự 2 bài Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm và Hựu quốc âm văn trong văn bản Ứng phó dư biên tổng tập. Luận văn Thạc sỹ Nghi lễ thờ cúng của Phật giáo ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay do Tạ Văn Tác bảo vệ tại trường Đại 9
  12. học KHXH và NV, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014. Luận văn cho rằng: Nghi lễ Phật giáo đóng vai trò quan trọng, không chỉ là phương tiện để chuyển hóa tâm linh, đưa người vào Đạo mà còn là một pháp môn tu học. Luận án Tiến sĩ Sự hội nhập Nhật giáo với tín ngưỡng thờ cúng truyền thống của người dân Hà Nội hiện nay do Thích Thanh Nhiễu bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2016; Luận văn Thạc sỹ Nghi lễ cầu an, cầu siêu trong Phật giáo ở miền Trung hiện nay do Thích An Nhiên thực hiện năm 2018 bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội. Luận văn Thạc sỹ đề tài Cúng cô hồn theo nghi thức Mông sơn thí thực do Nguyễn Tấn Khang bảo vệ năm 2020, tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP.HCM. Luận văn đã chỉ ra vai trò, ý nghĩa và giá trị của việc cúng cô hồn theo nghi thức Mông Sơn thí thực trong đời sống của người Việt tại đây. 1.2. Công trình nghiên cứu về văn bản tác phẩm Bảo đỉnh hành trì Văn bản Bảo đình hành trì được coi là văn bản thực hành nghi lễ rất nổi tiếng của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử. Tuy nhiên, như trên đã nói, mặc dù có rất nhiều thành tựu trong nghiên cứu Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, song các nghiên cứu về mặt văn bản của tác phẩm này còn ít được nhắc tới. Công trình đề cập và nghiên cứu Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương cho thấy trong lịch sử vấn đề chủ yếu là ứng dụng các khoa nghi trong nghi thức cúng Phật và giới thiệu hình ảnh văn bản, nơi tàng trữ văn bản. Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về văn bản tác phẩm Bảo đỉnh hành trì chưa nhiều, chưa nghiên cứu về văn bản học, chưa biên dịch tác phẩm, đặc biệt là chưa có các công trình chuyên khảo về tác phẩm Bảo đỉnh hành trì. Các công trình nghiên cứu của người đi trước, chủ yếu là giới thiệu chung về văn bản tác phẩm, nghiên cứu về văn tự học hoặc khai thác giá trị nội dung tác phẩm về mặt văn hóa Phật giáo, văn hóa tín ngưỡng, v.v... 1.3. Định hướng nghiên cứu của đề tài luận án - Trước hết, luận án hệ thống hóa văn bản Bảo đỉnh hành trì hiện có ở Hà Nội, trong đó tập trung ở 2 địa điểm: Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Quốc gia Việt Nam. Đây là nhiệm vụ quan trọng đối với tất cả các công trình nghiên cứu vấn đề văn bản học của tác phẩm. 10
  13. - Tìm hiểu giá trị nội dung tác phẩm, chú trọng nghiên cứu những giá trị về văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng Phật giáo, để làm rõ đời sống văn hóa tinh thần của tác phẩm Bảo đỉnh hành trì. - Khai thác giá trị nghệ thuật tác phẩm, ngôn ngữ, thể loại, văn chương,... góp phần làm sáng tỏ phong cách của tác phẩm Phật giáo. Khẳng định giá trị của tác phẩm Bảo đỉnh hành trì đối với Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử nói riêng và trong đời sống chính trị tư tưởng, văn hóa xã hội, tôn giáo tín ngưỡng thời đại triều Trần (1225 - 1400) nói chung. - Nêu lên sức lan tỏa của tác phẩm Phật giáo trong đời sống văn hóa xã hội đương đại. Tiểu kết chương 1 Văn bản Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương - tác phẩm rất đáng chú ý của Phật giáo Trúc Lâm về mặt ứng dụng trong đời sống Phật pháp và rất phổ biến trong xã hội, nhất là trong lĩnh vực thực hành nghi lễ tôn giáo song có rất ít công trình nghiên cứu toàn diện về mặt văn bản. Các vấn đề gợi mở, chủ yếu giới thiệu văn bản Bảo đỉnh hành trì và ứng dụng của nó trong các khoa nghi Phật giáo. Một số nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học đã gợi mở hướng nghiên cứu về tư tưởng cũng như ngôn ngữ, đặc trưng văn tự trong Bảo đỉnh song các công trình này cũng chưa có tổng kết về hệ thống văn bản, quá trình truyền bản, định bản… Đây cũng sẽ là hướng nghiên cứu của Luận án nhằm bổ sung vào những khuyết thiếu đó. Chương 2 KHẢO SÁT, MÔ TẢ VĂN BẢN BẢO ĐỈNH HÀNH TRÌ Bảo đỉnh hành trì được biết đến với tư cách là văn bản ghi chép các cách thức thực hành nghi thức hành lễ trong trai đàn, giải oan, phá ngục, cứu khổ, cứu nạn,… nên văn bản lưu truyền rộng khắp trong các thư viện công, thư viện tư gia, trong các chùa và cá nhân các thầy cúng ở Việt Nam. Số lượng văn bản tác phẩm hiện còn trong dân gian có thể đến vài trăm văn bản hoặc hơn thế nữa. Do khuôn khổ của luận án, chương này tập trung giới thiệu văn bản Bảo đỉnh hành trì ở hai trung tâm lưu trữ quan trọng nhất Việt Nam là Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Quốc gia Việt Nam. 2.1. Mô tả văn bản Bảo đỉnh hành trì 11
  14. Văn bản Bảo đỉnh hành trì ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm có nội dung đầy đủ hoặc một phần của Bảo đỉnh gồm 06 văn bản, đó là các kí hiệu VHv.1096, VHv.1097, A.2838, A.2760, AC.225, AH.a1/4. Văn bản Bảo đỉnh hành trì ở Thư viện Quốc gia Việt Nam gồm: 03 kí hiệu R.311, R.332, R.3199. 2.1.1. Văn bản lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1) Văn bản VHv.1096 Văn bản VHv.1069 hiện đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sách khổ 22 x 15cm, 95 tờ, đóng bìa cứng, in chữ chân khá dễ đọc. Văn bản VHv.1096 còn đầy đủ các trang từ đầu đến cuối, các mục phần rõ ràng, chữ in tốt nên chúng tôi chọn làm bản nền để so sánh với các văn bản trong nhóm bản in tại Viên Minh tự và cũng chọn là bản để so sánh với các văn bản khác. (2) Văn bản VHv.1097 Văn bản VHv.1097, bản in, khổ 22 x 15cm, 95 tờ, không ghi tên tác giả, nơi tàng bản, người tân san. So với văn bản VHv.1096 thì thấy VHv.1097 bị mất 7 tờ đầu. Dựa vào lề sách ghi tên văn bản là 寶鼎行持祕 旨全章/ Bảo đỉnh hành trì bí chí toàn chương nên chúng tôi đã xếp vào nhóm văn bản được in từ Viên Minh tự để so sánh. Dựa vào các trang in: từ chữ viết, số chữ, nội dung, chữ đầu chữ cuối mỗi trang,... và mặc dù mất trang đầu ghi tên nơi tàng bản nhưng căn cứ vào dòng cuối tờ 95b ghi “板留在開泰總古遼社光朗村圓明寺/ Bản lưu tại chùa Viên Minh thôn Quang Lãng xã Cổ Liêu tổng Khai Thái” đồng thời qua đối chiếu từng trang và kiểu chữ của hai văn bản, chúng tôi cho rằng, VHv.1096 và VHv.1097 được in cùng ván in của chùa Viên Minh. (3) Văn bản A.2838 Hình thức thể hiện của văn bản này cũng giống như ở bản VHv.1096. Sách khổ khổ 22 x 15cm, còn 92 tờ, rách mất 3 tờ cuối. So sánh kết cấu các mục phần trong văn bản thì thấy giống hệt bản VHv.1096. Tuy nhiên, do mất 3 tờ cuối (so với bản VHv.1096) thì bài 釋氏攻文定制國語集/Thích thị công văn định chế quốc ngữ tập (Công văn họ Thích làm bằng chữ Quốc ngữ) của văn bản A.2838 có không đủ (mất đoạn cuối); không có bài 課安 12
  15. /Khóa an; 寶鼎行持檢校小引/Bảo đình hành trì kiểm hiệu tiểu dẫn và phần ghi năm tháng san khắc cũng như người san khắc, ấn hành, công đức. (4) Văn bản AC.225 Văn bản AC.225 có 93 tờ, bản in, 26 x 15cm, sách ít hơn so với nhóm văn bản in tại chùa Viên Minh 2 tờ (là tờ 94,95). Tại tờ 1a, văn bản ghi dòng chữ 書 派 堂/ Thư Phái đường. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy hệ bản của Thư Phái đường không thuộc ván in của chùa Viên Minh. (5) Văn bản A.2760 Văn bản viết tay, lối chữ chân phương, rõ nét, khổ 27 x 15cm, gồm 57 tờ. Ở 2 tờ đầu qua đối chiếu thấy người viết đã căn chỉnh theo văn bản in Viên Minh tự bản VHv.1096 ở từng chữ (chữ đầu trang, chữ cuối trang, xuống dòng, viết đài…). Tuy nhiên sự cố gắng căn chỉnh cho giống này chỉ thực hiện được ở 3 tờ đầu. Từ tờ thứ 4 trở đi trong khuôn khổ mỗi trang đã không giống các bản in Có thể một số mục phần, hướng dẫn khóa lễ không đầy đủ như các bản in song căn cứ vào thứ tự 3 tờ đầu, nhất là dòng chữ Viên Minh tự cho thấy bản chép tay A.2760 được chép lại từ bản của chùa Viên Minh. Vì không ghi niên đại vua mà chỉ ghi năm theo lịch can chi nên năm Mậu Thìn rất khó để xác định cụ thể là năm Dương lịch nào. Nhưng chắc chắn một điều là bản chép tay này sẽ có sau bản của bản in chùa Viên Minh (năm 1918). (6) Văn bản AH.a1/4 Văn bản Hưng Yên tỉnh Yên Mỹ huyện Liêu Xã tổng Liêu Trung xã/ 興 安省安美縣遼中總遼中社古字紙, kí hiệu AH.a1/4 viết tay, 127 tờ, khổ 29 x 16.5cm, chữ Hán và Nôm, gồm 1 mục lục, không có tựa, bạt. Nội dung sách chia làm 6 phần chính, trong đó đề cập đến phong tục thờ cúng, thực hành tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Khảo sát văn bản cho thấy phần viết về làng xã, gia phả, ruộng đất, khoa bảng một số họ trong xã, do Lý dịch xã Liêu Trung huyện Yên Mỹ (Hưng Yên) và Tiến sĩ khoa Giáp Ngọ nhận chức Thự Kinh Bắc đạo Giám sát ngự sử Công khoa cấp sự trung Hương Liên cư sĩ Chuyết Hiên Nguyễn Điều Huyền phụng soạn năm Cảnh Hưng thứ 17 (1756). 13
  16. Phần về tu trì, Phật giáo do các vị tu hành như Bật sô tăng Pháp Chiếu; Bật sô tử Pháp Định... sao chép, biên tập. Các ghi chép về hành trì, truyền đăng của một số nhân vật trong Phật giáo Trúc Lâm như: Đường An Liêu Trung tự tăng Bật sô tự Pháp Định biên tập. Đối chiếu các khoa nghi, mục phần của AH1/4 với các khoa nghi, mục phần trong Bảo đỉnh hành trì cho thấy, mặc dù ghi là các khoa nghi do Huyền Quang đời Trần để lại nhưng chi tiết không giống nhau. Tên các khoa nghi ở VHv.1096 có bóng dáng ở AH1/4 nhưng không trùng nhau. Chỉ có phần 釋氏攻文定制國音集/Thích thị công văn định chế quốc âm tập (tờ 130- 140b) trùng với các bản Bảo đỉnh hành trì của Viên Minh tự1. 2.1.2. Văn bản lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam (1) Văn bản R.3199 Văn bản khổ 22 x 15cm, bản in, gồm 93 tờ. Tờ đầu bị rách góc nhưng các tờ sau có chất lượng tốt. Căn cứ nội dung các mục phần và chữ 書/ thư còn sót lại và ở vị trí giống như văn bản AC.225, chúng tôi cho rằng đó là chữ Thư trong Thư Phái đường. Ngoài phần bị rách thì nội dung của văn bản R.3199 giống hệt bản AC.225. Chúng tôi cho rằng, văn bản này cùng ván in của Thư Phái đường. (2) Văn bản R.332 Văn bản khổ 26 x 15cm, gồm 97 tờ. Tờ 1a ở trên cùng cũng viết: 圓 明 寺/ Viên Minh tự/ chùa Viên Minh. So với bản VHv.1096 thì văn bản này từ trùng kiểu chữ, nét chữ, chấm câu, mục phần, vị trí mục phần, nơi in đều hoàn toàn trùng nhau. Chúng tôi cho rằng văn bản R.332 và văn bản VHv.1096 đều được in từ một bộ ván in của chùa Viên Minh. (3) Văn bản R.311 Văn bản là bản in, còn đủ 95 tờ, khổ 26 x 15cm. 1 Nhưng vẫn khác nhau ở tên gọi: AH.1/4 là phần 釋氏攻文定制國音集 / Thích thị công văn định chế quốc âm tập; bản của Viên Minh tự là 釋氏攻文 定制國音集/Thích thị công văn định chế quốc ngữ tập. (Khác nhau chữ Quốc âm và Quốc ngữ, nhưng về mặt ngữ nghĩa hai chữ quốc âm và quốc ngữ vẫn giống nhau). 14
  17. Tờ 1a: Trên cùng viết theo hàng ngang: 圓明寺 Viên Minh tự/ chùa Viên Minh. So sánh với văn bản VHv.1096, thì tuy chất lượng giấy in khác nhau nhưng kết cấu các mục phần trong văn bản thì giống hệt nhau. Căn cứ vào dòng chữ ghi nơi lưu giữ ván là chùa Viên Minh chúng tôi cho rằng văn bản R.311 và văn bản VHv.1096 cùng được in từ một bộ ván in của chùa Viên Minh. 2.2. Một số nhận xét về vấn đề văn bản Với tổng số 09 văn bản được khảo sát, cho thấy có hai cơ sở tàng thư là Viên Minh tự (chùa Viên Minh xã Cổ Liêu tổng Khai Thái phủ Thường Tín) và Thư Phái đường (nhà sách Thư Phái của chùa Thánh Chúa nay thuộc phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy, Hà Nội). Trong số 09 văn bản đã khảo sát, có 07 văn bản xuất xứ tại chùa Viên Minh, trong đó 05 bản in với các ký hiệu VHv.1096, VHv.1097, A.2838, R.311, R.332; và 02 văn bản chép tay với các ký hiệu: A.2760, AH.a1/4. Văn bản có xuất xứ tại Thư Phái đường có 2 văn bản, đều là bản in với các ký hiệu: AC.225 và R.3199. Nội dung tác phẩm Bảo đỉnh hành trì được trình bày trong văn bản thường có độ dài từ 88 tờ đến 95 tờ, khổ sách là các bản in ở chùa Viên Minh đều có kích thước là 22 x 15cm còn các sách được in từ Thư Phái đường có kích thước là 26 x 15cm. Các văn bản in dù in ở Viên Minh tự hay Thư Phái đường thì ở nội dung văn bản đều ghi chép giống nhau. Hệ thống bản in có đầy đủ/nhiều mục phần còn ở các bản chép tay thì chỉ chép 01 bài hoặc chỉ chép lại một phần nội dung của văn bản in chùa Viên Minh. Tiểu kết chương 2 Khảo sát 09 văn bản ở hai trung tâm lưu trữ lớn trên cho thấy về mặt bản in (07 bàn) có 02 nguồn ván in (ván in ở Chùa Viên Mình và ván in ở Thư Phái đường chùa Thánh Chúa). 02 văn bản chép tay cũng là những văn bản chép lại một hoặc số nội dung theo văn bản in ở chùa Viên Minh. Các bản in Viên Minh tự có độ dài hơn, đầy đủ các thông tin về niên đại văn bản, về nội dung và tác giả tác phẩm. Hơn nữa phần cuối các bản in ở chùa Viên Minh có ghi những người tham gia san khắc văn bản. Các bản in Thư Phái đường còn lưu được hiện nay có độ dài ngắn hơn (do bị rách, 15
  18. không đầy đủ các trang, không có các trang ghi phần thông tin hồi hướng khi in sách). Các bản viết tay thường không hoàn chỉnh, kết cấu nội dung các mục phần không giống nhau, có một số mục phần chép giống nội dung của các bản in. Việc miêu tả các văn bản Bảo đỉnh hành trì hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện Quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu quá trình truyền bản, xác định nội dung và tác giả tác phẩm, từ đó đưa ra những ý kiến xác thực về việc chọn bản nghiên cứu và biên dịch công bố (thiện bản). Chương 3 QUÁ TRÌNH TRUYỀN BẢN VÀ NỘI DUNG, TÁC GIẢ TÁC PHẨM BẢO ĐÌNH HÀNH TRÌ Quá trình khảo sát văn bản, chúng tôi chưa được tiếp cận với các nghiên cứu tương đồng, chính vì thế nghiên cứu này có thể được coi là gợi mở cho các nghiên cứu tiếp theo trên nhiều lĩnh vực hơn. Ở chương này, chúng tôi tập trung đi sâu vào vấn đề quá trình truyền bản, xác định bản nghiên cứu và dịch công bố (thiện bản), giới thiệu nội dung và tác giả tác phẩm Bảo đỉnh hành trì. 3.1. Phân loại văn bản Bảo đỉnh hành trì Qua khảo sát, dựa vào loại hình văn bản (viết tay, in) và nơi tàng bản (ghi trong văn bản) chúng tôi triển khai vấn đề này như sau 3.1.1. Loại hình văn bản Chúng tôi chia làm 2 nhóm: A là nhóm văn bản in và B là nhóm văn bản chép tay A. Nhóm bản in gồm 07 văn bản: 1. VHv.1096: 95 tờ; 2. VHv.1097: 88 tờ; 3. A.2838: 92 tờ; 4. AC.225: 93 tờ; 5. R.311: 95 tờ; 6. R.332: 95 tờ; 7. R.3199: 93 tờ. Trong số 7 văn bản in thì in từ Viên Minh tự có 06 văn bản (VHv.1096, VHv.1097, A.2838, R.311 và R.332). Còn 02 bản in từ Thư Phái đường (AC.225 và R.3199). B. Nhóm bản viết tay gồm 02 văn bản: 1. A.2760: 57 tờ; 2. AH.a1/4: 127 tờ. 16
  19. 2.1.2. Vấn đề hệ bản - Hệ bản chùa Viên Minh: Viên Minh tự, Cổ Liêu xã, Khai Thái tổng, Thường Tín phủ/ chùa Viên Minh, xã Cổ Liêu, tổng Khai Thái, phủ Thường Tín2), gồm có 07 bản, trong đó có 05 bản in gồm các ký hiệu: VHv.1096, VHv.1097, A.2838, R.311 và R.332; có 02 văn bản chép tay, gồm các ký hiệu: A.2760, AH.a1/4. - Hệ bản Thư Phái đường có 2 văn bản, đều là bản in, gồm: AC.225 và R.3199. Căn cứ vào cách ghi Thư Phái đường và in tại chùa Thánh Chúa (Thánh Chúa tự) chúng tôi đã tra tìm và được biết Thư Phái đường chính là ngôi nhà chứa ván in của chùa Thánh Chúa. Chùa Thánh Chúa là ngôi chùa hiện nằm trong khuôn viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Nội dung hai văn bản này cũng được in từ một bộ ván. (Có thể là ván in chùa Đại Bi như trong bài Tiểu dẫn đã nhắc tới). 3.2. Quá trình truyền bản, tên gọi tác phẩm và chọn bản nghiên cứu và biên dịch công bố 3.2.1. Phân tích quá trình truyền bản Qua mô tả văn bản và độ tin cậy của văn bản in, chúng tôi chọn văn bản AC.225 (đại diện Thư Phái đường, do văn bản đầy đủ, không bị rách) với VHv.1096 (đại diện Viên Minh tự) thì thấy, ngoài tên văn bản có thêm chữ Thích thị 釋氏 của Thư Phái đường, còn kết cấu nội dung các mục phần trong nội dung về cơ bản cũng giống với nhóm văn bản Viên Minh tự. Số tờ ở Thư Phái đường ít hơn 2 tờ: tờ 94, tờ 95). Chữ in ở hai văn bản AC.225 và VHv.1096 đậm, mảnh không giống nhau. Thậm trí nhiều dấu khuyên (rỗng hoặc đặc) nhiều chỗ cũng không giống nhau. Và văn bản AC.225 cũng có nhiều chữ dị thể so với văn bản VHv.1096. Căn cứ vào bài Tiểu dẫn 小引 trong văn bản Viên Minh tự chúng ta biết được thông tin truyền bản của Bảo đỉnh hành trì vốn là ván in ở chùa Đại Bi xã Lai Hạ tỉnh Hưng Yên. Đến năm Đinh Tỵ trụ trì là ni sư Đàm Sinh đem ván sang chùa Viên Minh, các nhà sư ở đây đã sửa chữa và cho san khắc mới. 2 Chùa Viên Minh còn có tên là chùa Quang Lãng, dân gian thường gọi là chùa Giáng, nay thuộc huyện Phú Xuyên, Hà Nội. 17
  20. Hiện chưa tìm thấy bản in tại chùa Đại Bi xã Lai Hạ tỉnh Hưng Yên như trong bài tựa dẫn của nhóm Viên Minh chỉ ra. Đối chiếu về nội dung của cả hai loại bản in là Viên Minh tự và Thư Phái đường thì thấy cả hai bản này đều căn cứ vào một bản nào đó đã được định bản in, từ đó mà khắc lại. Do đó, chúng tôi cho rằng, rất có thể cả bản in của Viên Minh tự và Thư Phái đường đều dựa vào bản chùa Đại Bi để “tân san”, “tân đính san” và hình thành hệ bản của riêng mình. 3.2.2.Tên gọi, nội dung tác phẩm Về hình thức, tên gọi của tác phẩm được ghi theo hai hệ bản với hai tên gọi khác nhau. Hệ bản Viên Minh tự đều ghi thống nhất tên tác phẩm là: 寶 鼎行持祕旨全/ Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương. Tác phẩm hiện đang lưu hành với hai tên gọi là Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương 寶鼎行持祕旨全章 và Thích thị bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương 釋氏寶鼎行持祕旨全章. Trong điều kiện tư liệu hiện nay, chúng tôi nghiêng về tên gọi Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương 寶鼎行 持祕旨全章 của hệ bản Viên Minh tự. Còn tên gọi 釋氏寶鼎行持祕旨全 章/Thích thị bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương của hệ bản Thư Phái đường, thêm vào hai chữ “Thích thị/釋氏” để nhấn mạnh và làm rõ đây là tác phẩm Phật giáo mà thôi. Về tên gọi của tác phẩm Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương hay Thích thị hành trì bí chỉ toàn chương đều khẳng định đây là tác phẩm Phật giáo đứng đầu được bí mật hành trì ở mức đỉnh cao. Hay nói cách khác, tác phẩm Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương thâu tóm điều căn cốt hành trì của các văn bản/tác phẩm khác. 3.2.3. Chọn bản nghiên cứu và biên dịch công bố Căn cứ vào đoạn ghi chép trong Tiểu dẫn và niên đại được ghi bản in vào năm 1918 của nhóm bản in ở chùa Viên Minh và thời gian sống của người tân san Quảng Tốn vào năm Tự Đức, có thể phán đoán rằng Bảo đỉnh hành trì do Thư Phái đường in ấn có niên đại sớm hơn so với bản Viên Minh. Cả hai bản đều có thể dựa vào bản của chùa Đại Bi để san khắc mới. Chúng tôi đã chọn bản VHv.1096 làm bản để công bố giới thiệu. 3.3. Vấn đề tác giả tác phẩm Bảo đỉnh hành trì 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2