intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở Thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

90
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận án nhằm phân tích thực trạng NNLCLC; đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển NNLCLC ở khía cạnh cung và cầu lao động chất lượng cao ở TP.HCM trong bối cảnh HNKTQT; lập luận về phương pháp, mục tiêu và đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển NNLCLC trong bối cảnh HNKTQT của TP.HCM.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở Thành phố Hồ Chí Minh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH -------------------------- VÕ THỊ KIM LOAN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị Mã số: 62310102 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2015
  2. Công trình được hoàn thành tại: Trƣờng Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. HOÀNG AN QUỐC 2. TS. LƯU THỊ KIM HOA Phản biện 1: ................................................................................. Phản biện 2: ................................................................................. Phản biện 3: ................................................................................. Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường họp tại: ............................................................................ Vào hồi……..giờ……ngày…….tháng……..năm……… Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh - Thư viện Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh
  3. i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. BCHTW : Ban chấp hành Trung ương. 2. CHND : Cộng hoà nhân dân. 3. CMKT : Chuyên môn kỹ thuật. 4. CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 5. CNKT : Công nhân kỹ thuật. 6. CSDN : Cơ sở dạy nghề 7. ĐH : Đại học. 8. GD-ĐT : Giáo dục đào tạo 9. HNKTQT : Hội nhập kinh tế quốc tế 10. KCX-KCN : Khu chế xuất, khu công nghiệp 11. NCKH : Nghiên cứu khoa học 12. NNLCLC : Nguồn nhân lực chất lượng cao 13. TCCN : Trung cấp chuyên nghiệp. 14. THCS : Trung học cơ sở. 15. THPT : Trung học phổ thông. 16. TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh. 17. TW : Trung ương
  4. 1 PHẦN MỞ ĐẦU Sự phát triển của thế giới đang bước sang trang mới với những thành tựu có tính đột phá, trong đó yếu tố đóng vai trò trung tâm quyết định sự biến đổi về chất của nền kinh tế chính là nguồn nhân lực chất lượng cao. Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp chủ yếu là cạnh tranh về hàm lượng chất xám, nghĩa là hàm lượng tri thức kết tinh trong sản phẩm hàng hoá dịch vụ nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng. Vì vậy, để có được tốc độ phát triển cao và bền vững, các quốc gia trên thế giới đều chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực,một vấn đề cấp bách có tầm chiến lược, có tính sống còn trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế thế giới. Đại hội Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010-2015 đã phân tích nhiều nhu cầu cấp bách phải tái cấu trúc kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020, xác định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chính là một trong sáu chương trình đột phá của thành phố Hồ Chí Minh. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu về nguồn nhân hiện đang đặt ra cho nền kinh tế nước ta nói chung cũng như cho thành phố Hồ Chí Minh những vấn đề nan giải, cấp bách: Số lượng lao động thì dư thừa, nhưng chất lượng nguồn lao động thì lại không đáp ứng, yêu cầu lao động chất xám, lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề luôn thiếu hụt. Hệ thống giáo dục, đào tạo tuy đã được cải tiến, tiếp cận với hệ thống quốc tế, chất lượng đội ngũ giáo viên đã được nâng lên một bước, tuy nhiên chất lượng giáo dục và đào tạo vẫn còn nhiều bất cập trước yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Điều đó sẽ hạn chế khả năng cung ứng nguồn nhân lực cho một thị trường với yêu cầu phát triển cao về chất nhằm phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của thành phố. Từ thực trạng và yêu cầu phát triển nguồn nhân lực nêu trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc ở thành phố Hồ Chí Minh” làm luận án tiến sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị. 1. Bối cảnh nghiên cứu và lý do chọn đề tài 1.1. Những công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lƣợng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Tác giả Nguyễn Bá Ngọc và Trần Văn Hoan (2002) cho rằng quá trình toàn cầu hoá có tính chất hai mặt, vừa tạo ra cơ hội, vừa đặt ra những thách thức đối với các nước đang phát triển. Lao động Việt Nam có trở thành nguồn lực quyết định sự thành công trong tham gia hội nhập quốc tế hay trở thành rào cản trong tiến trình đuổi kịp các nước tiên tiến, đều tuỳ thuộc vào ý chí vươn lên của dân tộc Việt Nam. Tác giả Phạm Thị Thu Hằng (2008) và Hoàng Văn Châu (2009) đều đánh giá tổng quan về môi trường kinh doanh của Việt Nam 2007, phân tích các hoạt động sản xuất kinh
  5. 2 doanh của doanh nghiệp trên 4 khía cạnh: lao động, tài chính, công nghệ và tiếp cận thị trường trong 6 ngành (dệt may, xây dựng, du lịch, ngân hàng, bảo hiểm, sản xuất chế biến thực phẩm) bị ảnh hưởng nhiều nhất của việc Việt Nam gia nhập WTO từ các vấn đề lao động và phát triển nguồn nhân lực. Các tác giả nhận định thị trường lao động Việt Nam sẽ tiếp tục thiếu hụt và khan hiếm nguồn nhân lực cao cấp quản lý trở lên. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Liên (2011) xác định nguyên nhân chính của vấn đề là mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp chưa thật sự chặt chẽ, và sự đầu tư cho quá trình chuyển đổi của thành phố chưa theo kịp nhu cầu xã hội. Từ đó tác giả các giải pháp là tái cấu trúc nhân lực thành phố, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho trường học theo hướng hiện đại, tăng cường liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp đồng thời nâng cao vai trò quản lý của nhà nước về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tác giả Đàm Nguyễn Thuỳ Dương (2004) cho rằng giáo dục có vai trò quan trọng nhất đối với sự phát triển tiềm năng của con người. Năng suất lao động không chỉ phụ thuộc vào sức khoẻ người lao động, vào công nghệ sản xuất mà còn phụ thuộc nhiều vào trình độ hiểu biết của người lao động. Kết quả giáo dục là tăng lực lượng lao động Các tác giả Francis Green, David Ashton, Donna James, Johnny Sung (1999) đề xuất một giải thích mới về vai trò của nhà nước trong việc hình thành kỹ năng, với ba nền kinh tế Đông Á mới công nghiệp hóa. Bài viết xem xét các cơ chế chính trị giúp cho việc đảm bảo sự phát triển của giáo dục và hình thành các chính sách đào tạo tuân theo những mệnh lệnh của sự tăng trưởng kinh tế. Trong tác phẩm “Tư duy lại tương lai” do Rowan Gibson biên tập (2002) các nhà nghiên cứu cho rằng: Từng ngóc ngách trong lối tư duy của kỷ nguyên công nghiệp bây giờ đây đang được xem xét lại kỹ lưỡng và được tu chỉnh một cách mạnh mẽ. Thông qua quan điểm các nhà nghiên cứu, đã có 6 tổng kết đặc biệt quan trọng để thực hiện những bước tư duy lại tương lai: (1) Tư duy lại các nguyên tắc, (2) Tư duy lại vấn đề cạnh tranh, (3) Tư duy lại sự kiểm soát và tính phức tạp, (4) Tư duy lại vai trò lãnh đạo, (5) Tư duy lại thị trường, (6) Tư duy lại thế giới. Tiếp nối những nghiên cứu này, tác giả John Naisbitt (2009) đã tổng kết 11 lối tư duy của tương lai cho những ai muốn tham gia vào đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao. Dù đề ra quan điểm phải tư duy lại tương lai hay phải có lối tư duy của tương lai nhưng các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng, đó phải là tư duy sáng tạo. Trong công trình: Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai, sau khi nhấn mạnh vai trò trung tâm của giáo dục đối với con người trong xã hội ngày nay, tác giả Edgar Morin (2008) đã luận giải về bảy tri thức cần phải trở thành nền tảng trong nền giáo dục tương lai để những bộ óc được đào tạo tốt, có khả năng sáng tạo cao, đó là: Sự đuôi mù của nhận thức: Sai lầm và ảo tưởng; Những nguyên tắc để có một nhận thức đúng đắn; Về hoàn cảnh
  6. 3 con người; Căn cước địa cầu; Đương đầu với những bất xác định; Sự thông cảm; Đạo lý của nhân loại. 1.2. Những nhận định về NNLCLC trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam Tác giả Đức Vượng (2008) cho rằng nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, đào tạo thì nửa vời, nhiều người chưa được đào tạo; Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất; Tác giả Nguyễn Thanh Tuyền và cộng sự (2002) khẳng định con đường hội nhập đối với Việt Nam là tất yếu. Xây dựng được cho mình những yếu tố ngày càng mạnh của kinh tế tri thức là cách duy nhất để có được năng lực cạnh tranh, và hợp tác một cách bình đẳng trong sự hội nhập đó. Tác giả Lê Thị Ngân (2002) cho rằng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức là nâng cao năng lực thể chất và tinh thần sáng tạo, tìm kiếm, phát hiện thông tin và vật chất hoá thông tin thành sản phẩm và công nghệ mới. Do đó, khả năng sáng tạo đổi mới là đặc điểm nổi bậc của chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức. Cùng quan điểm khi nghiên cứu NNLCLC tác giả Trần Văn Hùng (2012) cho rằng điều kiện để tạo được lợi thế cạnh tranh trong thời đại ngày nay là đầu tư phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao đi đôi với cấu trúc lại nền kinh tế. Cạnh tranh kinh tế hiểu theo nghĩa rộng chính là cạnh tranh về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ. Nhìn nhận NNLCLC thông qua giáo dục – đào tạo, tác giả Nguyễn Trung (2012) cung cấp cho người đọc thông tin đáng chú ý về chất lượng đào tạo ở nước ta thông qua đánh giá của các chủ doanh nghiệp Việt Nam đối với những lao động được đào tạo qua các cơ sở đào tạo trong nước: (a) họ phải đào tạo lại hầu hết mọi người ở mọi cấp bậc – học nghề, đại học, sau đại học - mà họ nhận vào doanh nghiệp của mình, (b) họ không tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện nghiên cứu của trong nước, vì chất lượng giảng dạy thấp; nội dung thấp và lạc hậu; khả năng nghiên cứu nghèo nàn; sách vở và thiết bị đều thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ, yếu về ngoại ngữ, năng lực tổ chức và quản lý thấp. Tác giả Đàm Nguyễn Thuỳ Dương (2004) chứng minh lao động ở TP.HCM phân bố không đồng đều giữa các khu vực kinh tế. Mặc dù kinh tế thành phố phát triển cao, hàng năm giải quyết được một số lượng lớn lao động nhưng tỷ lệ người thất nghiệp của TP.HCM vẫn còn khá cao chiếm 6,53% tổng số người trong độ tuổi lao động (so với Đông Nam Bộ:4,65%; Hà Nội:4,61%; cả nước:2,1%). 1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu  Ý nghĩa lý luận - Các công trình nghiên cứu trong nước đều khẳng định vai trò to lớn của NNLCLC đối với quá trình CNH, HĐH và HNKTQT của Việt Nam; Khi bàn về NNLCLC trong nền kinh tế, tinh thần cơ bản toát lên từ những công trình kể trên là sự nhấn mạnh tới yêu cầu về
  7. 4 việc con người phải thay đổi tư duy để thích ứng và làm chủ những xu hướng phát triển rất mới và đầy bất ngờ trong thời đại ngày nay.  Ý nghĩa thực tiễn Tất cả những nghiên cứu đều khẳng định rằng nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình CNH,HĐH và quá trình HNKTQT ở Việt Nam hiện nay. Những tài liệu trên đã phát họa được bức tranh phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam nói chung, với nét chủ yếu là thực trạng và nhu cầu nguồn nhân lực, cũng như hạn chế của hệ thống giáo dục và đào tạo cần được khắc phục một cách hiệu quả để từ đó đưa ra những giải pháp về nguồn nhân lực cho Việt Nam. 1.4. Những vấn đề đặt ra cho luận án - Các tác giả nước ngoài có những cách phân tích và luận giải tương đối cuốn hút và thuyết phục về tầm quan trọng của tri thức và trí tuệ trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, đó là những nghiên cứu chủ yếu gắn với bối cảnh kinh tế ở các nước phát triển hàng đầu thế giới, không phải là những nghiên cứu gắn với Việt Nam. - Các nghiên cứu trong nước cũng chỉ đề cập đến các lý luận chung về xây dựng, quản lý, phát triển nguồn nhân lực, những yếu tố riêng lẻ tác động đến nguồn nhân lực trong suốt quá trình hình thành và phát triển theo sự phát triển của kinh tế xã hội. Chưa có các nghiên cứu chỉ rõ những yếu tố nào ảnh hưởng đến nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu HNKTQT tại TP.HCM. Chưa có nghiên cứu phân tích cụ thể những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển NNLCLC ở TP.HCM - Việc nghiên cứu phát triển NNLCLC ở khía cạnh cung và cầu lao động vào một vùng lãnh thổ đặc trưng như TP.HCM cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến một cách toàn diện, đầy đủ, luận giải một cách sâu sắc. Chưa có tác giả nghiên cứu xây dựng thang đo chất lượng NNLCLC dựa trên nhu cầu lao động tại TPHCM. 2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án - Phân tích thực trạng NNLCLC; Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển NNLCLC ở khía cạnh cung và cầu lao động chất lượng cao ở TP.HCM trong bối cảnh HNKTQT; Lập luận về phương pháp, mục tiêu và đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển NNLCLC trong bối cảnh HNKTQT của TP.HCM 3. Đối tƣợng phạm vi và giới hạn nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: Nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực sản xuất (lao động kỹ thuật) trên địa bàn TP.HCM - Nội dung vấn đề nghiên cứu: Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu HNKTQT ở TP.HCM - Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu nguồn nhân lực chất lượng cao với tư cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất; là đội ngũ lao động trực tiếp sản xuất của nền kinh tếtrên địa bàn TP.HCM trong bối cảnh HNKTQT.
  8. 5 4. Điểm mới và những đóng góp của luận án 4.1. Về phƣơng diện học thuật: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ HNKTQT hiện nay ở hai khía cạnh cung và cầu lao động tại TP.HCM; Góp phần xác định và chứng minh các nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển NNLCLC trong HNKTQT ở TP.HCM 4.2 Về phƣơng diện thực tiễn: Kết quả nghiên cứu giúp cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách có cách nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về cách thức tiếp cận đối với NNLCLC với tư cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất; Nhận thức đầy đủ, rõ ràng hơn về thực trạng phát triển NNLCLC trong bối cảnh HNKTQT ở TP.HCM. Từ đó đề xuất các giải pháp làm cơ sở cho việc hoạch định và nâng cao chất lượng phát triển NNLCLC ở TP.HCM hiện nay. 5. Kết cấu luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục các bảng, phụ lục và tài liệu tham khảo; luận án được bố cục theo 4 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận; Chương 2: Phương pháp nghiên cứu; Chương 3: Thực trạng phát triển; Chương 4: Quan điểm, phương hướng và một số giải pháp phát triển NNLCLC trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở TP.HCM. CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH HNKTQT 1.1. Khái niệm và các tiêu chí đánh giá NNLCLC trong bối cảnh HNKTQT 1.1.1. Phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lƣợng cao  Khái niệm về nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức - tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.  Phát triển nguồn nhân lực: Phát triển nguồn nhân lực là quá trình phát triển thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức tay nghề, tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người; nền văn hoá; truyền thống lịch sử v.v. Từ góc độ xã hội, phát triển nguồn nhân lực là quá trình tăng lên về mặt số lượng (quy mô) nguồn nhân lực và nâng cao về mặt chất lượng nguồn nhân lực, tạo ra cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng hợp lý. Với góc độ cá nhân, phát triển nguồn nhân lực là quá trình làm cho con người trưởng thành, có năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội cao.  Khái niệm NNLCLC: NNLCLC là một bộ phận nhân lực có sức khoẻ đáp ứng yêu cầu, được đào tạo dài hạn, có chuyên môn kỹ thuật cao, có phẩm chất đạo đức tiêu
  9. 6 biểu, có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của công nghệ, biết vận dụng sáng tạo những tri thức những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất, đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội một cách hiệu quả nhất. Theo định nghĩa trên, chất lượng NNLCLC được thể hiện qua bốn tiêu chí: Tiêu chí về thể lực; Tiêu chí về trí lực; Tiêu chí về nhân cách; Tiêu chí về năng động xã hội. Phát triển NNLCLC: là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực biểu hiện ở sự hình thành và hoàn thiện từng bước về thể lực, kiến thức kỹ năng, thái độ và nhân cách nghề nghiệp đáp ứng những nhu cầu hoạt động, lao động của cá nhân và sự phát triển xã hội. Phát triển NNLCLC cũng gắn với phát triển nguồn nhân lực của xã hội nhưng tập trung khai thác nguồn nhân lực ở khía cạnh lao động chất xám, với trình độ tay nghề cao, có khả năng đáp ứng được yêu cầu cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình phát triển nguồn nhân lực là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực để ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế. 1.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu đối với phát triển NNLCLC  Hội nhập kinh tế quốc tế: Là quá trình các quốc gia gắn kết nền kinh tế của nước mình với kinh tế khu vực và thế giới bằng các nỗ lực thực hiện tự do hoá kinh tế, mở cửa kinh tế trên các cấp độ đơn phương, song phương, đa phương và giảm thiểu sự khác biệt để trở thành một bộ phận hợp thành của chỉnh thể kinh tế toàn cầu.  Các đặc trƣng cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế Thứ nhất, HNKTQT là sự phát triển cao của phân công lao động quốc tế; Thứ hai, HNKTQT là sự phối hợp mang tính chất liên quốc gia giữa hai hay nhiều nhà nước độc lập, có chủ quyền trong một hay nhiều hiệp định kinh tế - thương mại; Thứ ba, hội nhập kinh tế khu vực và song phương được xem như một giải pháp trung hoà giữa hai xu hướng đối lập nhau trên thị trường thế giới: xu hướng tự do hoá mậu dịch và bảo hộ mậu dịch; Thứ tư, hội nhập kinh tế khu vực và song phương luôn là một hành động tự giác, tích cực của các thành viên nhằm phối hợp và điều chỉnh các chương trình phát triển kinh tế với những thỏa thuận có đi có lại của các nước thành viên.  Yêu cầu đối với phát triển nhân lực chất lƣợng cao trong HNKTQT Trong điều kiện HNKTQT, sự ra đời và phát triển nhanh chóng công nghệ kỹ thuật hiện đại đã nảy sinh cách phân chia mới về các ngành kinh tế. Sự phân chia mới về các ngành kinh tế, trong đó có sự xuất hiện ngành công nghệ kỹ thuật cao đã đặt ra nhu cầu rất lớn về tri thức và trí lực, hay nói một cách chính xác hơn là nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao (lao động kỹ thuật, chuyên môn giỏi). HNKTQT kéo theo sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và sự phát triển vượt bậc về trình độ áp dụng khoa học – công nghệ hiện đại của các ngành truyền
  10. 7 thống trong nền kinh tế hội nhập sẽ làm tăng nhu cầu lao động trong khu vực công nghệ kỹ thuật cao. Do vậy, cần phải có một đội ngũ lao động có chất lượng cao nhằm đáp ứng kịp thời những yêu cầu của thị trường trong quá trình chuyển dịch này. HNKTQT sẽ thu hút nhiều dòng vốn đầu tư vào các nước đang phát triển như Việt Nam, đòi hỏi của các nhà tuyển dụng, các công ty đa quốc gia cũng rất khắc khe, nhất là đối với những ngành thâm dụng chất xám hay những lao động kỹ thuật cao. Để đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hội nhập, đội ngũ nhân lực của một quốc gia phải cung cấp đầy đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng cho nhà đầu tư. Do quá trình sáng tạo và ứng dụng tri thức được khuếch đại bởi sức mạnh to lớn của công nghệ thông tin, nên những nội dung tri thức nghề nghiệp của lao động biến đổi không ngừng và với tốc độ rất nhanh. Điều đó đòi hỏi người lao động phải thường xuyên cập nhật, bổ sung tri thức nghề nghiệp để có khả năng thích ứng cao với công việc. Trong nền kinh tế hội nhập, sản phẩm là kết quả hợp tác của nhiều nước, nghĩa là quy mô của lao động tổng thể được sử dụng ngày càng mở rộng và khả năng thích ứng, tính linh hoạt của nguồn nhân lực càng trở thành một yêu cầu cấp thiết. Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn, các nhà sản xuất muốn trụ được và phát triển thì phải luôn đổi mới công nghệ và sản xuất. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới. Do vậy cần phải có đội ngũ nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu này. HNKTQT, đặc biệt trong khu vực sẽ là cơ hội cho lao động Việt Nam xuất khẩu sang các nước để kiếm thêm thu nhập và học hỏi những kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất của các nước. Nhưng lao động Việt Nam phần lớn xuất phát từ nền nông nghiệp còn lạc hậu, nên cần phải có những chính sách phát triển đội ngũ lao động thật sự có chất lượng thì sẽ thu về một lượng ngoại tệ không nhỏ đối với các quốc gia. 1.1.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao trong thời kỳ HNKTQT ở khía cạnh cung cầu lao động  Những yếu tố ảnh hƣởng đến phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao trong thời kỳ HNKTQT ở khía cạnh cung lao động + Tác động của giáo dục đào tạo đến phát triển NNLCLC: Giáo dục – đào tạo quyết định đến trình độ học vấn người lao động. Trình độ học vấn nói lên sự hiểu biết và khả năng của một người trong quá trình lao động, là nền tảng để người lao động trau dồi các kỹ năng lao động khác. Thông thường học vấn càng cao thì năng lực lao động phức tạp càng cao. Học vấn là điều kiện cần phải có để người lao động cạnh tranh trên thị trường lao động, vì nhờ vào giáo dục, người học sẽ tiếp thu được khoa học kỹ thuật hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến, sẽ tạo ra năng suất lao động cao hơn khi đi làm việc trong tương lai.
  11. 8 + Tác động của khoa học công nghệ đối với lao động chất lƣợng cao: Khoa học công nghệ phát triển sẽ dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động giữa các ngành, nhất là sự chuyển lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Điều này có tác động không nhỏ đến nguồn nhân lực, đặc biệt đối với NNLCLC là rất quan trọng trong phát triển lực lượng sản xuất. sự phát triển của khoa học công nghệ cần phải có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật nhất định để ứng dụng và triển khai, áp dụng vào thực tế, thì cũng cần phải có một đội ngũ nhân lực được đưa đi đào tạo ở các nước phát triển để quay về phát triển khoa học công nghệ của nước nhà. + Tác động của văn hoá và xã hội đối với lao động chất lƣợng cao: Truyền thống văn hoá, phong tục tập quán lối sống là nguồn gốc cơ bản hình thành lên năng lực phẩm chất của người lao động. Phong tục tập quán tốt đẹp, lối sống lành mạnh sẽ tạo cho người lao động một năng lực tinh thần khoẻ mạnh thuần khiết. Người lao động có nhận thức sâu sắc về lao động, ý thức làm việc cao. Tuy nhiên, nó cũng ảnh hưởng tới tác phong làm việc của người lao động. + Tác động của chính sách nhà nƣớc đối với lao động chất lƣợng cao: Chính sách vĩ mô của nhà nước có tác động không nhỏ đến việc phát triển NNLCLC, trong đó đặc biệt là các chính sách kinh tế - xã hội như: chính sách giáo dục-đào tạo, chính sách sử dụng, tuyển dụng lao động, chính sách tiền lương, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm lao động và các chính sách phát triển kinh tế khác. Khi các chính sách vĩ mô của nhà nước phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của NNLCLC.  Những yếu tố ảnh hƣởng đến phát triển NNLCLC trong thời kỳ HNKTQT ở khía cạnh cầu lao động + Qui mô số lƣợng NNLCLC: Chính là đội ngũ nhân lực chất lượng cao được đào tạo hằng năm để cung ứng cho thị trường lao động. Và cũng xét đến sự gia tăng tỷ lệ lao động trình độ đại học trên tổng số lực lượng lao động, lực lượng lao động có trình độ trên đại học trong tổng số lực lượng lao động, các chuyên gia trong tổng số lực lượng lao động. + Chất lƣợng NNLCLC được thể hiện qua 4 tiêu chí: Thể lực; Trí lực; Nhân cách và Năng động xã hội. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, khoa học – công nghệ, tri thức càng được đề cao bao nhiêu thì vai trò của trí tuệ con người cũng được đề cao bấy nhiêu. Song tri thức chỉ trở thành sức mạnh bởi con người. Tuy nhiên, con người phải nắm được đặc điểm tri thức trong thế kỷ XXI, đó là tốc độ gia tăng nhanh chóng, đổi mới diễn ra liên tục, khả năng lan truyền và phổ biến rộng rãi, trực tiếp gắn với hoạt động sản xuất và đời sống xã hội. Nắm được bốn đặc điểm này chỉ bước đầu, vấn đề quyết định là khả năng con người ứng dụng tri thức vào cuộc sống.
  12. 9 + Tác động của chính sách sử dụng đến phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao: Việc sử dụng đãi ngộ người lao động là nguyên nhân của thực trạng trình độ chuyên môn kỹ thuật nguồn nhân lực bởi vì cơ chế sử dụng và cơ chế đãi ngộ người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật sẽ tác động đến tâm lý người lao động trong định hướng nghề nghiệp cho con cháu hay chính trong công việc hiện tại của mình. 1.2. Một số lý thuyết về vai trò của NNLCLC trong phát triển và hội nhập quốc tế 1.2.1. Lý thuyết về NNLCLC là yếu tố trực tiếp của quá trình sản xuất Adam Smith cho rằng lao động chứ không phải đất đai, tiền bạc là nguồn gốc cơ bản tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội. Theo Ricardo thì vốn và lao động luôn kết hợp với nhau theo tỷ lệ nhất định trong từng ngành. Do vậy để tạo ra được khối lượng sản phẩm tăng thêm thì không những cần phải tăng vốn mà còn phải tăng thêm lao động. Theo học thuyết Mác xít thì các yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là đất đai, lao động, vốn và tiến bộ khoa học. Mác đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Đây là nguồn gốc của tích luỹ đầu tư mở rộng sản xuất. Ăngghen chỉ rõ: Trong một chế độ hợp lý vượt lên trên sự chia rẽ về lợi ích, thì đương nhiên yếu tố tinh thần sẽ được liệt kê là một trong số các yếu tố của sản xuất và sẽ tìm được vị trí của nó trong các hạng mục chi phí sản xuất của kinh tế chính trị học. Đến lúc ấy đương nhiên chúng ta sẽ vui mừng thấy rằng một thành quả khoa học như máy hơi nước của James Watt, trong 50 năm đầu tồn tại của nó đã đem lại cho thế giới lợi ích nhiều hơn so với những giá phải trả cho công cuộc phát triển khoa học kể từ lúc bắt đầu. Như vậy ngay từ đầu thế kỷ XX, Ăngghen đã dự đoán được tầm quan trọng của tri thức sẽ được liệt kê vào danh sách các yếu tố sản xuất và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong quá trình sản xuất. Nói đến chất lượng nguồn lực là nói đến hàm lượng trí tuệ, trong đó bao gồm trình độ tay nghề, phẩm chất tốt đẹp của người lao động, thể lực cường tráng, tâm hồn trong sáng, biết cảm nhận cái đẹp, có văn hoá lao động công nghiệp. Trong các yếu tố đó, yếu tố trí tuệ là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực. Lúc sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng cho rằng một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. 1.2.2. Lý thuyết về vốn nhân lực và tăng trƣởng kinh tế Trong một số mô hình tăng trưởng kinh tế phổ biến, thường sử dụng hàm số tổng sản lượng dạng Cobb Douglas Y = AKaLb trong đó K là vốn, L là lao động, A = TFP là yếu tố thể hiện năng suất, hiệu quả của việc sử dụng K và L, do vậy nếu dùng quá nhiều vốn (K) có nghĩa là nền kinh tế dựa phần lớn vào yếu tố vốn vật chất để tăng trưởng, hàm ý là năng suất biên của vốn thấp, và do vậy sự tăng trưởng không thể bền vững, còn yếu tố L có thể chỉ là lao động giản đơn như trong các mô hình cổ điển, đến lao động có kỹ thuật, có tri thức, hàm chứa công nghệ như trong các mô hình tân cổ điển, mô hình tăng trưởng nội sinh. Mô hình của Mankiw và cộng sự (1992) Y = KaHb(AL)1-a-b (với H là vốn con người), có
  13. 10 hàm chứa nhân tố vốn con người (human capital), yếu tố A = TFP là do các cải tiến của nguồn vốn con người tác động trên công việc, quản lý, thể hiện yếu tố hiệu suất để duy trì tăng trưởng kinh tế dài hạn. Theo Solow (1956), con người không thể giải thích tăng trưởng kinh tế mà chỉ dựa trên sự gia tăng vốn vật chất và lao động. Yếu tố “số dư” hàm chứa vô vàn nhân tố không xác định, một trong số đó (và có thể là nhân tố quan trọng nhất) là sự nâng cao chất lượng của các yếu tố đầu vào. Ngay từ cách đây hơn 50 năm, Schultz (1961) đã dự báo “đầu tư vào vốn con người có lẽ là lời giải thích cơ bản cho sự chênh lệch” giữa tăng trưởng ñầu ra và tăng trưởng các đầu vào vốn vật chất và lao động. 1.2.3. Lý thuyết về ích lợi của việc đầu tƣ vào vốn nhân lực Adam Smith chú ý tới tầm quan trọng của giáo dục theo hai phương diện: “Giáo dục có thể là một cách thức tốt nhằm chống lại sự khốn cùng do phân công lao động liên tục gây ra”, và Giáo dục có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự hài hòa xã hội; Alfred Marshall lại coi giáo dục là một loại đầu tư quốc gia và ủng hộ giáo dục nhằm cải tiến kỹ thuật. Ông chỉ ra rằng mặc dù giáo dục cơ bản ít mang lại lợi ích trực tiếp đối với tiến bộ kỹ thuật, nhưng nó khiến con người trở nên thông minh hơn, đáng tin cậy hơn trong những công việc thông thường; Karl Marx chia sẻ những quan điểm truyền thống này khi ông viết giáo dục có vai trò chủ chốt trong việc thúc đẩy hòa bình và hài hòa xã hội, cải thiện bản thân và trong quá trình tạo ra của cải; Tuy nhiên, chính Schultz (1961) mới là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên coi giáo dục như một khoản đầu tư vào con người và nó cũng có tác động như một loại vốn – “vốn con người”. Ông rất chú trọng đến những vấn đề chính sách liên quan đến đầu tư vào vốn con người và cho rằng việc loại bỏ những rào cản đối với đầu tư vào vốn con người sẽ mang lại nhiều lợi ích cho xã hội; Fitzimons (1999) cho rằng các cá nhân tự đầu tư nhằm tích luỹ những kỹ năng và kiến thức (một phần của vốn nhân lực), những cái có thể mang lại lợi ích lâu dài sau đó cho bản thân họ. Sự đầu tư này cũng mang lại lợi ích kinh tế quốc dân và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế; Becker (1964) tìm ra nhiều cách thức khác nhau để đầu tư cho vốn nhân lực, nhưng chủ yếu vẫn thông qua giáo dục đào tạo. Đầu tư vào vốn nhân lực lại có thể tạo ra sự thịnh vượng cho một quốc gia vì: Một là, giáo dục mang lại cho mỗi cá nhân ở một trình độ nhất định việc làm và thu nhập (lợi ích cá nhân). Hai là, vốn nhân lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Ba là, vốn nhân lực góp phần tạo nên sự bền vững xã hội. 1.2.4. Lý thuyết về vai trò của nguồn nhân lực chất lƣợng cao trong hội nhập quốc tế Adam Smith (2003) cho rằng phân công lao động có thể nâng cao năng suất lao động vì: Kĩ xảo của công nhân do chuyên môn hóa mà ngày càng tiến bộ. Ông nhận thức rõ về cơ sở phân công lao động trong kinh tế thị trường, khi phân công lao động phát triển giữa các nước, sẽ cho phép mỗi nước phát huy được lợi thế tuyệt đối. Lợi thế tuyệt đối trong việc sản
  14. 11 xuất một loại sản phẩm có thể do các lợi thế tự nhiên hoặc các lợi thế có được do kỹ thuật và sự lành nghề; David Ricardo (1978) đã đưa ra lý thuyết lợi thế so sánh khi cho rằng ngoại thương có lợi cho mọi quốc gia miễn là xác định đúng lợi thế so sánh, tức là tạo ra phân công lao động giữa các nước. Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn hẳn các nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối hơn so với các nước khác, vẫn có thể và có lợi khi tham gia vào phân công lao động và quốc tế, vì mỗi nước đều có những lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và một số kém lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng khác; Theo lý thuyết H – O (Eli Hecksher và B.Ohlin) một số nước này có lợi thế so sánh hơn trong việc sản xuất và xuất khẩu một số sản phẩm hàng hoá của mình là do việc sản xuất những sản phẩm đó đã sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà một trong số nước đó đã được ưu đãi về các lợi thế tự nhiên của các yếu tố sản xuất này (bao gồm vốn, lao động, tài nguyên, đất đai, khí hậu...) đã khiến một số nước đó có chi phí cơ hội thấp hơn (so với việc sản xuất các sản phẩm hàng hoá khác) khi sản xuất những sản phẩm hàng hoá đó. Như vậy, cơ sở lý luận khoa học của lý thuyết H-O vẫn chính là dựa vào lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo, nhưng ở trình độ phát triển cao hơn là đã xác định được nguồn gốc của lợi thế so sánh chính là sự ưu đãi về các yếu tố sản xuất mà kinh tế học phát triển đương đại vẫn gọi là nguồn lực sản xuất. 1.3. Những bài học rút ra từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nƣớc Hàn Quốc, Trung Quốc và Malaysia. 1.3.1. Bài học kinh nghiệm về đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao Thứ nhất, coi giáo dục đào tạo đóng vai trò quyết định trong quá trình phát triển NNLCLC; Thứ hai, gắn chiến lược đào tạo và phát triển nhân lực với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; Thứ ba, thực hiện mô hình giáo dục đại học đại chúng để gia tăng nguồn nhân lực chất lượng cao; Thứ tư, quan tâm đến đào tạo nghề cho lao động. 1.3.2. Bài học kinh nghiệm về sử dụng nguồn nhân lực chất lƣợng cao Thứ nhất, coi nhân lực là yếu tố quyết định cơ bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội; Thứ hai, triệt để thu hút nhân lực chất lượng cao từ mọi nguồn; Thứ ba, thúc đẩy khả năng sáng tạo của NNLCLC bằng việc trả giá cao, tương xứng với tri thức, chất xám và tạo điều kiện cho nhân lực trẻ phát huy tài năng.
  15. 12 CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 2.1. Khung phân tích Khía cạnh Cung Khía cạnh Cầu lao động Lao động Giáo dục và đào tạo Qui mô số Thể lực lượng Khoa học Phát triển Trí lực công nghệ nguồn nhân Chất lực chất lượng Văn hoá lƣợng cao Nhân cách xã hội Chính sách sử dụng Năng động Chính sách xã hội nhà nước 2.2. Phƣơng pháp tiếp cận vấn đề nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở và định hướng tư tưởng. Đề tài được nghiên cứu dựa trên những nguyên lý của khoa học kinh tế chính trị Mác- Lênin, có tham khảo một số lý thuyết của kinh tế học, kinh tế phát triển, dựa trên những quan điểm và đường lối đổi mới trong các văn kiện của Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam, các Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam TP.HCM và có tham khảo một số kinh nghiệm của thế giới. Trong đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp sau đây: Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Phương pháp tiếp cận liên ngành; Phương pháp tiếp cận điểm; Phương pháp nghiên cứu tài liệu; Phương pháp phân tích và tổng hợp; Phương pháp so sánh, đối chiếu; Phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng. 2.3.1. Nghiên cứu định tính Thiết kế nghiên cứu định tính: Nghiên cứu định tính được tác giả sử dụng là kỹ thuật thảo luận nhóm tập trung và phỏng vấn sâu một số nhà quản lý doanh nghiệp bao gồm: trưởng phó phòng, giám đốc, phó giám đốc nhân sự các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất hoặc các giám đốc, phó giám đốc trực tiếp điều hành quản lý sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn TP.HCM có sử dụng lao động là bậc thợ 3/7 trở lên. Kết quả của các cuộc thảo luận này là cơ sở để tác giả phát triển thang đo nháp sử dụng cho giai
  16. 13 đoạn phỏng vấn sâu. Việc phỏng vấn sâu được thực hiện đối với 10 nhà quản lý doanh nghiệp. Mục đích nhằm đánh giá nội dung và hình thức của các phát biểu (các câu hỏi) trong thang đo nháp để hoàn chỉnh thành thang đo chính thức sử dụng trong nghiên cứu định lượng. 2.3.2. Nghiên cứu định lƣợng: Nghiên cứu định lượng được thực hiện qua các giai đoạn: thiết kế mẫu nghiên cứu, thu thập thông tin từ mẫu khảo sát những nhà quản lý doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn TP.HCM; phân tích dữ liệu bằng phần mềm xử lý SPSS 16.0 nhằm khẳng định các yếu tố cũng như các giá trị và độ tin cậy của các thang đo các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của NNLCLC; kiểm định độ phù hợp của mô hình nghiên cứu. 2.4. Hệ thống thông tin, dữ liệu nghiên cứu 2.4.1. Thông tin thứ cấp: Thu thập các số liệu liên quan đến nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao từ các Niên giám thống kê của TP.HCM; từ các Bộ, ngành, các bài báo và những công trình khoa học uy tín có liên quan. 2.4.2. Thông tin sơ cấp  Đối tƣợng khảo sát: Nghiên cứu này được thực hiện tại các doanh nghiệp sản xuất đóng trên địa bàn TP.HCM. Đối tượng khảo sát là những nhà quản lý bao gồm: trưởng phó phòng, giám đốc, phó giám đốc nhân sự các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất hoặc các giám đốc, phó giám đốc trực tiếp điều hành quản lý sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất có sử dụng lao động là bậc thợ 3/7 trở lên.  Thiết kế mẫu nghiên cứu: Nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA), mô hình nghiên cứu có 25 biến đo lường. Vì thế, nếu tính theo quy tắc 5 mẫu/biến đo lường thì cỡ mẫu tối thiểu là 125. Dựa theo số lượng mẫu tối thiểu này, cỡ mẫu được chọn cho nghiên cứu là n = 200. Song để đạt được cỡ mẫu này sau khi loại bỏ các mẫu thiếu nhiều thông tin hoặc chất lượng thấp, tác giả quyết định sử dụng 250 bảng câu hỏi. Thời gian lấy mẫu được tiến hành vào tháng 06 năm 2013.  Thông tin về mẫu nghiên cứu: Được thu thập bằng kỹ thuật phỏng vấn dưới hai hình thức: - Phỏng vấn các nhà quản lý là cựu học sinh, sinh viên đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn TP.HCM, cụ thể là: Trường ĐH Bách Khoa TP.HCM, ĐH Tôn Đức Thắng, CĐ Kỹ thuật Cao Thắng. - Phỏng vấn trực tiếp và gửi thư cho các nhà quản lý tại các doanh nghiệp sản xuất để bổ sung số mẫu khảo sát còn thiếu so với định mức đã được xác định trong phần thiết kế mẫu nghiên cứu.
  17. 14 2.5. Quy trình nghiên cứu Vấn đề nghiên cứu Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở TP.Hồ Chí Minh Cơ sở khoa học của nghiên cứu - Các vấn đề cơ bản về NNLCLC và phát - Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển triển NNLCLC. NNLCLC trong bối cảnh hội nhập KTQT ở - Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến khía cạnh cung và cầu lao động. NNLCLC - Các tiêu chí đánh giá phát triển NNLCLC - Kinh nghiệm phát triển NNLCLC của các trong thời kỳ hội nhập KTQT. nước trên thế giới. Xây dựng mô hình nghiên cứu Hoạch định giải pháp phát - Thảo luận nhóm tập trung  Thang đo nháp triển NNLCLC trong bối - Phỏng vấn sâu  Thang đo chính thức cảnh hội nhập HTQT ở TP.HCM Nghiên cứu định lƣợng chính thức (N = 250) - Quan điểm chủ đạo trong - Đánh giá độ tin cậy tương quan biến tổng (Cronbach phát triển NNLCLC Alpha). - Kiểm tra trọng số nhân tố và phương sai trích (EFA). - Phương hướng, mục tiêu phát triển NNLCLC. Cơ sở thực tiễn hoạch định giải pháp - Một số giải pháp cấp thiết - Thực trạng phát triển NNLCLC ở khía cạnh cung và cầu lao nhằm phát triển NNLCLC. động tại TP.HCM - Vấn đề đặt ra đối với phát triển NNLCLC ở TP.HCM trong bối cảnh hội nhập KTQT.
  18. 15 CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 3.1. Tổng quan về sự phát triển kinh tế và tiến trình hội nhập quốc tế của TP.HCM 3.1.1. Tổng quan về sự phát triển kinh tế của TP.HCM Nền kinh tế của TP.HCM vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn. Toàn thành phố chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại. Trong đó, có 21/212 cơ sở ngành dệt may, 4/40 cơ sở ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành hóa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm, 18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy có trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Ngành công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh vực cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn, điều này cũng đặt ra cho thành phố bài toán cần giải quyết là phải có một đội ngũ lao động chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu mà thành phố đang hướng tới. 3.1.2. Khái quát về tiến trình hội nhập quốc tế của TP.HCM Ước tính đến hết quý 1/2013, tổng vốn đầu tư thu hút tăng 21,44% so với cùng kỳ năm 2012 do một số dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Trong đó, đầu tư nước ngoài đạt 122,65 triệu USD, tăng 80%; đầu tư trong nước đạt 21,83 triệu USD, giảm 57,35%. Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM cho biết, tính đến ngày 31/3, có 78 dự án FDI được cấp mới giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với tổng vốn đầu tư 159,8 triệu USD (so với cùng kỳ giảm 19,6% về số dự án và tăng 109,4% về vốn). Ngoài ra, có 26 dự án điều chỉnh với tổng vốn đầu tư 175,3 triệu USD. Thành phố cũng khuyến khích phát triển 4 ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng cao: cơ khí, điện tử - công nghệ thông tin, hóa dược - cao su, chế biến tinh lương thực thực phẩm và các ngành công nghệ sinh học, công nghiệp sạch, tiết kiệm năng lượng, công nghiệp phụ trợ. Đầu tư hiện đại hóa ngành xây dựng sử dụng vật liệu mới, ứng dụng công nghệ xây dựng hiện đại; nâng tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng cao hơn tốc độ tăng trưởng các ngành công nghiệp. 3.2. Phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao ở TP.HCM 3.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực chất lƣợng cao ở khía cạnh cung lao động 3.2.1.1. Tình hình đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao ở TP.HCM hiện nay Hệ thống đào tạo trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) và công nhân kỹ thuật Tình hình giáo viên: Đối với đào tạo TCCN trên địa bàn TP.HCM thì tình trạng thiếu hụt giáo viên cũng như các trường nghề. Từ năm 2005 đến Năm 2012, tính theo bình quân thì 1 giáo viên trên địa bàn thành phố cũng phải đảm nhận ở mức trên 50 học sinh. Nguyên nhân khan hiếm giáo viên là do chưa có một chiến lược đào tạo giáo viên theo đúng tiêu chuẩn đề ra, cả về số lượng lẫn chất lượng. Những trường đại học, cao đẳng Sư phạm kỹ thuật không thể nào đáp ứng đủ giáo viên cho tất cả các ngành nghề trong xã hội, buộc các trường nghề phải tự thân vận động. Tuy nhiên, bài toán này cũng không dễ dàng cho các trường nghề, vì nếu tuyển sinh viên mới ra trường thì tay nghề còn yếu, kỹ năng chưa
  19. 16 cao, phải mất 1, 2 năm đào tạo lại. Nhưng khi năng lực phát triển cao hơn thì rất có thể họ sẽ ra đi vì chế độ lương bổng không đủ hấp dẫn. Tình hình cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo nghề: Nhìn một cách toàn diện, TPHCM có hệ thống dạy nghề rất phong phú, nhưng khi nhìn lại từng trường nghề thì hệ thống dạy nghề vẫn trong tình trạng trường chưa chuẩn trường, lớp chưa chuẩn lớp. Trong nhiều năm qua, học viên tốt nghiệp trường nghề của thành phố không thể bắt kịp các loại máy móc hiện đại đang được các công ty, xí nghiệp ở các khu công nghiệp, khu chế xuất thành phố đầu tư trang thiết bị trong cuộc chạy đua nâng cao chất lượng sản phẩm. Chương trình, tài liệu đào tạo: Một số cơ sở đào tạo nghề đã và đang cố gắng biên soạn mới chương trình đào tạo song chất lượng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đang ngày càng cao về chất lượng và đa dạng về loại hình. Đối với các tài liệu tham khảo phục vụ việc dạy và học cũng đang ở tình trạng tương tự, thiếu về số lượng và chủng loại, lạc hậu về thông tin, quá cũ về hình thức. Tài chính cho đào tạo nghề: Tài chính cho đào tạo nghề hiện nay còn rất eo hẹp, chưa thể đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu phát triển đào tạo nghề hiện tại và trong những năm tiếp theo. Ngân sách nhà nước chi cho đào tạo nghề như hiện nay là chưa đáp ứng được điều kiện cần chứ chưa nói đến đủ để giải quyết các vấn đề căn bản như xây dựng chương trình, nâng cấp chất lượng giáo viên, cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy và học tập ở các trường nghề. Hệ thống đào tạo cao đẳng, đại học Hệ thống các trường đại học, cao đẳng: Đến cuối năm 2012 TP.HCM có 75 trường đại học và cao đẳng. Nếu xếp theo loại hình thì hiện có 54 trường công lập, 21 trường ngoài công lập. Nếu tính theo đơn vị chủ quản số trường do Trung ương quản lý là 66, còn lại 9 trường do địa phương quản lý. Qui mô đào tạo đại học, cao đẳng tại TP.HCM tính đến cuối năm 2012 bao gồm 701.637 sinh viên trong đó hệ công lập là 559.830 sinh viên và hệ ngoài công lập là 141.802 sinh viên Tình hình cơ sở vật chất: Cơ sở vật chất ở các trường công lập mặc dù đã được hình thành từ nhiều năm nay nhưng vẫn không đủ đáp ứng đối với lượng sinh viên thu nhận ngày càng nhiều. Hầu hết các trường đều có thư viện, phòng đọc, phòng vi tính, ký túc xá nhưng ở mức thấp. Nhiều phòng thí nghiệm bị quá tải, có nơi hoạt động đến 3-4 ca một ngày, kể cả ngày chủ nhật. Tình hình tuyển sinh và chất lượng đào tạo: Các trường khi xét tuyển sinh đã có dự phòng nên số gọi trúng tuyển vượt quá chỉ tiêu cho phép mà không lường trước khả năng thu hút vào trường, dẫn đến tình trạng trường có nhu cầu đào tạo nhiều thì lượng thí sinh đăng ký nhập học lại ít, hoặc trường đã có chỉ tiêu đào tạo lớn thì số thí sinh đăng ký lại vượt xa so với chỉ tiêu gây nên sự quá tải ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. 3.2.1.2. Yếu tố khoa học công nghệ đối với phát triển NNLCLC ở TP.HCM
  20. 17 Việc xây dựng các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng và sản xuất những sản phẩm công nghệ công nghệ cao gắn với đề án đổi mới cơ chế, chính sách thu hút và sử dụng lực lượng KHCN thành phố và người Việt Nam ở nước ngoài bước đầu đạt kết quả tương đối trong việc thu hút các nguồn lực KHCN cho sự phát triển của thành phố. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động KHCN ở TP.HCM cũng còn nhiều hạn chế. Trong đề án đổi mới KHCN giai đoạn 2008-2010, trong tổng số 800 doanh nghiệp được khảo sát trên địa bàn, chỉ có khoảng 10% doanh nghiệp đăng ký tham gia đề án. Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều chủ doanh nghiệp chưa hiểu rõ về chính sách đổi mới công nghệ, thiếu thông tin về công nghệ và đặc biệt là các doanh nghiệp thiếu nhân lực công nghệ. 3.2.1.3. Yếu tố văn hoá và xã hội trong đội ngũ NLCLC ở TP.HCM Xã hội Việt Nam từng gắn với nền kinh tế tiểu nông, thị trường chưa phát triển, chịu ảnh hưởng nhiều văn hóa Nho giáo, con người ít có cơ hội lựa chọn và con đường duy nhất là học để làm quan. Chính động cơ này khiến con đường phát triển nhân tài của Việt Nam trở nên chật hẹp. Khi giới thiệu một qui trình công nghệ mới, hoặc khi nhập khẩu một công nghệ mới, chính cái sức ỳ của văn hóa có thể làm cho tiến trình này bị chậm lại. Người ta sẽ tìm mọi cách để biện minh cho suy nghĩ và hành động của mình trước đổi thay công nghệ. 3.2.1.4. Chính sách của Nhà nƣớc đối với NNLCLC ở TP.HCM Chủ trương phát triển 300, 500 thạc sỹ, tiến sỹ trong thời gian qua đã tạo cơ hội tốt để phát triển NNLCLC của thành phố. Đã có nhiều cán bộ trẻ sau khi được cử đi đào tạo về đã thể hiện được vai trò của mình. Những đội ngũ trí thức trẻ rất năng động, họ dám nghĩ, biết làm và thường làm tốt vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của thành phố. Một trong những khó khăn của thành phố là chính sách phát triển NNLCLC với một chiến lược tổng thể, toàn diện của thành phố. Nó đòi hỏi sự tham gia của toàn hệ thống chính trị, các cơ quan chức năng và ban ngành trong việc xây dựng, hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của HNKTQT, hướng đến việc TP.HCM trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020. 3.2.2 Thực trạng chất lƣợng NNLCLC ở khía cạnh cầu lao động 3.2.2.1. Qui mô, cơ cấu nguồn nhân lực chất lƣợng cao Lực lượng lao động qua đào tạo nghề chiếm tỷ lệ 58% tổng số lao động; Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật có trình độ Đại học: 9,35%; Cao đẳng 1,67%; Trung cấp 4,37%; Sơ cấp 42,61%; Chưa có bằng cấp CMKT 42%; Lực lượng lao động đang làm việc có trên 4 triệu người chiếm tỷ lệ 72,89% so tổng nguồn lao động. Trong tổng số lao động đang làm việc chuyên môn kỹ thuật bậc cao chiếm 11,40%; chuyên môn kỹ thuật bậc trung chiếm 6,44%; các nghề giản đơn và thợ chiếm 49,28% và các loại công việc khác chiểm 32,88%. Tính đến năm 2012, TP.HCM đứng trước thực trạng thiếu trầm trọng nguồn lao động có trình độ chuyên môn ở hầu hết các ngành, do chỉ có 59% lao động mới qua đào tạo. Thực tế cho thấy, thị trường lao động TPHCM trong thời gian qua luôn thiếu lao động qua
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0