Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế: Đầu tư dưới hình thức đối tác công tư (Publicprivate Partnership - PPP) trong một số lĩnh vực dịch vụ công: Thực tiễn tại một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam
lượt xem 7
download
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế: "ầu tư dưới hình thức đối tác công tư (Publicprivate Partnership - PPP) trong một số lĩnh vực dịch vụ công: Thực tiễn tại một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam" được nghiên cứu với mục tiêu kiến nghị các giải pháp tăng cường thu hút đầu tư tư nhân theo hình thức PPP trong một số lĩnh vực dịch vụ công từ bài học kinh nghiệm rút ra thực tiễn đầu tư dưới hình thức PPP của một số nước.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế quốc tế: Đầu tư dưới hình thức đối tác công tư (Publicprivate Partnership - PPP) trong một số lĩnh vực dịch vụ công: Thực tiễn tại một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG -----***----- TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐẦU TƯ DƯỚI HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ (PUBLIC- PRIVATE PARTNERSHIP - PPP) TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC DỊCH VỤ CÔNG: THỰC TIỄN TẠI MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM Ngành: Kinh tế quốc tế Mã số: 9310106 Nghiên cứu sinh: Nguyễn Sơn Tùng Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đỗ Hương Lan Hà Nội, 2023
- Luận án được hoàn thành tại: Trường Đại học Ngoại thương Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đỗ Hương Lan Phản biện 1: ………………………………………………………….. ………………………………………………………………………... Phản biện 2: ………………………………………………………….. ………………………………………………………………………... Phản biện 3: ………………………………………………………….. ………………………………………………………………………... Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp trường họp tại .............................. Vào hồi giờ ngày tháng năm 2023 Có thể tham khảo luận án tại Thư viện Quốc gia và thư viện trường Đại học Ngoại thương
- DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư tư nhân theo phương thức PPP Tạp chí Kinh tế và Dự báo, ISSN: 1859-4972 Số 22 tháng 08/2022 (812) 2. How Public-Private Cooperation can Begin in STI in Vietnam: A Case of Sematech Tạp chí Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, ISSN: 0868-3808 Số 603 tháng 12/2021 3. Đầu tư dưới hình thức đối tác công tư - PPP đối với dịch vụ công tại Việt Nam Tạp chí Giáo dục và Xã hội, ISSN: 1859-3917 Số Đặc biệt tháng 10/2019 4. Applying manufacturing extension partnership (MEP) in science, technology and innovation (STI) institution in vietnam Kỷ yếu Hội thảo Khoa học SV CTTT-CLC “Đổi mới sáng tạo cho phát triển bền vững tại Việt Nam” NXB Bách Khoa, ISBN: 978-604-316-255-4. Đăng tháng 6/2021 5. Đối tác công tư (Public-Private Partnership - PPP) trong lĩnh vực dịch vụ khoa hoc và công nghệ: một số hình thức hoạt động trên thế giới và bài hoc cho Việt Nam Kỷ yếu Hội nghị SV NCKH Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường Đại học Ngoại thương. Đăng tháng 11/2020
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết Nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lý, nhà chính sách thừa nhận, hiện nay, trong các loại hình hợp tác giữa khu vực công và khu vực tư nhân, hình thức đối tác công - tư (Public - Private - Partnership - PPP) được đánh giá là có hiệu quả, thu hút được nguồn vốn tư nhân tham gia vào các dự án công của Nhà nước, từ đó giúp giảm áp lực cho ngân sách. So với thế giới, PPP tại Việt Nam mới xuất hiện và được chú trọng trong vòng ba thập niên trở lại đây. Đầu tư PPP tại Việt Nam vẫn đang tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực như giao thông, năng lượng, số lượng dự án hoặc nguồn vốn đầu tư cho các loại dự án thuộc các lĩnh vực khác như các lĩnh vực thuộc dịch vụ công chưa nhiều. Mặc dù chủ trương của Nhà nước là khuyến khích PPP nhưng ý định tham gia đầu tư PPP của tư nhân sẽ quyết định đến số lượng và chất lượng của các dự án đầu tư PPP, dẫn đến nhu cầu nghiên cứu các yếu tố thu hút đầu tư PPP của khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, để mở rộng triển khai các dự án PPP sang các lĩnh vực thuộc dịch vụ công, Việt Nam cần tham khảo các bài học của các quốc gia đi trước. Các quốc gia đã có kinh nghiệm về đầu tư PPP trên thế giới như Đức, Trung Quốc rất để tâm vào dịch vụ công, đặc biệt là các lĩnh vực thiết thực đối với đời sống của cư dân như cung cấp điện hay cung cấp nước sạch và đã có nhiều dự án PPP về cung cấp nước sạch và cung cấp điện đã được triển khai và thành công tại các quốc gia này. Đây là lý do Luận án lựa chọn dịch vụ công và đưa ra các trường hợp điển hình của hai lĩnh vực cung cấp nước và cung cấp điện để tập trung nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu: kiến nghị các giải pháp tăng cường thu hút đầu tư tư nhân theo hình thức PPP trong một số lĩnh vực dịch vụ công từ bài học kinh nghiệm rút ra thực tiễn đầu tư dưới hình thức PPP của một số nước. Các mục nhiệm vụ cụ thể bao gồm: Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu, từ đó đề xuất các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư PPP của khu vực tư nhân vào dịch vụ công.
- 2 Thứ hai, phân tích cơ sở lý luận và rút ra các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư tư nhân vào dịch vụ công theo hình thức PPP. Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Thứ tư, nghiên cứu thực trạng thu hút khu vực tư nhân đầu tư PPP trong lĩnh vực dịch vụ công tại Việt Nam. Thứ năm, nghiên cứu định hướng phát triển và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực dịch vụ công nói chung và dịch vụ cung cấp nước sạch, dịch vụ cung cấp điện nói riêng theo hình thức PPP tại Việt Nam. 3. Câu hỏi nghiên cứu Thứ nhất, các yếu tố nào ảnh hưởng đến thu hút đầu tư PPP của khu vực tư nhân vào dịch vụ công? Thứ hai, thực trạng PPP đầu tư PPP trên thế giới đang diễn ra như thế nào? Có những khu vực, quốc gia nào có thị trường PPP phát triển có thể học hỏi? Thực trạng đầu tư PPP tại các khu vực, quốc gia đó đang diễn ra như thế nào? Thứ ba, bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam khi nghiên cứu thực trạng đầu tư PPP tại các khu vực, quốc gia nói trên là gì? Thứ tư, từ những bài học kinh nghiệm đã rút ra, kết hợp cùng các định hướng của Đảng, Nhà nước, có thể kiến nghị các giải pháp nào nhằm tăng cường thu hút tư nhân đầu tư PPP vào lĩnh vực dịch vụ công 4. Tính mới và những đóng góp của luận án - Về lý luận, luận án đã tổng quan các nghiên cứu về PPP trong dịch vụ công, hệ thống hóa cơ sở lý luận về hình thức PPP trong dịch vụ công, tổng hợp các lý thuyết liên quan, và xác định các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào dịch vụ công theo hình thức đối tác công tư. - Về thực tiễn, luận án phân tích thực trạng đầu tư PPP của một số quốc gia trên thế giới, phân tích một số trường hợp điển hình của dịch vụ cung cấp sạc điện và dịch vụ cung cấp nước sạch tại Trung Quốc và Đức, phân tích thực trạng thu hút đầu tư PPP của khu vực tư nhân tại Việt Nam, từ đó
- 3 rút ra các bài học và kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao việc thu hút đầu tư PPP của khu vực tư nhân vào lĩnh vực dịch vụ công tại Việt Nam. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu được xác định là: (1) các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư PPP của khu vực tư nhân trong dịch vụ công tại Việt Nam, (2) nghiên cứu thực trạng đầu tư dưới hình thức PPP trong lĩnh vực dịch vụ công ở một số khu vực và quốc gia (trình bày trường hợp điển hình của lĩnh vực cung cấp bốt sạc điện và cung cấp nước sạch). - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm Phạm vi nghiên cứu về mặt không gian: (1) tại Việt Nam và (2) thế giới bao gồm Châu Âu, Châu Á, phân tích cụ thể tại các quốc gia Đức, Trung Quốc là các thị trường PPP phát triển ở tầm trung, cao hơn Việt Nam và có các nét tương đồng về bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội (Đưa ra trường hợp điển hình về trạm sạc điện tại Trung Quốc và cung cấp nước sạch tại CHLB Đức). + Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian: Đề tài nghiên cứu các tài liệu thứ cấp về PPP nói chung và PPP trong lĩnh vực dịch vụ công trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến 2023. Mặc dù PPP đã được đề cập đến trong các văn bản từ những năm 1997 trong Nghị định 77-CP của Chính Phủ về ban hành quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao áp dụng cho đầu tư trong nước, tuy nhiên chỉ sau năm 2010, cùng với việc ban hành Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức Họp đồng BOT, Hợp đồng BTO, và một số dự án PPP đã được triển khai, hình thức PPP tại Việt Nam mới được chú ý. Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua khảo sát doanh nghiệp trong năm 2022.
- 4 + Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Khi nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, luận án phân tích bối cảnh chung về đầu tư PPP, và tập trung vào các yếu tố pháp lý, thể chế, môi trường kinh tế, chính trị, tài chính tại Châu Âu và Châu Á, tại Đức và Trung Quốc, riêng tại hai quốc gia Đức và Trung Quốc, luận án đưa ra hai lĩnh vực dịch vụ cung cấp sạc điện công cộng (tại Trung Quốc) và cung cấp nước (tại Đức) để phân tích. Đối với Việt Nam, luận án phân tích bối cảnh chung và phân tích kết quả khảo sát trên cở sở các yếu tố theo mô hình nghiên cứu 6. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án sử dụng cách tiếp cận kết hợp định tính và định lượng: Phương pháp định tính được thực hiện thông qua các phương pháp nghiên cứu tại bàn, thu thập, tổng hợp, phân tích các dữ liệu thứ cấp từ các nguồn học thuật, tin cậy. Phương pháp case study, trình bày trường hợp điển hình về PPP trong cung cấp bốt sạc điện tại Trung Quốc và cung cấp nước tại Đức. Phương pháp định lượng được thực hiện thông qua việc khảo sát doanh nghiệp lấy dữ liệu sơ cấp và kiểm định độ tin cậy thang đo Cronbach’s Alpha. 7. Bố cục của Luận án - Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về đầu tư dưới hình thức đối tác công tư trong một số lĩnh vực dịch vụ công - Chương 2: Cơ sở lý luận về đầu tư dưới hình thức đối tác công tư trong một số lĩnh vực dịch vụ công và đề xuất mô hình nghiên cứu - Chương 3: Thực tiễn đầu tư dưới hình thức đối tác công tư tại một số nước trên thế giới - Chương 4: Đầu tư theo hình thức PPP trong một số lĩnh vực dịch vụ công tại Việt Nam và kết quả nghiên cứu về các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực dịch vụ công theo hình thức PPP - Chương 5: Định hướng phát triển và giải pháp khuyến nghị nhằm tăng cường thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực dịch vụ công theo hình thức PPP tại Việt nam CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
- 5 1.1. Tổng quan nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ công 1.1.1. Nhóm yếu tố liên quan tới khu vực Nhà nước Luận án tổng quan dựa trên các nghiên cứu của Weiling Jiang và cộng sự (2019), Jeff Youssef và Rayan Nahas (2017), Marian Moszoro và các cộng sự (2015), Maria Basilio (2020). 1.1.2. Nhóm yếu tố liên quan tới khu vực tư nhân Luận án tổng quan dựa trên các nghiên cứu của Gil và Beckman (2009), Torrance (2009), Zhang (2018), McKinsey (2016), Hambros (1999), Walker (1995). 1.1.3. Nhóm yếu tố liên quan tới dự án Luận án tổng quan dựa trên các nghiên cứu của Chege. L (2003), Thân Thanh Sơn (2014), Reinhardt (2011), Walker (2010), Panayotou (1998) . 1.2. Tổng quan nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực dịch vụ công theo hình thức PPP 1.2.1. Nhóm yếu tố liên quan tới Nhà nước Luận án tổng quan dựa trên các nghiên cứu của Haavelmo (1960), Greene và Villanueva (1991), Elena Vasilyeva (2018), Muzenda (2009), Mona Hammami và cộng sự (2006), Panayiotou (2013), Bogado (2015), Basilio (2011), Sharma (2012), Huỳnh Thị Thúy Giang (2012), Phan Thị Bích Nguyệt (2013), Zhang (2018) và Phạm Diễm Hằng (2018), Trần Thanh Phương (2022). Robert và cộng sự (2017), Hyun và cộng sự (2018), Hammami và cộng sự (2006), Kawamura (2020), Yang và cộng sự (2020), Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2013), Nguyễn Thị Hồng Minh (2016), Ye và các cộng sự (2018) 1.2.2. Nhóm các yếu tố liên quan tới khu vực tư nhân Luận án tổng quan dựa trên các nghiên cứu của Azjen (1991), Cheng (2016), Tang (2016), Zhang (2018), Yang và cộng sự (2020), Ramli (2021) Robert và Chan (2017), Ye và các cộng sự (2018) Jing Du và cộng sự (2018). 1.2.3. Nhóm các yếu tố liên quan tới dự án Luận án tổng quan dựa trên các nghiên cứu của Koppenjan và Enserink (2009), Dada và Oladokun (2011), Fleta-Asín (2021), Waziri và Isa (2017),
- 6 Schaufelberger & Wipadapisut (2003), Xueqing Zhang (2005), Robert và Chan (2017); Qiao và cộng sự (2001); Hardcastle và cộng sự (2006), Hyun và Tian (2018), Liu và Wang (2019), Xu (2014), Almarri và Abuhijleh (2017), Huỳnh Thị Thúy Giang (2012), Trần Thanh Phương (2021) 1.3. Đánh giá chung và khoảng trống nghiên cứu Từ những đánh giá về tổng quan tình hình nghiên cứu ở trên, có thể khẳng định rằng cho đến nay có rất ít công trình nghiên cứu kết hợp phân tích thực trạng thu hút đầu tư vào PPP trong dịch vụ công tại Việt Nam và phân tích bối cảnh quốc tể để rút ra bài học và khuyến nghị giải pháp cho Việt Nam. Do đó, tiếp cận theo hướng này là một hướng đi mới để tác giả nghiên cứu chuyên sâu nhằm đưa ra những giải pháp tăng cường thu hút được khu vực tư nhân tham gia đầu tư dưới hình thức PPP để thúc đẩy sự phát triển dịch vụ công tại Việt Nam. CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ DƯỚI HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC DỊCH VỤ CÔNG 2.1. Khái quát chung về đầu tư dưới hình thức đối tác công tư trong dịch vụ công 2.1.1. Các khái niệm 2.1.1.1. Khái niệm về đầu tư PPP Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Public Private Partnership - sau đây gọi là đầu tư theo hình thức PPP) là phương thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp tác có thời hạn giữa Nhà nước và nhà đầu tư tư nhân thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng dự án PPP nhằm thu hút nhà đầu tư tư nhân tham gia dự án PPP (Luật đầu tư theo phương thức đổi tác công tư số 64/2020/QH14). Các lĩnh vực đầu tư theo hình thức PPP bao gồm: (1) Giao thông vận tải; (2) Lưới điện, nhà máy điện; (3) Thủy lợi; cung cấp nước sạch; thoát nước và xử lý nước thải; xử lý chất thải; (4) Y tế; (5) Giáo dục - đào tạo; (6) Hạ tầng công nghệ thông tin (Điều 2, Nghị định 35/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021).
- 7 2.1.1.2. Khái niệm về đầu tư PPP trong dịch vụ công Từ các khái niệm nêu trên, đầu tư PPP trong dịch vụ công có thể hiểu đơn giản là hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực thuộc dịch vụ công thông qua hình thức dự án PPP. 2.1.1.3. Khái niệm về thu hút đầu tư PPP trong dịch vụ công trong phạm vi luận án Trong nội dung của luận án, tác giả đề xuất khái niệm thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP vào lĩnh vực dịch vụ công như sau: thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP vào dịch vụ công là hoạt động lôi kéo, khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia đầu tư vào các dự án PPP trong lĩnh vực dịch vụ công nhờ vào sự hấp dẫn của các dự án này, từ đó làm cho khu vực tư nhân hình thành nên ý định đầu tư. Từ đó, việc nghiên cứu thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP trong dịch vụ công có thể được xác định bằng nghiên cứu ý định đầu tư của khu vực tư nhân vào các dự án PPP trong dịch vụ công. 2.1.2. Đặc điểm của đầu tư PPP trong dịch vụ công Ngoài các đặc điểm của đầu tư nói chung, đầu tư PPP mang các đặc điểm đặc thù của hình thức PPP, thứ nhất là sự hợp tác lâu dài, tận dụng được lợi thế, nguồn lực (vốn, chuyên môn, kinh nghiệm,...) của khu vực công và khu vực tư; đặc điểm thứ hai là việc chia sẻ sẻ lợi ích, rủi ro giữa các bên trong quá trình triển khai các dự án PPP. Bên cạnh đó, đầu tư PPP trong dịch vụ công còn mang cả những đặc thù của dịch vụ công, đó là, (1) sản phẩm, dịch vụ thiết yếu đối với đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, cộng đồng dân cư hoặc bảo đảm quốc phòng, an ninh và (2) Bao gồm dịch vụ sự nghiệp công và sản phẩm, dịch vụ công ích. 2.1.3. Mục tiêu của đầu tư PPP trong dịch vụ công Mục tiêu của đầu tư PPP trong dịch vụ công tương đồng với mục tiêu của đầu tư PPP, Theo World Bank (2017) có thể tóm gọn các mục tiêu bao gồm: Tăng cường đầu tư bằng cách tiếp cận nguồn tài chính tư nhân; Khuyến khích cách tiếp cận toàn bộ chi phí; Tập trung nhiều hơn vào chất lượng dịch vụ cho người dùng cuối; Tiếp cận năng lực quản lý bổ sung thông qua hoạt động tư nhân; Đạt được giá trị đồng tiền trong việc cung cấp cơ sở hạ tầng và dịch vụ công; Nâng cao trách nhiệm giải trình trong việc cung cấp cơ sở
- 8 hạ tầng và dịch vụ công cộng; Khai thác sự đổi mới và hiệu quả của khu vực tư nhân; Kích thích tăng trưởng và phát triển đất nước. 2.1.4. Vai trò của PPP trong dịch vụ công (1) Thứ nhất, đầu tư PPP giúp tăng vốn đầu tư vì huy động từ nhiều nguồn hơn hình thức đầu tư truyền thống, tiết kiệm chi phí vì một số nhà đầu tư tư nhân khi tham gia đã có sẵn lợi thế về kinh nghiệm và nguồn lực. (2) Thứ hai, PPP mang lại hiệu quả từ khu vực tư nhân, người ta đã biết đến hiệu quả từ khu vực tư nhân thông qua mua sắm công theo phương thức truyền thống thuê khu vực tư nhân xây dựng, bảo trì và thiết kế. (3) Thứ ba, PPP khuyến khích cải cách khu vực công. (4) Thứ tư, PPP giúp giảm rủi ro cho khu vực công. 2.1.5. Lợi ích và rủi ro của đầu tư PPP trong dịch vụ công Theo World Bank (2022), các chính phủ hướng tới hợp tác với khu vực tư nhân thông qua hình thức PPP vì những lợi ích như sau: (1) hiệu quả trong việc đưa công nghệ và sáng tạo của khu vực tư nhân trong việc cung cấp các dịch vụ công; (2) Khuyến khích được khu vực tư nhân thực hiện các dự án đúng hạn và đúng ngân sách; (3) Xác định được kế hoạch ngân sách cụ thể; (4) phát triển năng lực của khu vực tư nhân tại địa phương, tạo ra các cơ hội ký hợp đồng thầu phụ cho các công ty địa; (5) thu hút và tăng mức độ tham gia của khu vực tư nhân (đặc biệt là nước ngoài) và nâng cao năng lực của các doanh nghiệp; (6) Góp phần xây dựng nền kinh tế bền vững bằng cách làm gia tăng sự cạnh tranh (7) Bổ sung các năng lực còn hạn chế của khu vực công (8) Kiểm soát được rủi ro trong dài hạn. Tuy nhiên, khi thực hiện PPP, các quốc gia cũng cần cân nhắc đến những rủi ro mà hình thức này mang lại, có thể kể đến: (1) Rủi ro về tài chính; (2) Có chi phí gắn liền với nợ vay mà khu vực tư nhân gánh chịu; (3) Rủi ro về thị trường; (4) Rủi ro về chính trị - xã hội; (5) Rủi ro các công ty tư nhân tăng giá dịch vụ; (6) Rủi ro khi triển khai dự án; (7) Rủi ro về phần trách nhiệm thuộc chính phủ; (8) Rủi ro về quyền sở hữu dữ liệu và công nghệ; (9) Rủi ro về pháp lý; (10) Các rủi ro không lường trước.
- 9 2.1.6. Điều kiện để các dự án đầu tư PPP trong dịch vụ công thành công Một số điều kiện đã được các công trình đi trước đặt ra và được luận án tổng hợp lại như sau: (1) chính sách nhất quán, các mục tiêu và nguyên tắc rõ ràng, thực tế; (2) đội ngũ có đủ năng lực cần thiết; (3) đảm bảo an toàn trong khuôn khổ pháp luật, các luật, quy định cần hiệu quả hơn, đơn giản, dễ tiếp cận, thực hiện; (4) chính phủ cần phải chấp nhận phần rủi ro của họ và giúp làm giảm thiểu những rủi ro đã chuyển cho khu vực tư nhân trên tinh thần hỗ trợ lẫn nhau; (5) minh bạch, trung lập trong đấu thầu, không tham nhũng, lợi ích nhóm; (6) đặt con người lên hàng đầu; (7) gắn liền phát triển bền vững vào các dự án PPP. 2.2. Cơ sở lý thuyết 2.2.1. Lý thuyết về trình độ phát triển của thị trường PPP thế giới Theo UNECE (2022), trình độ PPP của các quốc gia chia làm ba giai đoạn từ thấp đến cao. Việc chia trình độ phát triển PPP của các thị trường (các quốc gia) thành ba cấp độ như trên cũng đã được trình bày trong nghiên cứu của Alexiou (2017). Về góc độ tầm hoạt động, thị trường có quy mô càng lớn về số lượng dự án, số vốn, nguồn vốn, số lượng và sự tích cực của các nhà đầu tư càng cao thì được coi là càng phát triển. 2.2.2. Lý thuyết về khung phân tích PPP ba cấp độ Carbonara. N, Costantino. N, Pellegrino. R (2012) cũng phát triển và trình bày khung phân tích PPP bao gồm ba cấp: quốc gia, lĩnh vực/ ngành và dự án. Theo lý thuyết nêu trên, khi đánh giá PPP ở góc độ vĩ mô, các nhà nghiên cứu thường phân tích ở cấp độ quốc gia, bao gồm các yếu tố kinh tế, pháp luật, thể chế, tài chính, trong đó, hai yếu tố đóng vai trò nền tảng là kinh tế và pháp luật, bởi hai yếu tố này quyết định đến môi trường diễn ra hoạt động đầu tư và thực hiện các dự án PPP. Lý thuyết cho rằng, trong bối cảnh thể chế phát triển, PPP ở quốc gia chỉ có thể được phân tích đầy đủ nếu áp dụng một cách tiếp cận trên nhiều cấp độ. 2.2.3. Bộ tiêu chí Infrascope của World Bank Bộ tiêu chí Infrascope của World Bank là một công cụ đánh giá việc thực hiện hoạt động đầu tư dưới hình thức đối tác công tư (PPP) của các quốc gia. Công cụ này nhằm mục đích giúp các nhà hoạch định chính sách
- 10 xác định những thách thức đối với đầu tư PPP tại từng quốc gia và từng khu vực, từ đó hình thành một thước đo tương đối về trình độ PPP giữa các quốc gia và cũng có thể giúp chính phủ các nước nắm được điểm mạnh và điểm yếu của thị trường PPP nước mình, từ đó có thể đưa ra những chính sách hợp lý và hỗ trợ phát triển thị trường PPP hiệu quả hơn. 2.2.4. Lý thuyết hành động hợp lý (TRA) Mô hình thuyết hành động hợp lý (TRA) do Fishbein và Ajzen xây dựng năm 1975 đã chỉ ra rằng ý định hành vi là yếu tố then chốt dẫn đến thực hiện hành vi. Trong đó, ý định hành vi được quyết định bởi thái độ cá nhân đối hành vi, cùng sự ảnh hưởng của chuẩn chủ quan xung quanh việc thực hiện các hành vi đó. Hester và Yuen (1987) đánh giá thái độ và chuẩn chủ quan có tác động xung quanh việc thực hiện hành vi. Nói cách khác, ý định thể hiện mong muốn được thực hiện hành vi; trong khi đó, thái độ và chuẩn chủ quan là 2 yếu tố gây ảnh hưởng đến ý định. 2.2.5. Lý thuyết hành vi dự định (TPB) Lý thuyết hành vi dự định (TPB) được Ajzen phát triển từ Lý thuyết hành động hợp lý (TRA) và công bố vào năm 1988. Ajzen (1988) cho rằng có ba yếu tố chính ảnh hưởng đến ý định thực hiện một hành vi, đó là: Thái độ Hướng tới Hành vi - dựa trên đánh giá của một cá nhân về việc thực hiện hành vi đó là tốt hay không tốt; Chuẩn mực chủ quan (SN) - Nhận thức về hành vi bị ảnh hưởng bởi nhận thức của người khác được cho là có liên quan đến hành vi đó; Nhận thức kiểm soát hành vi (PBC) - Nhận thức của một cá nhân về khả năng thực hiện một hành vi cụ thể của họ. 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư PPP của khu vực tư nhân vào lĩnh vực dịch vụ công 2.3.1. Yếu tố thuộc khu vực Nhà nước, vĩ mô Môi trường đầu tư 2.3.2. Yếu tố thuộc về khu vực tư nhân (1) Thái độ của các công ty tham gia đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP); (2) Chuẩn chủ quan; (3) Nhận thức kiểm soát hành vi 2.3.3. Yếu tố thuộc dự án Đặc điểm dự án
- 11 2.4. Đề xuất mô hình nghiên cứu Mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án PPP trong dịch vụ công được trình bày tại hình sau: Nguồn: Nghiên cứu sinh tổng hợp CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ĐẦU TƯ DƯỚI HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TẠI MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 3.1. Bối cảnh đầu tư PPP trên thế giới Dựa trên lý thuyết về trình độ phát triển thị trường PPP của Alexiou (2017) và UNECE (2022), các quốc gia có xu hướng trải qua ba giai đoạn khác nhau trong quá trình các dự án PPP đi vào hoạt động ở mức cao nhất. Hầu hết các quốc gia đang ở giai đoạn đầu, nơi mà sự phát triển của các dự án thực tế vẫn còn yếu. Chỉ ở giai đoạn thứ ba, nơi hiện có tương đối ít quốc gia, PPP mới trở nên hoàn thiện nhất. Ở giai đoạn này, các quốc gia sẽ phát triển pháp lý và thể chế cần thiết. Alexiou, N. (2017) và UNECE (2022) cho rằng nhóm quốc gia có trình độ PPP thuộc nhóm phát triển hiện nay bao gồm Anh, Úc và Ireland. Nhóm quốc gia phát triển thứ hai có thể kể đến những quốc gia như Canada, Mỹ (tại Châu Mỹ), Tây Ban Nha, Đức, Hà Lan,... (tại Châu Âu), New Zealand (tại Châu Úc), Nhật, Hàn Quốc, Hồng Kông,... (tại Châu Á). Các nước thuộc nhóm đang phát triển hoặc mới bắt đầu chiếm phần đông và đa số thuộc Nam Mỹ, Châu Á, Châu Phi và chỉ có một số ít
- 12 thuộc Châu Âu. Nhiều quốc gia có thể được liệt kê trong nhóm này như Bỉ, Séc,... (Châu Âu), Mexico, Brazil, Argentina,... (tại Nam Mỹ), Nam Phi,... (Châu Phi), Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan,... và cả Việt Nam (Châu Á). 3.2. Một số khu vực phát triển PPP điển hình phù hợp nghiên cứu 3.2.1. Đầu tư PPP tại khu vực Châu Á 3.2.1.1. Tổng quan đầu tư PPP tại Châu Á Trong ba thập kỷ gần đây, Châu Á là khu vực phát triển sôi nổi nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững thúc đẩy giảm nghèo ở hai nền kinh tế lớn nhất khu vực là Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như ở hầu hết các nước Châu Á có thu nhập cao và trung bình. Mặc dù hoạt động đầu tư PPP tại Châu Á tại đa số các quốc gia tại Châu Á mới được đánh giá ở mức trung bình, nhưng không nằm ngoài đà phát triển kinh tế nói chung, đầu tư PPP cũng có tốc độ phát triển rất cao trong những năm gần đây. 3.2.1.2. Về pháp lý và thể chế Năm 2019, World Bank đã tổ chức khảo sát19 quốc gia về môi trường PPP năm 2019 có 9 quốc gia có môi trường pháp lý về PPP được đánh giá thuộc nhóm phát triển, tính minh bạch của hợp đồng tại các quốc gia này cũng được chú ý cải thiện những năm gần đây. Vấn đề thể chế PPP của các nước tại Châu Á đã và đang được nâng cấp. Kinh nghiệm quốc tế đã cho thấy các quốc gia có các cơ quan/ đơn vị chuyên trách về PPP sẽ hỗ trợ tốt hơn cho hoạt động đầu tư PPP hơn các quốc gia không có hoặc chưa có các đơn vị độc lập. 3.2.1.3. Về môi trường kinh tế, chính trị, tài chính Độ trưởng thành của PPP tại Châu Á: đa số các quốc gia tại Châu Á có trình độ phát triển PPP vẫn thuộc giai đoạn non trẻ, được đánh giá thông qua các yếu tổ kinh nghiệm thực hiện các hợp đồng, kinh nghiệm quản lý rủi ro và xử lý chấm dứt hợp đồng. Hầu hết các quốc gia đều có sự ủng hộ
- 13 chính trị đối với PPP, nhưng một số quốc gia đa đảng thiếu sự ủng hộ thống nhất, hoặc vấp phải sự phản đối trong nghị viện hoặc xã hội. Về vấn đề tài chính, đa số quốc gia tại Châu Á có thị trường vốn cho hoạt động PPP tương đối hạn hẹp. Một số quốc gia được đánh giá có thị trường tài chính cho PPP ở mức phát triển tại Châu Á Ấn Độ, Phillipin, Trung Quốc, Thái Lan vẫn chỉ ở mức trung bình so với thế giới. 3.2.2. Đầu tư PPP tại Châu Âu 3.2.2.1. Tổng quan đầu tư PPP tại Châu Âu Liên minh Châu Âu (EU) bao gồm 28 nền kinh tế thành viên, là một trong những đối tác thương mại lớn nhất thế giới, với quy mô thị trường 18.000 tỷ USD (chiếm 22% tổng GDP toàn cầu), dân số trên 500 triệu người, tổng kim ngạch thương mại hàng năm đạt xấp xỉ 4.000 tỷ USD, cung cấp gần 40% vốn đầu tư ra nước ngoài của thế giới. 3.2.2.2. Về pháp lý và thể chế Thực tế thực thi cũng như pháp luật hiện hành của EU không điều chỉnh các vấn đề liên quan đến các dự án PPP, do đó các quy định và nguyên tắc chung đề cập đến cung cấp dịch vụ và kinh doanh tự do được EU áp dụng cho lĩnh vực này. Về thể chế Thể chế về hoạt động PPP tại Châu Âu giàn trải và phụ thuộc nhiều vào đặc thù của mỗi quốc gia, về thời gian hình thành thị trường PPP, về đặc thù cơ chế quản lý của Chính phủ, chính sách, văn hóa và nhiều yếu tổ khác, vì vậy tìm ra một thể chế chung là không có. Các tổ chức, thể chế quản lý và hỗ trợ chung về PPP của châu Âu như sau: EPEC, EIB, JASPERS, JESSICA, Project Bonds, LGTT, The Marguerite Fund.
- 14 3.2.2.3. Về môi trường kinh tế, chính trị, tài chính Năm 2021, tổng giá trị của các giao dịch PPP tại thị trường châu Âu đạt tổng cộng 8,0 tỷ euro, giảm 13% so với năm 2020 (9,2 tỷ euro). Số lượng giao dịch PPP là 40, giảm so với năm 2020. Về vấn đề tài chính của EU cho PPP, các quỹ châu Âu là một nguồn tài chính quan trọng trong việc tài trợ cho nhiều dự án cơ sở hạ tầng ở các nước thành viên châu Âu. 3.3. Thực tiễn đầu tư PPP trong dịch vụ công tại một số quốc gia điển hình 3.3.1. Thực tiễn đầu tư PPP tại Trung Quốc 3.3.1.1. Tổng quan đầu tư PPP tại Trung Quốc Theo dữ liệu từ WB, từ 2014 đến nay, Trung Quốc đã gia tăng đáng kể số lượng dự án PPP, đồng thời khung pháp lý cũng đã được chú trọng hoàn thiện hơn nhiều so với trước. Thể chế cũng đã được thử nghiệm và hoàn thiện. 3.3.1.2. Về pháp lý và thể chế Theo báo cáo của WB (2019), Trung Quốc không có luật cụ thể về PPP và có ít thủ tục cho quy trình đấu thầu và tiêu chí lựa chọn nhà thầu. Các thủ tục lựa chọn dự án do Trung tâm PPP cung cấp và thực tiễn đánh giá được quản lý bởi hai bộ hướng dẫn do NDRC và MoF xuất bản. 3.3.1.3. Về môi trường kinh tế, chính trị, tài chính Các dự án PPP tại Trung Quốc thực hiện trong nhiều lĩnh vực, tuy nhiên, giống các quốc gia đang có thị trường PPP phát triển ở giai đoạn đầu, Trung Quốc đang tập trung quy hoạch đầu tư cho hệ thống đường bộ. Như nhiều nền kinh tế mới nổi ở châu Á, Chính phủ không đủ ngân sách cho việc đầu tư này. Sự thiếu hụt 150 tỷ USD (1998-2020) được bù đắp một phần từ ngân sách nhà nước, phần còn lại cần sự hỗ trợ của tư nhân.
- 15 Về tài chính, các nguồn tài trợ chính cho đầu tư theo hình thức PPP là chính phủ, tín dụng ngân hàng, quỹ quản lý tài sản ngân hàng và các công ty bảo hiểm. 3.3.1.4. Nghiên cứu điển hình về chia sẻ rủi ro của dự án PPP cung cấp hạ tầng điện sạc công cộng Anqing tại An Khánh, Trung Quốc Từ những năm 2010, Chính phủ gia tăng các phương tiện chạy điện và giảm thiểu các phương tiện chạy xăng, dầu như một biện pháp đối phó với vấn đề ô nhiễm, đẫn đến phát sinh nhu cầu xây dựng hạ tầng bốt sạc công cộng cho các phương tiện chạy điện. Tính đến cuối năm 2016, Trung Quốc có gần 150.000 bốt sạc công cộng, đưa Trung Quốc trở thành quốc gia dẫn đầu toàn cầu về phát triển cơ sở hạ tầng sạc (Electric vehicle charging infrastructure promotion coalition annual report, 2018). Mặc dù, cơ sở hạ tầng sạc điện ở Trung Quốc có quy mô lớn, nhưng số lượng thấp hơn nhiều so với tốc độ phát triển xe điện. Từ đó, các dự án PPP cung cấp bốt sạc điện công cộng được tiến hành, trong đó, dự án Anqing triển khai tại An Khánh là một trong những dự án lớn nhất. Kế hoạch dự án: xây dựng vào năm 2016 là 1800 cọc sạc Bố trí thi công: SPV được yêu cầu sử dụng thiết bị sạc tuân thủ chuẩn chung, chuẩn sạc AC, chuẩn sạc DC và các chuẩn có liên quan khác. Ngoài ra, việc xây dựng nền tảng dịch vụ sạc thông minh và kết nối với nền tảng quản lý đô thị kỹ thuật số Anqing, nền tảng quản lý cấp tỉnh và quốc gia cũng được chú trọng. Chia sẻ rủi ro: Những rủi ro chính của dự án Anqing được chia thành bảy loại: thiết kế/xây dựng, vận hành, tài chính, doanh thu, pháp lý, hành vi của chính phủ và những rủi ro khác.
- 16 3.3.1.5. Đánh giá chung và bài học kinh nghiệm Thách thức tại Trung Quốc chủ yếu đến từ cơ chế vận hành của bộ máy Nhà nước. Các tranh chấp cũng thường được xử lý mà không có sự minh bạch hoặc có trọng tài độc lập. Những thách thức khác bao gồm: việc một số chính quyền địa phương sử dụng các hình thức PPP như là “các kênh gây quỹ trá hình”; cung cấp các bảo đảm về giá trị mua lại hoặc lợi tức đầu tư cho các đối tác tư nhân và đi ngược lại với tinh thần chia sẻ rủi ro của PPP; nợ địa phương ngày càng tăng; và thiếu tính minh bạch, thiếu các thông tin, dữ liệu và thiếu chuyên môn, điều này đe dọa lợi thế về chi phí-lợi ích của các dự án PPP. Một số bài học rút ra qua nghiên cứu về đầu tư PPP trong dịch vụ công nói chung và dự án PPP bốt sạc điện tại Trung Quốc: (1) chú trọng xây dựng các cơ chế ưu đãi đầu tư cho nhà đầu tư tư nhân khi tham gia hình thức PPP trong ngành điện; (2) áp dụng đấu thầu cạnh tranh để lựa chọn nhà đầu tư tư nhân; (3) linh động nhưng cũng rất chú trọng việc lập kế hoạch tổng thể và các kế hoạch chi tiết, phối hợp tốt giữa các đơn vị công và tư; (4) thống nhất, chuẩn hóa ngay từ đầu các tiêu chuẩn kỹ thuật để tránh gây lãng phí; (5) xác định rủi ro và có cơ chế chia sẻ rủi ro hợp lý; (6) xây dựng Nền tảng Dịch vụ Thông minh để Cung cấp Dịch vụ đa dạng; (7) hoạt động giám sát dự án PPP trong ngành điện được triển khai chặt chẽ và được quản lý theo hai cấp; (8) đa dạng hóa hình thức tổ chức thực hiện. 3.3.2. Thực tiễn đầu tư PPP tại Đức 3.3.2.1. Tổng quan quá trình phát triển đầu tư PPP tại CHLB Đức Hoạt động đầu tư PPP của Đức đã có những thay đổi đáng kể trong những năm gần đây. Mặc dù các dự án PPP về xây dựng và hạ tầng giao thông của Đức tiếp tục chiếm thị phần lớn, Đức cũng đang lập kế hoạch thực hiện nhiều dự án PPP ở các lĩnh vực khác. Theo Jan Bonhage (2022), do đại dịch Covid-19, số lượng dự án PPP mới của Đức giảm nhưng khối lượng dự
- 17 án lại tăng gấp đôi, cùng đà tăng với khối lượng của thị trường PPP ở châu Âu. 3.3.2.2. Về pháp lý và thể chế Sự phát triển và thực hiện các dự án PPP ở Đức được điều chỉnh chủ yếu bởi Luật Ngân sách, đặc biệt là các mục 7 và 55 của Bộ luật Ngân sách Liên bang. Về thể chế, sự ra đời của một đơn vị chuyên trách về PPP là nhằm thực hiện mong muốn về một cơ quan có thể cung cấp các dịch vụ tư vấn tập trung với nhiều kinh nghiệm về các hiệp định phức tạp cho khách hàng trong khu vực công ở tất cả các lĩnh vực. 3.3.2.3. Về môi trường kinh tế, chính trị, tài chính Nền kinh tế Đức là một trong những nền kinh tế ổn định và phát triển, nền kinh tế Đức là nền kinh tế lớn thứ năm trên thế giới và lớn nhất châu Âu. Năm 2021, GDP của Đức tiếp tục tăng trưởng với tỷ lệ 2,9%. Về chính trị, so với các nước EU khác, Đức cho thấy sự ủng hộ chính trị cao và liên tục trong lĩnh vực này. Ở Đức thì phương thức tài chính chủ yếu là bao thanh toán, miễn truy đòi công. Tuy vậy, phương thức tài chính (Private Finance - PF) là được sử dụng nhiều ở các dự án lớn. Các dự án PPP sử dụng phương thức PF thường là các dự án lớn bởi mức sinh lời dự kiến của các dự án nhỏ thường không đủ để chi trả cho chi phí giao dịch. 3.3.2.4. Nghiên cứu điển hình về bối cảnh kinh tế chính trị của việc cung cấp nước đô thị tại Berlin, Đức theo hình thức PPP Tư nhân hóa việc triển khai cấp nước ở Berlin bắt đầu vào năm 1994 cùng với quá trình thương mại hóa của Berliner Wasserbetriebe (BWB). Liên minh Thượng viện Berlin giữa Đảng Dân chủ Cơ đốc giáo và Đảng Dân chủ Xã hội quyết định chuyển đổi BWB thành một công ty luật công
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 304 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 181 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 175 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 198 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 135 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 170 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn