Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
lượt xem 12
download
Với đề tài "Quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX", luận án hướng đến mục tiêu trình bày, phân tích, lý giải một cách hệ thống, toàn diện về sự hình thành, phát triển mâu thuẫn giữa hai đế quốc Nga và Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên, Mãn Châu và quá trình giải quyết mâu thuẫn này của hai nước.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN PHƯƠNG MAI QUAN HỆ NGA – NHẬT BẢN VỀ VẤN ĐỀ TRIỀU TIÊN VÀ MÃN CHÂU CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX Chuyên ngành: Lịch sử thế giới Mã số: 62.22.03.11 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
- HÀ NỘI 2016 Luận án được hoàn thành tại: Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Lại Bích Ngọc 2. TS Dương Duy Bằng Phản biện 1: PGS. TS Đinh Công Tuấn Tạp chí nghiên cứu châu Âu Phản biện 2: PGS. TSKH Trần Khánh Viện nghiên cứu Đông Nam Á Phản biện 3: PGS. TS Nguyễn Hoàng Giáp Học viện CTQG Hồ Chí Minh Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Vào hồi……giờ……ngày…….tháng…….năm 2016
- Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: 1. Thư viện Quốc gia 2. Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển dần từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc. Những nhu cầu về vốn, nhân công, nguyên liệu, thị trường đã thúc đẩy các nước tư bản đua nhau xâm chiếm thuộc địa. Đế quốc Nga và Nhật Bản cũng không nằm ngoài bối cảnh đó. Tuy nhiên, hai nước này lại có cùng mục tiêu trong chính sách bành trướng, xâm lược thuộc địa, đó chính là bán đảo Triều Tiên và khu vực Mãn Châu thuộc Đông Bắc Á. Đối với Nga, Triều Tiên và Mãn Châu chính là cửa ngõ phía đông. Khu vực này rất giàu có về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực mà bất kì một nước tư bản nào cũng thèm muốn. Hơn hết, Triều Tiên và Mãn Châu sở hữu những cảng biển không bị đóng băng trong mùa đông mà Nga vô cùng khao khát như Lữ Thuận, Masampo, Pusan. Thật không may mắn cho Nga khi lãnh thổ rộng lớn của đế quốc trải dài từ biên giới với Ba Lan ở phía Tây đến Thái Bình Dương ở phía Đông, bị bao bọc bởi những vùng biển đóng băng và những vùng biển luôn xảy ra tranh chấp căng thẳng giữa các cường quốc hải quân hàng đầu thế giới. Năm 1860, Nga xây dựng hải cảng Vladivostok bên bờ Thái Bình Dương nhưng cảng này cũng chỉ hoạt động được vài tháng trong một năm. Vì vậy, việc tìm kiếm những cảng nước ấm cho sự phát triển thương mại và hải quân của Nga là vô cùng quan trọng. Trong bối cảnh đó, xâm chiếm Triều Tiên và Mãn Châu không chỉ đảm bảo an ninh biên giới phía Đông của Nga mà còn thỏa mãn những nhu cầu bức thiết của đất nước. Nếu chiếm được Triều Tiên và Mãn Châu, Nga có thể làm chủ Thái Bình Dương và tiếp tục chính sách bành trướng xuống phía đông nam. Tất yếu những tham vọng của Nga ở Đông Bắc Á sẽ dẫn đến sự đụng độ với các nước đế quốc cũng có quyền lợi ở khu vực này, trước hết và đặc biệt là Nhật Bản. Nhật Bản là một quốc đảo, nhờ những nỗ lực không ngừng đã thoát khỏi số phận một nước thuộc địa, trở thành đế quốc tư bản chủ nghĩa duy nhất ở châu Á. Nhật Bản không có bất kì một lợi thế nào để phát triển đất nước như tài nguyên, thuộc địa hay vị thế trên trường quốc tế. Trong khi đó, Triều Tiên và Mãn Châu giữ vị trí chiến lược đối với an ninh, chính trị của quốc gia này. Một cố vấn quân đội người Phổ trong chính quyền Minh Trị đã từng nói: “Triều Tiên như mũi dao chĩa thẳng vào trái tim nước Nhật”. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản hướng đến việc phải chiếm bằng được Triều Tiên làm thuộc địa, lá chắn an ninh cho đất nước. Chính bởi nguyên nhân trên, Nga Nhật Bản đã mâu thuẫn gay gắt với nhau về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu. Mâu thuẫn Nga – Nhật Bản bắt đầu khi Nhật Bản giành được quyền kiểm soát bán đảo Liêu Đông (thuộc Trung Quốc, nơi có cảng Lữ Thuận) và bán đảo Triều Tiên sau cuộc chiến tranh với triều đình phong kiến Mãn Thanh những năm 1894 – 1895. Nga thấy bị đe dọa bởi những kết quả mà Nhật giành được nên đã thuyết phục Pháp và Đức buộc Nhật Bản phải từ bỏ quyền kiểm soát bán đảo Liêu Đông. Nhật Bản không
- 2 thể làm gì hơn sau những tổn thất của cuộc chiến với Mãn Thanh, đã chấp nhận yêu cầu của Tam cường. Những năm sau đó, lấy lí do bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Trung Quốc, Nga từng bước xâm nhập vào Mãn Châu và bành trướng ở Triều Tiên. Nhật Bản ngày càng bất bình bởi sự ăn cướp trắng trợn những kết quả mà lẽ ra thuộc về mình của đế quốc Nga. Nhật Bản đã nỗ lực thỏa thuận với chính quyền Nga hoàng trong suốt 8 năm nhằm giải quyết những tranh chấp bằng biện pháp ôn hòa nhưng không thể đạt được điều đó. Chiến tranh 1904 – 1905 là đỉnh điểm và cũng là giải pháp cuối cùng cho mâu thuẫn Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu ở Đông Bắc Á. Nghiên cứu về quan hệ Nga – Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX xung quanh vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu được nhiều học giả trên thế giới quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu lớn. Tuy nhiên, vấn đề này được mỗi tác giả nhìn nhận ở những góc độ khác nhau và vẫn còn tồn tại không ít những ý kiến trái chiều. Với đề tài Quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, luận án hướng đến mục tiêu trình bày, phân tích, lý giải một cách hệ thống, toàn diện về sự hình thành, phát triển mâu thuẫn giữa hai đế quốc Nga và Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên, Mãn Châu và quá trình giải quyết mâu thuẫn này của hai nước. Luận án muốn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề: tại sao Triều Tiên, Mãn Châu lại là mục tiêu trong chính sách bành trướng, xâm lược thuộc địa của Nga và Nhật Bản? Ngoài việc tranh giành thuộc địa còn nhân tố nào đưa đến sự hình thành mâu thuẫn Nga – Nhật Bản ở khu vực Đông Bắc Á? Nga và Nhật Bản đã giải quyết mâu thuẫn về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu như thế nào trong suốt một thập niên từ sau sự kiện Tam cường can thiệp (1895) đến khi kết thúc cuộc chiến tranh Nga – Nhật (1905)? Mối quan hệ giữa hai nước trong suốt quá trình giải quyết mâu thuẫn có chịu sự tác động của nhân tố nào không? Những tác động đó mang tính tích cực hay tiêu cực đối với mối quan hệ Nga – Nhật Bản? Từ đó, luận án làm rõ hơn những tác động và hệ lụy mà quá trình giải quyết mâu thuẫn đã để lại đối với Nga, Nhật Bản, đối với khu vực Đông Bắc Á, với quan hệ quốc tế và lịch sử nhân loại. Lý giải được những vấn đề trên, luận án sẽ góp phần làm rõ hơn lịch sử Nga, lịch sử Nhật Bản, lịch sử khu vực Đông Bắc Á cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Sau chiến tranh Nga – Nhật Bản, lịch sử thế giới đã chứng kiến những cuộc cách mạng xã hội to lớn ở Nga năm 1917 và những biến đổi lớn lao trong quan hệ quốc tế. Do đó, với việc giải quyết những vấn đề đặt ra, luận án cũng góp phần làm rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX cũng như mối quan hệ giữa chiến tranh và cách mạng trong lịch sử.
- 3 Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, quan hệ giữa Việt Nam với Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc ngày càng được phát triển, củng cố. Việc đẩy mạnh nghiên cứu để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau về lịch sử, văn hóa có một ý nghĩa quan trọng. Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên, tôi chọn vấn đề “Quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ” làm đề tài luận án tiến sĩ lịch sử. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Quan hệ Nga – Nhật Bản liên quan đến vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Nội dung của quan hệ Nga – Nhật Bản: Tranh chấp bán đảo Triều Tiên và khu vực Mãn Châu Bán đảo Triều Tiên có vị trí địa lý gần kề với cả Nga và Nhật Bản. Đồng thời, đó cũng là tên gọi của một vương quốc hình thành từ năm 1392 (triều đại Choson). Năm 1897, vương quốc này đổi tên thành Đại Hàn đế quốc. Tuy nhiên, để thống nhất ngôn từ dùng trong luận án, tác giả vẫn sử dụng thuật ngữ Triều Tiên. Mãn Châu là vùng lãnh thổ nằm phía Bắc Trung Quốc. Có nhiều quan niệm khác nhau về khu vực này. Trong luận án, khái niệm Mãn Châu được hiểu bao gồm ngoại Mãn Châu thuộc Nga và nội Mãn Châu tức các tỉnh Đông Bắc của Trung Quốc: Liêu Ninh, Cát Lâm, Hắc Long Giang. Triều Tiên, Mãn Châu là vấn đề trọng tâm của mối quan hệ giữa Nga với Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Vấn đề Triều Tiên và vấn đề Mãn Châu có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Nga vốn quan tâm nhiều hơn đến khu vực Mãn Châu, trong khi đó Nhật Bản lại hướng đến bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của Triều Tiên và Mãn Châu nên Nga và Nhật Bản đều muốn chiếm lấy cả hai khu vực này. Việc giải quyết vấn đề Triều Tiên không thể tách rời Mãn Châu và ngược lại. Do vậy, giới hạn phạm vi đối tượng mà luận án giải quyết là vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu. Thời gian: Luận án nghiên cứu quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, tập trung trong giai đoạn từ năm 1895 đến năm 1905. Năm 1895: Kết thúc chiến tranh Trung – Nhật. Nga bắt đầu đẩy mạnh việc xâm nhập vào nội Mãn Châu còn Nhật Bản thúc đẩy việc gây ảnh hưởng lên Triều Tiên nhằm biến bán đảo này thành thuộc địa. Tranh giành quyền lợi và ảnh hưởng của Nga, Nhật tại đây đã đẩy quan hệ giữa hai nước bước vào giai đoạn căng thẳng. Năm 1905: Chiến tranh Nga – Nhật kết thúc, hai nước đi đến kí kết hiệp ước Portsmouth, mâu thuẫn về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu được giải quyết. 3. Nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- 4 Mục tiêu của luận án là làm rõ đặc điểm, bản chất của mối quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và những tác động của nó đối với hai nước, khu vực Đông Bắc Á cũng như quan hệ quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là: Phân tích những nhân tố tác động đến sự xuất hiện mối quan hệ giữa Nga và Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX xung quanh vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu. Hệ thống và tái hiện quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa Nga và Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu từ lúc hình thành đến khi mâu thuẫn phát triển đến đỉnh điểm (chiến tranh 1904 – 1905), chỉ ra những nhân tố tác động đến mỗi bên trong quá trình giải quyết mâu thuẫn; từ đó phân tích bản chất của mối quan hệ này trong suốt tiến trình của nó. Phân tích những đặc điểm của mối quan hệ này và tác động của nó đối với lịch sử Nga, Nhật Bản và khu vực Đông Bắc Á cũng như sự chuyển biến của quan hệ quốc tế trước, trong và sau khi chiến tranh Nga – Nhật Bản kết thúc năm 1905. Phân tích những tác động, hệ lụy từ kết quả của quá trình giải quyết mối quan hệ giữa hai nước Nga, Nhật đối với lịch sử khu vực và lịch sử thế giới những thập niên sau đó. 4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tài liệu * Tư liệu gốc Nguồn sử liệu quan trọng được luận án khai thác là các văn bản, hiệp định, thư từ (bản dịch tiếng Anh) giữa hai nước Nga và Nhật trong việc giải quyết những tranh chấp quyền lợi ở Triều Tiên và Mãn Châu như cuốn: Korea, Treaties and Agreements (Triều Tiên, hiệp ước và thỏa thuận) và cuốn Manchuria, treaties and agreements (Mãn Châu, hiệp ước và thỏa thuận) cùng xuất bản ở Washington, Published by the Endowement, năm 1921, tập hợp những thỏa thuận giữa Nhật Bản với Triều Tiên và giữa Nhật Bản với Nga xung quanh việc phân chia quyền lợi ở Triều Tiên và Mãn Châu. Đặc biệt phải kể đến cuốn Correspondence regarding the negotiations between Japan and Russia (Thư từ liên quan tới các cuộc đàm phán giữa Nhật Bản và Nga) được xuất bản bởi Komura Jutaro (Bộ trưởng Ngoại giao Nhật) năm 1904, không lâu sau cuộc chiến Nga – Nhật Bản bùng nổ. Cuốn sách gồm 51 bức điện tín trao đổi giữa Công sứ Nhật Bản tại Nga và Bộ trưởng Ngoại giao Nhật trong khoảng thời gian từ ngày 28.7.1903 đến ngày 6.2.1904. Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng hệ thống hồi kí, ghi chép của những nhà lãnh đạo, ngoại giao trong chính phủ Nga hoàng và Nhật hoàng; các bài viết của các nhà nghiên cứu, phóng viên chiến tranh tại thời điểm đó như: Cuốn The memoirs of Count Witte (Hồi kí của Bá tước Witte). S. Witte là Bộ trưởng bộ Tài chính của Nga từ 1892 đến 1902 và có nhiều chính sách quan trọng về vấn đề Viễn Đông được
- 5 chính phủ Nga hoàng ủng hộ; cuốn Forty years of diplomacy (Bốn mươi năm ngoại giao) của Nam tước Roman Romanovich Rosen, người giữ vai trò Công sứ Nga tại Nhật Bản trong những năm 1897 – 1899; 1903 – 1904. Những bài viết của Lênin đăng trên các tờ Tia Lửa, Tiến lên, Người vô sản trong những năm từ 1900 đến 1905 cũng có giá trị như một nguồn tư liệu gốc quan trọng, đã cho thấy thực tế bối cảnh lịch sử của nước Nga trước, trong và sau cuộc chiến tranh Nga – Nhật Bản. * Tài liệu tham khảo: Các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước đã công bố về lịch sử Nga, lịch sử Nhật, về chính sách đối ngoại của Nga và Nhật; những công trình chuyên sâu về chính sách của Nga và Nhật tại Đông Bắc Á, về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Tác giả luận án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành; phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế, khu vực học; phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra. 5. Đóng góp của luận án Giải quyết thành công mục tiêu và những nhiệm vụ đặt ra, luận án có đóng góp sau: Luận án là một công trình chuyên biệt, hệ thống về quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, từ góc độ của nhà nghiên cứu Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận án góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế cuối thời cận đại. Luận án có thể được sử dụng như là một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập lịch sử Nga, Nhật Bản, lịch sử khu vực Đông Bắc Á và lịch sử quan hệ quốc tế cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. 6. Bố cục luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được cấu trúc thành năm chương: Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Chương 2. Những nhân tố tác động đến sự xuất hiện quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu cuối thế kỉ XIX Chương 3. Quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu từ năm 1895 đến tháng 7 năm 1903 Chương 4. Quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu từ tháng 7 năm 1903 đến năm 1905 Chương 5. Đặc điểm, tác động của quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
- 6 Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Các công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài 1.1.1. Các học giả Nga Những bài viết của V. I. Lênin đăng trên các báo Tia lửa, Tiến lên, Người vô sản. Một số bài tiêu biểu là: Cuộc chiến tranh Trung Quốc đăng trên báo Tia lửa số 1 tháng Chạp năm 1900; Việc 183 sinh viên bị cưỡng bức nhập ngũ (trích) trên báo Tia lửa số 2, tháng Hai năm 1901; Cảng Lữ Thuận thất thủ trên báo Tiến lên số 2, ngày 14 tháng Giêng năm 1905... Năm 1921, nhà nghiên cứu Sergei Aleksandrovich Korff đã cho xuất bản cuốn Russia in the Far East (Nước Nga ở Viễn Đông) tại Washington. Năm 2008, Yulia Mikhailova và M. William Steele cho xuất bản cuốn sách với tựa Japan and Russia Three Centuries of Mutual Images (Nh ật B ản và Nga, ba thế kỉ tìm hiểu nhau), Global Oriental. 1.1.2. Các học giả Nhật Bản Kanichi Asakawa là sử gia Nhật Bản nổi tiếng. Năm 1904, ông cho xuất bản cuốn The RussoJapanese conflict, its causes and issues (Cu ộc xung đột NgaNhật, nguyên nhân và các vấn đề của nó) tại Boston. Tác giả Hoshino Kota cũng công bố công trình The Mission of Japan and the RussoJapanese War (Sứ mệnh của Nhật Bản và cuộc chiến NgaNhật) cùng lúc với Kanichi Asakawa. Một nghiên cứu khác của học giả người Nhật đó là cuốn The International position of Japan as A Great power (Vị thế quốc t ế của Nh ật Bản nh ư m ột c ường quốc) của Hishida Seiji George xuất bản năm 1905 tại New York. Nhà nghiên cứu Irie Akira đã có một công trình nghiên cứu chuyên sâu Ngoại giao Nhật bản (Từ Minh Trị Duy tân đến hiện đại). Cuốn sách đã được dịch bởi Nguyễn Đức Minh, Lê Thị Bình, NXB Tri thức, Hà Nội năm 2013. 1.1.3. Các học giả nước ngoài khác Công trình xuất bản sớm nhất được luận án tiếp cận đó là bài viết Japan and Russia in the Far East (Nhật Bản và Nga ở Viễn Đông) của James Murdoch trên tạp chí The North American, tập 170, số 522 (tháng 5, năm 1900), trang 609633, Trường Đại học Northern Lowa. Russia and Japan, and A Complete history of the War in the Far East (Nga và Nhật Bản, và bộ sử hoàn thiện về cuộc chiến tranh tại Viễn Đông) của tác giả Frederic William Unger xuất bản bởi World Bible House, Philadelphia, năm 1904. Cuốn Dai Nippon, the Britain of the East; A Study in National Evolution (Nh ật Bản, nước Anh của phương Đông; một nghiên cứu từ tiến trình phát triển dân tộc) của tác Henry Dyer xuất bản tại London, năm 1904, là một nghiên cứu về sự phát triển của Nhật Bản những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Nhà báo người Anh, Henry James Whigham cho xuất bản cu ốn Manchuria and Korea (Mãn Châu và Triều Tiên) tại London năm 1904.
- 7 Cuốn The Russian advance (Sự phát triển của Nga) của tác giả Albert J. Beveridge, xuất bản năm 1904, tại New York. Alfred Rambaud, năm 1904, cho xuất bản cuốn The expansion of Russia, problems of the East and problems of the Far East (S ự bành trướng của Nga, các vấn đề của phương Đông và vùng Viễn Đông) tại New York. Tác phẩm Japan's fight for freedom; the story of the war between Russia and Japan (Cuộc chiến vì tự do của Nhật Bản; câu chuyện chiến tranh giữa Nhật Bản và Nga) của nhà nghiên cứu Herbert Wrigley Wilson, xuất bản năm 1904, bởi London Amalgamated Press. Một công trình nghiên cứu khác về cuộc chiến Nga – Nhật Bản được xuất bản trong năm 1906 tại New York đó là cuốn The international law and diplomacy of the RussoJapanese War (Luật quốc tế và ngoại giao của cuộc chiến NgaNhật) của Amos Shartle Hershey. Cùng năm 1906, nhà nghiên cứu André Chéradame cho xuất bản cuốn Le monde et la guerre RussoJaponaise (Thế giới và cuộc chiến Nga – Nhật) tại Paris. Năm 1909, nhà nghiên cứu Henry Dyer tiếp tục cho xuất bản cuốn Japan in world politics, A Study in International dynamics (Nh ật Bản trong chính trị thế giới, một nghiên cứu động lực quốc tế) tại London. Năm 1908, nhà nghiên cứu Frederick Arthur McKenzie cho xuất bản cuốn sách về Triều Tiên The tragedy of Korea (Bi kịch Triều Tiên) tại New York. Cuốn Contemporary politics in the Far East (Chính trị đương đại ở Viễn Đông) của Stanley K. Hornbeck, xuất bản tại New York năm 1916, tiếp tục cho thấy những nghiên cứu liên tiếp của các học giả thế giới về khu vực Đông Bắc Á những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Cuốn Modern Japan (Nước Nhật hiện đại) Amos Shartle Hershey và Frank M. Anderson xuất bản năm 1919 tại Indianapolis. Một tác phẩm đồ sộ khác nghiên cứu về cuộc chiến tranh Nga – Nhật Bản đó là cuốn The Origins of the Russo Japanese war (Nguồn g ốc của chi ến tranh Nga – Nhật) của Ian Hill Nish xuất bản năm 1989 tại London và NewYork. The Cambridge History of Japan Vol 5: The Nineteenth Century, (L ịch sử Nh ật Bản của đại học Cambridge. Quyển 5: Thế kỷ XIX) là công trình chuyên khảo đặc biệt của đại học Cambridge về lịch sử Nhật Bản thế kỉ XIX, xuất bản năm 1989, được biên soạn bởi Marius B. Jansen và Peter Duus. Công trình nghiên cứu tổng thể và toàn diện gần đây nhất về cuộc chiến tranh Nga – Nhật Bản đó là cuốn The Russo Japanese war in global perspective: World war zero (Chiến tranh Nga – Nhật trong viễn cảnh toàn cầu: Chiến tranh thế giới trước thế chiến I) được biên soạn bởi nhóm các nhà nghiên cứu John W. Steinberg, Bruce W. Menning, David Schimmelpenninck Van Der Oye xuất bản năm 2005 tại Boston. Ngoài những công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài kể trên, tác giả luận án còn tiếp cận một số công trình nghiên cứu khác như cuốn The case of Korea
- 8 (Trường hợp Triều Tiên) của Henry Chung xuất bản năm 1921 tại New York; bài viết của tác giả David Starr Jordan Results of the War Between Russia and Japan (Kết quả của cuộc chiến giữa Nga và Nhật Bản) trên The Advocate of Peace (18941920), t ập 68, số 3 tháng 3 năm 1906, trang 5961....Hoặc một số cuốn sách của các học giả nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt như cuốn Lịch sử Hàn Quốc tân biên của Ki baik Lee (Lê Anh Minh dịch) xuất bản năm 2002, Nxb TP. Hồ Chí Minh; Cuốn Lịch sử Nhật Bản của R.H.P Mason và J.G.Caiger (Nguyễn Văn Sỹ dịch) xuất bản năm 2008, Nxb Lao động, Hà Nội… 1.2. Các công trình nghiên cứu của học giả Việt Nam Cuốn Lịch sử quan hệ quốc tế Từ đầu thời cận đại đến kết thúc Thế chiến thứ hai, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, năm 2010, (Vũ Dương Ninh chủ biên) đã đề cập đến nguyên nhân của xung đột Nga – Nhật và mối quan hệ giữa các nước đế quốc tư bản chủ nghĩa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Hương trong công trình Chính sách đối ngoại của nước Nga qua các thời đại 1237 – 1945, Vinh – Phổ thông, xuất bản năm 1946 đã khái quát chính sách đối ngoại của Nga từ khi hình thành cho đến kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong giáo trình Lịch sử thế giới cận đại, NXB Giáo dục, Hà Nội, (Vũ Dương Ninh chủ biên), phần viết về “Các nước tư bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX” viết về sự bành trướng xâm lược của Nga và Nhật Bản ở Đông Bắc Á. Hai công trình có nhiều đóng góp hơn cả vào việc tìm hiểu lịch sử Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, bởi các nhà nghiên cứu Việt Nam những năm gần đây đó là: Giáo trình lịch sử Nhật Bản của tác giả Đào Hữu Dũng (bút danh Nguyễn Nam Trân) (bản thảo dạng ebook) công bố năm 2013 tại Tokyo và cuốn Nhật Bản cận đại của Vĩnh Sính tái bản năm 2014, NXB Lao Động, Hà Nội. Một tác phẩm quan trọng khác, cung cấp nhiều sự kiện của lịch sử Nga thời cận đại đó là cuốn Lược sử Nga từ nguyên thủy đến cận đại của Nguyễn Thị Thư, NXB Giáo dục, Hà Nội, năm 1996. 1.3. Những vấn đề đã được nghiên cứu và vấn đề đặt ra cho luận án Như vậy, để giải quyết những vấn đề đặt ra, tác giả luận án đã cố gắng tiếp cận đa dạng các nguồn tài liệu từ những tư liệu gốc cho đến những nghiên cứu của học giả Nga, Nhật Bản, Việt Nam và các nước khác. Có thể tổng kết lại một số thành tựu mà các học giả trên thế giới và trong nước đã đạt được khi nghiên cứu về quan hệ giữa Nga và Nhật Bản ở khu vực Đông Bắc Á cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX như sau: Chính sách bành trướng xâm lược thuộc địa của Nga và Nhật ở khu vực Đông Bắc Á. Trong đó, các tác giả nhấn mạnh đến nhu cầu thuộc địa xuất phát từ sự tăng dân số mạnh mẽ và yêu cầu phát triển kinh tế công thương của mỗi nước. Đa phần các quan điểm cho rằng dân số là nguyên nhân chủ yếu khiến cả Nga và Nhật Bản phải giành được Triều Tiên và Mãn Châu (James Murdoch, F. Unger, Henry Dyer, Albert J. Beveridge, Nguyễn Nam Trân….).
- 9 Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa Nga và Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu: sự cạnh tranh về lãnh thổ giữa hai nước. Trong đó, nguyên nhân trực tiếp chính là việc Nhật buộc triều đình Mãn Thanh kí vào Hiệp ước Shimonoseki, trao cho Nhật quyền kiểm soát Triều Tiên và bán đảo Liêu Đông. Quan hệ giữa các nước tư bản chủ nghĩa dưới ảnh hưởng của mâu thuẫn Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu đặc biệt quan hệ giữa Anh và Mĩ. Quá trình giải quyết mâu thuẫn Nga – Nhật Bản có tác động sâu sắc đến sự thay đổi thái độ, hành động của các nước Âu – Mĩ đối với tham vọng của hai nước này tại khu vực Đông Bắc Á. Cuộc chiến tranh giữa Nga và Nhật với các vấn đề chủ yếu như lực lượng tham gia, diễn biến, chiến phí, kết quả, tính chất, tác động và nghệ thuật quân sự (hải quân) của cuộc chiến. Cho đến nay, ở trong nước, chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu toàn diện, hệ thống về quan hệ Nga – Nhật Bản đối với vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu. Trên cơ sở các nguồn tư liệu gốc, kế thừa thành quả của các học giả đi trước, luận án sẽ tập trung nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề sau: Những nhân tố tác động đến sự hình thành quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu cuối thế kỉ XIX. Diễn tiến, bản chất của mối quan hệ này qua từng giai đoạn và giải pháp cho vấn đề của hai bên; những nhân tố tác động đến quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa Nga và Nhật Bản trong mỗi giai đoạn. Tác động và hệ lụy lâu dài của việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nước về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Dựa trên các nội dung nghiên cứu và tư liệu cụ thể, luận án cũng sẽ rút ra một số nhận xét về quan hệ giữa Nga Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX xung quanh vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu. Chương 2 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ XUẤT HIỆN QUAN HỆ NGA – NHẬT BẢN VỀ VẤN ĐỀ TRIỀU TIÊN VÀ MÃN CHÂU CUỐI THẾ KỈ XIX 2.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực Đông Bắc Á 2.1.1. Bối cảnh quốc tế Cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển dần từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc. Tuy nhiên, sự phát triển không đồng đều giữa các nước tư bản đã đưa đến hệ quả: Mâu thuẫn giữa các nước “đế quốc già” và “trẻ” ngày càng trở nên gay gắt. Cả hai khối đế quốc đều không ngừng xây dựng lực lượng quân sự hùng mạnh nhằm giữ, giành thuộc địa, tìm cách phân chia lại thị trường thế giới.
- 10 Trong bối cảnh đó, chính sách “ngoại giao pháo hạm” (gunboat diplomacy) là biện pháp cơ bản mà các nước đế quốc sử dụng. Nó đưa đến một giải pháp phổ biến trong việc giải quyết các tranh chấp thuộc địa đó chính là sử dụng chiến tranh, quân sự. Sự xuất hiện của chủ nghĩa đế quốc chính là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các cuộc tranh giành thuộc địa càng trở nên khốc liệt ở cuối thế kỉ XIX. Chắc chắn một điều, những vùng đất còn “vô chủ” sẽ là nơi diễn ra cuộc đối đầu căng thẳng nhất. 2.1.2. Bối cảnh khu vực Đông Bắc Á Đông Bắc Á là một khu vực địa lý ở phía Đông Bắc của châu Á, thường được hiểu bao gồm các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên hiện nay. Đây là một khu vực địa chiến lược quan trọng, đặc biệt giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX bởi: dân số đông đúc, giàu có tài nguyên, vị trí thuận lợi, sở hữu những cảng biển mà nhiều đế quốc thèm muốn không phải chỉ để phát triển thương mại mà còn mang tính chiến lược về hải quân như là Lữ Thuận, Masampo, Pusan. Ngoại trừ Nhật Bản thì Trung Quốc và Triều Tiên đều đang ở giai đoạn khủng hoảng của chế độ phong kiến. Khu vực này được coi như vùng đất “vô chủ” cuối cùng trên thế giới. Vì vậy, tất yếu nơi đây sẽ bị các nước đế quốc tranh giành khốc liệt. 2.2. Tham vọng bành trướng của đế quốc Nga ở Đông Bắc Á 2.2.1. Bối cảnh lịch sử và chính sách đối ngoại của nước Nga sau cải cách nông nô năm 1861 Tháng 3 năm 1861, Nga hoàng Alexander II tiến hành công cuộc cải cách nông nô. Mặc dù còn nhiều hạn chế, chế độ chuyên chế Nga hoàng vẫn tồn tại nhưng nước Nga đã bước sang con đường phát triển tư bản chủ nghĩa và chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa vào cuối thế kỉ XIX. Chính sách đối ngoại của Nga giai đoạn này hướng đến hai mục tiêu cơ bản: một là lấy lại vị thế đã mất sau chiến tranh Crimea (1854 – 1856), hai là tiếp tục phát triển lực lượng, mở rộng lãnh thổ và vùng ảnh hưởng. Sự phục hồi và phát triển của hải quân Nga sau những cải cách của Nga hoàng Alexander II chính là cơ sở để Nga có thể thực hiện những chính sách bành trướng lãnh thổ của mình. Cũng như nhiều nước đế quốc, Nga ráo riết thực hiện chính sách bành trướng xâm lược thuộc địa. 2.2.2. Tầm quan trọng của Triều Tiên và Mãn Châu đối với Nga Bán đảo Triều Tiên: Đây chính là cửa ngõ để xâm nhập vào phía Đông của Nga nhưng ngược lại cũng là một bàn đạp để Nga có thể mở rộng ảnh hưởng nếu như xâm chiếm được nó. Triều Tiên còn có nguồn tài nguyên giàu có về khoáng sản, gỗ. Các cảng biển của Triều Tiên như Pusan, Masampo cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Đối với Nga, các
- 11 cảng này nếu chiếm được sẽ là cầu nối quan trọng giữa Vladivostok với Lữ Thuận (cảng biển ở bán đảo Liêu Đông mà Nga đang khao khát chiếm được). Mãn Châu bao gồm Ngoại Mãn Châu (thuộc Nga) và Nội Mãn Châu (các tỉnh phía Bắc Trung Quốc: Liêu Ninh, Cát lâm, Hắc Long Giang). Mãn Châu rất giàu có về tài nguyên phục vụ cho công nghiệp, quân sự như than, quặng sắt và cũng sở hữu những cảng biển chiến lược Lữ Thuận, Đại Liên. Như vậy, Triều Tiên và Mãn Châu chính là cửa ngõ và là con đường để Nga có thể thực hiện những tham vọng lớn lao hơn của mình trong cuộc chiến quyền lợi khốc liệt với các nước đế quốc những thập niên cuối thế kỉ XIX. 2.2.3. Tham vọng và động thái đầu tiên của Nga tại Đông Bắc Á cuối thế kỉ XIX * Tham vọng của đế quốc Nga ở Đông Bắc Á Từ lâu, đế quốc Nga đã có tham vọng bành trướng về phía Đông. Sự kiện đầu tiên được ghi nhận đó là việc xâm chiếm Siberia thế kỉ XVI của Ivan IV (1530 – 1584), vị Sa hoàng đầu tiên của đế quốc Nga. Trong các thế kỉ sau đó, Nga tiếp tục chính sách bành trướng của mình. Năm 1860, Nga đã xây dựng một cảng biển ở Thái Bình Dương với tên gọi Vladivostok, “người thống trị phương Đông” nhưng cảng này chỉ hoạt động được vài tháng trong năm. Vì vậy, chính quyền Nga hoàng luôn tham vọng làm chủ được Đông Bắc Á hay ít nhất là một cảng biển nước ấm thuận lợi cho sự phát triển của hải quân và thương mại. * Những động thái đầu tiên của đế quốc Nga ở Đông Bắc Á cuối thế kỉ XIX Xây dựng tuyến đường sắt xuyên Siberia đến Vladivostok Chính quyền Nga đã tuyên bố với cả thế giới về việc xây dựng đường xe lửa xuyên Siberia và lễ khởi công được tiến hành vào ngày 17.3.1891 tại Ussuri. Cho đến trước khi chiến tranh Trung – Nhật kết thúc năm 1895, tuyến đường này đã được xây dựng gần đến hồ Baikan, bên ngoài Nội Mãn Châu. Nga bước đầu xâm nhập vào “vương quốc ẩn dật” Triều Tiên Triều Tiên có vị trí rất quan trọng đối với Nga nhưng chính quyền Sa hoàng cũng mới chỉ quan tâm đến bán đảo này vào đầu thập niên 80 của thế kỉ XIX. Năm 1884, một cuộc đảo chính diễn ra ở Triều Tiên đã giúp Nga có ảnh hưởng lớn ở đây. Chính quyền Sa hoàng từng bước coi số phận của Triều Tiên như một phần của đế quốc Nga bởi những điều kiện về chính trị và vị trí địa lý chiến lược của bán đảo này. 2.3. Chính sách bành trướng xâm lược thuộc địa của Nhật Bản 2.3.1. Bối cảnh lịch sử và chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kì Minh Trị Duy tân Năm 1868, Thiên hoàng Minh Trị giành lại thực quyền và tiến hành Duy tân đất nước, học tập theo phương Tây. Cuộc cải cách diễn ra toàn diện trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, quân sự, văn hóa giáo dục và đặc biệt là kinh tế, xã hội.
- 12 Công cuộc cải cách của Thiên hoàng Minh Trị đã đạt được những thành công to lớn, giúp cho Nhật Bản không những thoát khỏi nguy cơ bị xâm lược mà còn tiếp tục đưa quốc gia này chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Cũng như các nước tư bản Âu – Mĩ, nhu cầu về vốn, nhân công và thị trường đã thúc đẩy Nhật Bản tìm kiếm các vùng đất trống, thực hiện chính sách xâm lược, mở rộng lãnh thổ. Đây là chính sách ngoại giao quan trọng hàng đầu của chính quyền Minh Trị những năm cuối thế kỉ XIX. 2.3.2. Vị trí chiến lược của Triều Tiên và Mãn Châu đối với Nhật Bản Lãnh thổ Trung Hoa rộng lớn và Triều Tiên cuối thế kỉ XIX, gần như là vùng đất “vô chủ” duy nhất còn lại ở châu Á mà Nhật Bản có thể thực hiện được chính sách của mình ở đó. Trong khi Mãn Châu giàu có tài nguyên thì bán đảo Triều Tiên là một trong ba con đường để Nhật tiến vào lục địa và cũng là con đường từ lục địa tiến sang Nhật. Do vậy, Nhật sớm quan tâm đến Triều Tiên để đảm bảo an ninh quốc gia của mình. Một cố vấn quân đội người Phổ cho chính quyền Thiên hoàng đã từng nói: “Triều Tiên như con dao nhọn chĩa thẳng vào trái tim nước Nhật”. Tuy nhiên, nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho chính quyền Minh Trị coi trọng vấn đề Triều Tiên hơn cả đó là bởi tham vọng của đế quốc Nga ở Đông Bắc Á ngày càng rõ rệt. 2.3.3. Quá trình xâm lược Triều Tiên của Nhật Bản trước năm 1895 Nhật Bản bắt đầu quá trình xâm nhập vào Triều Tiên với việc dựng nên sự kiện Vân Dương năm 1875. Ngay sau đó, Nhật Bản đã nỗ lực thiết lập mối quan hệ với Triều Tiên nhằm từng bước xâm nhập về chính trị, quân sự và kinh tế. Năm 1882, lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Triều Tiên, Nhật và Trung Quốc cùng đưa quân vào. Tháng 7 năm 1894, thuyền chiến của Nhật tấn công Trung Quốc tại vịnh Asan và giành thắng lợi vang dội vào đầu năm 1895, gạt bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Trung Quốc tại Triều Tiên. Nhật Bản đã từng bước xâm nhập vào Triều Tiên cả bằng kinh tế và quân đội, tiến dần đến việc sở hữu bán đảo này. 2.4. Chính sách của các cường quốc phương Tây trước tham vọng của Nga và Nhật Bản ở Đông Bắc Á 2.4.1. Chính sách của Đức Cuối thế kỉ XIX, Đức đã thực hiện chính sách ngoại giao khôn khéo, nỗ lực khuyến khích, lôi kéo Nga tiến về phía Đông. Mục đích của chính sách này là nhằm kéo Nga ra khỏi các vấn đề châu Âu để Đức có thể tự do phát triển, giành lấy vị trí bá chủ lục địa. Thêm vào đó Đức cũng tính toán nếu Nga bành trướng ở Đông Bắc Á sẽ đụng độ với Nhật Bản, khi đó chiến tranh sẽ xảy ra và Đức là nước sẽ hưởng lợi.
- 13 Đức cũng đã tính toán rằng, sự can thiệp vào châu Á – Thái Bình Dương của Nga chắc chắn không tránh khỏi mâu thuẫn với Anh. Nước Pháp đồng minh của Nga cũng không nằm ngoại lệ đó. Vì vậy, Đức cần chuyển mâu thuẫn này sang Nga. 2.4.2. Chính sách của các cường quốc Anh, Pháp, Mĩ Đối với Anh, sự xâm lược của Nga vào Đông Bắc Á rõ ràng sẽ đe dọa nghiêm trọng vị trí cũng như quyền lợi của Anh. Nhưng Anh tính toán rằng dù có tham vọng ở Đông Bắc Á thì Nga cũng khó lòng đơn phương chiếm lấy toàn khu vực thậm chí còn gặp nhiều khó khăn và các vấn đề châu Âu của Nga cũng vì thế mà suy giảm. Do vậy, Anh dường như không ngăn cản sự bành trướng của Nga cho đến khi quyền lợi của Anh bị đe dọa. Pháp là đế quốc có nhiều ảnh hưởng ở Trung Quốc chỉ sau Anh. Pháp ủng hộ cho Nga bởi nước này không chỉ là đồng minh mà còn là đối tượng thu hút các vấn đề ở Viễn Đông, giúp Pháp an toàn bảo vệ quyền lợi của mình tại đây. Mĩ đã muốn lợi dụng quá trình xâm chiếm của Nga để buộc Trung Quốc phải mở cửa, và các nước khác phải thừa nhận quyền bình đẳng của nước này. Trong bối cảnh đó, Mĩ nhận ra chỉ có nước Nga mới đủ khả năng và sức mạnh để làm thay đổi bối cảnh khu vực. Do đó, Mĩ vẫn trung lập đứng ngoài sau rất nhiều những biến động diễn ra. 2.5. Thắng lợi của Nhật Bản trong cuộc chiến tranh Trung – Nhật (1894 – 1895) và sự can thiệp của Nga, Pháp, Đức vào Hiệp ước Shimonoseki 2.5.1. Thắng lợi của Nhật Bản trong cuộc chiến tranh Trung – Nhật đe dọa quyền lợi của Nga ở Đông Bắc Á Mâu thuẫn Trung – Nhật về quyền lợi ở Triều Tiên tất yếu dẫn đến chiến tranh. Cuộc chiến diễn ra từ 1 tháng 8 năm 1894 đến 17 tháng 4 năm 1895 còn được gọi là chiến tranh Giáp Ngọ. Quân đội Nhật Bản đã giành chiến thắng trước quân đội Mãn Thanh ở khắp các chiến trường, buộc Trung Quốc phải kí Hiệp ước Shimonoseki (hiệp ước Mã Quan). Triều đình Nga thực sự lo ngại trước thắng lợi nhanh chóng của quân đội Thiên hoàng. Chính vì vậy, chính phủ Nga đã quyết định đứng về phía Trung Quốc, thực hiện những bước đi cần thiết để yêu cầu Nhật Bản triệt thoái khỏi nam Mãn Châu và cảng Lữ Thuận, nói cách khác, người Nhật phải từ bỏ trái ngọt chiến thắng của họ. Hòa ước Shimonoseki chính là duyên cớ trực tiếp thúc đẩy hành động can thiệp của người Nga vào thắng lợi của người Nhật tại Đông Bắc Á. Nói cách khác, đây chính là nhân tố trực tiếp đưa đến quan hệ Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu sau đó. 2.5.2. Tam cường Nga, Đức, Pháp can thiệp vào Hiệp ước Shimonoseki Ngày 23 tháng 4 năm 1895, chưa đầy một tuần sau khi hòa ước Shimonoseki được kí kết, đại diện ba nước phương Tây là Đức, Nga và Pháp tại Tokyo cùng nhau gửi một thông điệp rất “lịch sự” nhưng đầy tính mệnh lệnh trong đó yêu cầu chính phủ Nhật phải từ bỏ bán đảo Liêu Đông bao gồm cả cảng Lữ Thuận. Đồng thời với việc gửi
- 14 thông điệp đó, ba đế quốc cũng cho hải quân của mình tập trung ở khu vực phía Đông của Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản, bởi tình trạng kiệt quệ, vào đầu tháng 5, đã quyết định từ bỏ toàn bộ bán đảo Liêu Đông để đổi lại bằng một khoản bồi thường bổ sung trị giá 30 triệu lượng lạng bạc từ Trung Quốc. Sự kiện ba nước Nga – Pháp – Đức can thiệp vào thành quả của Nhật Bản sau chiến tranh Trung – Nhật chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến mâu thuẫn Nga – Nhật về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Chương 3 QUAN HỆ NGA – NHẬT BẢN VỀ VẤN ĐỀ TRIỀU TIÊN VÀ MÃN CHÂU TỪ NĂM 1895 ĐẾN THÁNG 7 NĂM 1903 3.1. Hành động của Nga, Nhật Bản ở Đông Bắc Á từ sau sự kiện Tam cường can thiệp và thỏa hiệp đầu tiên 3.1.1. Nga xâm nhập Mãn Châu và can thiệp vào chính phủ Triều Tiên Sau khi lôi kéo các nước can thiệp vào Hiệp ước Shimonoseki, chính quyền Nga đã cho Trung Quốc thấy cái giá của việc bảo toàn lãnh thổ. Tháng 5. 1896, Nga đạt được thỏa thuận: Đổi lấy việc cho Trung Quốc vay 400 triệu franc với lãi suất 4% để bồi thường chiến phí cho Nhật Bản, Trung Quốc đồng ý cho Nga xây dựng tuyến đường sắt đến Vladivostok qua Mãn Châu. Cùng lúc, Nga cũng bắt đầu những hành động trên lãnh thổ Triều Tiên. Điều này được thúc đẩy bởi một biến cố, đó là vụ ám sát hoàng hậu Min (người Nhật thực hiện) vào tháng 10.1895. Sự kiện trên đã đưa đến ảnh hưởng của Nga tại Triều Tiên lớn hơn bao giờ hết. Một loạt những nhượng bộ quyền lợi cho Nga đã được triều đình vua Cao Tông phê duyệt. Tóm lại, sau khi buộc Nhật Bản phải từ bỏ quyền lợi của mình, đế quốc Nga đã lập tức hành động nhằm mục đích chiếm lấy chính những chiến lợi phẩm đó. Điều này tất yếu gây nên sự phẫn nộ của người Nhật đối với Nga. 3.1.2. Nhật Bản nỗ lực duy trì nguyên trạng và thỏa hiệp với Nga về quyền lợi ở Triều Tiên Tháng 10 năm 1895, sau khi hoàng hậu Min bị ám sát, Nhật Bản mất đi tất cả những quyền lợi của mình thay thế vào đó là ảnh hưởng của Nga. Nhật nhận thấy tại thời điểm đó đó Nga lại đang bận rộn kinh doanh tại Mãn Châu và việc xây dựng tuyến đường sắt xuyên Siberia vĩ đại. Vì vậy, chính quyền Nhật đã đề nghị hai bên thỏa thuận về vấn đề Triều Tiên và được Nga chấp nhận bắt tay hòa hoãn. Thỏa thuận đầu tiên được biết đến đó là Nghị định thư Seoul, còn gọi là Hiệp định K. Weber – Komura, kí ngày 14.5.1896, tại Seoul bởi đại diện của hai nước: Công sứ Karl Ivanovich Weber của Nga và Komura Jutaro, công sứ Nhật ở Triều Tiên.
- 15 Tiếp đó là Nghị định thư Yamagata – Lobanov, ngày 9.6.1896, cùng có nội dung cơ bản là chia sẻ quyền lợi hai nước Nga – Nhật ở Triều Tiên. 3.2. Mâu thuẫn Nga – Nhật gia tăng và những thỏa hiệp tiếp theo từ năm 1898 đến giữa năm 1900 3.2.1. Nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng mâu thuẫn Nga – Nhật Cuối năm 1897, Đức lấy cớ triều đình Mãn Thanh sát hại hai nhà truyền giáo đã đưa quân chiếm đóng vịnh Giao Châu. Nga lợi dụng sự kiện này, đầu năm 1898, buộc triều đình Mãn Thanh nhượng cho quyền thuê cảng Lữ Thuận và Đại Liên thuộc bán đảo Liêu Đông. Đây chính là nơi mà ba năm về trước Nga lấy lí do bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Trung Quốc, đã buộc Nhật Bản phải từ bỏ. Sự kiện này đã đẩy mâu thuẫn Nga – Nhật bùng phát trở lại sau rất nhiều nỗ lực thỏa thuận chia sẻ quyền lợi ở Triều Tiên. Việc chiếm đóng cảng Lữ Thuận đã chính thức đẩy Nga vào xung đột với Nhật Bản và cuộc chiến tranh chắc chắn không thể tránh khỏi bởi sự xuất hiện của Nga ở đây đe dọa nghiêm trọng đến an ninh nước Nhật. 3.2.2. Nga Nhật Bản tiếp tục thỏa thuận Mặc dù mâu thuẫn gia tăng nhưng cả Nga và Nhật vẫn tiếp tục thỏa thuận với nhau về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu vì: Xét bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ ,Nhật không thể có lựa chọn khác bởi: Nhật chưa có đồng minh và cần thời gian để xây dựng lực lượng. Nội các mới của Nhật được thành lập, đứng đầu là thủ tướng Ito Hirabumi. Ông là người có quan điểm ủng hộ thỏa thuận với Nga, tránh xung đột. Một phương án mới được chính phủ Ito đưa ra nhằm thỏa thuận với Nga đó là: đổi lấy việc Nga toàn quyền ở Mãn Châu, Nhật được toàn quyền ở Triều Tiên. Nga cũng cần thỏa thuận bởi ngay lúc này việc tiếp tục xâm chiếm Triều Tiên không phải là lựa chọn khôn ngoan. Nga cần tập trung cho những vấn đề quan trọng, thiết thực hơn đó là mở rộng tuyến đường sắt đến nam bán đảo Liêu Đông và xây dựng những cảng biển mới chiếm được thành những căn cứ hải quân như mong muốn. Việc thỏa thuận với Nhật Bản là giải pháp đúng đắn được cả Bộ trưởng Ngoại giao, Muraviev và công sứ Nga tại Nhật, Romanovich Rosen, đồng ý. 3.2.3. Thỏa hiệp mới của Nhật Bản – Nga về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu Hiệp định tiếp theo được kí kết giữa Nga và Nhật được biết đến chính là Công ước Rosen – Nissi, ngày 25.4.1898, với nội dung như sau: Hai bên công nhận dứt khoát chủ quyền và độc lập toàn vẹn của Triều Tiên, cam kết lẫn nhau tránh mọi can thiệp trực tiếp vào các vấn đề nội bộ của nước này; việc bổ nhiệm cố vấn quân sự và tài chính phải trên thỏa thuận chung; chính phủ Nga cam kết không gây cản trở tới phát triển quan hệ thương mại và công nghiệp giữa Nhật Bản và Triều Tiên. Về cơ bản hiệp định là công bằng cho cả hai phía Nga và Nhật Bản.
- 16 3.3. Nga – Nhật Bản mâu thuẫn gay gắt từ giữa năm 1900 đến tháng 7 năm 1903 3.3.1. Bối cảnh lịch sử Cuối năm 1899, khởi nghĩa Nghĩa Hòa đoàn bùng nổ tại Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa diễn ra đã làm thay đổi những bước đi quan trọng của cả Nga và Nhật Bản tại khu vực Đông Bắc Á khi hai nước này là lực lượng chủ đạo giải cứu các tòa công sứ của các nước bị bao vây bởi quân Nghĩa Hòa đoàn. 3.3.2. Nga chiếm giữ Mãn Châu và đẩy mạnh xâm nhập Triều Tiên Phong trào Nghĩa Hòa đoàn đã làm cho các nước đế quốc phải “vất vả” để dẹp tan. Nhưng đối với chính quyền Nga đây lại là một cơ hội cho việc xâm chiếm Mãn Châu. Thực tế sau đó cho thấy, Nga lấy cớ bảo vệ đường sắt, đã xâm nhập Mãn Châu mặc cho sự phản đối của chính quyền Mãn Thanh và các nước đế quốc khác. Cuối tháng 12.1900, Nga tiếp tục đạt một thoả thuận quan trọng. Theo đó, triều Thanh sẽ được khôi phục chính quyền tự trị với điều kiện người Tartar phải tuân thủ các điều khoản gần giống như một hiệp ước bảo hộ. Với sự ki ện này, Nga đã thực sự nắm giữ vai trò kiểm soát Mãn Châu. Nga cũng tiếp tục can thiệp vào Triều Tiên, đưa vấn đề này trở thành trung tâm bão của Viễn Đông. Chính sách này được thực hiện cùng sự xuất Alexander Bezobrazov, một sĩ quan về hưu nhưng được Nga hoàng và nhiều chính khách trong chính phủ ủng hộ. Ông ta đã đưa ra chính sách táo bạo nhằm thôn tính Triều Tiên. 3.3.3. Mâu thuẫn Nga – Nhật trở nên gay gắt và hành động của Nhật Bản Việc Nga chiếm đóng Mãn Châu và xâm nhập Triều Tiên khiến mâu thuẫn Nga – Nhật trở nên gay gắt. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn chưa sẵn sàng cho việc đương đầu với quốc gia này bằng một cuộc chiến tranh. Vì vậy, giải pháp hòa bình vẫn là lựa chọn của Nhật đối với vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu trong quan hệ với Nga. Đồng thời, Nhật Bản cũng tìm kiếm đồng minh. Tháng 1.1902: Hiệp ước Liên minh Anh – Nhật chính thức được công bố trong sự ngạc nhiên của nhiều quốc gia. Sự kiện này có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ đối với Nhật Bản mà còn làm thay đổi từng bước cục diện và quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Bắc Á. Hiệp ước Liên minh Anh – Nhật cũng đã tác động sâu sắc đến Nga n hưng Nga vẫn không từ bỏ tham vọng ở Đông Bắc Á. Nga tiếp tục cho quân chiếm đóng Mãn Châu, vi phạm thỏa thuận rút quân với triều đình Mãn Thanh và tập đoàn Bezobrazov vẫn tiếp tục các hoạt động ở Triều Tiên. Chương 4 QUAN HỆ NGA – NHẬT BẢN VỀ VẤN ĐỀ TRIỀU TIÊN VÀ MÃN CHÂU
- 17 TỪ THÁNG 7 NĂM 1903 ĐẾN NĂM 1905 4.1. Sự leo thang của mâu thuẫn Nga – Nhật Bản từ tháng 7 năm 1903 đến tháng 2 năm 1904 4.1.1. Nga tăng cường các hoạt động chiếm giữ Mãn Châu và xâm chiếm Triều Tiên Theo thỏa thuận với Trung Quốc, Nga phải tiến hành việc rút quân khỏi Mãn Châu vào ngày 8.4.1903 nhưng đến hè năm đó, Nga đã không thực hiện những cam kết về việc rút quân của mình. Tập đoàn của Bezobrazov ở Triều Tiên ngày càng táo bạo và liều lĩnh. Từ tháng 7.1903 đến khi chiến sự nổ ra, quan hệ hai nước Nga và Nhật trở nên vô cùng căng thẳng. 4.1.2. Nhật Bản kiên trì các biện pháp hòa bình, đàm phán trực tiếp với Nga Ngày 28.7.1903, Bộ trưởng Ngoại giao Nhật là Nam tước Komura Jutaro, đã gửi cho Công sứ Nhật ở Nga là Kurino Shinichiro bức điện tín đầu tiên, bắt đầu cho quá trình đàm phán trực tiếp giữa hai nước. Nội dung các cuộc trao đổi giữa Nga và Nhật được lưu lại dưới hình thức những bức điện tín giữa Nam tước Komura và Mr. Kurino. Tổng số có 51 công điện trong quá trình đàm phán Nga Nhật vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu từ ngày 28.7.1903 đến ngày 6.2.1904 (trước khi Nhật tấn công Nga tại cảng Lữ Thuận hai ngày). Những công điện này ngay sau đó được tập hợp trong cuốn Correspondence regarding the negotiations between Japan and Russia (Thư từ liên quan tới các cuộc đàm phán giữa Nhật bản và Nga) bởi chính Nam tước Komura, xuất bản ngay sau khi chiến tranh bùng nổ năm 1904. 4.1.3. Đàm phán Nga – Nhật Bản thất bại Trong suốt những tháng đàm phán hai bên, phải nhìn nhận một điều giống như kì tích đó là thái độ kiên trì, nhẫn nại tột cùng của Nhật Bản. Song đáp trả cho điều đó, Nga vẫn tiếp tục đóng quân tại Mãn Châu và không ngừng xâm nhập, gây ảnh hưởng ở Triều Tiên. Đàm phán Nga – nhật hoàn toàn thất bại. Không thể trì hoãn hơn nữa, nước Nhật đã chuẩn bị đầy đủ nhất cho một cuộc chiến và họ đã khai hỏa trong khi Nga vẫn đang còn ảo tưởng về quyền lực của mình tại Đông Bắc Á. 4.2. Chiến tranh Nga – Nhật (1904 – 1905): Đỉnh điểm của mẫu thuẫn Nga – Nhật Bản về vấn đề Triều Tiên và Mãn Châu 4.2.1. Sự chuẩn bị của Nga và Nhật Bản trước nguy cơ bùng nổ chiến tranh Đàm phán giữa Nga và Nhật kết thúc với việc hai bên đều ra tuyên bố rút công sứ và nhân viên của mình về nước. Chiến tranh đến gần. Tuy nhiên, sự chuẩn bị của mỗi nước cho cuộc chiến lại hoàn toàn không giống nhau.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 303 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 287 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 178 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 173 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 195 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 182 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 134 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 117 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 169 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn