Tóm tắt luận án Tiến sĩ Luật học: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
lượt xem 1
download
Luận án trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự, luận án đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Luật học: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CAO THỊ NGỌC HÀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 9.38.01.04 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2019
- Công trình được hoàn thành tại HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện Địa điểm: Phòng bảo vệ luận án tiến sĩ – Phòng họp ….. Nhà ….., Học viện khoa học xã hội Thời gian: vào hồi ……… giờ, ngày …… tháng ……. năm ………..… Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia - Thư viện Học viện khoa học xã hội
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự trở nên cấp thiết trong bối cảnh BLTTHS 2015 ra đời và sắp có hiệu lực trên thực tế. Xét từ góc độ thực tiễn, việc thực hiện các chức năng bào chữa, chức năng buộc tội và chức năng xét xử chưa được phân biệt rõ ràng, còn xảy ra tình trạng chồng chéo nhau, các chủ thể thực hiện chức năng nêu trên chưa làm hết chức năng của mình. Bên cạnh đó, mặc dù trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người bào chữa ngày càng được nâng cao, sự tham gia của người bào chữa ngày một nhiều hơn, nhưng chất lượng giải quyết vụ án vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này bao gồm cả nguyên nhân chủ quan từ phía người bào chữa, và nguyên nhân khách quan từ các cơ quan tiến hành tố tụng và các quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp, người bào chữa chưa thực sự được cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Hơn nữa, nhận thức của cơ quan bảo vệ pháp luật về vai trò của người bào chữa chưa thực sự đúng đắn. Vị trí của người bào chữa phải được xem là một bên tham gia tố tụng, ngang hàng và bình đẳng với Viện kiểm sát. Cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng, các hoạt động của người bào chữa góp phần tìm ra chân lý khách quan của vụ án. Nhận thức này phải được quán triệt trong đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp, đặc biệt là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và mọi công dân. Các nội dung về bào chữa đã được nhiều tác giả quan tâm ở những khía cạnh khác nhau, thể hiện qua các luận án, luận văn thạc sỹ, bài viết trong tạp chí chuyên ngành, bài viết chuyên đề trong đề tài nghiên cứu khoa học… Đó là các nội dung liên quan đến quyền bào chữa, việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa, người bào chữa, vai trò của người bào chữa, chức năng của tố tụng hình sự, chức năng xét xử của tố tụng hình sự, chức năng buộc tội của tố tụng hình sự… Tuy nhiên, ở cấp độ tiến sỹ, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách sâu rộng, toàn diện về chức năng bào 1
- chữa. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài « Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam » là cấp thiết và tác giả đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu dưới góc độ là một luận án tiến sỹ luật học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS, luận án đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận như khái niệm, đặc điểm, mục đích ý nghĩa, nội dung, cơ sở của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự... ; các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam. Ngoài ra đối tượng của đề tài là thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, đánh giá thực tiễn để phân tích và làm rõ những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành thông qua những số liệu, ví dụ điển hình trong thực tiễn xét xử để đưa ra một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật và tổ chức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chức năng bào chữa trong lĩnh vực tố tụng hình sự, thực trạng và giải pháp bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam. Về thời gian: Quy định của pháp luật về chức năng bào chữa được nghiên cứu trong từng giai đoạn lịch sự cụ thể như giai đoạn trước khi BLTTHS 1988 ra đời, giai đoạn BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 và giai đoạn BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành. Về không gian : Luận án nghiên cứu các vấn đề thực tiễn thông qua việc nghiên cứu, tổng kết các vụ án có sự tham gia của NBC trong phạm vi toàn quốc và phân tích thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS 2
- trên cơ sở báo cáo của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, phiếu khảo sát một số luật sư ở Hà Nội và địa phương. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận và cách tiếp cận Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Luật tố tụng hình sự kết hợp tiếp cận đa ngành, liên ngành. Cách tiếp cận: Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận của chuyên ngành Luật tố tụng hình sự, Luật hình sự, Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Khoa học điều tra hình sự, Tội phạm học và phương pháp tiếp cận lịch sử, tiếp cận đa ngành, liên ngành; tiếp cận dưới khía cạnh luật so sánh… 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của khoa học xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài.Trên cơ sở phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, cụ thể là: phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp lịch sử, so sánh, logic, tổng hợp… 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình nghiên cứu toàn diện dưới góc độ lý luận và thực tiễn về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Kết quả của luận án đã đóng góp mới về mặt khoa học như sau : - Thứ nhất: Luận án làm rõ và bổ sung một số vấn đề lý luận quan trọng của chức năng bào chữa trong TTHS, đồng thời, phân tích để luận giải sâu sắc hơn các quy định thể hiện chức năng bào chữa trong TTHS qua từng thời kỳ lịch sử nhất định để thấy được lịch sử lập pháp của chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam. 3
- - Thứ hai: Luận án nghiên cứu thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam trong 10 năm trở lại đây, trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu định tính và định lượng nhằm tạo ra độ tin cậy cho các kết luận. - Thứ ba: Luận án đã đưa ra các giải pháp đề xuất mang tính khả thi nhằm bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa có hiệu quả trên thực tế. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án bổ sung và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Luận án có ý nghĩa thực tiễn rất lớn và là nguồn tư liệu có ý nghĩa để các cá nhân, cơ quan, tổ chức tham khảo, nghiên cứu trong quá trình góp ý, hoàn thiện quy định của pháp luật. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được chia thành bốn chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Những vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam Chương 3: Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện Chương 4: Quan điểm và các giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1 Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước Tại nhiều quốc gia trên thế giới, các vấn đề về bào chữa được nghiên cứu từ nhiều khía cạnh, chẳng hạn về quyền bào chữa, người bào chữa, việc tham gia tố tụng của người bào chữa… Đó là nền tảng khoa học cho việc xây dựng, thực hiện các quy định pháp luật về chức năng bào chữa. Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của mô hình tố tụng hình sự là rất cần thiết đối với nghiên cứu sinh, bởi vì mô hình tố tụng hình sự là 4
- phương thức để thực hiện các chức năng của tố tụng hình sự. Các công trình này bao gồm: “Major legal systems in world today” (tạm dịch: Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại) của Rene David, John E.C.Brierly, The Free Press năm 1978; Cuốn sách “Những mô hình tố tụng hình sự trên thế giới” của tác giả Jean-Phillipe Rivaud năm 2000 … Cuốn sách “Tư pháp hình sự so sánh” của tác giả Phillip.L.Reichel (bản dịch tiếng việt của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý năm 1999; Bài viết “Rethinking the functions of criminal Proceduce” (tạm dịch: bàn về các chức năng của tố tụng hình sự) năm 2010 của tác giả Peter A Renella… Các bài viết về chức năng bào chữa có thể kể đến như: bài viết “Defense function” ( tạm dịch: chức năng bào chữa) của Đoàn luật sư Hoa Kỳ đã nêu lên các tiêu chuẩn chung của người bào chữa và các chức năng của luật sư bào chữa. Bài viết “Functions of the police, prosecutor, court workers, defense counsel, Judge in aiding Juvenile Justice” (tạm dịch: Chức năng của cảnh sát, công tố viên, công chức của tòa án, luật sư bào chữa, thẩm phán) năm 2009 của tác giả Donald J.Newman, Ph.D (Lecturer in law University Wiseunsin, Modison) đã khẳng định: Các chức năng bào chữa có vai trò quan trọng gấp đôi trong giai đoạn điều tra của quá trình TTHS so với các giai đoạn tố tụng khác, bởi chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra với mục đích để hỗ trợ nghi can trong việc thu thập chứng cứ và để bảo vệ anh ta từ hành vi vi phạm các quyền của mình trong tay những người bảo vệ pháp luật (người tiến hành tố tụng)… Một số công trình nghiên cứu có đề cập tới các nội dung của quyền con người nói chung và quyền bào chữa nói riêng như: Bài viết “the guarantees for accused peorsons under Article 6 of the European convention on Human Righs” (tạm dịch: Đảm bảo quyền cho người bị buộc tội theo điều 6 công ước châu âu về nhân quyền) của tác giả Stephanos stavros (nhà xuất bản Sweet and maxwell, Anh quốc, năm 1993), trong đó tập trung phân tích quyền tự bào chữa và quyền được nhờ người khác bào chữa của người bị buộc tội. Cuốn sách “Criminal process and human rights” (tạm dịch: Tố tụng hình sự và vấn đề quyền con người) của tập thể 5
- tác giả là các giáo sư, phó giáo sư của trường Đại học Luật tại Melbourne, Australia, năm 2001 về các quyền con người nói chung và quyền bào chữa của người bị buộc tội nói riêng, trong đó nhấn mạnh quyền được tiếp cận người bào chữa, quyền được liên lạc với người bào chữa, quyền được có người bào chữa miễn phí đối với nhóm người dễ bị tổn thương như người chưa thành niên hoặc người khuyết tật…. 1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 1.2.1. Nhóm các công trình liên quan đến lý luận của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Trong khoa học pháp lý, các vấn đề có liên quan đến cơ sở lý luận của luận án đã có khá nhiều công trình, bài viết ở các cấp độ khác nhau được công bố. * Trước tiên phải kể đến nhóm các công trình khoa học nghiên cứu lý luận về chức năng của TTHS, trong đó có chức năng bào chữa. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu như “Mô hình TTHS Việt Nam” do VKSNDTC chủ trì soạn thảo trong Đề án về Mô hình TTHS Việt Nam (năm 2010) ; Bài viết “Các chức năng của tố tụng hình sự và vấn đề hoàn thiện mô hình TTHS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả PGS.TS Nguyễn Thái Phúc ; Bài tham luận của tác giả TS. Đinh Thị Mai tại hội thảo khoa học “Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay ” (năm 2015) ... * Những công trình nghiên cứu về quyền con người trong mối quan hệ với quyền bào chữa của người bị buộc tội : * Các công trình nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của các chức năng tố tụng hình sự: Bài viết “Bàn về chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử trong tố tụng hình sự” năm 2003 của tác giả Hoàng Thị Sơn; Báo cáo tham luận của tác giả PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn tại Hội thảo khoa học “ Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay ”(năm 2015) ... * Các công trình nghiên cứu về tranh tụng cũng là nguồn tài liệu hữu ích có liên quan đến cơ sở lý luận của luận án. Có thể kể đến luận án 6
- tiến sĩ “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Văn Hiển, năm 2010… 1.2.2. Nhóm các công trình liên quan trực tiếp đến nội dung luận án * Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền bào chữa: * Nhóm các công trình liên quan đến thực trạng, giải pháp hoàn thiện chức năng bào chữa 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu 1.3.1. Các vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Trong các công trình nghiên cứu khoa học kể trên đã nêu lên được khái niệm, vai trò, nội dung của chức năng bào chữa. Tuy nhiên: - Về cơ sở quy định chức năng bào chữa : chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về nội dung này, một số rất ít công trình nghiên cứu về nguồn gốc, cơ sở xuất hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. - Về khái niệm chức năng bào chữa: vẫn còn nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau. - Về vai trò của chức năng bào chữa : mới chỉ nêu lên một cách khái quát, chưa có sự luận giải, phân tích; chưa đi sâu nghiên cứu về vai trò của chức năng bào chữa. Các công trình nghiên cứu hầu như chưa có sự nhận thức mới về chức năng bào chữa- là một trong ba chức năng cơ bản của TTHS. - Về nội dung của chức năng bào chữa : mặc dù vẫn còn một vài quan điểm chưa thống nhất về nội dung của chức năng bào chữa, nhưng hầu hết đều đã khẳng nội dung của chức năng bào chữa chính là những hoạt động của chủ thể bào chữa. - Về đặc điểm của chức năng bào chữa : vẫn chưa có công trình nào khái quát được đặc điểm của chức năng bào chữa. - Về mối quan hệ giữa các chức năng TTHS : Đa số các công trình nghiên cứu đều nêu lên được mối quan hệ giữa các chức năng TTHS, đó là mối quan hệ giữa chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Các chức năng này có mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, việc phân tích mối quan hệ của chức năng bào chữa so với hai chức năng còn lại trong TTHS vẫn chưa được nghiên cứu sâu sắc, cụ thể, mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu khái quát, phân tích ngắn gọn...\ 7
- 1.3.2. Về thực trạng của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam - Về thực trạng các quy định của pháp luật về chức năng bào chữa : Một số công trình nghiên cứu đã nêu lên khái quát sự ra đời của chức năng bào chữa và chức năng bào chữa thể hiện trong các giai đoạn lịch sử nhất định. Đặc biệt, chức năng bào chữa thể hiện trong BLTTHS 2015 thì chưa có công trình nào viết và nghiên cứu về vấn đề này. Đối với các quy định về chức năng bào chữa ở nước ngoài, một số công trình nghiên cứu ở ngoài nước và trong nước đã nêu được khái quát quyền bào chữa, người bào chữa… ở một số quốc gia như Nhật Bản, Pháp, Đức,… Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu rộng về chức năng bào chữa ở một số quốc gia nhất định. - Về thực trạng thực hiện chức năng bào chữa: Các công trình nghiên cứu đều đã nêu lên được thực trạng thực hiện quyền bào chữa, thực trạng hoạt động bào chữa của người bào chữa trong các giai đoạn TTHS như trong giai đoạn điều tra, giai đoạn xét xử tại thời điểm áp dụng BLTTHS 2003. Đa số đều chỉ ra thực trạng thực hiện quyền bào chữa như: Thực trạng của việc cấp giấy chứng nhận bào chữa; Thực trạng trong việc thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết của người bào chữa; Thực trạng trong việc luật sư tiếp xúc với người bị buộc tội, bị can, bị cáo; Thực trạng của luật sư tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, đặc biệt trong phần tranh luận, đối đáp với đại diện VKS… Đa số các công trình đều viết về thực trạng thực hiện dưới góc độ quyền bào chữa là chủ yếu. Rất ít các công trình viết về thực trạng hoạt động bào chữa của người bào chữa, đặc biệt thực trạng của những người bào chữa khác như : bào chữa viên nhân dân, đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo rất hiếm. Đặc biệt, chưa có công trình nào viết về thực trạng thực hiện chức năng bào chữa của người bào chữa và người bị buộc tội theo BLTTHS 2015. 1.3.3. Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam Các công trình nghiên cứu đã nêu lên được một số biện pháp hoàn thiện các quy định về quyền bào chữa, nâng cao hiệu quả hoạt động bào 8
- chữa của người bào chữa. Ví dụ: Bổ sung một số quyền và cơ chế để bảo đảm cho người bào chữa thực hiện tốt các quyền luật định;Mở rộng một số quyền năng của người bào chữa như quyền thu thập chứng cứ…Quy định trách nhiệm của các cơ quan và người tiến hành tố tụng phải tôn trọng kết quả bào chữa, trách nhiệm trong việc bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa, biện pháp xử lý trong trường hợp vi phạm; Sửa đổi, bổ sung các quy định để tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa nhanh chóng tham gia tố tụng, tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án theo hướng đơn giản hóa các thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa và các thủ tục tham gia bào chữa…Tuy nhiên, việc đánh giá các quy định của BLTTHS 2015 về chức năng bào chữa, những nội dung chưa hợp lý về chức năng bào chữa được pháp điển hóa trong BLTTHS 2015 …thì chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này. Từ đó, việc đưa ra các biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa và hoàn thiện các quy định của pháp luật về chức năng bào chữa trong BLTTHS 2015 cũng chưa được nghiên cứu một cách toàn diện. 1.3.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu Thứ nhất : Luận án cần tiếp tục nghiên cứu một số vấn đề về lý luận như : khái niệm chức năng bào chữa tuy đã đươc một số nhà nghiên cứu trong nước sử dụng, đề cập nhưng lại chưa có sự thống nhất và chưa nghiên cứu luận giải để đưa ra khái niệm và phân tích nội hàm của khái niệm này; Đặc điểm của chức năng bào chữa trong TTHS cũng chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đề cập đến.Vai trò của chức năng bào chữa được nhắc đến thông qua vai trò của chức năng TTHS nói chung, do đó, vẫn chưa có sự khái quát và phân tích sâu hơn về nội dung này. Một số vấn đề lý luận đã có công trình nghiên cứu đề cập đến nhưng chưa có sự phân tích, luận giải chuyên sâu như: Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS ; Sự tồn tại của chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự được nhắc đến thông qua việc phân tích chức năng TTHS trong các mô hình TTHS nhưng còn mờ nhạt; mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng xét xử. 9
- Thứ hai: Các quy định thể hiện chức năng bào chữa trong từng giai đoạn lịch sử nhất định cần được phân tích và luận giải sâu sắc hơn, đặc biệt là việc đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015 về chức năng bào chữa. Việc nghiên cứu thực trạng thực hiện chức năng bào chữa theo BLTTHS năm 2015 cần tiến hành trên cơ sở thu thập số liệu báo cáo từ các cơ quan tiến hành tố tụng, liên đoàn luật sư Việt Nam và tiến hành khảo sát, phỏng vấn môt số luật sư ở Hà Nội và địa phương. Thứ ba: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp tổ chức thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS phù hợp với tình hình Việt Nam hiện nay và phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà nước về bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS định hướng phát triển đến năm 2030. Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2.1. Khái niệm, đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự 2.1.1. Khái niệm chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự * Nhận thức về chức năng Chức năng TTHS là một bộ phận hợp thành TTHS. Do đó, cần nhận thức các chức năng của TTHS nói chung và chức năng bào chữa trong TTHS nói riêng dựa trên nền tảng chức năng luận để luận giải sâu sắc hơn vấn đề nghiên cứu. * Khái niệm chức năng tố tụng hình sự *Khái niệm chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Cơ sở hình thành chức năng bào chữa trong TTHS: Sự xuất hiện và ra đời của chức năng bào chữa trong TTHS là một tất yếu khách quan. Có thể nói, bản chất dân chủ, nhân văn của chế độ xã hội là cơ sở để xuất hiện chức năng bào chữa trong TTHS. Bản chất của xã hội dân chủ cho thấy, nếu có chức năng buộc tội thì phải có chức năng gỡ tội – bào chữa để đảm bảo một sự vật, hiện tượng, một hành vi được đánh giá nhiều chiều khác nhau, để xác định sự thật khách quan, không làm oan người vô tội; đồng thời, 10
- đảm bảo tính công minh trong việc áp dụng pháp luật. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, không phải lúc nào việc áp dụng pháp luật của các cơ quan THTT cũng đúng và sự nhận thức về nội dung các điều luật không phải lúc nào cũng được hiểu một cách thống nhất. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người bị buộc tội. Do vậy, chức năng bào chữa xuất hiện với mục đích cao cả là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích của người bị buộc tội; với mong muốn là quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội không bị vi phạm hoặc được khoan hồng theo quy định cua pháp luật. Dưới góc độ là chức năng tố tụng, chức năng bào chữa có phạm vi rộng hơn và phức tạp hơn. Về mặt lý luận, chức năng pháp luật được phân loại thành chức năng điều chỉnh và chức năng bảo vệ. “Chức năng bảo vệ của hệ thống pháp luật được xác định bởi sự cần thiết trong việc bảo vệ quan hệ xã hội, bảo vệ các lợi ích của công dân, của nhóm xã hội, của các tầng lớp, giai cấp và toàn xã hội” [78, tr.108]. Đặc trưng cơ bản của các quan hệ xã hội bảo vệ là ở trong phạm vi của các quan hệ đó các biện pháp cưỡng chế nhà nước được áp dụng, trách nhiệm pháp lý được thực hiện. Theo PGS.TS Võ Khánh Vinh, trong lĩnh vực các quan hệ TTHS, chức năng bảo vệ của pháp luật thể hiện ở ba dạng của việc thực hiện trách nhiệm: ở dạng các biện pháp bảo đảm, các biện pháp bảo vệ, các biện pháp phục hồi. Từ sự phân tích trên có thể thấy, chức năng bào chữa trong TTHS thuộc chức năng bảo vệ. Chức năng bào chữa xuất hiện là một tất yếu khách quan với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của người bị buộc tội, bảo vệ chủ thể yếu thế trong xã hội trước những quyết định mang tính quyền lực nhà nước và bảo đảm cho quyền của người bị buộc tội được thực thi trên thực tế. Khía cạnh bảo vệ trong chức năng bào chữa được thể hiện ở chỗ chỉ ra các phương án cho các hoạt động bào chữa, bảo vệ và việc thực hiện các hoạt động này mang tính lợi ích chung, phòng ngừa các vi phạm pháp luật đến từ những người tiến hành tố tụng, đặc biệt là các chủ thể buộc tội. Để hiểu rõ hơn về chức năng bào chữa trong TTHS cần phải đặt nó trong mối quan hệ với mục đích, nhiệm vụ của TTHS, nguyên tắc TTHS. Về khái niệm chức năng bào chữa trong TTHS vẫn chưa có sự thống nhất và hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau. Có thể thấy rằng, tố 11
- tụng hình sự là tổng hợp hoạt động của nhiều nhóm chủ thể khác nhau như cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, người bào chữa. Các chủ thể này khi tham gia vào TTHS bị chi phối bởi nhiệm vụ và lợi ích khác nhau nên định hướng hoạt động của họ cũng khác nhau. Hoạt động TTHS của các chủ thể này có sự ràng buộc và liên kết với nhau bởi mục đích chung của TTHS và mang tính thống nhất với nhau. Chức năng bào chữa là một trong các chức năng cơ bản của TTHS, do đó, xuất phát từ cách tiếp cận chức năng TTHS như đã phân tích ở trên, tác giả cho rằng “chức năng bào chữa là những phương diện hoạt động mang tính định hướng lớn, cơ bản của tố tụng hình sự được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho bên bị buộc tội khả năng đưa ra chứng cứ và lý lẽ chống lại sự buộc tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, pháp nhân thương mại phạm tội, giúp vụ án được giải quyết khách quan, toàn diện và đầy đủ”. 2.1.2. Đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự - Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự: Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa cũng có những đặc thù nhất định, với mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buôc tội. Khác với chủ thể của quyền bào chữa, chủ thể thực hiện chức năng bào chữa là: Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Người bị buộc tội và Người bào chữa. - Phạm vi của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự: Chức năng bào chữa xuất hiện từ khi có người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội bị buộc tội. Thời điểm kết thúc chức năng bào chữa được xác định khi không còn sự buộc tội. Trong một số trường hợp đặc biệt, khi những căn cứ của việc buộc tội không còn, chủ thể có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án thì chức năng bào chữa sẽ kết thúc sớm hơn. Hoặc trong trường hợp phán quyết đã có hiệu lực pháp luật bị xem xét, giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì chức năng bào chữa lại xuất hiện cho đến khi có một phán quyết có hiệu lực pháp luật mới. - Nội dung của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự: Nội dung của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự là bên bào chữa sử dụng các quyền năng mà pháp luật cho phép bằng việc đưa ra 12
- chứng cứ và lập luận nhằm mục đích chống lại hoặc bãi bỏ sự buộc tội; giảm nhẹ TNHS cho bên bị buộc tội và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Để thực hiện đươc điều đó, bên bào chữa phải thực hiện hoạt động bào chữa, thông qua các quy định về quyền của người bào chữa nhằm mục đích bảo vệ cho người bị buộc tội. Nội dung của các chức năng cơ bản trong TTHS thể hiện ở các hoạt động của các chủ thể tương ứng được pháp luật quy định. Nội dung của chức năng bào chữa trong TTHS thể hiện ở những hoạt động của người bào chữa và người bị buộc tội mà pháp luật TTHS quy định cho họ, nhằm góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Đặc thù về mặt nội dung của chức năng bào chữa chính là đặc thù trong các hoạt động bào chữa của chủ thể bào chữa nhằm bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội. 2.2. Vai trò và mối quan hệ của chức năng bào chữa với các chức năng cơ bản khác của tố tụng hình sự 2.2.1. Vai trò của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Thứ nhất: Chức năng bào chữa có vai trò trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Thứ hai: Sự tồn tại của chức năng bào chữa, chức năng buộc tội và chức năng xét xử là yếu tố hợp thành và mang tính bản lề của TTHS, quyết định mô hình TTHS và bị chi phối bởi mục đích, nguyên tắc TTHS. 2.2.2. Mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng xét xử TTHS bao gồm ba chức năng cơ bản, đó là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Mỗi chức năng có vị trí, vai trò, bản chất khác nhau, chủ thể thực hiện khác nhau, hoạt động đặc trưng khác nhau và đặc biệt là giữa chúng có sự độc lập với nhau. Tuy vậy, giữa các chức năng này lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc nhau, thống nhất với nhau để đi đến mục đích cuối cùng là tìm ra được sự thật khách quan của vụ án. Tùy vào giai đoạn tố tụng cụ thể, có những giai đoạn mà nếu thiếu một trong ba chức năng cơ bản thì TTHS không thể vận hành tốt được. Cho dù dưới mô hình tố tụng nào (xét hỏi, thẩm vấn, tranh tụng ...) thì cả ba chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử vẫn luôn xuất hiện và tồn 13
- tại. Mỗi một chức năng tồn tại, vận động vì sự tồn tại và vận động của hai chức năng còn lại [4, tr.31]. 2.3. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự và chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự 2.3.1. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Chức năng bào chữa trong TTHS được thực hiện thông qua hình thức trực tiếp như: Tự thực hiện chức năng bào chữa, do chính người bị buộc tội tự thực hiện hoặc hình thức gián tiếp đó là thực hiện chức năng bào chữa thông qua sự giúp đỡ của người bào chữa (nhờ người bào chữa) và bào chữa theo chỉ định. Tự thực hiện chức năng bào chữa và nhờ người bào chữa có thể tiến hành song song hoặc chỉ một hình thức tuỳ thuộc vào ý kiến của người bị buộc tội trong từng trường hợp cụ thể. Việc tự bào chữa và nhờ người bào chữa có tác dụng bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Trường hợp người bị buộc tội nhờ người bào chữa thì họ vẫn có quyền tự bào chữa để bảo vệ quyền lợi cho mình. 2.3.2. Chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự 2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Yếu tố pháp luật: Yêu tố con người và nhận thức: Yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội: Chương 3 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THỂ HIỆN CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN 3.1. Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự 3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam 14
- Ở những giai đoạn đầu, sự ghi nhận và điều chỉnh pháp luật về chức năng bào chữa trong TTHS rất mờ nhạt. Các nội dung về bào chữa nói chung được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật như Sắc lệnh, Nghị định… Tuy nhiên, các quy phạm pháp luật về bào chữa rất ít và chưa cụ thể, chỉ quy định chung chung về việc luật sư có quyền làm nhiệm vụ bào chữa và bị cáo có quyền tự bào chữa cho mình. 3.1.1.1 Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam giai đoạn 1945-1987 3.1.1.2 Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam giai đoạn 1988-2003 3.1.1.3 Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 3.1.1.4. Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung một chương mới (chương V) quy định các nội dung liên quan đến bào chữa nhằm bảo đảm cho người bào chữa nhanh chóng tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và nhằm tạo điều kiện để người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa, BLTTHS năm 2015 đã quy định một số nội dung mới. a. Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố * Thời điểm tham gia tố tụng của NBC * Hoạt động đăng ký bào chữa của NBC Để được tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bị can, bị cáo thì trong mọi trường hợp NBC phải đăng kí bào chữa. Đây là quy định mới của BLTTHS năm 2015, thay thế cho quy định cũ là làm thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa. BLTTHS 2015 quy định khi đăng ký bào chữa, người bào chữa phải xuất trình các giấy tờ theo quy định như Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư…. Khi có đề nghị của người bị buộc tội, người đại diện, người thân thích của 15
- người bị buộc tội về việc mời NBC thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải có trách nhiệm bảo đảm cho họ thực hiện quyền có NBC của mình. * Các hoạt động bào chữa của NBC: - Hoạt động gặp người bị buộc tội của người bào chữa: Theo Điều 80 BLTTHS thì NBC được gặp, hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào và không hạn chế số lần gặp. NBC được chủ động trao đổi các vấn đề có liên quan đến thân chủ của mình trong điều kiện giám sát của cơ sở giam giữ mà không bắt buộc phải có mặt những người tiến hành tố tụng. Để gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, NBC phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân. Sau khi kết thúc việc hỏi cung, NBC được quyền hỏi thân chủ của mình. Việc hỏi này hoàn toàn chủ động từ phía NBC. NBC có thể hỏi các nội dung có liên quan đến thân chủ và hành vi mà thân chủ đã thực hiện trong vụ án… - Quy định về đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế: Khi thấy bị can, bị cáo có đủ các điều kiện để được thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hoặc biện pháp cưỡng chế thì NBC sẽ đề xuất với cơ quan có thẩm quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp đang được áp dụng với bị can, bị cáo. Ví dụ: đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm giam sang các biện pháp khác ít nghiêm khắc hơn như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm... - Quy định đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Khi cần làm rõ các vấn đề có liên quan đến người bị buộc tội, người bào chữa có thể đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. NBC chỉ đề nghị triệu tập các đối tượng trên khi lời khai của họ có lợi cho bị can, bị cáo và có lợi cho việc bào chữa, bảo vệ của người bào chữa. 16
- - Hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ: Khi làm nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo; NBC có thể phát hiện ra các tài liệu mới, chứng cứ mới mà cơ quan tiến hành tố tụng chưa phát hiện được. Trong trường hợp này, NBC có quyền thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, khi tài liệu, đồ vật đó có lợi cho bị can và không làm xấu đi tình trạng của bị can. Chẳng hạn, đó là các chứng cứ chứng minh sự vô tội của bị can hoặc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can mà cơ quan tiến hành tố tụng chưa thể hiện trong hồ sơ vụ án. - Đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án: *Hoạt động tự bào chữa của người bị buộc tội: Người bị buộc tội thực hiện hoạt động tự bào chữa, bảo vệ thông qua các quyền năng được quy định trong BLTTHS. BLTTHS 2015 đã có những sửa đổi so với BLTTHS 2003, không những quy định cụ thể, rõ ràng hơn mà còn mở rộng quyền của người bị buộc tội, giúp đảm bảo tính công bằng trong việc thực thi pháp luật hình sự. b. Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn xét xử So với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 ghi nhận quyền bình đẳng của NBC với những người tham gia tranh tụng tại phiên tòa một cách cụ thể hơn. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho kiểm sát viên, bị cáo, NBC, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. Theo quy định của BLTTHS năm 2015, thì thẩm quyền và vị thế của NBC khi tranh tụng tại phiên tòa được nâng cao, NBC có quyền bình đẳng với đại diện Viện kiểm sát trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu. Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án”. 3.1.2. Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam 17
- Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự của Hoa kỳ Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự của Trung Quốc Kinh nghiệm đối với Việt Nam 3.2. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự 3.2.1. Tình hình người bị buộc tội và người bào chữa tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự Trên thực tế, vì những lí do khác nhau mà người bị buộc tội thường tự mình thực hiện quyền bào chữa chứ không nhờ NBC bào chữa cho mình. Bảng 3.1: Số vụ án có NBC tham gia ở giai đoạn xét xử sơ thẩm Năm Tổng số Số vụ án Tỷ lệ % Số vụ án Tỷ lệ % vụ án có NBC không có XXST tham gia NBC 2009 60.433 6.303 10.4% 54.130 89,6% 2010 51.705 4.783 9,2% 46.922 90,8% 2011 57.009 4.480 7,8% 52.529 92,2% 2012 65.974 5.195 7,8% 60.779 92,2% 2013 67.153 5.001 7,4% 62.152 92,6% 2014 66.676 4.554 6,8% 62.122 93,2% 2015 59.866 3.808 6,3% 56.058 93,7% 2016 61.918 4.173 6,7% 57.745 93,3% 2017 57.872 4.050 7.0% 53.822 93% 2018 58.587 5.611 9,5% 52.976 90,5% 6 tháng 26.846 2.550 9,4% 24.296 90,6% đầu 2019 (Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao) *Tình hình luật sư được mời và chỉ định tham gia bào chữa vụ án hình sự Trong những năm gần đây, số lượng luật sư được khách hàng mời tham gia bào chữa so với số luật sư chỉ định ngày càng tăng, chiếm tỷ lệ nhiều hơn so với số luật sư bào chữa chỉ định. Điều đó cho thấy, nhu cầu mời luật sư bào chữa của người bị buộc tội ngày càng cao, khẳng định được vai trò và địa vị pháp lý của NBC nói chung và luật sư nói riêng trong tố tụng hình sự.Việc người bị buộc tội mời luật sư bào chữa ngày càng tăng 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 305 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn