intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật nhằm phát triển một số tổ hợp dâu lai mới tại Lâm Đồng

Chia sẻ: Nguyễn Thị Hiền Phúc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

66
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu xác định tính thích ứng của 2 tổ hợp dâu lai mới chọn lọc TBL-03, TBL-05 và biện pháp kỹ thuật thích hợp làm cơ sở xây dựng quy trình kỹ thuật thâm canh tăng năng suất chất lượng lá nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất dâu tằm ở Lâm Đồng. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật nhằm phát triển một số tổ hợp dâu lai mới tại Lâm Đồng

1<br /> MỞ ĐẦU<br /> 1 Đặt vấn đề<br /> Trong suốt chặng đường phát triển, con người luôn phải đối diện<br /> với cái ăn và cái mặc. Do vậy nghề "nông, tang" đã xuất hiện, trong đó<br /> có nghề trồng dâu nuôi tằm ươm tơ dệt lụa. Nhiều tài liệu cho rằng, nghề<br /> trồng dâu nuôi tằm xuất hiện rất sớm, cách đây trên 5000 năm (Hoang<br /> Ling – Zong, 1987) [56], (Rangaswami et al., 1976), (Soo-Ho Lim,<br /> 1990).<br /> Hiện nay, nghề trồng dâu nuôi tằm vẫn là nghề nông nghiệp quan<br /> trọng ở nhiều nơi nước ta, bởi vì đã mở ra hướng giải quyết công ăn việc<br /> làm, góp phần xóa đói làm giàu cho nông dân. Ngành sản xuất dâu tằm<br /> tơ có đặc thù riêng, trong đó lá dâu có vị trí rất quan trọng vì nó chiếm<br /> 60% tổng chi phí giá thành sản xuất ra nguyên liệu kén tằm. Mặc dù<br /> nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển ngành sản xuất dâu tằm tơ<br /> nhưng trong nhiều năm qua ngành này phát triển rất chậm, không ổn<br /> định. Nguyên nhân chủ yếu là do hiệu quả kinh tế chưa cao, giá trị ngày<br /> công lao động thấp.<br /> Lâm Đồng là tỉnh thuộc vùng khí hậu sinh thái Tây Nguyên, có điều<br /> kiện thời tiết mát mẻ nên rất thuận lợi cho nuôi quanh năm các giống tằm<br /> lưỡng hệ có năng suất chất lượng kén tơ cao, nhưng năng suất lá dâu còn<br /> rất thấp. Trong những năm qua tại Lâm Đồng đã đưa vào sản xuất một số<br /> giống dâu mới, thời gian gần đây là tổ hợp lai rất có triển vọng TBL-03,<br /> TBL-05. Để phát huy ưu thế của hai tổ hợp dâu lai mới này ở vùng đất<br /> Lâm Đồng, chúng tôi đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu biện pháp kỹ<br /> thuật nhằm phát triển một số tổ hợp dâu lai mới tại Lâm Đồng”.<br /> 2. Mục tiêu của đề tài<br /> 2.1 Mục tiêu chung:<br /> Nghiên cứu xác định tính thích ứng của 2 tổ hợp dâu lai mới chọn<br /> lọc TBL-03, TBL-05 và biện pháp kỹ thuật thích hợp làm cơ sở xây<br /> dựng quy trình kỹ thuật thâm canh tăng năng suất chất lượng lá nhằm<br /> đáp ứng yêu cầu sản xuất dâu tằm ở Lâm Đồng.<br /> 2.2 Mục tiêu cụ thể:<br /> - Xác định ảnh hưởng của tiểu vùng sinh thái đến sinh trưởng phát<br /> triển, năng suất chất lượng và khả năng chống chịu của 2 tổ hợp dâu lai.<br /> - Xác định biện pháp kỹ thuật nhân giống vô tính thích hợp để phát<br /> triển nhanh chóng tổ hợp lai ra sản xuất.<br /> - Nghiên cứu xác định một số biện pháp kỹ thuật để thâm canh tăng<br /> năng suất chất lượng lá dâu.<br /> <br /> 2<br /> 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài<br /> 3.1 Ý nghĩa khoa học của đề tài<br /> - Đưa ra được các tư liệu cần thiết làm cơ sở xác định vùng sinh<br /> thái thích hợp cho 2 tổ hợp dâu lai.<br /> - Xây dựng cơ sở dữ liệu góp phần lựa chọn kỹ thuật nhân giống vô<br /> tính để đạt hệ số nhân giống cao.<br /> - Xây dựng cơ sở dữ liệu cho các biện pháp kỹ thuật thích hợp cho<br /> từng tổ hợp ở các vùng sinh thái.<br /> 3.2 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài<br /> Xác định tính thích ứng và một số biện pháp kỹ thuật thích hợp cho<br /> hai tổ hợp dâu lai mới TBL-03, TBL-05 tại Lâm Đồng là cơ sở góp phần<br /> nâng cao năng suất chất lượng lá dâu và số lượng cây giống đáp ứng yêu<br /> cầu của sản xuất. Từ đó làm tăng hiệu quả kinh tế cho nghề trồng dâu<br /> nuôi tằm và tăng thu nhập cho nông dân.<br /> 4. Giới hạn của đề tài<br /> - Diện tích trồng dâu tại tỉnh Lâm Đồng chiếm trên 90% tổng diện<br /> tích trồng dâu của cả vùng Tây Nguyên, trong đó lại tập trung vào 3 tiểu<br /> vùng sinh thái của tỉnh. Vì thế địa điểm nghiên cứu được tiến hành ở 3<br /> tiểu vùng sinh thái trọng điểm trồng dâu nuôi tằm của tỉnh Lâm Đồng.<br /> - Do thời gian và điều kiện nghiên cứu có hạn, đề tài này chỉ tập trung<br /> nghiên cứu xác định tính thích ứng của hai tổ hợp lai tại Lâm Đồng, cùng<br /> với một số biện pháp kỹ thuật chủ yếu. Đối với nghiên cứu xác định tính<br /> thích ứng chỉ tập trung theo dõi sinh trưởng phát triển, năng suất chất<br /> lượng lá và mức độ nhiễm sâu bệnh. Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống ở<br /> mức độ riêng rẽ từng thí nghiệm cho nên chưa xác định hệ số nhân giống.<br /> 5. Tính mới của đề tài<br /> - Thông qua một số chỉ tiêu về khả năng sinh trưởng phát triển,<br /> năng suất chất lượng lá và mức độ nhiễm sâu bệnh hại đã góp phần xác<br /> định được tính thích ứng của 2 tổ hợp dâu lai TBL-03, TBL-05 ở 3 vùng<br /> sinh thái Lâm Đồng. Từ đó có cơ sở khoa học và thực tiễn đưa trồng 2 tổ<br /> hợp lai này vào sản xuất.<br /> - Sử dụng phương pháp nhân giống vô tính bằng đoạn hom ngắn,<br /> hom chưa thành thục có xử lý chất kích thích ra rễ thông qua vườn ươm<br /> và một số biện pháp kỹ thuật trong vườn ươm. Kết quả nghiên cứu này<br /> đã làm tăng hệ số nhân giống vô tính lên nhiều lần góp phần mở rộng và<br /> đưa nhanh diện tích trồng tổ hợp lai mới vào sản xuất.<br /> - Xác định được một số biện pháp kỹ thuật thích hợp như chế độ<br /> bón phân vô cơ, mật độ trồng và thời vụ đốn dâu trong năm cho 2 tổ hợp<br /> dâu lai để nâng cao năng suất chất lượng lá ở 3 vùng sinh thái.<br /> <br /> 3<br /> CHƯƠNG 1<br /> TỔNG QUAN TÀI LIỆU<br /> 1.1 Nghiên cứu về giống và tính thích ứng của giống dâu<br /> Dựa trên các phương pháp chọn lọc giống, Ấn Độ đã đưa ra sản<br /> xuất các giống dâu có năng suất cao như Kanva-2, Mysore local. Hai<br /> giống trên cho năng suất lá cao, 25 - 30 tấn/ha, tính thích ứng rộng với<br /> nhiều bang của Ấn Độ (Mallikarjunappa and Bongale, 1992). Viện<br /> Nghiên cứu và đào tạo Dâu tằm tơ trung ương - Mysore đã tạo ra giống<br /> MRz có khả năng kháng bệnh nấm Gỉ sắt (Aecidium mori Butler)<br /> (CSRTI-Mysore, 2000). Năm 1974 Sastry đã chọn lọc ra dòng đột biến<br /> có lợi S54 tốt hơn giống Kanva-2 về năng suất chất lượng lá và được<br /> trồng rộng rãi trong sản xuất tại 6 bang có trồng dâu nuôi tằm (Ullal,<br /> Narashimhana, 1987). Nhật Bản cũng đã chọn lọc ra hàng loạt giống mới<br /> như Ichinose, Akatoko, Kosen...vv. Trong đó giống Kosen thích ứng rất<br /> rộng với nhiều vùng sinh thái của Nhật Bản và của cả nhiều vùng tại Ấn<br /> Độ (Sindo S S Arata and Yabe (1972). Năm 1958 Hamada đã tạo đột<br /> biến có lợi từ giống Kairio - mezumagaeshi, cây đột biến có năng suất<br /> tăng 12% so với giống nguyên và giống này đã được trồng ra sản xuất<br /> đại trà tại Nhật Bản. Trung Quốc đã chọn tạo ra các giống dâu lai F1<br /> trồng hạt như Sha-nhị-luân, Nguyệt san số 2 cho năng suất lá đều vượt<br /> trên 10% so với các giống dâu ngoài sản xuất (Huo Yong kang, 2000),<br /> (Zheng Ting-zing et al., 1988). Giống dâu này đã được khảo nghiệm tại<br /> nước ta và cho kết quả khả quan trong mùa khô ở Tây Nguyên (Lê<br /> Quang Tú và cs, 2007).<br /> Tại Việt Nam, công tác nghiên cứu chọn tạo giống dâu được chú<br /> trọng phát triển. Qua nghiên cứu đã chọn lọc được nhiều giống dâu tốt<br /> cho sản xuất như: Bầu đen, Hà bắc, S7-CB, VH9, VA-201...vv. Những<br /> giống này có năng suất cao, chất lượng lá tốt, phù hợp với điều kiện sinh<br /> thái của từng địa phương, đặc biệt có giống thích ứng tốt với điều kiện<br /> đất đồi khô hạn (Lê Quang Tú và cs, 2007).<br /> 1.2 Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật trên cây dâu<br /> 1.2.1 Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống dâu<br /> Hiện nay nhân giống vô tính bằng hom là phương pháp rất phổ biến<br /> trên thế giới. Tại Nhật Bản, Hamada (1958) và Ogure (1982) áp dụng<br /> phương pháp trồng hom già ở nơi có nhiệt độ thấp hơn 40 C, lượng mưa<br /> dưới 175 mm/năm. Honda (1970) cho rằng nếu dùng hom già sẽ cho tỷ<br /> lệ nảy mầm cao nhất, đạt trên 86,3 % và cây con sinh trưởng tốt. Ở phía<br /> bắc Nhật Bản nên trồng hom già, ngược lại phía nam nên trồng bằng<br /> hom non thì có tỷ lệ cây sống cao trên 82,4%. Còn ở Ấn Độ Ullal et al.,<br /> <br /> 4<br /> (1987) đã nghiên cứu kỹ thuật nhân giống dâu bằng hom xanh trong điều<br /> kiện có dùng màng phủ nông nghiệp, kết quả cho thấy tỷ lệ cây sống đã<br /> tăng lên trên 20% và khi trồng ra ngoài sản xuất cây sinh trưởng phát<br /> triển tốt. Tại Trung Quốc ngoài các phương pháp nêu trên thì ở một số<br /> vùng cận nhiệt đới như Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam chủ yếu sử<br /> dụng hạt lai F1 để nhân giống (Huo Yong kang, 2000), (Zhang yue – Li,<br /> 1987).<br /> Để khắc phục một số giống dâu khó ra rễ khi nhân giống bằng hom,<br /> các nhà khoa học đã nghiên cứu sử dụng một số chất kích thích ra rễ<br /> như: IAA, IBA, NAA … Ở Ấn Độ, Rao và Azeer Khan (1963) đã thành<br /> công trong việc nâng tỷ lệ ra rễ các giống dâu Nhật Bản (Kosen, Gosho,<br /> Erami) lên 80 – 85% bằng phương pháp xử lý NAA, IAA, IBA dưới<br /> dạng kem 1% (www. Sciencedirect.com/science, 1990). Tại Việt Nam<br /> thường cây dâu trồng trực tiếp bằng hom mà không thông qua giai đoạn<br /> vườn ươm (Lê Quang Tú và cs, 2010).<br /> 1.2.2 Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật bón phân cho cây dâu<br /> Phân bón có vai trò rất quan trọng, các nhà khoa học Nhật Bản<br /> khuyến cáo bón phân cho một số vùng ở nước này là: (300 N + 150 - 180<br /> P2O5 + 180 - 200 K2O) kg/ha, hoặc (306 N + 112 P2O5 + 169 K2O)<br /> kg/ha. Tỷ lệ NPK cho ruộng dâu nuôi tằm con là 6 : 4 : 5, dùng cho<br /> ruộng dâu nuôi tằm lớn là 10 : 4 : 5 hoặc 12 : 4 : 5 (Sindo S S Arata and<br /> T Yabe, 1972). Tại Triết Giang, Trung Quốc quy định đối với đất đồi<br /> dốc thì bón với liều lượng (300 N + 180 P2O5 + 240 K2O) kg/ha, còn đất<br /> có tầng canh tác mỏng bón (255 N + 150 P2O5 + 210 K2O) kg/ha (Hoang<br /> Ling – Zong, 1987). Theo Trương Tử Minh (1957) cho rằng ruộng dâu<br /> tại Quảng Đông bón theo tỉ lệ NPK là 10 : 4,1 : 5,1 (Huo, Yong kang,<br /> 2000). Các nhà khoa học Trung Quốc đã chia ra: ruộng dâu dùng để nuôi<br /> tằm lấy kén ươm thì bón theo 5 - 7 : 3 : 4, ruộng dâu dùng cho tằm giống<br /> 5 : 3 : 4 (Zheng Ting-zing et al., 1988). Kết quả nghiên cứu của Huo<br /> Yong kang et al., (2000) cho rằng vườn dâu dùng cho tằm kén ươm, tỷ lệ<br /> NPK là 10: 4: 5, còn ruộng dâu chuyên dùng cho tằm sản xuất trứng<br /> giống thì tỉ lệ là 5: 3: 4. Tại bang Kanakata (Ấn Độ), trong điều kiện<br /> không tưới bón lượng là (100 N + 50 P2O5 + 50 K2O) kg/ha, có tưới thì<br /> bón với lượng cao hơn là (250 N + 100 P2O5 + 100 K2O) kg/ha. Ở vùng<br /> Kasmir, Chandrasekaran (1992) đã đưa ra công thức bón phân vô cơ là<br /> 2000 kg urea/ha/năm và theo tỷ lệ NPK là 6 : 3 : 4. Khi trồng dâu không<br /> được tưới, tác giả đã đề nghị nên bón theo tỷ lệ 2 : 1 : 1; lượng bón thích<br /> hợp nhất từ 300 – 360 kg N/ha/năm.<br /> Tại Việt Nam, Lê Quang Tú (2000) cho rằng tại Lâm Đồng khi<br /> <br /> 5<br /> trồng mới cần bón 15 tấn phân chuồng, 500kg lân, 100kg ure, 1000 kg<br /> vôi bột/ha và tỷ lệ NPK cho cho ruộng dâu dùng nuôi tằm lấy kén ươm<br /> là 2:1:1. Nguyễn Đức Dũng (2010) cho rằng muốn đưa năng suất lá dâu<br /> tại tỉnh Lâm Đồng lên trên 25 tấn/ha cần phải bón lượng phân là: 650 kg<br /> Urê: 900 kg Lân văn điển : 250 kg KCl và 20 tấn/ha phân hữu cơ. Tác<br /> giả Phạm Văn Vượng, Hà Văn Phúc và cs (2004) cho rằng: vùng đồng<br /> bằng sông Hồng bón theo tỷ lệ NPK là 4 : 1 : 1 cho ruộng dâu chuyên<br /> dùng nuôi tằm lấy kén ươm và 1,8 : 1 : 1 cho ruộng dâu dùng sản xuất<br /> trứng giống. Tùy theo loại đất và mức độ thâm canh mà có thể bón từ<br /> 2000 - 3000 kg phân NPK/ha.<br /> 1.2.3 Nghiên cứu về mật độ trồng dâu<br /> Mật độ trồng dâu là yêu cầu kỹ thuật đặc biệt quan trọng. Tại Nhật<br /> Bản dâu thường được trồng theo khoảng cách hàng là 1,5 - 2,5 m và cây<br /> là 1,5 - 2,5m x 0,5m. Khi tạo hình theo dạng đốn thấp thì trồng với<br /> khoảng cách 1,5 - 2,0m x 0,6 – 0,8m; dạng đốn trung bình (0,6 – 1,2m)<br /> trồng với khoảng cách 2,0 – 2,5m x 0,8 – 1,2m và khi tạo hình theo dạng<br /> đốn cao (trên 1,5m) thì trồng với khoảng cách 2,5 - 3,0m x 1,2 – 2,0m<br /> (Hasegawa, 1967). Tại Trung Quốc thường thu hoạch lá bằng phương<br /> pháp cắt cành do đó mật độ trồng thường rất dày, thông thường 0,9 x 0,9;<br /> 0,45 x 0,45 hoặc 0,45 x 0,15m. Theo kết quả nghiên cứu của Hoang Ling<br /> - Zong (1987) cho thấy năng suất tăng mạnh khi trồng từ từ 36.000 đến<br /> 45.000 cây/ha, còn ở mật độ dầy từ 55.000 - 65.000 cây/ha thì năng suất<br /> không tăng. Tại Ấn Độ, vùng khô hạn người ta thường trồng dâu với mật<br /> độ dày, khoảng 0,9 x 0,9; 0,45 x 0,45 hoặc 0,45 x 0,15 m, khi trồng với<br /> mật độ dày người ta thường sử dụng phương pháp thu hoạch cắt cành để<br /> giảm công thu hái (Datta, 2000). Theo nghiên cứu của Kasiviwanathan et<br /> al., (1979) [64] khuyến cáo nên trồng với khoảng cách 0,9 x 0,9 m là phù<br /> hợp nhất. Ở Liên Xô, khoảng cách trồng được áp dụng với cây cách cây<br /> là 0,5 m và hàng cách hàng từ 3 – 5m (Rangaswami et al., 1976).<br /> Tại Việt nam, tùy từng vùng sinh thái, tùy phương thức thu hái mà<br /> người ta xác định mật độ trồng khác nhau. Đối với vùng Bắc bộ, thường<br /> được trồng với mật độ khoảng 40 – 50 cây/ha (Phạm Văn Vượng, Hà Văn<br /> Phúc và cs, 2004). Vùng Tây Nguyên, nếu trồng theo phương pháp cắt<br /> cành thì trồng với mật độ khoảng 50 – 60 nghìn cây/ha và khi trồng thưa<br /> 20 – 30 cây/ha thì dùng cho vườn dâu thu hoạch lá bằng hái lá. Tác giả Lê<br /> Quang Tú và cs (2007) cho rằng mật độ trồng đối với các giống dâu mới<br /> như S7-CB, VA-201 là 40.000cây/ha sẽ thích hợp nhất.<br /> 1.2.4 Nghiên cứu về đốn tỉa và kỹ thuật thu hái lá dâu<br /> Tại Nhật Bản, đốn vào vụ hè để có lá nuôi tằm vào mùa thu và mùa<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2