Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ Anh: Phân tích hình ảnh Việt Nam qua blogs của các bloggers du lịch người Anh theo cách tiếp cận đa phương thức
lượt xem 5
download
Nghiên cứu "Phân tích hình ảnh Việt Nam qua blogs của các bloggers du lịch người Anh theo cách tiếp cận đa phương thức" này được tiến hành nhằm mục đích tìm hiểu ngôn ngữ đánh giá được thể hiện bằng ngôn bản và hình ảnh của các blogger du lịch người Anh về Việt Nam như một điểm đến du lịch bắt nguồn từ kinh nghiệm du lịch đất nước của họ. Cụ thể, có thể tìm ra bằng chứng về nhận thức ngôn ngữ và hình ảnh để tìm hiểu cách nhìn của các blogger du lịch người Anh về Việt Nam và quan điểm ngôn ngữ xã hội của diễn ngôn du lịch được phản ánh trong cái nhìn của họ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ Anh: Phân tích hình ảnh Việt Nam qua blogs của các bloggers du lịch người Anh theo cách tiếp cận đa phương thức
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI ---------------------------------------- TÓM TẮT LUẬN VĂN TRẦN THỊ HIẾU THUỶ PHÂN TÍCH HÌNH ẢNH VIỆT NAM QUA BLOGS CỦA CÁC BLOGGERS DU LỊCH NGƯỜI ANH THEO CÁCH TIẾP CẬN ĐA PHƯƠNG THỨC (BRITISH TRAVEL BLOGGERS’ PORTRAYAL OF VIETNAM: A MULTIMODAL ANALYSIS) CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ ANH MÃ SỐ: 9220201 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÂM QUANG ĐÔNG Hà Nội, 2023
- Luận án được hoàn thành tại Trường Đại học Mở Hà Nội. Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Lâm Quang Dong Luận án dự kiến được trình bày tại Hội đồng Bảo vệ cấp trường vào năm 2023 . Thông tin chi tiết có tại Khoa tiếng Anh, Đại học Mở Hà Nội.
- 1
- CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN Công trình nghiên cứu này đặt mình trong thế giới lý thuyết của nghiên cứu diễn ngôn du lịch, tính đa phương thức như cách tiếp cận phân tích của nó với nỗ lực giải mã cái nhìn của khách du lịch về Việt Nam từ các nguồn tạo nghĩa ngôn ngữ và hình ảnh trong các bài đăng trên blog du lịch. Nó được truyền cảm hứng thiết thực bởi tầm quan trọng ngày càng tăng của các đánh giá tích cực trên mạng xã hội đối với sự phát triển của ngành du lịch tại Việt Nam. Gần đây, các nghiên cứu về du lịch đã được chuyển sang khoa học xã hội và khoa học môi trường, tập trung vào các tương tác xã hội trong diễn ngôn du lịch. Phân tích này có thể được tiếp cận từ nhiều khía cạnh khác, xem diễn ngôn du lịch giải thích mối quan hệ giữa du lịch và thuyết phục như thế nào (Bruthiaux, 2000; Beeton, Weeler & Ham, 2005), du lịch và tiêu dùng địa điểm (Snepenger, 2007; Yui, 2008 ; Urry, 2010), du lịch và bản sắc dân tộc (Palmer, 1999; Pretes, 2003), du lịch và hình ảnh điểm đến (Calzati, 2013; Denti, 2015), và cái nhìn của du khách về điểm đến (Francesconi, 2014; Denti, 2015) ; và Zhang & Hitchcock, 2017). Các chủ đề chính của nghiên cứu diễn ngôn du lịch là việc sử dụng ngôn ngữ trong các tài liệu du lịch thông thường, chẳng hạn như trang web quảng cáo và xúc tiến của các điểm đến. Mặt khác, blog du lịch, một thể loại diễn ngôn du lịch hiện đại, thường được coi là một đối tượng để thảo luận trong một nghiên cứu hơn là bản thân chủ đề của nghiên cứu. Gần đây , các blog du lịch đã nổi tiếng là một nguồn thông tin du lịch hữu ích cho những người dùng internet thường xuyên tin tưởng vào các bài đánh giá, ảnh chuyến đi và lời khuyên của họ ( Pabel & Prideaux, 2015; Kassegn & Sahil, 2020). Hàm ý là cái nhìn của các blogger về một điểm đến và hình ảnh điểm đến được xây dựng thông qua trải nghiệm của họ được coi là hình ảnh xác thực và không thể bị bóp méo vì mục đích tiếp thị như hình ảnh trong các tài liệu quảng cáo du lịch. Do đó, vẫn còn chỗ để điều tra xem các blogger, bằng cách sử dụng kết hợp văn bản và hình ảnh trên blog du lịch của họ, đã miêu tả các điểm đến và khuyến khích/ngăn cản quyết định du lịch của độc giả một cách rõ ràng hoặc ngầm. Không gian nghiên cứu này có thể còn lớn hơn trong trường hợp điểm đến là các quốc gia châu Á, chẳng hạn như Việt Nam, nơi thường được các du khách tương lai đến từ các quốc gia có nền văn hóa phương Tây coi là một vùng đất kỳ lạ và bí ẩn. Động lực thực tiễn cho nghiên cứu hiện tại này nằm ở chỗ du lịch đóng một vai trò thiết yếu trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam và vì vậy, hiểu được cách các blogger du lịch miêu tả và đánh giá Việt Nam như một điểm đến du lịch có thể hỗ trợ quảng bá du lịch Việt Nam . Thực tế là ngày càng có nhiều người viết 2
- blog, phản hồi và chia sẻ các nội dung liên quan đến du lịch về Việt Nam cho thấy rằng các bài đăng trên blog như vậy có thể cung cấp thông tin phong phú để xây dựng bức chân dung về Việt Nam và cung cấp dữ liệu có giá trị cho nghiên cứu ngôn ngữ. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, cho đến nay chưa có bất kỳ công trình nghiên cứu ngôn ngữ học nào bằng tiếng Việt hay tiếng Anh trên các blog du lịch nói chung, và rất ít công trình nghiên cứu tập trung vào việc đất nước được miêu tả như thế nào trong nội dung các bài đăng của các blogger quốc tế nói riêng. . Bên cạnh đó, trên blog du lịch, các dấu hiệu hình ảnh và ngôn ngữ luôn đồng hành và tương tác với nhau. Điều này, về mặt phương pháp, đòi hỏi phải tiếp cận các blog du lịch một cách đa phương thức để có thể thực hiện phân tích trên cả hai nguồn tạo ý nghĩa. Cho rằng khái niệm phân tích đa phương thức là tương đối mới trong ngôn ngữ học và số lượng blog du lịch được phân tích đa phương thức để thu hút khách du lịch và hình ảnh điểm đến châu Á vẫn còn khiêm tốn, một công trình nghiên cứu được thực hiện theo hướng này có thể đưa ra những hiểu biết mới về vấn đề này. Do đó, nghiên cứu hiện tại với tựa đề “ PHÂN TÍCH HÌNH ẢNVIỆT NAM QUA BLOGS CỦA CÁC BLOGGERS DU LỊCH NGƯỜI ANH THEO CÁCH TIẾP CẬN ĐA PHƯƠNG THỨC” đã được thực hiện để lấp đầy khoảng trống nghiên cứu hiện tại về đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và cơ sở dữ liệu cho nghiên cứu và hy vọng cung cấp những hiểu biết sâu sắc hơn về du lịch blog như một thể loại nghị luận về du lịch đồng thời đóng góp thiết thực cho sự phát triển của ngành du lịch và học tiếng Anh du lịch tại Việt Nam. 1.2. MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU, CÂU HỎI NGHIÊN CỨU 1. 2.1. Mục đích và Mục tiêu Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mục đích tìm hiểu ngôn ngữ đánh giá được thể hiện bằng ngôn bản và hình ảnh của các blogger du lịch người Anh về Việt Nam như một điểm đến du lịch bắt nguồn từ kinh nghiệm du lịch đất nước của họ. Cụ thể, có thể tìm ra bằng chứng về nhận thức ngôn ngữ và hình ảnh để tìm hiểu cách nhìn của các blogger du lịch người Anh về Việt Nam và quan điểm ngôn ngữ xã hội của diễn ngôn du lịch được phản ánh trong cái nhìn của họ. 1. 2.2 Câu hỏi nghiên cứu Để đạt được mục đích và mục tiêu đề ra, luận án đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau: (1) Các blogger du lịch người Anh đã truyền đạt điều gì qua khắc họa chân dung Việt Nam của họ? - Họ đã xem xét những khía cạnh nào của Việt Nam? 3
- - Ở mỗi khía cạnh, họ đánh giá Việt Nam như một điểm đến du lịch ở mức độ nào? - Ngôn từ và hình ảnh tĩnh trong các bài đăng blog đó đã tương tác với nhau để thể hiện đánh giá của họ như thế nào? (2) Các quan điểm xã hội học trong diễn ngôn du lịch được phản ánh như thế nào trong cái nhìn của các blogger du lịch Anh về Việt Nam? - Quan điểm ngôn ngữ học xã hội nào của diễn ngôn du lịch nổi bật trong các bài đăng trên blog du lịch? - Văn bản và hình ảnh tĩnh trong các bài đăng trên blog du lịch đóng góp vào việc thể hiện những góc nhìn này như thế nào? 1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Nghiên cứu này dựa trên nền tảng lý thuyết của cách tiếp cận ký hiệu học xã hội đa phương thức, cụ thể hơn là siêu chức năng liên cá nhân mà các dấu hiệu ngôn ngữ và hình ảnh trong các blog du lịch cung cấp. Nghiên cứu tích hợp hai khung lý thuyết theo Ngôn ngữ học chức năng hệ thống của Halliday là Lý thuyết Ngôn ngữ đánh giá (Martin & White, 2005) và Khung Ngữ pháp Hình ảnh (Kress & van Leeuwen, 2006), chọn ra các yếu tố phù hợp để xây dựng khung khái niệm đa phương thức với ngữ liệu là tính chất của các tính từ đánh giá và ý nghĩa tương tác của hình ảnh tĩnh. Về phương pháp nghiên cứu, đây là nghiên cứu trường hợp định tính. Trường hợp được nghiên cứu bao gồm bảy blogger du lịch chuyên nghiệp người Anh đã đến Việt Nam ít nhất hai lần. Dữ liệu được giới hạn trong mười bài đăng trên blog du lịch của họ từ năm 2014 đến năm 2022 và phản ánh trải nghiệm của các blogger về du lịch giải trí và di sản. Là kết quả của quá trình lấy mẫu dữ liệu có mục đích, một cơ sở dữ liệu bao gồm cả từ và hình ảnh tĩnh đã được tạo. Phần văn bản của cơ sở dữ liệu có 21.062 từ, với 256 tính từ xuất hiện tổng cộng 1162 lần. Phần hình ảnh tĩnh của cơ sở dữ liệu bao gồm 133 bức ảnh. Bằng cách tiến hành phân tích nội dung của cơ sở dữ liệu, nghiên cứu đã điều tra cách các blogger du lịch phương Tây đánh giá cao một điểm đến ở châu Á và phát hiện ra bằng chứng về quan điểm ngôn ngữ xã hội trong các bài đăng trên blog của họ. 1. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu điển hình này đã sử dụng chiến lược phân tích nội dung và xây dựng một khung phân tích để phân tích dữ liệu đa phương thức trong các blog du lịch, điều này đã được chứng minh là hữu ích khi điều tra các trường hợp xác thực theo miền cụ thể. Đầu tiên, dữ liệu văn bản được xử lý với sự hỗ trợ của các công cụ tính toán, chẳng hạn như Keyword và Frequency để thiết lập “miền” - hoặc các khía cạnh chung của Việt Nam được nhìn và đánh giá trong các blog du lịch. Đồng thời, công cụ POS Tagger và Concordancers đã giúp gắn thẻ và đếm các tính từ 4
- và cung cấp tài liệu để quyết định các tính từ đánh giá và xác định cấu trúc của các tính từ đánh giá và từ vựng/cụm từ liên kết của chúng, từ đó thiết lập “các trường hợp cụ thể” – hoặc các mục được đánh giá tương ứng với từng miền. Mặt khác, các hình ảnh tĩnh được đếm và sắp xếp theo các miền theo cách thủ công. Việc phân loại ảnh tĩnh theo miền cũng giúp xác định xem liệu có sự thể hiện bằng nhau của ảnh tĩnh cho từng trường hợp trong miền hay không. Sau đó, các cấu trúc [tính từ đánh giá] + [trường hợp cụ thể] đã được xác định bằng phương pháp Concordancers được phân tích sâu hơn để xác định đánh giá tích cực/tiêu cực của các hạng mục được đánh giá. Hình ảnh tĩnh cũng được phân tích để nắm bắt ý nghĩa tương tác được nhúng thông qua hoạt động hình ảnh, kích thước khung hình, góc máy ảnh, sự hiện diện của nền và mức độ đại diện. Việc phân tích phương thức ngôn ngữ và phương thức hình ảnh như vậy cũng góp phần quyết định các đặc điểm ngôn ngữ xã hội nổi bật được thể hiện trong các blog du lịch. 1. 5. ĐÓNG GÓP Về mặt lý thuyết, luận án góp phần khẳng định triển vọng của lĩnh vực phân tích diễn ngôn đa phương thức, và khung lý thuyết đa phương thức có thể được xây dựng bằng cách kết hợp những yếu tố phù hợp từ hai hoặc nhiều khung lý thuyết khác nhau. Luận án chỉ ra sự kết hợp hiệu quả của Lý thuyết Ngôn ngữ đánh giá (Martin & White, 2005) và Khung Ngữ pháp Hình ảnh (Kress & van Leeuwen, 2006) trong nghiên cứu các nguồn tạo nghĩa tương tác. Luận án cũng cho thấy trong các blog du lịch, một thể loại đang phát triển của diễn ngôn du lịch, có nguồn ngữ liệu đa phương thức lớn cần tiếp tục được khai thác trong nghiên cứu ngôn ngữ. Phân tích diễn ngôn đa phương thức là một lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ và đầy hứa hẹn ở Việt Nam, nhất là trong bối cảnh diễn ngôn du lịch còn chưa được quan tâm. Vì vậy, luận án này có thể là nguồn tham khảo hữu ích cho những người có liên quan, đặc biệt là các nhà nghiên cứu và sinh viên ngôn ngữ học và du lịch học. Những phát hiện từ nghiên cứu này có đóng góp thiết thực vào sự phát triển của truyền thông du lịch cũng như việc dạy và học tiếng Anh ở Việt Nam. Hiểu biết về cách khách du lịch miêu tả Việt Nam có thể hỗ trợ các bên liên quan trong ngành du lịch, đặc biệt là các nhà tiếp thị du lịch, trong việc xây dựng chiến lược cụ thể để cải thiện trải nghiệm “Việt Nam đích thực” của du khách và tăng cường những sản phẩm du lịch mang bản sắc đặc thù của Việt Nam. Đối với việc dạy và học tiếng Anh ở Việt Nam, việc phân tích bản sắc Anh thể hiện trên các blog sẽ đóng góp một nội dung quan trọng cho các môn học như đào tạo phiên dịch và dịch thuật về du lịch và giảng dạy giao tiếp liên văn hóa. Một ứng dụng thực 5
- tế khác là sử dụng các bài viết trong blog du lịch làm nguồn học liệu thực tiễn cho các chương trình học tiếng Anh tổng quát. 1. 6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN Luận án bao gồm sáu chương, mỗi chương đề cập đến một khía cạnh khác nhau của nghiên cứu. Chương 1 - Mở đầu biện luận về tính cấp thiết, xác định mục đích nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu, phạm vi, đóng góp và bố cục của Luận án. Chương 2 – Tổng quan tình hình nghiên cứu và Cơ sở lý luận tổng kết các công trình nghiên cứu, tài liệu liên quan đến luận án, bao gồm các lý thuyết về cái nhìn của khách du lịch và các quan điểm ngôn ngữ học xã hội về diễn ngôn du lịch, và khảo sát đầy đủ các nghiên cứu trước đây. Các công trình lý luận gồm Ngữ pháp Hình ảnh (Kress & van Leeuwen, 2006), Lý thuyết ngôn ngữ đánh giá (Martin & White, 2005) được phân tích, và các phương pháp tiếp cận đa phương thức trong nghiên cứu tiếng Anh được khảo sát để xây dựng khung lý thuyết của luận án. Chương 3 - Phương pháp nghiên cứu trình bày và lý do lựa chọn cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu, khung phân tích, quy trình thu thập dữ liệu và phân tích dữ liệu phục vụ nghiên cứu. Chương 4 – Góc nhìn và đánh giá về Việt Nam qua bài đăng của các bloggers du lịch trình bày những phát hiện của nghiên cứu qua phân tích văn bản và phân tích hình ảnh tĩnh nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu đầu tiên (Các blogger du lịch người Anh đã truyền đạt điều gì qua khắc họa chân dung Việt Nam của họ?) . Chương 5 - Đánh giá góc nhìn du khách: xem xét từ góc độ ngôn ngữ học xã hội trình bày những phát hiện của nghiên cứu về ý niệm hóa không gian ngôn ngữ để trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ hai (Các quan điểm xã hội học trong diễn ngôn du lịch được phản ánh như thế nào trong cái nhìn của các blogger du lịch Anh về Việt Nam?). Chương 6 – Kết luận tổng hợp các kết quả nghiên cứu, khẳng định ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án cũng như xác định các hướng nghiên cứu tiếp theo căn cứ vào những điều luận án chưa thực hiện được. Ở cuối luận án là Tài liệu tham khảo và Phụ lục. CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1. ĐA PHƯƠNG THỨC TRONG TIẾNG ANH Các văn bản đa phương thức dựa trên nhiều hơn một phương thức giao tiếp. Hai trong số những cách phổ biến nhất là các phương thức bằng lời nói và hình ảnh có mối quan hệ với nhau vừa phức tạp vừa bổ sung theo nghĩa là chúng cung cấp thông tin khác nhau có liên quan về mặt ngữ nghĩa theo nghĩa cả hai 6
- đều đóng góp giá trị cho ý nghĩa của thông điệp. Công nghệ hiện đại ngày nay đang cho phép truy cập thông tin trực quan ngày càng dễ dàng và theo đó khiến cho diễn ngôn ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào các nguồn tài nguyên đa phương thức. Điều này đặc biệt đúng với diễn ngôn biểu cảm kết hợp cả dấu hiệu ngôn ngữ và hình ảnh để thiết lập mối quan hệ xã hội giữa những người tham gia. Thực tế này đặt ra nhu cầu nghiên cứu diễn ngôn biểu cảm, như diễn ngôn du lịch, từ góc độ đa phương thức. Với phương thức ngôn từ, phát triển từ lý thuyết Ngôn ngữ học chức năng (SFL) của Halliday, (Martin & White, 2005) đề xuất Lý thuyết ngôn ngữ đánh giá, nêu bật khả năng phân tích ngôn ngữ của văn bản từ góc độ các thuộc tính đánh giá của nó. Khuôn khổ đặt thái độ ở trung tâm của tài nguyên đánh giá. Trong ba lĩnh vực của Thái độ, đánh giá quan tâm đến “việc đánh giá các hiện tượng ký hiệu học và tự nhiên, tùy theo cách thức mà chúng được đánh giá cao hay không trong một lĩnh vực nhất định” (Martin & White, tr.42-43). Khi luận án này tìm cách phác thảo chân dung của các blogger du lịch người Anh về Việt Nam, đánh giá là lựa chọn phù hợp nhất vì nó hướng tới cái “được thẩm định”, tức là hiện tượng/sự vật được đánh giá, hơn là “người thẩm định” chủ quan, tức là chủ thể con người. làm việc đánh giá. Việc thực hiện ngữ pháp cho sự đánh giá cao là tính từ , tính từ này cũng được sử dụng đáng kể trong diễn ngôn du lịch, các bài đăng trên blog du lịch cũng không phải là ngoại lệ. Việc sử dụng các tính từ cho phép các blogger chỉ ra những phẩm chất nào làm cho đối tượng quan tâm đáng để truy cập ( tác động ). Nó gợi lên những cảm xúc thẩm mỹ nhất định mà các blogger có thể đã trải nghiệm tại trang web, làm cho trang web trở nên hấp dẫn hơn (hoặc ít hơn) ( bố cục ). Bằng cách sử dụng các tính từ, đặc biệt là các tính từ có thể phân loại, các blogger cũng cho phép người đọc, những người có thể là khách du lịch tiềm năng, so sánh một thực thể được mô tả với những thực thể khác cùng loại và định vị nó trong một thang đo ( định giá ) . Đối với hình ảnh, Kress và van Leeuwen (1996, 2006) cho rằng ngoài việc thể hiện ý nghĩa lý tưởng, hình ảnh có thể cấu thành và duy trì sự tương tác giữa (những) nhà sản xuất và (những) người xem. Ý nghĩa tương tác của hình ảnh cũng được thể hiện ở vị trí của người xem và hình ảnh về mặt xã hội. Như đã lưu ý, vị trí xã hội của chúng ảnh hưởng đến những gì có thể được trình bày, cách trình bày và cách nó có thể được đọc và đưa vào sử dụng. Vì hình ảnh trong bài đăng trên blog có thể kết hợp với mô tả bằng lời nói để cho biết đánh giá của người viết blog về điểm đến, nên việc phân tích hình ảnh thường tập trung vào việc trả lời những câu hỏi sau: - những người tham gia được đại diện trong các hình ảnh là gì ? 7
- - thông điệp – ý nghĩa tương tác nào mà blogger muốn gửi đến khán giả thông qua lựa chọn hình ảnh của họ? Nhận thức về ý nghĩa tương tác trong hình ảnh tĩnh là các thuộc tính sau: liên hệ, khoảng cách xã hội, thái độ và các dấu hiệu nhất định về phương thức. Điều này liên quan đến việc phân tích các yếu tố như ánh mắt, khoảng cách chụp, loại góc và độ bão hòa màu. Tóm lại, các đánh giá quan trọng ở trên đã đưa ra thảo luận về hai vấn đề nổi bật. Đầu tiên, phân tích đa phương thức là khả thi đối với việc kiểm tra các văn bản du lịch nói chung và blog du lịch nói riêng. Do đó, thật hợp lý khi nghiên cứu này sử dụng các công cụ phân tích đa phương thức để điều tra các trường hợp xác thực theo miền cụ thể. Thứ hai, sẽ là quá sức đối với nghiên cứu này khi nghiên cứu mọi khía cạnh của từng siêu chức năng được thể hiện trong văn bản và hình ảnh. Do đó, các lựa chọn sáng suốt đã được thực hiện để bao gồm hệ thống đánh giá cao (Martin & White, 2005) để phân tích văn bản và thuộc tính của ý nghĩa tương tác (Kress & van Leeuwen, 2006) để phân tích hình ảnh tĩnh trong blog du lịch. 2 .2. DIỄN NGÔN DU LỊCH Du lịch với tư cách là ngôn ngữ tự nó có một diễn ngôn của riêng nó, trong đó có một hệ thống ngôn ngữ như từ vựng, biệt ngữ, thanh ghi, cấu trúc, ngữ pháp, phong cách, ngữ nghĩa và từ mới. Hoạt động của ngôn ngữ này được thực hiện thông qua một hệ thống ký hiệu và mã quy ước, với mục đích thuyết phục khách du lịch trở thành người mua tích cực các sản phẩm và dịch vụ du lịch. 2.2.1. Đặc điểm ngôn bản của diễn ngôn du lịch Theo Dann (1996, 2000), bốn tính chất thường có trong diễn ngôn du lịch bao gồm Chức năng, Cấu trúc, Thì và Phép. Một loại là các chức năng biểu cảm/cảm xúc/tình cảm có thể được quan sát thấy khi người nói, bằng cách sử dụng ngôn ngữ lời nói, thể hiện cảm xúc, thái độ, đánh giá và cảm xúc của họ. Cấu trúc dễ nhận biết hơn trong các văn bản xúc tiến du lịch. Các thì thường là Hiện tại và có thể chuyển đổi qua lại với Quá khứ, mặc dù “hiện tại lịch sử” được ưu tiên hơn. Mệnh lệnh thường được sử dụng để thuyết phục hoặc can ngăn, đưa ra hướng dẫn hoặc lời khuyên. Ma thuật có thể được tạo ra với danh pháp. 2.2.2. Đặc điểm hình ảnh của diễn ngôn du lịch Khi khách du lịch tương lai quyết định tận mắt nhìn thấy điểm đến, họ liên tục so sánh hình ảnh điểm đến được xây dựng trước đó với cái nhìn của họ , tức là những gì họ đang trải nghiệm, cho phép tái tạo lại hình ảnh điểm đến. Kodakization của thế giới (Urry, 2002) đã mở ra một thời điểm mà với máy ảnh của họ, bất kỳ khách du lịch nào cũng có thể mang trải nghiệm của họ về nhà bằng cách chia sẻ ảnh của họ và sau đó là video clip với nhóm bạn bè của họ ; 8
- 1 và cho các blogger du lịch, với độc giả và những người theo dõi họ. Do đó, những bức ảnh về điểm đến, đại diện cho cái nhìn trực quan của khách du lịch, có thể góp phần rất lớn vào quá trình khắc họa và xác nhận chân dung của họ về một điểm đến. Tóm lại, diễn ngôn du lịch nên được nghiên cứu một cách đa phương thức, tức là bằng cách phân tích các khía cạnh ngôn từ và hình ảnh của nó, hơn là theo kiểu đơn phương. 2.2.3. Các quan điểm ngôn ngữ xã hội của diễn ngôn du lịch Theo Halliday viết: “hệ thống ngôn ngữ là một hệ thống ngôn ngữ xã hội” (1978, p.72), nhiều nhà ngôn ngữ học đã xem ngôn ngữ học, trên thực tế, là ngôn ngữ xã hội, lập luận rằng mọi hành vi giao tiếp đều có liên quan về mặt xã hội. Vì du lịch đã được định vị lại trong khoa học xã hội, nên ngôn ngữ học xã hội có thể đưa ra những quan điểm lý thuyết toàn diện để nghiên cứu chức năng ngôn ngữ đề cập đến cả việc nghiên cứu các thành phần nghĩa trong hệ thống ngôn ngữ (tiềm năng) và nghiên cứu ý nghĩa xã hội của các hành vi lời nói cá nhân (thực tế). Thảo luận về các quan điểm lý thuyết của diễn ngôn du lịch bắt đầu từ những năm 1970 với sự độc đáo được giới thiệu bởi McCanell và các nhà nghiên cứu. Tiếp theo, Cohen (1972) đề xuất triển vọng của cái chưa biết . Said (1978) đề xuất viễn cảnh xung đột. Tuy nhiên, mãi đến năm 1996, Dann mới đưa ra cách xử lý ngôn ngữ xã hội học có hệ thống đầu tiên về ngôn ngữ và du lịch. Dann (1996, 2007a, 2007b) giới thiệu bốn quan điểm lý thuyết chính về du lịch, đó là tính xác thực, sự xa lạ, xung đột và vui chơi. Quan điểm về tính xác thực (xác thực) cho rằng động cơ chính của khách du lịch là tìm kiếm tính xác thực mặc dù, vì mục đích du lịch, cuộc sống thực của những người khác phần lớn đã bị thao túng và thương mại hóa. Những từ quan trọng thể hiện tính xác thực là điển hình, rất, thực tế, xác thực, thực , đúng , thuần túy, chính hãng , v.v. Quan điểm xa lạ (sự khác biệt) nhấn mạnh rằng động lực thúc đẩy việc đi du lịch là tìm kiếm sự xa lạ và những trải nghiệm mới (Dann, 1996). Thurlow (2012, p.11) cũng lưu ý rằng ngành du lịch cố gắng thể hiện những địa điểm khác biệt, khác biệt và độc đáo. Một số từ chỉ sự xa lạ bao gồm hoang sơ, xa xôi, hoang sơ, đầy màu sắc, đẹp như tranh vẽ, kỳ lạ, hấp dẫn, gần như, chưa biết, nguyên thủy, đơn giản, không phức tạp, tự nhiên, khác biệt, kỳ lạ, ngoạn mục, xa xôi, vượt thời gian, không thay đổi, truyền thống, phiêu lưu, khám phá, v.v. . 1“Kodakisation” bắt đầu từ thế kỷ 20 với sự phổ biến của máy ảnh Kodak (Francesconi, 2014, p.76). 9
- Quan điểm vui chơi (giải trí) coi du lịch như một trò chơi và cung cấp cho khách du lịch những trải nghiệm đặc biệt, thường không phù hợp với điều kiện tự nhiên và văn hóa của điểm đến (Dann, 1996). Điều này được phơi bày khi các điểm tham quan du lịch được xây dựng và thể hiện bằng các biển báo và thường không có địa điểm và không có thời gian; và khách du lịch có thể mang về các biểu tượng trạng thái và / hoặc danh hiệu tiêu dùng. Quan điểm xung đột (sự chiếm đoạt) liên quan đến sự khác biệt giữa trải nghiệm ly kỳ được cung cấp với quá khứ và hiện tại thực của các khu vực được thăm quan và cư dân của họ (Hollinshead, 1993, được trích dẫn trong Dann, 1996). Trong khi ba yếu tố kia được kết hợp trực tiếp và rõ ràng vào việc sử dụng ngôn ngữ, thì quan điểm xung đột lại bộc lộ rõ ràng hơn nhiều. Mức độ mà các thành phần ngôn ngữ xã hội này được tìm thấy trong một thể loại diễn ngôn du lịch nhất định có thể giúp xác định cách ngôn ngữ du lịch được sử dụng trong thể loại đó. 2.2.4. Blog du lịch - một thể loại diễn ngôn du lịch mới Sự ra đời của công nghệ đã khai sinh và nuôi dưỡng sự phát triển của thế giới blog du lịch. Blog du lịch có thể được công nhận là một phần của gia đình diễn ngôn du lịch không chính thức. Nó là một thể loại vĩ mô, hỗ trợ giao tiếp hai chiều, tức là một nền tảng giao tiếp “khách hàng với khách hàng ” (C2C) và được đặc trưng bởi các chức năng cung cấp thông tin, mô tả, thuyết phục và tư vấn. Nó cũng là một thể loại có đặc điểm ngôn ngữ riêng biệt. Theo D’Egidio (2014), về mặt ngôn ngữ, tường thuật trên các bài đăng trên blog du lịch là ở ngôi thứ nhất, bao gồm rất nhiều cách diễn đạt tích cực và tiêu cực, đồng thời truyền tải tính chủ quan của người viết về các khía cạnh khác nhau của điểm đến và kỳ nghỉ nói chung, cũng như nhu cầu và mong đợi về văn hóa của khách du lịch. Một blog du lịch bao gồm các tài liệu bằng lời nói và đa phương tiện , cả hai đều góp phần truyền đạt thông điệp của tác giả và bổ sung cho nhau trong việc thu hút người đọc. Tóm lại, có thể thấy rằng các blog du lịch, một thể loại mới nổi trong họ diễn ngôn du lịch, có thể có nhiều đóng góp cho ngôn ngữ học. Đầu tiên, chúng phục vụ các chức năng nổi bật của diễn ngôn du lịch như cung cấp thông tin, mô tả, thuyết phục và giải thích. Bên cạnh đó, chúng thể hiện mối quan hệ giữa các cá nhân giữa các blogger và độc giả blog thông qua các câu chuyện du lịch, đánh giá và lời khuyên ngầm/rõ ràng được kể bằng các phương tiện văn bản và hình ảnh. Ngoài ra, chúng mang tính phản xạ, có nghĩa là chúng thường quản lý để kể lại các chuyến đi với sự nhấn mạnh vào tính xác thực của trải nghiệm du lịch của người viết blog. Những đặc điểm này chứng minh rằng tác giả của mỗi blog du lịch, thông qua lời kể và hình ảnh về chuyến đi của họ tới một điểm đến, có thể trình bày cái nhìn của họ về các khía cạnh khác nhau của điểm đến đó và bày tỏ 10
- đánh giá của họ về từng trải nghiệm. Do đó, đa phương thức có thể là một cách tiếp cận phù hợp để xem xét cái nhìn và sự đánh giá của cái nhìn, đồng thời dựa trên một mô hình tổng quát cho cái nhìn và sự đánh giá của nó để phác họa bức tranh về điểm đến trong cuộc thảo luận. Ngoài việc miêu tả điểm đến, nó có thể giúp lọc ra các đặc điểm ngôn ngữ xã hội được thể hiện bằng cả hai phương thức tạo ý nghĩa trong các blog du lịch. 2.3. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 2.3.1. Nghiên cứu diễn ngôn du lịch trong nghiên cứu khoa học xã hội Theo truyền thống, các nghiên cứu về du lịch chịu ảnh hưởng của các mô hình thực chứng và hậu thực chứng, tập trung vào các khía cạnh kinh tế và dựa trên các phương pháp nghiên cứu định lượng (Jennings, 2009, trích dẫn trong Francesconi, 2014, tr.7). Tuy nhiên, khoa học xã hội và khoa học môi trường đã dần dần tham gia vào việc định nghĩa lại du lịch là “phức hợp, đa tầng và đa dạng ” (Francesconi, 2014, tr.7). Điều này đã dẫn đến sự quan tâm ngày càng tăng trong việc nghiên cứu du lịch từ đa ngành quan điểm. Như Djafarova (2008, tr.12-13) nhận xét, các chuyên gia marketing phân tích “tiếp thị các đối tượng du lịch”, các nhà kinh tế nghiên cứu “các vấn đề kinh tế của du lịch”, các nhà nhân chủng học quan sát tác động của du lịch đối với văn hóa, các nhà xã hội học nghiên cứu “các tác động của du lịch đối với các thành viên của xã hội” và các nhà ký hiệu học nghiên cứu “ý nghĩa của các dấu hiệu ngôn ngữ trong các dấu hiệu du lịch”. Điều đáng chú ý là các công trình nghiên cứu về diễn ngôn du lịch được thực hiện trên một số góc độ, với một số kiểu văn bản. Ví dụ, các nhà nghiên cứu kinh doanh đã xem xét việc xây dựng các mô hình hình ảnh điểm đến bằng cách nghiên cứu các tài liệu giới thiệu địa điểm, tờ rơi, quảng cáo hoặc các tài liệu quảng cáo khác trong khi ngôn ngữ học có xu hướng chú ý nhiều hơn đến cách sử dụng ngôn ngữ của khách du lịch và khách du lịch có thể hình dung điểm đến. Tuy nhiên, đây không phải là một sự phân biệt tuyến tính; trong một số trường hợp, đánh giá của khách du lịch được phân tích về tác động của điểm mạnh và điểm yếu. Bên cạnh đó, hầu hết các công trình nghiên cứu về du ký sử dụng khung phân tích đa phương thức hầu hết đều là nghiên cứu tình huống. 2.3.2. Nghiên cứu hình ảnh điểm đến trong blog du lịch Đánh giá của khách du lịch là dữ liệu nguồn trong một số nghiên cứu về hình ảnh điểm đến. Đáng chú ý là hầu hết các công trình nghiên cứu này đều quan tâm đến xây dựng thương hiệu và tiếp thị hơn là các hàm ý ngôn ngữ. Nhằm mục đích xây dựng mô hình phân tích hình ảnh điểm đến , có các công trình của Klein, Ettenson và Morris (1998), Orbaiz và Papadopoulos (2003), Li & Vogelsong (2002) và Elliot (2011) sử dụng đánh giá từ khách du 11
- lịch. như dữ liệu của họ. Ba nghiên cứu đầu tiên sắp xếp tam giác điểm đến, sản phẩm và hình ảnh quốc gia. Họ chỉ ra rằng hình ảnh quốc gia nhận thức có ảnh hưởng lớn hơn đến các yếu tố sản phẩm so với các yếu tố điểm đến, trong khi hình ảnh quốc gia tình cảm có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp nhận hơn là gián tiếp đến niềm tin. Trong khi đó, nghiên cứu của Elliot (2011) đề xuất một mô hình quảng bá hình ảnh điểm đến trong đó việc xây dựng và tiếp thị hình ảnh điểm đến nằm trong tay Tổ chức Du lịch Điểm đến. Về việc phát hiện ra một hình ảnh điểm đến được cảm nhận trong các blog du lịch ngụ ý cải thiện dịch vụ du lịch hơn nữa , có những công trình như của Pan, MacLaurin và Crotts (2007 ) và Wenger (2008). Pan và nhóm của anh ấy đã hiểu rõ hơn về trải nghiệm du lịch của các blogger và giải quyết một số cách để các nhà tiếp thị điểm đến đánh giá chất lượng dịch vụ của họ và cải thiện trải nghiệm tổng thể của khách du lịch. Trong khi đó, Wenger (2008) phân tích nội dung của các mục blog để xác định nhận thức tích cực và tiêu cực về Áo. Cô ấy kết luận rằng các mục blog được đề cập cung cấp nội dung tích cực nhất quán về Áo như một điểm đến trong kỳ nghỉ. Có rất ít điểm đến, điểm tham quan, phong cách vận chuyển hoặc chỗ ở, v.v. Wenger đề nghị tiến hành nghiên cứu thêm để đánh giá mức độ hữu ích của thông tin về hình ảnh điểm đến có thể được rút ra từ nội dung blog. Các nghiên cứu về hình ảnh điểm đến của Việt Nam còn hiếm và được thực hiện theo kiểu đơn phương. Chỉ có hai nghiên cứu xem xét hình ảnh điểm đến trong các bài đánh giá du lịch trực tuyến, chẳng hạn như các diễn đàn và các trang web có nội dung do người dùng tạo khác. Công trình gần nhất có lẽ là của Lương (2019), trong đó người nghiên cứu tìm hiểu các thuộc tính và mô tả chính của hình ảnh điểm đến Việt Nam. Trong khi đó, Đinh (2020) tiếp cận hình ảnh điểm đến một cách trực quan bằng cách phân tích ảnh của du khách Việt Nam và chú thích của họ được thu thập từ các diễn đàn ảnh du lịch. Nhìn chung, các nghiên cứu về hình ảnh điểm đến trên thế giới và ở Việt Nam đều nhằm mục đích tiếp thị và xây dựng thương hiệu hơn là xây dựng hình ảnh về mặt xã hội của điểm đến đó. Giống như trường hợp của Việt Nam, có rất ít nghiên cứu về hình ảnh điểm đến được tiêu thụ/sao chép trên các đánh giá du lịch của du khách quốc tế, điều này cho thấy cần phải điều tra thêm về lĩnh vực này để có thông tin về những gì khách du lịch từ các quốc gia khác coi là thuộc tính của Việt Nam . Ngoài ra, không có nghiên cứu nào trong số này lấy dữ liệu đa phương thức từ các blog du lịch mà thay vào đó dựa vào một chế độ dữ liệu. Điều này thông báo khoảng trống cho công việc nghiên cứu này để điền vào. 2.1.2. Nghiên cứu góc nhìn du khách trong blog du lịch Nghiên cứu góc nhìn du khách, tức là những gì khách du lịch thực sự làm và nhìn khi đến thăm một địa điểm du lịch và cách họ đánh giá địa điểm đó, 12
- thường thuận tiện hơn khi được tiến hành bằng cách nghiên cứu ngôn ngữ được sử dụng bởi các blogger du lịch và các phóng viên mảng du lịch. Các nghiên cứu có thể liên kết góc nhìn của khách du lịch với các khía cạnh nhất định của tương tác xã hội. Về việc liệu góc nhìn có chịu tác động của giới hay không , Zhang & Hitchcock (2017) nghiên cứu trải nghiệm của các nữ du khách Trung Quốc và cái nhìn của họ về Macao. Nghiên cứu chỉ ra rằng trong khi các du khách nữ Trung Quốc đôi khi nhầm lẫn về cuộc sống hiện đại và những ký ức về truyền thống của họ khi du lịch Macao, họ coi việc đi du lịch đến điểm đến này là một cách để củng cố bản sắc cũng như tăng cường mối quan hệ. . Những phát hiện này củng cố giả thuyết chung của Urry rằng “cái nhìn của khách du lịch” là một cách ứng xử được học hỏi về mặt văn hóa phản ánh những gì mà khách du lịch mong đợi được nhìn thấy. Cũng theo đó, cái nhìn được phân biệt giới tính và đó là một hiện tượng ngẫu nhiên về mặt xã hội. Xét về những gì có thể ảnh hưởng đến góc nhìn của khách du lịch , D'Egidio (2014) khám phá ngôn ngữ được sử dụng bởi khách du lịch thông thường thông qua phân tích dựa trên văn bản về blog du lịch và báo cáo chuyến đi viết bằng tiếng Anh và tiếng Ý. Cô ấy chứng minh rằng trong phạm vi nghiên cứu, cái nhìn của khách du lịch có thể được trung gian thông qua tài liệu quảng cáo, hướng dẫn du lịch, trang web, v.v. Một phát hiện khác là cái nhìn của khách du lịch bên ngoài tại một địa điểm du lịch đặc biệt được trung gian hóa cao hơn so với của người trong cuộc. Cô cũng kêu gọi sự chú ý từ các nhà thiết kế và dịch giả các văn bản quảng cáo du lịch để tạo ra các văn bản phù hợp với mong đợi của độc giả và tăng lượng tiêu thụ quốc tế theo đó. Về quan điểm văn hóa được phản ánh trong cái nhìn của khách du lịch, Grossman & Enoch (2010) và Denti (2015) đều xem xét các bài viết trên blog của khách du lịch bên ngoài. Grossman & Enoch (2010) xem xét cách các nhà văn đến từ các quốc gia khác nhau tiếp xúc với nền văn hóa nước ngoài. Sau đó, họ phân biệt hai loại khách du lịch, ''những người quốc tế'', những người sẵn sàng giao lưu với các thành viên của một nền văn hóa khác và ''những người tỉnh lẻ'' hoặc ''người dân địa phương'', những người hầu như vẫn gắn bó với nền văn hóa của họ. Denti (2015) điều tra nhận thức của 10 blogger về Ý và các đại diện đa văn hóa của họ. Cô nhấn mạnh việc sử dụng các phương tiện thuyết phục trong việc truyền tải cảm nhận của các blogger về nước Ý và bằng chứng về “tính xác thực” mà khách du lịch cảm nhận. Tóm lại, hầu hết các công trình nghiên cứu về du lịch trước đây lấy blog du lịch làm đối tượng nghiên cứu đều tập trung vào việc phân tích cái nhìn hiện thân của khách du lịch bằng cách khám phá ngôn ngữ mà các tác giả của blog sử dụng và trong một số công trình nghiên cứu nhất định, sự lựa chọn hình ảnh tĩnh 13
- của họ trong mỗi bài đăng trên blog . Vì các bài đăng trên blog du lịch luôn bao gồm cả tài nguyên bằng lời nói và hình ảnh, rõ ràng là chúng có thể được nghiên cứu đa phương thức. Trong phần tiếp theo, nghiên cứu đa phương thức theo cách tiếp cận Hallidayan được khái niệm hóa nhằm đặt nền móng cho việc xây dựng khung khái niệm để tiến hành phân tích đa phương thức các blog du lịch. Bằng cách xem xét và tổng hợp những vấn đề này, một khung khái niệm cho luận án này sẽ được xây dựng. 2.4. KHUNG KHÁI NIỆM CỦA NGHIÊN CỨU Nói chung, nghiên cứu lấy Ngôn ngữ học chức năng hệ thống làm lý thuyết bao quát cho khung khái niệm đa phương thức để nghiên cứu các lĩnh vực trong siêu chức năng giữa các cá nhân của các blog du lịch. Khung này dựa vào Lý thuyết Ngôn ngữ đánh giá để khám phá các phẩm chất đánh giá được mã hóa trong lựa chọn tính từ đánh giá và Ngữ pháp Hình ảnh để giải mã ý nghĩa tương tác của hình ảnh tĩnh. Sự đồng xuất hiện của hai nguồn tạo ý nghĩa này bao gồm cái nhìn của khách du lịch và cách cái nhìn được đánh giá cao, từ đó hình thành nên hình ảnh điểm đến, hay trong nghiên cứu này, là bức chân dung về Việt Nam. Sự xuất hiện đồng thời này gợi ý việc xác định các tính năng đặc trưng cho các blog du lịch về mặt ngôn ngữ xã hội. CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu này dựa vào mô hình thuyết kiến tạo xã hội, hay thế giới quan , lấy quan điểm đa phương thức về ký hiệu học xã hội, và là một nghiên cứu điển hình 14
- . Để tìm ra câu trả lời cho hai câu hỏi nghiên cứu, quy trình phân tích nội dung được thực hiện trên dữ liệu đa phương thức. Quy trình này bao gồm việc thu thập và mã hóa dữ liệu đa phương thức, sử dụng các chương trình máy tính để phân tích dữ liệu theo lĩnh vực và các mẫu cấu trúc tính từ cũng như xử lý dữ liệu định tính để hiểu sâu hơn về các trường hợp trong từng lĩnh vực. 3.1. Mô hình kiến tạo xã hội Nghiên cứu này về siêu chức năng giữa các cá nhân của các blog du lịch được định hướng bởi thuyết kiến tạo xã hội theo nghĩa rằng du lịch là một hiện tượng xã hội, và do đó những gì xảy ra trong thế giới của nó nên được quan sát và giải thích trong các tình huống có tính ngữ cảnh cao (Hollinshead, 2006). Bằng cách này, các đồ tạo tác du lịch, cảnh quan thiên nhiên và lối sống địa phương có thể tạo điều kiện tương tác trực tiếp với khách du lịch. Chúng có thể được sử dụng như là sự thể hiện ý nghĩa tượng trưng vốn có của chúng, và việc sử dụng như vậy có thể góp phần tạo nên hình ảnh được xây dựng của khách du lịch về địa điểm. Sự tương tác giữa khách du lịch và các địa điểm cũng có thể đáp ứng sự thể hiện quan điểm ngôn ngữ xã hội mà khách du lịch nắm giữ. Nói cách khác, bằng cách áp dụng thế giới quan của chủ nghĩa kiến tạo xã hội, nghiên cứu này có thể xem xét sự tương tác giữa điểm đến và du khách và rút ra một mô hình ý nghĩa từ sự giao tiếp như vậy. 3.2. Nghiên cứu trường hợp Đây là một nghiên cứu thiết kế theo nghiên cứu trường hợp điển hình ở chỗ nó mô tả một “sự kiện”, đó là chuyến du lịch của các blogger đến Việt Nam. Vì động cơ đăng bài trực tuyến của một blogger phần lớn là do mối quan hệ qua lại của họ với khán giả, những người đã cho họ vốn xã hội như một điều kiện để họ tương tác với nội dung blog (Papacharissi & Eastman, 2012), các bài đăng trên blog của họ có xu hướng đưa ra lời tường thuật kinh nghiệm du lịch của họ cũng như cung cấp lời khuyên du lịch. Do đó, bằng cách tiến hành một nghiên cứu trường hợp, nhà nghiên cứu sẽ có thể điều tra cách các blogger mô tả các sự kiện và tìm cách hiểu được cái nhìn và đánh giá của họ. “Sự kiện” được xử lý trong nghiên cứu này là chuyến du lịch của các blogger đến Việt Nam, do đó tất nhiên nó nằm ngoài tầm kiểm soát hoặc thao túng của nhà nghiên cứu. Việc thu thập dữ liệu được phân tích bao gồm 21.062 từ và 113 bức ảnh, là khối lượng ngữ liệu có thể xử lý hiệu quả đồng thời cung cấp tài liệu phong phú để khám phá mô tả và đánh giá của các blogger về đất nước. Sự phong phú và sinh động tiềm ẩn này đạt được nhờ đan xen giữa phân tích văn bản và hình ảnh trong việc trả lời từng câu hỏi nghiên cứu và đạt được mục tiêu nghiên cứu. 3.3. Phương pháp phân tích nội dung Do các câu hỏi nghiên cứu chính của nghiên cứu này tập trung vào việc 15
- miêu tả Việt Nam như một điểm đến du lịch của các blogger du lịch người Anh và các quan điểm ngôn ngữ học xã hội nổi bật trong những gì được quan sát, nên cần phải tìm hiểu những gì các blogger đang mô tả bằng các văn bản của họ. bài đăng trên blog. Bằng cách thực hiện quy trình của phương pháp phân tích nội dung, dữ liệu văn bản được phân loại và mã hóa, đồng thời các tài nguyên hình ảnh được tổ chức xung quanh các chủ đề trọng tâm. Quy trình phân tích nội dung cho phép nhà nghiên cứu xác định cái nhìn của khách du lịch gắn liền với lời kể bằng lời nói và hình ảnh của họ về các chuyến đi cũng như sự đánh giá cao của cái nhìn và đạt được ý nghĩa ngôn ngữ xã hội của các bài đăng trên blog. 3.4. Nghiên cứu thí điểm Trong quá trình thực hiện luận án này, tác giả đã tiến hành hai giai đoạn nghiên cứu thử nghiệm. Cả hai đều dựa trên lý thuyết Ngôn ngữ học Chức năng Hệ thống của Halliday và phần mở rộng của nó trong phân tích hình ảnh, đó là Ngữ pháp Thiết kế Trực quan của Kress và van Leewen. Họ đã đưa ra những cân nhắc quan trọng về lý thuyết và thực tiễn. Đặc biệt, giai đoạn thứ hai của nghiên cứu thí điểm đặt ra một số vấn đề cần xem xét. Thứ nhất, nó đã chứng minh rằng một khuôn khổ bắt nguồn từ Lý thuyết Thẩm định (Martin & White, 2005) và Ngữ pháp Thiết kế Trực quan (Kress & van Leeuwen, 2006) thực sự hiệu quả. Thứ hai, nó trả về những phát hiện thú vị hỗ trợ hoặc bác bỏ những phát hiện hiện tại trong nghiên cứu về cái nhìn của khách du lịch, điều này kích hoạt nghiên cứu sâu hơn để xác nhận xem các mẫu có thể được khái quát hóa hay không. Quan trọng nhất, nó đã chỉ ra rằng mặc dù phân tích nội dung bằng máy tính bằng cách đếm từ khóa có thể hữu ích, nhưng chính quá trình xem xét lại dữ liệu của nhà nghiên cứu mới có đóng góp lớn. Do đó, có thể hữu ích nếu hạn chế số lượng người viết blog nhưng thay vào đó, hãy tăng số lượng bài đăng trên blog của họ trong nhóm dữ liệu để phân tích sâu hơn. Các phát hiện và cân nhắc từ nghiên cứu thí điểm đã thông báo quyết định cho quy trình và khung phân tích của nghiên cứu chính thức này. 3.5. Quy trình thu thập và phân tích dữ liệu Nhìn chung, quy trình thu thập và phân tích dữ liệu được phát triển từ quy trình phân tích dữ liệu gợi ý trong nghiên cứu định tính (Creswell & Creswell, 2018) và cụ thể hơn là trong phân tích nội dung định tính (Krippendoff, 2004 ) . Ở bước 1 , nhà nghiên cứu đã thu thập dữ liệu đa phương thức cho nghiên cứu. Ở bước 2 , dữ liệu đã trải qua quy trình làm sạch để sẵn sàng cho việc trích xuất từ khóa và tính toán tần suất. Ở bước 3 , nội dung văn bản trong bộ sưu tập dữ liệu đã được mã hóa màu. Các hình ảnh tĩnh trong thư mục riêng của chúng được đánh số và mã hóa 16
- theo tên ẩn danh của mỗi blogger. Một hệ thống mã hóa được xây dựng theo các phân loại đánh giá cao tính từ của Martin & White và ý nghĩa tương tác phân loại của Kress & van Leeuwen trong các thiết kế trực quan. Ở bước 4 , ba công cụ tính toán đã được sử dụng đồng thời để (1) trích xuất danh sách Từ khóa, (2) xếp hạng tần suất của các từ trong nhóm dữ liệu và (3) xác định sự phù hợp của các từ xuất hiện thường xuyên trong nhóm dữ liệu. Bằng cách đó, các lĩnh vực (hoặc chủ đề) mà các blogger nhìn vào Việt Nam đã được rút ra và kiểm tra chéo. Hình ảnh tĩnh đã được xem nhiều lần về vai trò của chúng liên quan đến các mô tả văn bản và những người tham gia được đại diện trong đó . Điều này giúp đưa các hình ảnh tĩnh vào các lĩnh vực/chủ đề đang được xem. Ở bước 5 , phân tích được tiến hành trên từng miền cho các trường hợp cụ thể. Các tính từ đánh giá đã được gắn thẻ và xử lý trong Concordancers để tìm ra các mẫu đánh giá được mã hóa trong từng phiên bản của miền. Hình ảnh tĩnh được tổng hợp thêm theo miền và trường hợp để tìm hiểu xem có trường hợp nào được đánh giá cao bằng lời nói nhưng không trực quan và ngược lại. Ở bước 6 , phân tích nội dung định tính được thực hiện trên cả văn bản và hình ảnh tĩnh. Mô tả cụ thể hơn về ý nghĩa tương tác của hình ảnh tĩnh đã được đưa ra, cùng với bằng chứng từ dữ liệu bằng lời nói, giúp liên kết các mức độ đánh giá và các đặc điểm ngôn ngữ xã hội mà các blog du lịch này chỉ ra. Ở bước 7 và 8 , việc giải thích các ý nghĩa phát sinh từ việc liên kết các chủ đề, mô tả, lĩnh vực và trường hợp của nó đã được thực hiện; và những phát hiện từ phân tích dữ liệu đã được thảo luận. Sau đó nhà nghiên cứu đưa ra kết luận cho nghiên cứu. CHƯƠNG 4: GÓC NHÌN VÀ ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC BLOGGERS VỀ VIỆT NAM 4.1. Những khía cạnh của Việt Nam được các blogger miêu tả Nhóm dữ liệu bao gồm 21.062 từ và 133 ảnh. Các danh sách từ khóa gợi ý rằng đối với các blogger này, các chủ đề thảo luận bao gồm các địa điểm nên đến (ví dụ: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hội An, bãi biển, chợ, bảo tàng, chùa chiền, v.v.), các hoạt động nên làm (tham quan, ẩm thực, cửa hàng, v.v.), món ăn nên thử (đồ ăn, cà phê), nơi lưu trú cho đến cuộc sống địa phương (xe máy, văn hóa, người dân địa phương). Có gợi ý đánh giá của các blogger về những thứ này (ngon, nổi tiếng [món ăn], đẹp [phong cảnh], thân thiện, hữu ích [người dân địa phương], điên cuồng [giao thông]). Một bản quét các tính từ được sử dụng trong các bài đăng trên blog cho thấy rằng tất cả năm blogger đều nhận xét Việt Nam là một nơi sôi động với sự đa dạng. Phân tích nội dung định tính của kho dữ liệu cho thấy mặc dù du khách 17
- bắt đầu chuyến đi ở những địa điểm khác nhau nhưng lại đặt chân đến những địa điểm đến khá giống nhau . Về các hoạt động nên làm , các du khách kể lại trải nghiệm của họ với tham quan và nếm thử đồ ăn ở tất cả các điểm đến, nhưng mua sắm ở TP.HCM, Hội An và Hà Nội, thể thao dưới nước ở Vịnh Hạ Long và Nha Trang, cuộc sống về đêm ở Hà Nội, TP.HCM, Hội An và Nha Trang, và hội thảo thực hành tại Hội An. Về ẩm thực , ẩm thực đường phố nói chung và cà phê, phở nói riêng là thứ làm mê mẩn du khách. Họ cũng phải lòng lối sống, chỗ ở, sự an toàn và giá rẻ của người Việt Nam, và bị thu hút bởi những con đường chật hẹp và giao thông điên cuồng của đất nước này. Không ai trong số họ đề nghị mua những thứ từ những người bán hàng rong. 4.2. Đánh giá về Việt Nam thể hiện qua góc nhìn du khách Sự đánh giá các khía cạnh khác nhau của đất nước có thể được tìm thấy bằng cách tiến hành phân tích văn bản và phân tích hình ảnh. So sánh giữa số lượng từ chạy và số lượng hình ảnh trong các bài đăng trên blog này cho thấy văn bản đóng vai trò chính và hình ảnh tĩnh đóng vai trò phụ trong việc kể lại trải nghiệm của khách du lịch. Nói cách khác, hình ảnh tĩnh đóng vai trò là bằng chứng “đã ở đó, đã làm điều đó” để làm rõ tài khoản văn bản. 4.2.1. Đánh giá các địa điểm nên đến Dữ liệu cho thấy Vịnh Hạ Long và Hội An là hai địa điểm được yêu thích nhất, được du khách khen ngợi về mọi mặt. TP.HCM được đánh giá cao về đặc điểm của một quốc tế. Hà Nội và Nha Trang nhận được nhiều đánh giá tiêu cực hơn những nơi khác. Nha Trang và Phú Quốc bị cho điểm thấp hơn so với các đối tác Thái Lan. Sapa, Huế và Đà Lạt được đánh giá tích cực bởi những du khách đến thăm chúng, mặc dù có những giá trị tiêu cực nhỏ. Cũng cần lưu ý rằng đặc điểm “hỗn loạn” của Hà Nội, mặc dù được đánh dấu là thành phần tiêu cực, không nhất thiết thể hiện sự đánh giá tiêu cực của du khách. Thay vì cảm thấy bất an trước sự hỗn loạn, hầu hết du khách lại coi đó là một đặc điểm của thành phố này, và cảm thấy vui vẻ khi dần dần hòa mình vào sự hỗn loạn đó. Hình ảnh về những nơi không có sự hiện diện của mọi người chiếm số lượng lớn nhất và xuất hiện trong tất cả các bài đăng. Có 57 ảnh phù hợp với hạng mục này, tất cả đều được chụp ở chế độ chụp xa, từ khoảng cách xa, từ các góc thấp hoặc ngang tầm mắt. Tầm nhìn xa trong các bức ảnh về điểm đến thể hiện mối quan hệ khách quan giữa khách du lịch và điểm đến. Các bức ảnh nhằm thể hiện tính khách quan trong mô tả của khách du lịch. Họ thuyết phục người đọc rằng những gì họ đã mô tả bằng văn bản là nguyên bản và đáng giá, điều này nhận ra đặc tính định giá của các văn bản. 4.2.2. Đánh giá các hoạt động nên làm Danh mục thứ hai, Các hoạt động cần làm, có một danh sách đa dạng 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 303 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 287 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 178 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 264 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 173 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 193 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 182 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 134 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 117 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 169 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn