intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

154
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án thống kê cụ thể các thành phần từ ngữ về quy mô, số lượng, tỷ lệ của các thành phần ngữ liệu bác học, bình dân trong Truyện Kiều, so sánh giữa Truyện Kiều với một số truyện thơ Nôm khác. Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ VÕ MINH HẢI NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU  TỪ GÓC NHÌN VĂN HOÁ Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số             : 60 22 01 21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015
  2. Công trình được hoàn thành tại: Khoa Ngữ văn, Trường Đại học  Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Thu Yến (ghi rõ họ tên, chức danh khoa học, học vị) Phản biện 1: PGS. TS. Lê Giang          Trường ĐH KHXH & NV, Đại học Quốc  gia                        Thành phố Hồ Chí Minh  Phản biện 2: PGS. TS. Nguyễn Thành Thi                      Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh Phản biện 3: TS. Nguyễn Ngọc Quận                      Trường ĐH KHXH & NV, Đại học Quốc  gia                        Thành phố Hồ Chí Minh                          Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án  cấp Trường họp tại:...vào hồi……giờ…ngày….tháng… năm 2015 Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
  3. ­ Thư viện Quốc gia Việt Nam ­  Thư viện Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh ­  Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm văn học cổ điển  Việt Nam nói chung và ngôn ngữ nghệ thuật  Truyện Kiều nói riêng  từ  góc độ  văn hoá là một hướng tiếp cận có tính chất liên ngành.  Thông qua hệ  thống ngữ  liệu có hàm lượng văn hóa, một số  nhà   nghiên cứu đã đi sâu, khám phá nội dung, tư  tưởng thẩm mỹ  và  phong cách văn hoá của Nguyễn Du trong hành trình sáng tạo và  những đóng góp cụ thể của ông cho văn học nước nhà. Từ những ý  nghĩa và tính chất cấp thiết ấy, chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài luận   án Ngôn ngữ  nghệ  thuật Truyện Kiều từ  góc nhìn văn hoá  như  một sự  thể  nghiệm, biện giải mối quan hệ  ngôn ngữ  và văn hoá   thông qua các mối quan hệ biện chứng giữa chúng. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều Từ  góc nhìn lịch sử  phát sinh, tuỳ  theo từng mục đích và tính  chất khác nhau của các chuyên luận, tiểu luận nghiên cứu, vấn đề  ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều được xem xét từ nhiều góc độ  với nhiều khái niệm khác nhau. Trong giáo trình Lịch sử văn học Việt   Nam (tập 3) của nhóm tác giả  Đại học Sư  phạm, Lê Trí Viễn đã   cho rằng “Tác giả  Truyện Kiều  cũng tiếp tục truyền thống vay  
  4. mượn văn học Trung Quốc đã có từ  lâu. Hoặc lấy ngay những   thành ngữ  chữ  hán, hoặc thu gọn những  điển cố  trong văn học   Trung Quốc thành những thành ngữ  bằng tiếng Việt Nam, hoặc   chuyển   hình   ảnh   trong   thơ   Trung   Quốc   sang   thơ   Việt   Nam” .  Nguyễn Lộc trên  Tạp chí Văn học  số  11 năm 1965 với bài viết  Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều và tiếp tục trong công trình  Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII  hết thế kỷ XIX)  đã khảo  sát nghệ  thuật sử  dụng từ ngữ của Nguyễn Du  ở các phương diện  như từ Hán Việt, điển cố, thi liệu... Tiếp tục những kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lộc, Đào  Thản khẳng định: Ngôn ngữ  Truyện Kiều nói chung không có vay   mượn xa lạ  và cầu kì như  Cung oán ngâm khúc, không có cái đài   các quá ư lộng lẫy nhưng bề bộn rườm rà của Hoa tiên hay đẽo gọt   vụng về  của Sơ  kính tân trang. Quả  thật ngôn ngữ  Truyện Kiều   gần với thôn ca hơn cả.   Về vấn đề ngôn ngữ  Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy, những  khái quát về  giá trị  ngôn ngữ  của tác phẩm này đã có những đánh   giá cụ  thể  bằng nhãn quan thẩm mỹ  mang tính định lượng, bằng  những số  liệu thống kê khá cụ  thể  và chi tiết, cụ  thể  có:  Từ  điển   Truyện Kiều của Đào Duy Anh, Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình  Sử, Tìm hiểu từ ngữ Truyện Kiều của Lê Xuân Lít, Từ ngữ Việt và từ   ngữ  Hán Việt trong ngôn ngữ  nghệ  thuật Truyện Kiều  của Nguyễn  Thuý   Hồng,  Tiếp  cận  Truyện   Kiều  từ   góc   nhìn  văn  hóa  của   Lê  Nguyên Cẩn.... 2.2. Nghiên cứu ngôn ngữ  văn nghệ  thuật Truyện Kiều từ   góc nhìn văn hoá Mai Quốc Liên trong bài viết  Dòng bác học và dòng bình dân   trong ngôn ngữ  Truyện Kiều  (1966) đã cho rằng: “Nguyễn Du là  
  5. một nhà thơ  vô song đã đóng góp rất nhiều vào ngôn ngữ  văn học   dân tộc. công lao của ông trong việc kế  thừa một cách sáng tạo   ngôn ngữ dân gian và trong việc sử dụng tài tình ngôn ngữ văn học   Trung Quốc. Thành tựu tuyệt vời của ông trong việc làm phong   phú, làm trong sáng ngôn ngữ văn học thế kỷ XIX đã có ảnh hưởng   sâu xa và lâu dài đến sự phát triển ngôn ngữ  văn học dân tộc ta” .  Sau Mai Quốc Liên, Lê Đình Kỵ  cũng khảo sát  Sắc thái bác học,   sắc thái bình dân và tính thống nhất của ngôn ngữ  Tru yện Kiều,  ông cũng thống nhất quan điểm “làm thế nào kết hợp giữa hai thành   phần đó trong cùng một tác phẩm mà không có sự phân ly, chắp nối.   Hoàn cảnh mỹ  học cụ  thể  lúc bấy giờ  cho phép sự  thống nhất hai   thành phần ấy trong một sự kết hợp biện chứng, hữu cơ”. Về  ngôn ngữ  bình dân, nhất là lớp từ  ngữ  dân tộc qua ca dao,   tục  ngữ,   lối   nói   khẩu  ngữ,  từ   địa  phương  đã   được  các  tác   giả  Hoàng   Hữu   Yên   trong  Cái   hay,   cái   đẹp   của   tiếng   Việt   trong   Truyện Kiều, Phạm Đan Quế trong Về những thủ pháp nghệ thuật   trong   văn   chương   Truyện   Kiều,  Thế   giới   nghệ   thuật   Truyện   Kiều...  đã có những kết luận cơ bản.  Qua một số hướng tiếp cận văn hoá đã đề  cập trên, chúng tôi  cho rằng việc khảo sát hệ thống ngữ liệu mang hàm nghĩa văn hoá   trong ngôn ngữ nghệ  thuật truyện Nôm nói chung và  Truyện Kiều  nói riêng là một vấn đề hấp dẫn và cần có sự đầu tư thỏa đáng.  3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn chúng tôi là hệ thống  ngữ  liệu bác học và bình dân mang hàm nghĩa văn hoá trong ngôn  ngữ nghệ thuật Truyện Kiều. 
  6. 3.2. Phạm vi nghiên cứu  Phạm vi nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ giữa ngôn ngữ và  văn hoá, những  ảnh hưởng của văn hoá bác học, văn hoá Hán và  văn hoá bình dân, văn hoá Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật  Truyện   Kiều.  3.3. Văn bản khảo sát, đối chiếu và thống kê Văn bản Truyện Kiều được khảo sát trong luận văn của chúng  tôi là bản  Truyện Thuý Kiều  (1925, tái bản 1953) do Bùi Kỷ  và  Trần Trọng Kim hiệu khảo.  4. Mục tiêu nghiên cứu Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi sẽ tiến hành thống  kê cụ  thể  các thành phần từ  ngữ  về  quy mô, số  lượng, tỷ  lệ  của   các thành phần ngữ  liệu bác học, bình dân trong  Truyện Kiều, so  sánh giữa Truyện Kiều với một số truyện thơ Nôm khác. 5. Phương pháp nghiên cứu:  Phương pháp tiếp cận văn hóa   đối với tác phẩm văn học, Phương pháp thống kê, phân loại và so   sánh;   Phương   pháp   phân   tích   miêu   tả;   Phương   pháp   phân   tích   logic; Phương pháp tổng hợp, khái quát hoá 6. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ cơ bản của luận văn là tiến hành phác hoạ một cách  chân thực bức tranh văn hoá, quan niệm văn hoá, một thế  giới trữ  tình của Nguyễn Du và Truyện Kiều của ông.  7. Những đóng góp của luận án      Việc tìm hiểu các tầng nghĩa bề  nổi, lớp trầm tích văn hoá ẩn  dấu  bên  trong  hệ   thống  ngôn  ngữ   thể   loại   truyện  Nôm   là   một   hướng giải mã văn hoá khá mới mẻ, góp phần nâng cao chất lượng 
  7. nghiên cứu và giảng dạy truyện thơ  Nôm trong nhà trường cũng  như trong giới học thuật.  8. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục,   luận án được chia thành 03 chương.  Chương 1.   MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA  NHÌN TỪ QUAN NIỆM THẨM MỸ TRUNG ĐẠI 1. 1. Ngôn ngữ với văn chương và văn hóa 1.1.1. Ngôn ngữ và văn chương từ góc nhìn văn hóa       Trong dòng chảy văn hoá của một dân tộc, với những chức năng  cơ bản của mình, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện, là công cụ tư  duy, giao tiếp, lưu trữ… mà nó còn là chất liệu cơ bản để xây dựng   nên thế  giới nghệ thuật thấm đẫm những sắc màu văn hoá của cả  một dân tộc, một thời đại hay một cá nhân văn hoá cụ thể ­ nhà văn.  Bên cạnh đó, với tư  cách là mạch ngầm văn hoá, ngôn ngữ  còn là   một trong những yếu tố  cấu thành văn hoá, có sức lan toả  và làm  sáng tỏ những tính chất trội bật của một nền văn hoá trong đời sống   xã hội của một dân tộc. 1.1.2. Sự tác động của ngôn ngữ đối với văn hoá    Ngôn ngữ đã góp phần không nhỏ trong việc phản ánh, thể  hiện và phát triển những giá trị, những yếu tính cốt lõi của văn hoá.   Nó là thước đo nhân bản của xã hội và con người. Ngôn ngữ ­ một   hiện hữu vật chất căn bản – sẽ giúp cho văn hoá và các giá trị căn  bản của nó sẽ khúc xạ, ngấm sâu và dần hình thành chiều sâu văn   hoá, phong cách văn hoá của từng cá nhân trong quá trình tồn tại  của mình.
  8. 1.1.3. Ngôn ngữ với vấn đề bảo tồn, xây dựng và phát triển văn  hóa  Với tư cách là chất liệu lịch sử, ngôn ngữ  đóng vai trò cốt tuỷ  trong sáng tạo văn chương, nghệ thuật. Với tư cách là một công cụ  giao tiếp và tư duy, ngôn ngữ đã thể  hiện chức năng cơ  bản trong   sự phát triển  văn hoá tinh thần của con người.  Sự  biến đổi, phát triển ngôn ngữ  luôn luôn song hành với biến  đổi và phát triển văn hoá. Muốn nghiên cứu sâu về  văn hoá, khảo  sát hàm nghĩa của văn hoá trong tập quán giao tiếp và văn chương  nghệ thuật của một dân tộc phải nghiên cứu ngôn ngữ và tất nhiên  muốn đi sâu vào ngôn ngữ phải chú tâm đến văn hoá.  1.2. Hàm nghĩa văn hóa của ngữ liệu trong truyện Nôm bác  học 1.2.1. Khái niệm Ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện  Nôm bác học Trong phạm vi hạn hẹp của tư liệu hiện có, theo cách hiểu của  chúng tôi, ngữ  liệu văn hoá trong ngôn ngữ  tác phẩm văn học cổ   điển Việt Nam là hệ  thống từ  ngữ  có nguồn gốc từ  văn hoá bác   học, bình dân,  có sự  biểu hiện sinh động về  ngữ  nghĩa, góp phần   hình thành, phản ánh thế giới nghệ thuật của tác phẩm và đặc trưng   tư tưởng, tư duy văn hoá ­ nghệ thuật của nhà nghệ sỹ. Trong nghiên  cứu tác phẩm văn học thời trung đại, việc sử  dụng hàm nghĩa văn   hoá của từ ngữ như một khái niệm công cụ đã mang lại cho người   đọc những phương thức tiếp cận mới và góp phần gợi mở những ý  nghĩa, biểu tượng văn hoá đặc của văn học cổ điển.
  9.       1.2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ  thuật truyện Nôm bác học         Trong lịch sử văn học Việt Nam, ngữ  liệu văn hoá là lớp từ  ngữ  có tính văn hoá cao trong các tác phẩm văn học cổ  điển, là  những hệ thống mã khoá nghệ thuật cần có sự phân tích, biện giải.   Nó bao gồm một hệ thống những từ, ngữ, kiểu diễn ngôn, tứ thơ,  đặc điểm ước lệ, lối nói uyển ngữ từ cú mỹ lệ của thơ ca cổ điển   Trung Quốc. Bên cạnh đó, nó còn là hệ thống những từ ngữ được  thoát   thai  từ  văn hoá,  văn  học dân  gian Việt  Nam,  từ   vốn  kinh  nghiệm dân gian qua thành ngữ, tục ngữ hay hệ thống hư từ, từ láy  trong tiếng Việt. Lớp từ ngữ này đã thể hiện một trình độ tiếp thu   văn hoá, chiều sâu của kinh nghiệm sống mà nhà thơ  muốn gửi   gắm vào trong thi phẩm của mình.  1.2.3. Giá trị thẩm mỹ của ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm  văn chương cổ điển Việt Nam nhìn từ góc độ văn hoá        Khảo sát hệ  thống ngôn ngữ  tác phẩm văn học cổ  điển Việt  Nam nhất là truyện thơ Nôm bác học, hệ  thống thi văn liệu, điển  cố, thành ngữ Hán Việt, từ ngữ xã hội, thuật ngữ luôn là những nội   dung quan trong. Nó không chỉ là những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn  mà còn là những rào cản nghệ  thuật đối với người đọc. Khi tiếp   cận văn hoá với những ngữ liệu này, người đọc sẽ giải thích được  tính hợp lý vốn có để những ngữ liệu này có thể tồn tại được, tức   là người đọc có thể phân tích và nêu bật nét nghĩa hư  chỉ  của ngữ  liệu.  Có thể nói, tham chiếu từ góc độ văn hoá, chúng ta dễ  dàng nhận  thấy ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm văn chương cổ  điển  Việt Nam không chỉ là một công cụ  giao tiếp đặc thù của nhà văn  
  10. đối với bạn đọc mà nó đã trở thành một hình thức giao tiếp văn hoá  đặc thù.  1.3. Ngôn ngữ  nghệ  thuật truyện Nôm – Tấm gương phản  chiếu văn hóa 1.3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nôm, một hình thức giao  tiếp đặc thù của văn học cổ điển Việt Nam        Trong quá trình hành chức của nó, hệ thống ngữ liệu đã đóng  vai trò to lớn và góp phần hình thành tính văn hoá, khả  năng đa   nghĩa của ngôn ngữ truyện Nôm. Đồng thời, cách thức liên tưởng và  sử dụng ngữ liệu cũng tạo nên tính chất phức điệu, những tình điệu  thẩm mỹ cổ điển mang tính ngữ cảnh của thể loại truyện Nôm, xu   hướng cao nhã, cảm thức văn hoá của tác giả, xã hội và thời đại.  Bản thân nó có thể tạo nên một tiềm năng văn hoá mà mỗi độc  giả  khi tiếp nhận sẽ tự tái tạo những mô thức riêng, tuỳ  thuộc vào  “tầm đón nhận” và chiều sâu văn hoá của mỗi cá nhân. 1.3.2. Một số đặc trưng cơ bản của từ ngữ mang hàm  nghĩa văn hóa trong truyện Nôm Về phương diện nội dung, ý nghĩa khái quát cao và đậm nét  tượng trưng của lớp từ ngữ Hán Việt đã tạo nên tính hàm súc,  cô đọng, tiết giản. Đặc tính này đã hỗ trợ đắc lực cho các tác  giả tổ chức ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm theo thi pháp văn  học cổ trung đại.  Xét ở phương diện nghệ thuật, các ngữ liệu văn hoá trong ngôn   từ nghệ thuật đã phát huy được tính năng động vốn có của nó:  tính  thẩm mỹ  và đăng đối. Tính khách quan của các thi liệu văn hoá 
  11. thích hợp với việc nhấn mạnh các sắc thái mơ hồ, trang trọng... và  nó   “không   thích   hợp   với   việc   cụ   thể   hoá   đối   tượng   phản   ánh   nhưng nó lại vô cùng thích hợp khi ta muốn vĩnh viễn hoá sự việc,   đẩy lùi nó về  thế  giới ý niệm. Nó cấp cho ngôn ngữ  cái vẻ  dứt   khoát, đanh thép của những chân lý vĩnh viễn...”.  1.4. Quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và Truyện  Kiều 1.4.1. Cơ sở hình thành quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn   Du Về cơ  sở hình thành quan niệm thẩm mỹ Nguyễn Du, chúng ta  có thể  hình dung qua mấy căn cứ  sau:  Thứ  nhất, Nguyễn Du đã  sinh trưởng trong một giai đoạn lịch sử  khủng hoảng của chế  độ  phong kiến Việt Nam và bi kịch lịch sử dân tộc.  Thứ  hai, Nguyễn  Du sinh ra  ở  phường Bích Câu trong thành Thăng Long, một địa  đàng nghệ thuật thời bấy giờ. Bên cạnh những ảnh hưởng của quê  hương xứ Nghệ giàu truyền thống thi ca, sự tác động của một văn  phái lừng lẫy  ở  mảnh đất Hồng Lĩnh cũng là điều đáng nói . Thứ  ba, từ mạch nguồn văn hoá gia đình, phẩm chất tài hoa của người   cha và tư chất nghệ sĩ của người mẹ đã ảnh hưởng không ít đến tư  tưởng thẩm mỹ  của ông.  Thứ  tư, Tiên Phong Mộng Liên Đường  chủ  nhân khi đề  tự  Truyện Kiều đã viết: “Đôi mắt nhìn thấu sáu   cõi, tấm lòng nghĩ đến ngàn đời”. Người xưa đã chết vì kẻ  tri âm  nên đã thốt lên những lời tri kỷ  ấy vậy. Mộng Liên Đường quả  là   người thấu hiểu tâm sự  của Nguyễn Du và phong cách triết nhân  của thi nhân. 
  12. 1.4.2. Sự    thể  hiện quan niệm thẩm mỹ  của Nguyễn Du   trong thơ chữ Hán và Truyện Kiều Một là, quan niệm thẩm mỹ của ông được bộc lộ rõ nét qua cái  nhìn về  cuộc đời và con người. Nguyễn Du đã tạo nên những cơ  sở  triết học, mỹ  học để  triển khai tư  tưởng nhân sinh của mình  theo hướng kết hợp Nho, Phật và Lão trên nền tảng tâm thế  Việt:   lấy sự cảm thương, đồng điệu làm điểm tựa cho những nhận định   về  nhân thế.  Hai là, Nguyễn Du đã xem thiên nhiên như  một cõi   thiêng, một chốn đi về  của tâm hồn.  Ba là, quan niệm thẩm mỹ  của Nguyễn Du được thể  hiện qua  sự  minh triết của  con người  thanh cao, u uẩn. Nguyễn Du đã tuân thủ  nguyên lý minh triết của  Phật giáo và sắc thái duy tình của người Việt.  Bốn là, nhà thơ  còn  quan tâm đến bản chất, chức năng của văn chương.  Chương 2. HỆ THỐNG NGỮ LIỆU VĂN HÓA TRONG NGÔN  NGỮ NGHỆ THUẬT TRUYỆN KIỀU 2.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng của văn hóa Hán, bác học và văn  hoá Việt, bình dân đối với hệ thống ngữ liệu trong ngôn ngữ nghệ  thuật Truyện Kiều 2.1.1.Tiếp nhận và  ảnh hưởng của văn hoá Hán, văn   hoá bác học đối với hệ  thống ngữ  liệu trong ngôn ngữ  nghệ   thuật Truyện Kiều Dấu  ấn thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu (là những dẫn chứng,   dẫn liệu ngôn ngữ, nó có thể được trích dẫn, khai thác phục vụ cho   quá trình nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm) có  nguồn gốc từ  văn hoá bác học, văn hoá Trung Hoa đã  ảnh hưởng  trực   tiếp   đến   ngôn   ngữ   nghệ   thuật   truyện   thơ   Nôm   bác   học.  Nguyễn Đức Tồn trong Đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ  
  13. và tư  duy  gọi đó các ngữ  liệu  ấy là “những hiện tượng văn hoá   đặc tồn” hay “các đơn vị đặc văn hoá”.  Khảo sát hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ  thuật  Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy, các dạng thức ngữ liệu văn hoá  được các tác giả sử dụng khá đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, xét   từ  phương diện nguồn gốc, các ngữ  liệu văn hoá được sử  dụng   trong ngôn ngữ nghệ  thuật truyện Nôm bao gồm ngữ  liệu nguyên  dạng (ngữ liệu Hán Việt) và ngữ liệu được chuyển dịch (ngữ liệu   bán Hán Việt, thuần Việt).  2.1.2. Tiếp nhận và  ảnh hưởng của văn hoá Việt, văn   hoá bình dân đối với hệ  thống ngữ  liệu trong ngôn ngữ  nghệ   thuật Truyện Kiều Trong   ngôn   ngữ   Truyện   Kiều,   ngoài   hệ   thống   từ   cổ,   từ   địa  phương,   từ   láy...   thì   lớp  từ   ngữ   có  phong  cách  khẩu  ngữ   quần  chúng cũng được xem là những ngữ  liệu thuần Việt đặc chất văn  hoá bình dân. So với lớp từ ngữ Hán Việt, lớp từ ngữ này vô cùng   sinh động, nhiều dáng vẻ và luôn được bổ sung không ngữ qua các  thế hệ, thời đại văn hoá.  Theo chúng tôi, sắc thái bình dân trong ngôn ngữ  Truyện Kiều  là những nét, yếu tố  thẩm mỹ  được gợi lên thông qua hệ  thống   những thành ngữ, tục ngữ, ca dao, hệ  thống từ  ngữ  thuần Việt,   hoặc có yếu tố  Hán Việt với một lối diễn đạt bình dị, đơn giản   đậm   chất   khẩu   ngữ   trong   sinh   hoạt   của   người   Việt.   Nó   được  Nguyễn Du sử dụng, chuyển dẫn và khái quát một cách thần tình,   đích đáng và nhuần nhuyễn trong hệ thống ngôn ngữ Truyện Kiều. 
  14. 2.1.3. Đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ  nghệ thuật Truyện Kiều 2.1.3.1.  Đặc trưng thẩm mỹ  của các ngữ  liệu văn hoá   Hán, bác học trong ngôn ngữ  nghệ  thuật Truyện Kiều   Trong Truyện Kiều, cách sử dụng và bố trí ngữ liệu văn hoá của  Nguyễn Du vừa hấp dẫn, vừa chuẩn mực đồng thời còn thể  hiện   cá  tính sáng tạo  của  nhà   thơ.   Thông  qua  các   ngữ  liệu  đã   được  chuyển dịch, chuyển dẫn một cách khéo léo, người tiếp nhận có   thể tìm thấy được vẻ  đẹp về  thế  giới hình tượng phong phú, sinh  động được diễn đạt bằng nghệ thuật ẩn dụ, biểu trưng, uyển ngữ  của văn cách trung cổ. Bên cạnh  tính điển phạm, tập cổ,  đăng   đối..., hệ thống ngữ liệu văn hoá trong ngôn  Truyện Kiều nói riêng  đã thể hiện tính trang nhã, uyên bác phù hợp với tính chất bác học  trong quan niệm xưa.  2.1.3.2. Đặc trưng thẩm mỹ của các ngữ liệu văn hoá Việt,   bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều   Với hệ  thống từ ngữ  bình dân, tác giả  dường như  lách nhẹ, đi   sâu vào chân tơ  kẽ  tóc của những phẩm cách, ngoại hình của các   nhân vật phản diện. Trong ngôn ngữ  Truyện Kiều, chúng tôi thống  kê được 332 thành ngữ  được sử  dụng nguyên mẫu và 113 thành   ngữ  tách xen và được vận dụng một cách sáng tạo.  Truyện Kiều  đánh dấu một bước phát triển mới về  chất, có ý nghĩa đặc biệt   trong việc học tập thơ ca dân gian và ngôn ngữ quần chúng của nhà  thơ. Nguyễn Du vận dụng khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ; trong đó   thành ngữ được vận dụng nhiều nhất.  Lớp từ  vựng khẩu ngữ  của quần chúng đã đi vào thơ  Nguyễn   Du một cách chan hoà, dung dị  và nhẹ  nhàng,   giữ  một vị  trí đặc 
  15. biệt quan trọng. Với 1.736 lượt xuất hiện như vây, hệ thống hư từ  không chỉ  thể  hiện sự  linh hoạt trong việc thể hiện cách sử  dụng  hư từ mà còn góp phần làm đa dạng hoá các lớp từ trong ngôn ngữ  tác phẩm, thể hiện tính dân dã, khẩu ngữ.  2.2. Hệ thống ngữ liệu văn hóa bác học và bình dân trong ngôn  ngữ nghệ thuật Truyện Kiều 2.2.1. Khảo sát và nhận xét về hệ thống ngữ liệu văn hóa bác học Khảo sát trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, từ quan điểm  và nội hàm khái niệm ngữ liệu văn hoá đã được thống nhất, trong   tổng số 972 từ ngữ Hán Việt thống kê được, chúng tôi đã thống kê   được 626 ngữ  liệu văn hoá nguyên dạng chiếm khoảng 67,3% từ  ngữ Hán Việt xuất hiện trong Truyện Kiều và 169 ngữ liệu chuyển  dịch, mô phỏng, chiếm tỷ  lệ  39,5 % so với số  lượng 440 từ ngữ  Việt được chuyển dẫn từ  văn hoá bình dân và bác học mà tác giả  Nguyễn Thuý Hồng đã khảo sát. Từ kết quả thống kê, chúng ta có thể nhận thấy, dù ở dạng thức  nào, ngữ liệu văn hoá trong ngôn ngữ nghệ thuật  Truyện Kiều đều  phong phú, đa dạng. Trong hệ  thống này, các thuật ngữ  văn hoá,  tôn  giáo,   chính   trị,   quân   sự...   đặc   trưng   của   xã   hội   phong  kiến   chiếm một tỷ  lệ  tương đối lớn (384 ngữ  liệu nguyên dạng Hán  Việt;   60   ngữ   liệu   chuyển   dịch   (bán   Hán   Việt)   và   thuần   Việt).   Trong   khi   đó,   các   ngữ   liệu   có   nguồn   gốc   từ   kinh   truyện   (145   nguyên dạng, 61 chuyển dịch), điển cố thi liệu, nhân danh, địa danh  cũng chiếm một số lượng tương đối (69 nguyên dạng, 08 chuyển  dịch). Sự  có mặt của hệ  thống ngữ  liệu này đã góp phần khẳng  định những yếu tố văn hóa bác học đã ảnh hưởng một cách sâu sắc  trong ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm. Tuy sự phân chia nguồn gốc 
  16. theo các thành phần đã nêu tuy chỉ  là một sự  quy  ước tương đối,  nhưng nó cũng có thể đảm bảo cho việc nhận thức ngữ liệu được  dẫn dụng thêm rõ ràng, phản ánh trình độ Hán học uyên bác và kế  thừa, học tập cổ  nhân của Nguyễn Du trong quá trình sáng tạo   trong tác phẩm. Nó góp phần làm đa dạng hoá thành phần kiến tạo   nên vẻ  đẹp, chiều sâu văn hoá của ngôn ngữ  nghệ  thuật   Truyện   Kiều. 2.2.2. Khảo sát và nhận xét về  hệ  thống ngữ liệu văn   hóa bình dân Riêng  Truyện   Kiều,   trong   tổng   số   1102   ngữ   liệu   được   khảo sát, số lượng 445 thành ngữ được sử dụng là một con số khá   lớn. Cụ thể là 170 thành ngữ  có xuất xứ  từ văn học dân gian Việt   Nam, 162 thành ngữ có xuất xứ từ văn học, văn hoá bác học Trung  Hoa và 113 thành ngữ  tạo mới. Tât nhiên trong số  này, 332 thành  ngữ  được sử dụng nguyên dạng và 113 thành ngữ  được vận dụng   sáng tạo, tách xen như một phương tiện tu từ mà không mất đi vẻ  cân đối, bóng bẩy của câu thơ. Các số liệu về từ ngữ được so sánh  và phân tích trên đã góp phần thể hiện một bức tranh ngôn ngữ  đa   dạng với nhiều thành phần khác nhau trong ngôn ngữ   Truyện Kiều  (qua so sánh đối chiếu với  Hoa Tiên, Lục Vân Tiên). Ngoài, cùng  với sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố văn hoá bác học và bình dân  trong ngôn ngữ Truyện Kiều, sự trội bật của ngôn ngữ bình dân đã  nâng cao giá trị  văn hoá, thẩm mỹ  của ngôn ngữ  nghệ  thuật tác   phẩm.  
  17. 2.3. Nghệ thuật sử dụng ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ nghệ  thuật Truyện Kiều      2.3.1. Hệ  thống ngữ  liệu văn hoá được chuyển dẫn tự   nhiên, biến hoá và thích hợp với nội dung ngữ cảnh Hệ thống mỹ từ văn hoá trong Truyện Kiều phần lớn là các ngữ  liệu có chiều hướng thiên về quá khứ. Nó được thể hiện qua hàng  loạt các từ ngữ thi ca, dẫn ngữ, thi liệu, điển cố... mà chúng tôi gọi   chung là ngữ liệu văn hoá.  Với ngôn ngữ  bác học trong  Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử  dụng một hệ  thống ngữ  liệu mang tính nghiêm trang, tôn kính để  phác họa những tính cách hoặc miêu tả  tính cách nhân vật. Với  ngôn ngữ bình dân, ông thường sử dụng hệ thống này với các nhân  vật phản diện, mang tính chất phê phán.  2.3.2. Hệ thống ngữ liệu văn hoá được vận dụng và chuyển dẫn  một cách sáng tạo Bên cạnh từ thuần Việt, hư từ, từ láy… nhưng tiểu hệ thống từ  ngữ mang sắc thái bình dân, vốn từ địa phương là một trong những   phương tiện nghệ thuật giúp Nguyễn Du thể hiện tối  ưu nội dung   và nghệ  thuật của Truyện Kiều. Nhờ  vai trò của ngôn ngữ và văn  hoá mà Nguyễn Du đã chuyển được từ  một cốt truyện giản đơn ­   Kim Vân Kiều truyện  của Trung Quốc thành một truyện thơ  đặc  sắc, phù hợp với tâm tư, tình cảm của con người Việt Nam.  Từ ngữ văn hoá bình dân, bác học trong ngôn ngữ  Truyện Kiều   đã Nguyễn Du dùng một cách hết sức hợp lý.  Ở  đó cái giá trị  cá  thể  hoá độc đáo nhất của nó được sử  dụng và thể  hiện rõ. Cũng   cần phải thấy rằng sự xuất hiện của những từ ngữ văn hoá ấy phù  
  18. hợp với cấu trúc của câu thơ lục bát, hợp cả về nội dung lẫn hình  thức và âm hưởng của nó. 2.3.3. Sự kết hợp hài hoà, chuyển dịch hợp lý của hai hệ thống ngữ  liệu bác học và bình dân trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện   Kiều Hai hệ  thống từ  ngữ  văn hoá được sử  dụng trong ngôn ngữ  nghệ  thuật Truyện Kiều chủ  yếu thuộc vào các lĩnh vực văn hoá,  xã hội thời trung đại. Hệ  thống ngữ  liệu văn hoá trong  Truyện   Kiều  không chỉ  khắc hoạ, thể  hiện chiều sâu triết mỹ  trong tâm  hồn,   phong  thái   của   thi   nhân,   mà   còn  là   những   cơ   sở   thể   hiện  những tính cách, dòng suy tưởng của nhân vật, là căn cứ  để  khái   quát   văn   hoá   về   phong   cách,   ngoại   hình   của   nhân   vật,   tạo  nên   những tuyến nhân vật trong tác phẩm.  Truyện Kiều được lưu truyền rộng rãi trong dân gian là vì Nguyễn  Du đã đã sử dụng một cách nhuần nhuyễn, sinh động, đa dạng, kết  hợp một cách thuần thục hai hệ thống từ ngữ Việt và Hán Việt. Bên   cạnh đó, trong quá trình sáng tạo, tác giả đã tổng hợp, điều hoà những  ảnh hưởng của cả hai khuynh hướng bình dân và bác học.  Chương  3.  HIỆU QUẢ  THẨM MỸ   CỦA  HỆ   THỐNG  NGỮ  LIỆU VĂN  HOÁ TRONG  NGÔN   NGỮ  NGHỆ  THUẬT  TRUYỆN KIỀU 3.1. Ngữ liệu văn hoá với sự thể hiện tính triết luận và bức   tranh thời đại qua ngôn ngữ tác giả  3.1.1. Tính triết luận và trầm tích văn hóa qua ngôn ngữ trữ tình  Tính   triết   luận   ở   đây   được   hiểu   như   là   chiều   sâu   văn   hoá,   những tác động văn hoá đến sự  lựa chọn, sử  dụng các ngữ  liệu  
  19. bình dân, bác học trong ngôn ngữ trữ tình hay tự sự của tác phẩm,   tác giả. Do đó, theo chúng tôi, tính triết luận của lớp từ  ngữ  văn   hoá trong một tác phẩm văn học cổ  điển được thể  hiện  ở  chỗ  nó  đã giúp tác giả  phản ánh, nghiền ngẫm về  hiện thực, cuộc sống,   quan niệm nhân sinh, miêu tả nhân vật, biểu đạt tình cảm cá nhân   qua thế giới nghệ thuật phong phú, đa dạng.  Giá trị đích thực của hệ  thống hình tượng nghệ  thuật, của bức   tranh sống động của cuộc sống trở nên phong phú và đa dạng hơn   thông qua hệ thống ngôn ngữ triết lý, trữ tình của nhà thơ. Với cái   nhìn   tinh   tế,   tư   duy   nhạy   bén   và   lăng   kính   mỹ   thuật   độc   đáo,  Nguyễn Du đã thể hiện một chiều kích văn hoá phức hợp qua một   hệ  thống ngôn ngữ  đặc sắc giàu tính triết mỹ, đậm tính trữ  tình.   Mỗi câu thơ của ông chẳng những nhuốm một vẻ đẹp u tịch, triết   mỹ  của thơ  ca phương Đông mà còn hiển hiện những đường nét  lung linh của văn hoá Á Đông. Trong tư  duy nghệ  thuật và quan niệm thẩm mỹ  của nhà thơ,   hai đặc trưng này chuyển hoá, tác động qua lại một cách thần tình  khiến cho ngôn ngữ  trữ  tình của nhà thơ  luôn sinh động, có tính  triết mỹ, không có sự  lặp lại, điều đó tạo nên sự  trong sáng, hài   hoà của ngôn ngữ tác giả và nhân vật trong thiên truyện. 3.1.2. Bức tranh văn hóa thời đại qua ngôn ngữ tự sự  Ngôn ngữ tự sự của tác giả, nếu xét từ  phương diện kể, được   hiểu là những lời kể  của tác giả  nhằm nêu lên một vấn đề  nào   đấy. Để  mở  đầu cho tác phẩm của mình, Nguyễn Du đã khai mở  một không ­ thời gian văn hoá đặc trưng của những tác phẩm trung  đại, ấy là không ­ thời gian của triều đại, gia cảnh hay bất kỳ một 
  20. khung cảnh nên thơ, nơi gặp gỡ, đoàn viên, là phát đoan của nỗi  đoạn trường.  Bên cạnh tính phức điệu, ngôn ngữ tự sự của Nguyễn Du còn thể  hiện một khả năng đối chiếu và tương phản đặc biệt.  Có thể thấy,  qua lời kể của tác giả và trực tiếp đọc  Truyện Kiều, và bất kỳ độc  giả nào cũng đồng ý với nhận định của Hoàng Hữu Yên:  Ai mà nén   nổi xúc động trước mọi chặng đường khổ   ải của nạn nhân Thuý   Kiều…, ai mà không thấy hiện lên trước mắt  là cái “lờn lợt màu   da”, với những lời tục tĩu văng ra từ mồm mụ đĩ Tú Bà! Ai mà không   ghê rợn về sự  tính toán bỉ   ổi của tên ma cô họ  Mã! Cũng chẳng ai   quên được cái “lẻn”, cái “rẽ dây cương” rồi cái “mặt mo” của tên   lừa đảo đốn mạt Sở Khanh…” 3.2.  Ngữ liệu văn hóa với sự thể hiện tính triết mỹ trong ngôn  ngữ nhân vật Truyện Kiều 3.2.1. Tính đa thanh, đa giọng điệu qua phong cách Khổng tước văn  và Hải hạc văn Qua ý kiến của một số nhà nghiên cứu, chúng tôi cũng xem ba  bài thơ trên là những tự sự nghệ thuật của ông, trong đó bài  Khổng   tước vũ  nói về  phong cách ngôn ngữ. Đúng như  Lê Quế  đã nhận  xét: “Giọng văn của Nguyễn Du trong Đoạn trường tân thanh có   cả  sự  lộng lẫy như  vũ điệu chim công và cả  sự  thanh thoát, kín   đáo, tế nhị như vũ điệu của loài hạc biển...”. Dựa trên việc lý giải  mối quan hệ giữa hình thức và nội dung đã nêu, trong  Truyện Kiều,  tác giả  đã tạo nên hai tuyến nhân vật với hai kiểu phát ngôn và  giọng điệu riêng biệt. Giọng điệu và ngôn ngữ của các tuyến nhân  vật đó thể hiện rất phong phú, đa dạng nhưng cũng rất thống nhất:   nhân vật nào ngôn ngữ ấy, ngôn ngữ nào, giọng điệu đó. 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2