intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn: Tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

19
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận án này nhằm làm rõ chức năng ngữ nghĩa của Tiểu từ tình thái theo hành động ngôn trung và đặc điểm sử dụng của Tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ theo phân tầng xã hội về giới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn: Tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN MAI PHƯƠNG TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT NGÔN TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số: 92 22 01 02 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN - 2020
  2. Luận án được hoàn thành tại Trường Đại học Vinh Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. HOÀNG TRỌNG CANH Phản biện 1. Phản biện 2. Phản biện 3. Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp Trường Địa điểm: Trường Đại học Vinh Thời gian: Vào hồi giờ, ngày tháng năm 2021 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia - Trung tâm Thông tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào, Trường Đại học Vinh
  3. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Tiếng Việt có hệ thống tiểu từ tình thái (TTTT) đa dạng phong phú. Ngoài những TTTT toàn dân, trong mỗi vùng phương ngữ còn có những TTTT địa phương. Các TTTT địa phương được dùng trong giao tiếp, qua các ngữ cảnh sử dụng không những thể hiện các ý nghĩa tình thái (TT) đa dạng, tinh tế mà còn mang sắc thái phương ngữ. Cho nên, tìm hiểu ý nghĩa TT tiếng Việt, ngoài nghiên cứu TTTT toàn dân còn cần tìm hiểu ý nghĩa TTTT phương ngữ; điều này cần thiết không chỉ về ngôn ngữ mà còn cả mặt văn hóa, xã hội. Nghiên cứu TT trong phương ngữ là góp phần vào việc làm cho bức tranh TT của tiếng Việt ngày càng đầy đủ hơn trong sự đa dạng, phong phú của tiếng Việt. 1.2. Là yếu tố mang chức năng ngữ nghĩa và chức năng dụng học nên khi được dùng, TTTT là một trong các nhân tố thể hiện thói quen vùng miền, ý thức xã hội về giới, địa vị, tuổi tác, bối cảnh,…của người giao tiếp. Các TTTT cuối phát ngôn là một trong những phương tiện quan trọng để thực tại hóa câu, biến nội dung mệnh đề dưới dạng nguyên liệu, tiềm năng trở thành một phát ngôn trong tình huống giao tiếp nhất định. Tìm hiểu số lượng TTTT cuối phát ngôn và ý nghĩa của chúng trong giao tiếp của người Việt nói chung và người Nam Bộ (NB) nói riêng là một việc làm cần thiết để bổ sung lí thuyết về từ loại, trong đó có TTTT. 1.3. Việc tìm hiểu ngữ nghĩa chức năng của TTTT giúp ta thấy rõ thêm ngữ nghĩa và cách dùng của một lớp từ trong phương ngữ Nam Bộ (PNNB) từ trước đến nay chưa được nghiên cứu sâu, hệ thống và còn giúp hiểu thêm đặc điểm ngôn ngữ - văn hóa độc đáo của người dân vùng sông nước phương Nam. Trên đây là những lí do luận án đi sâu khảo sát nghiên cứu “TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ”. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu Đối tượng nghiên cứu là các TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Việt NB, gồm: 1). Các TTTT toàn dân được người NB dùng; 2). Các TTTT phương ngữ Nam Bộ. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu TTTT cuối phát ngôn mà người NB dùng trong giao tiếp về các phương diện: 1). Đặc điểm ngữ nghĩa, cách dùng TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB, xét theo hành động ngôn ngữ (HĐNN); 2). Đặc điểm sử dụng TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB xét theo phân tầng xã hội về giới tính. Ngữ liệu dùng nghiên cứu là kết quả điền dã 8531 phát ngôn chứa các TTTT đứng cuối của người Việt NB được thu thập trực tiếp từ các cuộc hội thoại của người 1
  4. dân tại TP. Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, huyện Trần Đề - Sóc Trăng, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận án hướng đến hai mục đích chính: 1). Làm rõ được chức năng ngữ nghĩa của TTTT theo HĐNT; 2). Chỉ ra được đặc điểm sử dụng TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB theo phân tầng xã hội về giới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 1). Điền dã khảo sát, thu thập, thống kê số lượng, phân loại TTTT đối với những phát ngôn có các TTTT đứng cuối qua các cuộc giao tiếp trực tiếp và một phần từ văn bản văn chương, từ điển, google fom; 2). Nhìn lại một cách tổng quan tình hình nghiên cứu TTTT trong ngôn ngữ nói chung và trong PNNB nói riêng; xác định các cơ sở lí thuyết của đề tài; 3). Tìm hiểu ý nghĩa khái quát của các TTTT phương ngữ NB trên cơ sở so sánh đối chiếu với những TTTT toàn dân để rút ra điểm chung cũng như nét riêng biệt của TTTT cuối phát ngôn của người NB; 4). Mô tả và phân tích các TTTT tiếng NB trên hai phương diện: ngữ nghĩa - chức năng gắn với HĐNN trong giao tiếp và đặc điểm sử dụng TTTT cuối phát ngôn của người NB theo phân tầng xã hội về giới. 4. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu a. Phương pháp điều tra điền dã Chúng tôi ghi âm, quay video trực tiếp các cuộc thoại trong sinh hoạt hàng ngày của các đối tượng và làm fom chia sẻ qua google drive, câu trả lời sẽ được gửi phản hồi qua mail, qua zalo hoặc facebook. Các nhân tố hội thoại được phân biệt theo các điểm: 1). Hoàn cảnh phát ngôn; 2). Nội dung phát ngôn; 3). Độ tuổi; 4). Nghề nghiệp; 5). Mối quan hệ; 6). Giới tính: nam, nữ. Từ đó, chúng tôi gỡ băng ghi âm, ghi chép, chuyển thành văn bản, phân loại các cuộc thoại có xuất hiện TTTT. b. Phương pháp miêu tả Luận án dùng phương pháp này để miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB. c. Phương pháp phân tích diễn ngôn Phương pháp này được dùng để phân tích các tham thoại gắn với các nhân tố hội thoại cụ thể theo từng ngữ cảnh để xác định chính xác, sát thực nghĩa tình thái theo loại phát ngôn và HĐNN. 4.2. Thủ pháp nghiên cứu a. Thủ pháp thống kê phân loại Chúng tôi quan sát số lượng lớn ngữ cảnh có các TTTT để thống kê phân loại các TTTT và các HĐ lời nói có sự xuất hiện của các TTTT trong lời thoại của người NB. 2
  5. b. Thủ pháp phân tích, tổng hợp Trên cơ sở thống kê, phân loại, so sánh, chúng tôi tiến hành phân tích rút ra từng ý nghĩa cụ thể từ đó tổng hợp khái quát thành ý nghĩa chung của các TTTT và ý nghĩa của chúng trong các nhóm HĐ lời nói và những đặc trưng giới tính thể hiện qua việc sử dụng TTTT cuối phát ngôn của người NB. c. Thủ pháp so sánh Luận án so sánh: nghĩa và cách dùng TTTT Nam Bộ với TTTT toàn dân và phương ngữ khác, nghĩa các TTTT phương ngữ có âm gần nhau và đặc điểm sử dụng các TTTT trong tham thoại giữa nam giới và nữ giới. 5. Đóng góp của luận án Đây là luận án đi sâu nghiên cứu TTTT cuối phát ngôn được người NB dùng trong giao tiếp diễn ra trong đời sống hằng ngày ở NB; luận án tìm hiểu sâu một cách hệ thống, phân tích chỉ ra đặc điểm ngữ nghĩa và sử dụng của lớp TTTT này trong các dạng phát ngôn gắn với hành HĐNT và vai giao tiếp; Xác định số lượng TTTT được dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB, trong đó có hệ thống TTTT phương ngữ NB, chỉ ra những nét khác biệt giữa nam và nữ trong việc sử dụng TTTT cuối phát ngôn. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm bốn chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề tài Chương 2: Nhận diện tiểu từ tình thái cuối phát ngôn và ngữ nghĩa của chúng trong giao tiếp của người Nam Bộ Chương 3: Đặc điểm sử dụng các tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ xét theo hành động ngôn ngữ Chương 4: Đặc điểm sử dụng các tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ xét theo phân tầng xã hội về giới tính Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu TT và TTTT cuối phát ngôn 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 1.1.1.1. Về tình thái Điểm lại lịch sử nghiên cứu về TT ở ngoài nước qua công trình của các tác giả như Charles Bally, Benveniste, Oswld Ducrot, J.Lyons, M.V.Liapol, B.Gak, F.R.Palmer, Halliday, John Bybee,…luận án chỉ ra tuy hướng tiếp cận, quan niệm, phạm vi nghiên cứu TT rộng hẹp khác nhau nhưng nhìn chung các nhà nghiên này 3
  6. đều cho rằng, TT là thành phần nghĩa thể hiện thái độ của người nói đối với hiện thực được phản ánh, hoặc với đối tượng giao tiếp. TT là một phạm trù phức tạp, luôn gắn với thức; có nhiều kiểu loại khác nhau và giữa chúng không có ranh giới rõ ràng. 1.1.1.2. Về tiểu từ tình thái và tiểu từ tình thái cuối phát ngôn Vị trí, chức năng, vai trò của TTTT cuối câu trong quan hệ với cấu trúc câu ít nhiều cũng đã được các nhà nghiên cứu nước ngoài bàn đến, trong đó có vấn đề TTTT trong tiếng Việt. Một số nhà ngôn ngữ học Nga như I. I. Glebova, V.M. Solntsev, Yu. Lekomtsev, Bystrov,...đã đề cập đến TTTT tiếng Việt nhưng loại tiểu từ này chưa được nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 1.1.2.1. Về tình thái Ở Việt Nam, tuy TT mới được đề cập đến từ những năm 60 của thế kỷ XX, nhưng tới nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trực tiếp đến vấn đề này. Luận án điểm lại các khuynh hướng, quan niệm, kết quả nghiên cứu TT của các nhà nghiên cứu Cao Xuân Hạo, Đinh Văn Đức, Phạm Hùng Việt, Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp, Đỗ Thị Kim Liên,… đã cho thấy tuy có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về TT, nhưng nhìn chung ý kiến của các tác giả đều xoay quanh đặc trưng cơ bản của TT, xem TT là một phạm trù của những hiện tượng ngữ nghĩa - chức năng rộng lớn, đa dạng và phức tạp mà đặc trưng chung nhất của chúng là phản ánh những mối quan hệ khác nhau của một nội dung thông tin miêu tả trong phát ngôn với thực tế, cũng như những quan điểm, thái độ đánh giá và định tính khác nhau của người nói đối với nội dung miêu tả trong câu, xét trong mối quan hệ với người nghe, với hoàn cảnh giao tiếp. 1.1.2.2. Về tiểu từ tình thái và tiểu từ tình thái cuối phát ngôn Luận án đã tổng quan lịch sử nghiên cứu TTTT và TTTT cuối phát ngôn theo vấn đề chung và từng phương diện cụ thể căn cứ vào kết quả nghiên cứu của hầu hết các tác giả trong nước, từ Trần Trọng Kim, Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê ở thời kì đầu, thập kỉ 60 đến Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân Hạo, Hoàng Phê, Nguyễn Kim Thản, Đinh Văn Đức, Đỗ Hữu Châu, Diệp Quang Ban, Phạm Mạnh Hùng, Nguyễn Thị Lương,…những năm trước / sau 1990 cho tới các nghiên cứu gần đây của Đỗ Thị Kim Liên, Phạm Hùng Việt, Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp, Ngô Thị Minh, Hoàng Thúy Hà, Lê Xinh Tươm,...Từ các nghiên cứu của các tác giả, có thể đánh giá khái quát và nêu vấn đề: 1). Việc xem xét nghĩa của từ không chỉ là trong hệ thống mà còn được đặt trong mối quan hệ của con người - chủ thể sử dụng, thái độ của người nói, mục đích nói, hoàn cảnh nói năng. TTTT là loại tín hiệu rất đặc biệt, thường được xem là mang tính “động”, hoạt động luôn gắn với các phát ngôn hiện thực hơn là mang tính “tĩnh”, 4
  7. cho nên cần dựa vào ý nghĩa của phát ngôn cụ thể để xác định ý nghĩa của các TTTT được dùng trong ngữ cảnh. Đó là việc rất phức tạp song lại cần thiết, không những có thể phát hiện ra tính đa sắc thái nghĩa TT của các yếu tố mà còn là cơ sở để khái quát hóa ý nghĩa khái quát của các TTTT. 2). Mặc dù đã được các nhà nghiên cứu quan tâm từ sớm nhưng trong một thời gian dài, các TTTT là phương tiện để thực tại hoá câu, bị đẩy về phía “lời nói”, trong khi đó các sự kiện thuộc về “lời nói” thường bị xem nhẹ trong nghiên cứu ngôn ngữ học. Vì vậy, cần có sự điều chỉnh trong việc nghiên cứu lớp TTTT này gắn với các phát ngôn diễn ra trong thực tế giao tiếp đời sống hơn nữa. 3). Nội dung nghĩa các TTTT thường đa dạng, gồm nhiều sắc thái, có nét nghĩa tiềm tàng trong bản thân TTTT, có nét nghĩa hình thành do sự kết hợp của TTTT với cả cấu trúc, lại có nét nghĩa do tình huống giao tiếp mang lại. Nói cách khác, ý nghĩa của các phát ngôn hiện thực, tức lực ngôn trung hay hiệu lực tại lời của chúng, ở các mức độ khác nhau, bao giờ cũng biến động theo ngữ cảnh. 4). TTTT là loại từ thể hiện rõ nhất thái độ của người dùng đối với thực tại được phản ánh và với đối tượng giao tiếp. Mỗi vùng, do thói quen dùng ngôn ngữ, quan hệ ứng xử trong gia đình và ngoài xã hội mang những nét văn hóa riêng, vì vậy dấu ấn đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa phương ngữ từng miền thể hiện ở lớp từ TTTT cũng sẽ rõ nét. Do đó, việc nghiên cứu TTTT cần được mở rộng, đào sâu cả lớp TTTT trong các phương ngữ. TTTT cuối phát ngôn trong PNNB chưa được nghiên cứu sâu, hệ thống, việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu lớp từ này là cần thiết. 1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài 1.2.1. Khái niệm “tiểu từ tình thái” và “tiểu từ tình thái cuối phát ngôn” 1.2.1.1. Khái niệm tiểu từ tình thái Sau khi nêu lên quan niệm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ về TTTT, chúng tôi rút ra cách hiểu chung: TTTT là tiểu loại từ đặc biệt thuộc hư từ, được sử dụng để biểu đạt ý nghĩa TT trong mối quan hệ với mục đích phát ngôn, biểu thị cảm xúc của người nói đối với nội dung, thực tại phản ánh trong phát ngôn và người nghe. Nó là yếu tố đi kèm để thực tại hóa nghĩa của câu nhưng không làm thành tố của nồng cốt cũng như thành phần của cụm từ trong câu, vì thế TTTT không /hoặc ít chịu ảnh hưởng của những biến đổi của trật tự từ và cấu trúc. 1.2.1.2. Khái niệm tiểu từ tình thái cuối phát ngôn Trên cơ sở cách hiểu về TTTT và quan niệm của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi xác định: TTTT cuối phát ngôn là những hư từ nằm ở cuối phát ngôn nhằm thể hiện thái độ, tình cảm, mối quan hệ giữa người nói với người nghe hay đối với thực tại được phản ánh trong phát ngôn. Các TTTT cuối phát ngôn tiếng Việt là một trong những phương tiện quan trọng để thực tại hoá câu. 5
  8. Phạm vi nghiên cứu của luận án là những TTTT khi chúng xuất hiện ở cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Việt ở NB. 1.2.2. Lý thuyết hoạt động giao tiếp 1.2.2.1. Khái niệm giao tiếp Giao tiếp ngôn ngữ là hoạt động trao đổi thông tin bằng phương tiện ngôn ngữ giữa các thành viên trong xã hội nhằm mục đích nhất định, diễn ra trong một ngữ cảnh nhất định. Hoạt động giao tiếp bao gồm nhiều nhân tố. 1.2.2.2. Các nhân tố giao tiếp a). Ngữ cảnh Nội dung khái niệm ngữ cảnh bao chứa hai khái niệm: “nhân vật giao tiếp” và “hiện thực ngoài diễn ngôn”. - Nhân vật giao tiếp thường được hiểu là “người tham gia giao tiếp”. Khi giao tiếp, ít nhất phải có hai người tham gia. Nói như Đỗ Hữu Châu, nhân vật giao tiếp là: “Ai nói với ai? Ai nói và nói cho ai?”. - “Hiện thực ngoài diễn ngôn (ngoài ngôn ngữ)”, theo Đỗ Hữu Châu, bao gồm nhiều hợp phần (xin lược trích nội dung cốt lõi mà tác giả diễn giải): 1). “Hoàn cảnh giao tiếp” (…): là tổng thể các nhân tố “môi trường xã hội - văn hóa - địa lí cho các cuộc giao tiếp”; 2). “Thoại trường hay hiện trường giao tiếp”: “Đó là không gian, thời gian của cuộc giao tiếp”; 3). “Hiện thực được nói tới hay hiện thực đề tài” là nội dung giao tiếp “nói về một hoặc những cái gì đó trong hoàn cảnh giao tiếp”; 4); “Ngữ huống”: thời điểm cụ thể của cuộc giao tiếp . Trong các khía cạnh biểu hiện trên thì nội dung (1) và (2) thường được nhiều người gọi chung là hoàn cảnh giao tiếp (rộng và hẹp). b). Khái niệm “diễn ngôn”: Nói theo cách quen thuộc, đơn giản, diễn ngôn là ngôn ngữ, phương tiện được dùng khi giao tiếp ngôn ngữ. Nói tới diễn ngôn là nói tới ngôn ngữ sử dụng trong quan hệ với ngữ cảnh, với mục đích phát ngôn. 1.2.2.3. Khái niệm “phát ngôn” Trong ngôn ngữ học, khái niệm “phát ngôn” liên quan mật thiết với khái niệm “câu” nhưng sự phân biệt hai khái niệm này chưa hoàn toàn thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Luận án này dùng khái niệm “phát ngôn” trong sự phân biệt với “câu” theo quan niệm ngôn ngữ gồm hai phương diện chủ yếu: phương diện hệ thống những đơn vị trừu tượng khái quát như âm vị, hình vị, từ, câu và phương diện hoạt động thực hiện chức năng hướng ngoại của hệ thống trong đó những quy tắc điều khiển hoạt động của ngôn ngữ, những HĐ của ngôn ngữ đặc trưng và những sản phẩm cụ thể do các hoạt động của ngôn ngữ tạo ra như phát ngôn, văn bản, diễn ngôn và các đơn vị của hội thoại. Vì thế, nói tới phát ngôn là nói tới “câu” cụ thể trong giao tiếp, xuất hiện trong một ngữ cảnh, gắn với người phát ngôn và có tính mục đích 6
  9. nhất định. Nói ngắn gọn theo Đỗ Thị Kim Liên (2005) “Một lời của chúng ta nói ra ứng với một đơn vị câu được gọi là một phát ngôn”. 1.2.3. Hành động ngôn ngữ 1.2.3.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ HĐNN là một dạng HĐ đặc biệt của con người, chỉ có ở con người. HĐNN gắn liền với HĐ nói năng của con người, là HĐ mang tính xã hội. Trên cơ sở định nghĩa của Đỗ Hữu Châu (2001) và quan niệm của các tác giả khác, chúng tôi rút ra cách hiểu cụ thể: Hành động ngôn ngữ là hành động con người sử dụng ngôn ngữ để thực hiện một trong các mục đích: kể, hỏi, yêu cầu, đề nghị, nhận xét, bày tỏ tình cảm, cảm xúc,…của mình trong một ngữ cảnh cụ thể. 1.2.3.2. Phân loại hành động ngôn ngữ Chúng tôi chọn bảng phân loại của J.R. Searle làm cơ sở cho việc nghiên cứu của luận án vì cách phân loại của ông đến nay được các nhà nghiên cứu đánh giá cao. J.R. Searle phân loại các hành vi tại lời thành 5 nhóm lớn. 1.2.3.3. Hành động ngôn trung (hành động ở lời) Các HĐNT được Searle chia ra thành năm phạm trù (còn gọi là lớp). Mỗi phạm trù lại gồm những nhóm lớn nhỏ khác nhau. Đó là các phạm trù: trình bày, điều khiển, cam kết, biểu cảm, tuyên bố. Về mặt hiệu lực của HĐNT, có thể chia ra HĐNT trực tiếp và HĐNT gián tiếp. 1.2.3.4. Sự hành chức của tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong HĐNT a. TTTT cuối phát ngôn thực hiện các HĐNT trực tiếp: a.1. Các TTTT xuất hiện trong các cấu trúc HĐ hỏi: à, ừ, hả, hử, chứ;…a.2. Các TTTT xuất hiện trong các cấu trúc HĐ cầu khiến: đã, đi, nhé;…a.3. Các TTTT xuất hiện trong các cấu trúc HĐ trần thuật: đấy, kia... b. TTTT cuối phát ngôn thực hiện các HĐNT gián tiếp: b1. Hiệu lực hỏi nhưng gián tiếp là nhắc nhở, thúc giục; b2. Hiệu lực hỏi nhưng gián tiếp là cảnh cáo đe nẹt; b3. Hiệu lực hỏi nhưng gián tiếp là đánh giá; b4. Hiệu lực hỏi nhưng gián tiếp là nhắc lại; b5. Hiệu lực hỏi nhưng gián tiếp là bác bỏ; b6. Hiệu lực hỏi nhưng gián tiếp là lời chào; b7. Hiệu lực hỏi nhưng gián tiếp là khẳng định; b8. Hiệu lực hỏi nhưng gián tiếp là mỉa mai, chê trách; b.9. Hiệu lực hỏi nhưng gián tiếp là xác nhận; b.10. Hiệu lực hỏi nhưng gián tiếp là than vãn; b.11. Hiệu lực hỏi nhưng gián tiếp là đề nghị kết thúc cuộc thoại; b.12. Hiệu lực khảo nghiệm nhưng gián tiếp là giải thích. Số lượng các HĐ lời nói trực tiếp mà các TTTT tham gia biểu thị ở trên tuy chưa đầy đủ nhưng cũng đã cho thấy sự đa dạng của tính hiệu lực do các HĐNT gây nên trong đó có sự tham gia của TTTT. Do giới hạn của phạm vi đề tài, trong các chương 2, 3, 4, chúng tôi chỉ đi vào phân tích và mô tả các nhóm HĐNT trực tiếp có sự tham gia của TTTT. 7
  10. 1.2.4. Phương ngữ Nam Bộ và vấn đề phân tích TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ 1.2.4.1. Khái niệm phương ngữ Phương ngữ thường được hiểu là tiếng nói quen dùng của một vùng, một khu vực địa lí dân cư (phương ngữ địa lí) hay một tầng lớp người trong xã hội (phương ngữ xã hội) với những sự khác biệt nhất định (về ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa, ngữ pháp) so với ngôn ngữ toàn dân hay phương ngữ khác. 1.2.4.2. Phương ngữ Nam Bộ Theo Hoàng Thị Châu (2004) và ý kiến của phần đông các nhà nghiên cứu, tiếng Việt có 3 vùng phương ngữ, trong đó PNNB là giải phương ngữ từ phía nam Bình Thuận trở vào, thuộc vùng phương ngữ Nam. PNNB không chỉ là kết quả của một sự phân chia phương ngữ Việt mà nó đã trở thành một đối tượng được nghiên cứu trên nhiều bình diện. Đó cũng là cơ sở để chúng tôi thực hiện nghiên cứu TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB. Nghiên cứu TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Việt ở NB là nghiên cứu một lớp từ; cho nên luận án đã dựa theo quan niệm của Hoàng Trọng Canh (2001) về “Từ địa phương Nghệ Tĩnh” để xác định: Từ địa phương Nam Bộ là những từ người dân Nam Bộ quen dùng một cách tự nhiên, có sự khác biệt nhất định (về âm, nghĩa, ngữ pháp) so với từ toàn dân. 1.2.4.3. Vấn đề TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB Một đặc trưng nổi bật của tiếng Việt là hệ thống TTTT rất phong phú, thể hiện đa dạng trong các phương ngữ, trong đó có PNNB. Sự khác nhau giữa TTTT địa phương trong tương quan so sánh với TTTT toàn dân ở những trường hợp này không chỉ thuộc về hình thức ngữ âm mà quan trọng hơn là ở chức năng - nghĩa biểu thị tình thái và xác lập các hành vi ngôn ngữ. Như vậy, TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Việt NB là đối tượng cần được nghiên cứu, và có cơ sở khoa học và thực tiễn để nghiên cứu chúng. 1.3. Tiểu kết chương 1 Điểm lại kết quả nghiên cứu của những tác giả đi trước, luận án chỉ ra TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Việt NB cần tiếp tục được đào sâu, mở rộng nghiên cứu để góp phần cho thấy đặc điểm TTTT cuối phát ngôn trong bức tranh đa dạng, nhiều màu sắc của TTTT tiếng Việt. Luận án cũng đã xác định và giới thuyết các khái niệm và những vấn đề có liên quan làm cơ sở cho đề tài. Luận án xác định: TTTT cuối phát ngôn là những hư từ nằm cuối phát ngôn nhằm thể hiện thái độ, tình cảm, mối quan hệ giữa người nói với người nghe hay đối với thực tại được phản ánh trong phát ngôn. Các TTTT cuối phát ngôn là một trong những phương tiện quan trọng để thực tại hoá câu và là một phương tiện biểu thị thái độ, cảm xúc của người nói luôn gắn chặt với các hành động ngôn ngữ và các nhân tố vai giao tiếp về giới và các mặt khác. 8
  11. Chương 2. NHẬN DIỆN TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT NGÔN VÀ NGỮ NGHĨA CỦA CHÚNG TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ 2.1. Nhận diện TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB 2.1.1. Nhận diện TTTT trong phát ngôn về mặt chức năng 2.1.1.1. Những nhìn nhận chung về chức năng của TTTT Mặc dù có sự khác nhau ít nhiều trong nhìn nhận cụ thể về nghĩa TT nhưng điểm chung của các nhà Việt ngữ học đều khẳng định TTTT là một trong những phương tiện biểu thị TT mà chủ thể của đánh giá TT luôn thuộc về người nói. Vai trò của TTTT là chuyên dùng để biểu thị ý nghĩa TT (thái độ, cảm xúc...) xét trong quan hệ giữa chủ thể phát ngôn với người nghe, với nội dung phản ánh cũng như có chức năng cấu tạo các dạng HĐ nói: nghi vấn, cầu khiến, cảm thán... TTTT có thể đứng đầu, có thể đứng ở cuối phát ngôn. Trọng tâm nghiên cứu của luận án này là những TTTT khi chúng xuất hiện ở cuối phát ngôn. 2.1.1.2. Chức năng liên nhân của TTTT TTTT đảm nhận vai trò biểu đạt nghĩa TT. Thành phần nghĩa này chủ yếu thực hiện chức năng liên nhân. Chức năng liên nhân là chức năng xác lập mối quan hệ giữa các vai giao tiếp trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể: thân thiện hay xa lạ, thân, sơ hay ghét bỏ,… Khi thực hiện chức năng liên nhân, các TTTT đồng thời thể hiện nhiều vai trò cụ thể khác nhau 2.1.2. Nhận diện tiểu từ tình thái về phương diện từ loại Trong quan niệm của các tác giả đi trước, vấn đề mối quan hệ, vị trí của TTTT trong hệ thống từ loại tiếng Việt có nhiều điểm còn chưa thống nhất; xem chúng là một từ loại riêng hoặc tập hợp cùng trợ từ vào cùng một nhóm. Luận án này xem TTTT là một tiểu loại thuộc nhóm hư từ. Bởi, về ý nghĩa, các TTTT có đặc điểm không mang ý nghĩa từ vựng chân thực mà mang ý nghĩa tình thái; về chức năng, các TTTT không làm thành phần chính và thành phần phụ của câu mà chỉ xuất hiện trong câu để tạo câu theo mục đích nói: câu cầu khiến, câu nghi vấn. 2.1.3. Tiêu chí cụ thể nhận diện TTTT và danh sách TTTT cuối phát ngôn 2.1.3.1. Tiêu chí nhận diện và danh sách các TTTT của các tác giả đi trước Về tiêu chí phân chia cụ thể và số lượng TTTT, ý kiến của các nhà nghiên cứu Việt ngữ học chưa thật thống nhất. Danh sách TTTT của Nguyễn Văn Hiệp gồm 27 từ. Chúng tôi xem đây là những TTTT toàn dân và sẽ chọn (có bổ sung) làm cơ sở để so sánh với TTTT trong PNNB (trừ từ phỏng hiện ít sử dụng). 2.1.3.2. Tiêu chí nhận diện của luận án và danh sách TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ 9
  12. a. Tiêu chí nhận diện Từ các tiêu chí và kết quả phân loại từ của nhiều tác giả đã dẫn, luận án rút ra các tiêu chí để nhận diện TTTT, theo đó TTTT có ba đặc điểm: (1). Không có nghĩa từ vựng cũng không mang nghĩa phạm trù ngữ pháp mà chỉ biểu hiện nghĩa TT - biểu thị cảm xúc, thái độ, sự đánh giá của người nói đối với nội dung thông báo và quan hệ của nội dung thông báo đối với thế giới khả hữu, cho biết thế giới khả hữu đó là có thật hay không có thật, là tiềm năng hay đã xảy ra, là giả định hay ước muốn, đồng tình hay nghi vấn, phủ định hay bác bỏ, hướng đến người đối thoại mong muốn được cộng hưởng, đồng thuận hay bày tỏ ý kiến riêng khi tham gia trong hành chức; (2). Không sử dụng độc lập để trả lời cho câu hỏi; (3). Trong câu có thể lược bỏ mà không làm thay đổi nội dung mệnh đề nhưng sự có mặt của chúng tạo nên sắc thái nghĩa khác nhau cho phát ngôn. Sử dụng các tiêu chí trên, luân án bổ sung, cụ thể hóa, nhấn mạnh thêm các tiêu chí để nhận diện TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB là: (1). TTTT là yếu tố đi kèm với phát ngôn miêu tả, đứng cuối phát ngôn. Phát ngôn này giống như một hằng số, chưa thể hiện các tình thái khác nhau; (2). Yếu tố được xem là TTTT phải thể hiện một thái độ nhất định của người nói đối với người nghe; (3). Yếu tố được xem là TTTT phải gắn với phát ngôn cụ thể xuất hiện trong một ngữ cảnh, ngữ huống giao tiếp cụ thể; (4). TTTT xuất hiện cuối phát ngôn có tác dụng biến phát ngôn từ lõi mệnh đề có khả năng phản ánh và tác động, bộc lộ hướng thoại: nghi vấn, cầu khiến, trần thuật, bác bỏ, từ chối,...Ví dụ: Bạn làm à. Bạn làm ư. Bạn làm mà. Bạn làm vậy. b. Hệ thống tiểu từ tình thái cuối phát ngôn được dùng trong giao tiếp của người Nam Bộ Luận án tìm hiểu hệ thống TTTT cuối phát ngôn trong tiếng Việt toàn dân và trong giao tiếp của người NB về: số lượng đơn vị, sự hành chức và ý nghĩa. b1. Tiểu từ tình thái toàn dân Vận dụng các tiêu chí nhận diện TTTT nêu trên, đối chiếu với từ trong Từ điển tiếng Việt và danh sách các TT trong các công trình của các tác giả, luận án chọn danh sách TTTT toàn dân gồm 29 đơn vị do Hoàng Thúy Hà (2008) tổng hợp để khảo sát thực tế sử dụng ở NB là a, à, ạ, ấy, chắc, chăng, cho, chứ, cơ, đã, đây, đấy, đi, hả, hẳn, hử, hỉ, kia, mà, nào, này, nhé, nhỉ, thôi, thế, ư, vậy, với, chứ lại/lị. b2. Tiểu từ tình thái dùng trong phương ngữ Nam Bộ Khảo sát các TTTT trong phát ngôn của người NB, chúng tôi gặp các đơn vị TT được dùng là từ và dạng thức của từ. Các TT là hình thức biến âm, có nghĩa tương đồng thì xem là dạng thức của từ; nếu chúng khác nghĩa thì xem là hai từ. Qua khảo sát, thống kê, chúng tôi gặp 87 TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB, bao gồm 32 TTTT toàn dân và 55 TTTT PNNB, trong đó có hai 10
  13. dạng: TTTT đơn và TTTT kết hợp. TTTT đơn: là hiện tượng TTTT xuất hiện trong phát ngôn dạng cấu tạo đơn tiết. Ví dụ: há, hà, nhen, nghen, hôn, hông…; TTTT kết hợp (tổ hợp, phối kết): là hiện tượng cuối phát ngôn các yếu tố kết hợp với nhau tạo thành các tổ hợp TTTT gồm hai hoặc hơn hai thành tố. Ví dụ: mèn ơi, chớ bộ, thấy mồ,…Kết quả cụ thể như sau: - Có 40 TTTT đơn xuất hiện trong giao tiếp của người NB, trong đó có: 19 TTTT toàn dân được người NB dùng là à, ạ, cơ, chắc, chớ, chứ, đã, đây, đấy, đi, mà, nào, nhé, nhỉ, hả /há/ha, thôi, vậy, với, ư và 21 TTTT đơn tiêu biểu cho PNNB là: cà, chi, chớ, coi, đa, hà, há, he, hè, hen, hén, hôn, hông, mợi, nè, nhen, nghe, nghen, lận, ơi, ta. Trong 40 TTTT đơn nêu trên, có hai dạng biến thể: a). các biến thể phương ngữ, tạo thành cặp là: hen/hén; hôn/hông; nghen/nghe, nhen; he/hè và b). biến thể đều là yếu tố toàn dân: chớ/chứ; hả /há, ha. - Có 47 TTTT tổ hợp được dùng cuối phát ngôn, trong đó có: 13 TTTT tổ hợp toàn dân là: chắc à, cho mà, cơ mà, cơ đấy, đi mà, nào hả, thôi à, vậy đi, vậy hả, vậy mà, vậy thôi, với nhé; 34 TTTT tổ hợp PNNB là: à nha, chi dzậy, chớ/chứ gì, chớ sao, đó hả, đó mà, đó nha, à nhen, hông đây, hông hả, hông hà, hông nè, hông ta, nữa chớ, nữa đó, nữa hả, nữa hen, rồi đa, rồi nghen, rồi hen, rồi hà, lận nè, rồi há, sao nè, sao há, thôi nghen, thôi nghe, dzậy đó, nè mợi, lận mợi, dzậy nghen, mèn ơi, chớ bộ, thấy mồ. Như vậy, TTTT được người NB dùng cuối phát ngôn có số lượng rất phong phú (87 đơn vị) với hai loại cấu tạo, cấu tạo đơn (40 từ, 45,98%) và cấu tạo tổ hợp (47 đơn vị, 54,02%), gồm cả TTTT toàn dân và TTTT phương ngữ, trong đó TTTT phương ngữ có số lượng và tỉ lệ gần gấp đôi TTTT toàn dân (55 đơn vị chiếm 63,21% so với 32 đơn vị, chiếm 36,78%). 2.2. Ngữ nghĩa của tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ 2.2.1. Các TTTT đơn được dùng trong giao tiếp của người Nam Bộ Trong 8531 cuộc thoại của người NB đã điều tra được, đối chiếu TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB với các TTTT cuối phát ngôn trong tiếng Việt toàn dân, chúng tôi phân ra tiểu nhóm: 1). TTTT trùng với từ trong tiếng Việt toàn dân; 2). TTTT toàn dân được dùng trong phương ngữ có sự khác biệt ít nhiều về nghĩa; 3). TTTT là biến thể về âm và nghĩa - những TTTT tiêu biểu cho PNNB. 2.2.1.1. Các tiểu từ tình thái đơn toàn dân dùng ở Nam Bộ a). Nhóm các tiểu từ tình thái đơn trùng với tiếng Việt toàn dân Khảo sát phát ngôn của người NB, chúng tôi thấy xuất hiện 19 TTTT có âm và nghĩa như trong tiếng Việt toàn dân là: à, ạ, chắc, cho, chứ, cơ, đã, đây, đấy, đi, mà, nào, nhé, nhỉ, hả, thôi, vậy, với, ư. b). Nhóm các TTTT đơn toàn dân dùng trong giao tiếp của người Nam Bộ có sự khác biệt ít nhiều về nghĩa và cách dùng 11
  14. Trong danh sách 19 TTTT đơn trùng với tiếng Việt toàn dân về ngữ âm có 6 TTTT ạ, nhé, đây, chứ, hả, vậy khi dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp ở địa phương NB có khác về nghĩa và cách dùng so với ngôn ngữ toàn dân. Vì thế, chúng tôi miêu tả về 6 TTTT này trong giao tiếp của người NB. Theo tư liệu khảo sát hội thoại, chúng tôi thống kê được số lượng 413 lượt dùng TTTT toàn dân ạ, nhé, đây, chứ, hả, vậy. c). Nhóm các tiểu từ tình thái là biến thể ngữ âm của từ toàn dân Biến âm là một hiện tượng phổ quát của ngôn ngữ nhưng ngôn ngữ mỗi dân tộc, mỗi vùng có mức độ biến âm khác nhau và có những đặc trưng biến âm riêng. Tiếng Việt nói chung và PNNB nói riêng cũng vậy. PNNB có 7 TTTT là biến âm của từ toàn dân là: á (à), chớ (chứ), dzậy (vậy), đó (đấy), nha (nhé), nhe (nhé), ha (hả). 2.2.1.2. Ý nghĩa của các tiểu từ tình thái đơn phương ngữ Như trên đã đề cập, trong phát ngôn của người Nam Bộ có 21 TTTT đơn khác cả về ngữ âm và ngữ nghĩa so với TTTT trong tiếng Việt toàn dân, vì vậy trọng tâm nghiên cứu của chúng tôi là 21 TTTT đơn này. Khảo sát hơn 8531 cuộc thoại, đối chiếu với TTTT toàn dân; có 21 TTTT đơn phương ngữ cuối phát ngôn NB, gồm: cà, chi, chớ, coi, đa, hà, há, he, hè, hen / heng, hén / héng, lận, hôn, hông, mợi, nè, nhen, nghe, nghen / ngheng, ta, ơi. 2.2.2. Ngữ nghĩa của tổ hợp TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ 2.2.2.1. Kết quả khảo sát Từ 8531 phiếu điền dã các cuộc thoại của người NB dùng TTTT cuối phát ngôn ở dạng kết hợp, có 4181/8531 (49%) cuộc thoại có dùng tổ hợp TTTT. Như vậy, hiện tượng dùng tổ hợp TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB rất phổ biến. Kết quả chung về bức tranh sử dụng hai loại tổ hợp TTTT toàn dân và phương ngữ được thể hiện qua sơ đồ sau: 2.2.2.2. Ngữ nghĩa các tổ hợp TTTT a). Các tổ hợp TTTT toàn dân được sử dụng cuối phát ngôn Trong tiếng Việt toàn dân, TTTT không những xuất hiện ở dạng đơn (1 âm tiết) như: à, á, ạ, cơ, chắc,… mà còn ở dạng kết hợp với số lượng rất lớn, như: đâu à, đây à, đấy à, kia à, cơ à…Trong giao tiếp, người NB sử dụng 13 tổ hợp TTTT toàn dân, với 1463/4181 lượt. Số lượt dùng và mức độ sử dụng của các cặp TTTT kết hợp 12
  15. toàn dân là không như nhau. Được dùng nhiều nhất là đi mà (150 lần, 10,23%), tiếp đến thôi mà (145 lần, 9,94%), vậy mà (145 lần, 9,94%), vậy thôi (138 lần, 9,36%), vậy hả (107l ần, 7,31%), cho mà (107 lần, 7,31%), vậy đi (124 lần, 8,48%); nào hả (120 lần, 8,19%); với nhé (120 lần, 8,19%); chắc à (120 lần, 8,19%); thôi à (115 lần, 7,89%); vậy hả (107 lần, 7,31%); cho mà (107 lần, 7,31%); và dùng ít nhất là cơ mà (39 lần, 2,63%), cơ đấy (34 lần, 2,34%). b). Các tổ hợp TTTT phương ngữ Nam Bộ được sử dụng cuối phát ngôn Từ kết quả khảo sát 4181 cuộc thoại người Nam Bộ đã dùng tổ hợp TTTT trong giao tiếp, ngoài 1463 cuộc thoại có dùng 13 cặp tổ hợp TTTT toàn dân cuối phát ngôn, chúng tôi thu được 34 cặp tổ hợp TTTT phương ngữ xuất hiện trong 2718 cuộc thoại. Đó là: à nha, chi dzậy, chớ/chứ gì, chớ sao, đó hả, đó mà, đó mà, à nhen, hông đây, hông hả, hông hà, hông nè, hông ta, nữa chớ, nữa đó, nữa hả, nữa nhen, rồi đa, rồi nghen, rồi hen, rồi hà, lận nè, rồi há, sao nè, sao há, thôi nghen, thôi nghe, dzậy đó, nè mợi, lận mợi, dậy nghen, mèn ơi, chớ bộ, thấy mồ. Có ba dạng kết hợp TTTT phương ngữ: 1). TTTT toàn dân kết hợp TTTT phương ngữ (à nha, sao nè,…); 2). Hai TTTT phương ngữ kết hợp với nhau (hông nè, hông dzậy, hông hà, dzậy nghen, nè mợi, lận mợi…); 3). Hai TTTT toàn dân kết hợp với nhau (đó mà, rồi đó,… Đây là dạng khá đặc biệt, chỉ thấy xuất hiện cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB). Các kết hợp TTTT phương ngữ phần nhiều có tỉ lệ lượt dùng gần bằng nhau (trên/ dưới 3%); kết hợp hông hà, hông nè được dùng nhiều nhất (118 lần, 4,34%) so với sao nè, rồi há (68 lần, 2,83%), dzậy đó (58 lần, 2,13%,) có lượt dùng thấp nhất cũng chỉ hơn 2%. Điều đó nói lên rằng, các kết hợp TTTT phương ngữ đều là những tổ hợp được dùng quen thuộc với người NB. 2.3. Tiểu kết chương 2 Điền dã trực tiếp 8531 cuộc thoại của người NB, luận án cho thấy số lượng TTTT được người NB dùng cuối phát ngôn rất phong phú và đa dạng, gồm 87 đơn vị, với hai loại cấu tạo, cấu tạo tổ hợp nhiều hơn cấu tạo đơn (47 đơn vị, 54,02%, so với 40 từ, 45,98%), gồm cả TTTT toàn dân và TTTT phương ngữ, trong đó TTTT phương ngữ có số lượng và tỉ lệ gần gấp đôi TTTT toàn dân (55 đơn vị (21 TTTT đơn, 34 TTTT tổ hợp), chiếm 63,21% so với 32 đơn vị (19 TTTT đơn, 13 TTTT tổ hợp), chiếm 36,78%). TTTT toàn dân khi dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB có một số đơn vị có sự khác biệt ít nhiều so với dùng trong ngôn ngữ toàn dân. Tần số sử dụng đối với các từ này không cao và hoàn cảnh giao tiếp, sử dụng chúng cũng hạn chế. Các TTTT toàn dân chủ yếu được dùng trong cơ quan, trường học, mang tính nghi thức. Trong gia đình cũng như ngoài xã hội, trong bối cảnh giao tiếp tự nhiên, đời thường, các TTTT toàn dân rất ít khi được dùng; thay vào đó là các TTTT địa 13
  16. phương NB. Một vài điểm khác biệt khác về nghĩa cũng được thể hiện trong cách dùng của người phương Nam đối với nhóm TTTT này. Trong gia đình, người hàng trên không dùng ạ đối với hàng dưới và người hàng dưới có thể dùng hả cuối phát ngôn khi giao tiếp với người hàng trên. Nghĩa của các TTTT đơn phương ngữ rất phong phú và đa dạng. Phần lớn chúng đều có nhiều nghĩa hoặc sắc thái nghĩa khác nhau. Điều đó góp phần làm cho ngôn ngữ giao tiếp của người NB thêm giàu sắc thái biểu cảm. Việc sử dụng các tổ hợp TTTT cuối phát ngôn một cách phong phú, đa dạng, hơn nữa, các tổ hợp TTTT phương ngữ lại được dùng với tần số cao hơn đã góp phần tạo thêm sự phong phú các sắc thái nghĩa tình thái phương ngữ, bên cạnh nghĩa của nội dung mệnh đề. Điều đó đã giúp cho người NB có thể chuyển tải một cách chính xác, đầy đủ, cụ thể và tinh tế cảm xúc, thái độ, sự đánh giá của người nói đối với hiện thực được thông báo, tạo nên điểm nhấn, gây ấn tượng sâu sắc đối với người đối thoại. Đồng thời làm cho lời nói của người NB có sự nhấn giọng hay kéo dài giọng ở cuối phát ngôn, tạo nên âm hưởng, giọng điệu riêng, đậm “chất Nam Bộ”. Chương 3. ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG CÁC TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT NGÔN TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ XÉT THEO HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ 3.1. Mô tả chức năng ngữ nghĩa các nhóm TTTT 3.1.1. Phân loại các nhóm TTTT theo phạm trù HĐNT Dựa trên các tiêu chí phân loại các HĐNT và 4 định hướng ở chương 1, luận án phân loại, thống kê số lượng 24 TTTT cuối phát ngôn tiêu biểu cho PNNB xuất hiện trong 5 nhóm phạm trù HĐNT. Cả 5 nhóm phạm trù HĐNT đều có các TTTT cuối phát ngôn nhưng khả năng xuất hiện của các từ không như nhau. Căn cứ theo tỉ lệ tần số các TTTT xuất hiện ở vị trí cuối phát ngôn, xếp theo thứ tự từ cao đến thấp là: 1). Nhóm điều khiển (1922 /6510 lần, gồm: chớ, chi, coi, há, he, hè, hen, luôn, hông, mợi, nè, nhen, nghe, ta, lận). 2). Nhóm trình bày (1655 /6510 lần, gồm: cà, chi, chớ, đa, hà, hen, lận, mợi, nè, nghe, nghen, ơi). 3). Nhóm biểu cảm (1645 /6510 lần, gồm: chi, chớ, coi, mèm ơi, hà, he, hè, hen, hén, hôn, nè, nhen, nghe, nghen, ta, chớ bộ, thấy mồ). 4). Nhóm tuyên bố (902 /6510 lần, gồm: chi, coi, hè, mợi, nè, nghe, nghen, ơi). 5). Nhóm cam kết (369 /6510 lần, gồm: coi, hen, nghe, nghen). Như vậy, có thể thấy vai trò và khả năng biến đổi linh hoạt về ngữ nghĩa của TTTT. Trong đó, đặc biệt các từ hen, nghe, nghen, chúng có khả năng xuất hiện trong cả 5 phạm trù. 14
  17. 3.1.2. Phân loại các nhóm TTTT theo từng tiểu phạm trù HĐNT Luận án đã tiến hành khảo sát, phân loại TTTT theo các tiểu phạm trù của 5 phạm trù. Với sự miêu tả chi tiết, kèm ví dụ minh họa, luận án cho thấy vai trò và giá trị của TTTT trong việc thực tại hóa ý nghĩa các phát ngôn theo các HĐ khác nhau. Cả 27 HĐNT của 5 phạm trù đều có TTTT cuối phát ngôn. Chúng không những là yếu tố thể hiện tình thái mà còn là thành tố làm cho mục đích của phát ngôn được thể hiện rõ. Một TTTT có thể xuất hiện trong nhiều HĐNT của một phạm trù hay nhiều phạm trù khác nhau. Trong đó, có nhiều TTTT xuất hiện với tần số cao trong nhiều HĐNT của 5 phạm trù là nghe, hen (5 phạm trù), chi, hà, nè, nghen, hè (4 phạm trù). 3.2. Mô tả các TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ theo tiêu chí lịch sự 3.2.1. Nguyên lí lịch sự Nguyên lí lịch sự (principle of politeness) là một nguyên lí đặc biệt quan trọng trong hoạt động giao tiếp. Cho đến nay, các công trình nghiên cứu đã công bố đều dựa trên cơ sở các hiện tượng thể hiện tính lịch sự để xây dựng lí thuyết lịch sự. Từ chỗ trình bày ý kiến của các nhà nghiên cứu ngoài nước và trong nước về nguyên lí lịch sự, luận án dựa theo định nghĩa của Đỗ Hữu Châu (2003): “phép lịch sự là hệ thống những phương thức mà người nói đưa vào hoạt động nhằm điều hòa và gia tăng giá trị của đối tác của mình” làm cơ sở nghiên cứu. 3.2.2. Mô tả cụ thể Luận án đã miêu tả và phân loại cụ thể 21 TTTT đơn và 3 TTTT kết hợp tiêu biểu cuối phát ngôn của PNNB theo tiêu chí lịch sự. TTTT cuối phát ngôn ở NB đại bộ phận được dùng theo chiến lược lịch sự dương tính (19/ 24 từ, gồm: đa, mèn ơi, há, hà, he, hè, hen, hén, lận, hôn, hông, mợi, nè, nhen, nghe, nghen, ta, ơi, thấy mồ), 3 từ (cà, coi, chớ bộ) được dùng với sắc thái trung tính, chỉ có 2 từ (chi, chớ) là được dùng với chiến lược lịch sự âm tính. 3.3. So sánh nghĩa của các TTTT trong nhóm theo từng HĐNT 3.3.1. Các cặp TTTT trong cùng nhóm xuất hiện trong các HĐNT khác nhau - Nhóm 1: hen/ hén: Cặp này xuất hiện trong 5 phạm trù HĐNT. Tuy nhiên hen có mặt trong HĐNT: cầu khiến, dặn dò, xin lỗi, cảm ơn, khen, từ chối, thông báo, thỏa thuận; trong khi hén chỉ có mặt trong HĐ: hỏi, hứa. - Nhóm 2: hà/ há: TTTT hà xuất hiện ở HĐNT: mời mọc, cầu mong, khen, tiếc, trách, bác bỏ, kể, giải trình, còn TTTT há lại không xuất hiện trong các HĐ đó mà chỉ có mặt ở HĐNT: cầu khiến, rủ rê, chào. 3.3.2. Các TTTT trong nhóm xuất hiện trong cùng một HĐNT Nhóm 1: hen/ hén cùng xuất hiện ở 5 phạm trù HĐNT. Hen/ hén cùng xuất hiện ở HĐNT: trách. Nhóm 2: hôn/ hông: cùng xuất hiện ở HĐNT: hỏi. Nhóm 3: nhen, nghe, nghen cùng xuất hiện ở HĐNT: dặn dò, xin lỗi, thông báo. 15
  18. Trong đó, nhóm nhen, nghe, nghen xuất hiện nhiều nhất (23/27 HĐNT), tiếp đến là hen/ hén (16/27 HĐNT), thấp nhất là hôn/ hông (4/27 HĐNT). Chúng tôi đã so sánh các từ trong nhóm, thấy rằng, các TTTT phát âm gần nhau cùng có mặt trong một HĐNT, ngoài nét nghĩa chung, giữa chúng có nét nghĩa riêng. Nét nghĩa riêng rất đa dạng và phong phú, biểu thị sự khác biệt về sắc thái biểu cảm trong từng phát ngôn. Với sự biểu hiện nghĩa cụ thể, rõ ràng, các TTTT nhóm này giúp chuyển tải tư tưởng tình cảm, bộc lộ ý nghĩa tình thái đa dạng tinh tế cho phát ngôn, làm nổi rõ những suy nghĩ, những cung bậc tình cảm phong phú của con người NB. 3.4. Hiện tượng từ hô gọi đi kèm TTTT 3.4.1. Từ hô gọi và hiện tượng từ hô gọi đi kèm TTTT Để khảo sát từ hô gọi (THG) đi kèm TTTT, chúng tôi tập hợp 1.800 tham thoại của 8.531 phiếu điều tra các cuộc hội thoại ở các tỉnh thành NB xuất hiện THG đi kèm TTTT cuối phát ngôn thuộc tám HĐNN 3.4.2. Vai trò của từ hô gọi xuất hiện trước và sau TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB HĐNT có THG kèm TTTT xuất hiện trước TTTT có số lượng cao nhất là ở HĐ xin lỗi: 89/597 lần, 14,90%; HĐNT có THG kèm TTTT xuất hiện sau TTTT có số lượng cao nhất là ở HĐ mời: 56/354 lần, 16,20%. Cũng qua biểu đồ ta thấy hoạt động của THG xuất hiện khá đồng đều ở các nhóm HĐNT; điều đó cho thấy, không những THG luôn xuất hiện trong giao tiếp của người NB như một yếu tố tự nhiên tất yếu mà chúng còn là yếu tố thể hiện tính lịch sự và tình cảm. THG đi kèm với TTTT là một trong các biểu hiện của đặc điểm giao tiếp trọng tình của người NB. a). THG xuất hiện trước TTTT cuối phát ngôn Khi THG xuất hiện trước TTTT thì trọng tâm phát ngôn sẽ rơi vào đối tượng được gọi, điều đó cho thấy người nói rất quan tâm đến người nghe; lúc ấy, có thể điểm nhấn biểu cảm của TTTT sẽ giảm nhẹ hơn một chút. 16
  19. b). THG xuất hiện sau TTTT cuối phát ngôn Khi THG xuất hiện sau TTTT thì trọng tâm sẽ rơi vào TTTT, nội dung lời nói được chú ý hơn, nhấn mạnh hơn; người nghe cần lưu ý đến thông điệp mà người nói đã phát. Ngữ điệu tuy mạnh nhưng không kém phần lịch sự và sự nhẹ nhàng. Người nghe cảm nhận được sự quan tâm, những tình cảm trân trọng dành cho mình. 3.5. Tiểu kết chương 3 Ở chương 3, luận án đã mô tả cho thấy các TTTT có thể nằm trong một nhóm HĐ nhưng cũng có khả năng xuất hiện trong nhóm khác, có vai trò và ý nghĩa khác nhau, đó là hỏi, khẳng định trực tiếp một cách thẳng thắn, bộc trực; hoặc mang hình thức hỏi nhưng lại hàm ẩn chuyển tải HĐ lời nói khác một cách tinh tế, tế nhị. Đó là nét đặc sắc của TTTT trong giao tiếp của người NB. Giữa các từ trong nhóm TTTT, về ý nghĩa, vai trò, và sự hành chức, bên cạnh những điểm tương đồng, giữa chúng có những đặc điểm hoàn toàn khác nhau. Mô tả và phân loại các nhóm TTTT theo HĐNT, luận án nhận thấy: các TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB xuất hiện thường xuyên trong 5 phạm trù điều khiển, biểu cảm, cam kết tuyên bố, trình bày. Trong đó, có 27 HĐNT tiêu biểu thuộc 5 phạm trù này xuất hiện TTTT cuối phát ngôn là kể, thông báo, giải trình, dặn dò, giới thiệu, cầu khiến, xua đuổi, mời mọc, rủ rê, mệnh lệnh, cầu mong, khuyên, hỏi, hứa, thoả thuận, cảm ơn, xin lỗi, chúc, chào, khen ngợi, tiếc, dự định, đoán, ước, trách móc, bác bỏ, từ chối. Khảo sát các TTTT cuối phát ngôn đi kèm THG trong giao tiếp của người NB, luận án thấy việc liên kết các yếu tố này với nhau có hiệu quả trong việc thể hiện nghĩa tình thái. THG kết hợp TTTT trong các ngữ cảnh tạo sự chú ý, gây ấn tượng mạnh, tạo sắc thái mới mẻ; đồng thời, người nói muốn tìm sự chia sẻ với người nghe, mong muốn người nghe tiếp nhận hay đồng tình. Việc kết hợp THG kèm TTTT cuối phát ngôn trong phương ngữ NB một cách tự nhiên, hài hòa, phần nào cho thấy bức tranh giao tiếp trọng tình cảm, nét tinh tế trong lời ăn tiếng nói của người phương Nam. Chương 4. ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT NGÔN TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ XÉT THEO PHÂN TẦNG XÃ HỘI VỀ GIỚI TÍNH 4.1. Giới thuyết về vấn đề giới tính và ngôn ngữ Chúng tôi đồng tình với cách nhìn của Nguyễn Văn Khang (2012) về vấn đề giới và ngôn ngữ. Giới tính cũng như các nhân tố phân tầng xã hội khác đều có ảnh hưởng đến thái độ, thói quen sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Điều đó cũng được thể hiện trong phát ngôn có dùng TTTT đứng cuối, có sự khác nhau ít nhiều giữa nam và nữ. 17
  20. 4.2. Những khác biệt về tần số sử dụng TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp giữa nam và nữ ở Nam Bộ 4.2.1. Sự khác biệt giữa nam và nữ về tần số sử dụng TTTT đơn Chúng tôi tra ghi âm mỗi giới số lượng 500 người. Tổng số phát ngôn thu được có dùng TTTT là 7655. So sánh 21 TTTT đơn PNNB được nam và nữ dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp, chúng tôi thấy nữ giới sử dụng TTTT nhiều hơn nam. Cụ thể, nữ sử dụng 4592 phát ngôn chứa TTTT, chiếm 59,99%, nam sử dụng 3063 phát ngôn, chiếm 40,01%. Tất cả TTTT, TTTT nào nữ cũng đều dùng số lượng phát ngôn cao hơn nam. Trong đó, có 10/ 21 TTTT được nữ dùng nhiều hơn nam từ 60 % trở lên, đặc biệt, TTTT nghen được nữ sử dụng với tỉ lệ cao chênh lệch nhất so với nam, với 669/825 phát ngôn (81,09 % so với 18,91%). Số lượng phát ngôn có TTTT được nữ dùng cao trên 60%, tỉ lệ vượt trội so với nam là: nghen (669/825; 81,09%), đa (82/117; 70,09%), %), hà (109/156; 69,87%), há (131/190; 68,95%), ơi (306/476 ; 64,29%), cà (129/204; 63,24%), nhen (291/473; 61,52%), chi (90/147; 61,22%), hôn (420/694; 60,52%), chớ (95/158; 60,13%). Một tỉ lệ rất chênh lệch so với nam. Nữ giới dùng TTTT cuối phát ngôn thường xuyên hơn nam. 4.2.2. Sự khác biệt giữa nam và nữ về tần số sử dụng TTTT kết hợp Khảo sát 2718 tham thoại có sử dụng tổ hợp TTTT xét theo giới, kết quả: nữ sử dụng 1721/2718 lần, chiếm tỉ lệ 63.31%; nam sử dụng 997/36.68 lần, chiếm tỉ lệ 36.68%. Chỉ có 2 tiểu từ nữ dùng ít hơn nam nhưng tỉ lệ chênh lệch không đáng kể (thôi nghen: 45,95% /54,05% và đó mà: 44,59%/ 55,41%), 32 tổ hợp TTTT khác, nữ đều dùng với tỉ lệ cao hơn nam. Trong đó, các từ được dùng chiếm tỉ lệ trên 60% là: thấy mồ, chớ bộ, mèn ơi, đó nha, đó hả, nữa đó, nữa hả, nữa mà, nữa chứ, rồi hà, rồi đó, rồi chắc, hông nè,… Trong PNNB có 3 tổ hợp TTTT khá đặc biệt, mang tính cố định cao, chúng không do các yếu tố tình thái đơn kết hợp tạo nên là thấy mồ, chớ bộ, mèn ơi. Nghĩa thấy mồ thể hiện nghĩa cảm xúc mạnh về cái vượt quá sức tưởng tượng. Ví dụ: Thôi, coi bộ thưa thấy mồ. Con thấy trái nào trái nấy bự thấy mồ. Thấy mồ có thể được dùng với các hành vi khác nhau; nếu người nói “Đẹp thấy mồ”, đó là khen còn “Xấu thấy mồ”, đó là chê và “Mệt thấy mồ”, đó là than. Chớ bộ có ý nghĩa tỏ thái độ mạnh mẽ khẳng định hoặc phủ định điều gì đó. Nghĩa của chớ bộ khác hoàn toàn với TTTT chớ. Ví dụ: Ủa, con cân khoai mỡ chớ bộ. Cái gì cũng từ từ, tao còn ghé quán bà Tư chớ bộ. Mèn ơi thể hiện thái độ, biểu cảm (khen/chê) cao độ, trước kết quả sự việc nào đó được nói đến. Ví dụ: Cái giỏ này đương bàng nhuyễn đẹp ghê mèn ơi. Cha, nay cao lớn coi bộ giống cha mày mèn ơi! Đi sâu tìm hiểu ba TTTT kết hợp khá đặc biệt dùng cuối phát ngôn trong giao tiếp của người NB theo giới thì cả ba TTTT này đều được nữ dùng với số phát ngôn cao hơn 4,5 lần nam (cụ thể, tỉ lệ nữ dùng thấy mồ 82,35%, chớ bộ 81,82%, mèn ơi 81,16%). 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2