Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay
lượt xem 21
download
Luận án trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người và thực tiễn bảo đảm QCN của Nhà nước Việt Nam, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao tính hiệu quả của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay
- HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ HÒE NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử Mã số : 62 22 03 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. TRẦN THÀNH HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát hiện đưa ra trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án. Tác giả luận án Trần Thị Hòe
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6 1.1. Các công trình nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền con người 6 1.2. Các công trình nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người 15 1.3. Những giá trị của các công trình liên quan đến luận án và những vấn đề đặt ra mà luận án tiếp tục nghiên cứu 23 Chương 2: BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI 26 2.1. Quyền con người và bảo đảm quyền con người 26 2.2. Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người - Tầm quan trọng và biểu hiện 43 Chương 3: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 63 3.1. Hội nhập quốc tế và tác động của nó đến nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam 63 3.2. Thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế 76 3.3. Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay - Những vấn đề đặt ra 104 Chương 4: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY - MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP 112 4.1. Một số quan điểm cơ bản 112 4.2. Một số giải pháp chủ yếu 122 KẾT LUẬN 152 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 154 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156 PHỤ LỤC 166
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN HNQT : Hội nhập quốc tế HTQT : Hợp tác quốc tế KTTT : Kinh tế thị trường LHQ : Liên hợp quốc QCD : Quyền công dân QCN : Quyền con người TCH : Toàn cầu hóa XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Quyền con người (Human Rights) (QCN) là giá trị cao quý, là thành quả đấu tranh chung của toàn nhân loại chống lại áp bức, bất công. Do đó, bảo đảm QCN trở thành khát vọng của loài người, là giá trị cơ bản mà các chế độ xã hội luôn hướng tới. Ngày nay, cùng với sự phát triển của lịch sử, vấn đề bảo đảm QCN cũng được nhận thức và thực hiện tốt hơn với những giá trị, chuẩn mực về QCN ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên tùy theo mỗi thời kỳ lịch sử, chế độ kinh tế, chính trị, quan điểm giai cấp khác nhau... mà những chuẩn mực, nguyên tắc bảo đảm QCN khác nhau. Do vậy, bên cạnh những giá trị chung, phổ biến về QCN, khó có một quan niệm thống nhất về QCN và bảo đảm QCN, nhất là trong điều kiện trên thế giới đang tồn tại đa dạng các nhà nước với các giai cấp với những chế độ chính trị vì những mục tiêu, lợi ích khác nhau. Điều này thể hiện rất rõ trong quan điểm chính trị, cách tổ chức, thực thi quyền lực của các nhà nước cụ thể. Ngày nay, toàn cầu hóa (TCH) và hội nhập quốc tế (HNQT) là một xu thế tất yếu đối với các quốc gia. Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình TCH và HNQT đã làm cho các quốc gia "xích" lại gần nhau hơn, tạo ra các điều kiện và cơ hội thuận lợi hơn cho sự phát triển vì sự tiến bộ chung của nhân loại, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các QCN. Tuy nhiên, TCH và HNQT cũng nảy sinh nhiều vấn đề tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Tình trạng mâu thuẫn giữa các dân tộc do sự chênh lệch, bất công về cơ hội, điều kiện trong việc chiếm lĩnh các nguồn lực để thực hiện và phân chia hệ thống lợi ích xã hội; trong việc giải quyết mối quan hệ giữa nhân quyền và chủ quyền quốc gia dân tộc trong hội nhập; những mâu thuẫn lợi ích giữa các giai cấp trong một nhà nước cụ thể đang cản trở cuộc đấu tranh vì những lợi ích chung cho xã hội, vì tiến bộ xã hội... dẫn tới phạm vi và mức độ bảo đảm, thực hiện QCN ở các quốc gia có khác nhau. Giải quyết vấn đề này mỗi nhà nước có quan điểm, nguyên tắc riêng về bảo đảm QCN vì sự phát triển chung của xã hội và sự phát triển bền vững của quốc gia. Trong bối cảnh đó, nhà nước Việt Nam đã nhận thức ngày càng sâu sắc và tham gia tích cực vào quá trình đấu tranh để bảo vệ QCN trên phạm vi quốc tế vì sự phát triển chung của nhân loại và bảo vệ lợi ích quốc gia. Sự tham gia ngày càng tích cực vào các tổ chức quốc tế bảo vệ và đấu tranh cho QCN, quyền tự quyết của các dân tộc, chống
- 2 phân biệt chủng tộc, đảm bảo phân chia lợi ích giữa các quốc gia... đã cho thấy vai trò của Việt Nam trong thế giới hiện nay. Theo Luật nhân quyền quốc tế, bảo đảm QCN là trách nhiệm của nhiều chủ thể, trong đó, nhà nước đóng vai trò quan trọng. Bảo đảm QCN là trách nhiệm của nhà nước và là vấn đề mang tính nguyên tắc trong hoạt động của nhà nước. Nguyên tắc này đã được khẳng định trong Lời nói đầu Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776), rằng: "quyền lực chính đáng của các chính phủ phải xuất phát từ sự nhất trí của nhân dân" [124, tr.15]. Chính phủ đó phải "dựa trên nền tảng của những nguyên tắc và tổ chức quyền lực theo cách thức mà nhân dân thấy thích hợp nhất để đảm bảo an ninh và hạnh phúc cho họ" [124, tr.15] và nếu chính phủ nào "đối nghịch" hoặc không đáp ứng được yêu cầu trên thì nhân dân "có quyền thay đổi hoặc xóa bỏ nó"để thiết lập một chính phủ mới"… Ở Việt Nam, tư tưởng về một chính quyền của dân, bảo vệ các quyền của dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Nếu để dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi; Nếu để dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; Nếu để dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; Nếu để dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi" [85, tr.572]. Do đó, ngay từ Hiến pháp 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, việc tôn trọng các quyền tự do dân chủ của nhân dân đã trở thành một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Nhà nước. Quán triệt nguyên tắc này, bảo đảm QCN đã trở thành một trong những mục tiêu đầu tiên và quan trọng hàng đầu của sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội củ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam. Chính vì vậy, trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh, đối ngoại..., Đảng và Nhà nước ta luôn đặt vấn đề con người và bảo đảm QCN vào vị trí trung tâm và là mục tiêu quan trọng nhằm hướng tới sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước. Nhiệm vụ "Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia ký kết" [30, tr.76] được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và "Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người [33, tr.85] tiếp tục được nhấn mạnh tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định chủ trương đúng đắn về định vị trí, vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, xác định nguyên tắc bảo vệ các QCN của công dân trước quyền lực chính trị của nhà nước.
- 3 Cụ thể hóa quan điểm của Đảng, những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN; tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN; hoàn thiện các cơ chế, thiết chế bảo đảm QCN; tham gia hợp tác quốc tế (HTQT) trên lĩnh vực QCN... Thực tiễn gần 30 năm đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội đã đem lại cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu về tổ chức nhà nước, về phát huy tính hiệu quả của nhà nước đối với việc bảo đảm các QCN. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, việc bảo đảm QCN của Nhà nước ta còn nhiều hạn chế. Trên lĩnh vực pháp luật, nhiều quy định của pháp luật còn chồng chéo, bất cập, thậm chí mâu thuẫn, chưa phù hợp với Hiến pháp, khó triển khai trong thực tiễn. Công tác tuyên truyền, giáo dục về QCN cho người dân và đội ngũ cán bộ công chức mang tính hình thức, nặng về lý thuyết, thiếu sự gắn kết với thực tiễn, bên cạnh đó, nhận thức và am hiểu về QCN của một số cán bộ, công chức còn hạn chế, gây trở ngại cho việc thực hiện QCN của người dân. Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, một số cơ quan còn chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu của đổi mới và hội nhập. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu trách nhiệm, vô cảm, thậm chí vi phạm nghiêm trọng các QCN của người dân của một số cán bộ, công chức, gây bức xúc trong xã hội, tạo kẽ hở cho một số thế lực thù địch coi đó là lý do để vu cáo Việt Nam vi phạm QCN. Hội nhập quốc tế mở ra cho Nhà nước Việt Nam nhiều cơ hội trong việc bảo đảm QCN, song cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về QCN, gây trở ngại cho việc bảo đảm QCN của nhà nước. Bởi lẽ, việc tuân thủ các định chế, các nguyên tắc, các cam kết của các tổ chức quốc tế và khu vực trong quá trình hội nhập làm cho việc hoạch định, thực thi chính sách phát triển kinh tế, xã hội gắn với bảo đảm QCN của nhà nước đứng trước nhiều thách thức. Ngoài ra, việc phân bổ nguồn lực chưa hợp lý; quy trình ban hành chính sách, pháp luật về QCN còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa có sự gắn kết chặt chẽ với các quy định của định chế quốc tế cũng như những đòi hỏi của quá trình HNQT. Chất lượng của chính sách kinh tế, chính sách xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn. Việc tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về QCN còn nhiều bất cập, lúng
- 4 túng... Thực tế này đòi hỏi nhà nước phải có sự điều tiết, can thiệp ở mức độ nhất định nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất cho mục tiêu bảo đảm QCN. Từ những hạn chế, bất cập kể trên, việc nghiên cứu vấn đề lý luận về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN; phân tích thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT, từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo QCN ở nước ta thời gian tới là một yêu cầu cần thiết và cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn. Xuất phát từ các lý do trên, tác giả chọn vấn đề "Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay" làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ phạm vi nghiên cứu 2.1. Mục đích của luận án Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN và thực tiễn bảo đảm QCN của Nhà nước Việt Nam, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao tính hiệu quả của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ của luận án Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về QCN và bảo đảm QCN, luận án tập trung: - Làm rõ khái niệm quyền con người, bảo đảm QCN, tầm quan trọng của việc bảo đảm QCN và những biểu hiện cụ thể của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN. - Làm rõ quá trình HNQT của Việt Nam và những tác động của HNQT đến QCN và nhà nước đối với việc bảo đảm QCN ở Việt Nam. - Làm rõ thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay và những vấn đề đặt ra. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nâng cao tính hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay. 2.3. Phạm vi nghiên cứu của luận án - Luận án không nghiên cứu toàn bộ lý luận về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN mà chỉ tập trung nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề này dưới góc độ triết học. - Trong phần thực trạng, luận án chỉ giới hạn khảo sát thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT (từ 1995 đến nay).
- 5 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam bảo đảm QCN; những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhà nước đối việc bảo đảm QCN. Luận án có kế thừa một số kết quả nghiên cứu có giá trị của các công trình khoa học khác liên quan. 3.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với các phương pháp lô-gíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê và so sánh, trừu tượng và cụ thể và một số phương pháp khác. 4. Đóng góp khoa học của luận án - Luận án góp phần làm rõ khái niệm QCN, bảo đảm QCN, tầm quan trọng của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN. - Trên cơ sở phân tích về những tác động của HNQT đến QCN và nhà nước đối với việc bảo đảm QCN ở Việt Nam, luận án phân tích và làm rõ thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN (những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân) và những vấn đề đặt ra đối với Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản để nâng cao tính hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay. 5. Ý nghĩa thực tiễn của luận án - Những kết luận rút ra trong luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người hoạch định chính sách và quản lý xã hội khi đề xuất, đánh giá, xem xét và giải quyết các vấn đề có liên quan đến QCN, bảo đảm QCN, nâng cao tính hiệu quả của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay. - Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về QCN và các vấn đề khác có liên quan. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết.
- 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Thời gian gần đây, việc nghiên cứu về QCN, những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm QCN, về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN đã và đang là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều cơ quan, tổ chức, các nhà lãnh đạo và các nhà khoa học trong và ngoài nước. Vì vậy, nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản, thể hiện tập trung ở các nội dung sau: 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về quyền con người Có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh những vấn đề lý luận về QCN của nhiều học giả trong và ngoài nước, tiêu biểu là cuốn sách Quyền con người của Jacques Mourgon, giáo sư trường đại học khoa học xã hội Toulouse (Pháp) [60]. Bằng việc phân tích bản chất của con người và QCN, tác giả khẳng định QCN là trung tâm của chính trị và trung tâm của các mối quan hệ giữa quyền lực và con người, nhưng QCN cũng không phải là những cái gì quá xa lạ với con người. Quyền con người là "những đặc quyền" được các quy tắc điều khiển mà con người "giữ riêng" lấy trong các quan hệ của mình với những cá nhân và với chính quyền". Như vậy, QCN trước hết là các quyền cố hữu, tự nhiên con người sinh ra đã có (cả thể xác và tư tưởng) và các quyền này được sử dụng trong các quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với chính quyền. Trên cơ sở khái niệm QCN, tác giả tập trung phân tích các điều kiện cần thiết để bảo đảm, thực hiện QCN như: sự công nhận quyền trong các điều ước quốc tế về QCN; sự ghi nhận quyền trong pháp luật quốc tế và quốc gia; thiết chế kiểm soát các quyền nhằm ngăn chặn sự lạm quyền từ phái các cá nhân, tổ chức thực thi quyền lực nhà nước bảo đảm QCN và sự phụ thuộc của các quyền vào cộng đồng quốc tế và các nhà nước. Giáo sư Hoàng Nam Sâm, trường đại học Tổng hợp Bắc Kinh, Trung Quốc trong bài "Khái niệm quyền con người trong truyền thống văn hóa Trung Quốc" (2002) cho rằng: "Quyền con người là những quyền cơ bản mà con người sinh ra đã được hưởng, bao gồm trước hết là quyền được sống và quyền được phát triển; sau đó là các quyền khác" [98, tr.40], chẳng hạn như "quyền được tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, trong đó quyền bình đẳng là quan trọng nhất. Quyền này thể hiện ở chỗ tất cả mọi người có thể sống như một cá nhân độc lập và quan hệ giữa con người với con người là bình đẳng, xét trên phương diện nhân phẩm" [98, tr.40]. Để có được một học thuyết
- 7 về QCN, tác giả cho rằng phải được thiết lập qua 5 giai đoạn: thứ nhất là ý thức về QCN; thứ hai là tư tưởng về QCN; thứ ba là QCN dưới góc độ pháp lý; thứ tư là khái niệm QCN và thứ năm là học thuyết về QCN. Tác giả cũng khẳng định việc Trung Quốc thực hiện cải cách, mở cửa đã đưa sự phát triển về QCN sang một giai đoạn mới. Bằng việc thực thi dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền, các QCN của người dân Trung Quốc không ngừng mở rộng, quyền cá nhân và quyền tập thể kết hợp hòa quyện với nhau, tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất, cải thiện mức sống của người dân. Bài viết "Thực tế quyền con người trong chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh vì quyền con người trên thế giới", (2002), tác giả Lang Nghị Hoài khẳng định: "Quyền con người là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự giới định và thừa nhận xã hội mà con người giành được với tư cách là sự vật tồn tại trong xã hội. Sự thừa nhận và giới định này biểu hiện ở tư cách là người tham dự giao lưu xã hội" [48, tr.231]. Theo tác giả, QCN nằm sâu trong mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, do đó, QCN trước hết là quyền của một giai cấp nhất định, có tính giai cấp rõ rệt. Sự phát triển QCN, sự cải thiện mối quan hệ QCN là quá trình lâu dài trong lịch sử, tự do và bình đẳng trừu tượng không phải là thước đo thông dụng đối với QCN mà chỉ là tiêu chí để đánh giá mức độ phát triển của QCN mà thôi. Đặc biệt, trong thế giới hiện nay, việc bảo đảm QCN và bảo vệ giữ vững chủ quyền quốc gia có mối quan hệ mật thiết và biện chứng với nhau, do đó, cần có cái nhìn toàn diện và khoa học về QCN cũng như các cơ chế, thiết chế bảo vệ QCN. Ở nước ta, việc nghiên cứu QCN được bắt đầu từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, thời gian này, các công trình nghiên cứu mới chỉ là bước đầu và chưa được xã hội hóa một cách có hệ thống. Những năm 1990 là thời gian đánh dấu sự "bùng nổ" về hoạt động nghiên cứu QCN ở Việt Nam. Hai sự kiện có thể coi là động lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu QCN ở Việt Nam những năm đầu của thập kỷ này là việc sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992 và việc ban hành Chỉ thị 12-CT/TW của Ban Bí thư về Vấn đề quyền con người và quan điểm chủ trương của Đảng ta. Hiến pháp 1992, Hiến pháp của công cuộc Đổi mới, lần đầu tiên, khái niệm QCN được quy định tại điều 50, thể hiện sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong nhận thức về vấn đề này ở Việt Nam. Sự kiện này khẳng định việc đánh giá một cách chính thức của Đảng, Nhà nước Việt Nam với vấn đề QCN, tạo nền tảng chính trị và pháp lý cho các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và tổ chức thực hiện bảo đảm các QCN ở Việt Nam.
- 8 Trong Chương trình "Con người, mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội", mã số KX.07/91-95, lần đầu tiên, QCN đã trở thành đối tượng nghiên cứu cấp nhà nước. Đó là đề tài "Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước", do Hoàng Văn Hảo chủ nhiệm. Đề tài đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận về QCN như: khái niệm QCN, lịch sử phát triển của QCN, những nội dung cơ bản của QCN; thực trạng việc vi phạm QCN trên thế giới cũng như các điều kiện đảm bảo QCN [43]. Từ đó đến nay, vấn đề QCN được nhiều học giả tập trung nghiên cứu với nhiều công trình khoa học được công bố có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn trên hầu hết lĩnh vực của QCN, như đề tài khoa học cấp bộ "Quan điểm C.Mác-Ph.Ăngghen về quyền con người", Hoàng văn Hảo chủ nhiệm (1997) [46]; đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quyền con người", Cao Đức Thái chủ nhiệm (1998) [104]; đề tài "Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về quyền con người và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay" (2007), Nguyễn Đức Thùy chủ nhiệm [119], đề tài "Tư tưởng V.I.Lênin về quyền con người", Hoàng Mai Hương chủ nhiệm (2009) [58]; đề tài "Tư tưởng nhân quyền trong một số học thuyết chính trị, pháp lý cơ bản", Nguyễn Duy Sơn chủ nhiệm (2013) [101]. Các công trình trên đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về QCN: nguồn gốc của QCN, khái niệm QCN, các quan điểm, luận điểm khác nhau về QCN trong lịch sử, quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về QCN; tư tưởng Hồ Chí Minh về QCN cũng như các điều kiện cần thiết để bảo đảm QCN và khẳng định: QCN là một phạm trù lịch sử; mang tính nhân loại và tính giai cấp; nó là sản phẩm của phương thức sản xuất vật chất; gắn liền với nhà nước và pháp luật, được bảo vệ bằng pháp luật; được thực hiện triệt để nhất trong chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đây là những công trình đặt cơ sở phương pháp luận cho việc triển khai nghiên cứu các chủ đề khác nhau về QCN. Cùng với các đề tài khoa học, nhiều sách chuyên khảo có giá trị về QCN đã được công bố như: "Quyền con người trong thế giới hiện đại", tác giả Phạm Khiêm Ích và Hoàng Văn Hảo chủ biên (1995) [59], sách "Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại" (1996), Chu Hồng Thanh chủ biên [111]; sách tham khảo "Góp phần tìm hiểu quyền con người" (2006) của tác giả Phạm Văn Khánh [61]; sách "Triết học chính trị về quyền con người" (2006) của tác giả Nguyễn Văn Vĩnh; "Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội" (2009), Võ Khánh Vinh chủ biên, "Tư tưởng về quyền con người, Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam" (2011) của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội [64], "Dân chủ nhân quyền giá trị toàn cầu và đặc thù quốc
- 9 gia" (2011) của Hội đồng Lý Luận Trung ương [55], "Quyền con người, lý luận và thực tiễn" (2014) của Viện NC quyền con người [139],... Mặc dù cách tiếp cận và phân tích có khác nhau, song các công trình trên đều tập trung nghiên cứu, luận giải khái niệm QCN, bản chất đặc trưng của QCN, nội dung các quyền cơ bản của con người cũng như các điều kiện, cơ chế bảo đảm QCN... Trên cơ sở các công trình nghiên cứu, một số cơ sở đào tạo đã biên soạn giáo trình giảng dạy về QCN. Tiêu biểu là giáo trình "Lý luận về quyền con người" do Viện nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2010) biên soạn và "Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người" của Khoa luật, Đại học quốc gia (2009) [63]... Mặc dù cách tiếp cận, phân tích khác nhau, song nhìn chung, các giáo trình này đều tập trung giới thiệu về những vấn đề lý luận của QCN như: khái niệm QCN; đặc trưng cơ bản của QCN; nội dung cơ bản của QCN; sự phát triển QCN trong lịch sử nhân loại; luật quốc tế về QCN; Hiến pháp, pháp luật Việt Nam về QCN; quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam về QCN; phân tích các điều kiện và cơ chế quốc gia và quốc tế bảo đảm QCN, trong đó nhấn mạnh "Ngày nay, quyền con người đã được quốc tế hóa về nhiều mặt. Đó là việc xác lập các nguyên tắc và chuẩn mực nhân quyền. Đó là sự hình thành cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, việc bảo đảm các quyền con người hiện nay chủ yếu vẫn nằm trong khuôn khổ quốc gia, trong thẩm quyền pháp lý của các nhà nước" [138, tr.126]. Vì vậy, các quốc gia đều có nghĩa vụ ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực thi QCN theo quy định của Luật nhân quyền quốc tế, đồng thời có trách nhiệm tôn trọng cơ chế giám sát quốc tế và phải tuân thủ các công ước mà quốc gia đã ký kết, gia nhập.... 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người - Về khái niệm bảo đảm QCN, có nhiều công trình nghiên cứu về bảo đảm QCN, tuy nhiên phần lớn các công trình tập trung phân tích những kết quả và thực trạng việc bảo đảm QCN, còn vấn đề lý luận bảo đảm QCN chưa có nhiều công trình đề cập. Tác giả Lê Hồng Sơn trong bài "Các nhân tố pháp lý tác động đến việc hình thành và hoạt động của các cơ chế bảo đảm quyền con người" cho rằng: "Bảo đảm quyền con người là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau như kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tâm quan trọng hàng đầu" [99, tr.123]. Điều đó có nghĩa bảo đảm QCN không thực hiện một cách đơn lẻ mà phụ thuộc vào nhiều điều kiện, nhiều yếu tố khác nhau, vấn đề là phải tạo ra các điều kiện để việc bảo đảm QCN được thực hiện.
- 10 Khái niệm bảo đảm QCN còn được đề cập đến trong một số bài viết như: "Bảo đảm quyền con người bằng các hình thức pháp lý hành chính" (2009) của tác giả Lê Thị Hồng Nhung, [90]; "Vai trò của toàn án trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân" (2014) của Hoàng Hùng Hải [41]. Tác giả Hoàng Hùng Hải cho rằng: "Bảo đảm quyền con người là hoạt động của các chủ thể thực hiện một hệ thống các điều kiện và biện pháp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, pháp luật hướng tới việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức" [41, tr.1]. Như vậy, bảo đảm QCN theo tác giả là hoạt động có mục đích của các chủ thể nhằm tạo ra các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện QCN. Ngoài ra có công trình không đề cập trực tiếp về khái niệm bảo đảm QCN mà tập trung bàn về các điều kiện bảo đảm QCN. Chẳng hạn, nhóm tác giả đề tài "Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước" [43] cho rằng, bảo đảm QCN gắn liền với dân chủ, nhà nước pháp quyền, pháp luật, dân trí, thông tin, kinh tế..., trong đó nhấn mạnh: dân chủ gắn bó hữu cơ với nhân quyền và là công cụ, phương tiện bảo đảm và phát triển QCN. Mỗi nấc thang của dân chủ lại mở rộng thêm phạm vi, làm sâu sắc thêm chất lượng của QCN. Pháp luật là phương tiện để ghi nhận các QCN, là một trong những điều kiện quan trọng nhất để QCN được thực hiện. Tác giả Nguyễn Thị Báo trong bài viết "Một số suy nghĩ về cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay" (2009) cho rằng, "các quyền con người chỉ được bảo đảm và thực hiện khi bảo đảm được các điều kiện bảo đảm về chính trị; về mặt thể chế; về nguồn lực kinh tế và về văn hóa" [6, tr.121]. Trên cơ sở phân tích các điều kiện bảo đảm QCN, tác giả nhấn mạnh: "sự hiện diện ở tất cả các điều kiện bảo đảm quyền con người trên chỉ có thể được bảo đảm khi có sự vận hành của các cơ quan trong tổ chức Đảng và các cơ quan nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp" [6, tr.121]. Như vậy, theo tác giả, bảo bảo đảm QCN cần có hai yếu tố, thứ nhất là các điều kiện để bảo đảm QCN; thứ hai, cơ chế bảo đảm QCN. - Về thực tiễn bảo đảm QCN, đã có nhiều công trình được công bố, trong đó phải kể đến công trình nghiên cứu "Hiến pháp, pháp luật và quyền con người- Kinh nghiệm Việt Nam và Thụy Điển", do Trung tâm NC quyền con người Việt Nam và Viện Raoul Wallenberg Thụy Điển thực hiện (2001). Cuốn sách là tập hợp các bài viết của các học giả hai nước về cơ chế bảo đảm QCN, vai trò của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm QCN, những thành tựu bảo đảm QCN ở Việt Nam và Thụy Điển. Bằng những lập
- 11 luận khoa học và các dẫn chứng sinh động về thực tiễn bảo đảm QCN ở Việt Nam những năm qua, tác giả Hoàng Văn Hảo nhấn mạnh "Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất to lớn, rất cơ bản trong lĩnh vực quyền con người, quyền công dân. Đó là quyền sống trong độc lập, tự do. Phạm vi quyền ngày càng được mở rộng theo tiến trình phát triển của đất nước, đặc biệt là, chúng ta đã giải quyết thành công một khối lượng lớn các vấn đề xã hội" [125, tr.153-154]. Bài viết "Thực tiễn bảo đảm quyền con người ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra hiện nay" của tác giả Đặng Dũng Chí (2014) tập trung phân tích thực tiễn việc bảo đảm QCN của Việt Nam như quyền bầu cử ứng cử; quyền tự do lập hội; quyền tự do ngôn luận, báo chí, thông tin; quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; quyền giáo dục; quyền chăm sóc sức khỏe; quyền phụ nữ, trẻ em...Tác giả khẳng định "Những thành tựu đạt được trên lĩnh vực quyền con người trong thời gian qua tạo nền tảng vững chắc để chúng ta giải quyết thành công những nhiệm vụ đặt ra trên lĩnh vực nhân quyền trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế" [19, tr.270]. Bài viết "Thành tựu phát triển lý luận của Đảng về quyền con người trong thời kỳ đổi mới", tác giả Tạ Ngọc Tấn (2014) đã phân tích những thành tựu về QCN mà Việt Nam đạt được như: (1) Khẳng định QCN là bản chất của chế độ XHCN, là mục tiêu của Nhà nước và là động lực của sự phát triển đất nước; (2) Hình thành được những quan điểm cơ bản về QCN làm cơ sở cho việc xem xét, thực hiện QCN ở Việt Nam; (3) Xác định được những nhiệm vụ ưu tiên trong việc thực thi QCN ở Việt Nam....Đánh giá về những thành tựu bảo đảm QCN của Việt Nam, tác giả nhấn mạnh: "Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang giải quyết thành công những nhiệm vụ đặt ra trên lĩnh vực quyền con người trong giai đoạn đẩy mạnh hội nhập quốc tế, vừa bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người cho mọi người dân Việt Nam, vừa góp phần tích cực vào việc thúc đẩy nhân quyền quốc tế" [103, tr.10]. Những thành tựu đó có ý nghĩa to lớn, không chỉ thể hiện sự kiên định lựa chọn con đường XHCN của Đảng ta, mà còn góp phần vào kho tàng lý luận của các lực lượng tiến bộ và cách mạng trên thế giới. Ngoài các công trình trên, nhiều công trình nghiên cứu thực tiễn bảo đảm QCN của các nhóm cụ thể. Chẳng hạn, trên lĩnh vực dân sự, chính trị, công trình: "Một số vấn đề về quyền dân sự, chính trị" (1999) do Hoàng Văn Hảo và Chu Hồng Thanh chủ biên [45], đề tài "Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam" (2010), Tường Duy Kiên chủ nhiệm [68], sách "Những vấn đề lý luận và
- 12 thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị" (2009), Võ Khánh Vinh chủ biên [143]…Các công trình này đã tập trung phân tích cơ chế bảo đảm QCN, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước ta về quyền dân sự, chính trị; phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và quốc gia về các quyền dân sự, chính trị và thực tiễn thực hiện quyền dân sự, chính trị trên các lĩnh vực: khiếu nại, tố cáo, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do báo chí, thông tin, bầu cử ứng cử, quyền bình đẳng trước pháp luật cũng như cơ chế bảo đảm quyền dân sự, chính trị... từ đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm bảo đảm tốt hơn các quyền dân sự, chính trị ở nước ta. Trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, sách "Một số vấn đề về quyền kinh tế, xã hội", do Hoàng Văn Hảo và Chu Hồng Thanh chủ biên (1996) [44]; đề tài khoa học cấp bộ "Thành tựu về thực hiện quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam" (2001) do Hoàng Văn Hảo chủ nhiệm [47]; sách tham khảo "Bảo vệ và thúc đẩy quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam", Nhà xuất bản Lao động xã hội ấn hành (2011) [52]… Các công trình này tập trung phân tích những quy định pháp luật quốc tế và quốc gia về kinh tế, xã hội, văn hóa; đánh giá thực trạng những thành tựu, hạn chế trong việc thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (quyền giáo dục; quyền lao động, việc làm; quyền an sinh xã hội; quyền chăm sóc sức khỏe…). Từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị bảo đảm tốt hơn các quyền trên như: hoàn thiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; tăng cường các chính sách, chương trình và hành động hỗ trợ nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, nhất là các nhóm xã hội dễ tổn thương,huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội và cộng đồng; cần tích cực chủ động trong việc tuyên truyền, giáo dục về các kinh tế, xã hội, văn hóa làm cho tất cả các cơ quan, viên chức nhà nước và toàn thể nhân dân.... Về quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, đã có nhiều công trình được triển khai nghiên cứu như: sách "Pháp luật quốc gia và quốc tế về bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương" (2007) của nhóm tác giả Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao, Tường Duy Kiên biên soạn [112]; đề tài nghiên cứu "Những cản trở trong việc bảo đảm quyền của nhóm người dễ bị tổn thương" (2011) do Trần Thị Hòe chủ nhiệm [53]; "Dự án điều tra cơ bản việc thực hiện quyền công dân của nhóm yếu thế tại các tỉnh miền núi Phía Bắc" (2014) do Nguyễn Duy Sơn chủ nhiệm [102]… Các công trình trên tập trung phân tích những thành tựu, hạn chế trong việc bảo vệ quyền của nhóm xã hội dễ tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người có HIV, người khuyết tật, người cao tuổi, người nghèo, người dân tộc thiểu số…), phân tích nguyên nhân của những thành tựu và hạn
- 13 chế, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp bảo đảm tốt hơn quyền của các nhóm xã hội trên như: (1) Hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, chính sách về quyền của nhóm dễ tổn thương, (2) Đổi mới bộ máy, cơ chế hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ và thực hiện quyền của các nhóm dễ tổn thương, (3) Chú trọng đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý, thực thi việc bảo vệ quyền của các nhóm dễ tổn thương, (4) Đẩy mạnh thông tin, truyền thông và giáo dục nhằm thay đổi hành vi trong việc thực hiện công tác bảo đảm quyền của nhóm dễ tổn thương... 1.1.3. Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Vậy HNQT đã và đang tác động đến QCN và vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm QCN như thế nào? Trả lời câu hỏi này, tác giả Kieren Pitzpatrick, trưởng ban thư ký của Asia Pacific Forum có bài viết "Toàn cầu hóa, thương mại và nhân quyền" (2004). Bằng những số liệu khảo sát từ nhiều quốc gia, tác giả khẳng định TCH đã và đang là "thách thức đối với việc tuân thủ quyền con người". Bởi lẽ, TCH đã làm cho khoảng 400 triệu người trên thế giới phải đối mặt với nạn thiếu lương thực, thất nghiệp và phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng (20% dân số thế giới là những người nghèo nhất nhưng chỉ chiếm 1,3% mức tiêu thụ cá nhân). Nó giúp các nước giàu được giàu hơn, còn công bằng xã hội bị chối bỏ nhiều hơn, quyền được làm việc, quyền chăm sóc sức khỏe, quyền được hưởng an sinh xã hội, quyền được giáo dục luôn bị đe dọa bởi những tác động của TCH. Vì vậy, "toàn cầu hóa gây nên phản ứng mạnh mẽ trong xã hội công dân cũng như các cá nhân trên toàn thế giới. Họ nhận thấy những quyết định ảnh hưởng đến đời sống của học được đưa ra bởi những tập đoàn hùng mạnh nhưng thiếu trách nhiệm" [69, tr.215-216]. Do đó, các quốc gia cần phải có những "quy tắc mới cho các cuộc chơi" toàn cầu nhằm bảo đảm những nhu cầu căn bản của nhân dân như: sức khỏe, giáo dục, việc làm... Nghiên cứu về QCN trong TCH và HNQT, tác giả Lưu Kiệt có cách nhìn toàn diện hơn về tác động của HNQT, trong bài viết "Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới và sự nghiệp quyền con người của Trung Quốc" (2002). Theo tác giả, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã mở ra nhiều cơ hội để Trung Quốc cải thiện và thúc đẩy QCN. Chẳng hạn, gia nhập WTO, Trung Quốc sẽ có điều kiện để mở rộng và bảo đảm các QCN của người dân theo một cách thức hiệu quả hơn, kinh tế tăng trưởng,
- 14 các quyền lao động, việc làm, quyền có mức sống thỏa đáng của người dân được cải thiện và bảo đảm và điều quan trọng là việc tham gia WTO đã tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm QCN trên lĩnh vực kinh tế, xã hội của Trung Quốc, thúc đẩy giao lưu hợp tác về QCN… Tuy nhiên, gia nhập WTO cũng đưa đến cho Trung Quốc nhiều thách thức mới, đó là sự can thiệp của các tổ chức phi chính phủ vào việc bảo vệ QCN cũng như việc đặt ra hàng loạt các QCN mới đòi hỏi chính phủ phải giải quyết như: bảo vệ quyền của kiều dân nước ngoài định cư tại Trung Quốc; bảo vệ quyền có việc làm của người dân trong các công ty đa quốc gia; vấn đề về tiêu chuẩn lao động tối thiểu; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; quyền thành lập công đoàn của người lao động… Do đó, gia nhập WTO, cơ hội bảo đảm và thúc đẩy QCN, nhưng thách thức cũng không nhỏ, vì vậy, chính phủ Trung Quốc phải có những chính sách, bước đi phù hợp để "biến cái tiêu cực thành cái tích cực, tức là chuyển vấn đề này thành động lực phát triển sự nghiệp quyền con người" [70, tr.479]. Ở Việt Nam, vấn đề TCH với quyền con người và quyền công dân (QCD) đã được nhiều học giả nghiên cứu, trong đó, cuốn sách "Toàn cầu hóa và quyền công dân ở Việt Nam (nhìn từ khía cạnh văn hóa)" (1999), do Trần Văn Bính chủ biên, đã khởi đầu cho các công trình nghiên cứu được xuất bản tiếp theo. Trên cơ sở phân tích về tính tất yếu của TCH cũng như các tác động của TCH đến việc thực hiện QCN và QCD, các tác giả khẳng định, TCH bên cạnh mặt tích cực của nó thì cũng bộc lộ không ít tiêu cực đến QCN, đó là sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, là những tệ nạn xã hội nảy sinh tràn lan, là sự du nhập của văn hóa và lối sống vị kỷ của Phương Tây…Theo nhóm tác giả, "để hòa nhập với xu thế toàn cầu hóa để khắc phục những yếu kém trước đây, Nhà nước tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng XHCN" [12, tr.25]; xây dựng và hoàn thiện các chính sách xã hội; không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân… Cùng nghiên cứu về tác động của TCH đến QCN, các bài viết: "Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và nhân quyền", tác giả Cao Đức Thái [106]; "Toàn cầu hóa với việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam" (2009), tác giả Hoàng Hùng Hải [40]; "Quyền con người trong bối cảnh toàn cầu hóa", tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, sách "Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự, chính trị" (2009) [57]... Các bài viết này tập trung đề cập đến tác động của TCH đến QCN. Theo tác giả Cao Đức Thái, TCH là "cơ hội hiếm có để con người nâng cao nhân phẩm", nhưng đồng thời cũng "làm hoen ố lương tâm, danh dự, lòng tự trọng, sự khoan dung, lòng nhân ái" của con
- 15 người. Toàn cầu hóa bên cạnh việc mở ra cơ hội để con người nâng cao chất lượng cuộc sống nhưng cũng tạo ra những vấn đề bức xúc đối với QCN, đó là "sự bất bình đẳng, bất công giữa khu vực với khu vực, quốc gia với quốc gia và cá nhân với cá nhân" [106, tr.191]. Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: TCH không chỉ làm thay đổi về bức tranh kinh tế mà còn là sự thay đổi về văn hóa trong đó có QCN bởi lẽ, thực tiễn quá trình TCH làm cho giá trị phổ biến của QCN đang lấn át các giá trị đặc thù. Toàn cầu hóa "đặt các chính phủ, nhất là ở các nước đang phát triển trước một tình thế khó xử khi phải đáp ứng cùng một lúc hai thỏa thuận; một là thỏa thuận về bảo đảm và thực thi QCN nói trên; và hai là thỏa thuận về toàn cầu hóa, yêu cầu nhà nước phải rút khỏi những hoạt động can thiệp vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội" [57, tr.48]. Điều này đòi hỏi các quốc gia phải có sự điều chỉnh chính sách và luật pháp cho phù hợp để vừa tham gia hội nhập, lại vừa giữ được chủ quyền của mình. Bàn về tác động của TCH đến QCN, tác giả Hoàng Hùng Hải nhấn mạnh: "toàn cầu hóa là thời cơ đi liên thách thức trong việc bảo đảm quyền con người" [40, tr.148], bởi tham gia TCH, các quốc gia có cơ hội mở rộng và hiện thực hóa các QCN, trong đó có nhiều quyền mới, song nó cũng tạo ra nhiều thách thức và trở ngại trong việc bảo đảm QCN. Do đó, Việt Nam tham gia vào quá trình TCH cần phải tận dụng được thời cơ, vượt qua thách thức, bảo đảm tốt hơn các QCN bằng cách: xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật kinh tế; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của các quốc gia theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi… 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI 1.2.1. Các công trình nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam Sách "Quyền lực nhà nước và quyền công dân" (2003) của tác giả Đinh Văn Mậu tiếp cận QCN từ góc độ tổ chức nhà nước. Theo tác giả, quyền lực nhà nước thực chất là quyền lực của nhân dân, nhưng nhân dân không thể thực hiện được quyền lực của mình, mà phải ủy quyền cho nhà nước. Do đó, quyền lực nhà nước do nhân dân thiết lập và trao quyền. Quyền lực đó thể hiện ý chí của nhân dân và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của bộ máy nhà nước. Do vậy, "nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân" [83, tr.88] và "quyền con người được bảo đảm và thực hiện thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực nhà
- 16 nước như cơ quan lập pháp (Quốc hội), cơ quan hành pháp (Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp), cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát)" [83, tr.88], trong đó Quốc hội là cơ quan có vị trí cao nhất, là "trung tâm của cơ chế bảo đảm và thực hiện mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân công dân". Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp trực tiếp tổ chức thực hiện mối quan hệ giữa nhà nước và các cá nhân công dân. Toàn án và Viện kiểm sát nhân dân là những bộ phận "chuyển tải quyền lực nhà nước chứa đựng trong pháp luật vào đời sống xã hội qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể". Chính vì vậy, để ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước trong việc bảo đảm QCN và QCD, theo tác giả cần hoàn thiện tổ chức Nhà nước, trong đó chú trọng: đổi mới tổ chức thực hiện thẩm quyền Quốc hội, cải cách nền hành chính Nhà nước, cải cách tư pháp và nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong cơ chế thị trường và dân chủ hóa xã hội. Sách tham khảo "Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (2004), tác giả Trần Ngọc Đường tập trung phân tích vai trò của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong việc bảo đảm QCN. Tác giả nhấn mạnh: những bảo đảm pháp lý trong việc thực hiện QCN bao gồm hệ thống thống nhất về mặt pháp lý các yếu tố sau: a/ Cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý thông qua hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước, thông qua hệ thống cơ quan hành pháp, thông qua hệ thống cơ quan tư pháp, thông qua mặt trận Tổ quốc Việt Nam; b/ Thông qua mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân; c/ Thông qua hành vi hợp pháp và trình độ văn hóa pháp lý của mỗi cá nhân công dân. Tác giả nhấn mạnh trách nhiệm của "cộng đồng quốc tế và Nhà nước thành viên phải ghi nhận và bảo vệ các giá trị của quyền con người" [35, tr.139] và "muốn đạt được điều đó, bên cạnh hệ thống các quyền và nghĩa vụ của công dân, phải thiết lập một hệ thống các quyền và nghĩa vụ của Nhà nước. Đó chính là thiết lập trách nhiệm của các viên chức có chức, có quyền trong bộ máy Nhà nước" [35, tr.138]. Đề cập đến vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN nhưng trong phạm vi một quyền cụ thể của con người, Luận án Tiến sỹ "Vai trò của Nhà nước đối việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam ở Việt Nam hiện nay" (2002), tác giả Trần Thị Băng Thanh, đã phân tích vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện quyền dân chủ, thực trạng vai trò Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, từ đó đề ra phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 268 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p | 252 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn