
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1. Bối cảnh nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan nền kinh tế toàn cầu giai đoạn 1996–2016
Trong giai đoạn này, nền kinh tế thế giới đã chứng kiến cuộc
khủng hoảng tài chính diễn ra sau khi bong bóng bất động sản của
Mỹ nổ kéo theo khủng hoảng tài chính tại Mỹ và sau đó ảnh hưởng
lên hoạt động xuất, nhập khẩu của các quốc gia đang phát triển. Tuy
nhiên Ngân hàng thế giới đã báo cáo rằng năm 2016 tăng trưởng
kinh tế toàn cầu đã thật sự hồi phục.
1.1.2. Sự khác nhau giữa tài chính công và tăng trưởng kinh tế ở
các nước phát triển và đang phát triển
a) Tỷ lệ tăng trưởng và sự ổn định của nền kinh tế
Các nước phát triển duy trì sự ổn định kinh tế tốt hơn các
nước đang phát triển (Ngân hàng thế giới, 2017).
Thu thuế, chi tiêu công và kiểm soát tham nhũng: Thu thuế
là thành phần quan trọng nhất trong thu ngân sách của mọi quốc gia.
Các nước đang phát triển đều thu thuế ít hơn các quốc gia phát triển
nhưng họ lại chi tiêu nhiều hơn, và nền kinh tế của họ lại tăng trưởng
khá tốt trong giai đoạn 1996 to 2016. Điều gì làm cho có sự khác biệt
giữa các nhóm nền kinh tế này? Các nhà hoạch định chính sách trên
toàn thế giới đều đang đối mặt với thách thức này. Tổng thu thuế và
chi tiêu công có thể nói lên hiệu quả của chất lượng và năng lực của
một chính phủ. Hiện nay, mối quan hệ trong dài hạn giữa thu thuế,
chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế đang là một thách thức quan
trọng thu hút được nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu để hỗ trợ
cho các nhà hoạch định chính sách ban hành được các chính sách tài
khóa phù hợp nhằm vận hành nền kinh tế và kiểm soát lạm phát
trong tương lai. Cho đến bây giờ câu trả lời cho câu hỏi: “Quản trị
nhà nước trong kiểm soát tham nhũng đã điều khiển tài chính công

2
và tăng trưởng kinh tế như thế nào?” vẫn đang là một thách thức cho
các nhà kinh tế trên toàn thế giới.
1.2. Các mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Trước hết, luận án này kiểm tra mối quan hệ dài hạn giữa tài
chính công và tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, nhận diện mối quan hệ
nhân quả giữa thu thuế và chi tiêu tại các quốc gia phát triển và đang
phát triển. Thứ ba, luận án này đánh giá tác động của quản trị nhà
nước lên điều tiết sự ảnh hưởng của tài chính công lên tăng truwonrg
kinh tế theo các nhóm nền kinh tế khác nhau. Để đạt mục tiêu nghiên
cứu, luận án này cố gắng làm rõ các câu hỏi dưới đây:
(1) Tài chính công quan hệ như thế nào với tăng trưởng kinh tế
trong dài hạn?
(2) Giữa thu thuế và chi tiêu công có mối quan hệ nhân quả lẫn
nhau hay không?
(3) Quản trị nhà nước điều tiết tác động của tài chính công lên
tăng trưởng kinh tế như thế nào?
1.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận án này điều tra mối quan hệ giữa thu thuế, chi tiêu
công và tăng trưởng kinh tế cho 82 quốc gia phát triển và đang phát
triển trong 21 năm từ 1996 đến 2016.
1.4. Các phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu
Thứ nhất, để trả lời câu hỏi nghiên cứu đầu tiên, luận án này
áp dụng phương pháp kiểm định đồng liên kết theo phương pháp của
Persyn and Westerlund’s (2008) để xác định sự tồn tại trong dài hạn
giữa thu thuế, chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế. Tiếp theo, việc
thực hiện kiểm định Granger giúp cho nghiên cứu này trả lời câu hỏi
nghiên cứu số hai. Ngoài ra để giảm thiểu sự sai chệch do giai đoạn
nghiên cứu phải chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính lớn, luận án
này áp dụng mô hình hệ phương trình đồng thời (SUR) và mô hình

3
SGMM hai bước để đo lường vai trò của quản trị nhà nước trong
việc điều tiết tác động của tài chính công lên tăng trưởng kinh tế.
1.4.2. Dữ liệu nghiên cứu
Luận án sử dụng bộ số liệu bảng cân bằng cho 82 quốc gia
phát triển và đang phát triển từ 1996 đến 2016. Chúng tôi đã thu thập
các số liệu như Thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ giá trị thương
mại trên tổng sản phẩm quốc nội, tỷ lệ lạm phát và dòng tiền đầu tư
trực tiếp nước ngoài ròng từ bộ chỉ số phát triển thế giới từ cơ sở dữ
liệu của ngân hàng thế giới (WDI). Để đo lường vai trò quản trị nhà
nước, nghiên cứu này sử dụng chỉ số kiểm soát tham nhũng từ cơ sở
dữ liệu của ngân hàng thế giới – bộ chỉ số quản trị nhà nước (WGI)
và chỉ số cảm nhận về tham nhũng từ cơ sở dữ liệu của tổ chức Minh
bạch quốc tế (TI). Trong luận án này, tài chính công được đo lường
bởi tỷ lệ tổng thu thuế trên tổng sản phẩm quốc nội và tổng chi tiêu
công trên tổng sản phẩm quốc nội, số liệu này được thu thập từ cơ sở
dữ liệu của Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) – trong bộ số liệu phân tích tài
chính nhà nước(GFS).
1.5. Cấu trúc của luận án
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Tổng quan lý thuyết và phát triển các giả thuyết
Chương 3: Các phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
Chương 4: Tài chính công, quản trị nhà nước và tăng trưởng kinh tế:
Một phân tích trong dài hạn
Chương 5: Kết luận, hàm ý nghiên cứu và các hạn chế

4
CHƯƠNG 2:
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ PHÁT TRIỂN GIẢ THUYẾT
2.1. Các khái niệm
2.1.1. Tài chính công
Tài chính công ảnh hưởng lên các hoạt động của nền kinh tế
mỗi ngày bởi vì mối quan hệ giữa chi tiêu của nhà nước trong việc
cung cấp hàng hóa công và năng lực thu thuế (Philips, 1957).
Wagner (1883) nhấn mạnh rằng tài chính công là khoa học nghiên
cứu về bản chất của một nền kinh tế tài khóa nó chú trọng vào hai
đặc điểm chính của nhà nước đó là thu nhập và chi tiêu, đó cũng
chính là thu thuế và chi tiêu công.
a) Thu thuế
“Hillman (2009) đã cho rằng thu thuế bao gồm các loại thuế
khác nhau và nó là nguồn lực chính cung cấp cho việc chi tiêu của
chính phủ. Hơn nữa, tổng thu thuế có thể thay đổi khi tăng thuế suất.
Wellisch (2004) đã kiến nghị rằng các quốc gia thường thu thuế từ
việc sản xuất hàng hóa và điều này làm gia tăng gánh nặng thuế lên
công dân nước họ khi họ tiêu dùng các hàng hóa. Còn McGee (2008)
mô tẳ rằng thu thuế là một công cụ đánh giá năng lực của nhà nước
trong việc cải thiện nỗ lực thuế.”
b) Chi tiêu công
Holley (2011) xác nhận rằng khi chính phủ sử dụng thu thuế
vào chi tiêu để thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng thì gọi là chi tiêu công.
Tại các quốc gia kém phát triển, chính phủ các nước thường đối mặt
với áp lực phát triển kinh tế nên họ thường tăng chi tiêu và như thế
họ phải tăng thu thuế để giúp họ có nhiều tiền hơn (Philips, 1957).”
2.1.2. Quản trị nhà nước và tham nhũng
Hague and Martin (2004) cho rằng quản trị nhà nước đại
diện cho các hoạt động ra quyết định tập thể. Chính vì vậy mà các tác
giả này cho rằng nhà nước ra quyết định phụ thuộc vào quyền lực
của người có quyền hành động hơn là quyền hành thực thi. Tuy
nhiên, một quan chức có thể tạo ra quyền lực của mình dài bao lâu là
phụ thuộc vào việc mọi người có chấp nhận các quyết định của anh
ta có đúng đắn hay không, chính vì vậy mà kiểm soát tham nhũng
giữ vai trò quan trọng trong quản trị nhà nước. Ngoài ra,
Dzhumashev (2014) cũng cho rằng tham nhũng đại diện cho chất