Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở ở vùng nông thôn thị xã Bà Rịa
lượt xem 22
download
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở ở vùng nông thôn thị xã Bà Rịa nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng việc quản lý công tác phối hợp của nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở vùng nông thôn của thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu trong việc giáo dục học sinh, từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở ở vùng nông thôn thị xã Bà Rịa
- 1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Giáo dục thế hệ trẻ là trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường và gia đình là hai cơ sở trực tiếp giáo dục các em. Gia đình luôn là môi trường sống, môi trường giáo dục lâu dài, thường xuyên và dựa trên cơ sở tình thương yêu. Như vậy gia đình là môi trường giáo dục có nhiều thuận lợi và ưu thế trong việc hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ, do đó nhà trường cần phải chủ động phối hợp với gia đình để nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh. Sự phối hợp giữa ba môi trường giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội là một trong những nguyên lý giáo dục của nước ta. 1.2. Học sinh trung học cơ sở là lứa tuổi thiếu niên bắt đầu dậy thì, có nhiều biến đổi về tâm sinh lý, tự ý thức chưa cao, dễ bị tác động bởi môi trường xung quanh. Học sinh ở vùng nông thôn, nhất là học sinh nam thường có nhiều trò chơi hấp dẫn của miền quê, hơn nữa các em hầu như chỉ học một buổi / ngày, đa số không đi học thêm. Như vậy chỉ có khoảng 1/4 thời gian trong ngày các em ở trường, còn gần 3/4 thời gian các em ở nhà hoặc ở ngoài xã hội, ngoài ra trong suốt gần 3 tháng hè các em không đến trường. Với môi trường thiên nhiên phù hợp lứa tuổi hiếu động, ham chơi của thiếu niên và thời gian ở trường không nhiều nên học sinh trung học cơ sở dễ sao lãng nhiệm vụ học tập và rèn luyện của mình nếu không được các bậc phụ huynh quản lý, hướng dẫn. 1.3. Đến nay việc đổi mới chương trình phổ thông đã thực hiện ở toàn cấp tiểu học và trung học cơ sở. Phương pháp học tập theo chương trình mới yêu cầu cao việc tự giác học tập ở nhà của học sinh, các em không phải thụ động tiếp thu kiến thức ở trường mà cần chủ động tìm tòi kiến thức từ nhiều nguồn
- 2 thông tin theo sự hướng dẫn của thầy cô và cha mẹ. Hơn nữa quá trình học tập ở nhà là tiếp nối và hoàn thiện quá trình học tập ở trường, làm chuyển hoá kiến thức lĩnh hội trở thành năng lực bản thân. Do đó nhà trường cần phải chủ động phối hợp thường xuyên và chặt chẽ với gia đình để xây dựng môi trường giáo dục thống nhất, nhằm thực hiện tốt mục tiêu và nguyên lý giáo dục. 1.4. Tính hệ thống, tính liên tục và tính thống nhất các tác động giáo dục và các lực lượng giáo dục là một nguyên tắc giáo dục rất quan trọng vì đặc điểm của quá trình giáo dục là lâu dài, phức tạp và biện chứng. Do đó sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với cha mẹ học sinh là điều hết sức cần thiết, sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp của hai lực lượng giáo dục: thầy cô và cha mẹ, đồng thời tạo được môi trường thuận lợi cho việc phát triển nhân cách của học sinh ở cả nhà trường và gia đình. 1.5. Ở thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu có 3 xã thuộc vùng nông thôn. Trong nhiều năm qua, nhận thức về giáo dục của một bộ phận nhân dân trong các xã chưa cao, cộng thêm điều kiện kinh tế còn khó khăn cho nên việc đầu tư và quan tâm đến việc học tập của con em đối với nhiều bậc phụ huynh còn hạn chế. Trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ ở nhiều gia đình chưa được coi trọng, một số cha mẹ còn khoán trắng việc dạy dỗ con cái cho nhà trường, việc phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh chưa đạt hiệu quả giáo dục cao. Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở vùng nông thôn thị xã Bà Rịa” là cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục học sinh ở các trường vùng nông thôn trong thị xã và trong tỉnh.
- 3 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng việc quản lý công tác phối hợp của nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở vùng nông thôn của thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu trong việc giáo dục học sinh, từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Thực trạng việc quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở vùng nông thôn thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. 3.2. Khách thể nghiên cứu - Công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường THCS vùng nông thôn thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. - Cán bộ quản lý, giáo viên, cha mẹ học sinh ở các trường THCS thuộc vùng nông thôn thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. 4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 4.1 . Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài. 4.2. Đánh giá thực trạng việc quản lý công tác phối hợp của nhà trường với cha mẹ học sinh và nguyên nhân yếu kém trong công tác này ở các trường THCS vùng nông thôn thị xã Bà Rịa. 4.3. Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh trong việc giáo dục học sinh.
- 4 5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Nếu có các biện pháp quản lý việc học tập và rèn luyện của học sinh ở trường và ở gia đình một cách thích hợp, đồng thời tạo lập được sự phối hợp tốt và có sự thống nhất về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục giữa nhà trường với cha mẹ học sinh thì sẽ có tác động tích cực đến kết quả học tập và rèn luyện đạo đức của các em. 6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đề tài nghiên cứu việc quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường THCS vùng nông thôn của thị xã Bà Rịa gồm trường THCS Nguyễn Thanh Đằng, Dương Văn Mạnh, Long Toàn, Phước Nguyên và trong giai đoạn từ năm 2003 đến nay. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: nhằm thu thập và phân tích các tài liệu về chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước và những vấn đề lý luận có liên quan đến sự phối hợp giáo dục giữa nhà trường với gia đình học sinh. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm: - Phương pháp điều tra bằng phiếu: lập phiếu hỏi các giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh nhằm đánh giá thực trạng nhận thức và các hoạt động phối hợp giáo dục giữa nhà trường với gia đình. - Phương pháp phỏng vấn: trao đổi với ban giám hiệu, giáo viên, cha mẹ học sinh và học sinh để khẳng định kết quả điều tra bằng phiếu. - Phương pháp chuyên gia: hỏi ý kiến một số cán bộ quản lý giáo dục. 7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê: dùng toán thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch chuẩn về mức độ thực hiện một số công việc phối hợp giữa các giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh.
- 5 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Trách nhiệm của nhà trường trong việc tổ chức phối hợp với gia đình để giáo dục học sinh là vấn đề từ lâu đã được xã hội và các nhà giáo dục rất coi trọng. Trong nền giáo dục cận đại, J.A.Komenxki (1592-1670) là người đầu tiên nêu ra một hệ thống lý luận chặt chẽ về tầm quan trọng của mối quan hệ thống nhất giữa gia đình và nhà trường đối với kết quả giáo dục trẻ. Ông khẳng định lòng ham học của trẻ không thể thiếu vắng sự kích thích từ phiá bố mẹ và thầy cô :..“Các bậc cha mẹ, giáo viên nhà trường, bản thân môn học, phương pháp dạy học phải thống nhất làm thức tỉnh và duy trì khát vọng học tập trong học sinh”… .Nhiều nhà giáo dục lỗi lạc của Liên Xô đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự phối hợp, hợp tác giữa nhà trường và gia đình trong việc thực hiện mục đích giáo dục những người công dân chân chính trong tương lai đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa. V.A.Xukhomlinxki (1918-1970) đã khẳng định nêú gia đình và nhà trường không có sự hợp tác để thống nhất mục đích, nội dung giáo dục thì sẽ dẫn đến tình trạng “gia đình một đường, nhà trường một nẻo”. Vào đầu thế kỷ 21 này, một số nước phương Tây đã chú ý đề cao hơn vai trò của cha mẹ trong việc kết hợp với nhà trường để giáo dục trẻ. Ông Alan Johnson, bộ trưởng Bộ Giáo dục Anh, trong bài phát biểu gần đây đã kêu gọi cha mẹ không nên phó thác việc chăm sóc, giáo dục con em mình cho nhà trường. Ngược lại, ông khẳng định vai trò của các bậc phụ huynh rất quan trọng, thậm chí sẽ mang lại một “sự khác biệt lớn” so với những kết quả mà trẻ đạt được từ trường học. (theo báo Tuổi Trẻ ngày 13/11/2006) Trong lịch sử giáo dục ở nước ta, từ lâu giữa nhà trường và gia đình đã có sự hợp tác chặt chẽ trong việc giáo dục trẻ, câu nói “Muốn sang thì bắc cầu
- 6 Kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy Thầy” đã khái quát ý nghĩa lớn lao về mối quan hệ này. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà giáo dục lớn của nước ta, Bác đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng về trách nhiệm của nhà trường phải tổ chức phối hợp với gia đình: …“Phải mật thiết liên hệ với gia đình học trò. Bởi vì giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”…[19, tr.10] Ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu, tổng hợp quan điểm lý luận và thực tiễn về vai trò, nhiệm vụ của gia đình và sự phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ như “Giáo dục gia đình” (Giáo trình đào tạo giáo viên THCS, NXB Giáo Dục), “ Xã hội hoá công tác giáo dục” (Phạm Minh Hạc tổng chủ biên), “Giáo dục học- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Hà Thế Ngữ), “Thực hành tổ chức hoạt động giáo dục” (Hà Nhật Thăng), “Suy nghĩ về trách nhiệm của gia đình đối với việc giáo dục thiếu niên nhi đồng” (Nguyễn Đức Minh), “Văn hoá gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em” (Võ Thị Cúc)… Một số tác giả cũng đã chọn đề tài nghiên cứu về tác động phối hợp của gia đình để nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh trong luận án, luận văn của mình như: “Những biện pháp cải thiện tác động của gia đình đến việc học tập của học sinh lớp 1,2 trường tiểu học” (Luận án TS của Vũ Thị Sơn), “Các biện pháp tác động của cha mẹ đến việc học tập của học sinh lớp 5 ở TP.HCM” (Luận văn Th.S của Võ Thị Bích Hạnh), “Một số biện pháp cơ bản tạo quan hệ gắn bó giữa cha mẹ và con cái” (Luận văn Th.S của Nguyễn Thị Bích Hồng), “Nghiên cứu sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong việc quản lý hoạt động học tập của học sinh các trường THPT tỉnh BRVT” (Luận văn Th.S của Nguyễn Văn Trung).
- 7 Các công trình nghiên cứu đã khẳng định gia đình có tính quyết định trong việc giáo dục thế hệ trẻ và sự phối hợp giữa giáo dục nhà trường và giáo dục gia đình là không thể thiếu trong quá trình giáo dục trẻ. Bởi lẽ gia đình có vị trí và vai trò hết sức to lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Giáo dục gia đình có tính xúc cảm hơn so với bất cứ môi trường giáo dục nào khác, vì nó dựa trên tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái và tình cảm quyến luyến tin cậy của con cái đối với cha mẹ, do đó giáo dục gia đình có khả năng lớn trong xây dựng tình cảm, niềm tin, tính cách con người. Giáo dục gia đình còn mang tính ổn định, lâu bền. Những phẩm chất về nhân cách của cha mẹ và các thành viên trong gia đình tác động trực tiếp, thường xuyên và có hiệu quả đến trẻ em. Sự gắn bó của các quan hệ gia đình tạo nên không khí tâm lý gia đình thường có ảnh hưởng quyết định đối với những phản ứng của trẻ em. Do đó những ảnh hưởng của gia đình thời thơ ấu thường để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn đứa trẻ và những đặc điểm của gia đình có ảnh hưởng nhiều nhất và mạnh nhất đến các hoạt động của trẻ em. Bên cạnh những thuận lợi, giáo dục gia đình còn có những mặt không thuận lợi trong việc giáo dục trẻ. Tình yêu thương sâu sắc, rộng lớn của cha mẹ đối với con cái nếu không có yêu cầu cao về giáo dục, không có tính nguyên tắc sư phạm sẽ có thể là nguyên nhân gây ra cho con cái thói hư, tật xấu. Những cha mẹ có tư tưởng lạc hậu, quan niệm giáo dục lỗi thời, không có tri thức về khoa học giáo dục sẽ dẫn đến việc giáo dục gia đình mâu thuẫn với giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội. Do đó nhà trường và xã hội cần phải phối hợp, phát huy những thuận lợi và khắc phục những mặt không thuận lợi của giáo dục gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Ngược lại gia đình và xã hội cũng cần phải bổ sung, cộng tác và phát huy vai trò của giáo dục nhà trường vì mục tiêu chung là làm cho trẻ “thành người” và “làm người”.
- 8 1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.2.1. Khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài Trong đề tài này có một số khái niệm cần làm sáng tỏ như sau: • Quản lý Hiện nay có nhiều định nghĩa về quản lý tùy theo cách tiếp cận đối tượng của mỗi môn khoa học và của từng tác giả. Theo tác giả Hoàng Tâm Sơn: “Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường”. Tác giả Đặng Vũ Hoạt và Nguyễn Gia Qúy cho rằng: “Quản lý là một quá trình hướng đích, quá trình có mục tiêu. Quản lý một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà nhà quản lý mong muốn”. Một định nghĩa khác theo tác giả Trần Anh Tuấn: “Quản lý là những hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con người kết hợp với nhau trong các tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung”. Định nghĩa một cách khái quát theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển ngôn ngữ Hà nội năm 1992: “Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”. Mặc dù các định nghĩa về quản lý có khác nhau nhưng nhìn chung chúng đều chứa đựng nét đặc trưng của những chức năng quản lý (kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra) và mang tính mục đích của chủ thể quản lý. • Sự phối hợp Theo “Từ điển Tiếng Việt thông dụng” của Nxb Giáo Dục năm 2002: Phối hợp là cùng chung góp, cùng hành động ăn khớp để hỗ trợ cho nhau. Sự phối hợp giữa nhà trường và cha mẹ học sinh được hiểu là các thầy cô trong trường và cha mẹ học sinh có sự hợp tác, cùng thống nhất hành động và hỗ trợ nhau thực hiện nhiệm vụ giáo dục học sinh. Công tác phối hợp giữa nhà
- 9 trường và cha mẹ học sinh xét trong đề tài này được giới hạn là nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục học sinh về học lực và hạnh kiểm. Chủ thể phối hợp là hiệu trưởng (phạm vi toàn trường), giáo viên chủ nhiệm (từng lớp) và cha mẹ học sinh (kể cả tổ chức hội cha mẹ học sinh). Quản lý công tác phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh là kế hoạch hoá và tổ chức thực hiện các hoạt động nhằm thống nhất giữa nhà trường với cha mẹ học sinh về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục nhằm tạo ra môi trường giáo dục thống nhất ở nhà trường và ở gia đình để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục học sinh. Nhà trường có trách nhiệm chủ động phối hợp với cha mẹ học sinh để cùng nhau thực hiện tốt nhiệm vụ này. • Trường học vùng nông thôn Các trường học vùng nông thôn ở nước ta rất đa dạng, rải ra trên một địa bàn rộng lớn với những đặc điểm tự nhiên và xã hội rất khác nhau. Trường học ở nông thôn giữ vị trí rất quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, hiện chiếm khoảng gần 80% số trường trong cả nước. Các trường ở nông thôn vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, thiếu thốn các điều kiện về trang thiết bị để hoạt động và phát triển, đội ngũ thầy cô giáo chưa đồng bộ, trình độ văn hoá và hiểu biết về khoa học giáo dục của nhiều cha mẹ học sinh còn thấp, hoàn cảnh kinh tế đa số gia đình học sinh còn có khó khăn nên việc quan tâm đầu tư cho việc học tập của các em còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên công tác giáo dục ở nông thôn có được những mặt mạnh như học sinh ít bị ảnh hưởng bởi những tiêu cực của xã hội; các lực lượng xã hội có nhiều sự quan tâm phối hợp giáo dục; học sinh đa số ngoan, chăm chỉ, lao động tốt; các bậc cha mẹ luôn gần gũi với con em nên có nhiều thuận lợi trong việc giáo dục các em. Hiện nay nông thôn Việt Nam đang có nhiều biến đổi theo những biến động to lớn do quá trình đô thị hoá nông thôn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế thị trường, nên các trường học ở nông thôn
- 10 cũng có nhiều thay đổi và đương đầu với nhiều khó khăn. Ở các xã thuộc thị xã Bà Rịa, sự lan rộng nhanh chóng các hình thức vui chơi, giải trí như Games online, Billiards đã gây ảnh hưởng không tốt đến việc chuyên cần học tập và rèn luyện của một số học sinh ở các trường. • Ban đại diện cha mẹ học sinh (BĐD CMHS) Theo điều lệ Hội cha mẹ học sinh được Bộ GD-ĐT ban hành kèm theo quyết định số 278/QĐ ngày 21/02/1992: Hội cha mẹ học sinh ở mỗi trường có một ban thường trực hội, chi hội cha mẹ học sinh ở mỗi lớp có một ban thường trực chi hội. Đến năm 2000 khi ban hành Điều lệ trường Trung học, Bộ GD-ĐT xác định là Ban đại diện cha mẹ học sinh trường / lớp thay vì Ban thường trực hội / chi hội như trước. Ngày 02/4/2007 Bộ GD-ĐT ra quyết định số 07/2007/QĐ-BGDĐT ban hành Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học, trong đó có quy định về Ban đại diện cha mẹ học sinh: Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp và các giáo viên bộ môn để giáo dục học sinh; Ban đại diện cha mẹ học sinh trường phối hợp với nhà trường để xây dựng môi trường giáo dục thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục. Nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Ban đại diện cha mẹ học sinh thực hiện theo Điều lệ Ban đại diện cha mẹ học sinh (nhưng đến nay Bộ GD-ĐT vẫn chưa ban hành). 1.2.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về việc tổ chức phối hợp giữa nhà trường với cha mẹ học sinh Giáo dục liên quan đến mọi người, là lợi ích của mọi người, mọi gia đình, mọi cộng đồng, do đó toàn xã hội phải có trách nhiệm đối với giáo dục và việc phối hợp giữa các lực lượng giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội là không thể thiếu trong quá trình giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và
- 11 ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn: …“Trẻ em trong như tấm gương, cái tốt dễ tiếp thu, cái xấu cũng dễ tiếp thu. Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy ngược lại, sẽ có những ảnh hưởng không tốt tới trẻ em, và kết quả cũng không tốt. Cho nên muốn giáo dục các cháu thành người tốt, nhà trường, đoàn thể, gia đình và xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ với nhau”... [19, tr.11] Văn kiện hội nghị lần thứ II Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phối hợp giữa các lực lượng giáo dục: …“Phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và mỗi cộng đồng, của từng gia đình và mỗi công dân. Cần kết hợp tốt giáo dục học đường với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh; người lớn làm gương cho con trẻ noi theo.”… [4, tr.9] Chương VI của Luật Giáo dục năm 2005 quy định sự phối hợp giữa ba môi trường giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội. Điều 94 quy định trách nhiệm của gia đình: “Cha mẹ hoặc người giám hộ có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục và chăm sóc, tạo điều kiện cho con em hoặc người được giám hộ được học tập, rèn luyện, tham gia các họat động của nhà trường. Mọi người trong gia đình có trách nhiệm xây dựng gia đình văn hoá, tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ của con em; người lớn tuổi có trách nhiệm giáo dục, làm gương cho con em, cùng nhà trường nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục”. Điều 95 nói về quyền của cha mẹ hoặc người giám hộ của học sinh: “Cha mẹ hoặc người giám hộ của học sinh có quyền yêu cầu nhà trường cho biết kết quả học tập, rèn luyện của con em hoặc người được giám hộ; tham gia các hoạt động giáo dục theo kế hoạch của nhà trường và các hoạt động của cha mẹ học sinh trong nhà trường …”. Khoản 2 điều 28 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định : “Nhà trường có trách nhiệm thực hiện giáo dục toàn diện về đạo đức, tri thức, thẩm mỹ, thể chất, giáo dục lao động hướng nghiệp cho trẻ em;
- 12 chủ động phối hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Điều lệ trường Trung học (cũ) do Bộ GD-ĐT ban hành ngày 11/7/2000 và Điều lệ trường Trung học cơ sở (mới) ban hành ngày 02/4/2007 đều có riêng chương VII nói về sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Theo điều lệ mới, điều 45 quy định về trách nhiệm của nhà trường: “Nhà trường phải chủ động phối hợp thường xuyên và chặt chẽ với gia đình và xã hội để xây dựng môi trường giáo dục thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu và nguyên lý giáo dục.”, điều 47 quy định mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội: “Nhà trường phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh, các tổ chức và cá nhân nhằm thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội.”... Quan điểm chỉ đạo trong chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001- 2010 cũng khẳng định cần “kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên một môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, ở từng tập thể, từng cộng đồng”…. Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo duc, y tế, văn hoá và thể dục thể thao, trong đó có định hướng về công tác giáo dục đào tạo:…“Tăng cường quan hệ của nhà trường với gia đình và xã hội; huy động trí tuệ, nguồn lực của toàn ngành, toàn xã hội vào việc đổi mới nội dung, chương trình, thực hiện giáo dục toàn diện.”… Như vậy sự phối hợp giữa giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội được Nhà nước rất quan tâm trong công tác quản lý giáo dục. Một số văn kiện của Đảng và văn bản pháp quy của Nhà nước có đề cập đến tầm quan trọng cần thiết hoặc quy định về sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội như:
- 13 - Luật hôn nhân và gia đình. - Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. - Luật Giáo dục năm 2005. - Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm 1991. - Văn kiện hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII - Văn kiện hội nghị lần thứ II Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII. - Nghị quyết 90/CP ngày ngày 21/8/1997 của Chính phủ về phương hướng và chủ trương xã hội hóa công tác giáo dục, y tế, văn hoá. - Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao. - Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010. - Điều lệ hội cha mẹ học sinh năm 1992. - Điều lệ trường trung học cơ sở năm 2007. 1.2.3. Vai trò, trách nhiệm của gia đình và chức năng, nhiệm vụ của hội cha mẹ học sinh 1.2.3.1. Vai trò, trách nhiệm của gia đình Gia đình là cơ sở đầu tiên và cơ bản của giáo dục. Giáo dục gia đình mang tính thường xuyên, lâu dài, đặt nền tảng trên tình thương yêu nên gia đình có tác động giáo dục rất lớn đến việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Tình cảm và tác động tốt của gia đình giúp mỗi con người có thêm nghị lực, sức mạnh vượt qua những khó khăn, cám dỗ để vươn lên tự hoàn thiện nhân cách. Ảnh hưởng của gia đình có sức mạnh vô hình vì đó là sức mạnh của truyền thống, của tâm lý được cá nhân hoá và biến thành tự ý thức. Giáo dục gia đình có nhiều ưu thế mà giáo dục nhà trường cần phải phối hợp để phát huy hiệu quả giáo dục học sinh như cha mẹ có được sự hiểu biết sâu sắc, cụ thể về các mặt trí tuệ, sức khỏe, cá tính, điều kiện sống… của con cái, do đó cha mẹ
- 14 có thể áp dụng những biện pháp giáo dục riêng, đặc thù, phù hợp với từng đứa con. Giáo dục trẻ vừa là trách nhiệm, vừa là điều tự nhiên vừa là lợi ích của gia đình. Nuôi dưỡng và giáo dục con cái là trách nhiệm của cha mẹ, không cha mẹ nào lại không thương con, tình thương gắn liền với trách nhiệm. Điều 64 Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định: “Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt”…Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định: “Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng, giáo dục con; chăm lo việc học tập và sự phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ và đạo đức… Cha mẹ phải làm gương tốt cho con về mọi mặt và phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con”… Như vậy, giáo dục con cái không phải chỉ là công việc riêng tư của bố mẹ, mà còn là trách nhiệm đạo lý và nghĩa vụ công dân của những người làm cha mẹ. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 đã nêu: “Cha mẹ học sinh là “thầy giáo” đầu tiên của con cái họ, phải hết sức đề cao vai trò và trách nhiệm của cha mẹ trong việc giáo dục con cái, chăm sóc và bồi dưỡng thế hệ trẻ”... Để thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình, chỉ có hợp tác với nhà trường các bậc cha mẹ mới có thể giáo dục con cái đạt được kết quả như mong muốn, vì nhà trường là nơi giáo dục học sinh một cách khoa học và toàn diện nhất với đầy đủ các nội dung đức, trí, thể, mỹ và lao động hướng nghiệp. Tóm lại, vai trò của gia đình rất quan trọng việc giáo dục thế hệ trẻ. Kết quả giáo dục con không phải chủ yếu do cha mẹ có nhiều hay ít thì giờ tiếp xúc, quản lý con cái hoặc do điều kiện kinh tế gia đình giàu hay nghèo, mà chủ yếu là do cha mẹ có quan tâm đến việc giáo dục con không, có tình thương và trách nhiệm đối với con em như thế nào, có phương pháp giáo dục con phù hợp hay không. Thực tế cho thấy phần lớn những học sinh chưa ngoan, học tập
- 15 không tốt là những em thiếu sự quan tâm giáo dục hoặc giáo dục không đúng cách của cha mẹ. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay đang có sự thay đổi về vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục con cái, nhất là ở các đô thị. Một số cha mẹ vì bận rộn công việc nên gởi con học các trường nội trú, lúc này trách nhiệm giáo dục con hầu như chuyển hết cho nhà trường. Mối quan hệ phối hợp giáo dục giữa nhà trường với gia đình không còn rõ nét, mà chỉ còn là nhiệm vụ quản lý học sinh của nhà trường. Tuy nhiên tình thương và sự quan tâm của cha mẹ vẫn có tác động rất lớn đến việc phát triển phẩm cách của các em. 1.2.3.2. Chức năng nhiệm vụ của hội cha mẹ học sinh Nhằm khai thác tiềm năng của lực lượng cha mẹ học sinh trong việc phối hợp với nhà trường, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã ra quyết định số 278/QĐ ngày 21 tháng 2 năm 1992 ban hành điều lệ Hội cha mẹ học sinh. Phần mở đầu của điều lệ nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc phối hợp giữa nhà trường và cha mẹ học sinh: “Sự nghiệp giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ là sự nghiệp của toàn xã hội có liên quan trực tiếp tới mọi người, mọi nhà. Việc kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của gia đình trong việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ là một nguyên tắc quan trọng trong phát triển giáo dục…”. Hội cha mẹ học sinh là tổ chức nhằm liên kết, phối hợp giáo dục giữa nhà trường với gia đình, tạo ra sự thống nhất, nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh trong và ngoài nhà trường. Hội có chức năng nhiệm vụ tập hợp sự đóng góp về cả tài lực và trí lực của các gia đình học sinh và các lực lượng xã hội nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường đạt kết quả tốt đẹp: “Vận động cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội cùng với nhà trường quản lý tốt việc học tập của con em khi ở nhà và chăm lo giáo dục đạo đức cho học sinh khi sống ở gia đình và phường, xã”…(điều 2 điều lệ hội CMHS).
- 16 Theo điều lệ, toàn thể cha mẹ học sinh ở mỗi lớp học tổ chức thành một chi hội. Mỗi chi hội bầu ra một ban thường trực và đại hội đại biểu các chi hội bầu ra ban thường trực hội, nhiệm kỳ của ban thường trực hội và chi hội là một năm học. Tuy nhiên vào năm 2000, Bộ GD-ĐT ban hành điều lệ trường trung học trong đó xác định Ban đại diện cha mẹ học sinh chứ không phải Ban thường trực và cũng không có hướng dẫn cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Ban đại diện như điều lệ hội cha mẹ học sinh quy định đối với Ban thường trực chi hội hoặc Ban thường trực hội. Vào ngày 02/4/2007, Bộ GD-ĐT lại ban hành điều lệ trường trung học cơ sở có quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Ban đại diện cha mẹ học sinh thực hiện theo Điều lệ Ban đại diện cha mẹ học sinh (đến nay Bộ GD-ĐT vẫn chưa ban hành điều lệ này). Hiện nay tổ chức hội cha mẹ học sinh các trường cũng cơ bản dựa trên Điều lệ hội cha mẹ học sinh năm 1992 để hoạt động. Vào đầu mỗi năm học, đại hội cha mẹ học sinh được tổ chức để tổng kết những hoạt động của hội trong năm học qua, đề ra phương hướng hoạt động cho năm học mới và bầu ra ban đại diện cha mẹ học sinh ở các lớp và toàn trường. Vào đầu học kì II, các trường cũng thường tổ chức họp cha mẹ học sinh lần thứ hai để sơ kết hoạt động trong học kì I và bổ sung phương hướng hoạt động cho học kì II. * Ban đại diện cha mẹ học sinh nhà trường có nhiệm vụ thực hiện những công việc sau đây: - Cử đại diện tham gia hội đồng giáo dục trường và một số tổ chức của trường như hội đồng kỷ luật, ban hoạt động ngoài giờ, ban giáo dục pháp luật để tham gia xây dựng và thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục của nhà trường. - Tham gia cùng với nhà trường tổ chức các hoạt động ngoài giờ cho học sinh như giáo dục truyền thống, hướng nghiệp, dạy nghề…
- 17 - Góp phần tham gia đánh giá tình hình học tập, rèn luyện của học sinh ngoài nhà trường nhằm đảm bảo tính khách quan, công bằng quá trình rèn luyện của học sinh. - Chăm lo cơ sở vật chất và hỗ trợ các điều kiện hoạt động cho nhà trường; vận động trợ giúp kinh phí khen thưởng, giúp đỡ thầy cô giáo và các em học sinh. - Tổ chức quán triệt mục tiêu giáo dục, nhiệm vụ năm học và thông tin truyền đạt những yêu cầu, nội dung giáo dục của nhà trường tới các bậc cha mẹ học sinh. - Quan hệ tham mưu với địa phương và vận động các lực lượng xã hội quan tâm, tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của nhà trường. * Ban đại diện cha mẹ học sinh các lớp có nhiệm vụ: - Kết hợp với các giáo viên chủ nhiệm tổ chức các hoạt động giáo dục của lớp, tham gia giáo dục đạo đức học sinh, trợ giúp các học sinh khó khăn, khen thưởng động viên học sinh có thành tích… - Tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách về giáo dục và mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục của lớp tới các cha mẹ học sinh trong lớp. - Tổ chức trao đổi kinh nghiệm giáo dục con em trong các bậc cha mẹ học sinh, giúp nhau có những biện pháp, hình thức tổ chức cho con em học tập và rèn luyện ở nhà đạt hiệu quả cao. 1.2.4. Ý nghĩa, vai trò của việc phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội Trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người sẽ kế tục sự nghiệp của tổ tiên, gánh vác công việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Vì tinh thần trách nhiệm đối với dân tộc và tình thương đối với trẻ em mà Nhà nước, gia đình và xã hội phải hợp sức chăm lo, tạo điều kiện tốt nhất để bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em trở thành người công dân tốt.
- 18 Việc tổ chức phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội để giáo dục học sinh là một trong những nguyên lý giáo dục của nước ta: “Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. (điều 3, Luật Giáo dục 2005). Trong quá trình sư phạm, học sinh vừa là chủ thể vừa là đối tượng của lao động sư phạm, hơn nữa chức năng của giáo viên ngày nay đã thay đổi, giáo viên không phải chủ yếu cung cấp cho học sinh hệ thống tri thức như trước kia mà phải tổ chức, hướng dẫn, điều khiển học sinh lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo. Vì vậy quá trình sư phạm chỉ đem lại hiệu quả khi phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Và nhiệm vụ học tập, rèn luyện của học sinh không chỉ được thực hiện ở phạm vi nhà trường mà còn ở gia đình và ngoài xã hội. Do đó một trong những nguyên lý giáo dục là nhà trường phải phối hợp, thống nhất với gia đình và xã hội để thúc đẩy, hướng dẫn, tạo điều kiện cho học sinh thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Chủ động thực hiện phối hợp với gia đình và xã hội trong việc giáo dục học sinh là trách nhiệm của nhà trường, điều 93 Luật Giáo dục 2005 đã quy định: “Nhà trường có trách nhiệm chủ động phối hợp với gia đình và xã hội để xây dựng môi trường giáo dục thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục”. Nhà trường phải chủ động, phát huy vai trò trung tâm tổ chức phối hợp, dẫn dắt nội dung và phương pháp giáo dục của gia đình và các thể chế khác trong xã hội, bởi lẽ nhà trường là một tổ chức chuyên biệt đối với công tác giáo dục, nắm vững quan điểm, đường lối, mục đích, mục tiêu giáo dục. Hơn nữa nhà trường luôn có đội ngũ thầy cô giáo được đào tạo có hệ thống, có trình độ và năng lực trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Nhà trường, gia đình và xã hội đều là chủ thể giáo dục của khách thể học sinh. Giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội là một chỉnh thể trong hệ thống môi trường giáo dục, các yếu tố trong hệ thống có tác động
- 19 phối hợp nhau để tạo ra chất lượng tổng hợp nhằm giáo dục học sinh có hiệu quả. Nhà trường không thể tách rời sự phối hợp với gia đình và xã hội trong việc giáo dục học sinh vì cuộc sống của học sinh là cuộc sống con người được giáo dục trong cả 3 môi trường: - Cuộc sống thứ nhất: học sinh được tổ chức (lại) cuộc sống phù hợp môi trường nhà trường. Học sinh dễ thực hiện cuộc sống của mình trong nhà trường vì có giáo viên hướng dẫn, làm mẫu. - Cuộc sống thứ hai: học sinh sống trong gia đình. Những nội dung giáo dục học sinh ở nhà trường phải được đưa vào thực hiện trong cuộc sống ở gia đình, vì vậy nhà trường phải tổ chức phối hợp chặt chẽ với gia đình. - Cuộc sống thứ ba: học sinh sống trong xã hội. Các em phải được và có khả năng ứng dụng kiến thức tiếp thu ở nhà trường để có thái độ, ứng xử hợp lý, đúng đắn khi tham gia sinh hoạt cộng đồng. GIA ĐÌNH NHÀ TRƯỜNG XÃ HỘI HỌC SINH Sự phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội không phải một chiều mà là sự tác động qua lại theo nguyên tắc về lợi ích: mỗi hoạt động hợp tác đều phải xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của cả hai phía. Nhà trường cần phải làm mọi việc để giảng dạy có chất lượng, giáo dục thế hệ trẻ thành người tốt cho xã hội thì gia đình và xã hội sẽ cộng tác tích cực với nhà trường. Hơn nữa sự phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh sẽ đảm bảo cho nội dung, phương pháp giáo dục học sinh của nhà trường không bị mâu thuẫn mà còn có điều kiện nâng cao hơn hiệu quả giáo dục. Thực tế cho thấy các trường làm tốt
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 422 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 343 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 308 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 331 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 229 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 265 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm tra thuế của Cục thuế tỉnh Điện Biên đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản
9 p | 16 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 202 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn