TÓM TẮT LUẬN VĂN<br />
Rủi ro tài chính là yếu tố luôn ẩn sau tất cả các hoạt động tài chính trong<br />
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể tự chủ về mặt tài chính là doanh nghiệp<br />
luôn kiểm soát được rủi ro nằm trong giới hạn cho phép. Từ đó nâng cao sức cạnh<br />
tranh giúp doanh nghiệp đủ mạnh để có thể đứng vững trên thị trường. Xuất phát<br />
từ quan điểm trên, kết hợp với việc nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng phân tích rủi ro<br />
tài chính tại công ty xi măng Chinfon, tác giả đã chọn đề tài: “Phân tích rủi ro tài<br />
chính tại công ty xi măng Chinfon”.<br />
Mục đích nghiên cứu của đề tài là: hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ<br />
bản về rủi ro tài chính và phương pháp phân tích rủi ro tài làm cơ sở để phân tích<br />
rủi ro tài chính tại công ty xi măng Chinfon, chỉ ra những rủi ro tài chính tiềm ẩn<br />
tại công ty trong thời gian qua. Từ đó, đề xuất một số các giải pháp nhằm hạn chế<br />
rủi ro tài chính tại công ty.<br />
Đối tượng nghiên cứu là rủi ro tài chính.<br />
Phạm vi nghiên cứu: Phân tích rủi ro tài chính tại công ty xi măng Chinfon<br />
giai đoạn 2007 – 2011.<br />
Phương pháp nghiên cứu là phương pháp thu thập dữ liệu từ nguồn thứ cấp,<br />
từ số liệu báo cáo của phòng kế toán một số năm gần đây, từ một số giáo trình, báo<br />
cáo và nguồn số liệu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra còn sử<br />
dụng phương pháp xử lý số liệu như tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích.<br />
Nội dung của luận văn gồm:<br />
Chương 1: Tổng quan các kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài<br />
của luận văn.<br />
Trong chương này, tác giả đã nêu một số các đề tài nghiên cứu khoa học<br />
cấp bộ, các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, bài báo khoa học cũng trình bày về rủi<br />
ro tài chính. Bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra nội dung nghiên cứu và câu hỏi<br />
nghiên cứu của luận văn.<br />
<br />
Chương 2: Cơ sở lý luận về phân tích rủi ro tài chính tại các doanh<br />
nghiệp<br />
Trong chương này tác giả đã trình bày một số vấn đề sau:<br />
Thứ nhất: Tác giả trình bày khái niệm rủi ro và rủi ro tài chính, đưa ra cách<br />
phân loại rủi ro tài chính để người đọc có thể nắm bắt tổng quan hơn về rủi ro tài<br />
chính. Rủi ro tài chính là những rủi ro dẫn đến xác suất mất khả năng chi trả xảy<br />
ra khi một doanh nghiệp sử dụng các nguồn tài trợ có chi phí tài chính cố định<br />
như nợ và cổ phần ưu đãi .... Có thể là những rủi ro về thanh khoản, rủi ro về<br />
đòn bẩy tài chính, rủi ro về hiệu quả hoạt động, rủi ro về hiệu quả kinh doanh,<br />
rủi ro về tín dụng, lãi suất, tỷ giá, tái đầu tư,... Ngoài ra tác giả còn phân tích bản<br />
chất và ý nghĩa của phân tích rủi ro tài chính góp phần giải quyết bài toán tối ưu<br />
hóa trong hoạt động sản xuất kinh doanh với một nguồn lực giới hạn. Việc phân<br />
tích rủi ro tài chính thường xuyên sẽ giúp cho nhà quản trị có được quyết định tốt<br />
nhất để đạt được hiệu quả cao nhất và giảm thiểu thiệt hại trong sản xuất kinh<br />
doanh.<br />
Thứ hai là đưa ra nội dung của phân tích rủi ro tài chính, bao gồm các chỉ<br />
tiêu phân tích như: chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán, chỉ tiêu phản ánh đòn<br />
bẩy tài chính, chỉ tiêu phản ánh cơ cấu nợ ngắn hạn, chỉ tiêu phản ánh hiệu quả<br />
hoạt động, chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Mỗi nhóm chỉ tiêu đều chỉ rõ<br />
tình hình tài chính của doanh nghiệp đang trong tình trạng nào? Từ đó có những<br />
quyết định kịp thời.<br />
Thứ ba tác giả nêu ra một vài phương pháp sử dụng phổ biến trong phân tích<br />
rủi ro tài chính. Hai phương pháp thông dụng nhất là phương pháp so sánh và<br />
phương pháp tỷ lệ.<br />
Chương 3: Phân tích rủi ro tài chính tại công ty xi măng Chinfon<br />
Trước khi phân tích rủi ro tài chính tại công, tác giả đã giới thiệu khái quát<br />
về công ty xi măng Chinfon với ngành nghề kinh doanh chủ yếu là: sản xuất xi<br />
<br />
măng và clinker cung ứng ra thị trường trong nước và quốc tế. Nhìn chung tình<br />
hình tài chính của công ty từ năm 2007 đến năm 2009 là khá tốt và vững mạnh.<br />
Đến năm 2010 các chỉ số tài chính giảm nhẹ và đến năm 2011 thì tình hình không<br />
mấy khả quan. Do nhiều tác động từ tình trạng dư cung trên thị trường xi măng và<br />
khủng hoảng nợ công Châu Âu, kéo theo nó là cuộc khủng hoảng nợ công của Mỹ<br />
làm cho tình hình kinh tế ngày càng khó khăn hơn. Chính những tác động này làm<br />
cho ngành xi măng ngày càng khó khăn hơn trong lĩnh vực tiêu thụ, trong đó có<br />
công ty xi măng Chinfon. các chỉ số thanh toán tổng quát và chỉ số thanh toán lãi vay<br />
của công ty khá tốt, đều cao hơn chỉ số trung bình ngành. Xong, chỉ số thanh toán<br />
ngắn hạn và chỉ số thanh toán tức thời chưa được cao, tăng dần qua các năm 2007 đến<br />
2010 nhưng đến năm 2011 lại giảm. Do ảnh hưởng của sự biến động kinh tế năm<br />
2011 với các biến số lạm phát, lãi suất, tỷ giá ngày càng tăng và việc giá xi măng<br />
cũng như nhu cầu xi măng trên thị trường liên tục giảm mạnh nên vào cuối quý 2<br />
năm 2011 tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đã bị giảm sút. Số<br />
lượng đơn đặt hàng giảm, lượng xi măng tồn kho nhiều, việc kinh doanh xi măng<br />
gặp nhiều khó khăn, làm cho tổng doanh thu năm 2011 giảm 6.148.602 USD ( theo<br />
số liệu trong bảng ……). Công ty cần phải có các biện pháp để mở rộng thị trường,<br />
có thêm nhiều đơn đặt hàng nhằm tăng doanh thu, từ đó tăng vòng quay của vốn.<br />
Ngoài ra, khi lượng hàng tồn kho tăng vọt trong năm 2011 đã khiến rủi ro về khả năng<br />
thanh toán đang hiện hữu, công ty cần có biện pháp khắc phục tình trạng này tránh<br />
trường hợp lượng hàng tồn kho tiếp tục tăng trong năm 2012 sẽ dẫn đến chỉ số khả<br />
năng thanh toán rơi vào mức báo động.<br />
Các chỉ số về đòn bẩy tài chính: Hệ số nợ có xu hướng giảm dần từ năm 2007<br />
đến 2010 trong khi các hệ số vốn chủ lại có xu hướng tăng biểu hiện tình trạng kinh<br />
doanh của công ty khá tốt trong những năm này, việc tăng quy mô sản xuất đã đem lại<br />
cho công ty chỗ đứng vững chắc trên thị trường xi măng Hải Phòng. Tuy vậy, đến<br />
năm 2011 hệ số nợ tăng trong khi hệ số vốn chủ lại không thay đổi cho thấy tình hình<br />
<br />
kinh doanh của công ty trong năm nay không mấy khả quan. Công ty cần có biện<br />
pháp phòng ngừa khi sử dụng đòn bẩy tài chính ở mức độ cao như vậy.<br />
Các chỉ số về hiệu quả hoạt động: Theo kết quả đã phân tích tại mục 3.2.3 và số<br />
liệu trong bảng 3.4-a và 3.4-b trong chương 3, vòng quay hàng tồn kho tăng đều từ<br />
năm 2007-2010, đến năm 2011 vòng quay hàng tồn kho giảm do lượng tồn kho tăng<br />
trong khi giá vốn hàng bán giảm vì không bán được hàng. Do đó, tính thanh khoản<br />
của hàng tồn kho là thấp và giảm mạnh. Đây là vấn đề lớn mà doanh nghiệp cần<br />
tiếp tục xem xét và có biện pháp nhằm làm tăng vòng quay, tăng tính thanh khoản<br />
của hàng tồn kho, tăng khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Thêm nữa<br />
công ty cần có các chính sách hợp lý trong việc giải quyết lượng hàng tồn đọng<br />
trong kho để không chỉ làm giảm chi phí lưu kho, bảo quản, mà còn đẩy nhanh<br />
được tốc độ luân chuyển hàng tồn kho nói riêng và tốc độ luân chuyển vốn lưu<br />
động cũng như tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói chung. Các khoản phải thu<br />
bình quân giảm dần đến năm 2010 cho thấy công ty đã tích cực trong quá trình thu hồi<br />
nợ. Tuy vậy đến năm 2011 các khoản phải thu tăng vọt và doanh thu giảm nhẹ dẫn<br />
đến kỳ thu tiền bình quân tăng trở lại. Mặc dù trong năm 2011 công ty đã đẩy nhanh<br />
việc thu hồi nợ nhưng vẫn chưa đạt được những kết quả đáng kể. Đây là chính sách<br />
mà công ty đang áp dụng để thu hút khách hàng, tăng lượng hàng bán ra xong nếu lạm<br />
dụng chính sách này sẽ dễ dẫn đến tình trạng bị chiếm dụng vốn lớn và xuất hiện các<br />
khoản phải thu khó đòi ảnh hưởng tới lượng tiền tệ lưu chuyển trong doanh nghiệp.<br />
Các chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh: Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu, tài<br />
sản và đóng góp của doanh thu vào lợi nhuận của doanh nghiệp nhìn chung là khá<br />
tốt, thường năm sau cao hơn năm trước và cao hơn mức bình quân chung của các<br />
doanh nghiệp trong cùng ngành. Tuy nhiên việc sử dụng vốn tại công ty năm<br />
2010 và năm 2011 là chưa hiệu quả, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn<br />
liên tục giảm từ năm 2009 đến năm 2011, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của<br />
doanh nghiệp.<br />
<br />
Chương 4: Giải pháp hạn chế rủi ro tài chính tại công ty xi măng<br />
Chinfon.<br />
Qua việc phân tích rủi ro tài chính của công ty xi măng Chinfon, tác giả rút<br />
ra được những điểm mạnh và những hạn chế dẫn đến rủi ro tài chính tiềm ẩn, từ<br />
đó có những biện pháp nhằm hạn chế những rủi ro này.<br />
Thứ nhất là giải pháp giảm lượng hàng tồn kho trong công ty nhằm tăng<br />
khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Với<br />
biện pháp này dự kiến giảm được 3% giá trị lưu kho.<br />
Thứ hai là biện pháp mở rộng thị trường tiêu thụ. Mục tiêu của giải pháp là<br />
tăng doanh thu để giải phóng lượng hàng hóa không bán được phải lưu kho, làm<br />
tăng hiệu quả sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp. từ đó cải thiện được khả<br />
năng thanh toán, trả bớt nợ làm giảm độ nhạy cảm của đòn bẩy tài chính … Với<br />
giải pháp này tác giả tập trung mở rộng thị trường tiêu thụ trong Nam và thị trường<br />
tiêu thụ ngoài nước. dự kiến kết quả đạt được khi thực hiện giải pháp trên là tiếp<br />
tục giảm được 7% lượng hàng lưu kho, và tăng doanh thu bán ra trong đó doanh<br />
thu từ hàng xuất khẩu tăng 10%. Kết hợp hai giải pháp dự kiến giảm được 10%<br />
lượng hàng lưu kho.<br />
Thứ ba là giải pháp tăng cường công tác thu hồi nợ nhằm làm giảm lượng<br />
vốn bị khách hàng chiếm dụng, giúp tăng vòng quay của vốn, nâng cao hiệu quả<br />
hoạt động, giảm thiểu rủi ro tài chính có thể xảy ra.<br />
Thứ tư là giải pháp đổi mới công nghệ nhằm cải thiện lượng tài sản cố định<br />
đã lỗi thời không phù hơp, và cải tiến đổi mới công nghệ để có thể đưa ra thị<br />
trường những sản phẩm chất lượng cao và phù hợp với thị hiếu của người tiêu<br />
dùng, kích thích tăng doanh thu, lợi nhuận góp phần nâng cao tự chủ về mặt tài<br />
chính, hạn chế được rủi ro tài chính.<br />
Do thời gian có hạn cũng như khả năng chuyên môn còn hạn chế, nội dung<br />
của luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tác giả mong nhận được sự<br />
<br />