intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Giáo dục tư tưởng độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế cho sinh viên trường Cao đẳng nghệ Miền Trung

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

9
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài luận văn "Giáo dục tư tưởng độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế cho sinh viên trường Cao đẳng nghề Miền Trung" là đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giáo dục tư tưởng độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế cho sinh viên nghề ở miền Trung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Giáo dục tư tưởng độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế cho sinh viên trường Cao đẳng nghệ Miền Trung

  1. 0 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG NGUYỄN THỊ NGUYỆT GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP TỰ CHỦ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ MIỀN TRUNG Chuyên ngành: TRIẾT HỌC Mã số: 60.22.80 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN Đà Nẵng - Năm 2013
  2. 1 Công trình được hoàn thành tại ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ TUYẾT BA Phản biện 1 : TS. Ngô Văn Hà Phản biện 2 : PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp Thạc Sĩ khoa học xã hội và nhân văn họp tại Đại học Đà Nẵng ngày 01 tháng 03 năm 2014 Có thể tìm hiểu luận văn tại: Trung tâm Thông tin – Học liệu, Đại học Đà Nẵng Thư viện trường Đại học Kinh Tế, Đại học Đà Nẵng
  3. 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, hầu như nước nào cũng đứng trước thách thức của sự phát triển. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nền độc lập dân tộc luôn đứng trước thách thức của hàng loạt những nguy cơ tiềm tàng và đa dạng. Những nguy cơ đó vừa mang tính truyền thống vừa phi truyền thống với những dạng thức mới, không chỉ xuất hiện từ những diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, mà còn nảy sinh chính từ trong quá trình phát triển đất nước. Hiểm họa bên ngoài và nguy cơ bên trong luôn tương tác với nhau và trong nhiều trường hợp chuyển hóa lẫn nhau một cách rất phức tạp, khó lường. Nền tảng của độc lập tự chủ bị thách thức gay gắt trên phương diện: quyền tối cao trong việc tự đinh đoạt các vấn đề trong nước và quyền được bình đẳng trong quan hệ quốc tế, cũng như quyền tự quyết định các vấn đề đối ngoại của các quốc gia dân tộc. Do vậy, để bảo vệ vững chắc độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập cần phải có cách tiếp cận linh hoạt, đúng đắn, tìm ra các giải pháp khả thi, vừa mang tính tổng thể, toàn diện vừa mang tính cụ thể nhằm tăng cường “sức đề kháng quốc gia”, hóa giải thành công các nguy cơ trong tiến trình hội nhập quốc tế… 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giáo dục tư
  4. 3 tưởng độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế cho sinh viên nghề ở miền Trung. - Nhiệm vụ: + Thứ nhất: Làm rõ quan điểm cơ bản về độc lập tự chủ, hội nhập quốc tế và khẳng định tính tất yếu của hội nhập quốc tế. + Thứ hai: Làm rõ thực trạng ý thức độc lập tự chủ của sinh viên cao đẳng nghề miền Trung và sự cần thiết phải gắn giáo dục tư tưởng độc lập tự chủ với đào tạo nghề. + Thứ ba: Phân tích những nguyên tắc cơ bản trong giáo dục tư tưởng độc lập tự chủ cho sinh viên nghề từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm giữ vững độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Nghiên cứu tư tưởng độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế theo quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam, của chủ nghĩa Mác- Lênin và của Hồ Chí Minh. - Phạm vi: Nghiên cứu tư tưởng độc lập tự chủ qua các thời kỳ và việc giáo dục tư tưởng độc lập tự chủ cho sinh viên nghề miền Trung trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đồng thời, luận văn tham khảo, kết thừa và tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu từ nhiều công trình của nhiều tác giả khác.
  5. 4 - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp cơ bản như kết hợp lịch sử- logic, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa… 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Luận văn nghiên cứu tư tưởng độc lập tự chủ và bước đầu nghiên cứu việc giáo dục tinh thần độc lập tự chủ cho sinh viên nghề miền Trung trong bối cảnh hội nhập quốc tế. - Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên nghành và những ai quan tâm đến vấn đề này. 6. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn được kết cấu gồm có 3 chương, 6 tiết. 7. Tổng quan tình hình nghiên cứu: Các công trình có liên quan đến đề tài cùng với các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu này như sau: Trong V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, t.24. Đã nói đến sự phát triển của vấn đề dân tộc, sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, các phong trào đấu tranh chống áp bức sẽ dẫn tới việc thành lập các quốc gia dân tộc độc lập… Với “Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản” Mác và Ăngghen đã đề cập đến mối quan hệ về giai cấp và dân tộc. Đề tài nghiên cứu về “Quan điểm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở nước ta và những vấn đề đặt ra” của tác giả Trần Thị
  6. 5 Phương Linh (2007) nghiên cứu ở khía cạnh độc lập tự chủ về mặt kinh tế. Lê Văn Tích (2007), “Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về mở cửa, hợp tác kinh tế quốc tế trong điều kiện hiện nay”.(số 6, Tạp chí lịch sử đảng - Học viện chính trị quốc gia HCM) đã nói đến nét đặc sắc trong tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là sớm hình thành những quan điểm kinh tế mở để thu hút ngoại lực, phát huy nội lực. Tác giả Nguyễn Duy Mộng Hà (2010), với “Tầm quan trọng của giáo dục đa văn hóa ở các trường đại học nước ta trong thời kỳ hội nhập”đã đề cập đến khía cạnh nội dung các trường đại học phải là nơi đi đầu, làm gương trong việc xây dựng một cộng đồng bình đẳng, góp phần xây dựng một xã hội hòa bình, thống nhất trong đa dạng, và giúp sinh viên thành công trong lĩnh vực chuyên môn kinh tế, xã hội. Đề tài “Chính sách giữ gìn và phát triển văn hóa trong quá trình toàn cầu hóa ở Việt Nam” của Lê Thị Kim Phượng (2010), tác giả phân tích ở khía cạnh văn hóa, phân tích về vấn đề tính khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế mà không bị hòa tan, biến dạng về văn hóa, nói lên tầm quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc. Đề tài nghiên cứu “Quan hệ độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới của Việt Nam” do tác giả Nguyễn Xuân Thắng thực hiện (2010), đã đề cập đến lý luận về độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế cũng như mối quan hệ gữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
  7. 6 Với đề tài: “Chủ quyền quốc gia trong xu thế toàn cầu hóa” của tác giả Chử Thị Nhuần viết (2011). Tác giả trình bày ở khía cạnh lý luận chung về chủ quyền quốc gia và toàn cầu hóa. Phạm Hồng Chương (2011), với “Tinh thần đổi mới, độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc giải quyết vấn đề dân tộc- con người trên hành trình tìm đường dẫn đường cho cách mạng Việt Nam”.(tạp chí cộng sản – số 842), đã đề cập đến quan niệm của Hồ Chí Minh trên hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc con người Việt Nam, thể hiện lòng yêu nước, thương dân… Với công trình nghiên cứu của Đinh Xuân Lý (2013) về “Hoạt động đối ngoại của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử”, (Nxb, Đại học quốc gia Hà Nội) tác giả đã phân tích, tổng hợp đường lối đối ngoại của Việt Nam qua các thời kỳ, nghiên cứu đường lối đối ngoại của Việt Nam, đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Với đề tài : “Hội nhập quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. (Trên trang website nghiên cứu biển Đông.vn, toàn- cầu- hóa- hội- nhập- kinh tế- 2013) của tác giả Phạm Quốc Trụ đề cập đến một số khía cạnh về lý luận và thực tiễn của khái niệm hội nhập quốc tế, tập trung vào nội dung định nghĩa và xác định bản chất, nội hàm, các hình thức và tổ chức của hội nhập quốc tế. Đồng thời, phân tích tính tất yếu của hội nhập quốc tế.
  8. 7 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ. 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trước dân tộc là hình thức cộng động tiền dân tộc như thị tộc, bộ lạc. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các nhà nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Sau cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, với sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh, dẫn đến sự tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, nhiều nước thuộc địa cũ trở thành các quốc gia dân tộc độc lập. Phát triển của vấn đề dân tộc, Lênin đã đề cập hai xu hướng phát triển của vấn đề dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản. Xu hướng thứ nhất là sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc sẽ dẫn tới việc thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng thứ hai là với việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc sẽ dẫn tới việc phá hủy hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự thống nhất quốc tế của chủ nghĩa
  9. 8 tư bản, của đời sống kinh tế, chính trị, khoa học, v.v. nói chung. Xu hướng thứ nhất chiếm ưu thế trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản mới phát triển, còn xu hướng thứ hai là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản già cỗi sắp chuyển sang xã hội xã hội chủ nghĩa; cả hai xu hướng đều phát triển trong điều kiện đối kháng giai cấp sâu sắc. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa dân tộc tư sản không thể giải quyết được vấn đề dân tộc mà chỉ làm cho mối xung đột dân tộc ngày càng tăng thêm. Chỉ có cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở thủ tiêu ách áp bức giai cấp và áp bức dân tộc, mới tạo điều kiện để thực hiện sự bình đẳng dân tộc và xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc, làm cho các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau. Từ đó Lênin yêu cầu các Đảng Cộng sản phải kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa sô vanh, giành thắng lợi cho chủ nghĩa quốc tế vô sản. Vấn đề dân tộc, ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết trên lập trường và theo quan điểm của một giai cấp nhất định. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh rằng: Chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã đề cập mối quan hệ giai cấp và dân tộc. Các ông viết: Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc, vì phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số. Vì vậy, “ Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư
  10. 9 sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, [ 1, 611 ] nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc ”. Từ đó Mác kêu gọi giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tiểu tư sản hiểu. Khi Mác - Ăngghen viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản là lúc mà đối kháng giai cấp trong thời đại tư sản ở Châu Âu đã đơn giản hóa. “Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản” [ 1,164 ] Vào thời của Mác - Ăngghen, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã được mở rộng, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh, chưa có ảnh hưởng đến sự tồn tại và suy vong của chủ nghĩa tư bản. Trung tâm cách mạng thế giới vẫn ở châu Âu, vận mệnh loài người vẫn được coi là phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Do đó, tương lai của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cũng được nhìn nhận trong sự phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Chủ nghĩa Mác chỉ cho các dân tộc bị áp bức thấy rằng, thời đại đế quốc chủ nghĩa tất nhiên cũng phải sản sinh ra và nuôi dưỡng cái chính trị đấu tranh chống áp bức dân tộc và cái chính trị đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản; bởi vậy thời kỳ ấy ắt phải làm cho: một là, những cuộc khởi nghĩa và những cuộc chiến tranh
  11. 10 dân tộc cách mạng, hai là, những cuộc chiến tranh và những cuộc nổi dậy của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản, ba là, sự kết hợp giữa hai hình thức chiến tranh cách mạng đó, trở nên có khả năng xảy ra và không tránh khỏi. C.Mác và Ph. Ăngghen đã nhìn thấy rằng đằng sau những cuộc xung đột chính trị mang tính chất dân tộc, đằng sau những cuộc chiến tranh giữa các quốc gia dân tộc, giữa một bên là các quốc gia này và một bên là các dân tộc bị nô dịch, là cuộc đấu tranh của các giai cấp - giai cấp vô sản, giai cấp tư sản, bọn quý tộc ruộng đất, các tầng lớp xã hội khác. Như vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen coi cách mạng xã hội chủ nghĩa là điều kiện để giải quyết vấn đề dân tộc. Lênin cũng chỉ ra rằng : mâu thuẫn cơ bản nhất của chủ nghĩa đế quốc là đấu tranh giữa tư sản và vô sản đã đến thời kỳ thực hiện cách mạng. Mâu thuẫn giữa đế quốc và thuộc địa gắn liền với mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản cũng mang tính thời sự nóng bỏng của sự nghiệp cách mạng giải phóng. Qua đây có thể thấy vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong thời đại chủ nghĩa đế quốc. giải phóng dân tộc là một quy luật khách quan; mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng con người có mối quan hệ khăng khít. Chỉ có thể xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột; thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do, hạnh phúc của con người.
  12. 11 Trong Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Lênin đã nói đến ba vấn đề quan trọng nhất là: - Lênnin bóc trần lối đặt vấn đề một cách trừu tượng về hình thức của giai cấp tư sản về quyền bình đẳng trong đó bao gồm cả quyền bình đẳng dân tộc. Lênin đòi hỏi phải “phân biệt rõ nét những dân tộc bị áp bức phụ thuộc không được hưởng quyền bình đẳng, với những dân tộc đi áp bức, bốc lột được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi” [ 31, 198-199 ] - Lênin khẳng định điều quan trọng nhất trong chính sách của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa là phải làm sao cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản. Bởi vì chỉ có sự gần gũi ấy mới đảm bảo cho việc chiến thắng chủ nghĩa tư bản, nếu không có chiến thắng đó thì không thể thủ tiêu được các áp bức dân tộc và tình trạng bất bình đẳng. Nhiệm vụ quan trọng của các Đảng Cộng sản là phải ủng hộ tích cực, trực tiếp phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa. Đặc biệt Lênin đòi hỏi giai cấp vô sản ở các nước tư bản đang thống trị các dân tộc lạc hậu, thuộc địa phải ủng hộ tích cực nhất phong trào giải phóng của các dân tộc ấy. Trong các tác phẩm của mình, Lênin cho rằng nếu trước kia phong trào giải phóng dân tộc kết thúc với việc giai cấp tư sản lên nắm chính quyền, thì trong thời đại đế quốc chủ nghĩa những phong
  13. 12 trào này được sự lãnh đạo của giai cấp vô sản đứng đầu là các Đảng Cộng sản, khi gặp những điều kiện thuận lợi, có thể dẫn tới thành lập một chính quyền thực sự nhân dân. Trong trường hợp này, các nước thuộc địa cũ, với những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại, có khả năng, với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản đã chiến thắng ở các nước tiên tiến - thực hiện bước quá độ dần chuyển lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Theo Mác - Ăngghen, trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích của giai cấp mình với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Có triệt để xóa bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp mới có điều kiện xóa bỏ áp bức dân tộc, mới đem lại độc lập tự chủ thực sự cho dân tộc mình và cho các dân tộc khác. Chỉ có giai cấp vô sản với bản chất cách mạng và sứ mệnh lịch sử của mình mới có thể thực hiện được điều này. Chí có cuộc cách mạng do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tuy nhiên, ở thời đại Mác - Ăngghen, các ông không đi sâu giải quyết vần đề dân tộc vì cơ bản vấn đề dân tộc ở Tây Âu đã được giải quyết trong cách mạng tư sản; nhất là các ông chưa có điều kiện bàn nhiều vấn đề dân tộc thuộc địa. Đúng như Lênin đã từng nhận xét, đối với Mác, so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu thôi. Bước sang thời đại Lênin, chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một hệ
  14. 13 thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận, được coi là học thuyết về cách mạng thuộc địa. Theo Lênin, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không thể giành được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. 1.1.2. Độc lập tự chủ theo tư tưởng của Hồ Chí Minh Quan điểm về độc lập tự chủ trong đoàn kết hợp tác quốc tế của Hồ chí Minh, được thể hiện qua tư duy độc lập và sự nhạy cảm về chính trị trong phân tích, phát hiện những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc truyền thống; nhận thức mới về sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc; nhận thức mới về yêu cầu kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại để thực hiện cuộc cách mạng của dân tộc, dân chủ ở Việt Nam trong hoàn cảnh phong trào giải phóng dân tộc phát triễn mạnh mẽ trên phạm vi quốc tế. Nói về vấn đề đó, Hồ Chí Minh giải thích: “ Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào” [ 12,136] . Điều đó cũng có nghĩa là, nước ta phải tự mình hoạch địch đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, “ phải vạch rõ những phương pháp và những biện pháp của riêng mình”. Đường lối đó phải phục vụ lợi ích quốc gia: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, tự do, hạnh phúc cho nhân dân - như Người từng căn dặn cán bộ “
  15. 14 muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm ”. [ 15,11 ] Đó là độc lập tự chủ trong hoạch địch đường lối, chủ trương đối ngoại theo quan điểm Hồ Chí Minh. Khi nhấn mạnh yêu cầu độc lập tự chủ trong hoạch định đường lối đối nội và đối ngoại của quốc gia, Hồ Chí Minh nêu lên hai khuynh hướng cần phải tránh: Một là, nếu không “ chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều ” Hai là, “ nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại ” [ 13,499] Độc lập tự chủ còn được thể hiện qua bản lĩnh và ý chí đấu tranh của nhân dân Việt Nam nhằm khẳng định quyền được hưởng tự do và độc lập trong quan hệ quốc tế. Tử tưởng của Hồ Chí Minh về giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Theo tư tưởng hồ Chí Minh, để giữ vững độc lập tự chủ trong đoàn kết quốc tế,
  16. 15 hợp tác quốc tế phải giữ vững mục tiêu và nguyên tắc sẳn sàng thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở. Sẵn sàng mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế, nhưng phải trên nền tảng độc lập tự chủ. Tử tưởng của Hồ Chí Minh về giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để giữ vững độc lập tự chủ trong đoàn kết quốc tế, hợp tác quốc tế phải giữ vững mục tiêu và nguyên tắc sẵn sàng thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở. Đối với trong nước, hoạt động đối ngoại phải dựa trên cơ sở sức mạnh bên trong - sức mạnh toàn dân, gồm sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh về kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự - đó là sức mạnh tổng hợp quốc gia. Hồ Chí Minh cho rằng, muốn thắng lợi trên mặt trận ngoại giao phải có thực lực: “Phải trông ở thực lực, thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi, thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn” [ 19,126 ] 1.2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP 1.2.1. Tính tất yếu của hội nhập quốc tế Thế giới ngày nay, đang nảy sinh một loạt vấn đề toàn cầu. Đó là những vấn đề mà cả loài người, không phân biệt quốc gia, dân tộc, giai cấp, đảng phái…đều phải quan tâm như vấn đề chiến tranh hạt nhân, vấn đề môi trường, vấn đề dân số và những vấn đề phát triển khác.
  17. 16 Cùng với những vấn đề liên quan tới sự tồn vong của loài người, còn có những vấn đề liên quan tới sự phát triển của thế giới đương đại như khoa học vũ trụ và các khoa học khác đang đỏi hỏi sự tập trung trí tuệ và sức người, sức của của nhiều quốc gia khác để giải quyết. 1.2.2. Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam - Tư tưởng chỉ đạo: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam. Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế cô lập. Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập quốc tế. Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ… Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. - Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại:
  18. 17 Lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Nghị quyết Hội nghị trung ương 4 khóa X (tháng 2-2007) đã đề ra một số chủ trương chính sách lớn đó là: - Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững… - Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp - Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, của bộ máy nhà nước - Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế. - Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập: Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập… - Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm, y tế… - Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong qua trình hội nhập
  19. 18 - Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại. - Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại.
  20. 19 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG Ý THỨC ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ NỘI DUNG GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP TỰ CHỦ CHO SINH VIÊN CAO ĐẲNG NGHỀ MIỀN TRUNG 2.1. Ý THỨC ĐỘC LẬP TỰ CHỦ CHO SINH VIÊN CAO ĐẲNG NGHỀ MIỀN TRUNG 2.1.1. Những đặc điểm của sinh viên nghề miền Trung. - Trình độ nhận thức của đa số sinh viên nghề còn nhiều hạn chế hơn so với sinh viên Đại học và Cao đẳng. - Chịu thương chịu khó. - Đa số sinh viên nghề miền Trung đều có hoàn cảnh khó khăn, nên sinh viên nghề luôn có ý thức tự vươn lên trong học tập, trong cuộc sống. - Sinh viên nghề miền Trung có ý thức tự lực, thẳng thắn, trung thực. - Có niềm say mê trong học tập, tích cực chủ động trong tiếp nhận và sáng tạo tri thức. - Có ý thức kỷ luật, yêu ngành, yêu nghề. - Ý thức lập nghiệp cao. 2.1.2. Thực trạng ý thức độc lập tự chủ của sinh viên cao đẳng nghề miền Trung - Một số sinh viên nghề còn non kém về nhận thức chính trị. - Chưa xác định lý tưởng sống đúng đắn. - Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, có thái độ và làm việc tích cực, tuân thủ pháp luật của Nhà nước.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0