intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng

Chia sẻ: Mucong999 Mucong999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

23
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam và lãm rõ thực tiễn áp dụng quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại Thành phố Hải Phòng; Chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế gặp phải, các nguyên nhân của vấn đề gặp phải qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ........../.......... ......./....... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM HOÀNG CHÍNH BẢO ĐẢM QUYỀN BẦU CỬ CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM - TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số: 8 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI, NĂM 2019
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hải Long Phản biện 1: PGS.TS. Vũ Đức Đán Học viện Hành chính Quốc gia Phản biện 2: GS.TSKH. Đào Trí Úc Đại học Quốc gia Hà Nội Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp D, Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số 77 Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa - Thành phố Hà Nội Thời gian: Vào hồi....... giờ ....... tháng 01 năm 2019 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
  3. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Quyền cơ bản của con người, của công dân Việt Nam được hiểu là các lợi ích cụ thể mà pháp luật ghi nhận cho mọi người, cho công dân. Hiến pháp năm 2013 quy định các quyền cơ bản của con người, của công dân Việt Nam bao gồm các quyền về dân sự, chính trị, các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam là một vấn đề hết sức quan trọng, điểm mới trong Luật thi hành tạm giữ, tạm giam. Là một người may mắn được làm việc trong ngành kiểm sát tại thành phố Hải Phòng, với mong muốn tìm hiểu và đánh giá thực tiễn Quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam, trên cơ sở đó tìm ra giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thời gian tới, học viên chọn đề tài “Bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Vấn đề Quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng và những vấn đề liên quan đến quyền bầu cử đã được một số tác giả đề cập trong những công trình nghiên cứu của mình như: - Trần Thanh Hương (2006), “Ý chí nhân dân trong bầu cử và một vài ý kiến góp phần đảm bảo ý chí nhân dân trong bầu cử ở nước ta”, Khoa học pháp lý, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Khoa học pháp lý của tác giả đã nhấn mạnh bầu cử là phương thức được sử dụng quyền lực nhà nước thiết lập ra bởi nhân dân. Vì thế việc phản ánh trung thực ý chí của nhân dân là vấn đề cốt lõi của mọi cuộc bầu cử. Ý chí nhân dân là vấn đề quan trọng nhất của bầu cử bởi vì chỉ khi bầu cử mang ý chí nhân dân thì ý nghĩa dân chủ đích thực của nó mới đạt được. Bên cạnh đó tác giả chỉ ra việc bảo đảm ý chí nhân dân và góp phần hoàn thiện các nguyên tắc bầu cử ở nước ta, đồng thời đưa ra giải pháp để bầu cử thực sự dân chủ, bảo đảm ý chí nhân dân, cần hoàn thiện nhiều hơn nữa về mặt nội dung của pháp luật về bầu cử và phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề. - Bùi Ngọc Thanh có bài viết “Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII- Những vấn đề từ thực tiễn” (Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 7(103), tháng 7/2007). Tác giả với tư cách là Tổng thư ký Hội đồng bầu cử đại biểu Quốc hội 1
  4. khóa XII đã chỉ ra những tồn tại ở góc độ thực tiễn trong việc tổ chức thực hiện pháp luật bầu cử ở nước ta và đề xuất một số giải pháp khắc phục. - “Một số suy nghĩ về đổi mới chế độ bầu cử đảm bảo quyền bầu cử và ứng cử của công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Thái Vĩnh Thắng đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/2011. Bài viết đã phân tích thực trạng chế độ bầu cử ở Việt Nam với việc chỉ ra bất cập trong nhiều vấn đề như: việc thành lập Hội đồng bầu cử; đơn vị bầu cử; phương pháp xác định kết quả bầu cử; nguyên tắc bỏ phiếu tự do...Từ những bất cập đó, tác giả có đề xuất một số kiến nghị đổi mới chế độ bầu cử nhằm đảm bảo quyền bầu cử và ứng cử của công dân Việt Nam trong điều kiện xây dựng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền; - “Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam” Chủ biên Nguyễn Ngọc Chí - Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2014 trong đó với tinh thần đổi mới theo nghị quyết số 49 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, cũng như sự phát triển của khoa học pháp lý tố tụng hình sự những năm gần đây, nhất là vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Các tác giả đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền con người và đưa vấn đề này vào từng chương và dành hẳn một chương đề cập đến những vấn đề có tính khái quát về quyền con người, đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự. Giáo trình có phạm vi rộng, phong phú, kết cấu hợp lý hơn các giáo trình trước đó. - Lại Văn Trình (2011), “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam”, luận án Tiến sỹ chuyên ngành luật hình sự, Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh. Luận án đã nêu rõ thêm một số vấn đề lý luận về quyền con người và bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự; hệ thống hóa các biện pháp đảm bảo; làm rõ được các đặc điểm chung và những đòi hỏi đặc thù trong việc đảm bảo quyền con người của người dân bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng khác nhau. Luận án đã phân tích tìm ra các hạn chế, bất cập trong vấn đề này và nguyên nhân tìm ra giải pháp kiến nghị, sửa đổi bổ sung BLTTHS theo hướng tích cực hơn nhằm bảo vệ tốt hơn cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. - Trần Diệu Hương (2013), “Hoàn thiện pháp luật về bầu cử những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ, Đại Học Quốc Gia Hà Nội. Luận văn đã làm sáng tỏ những lý luận về chế độ bầu cử; cở chế đại diện, phương thức 2
  5. bầu cử; phương thức tiến hành bầu cử.. Đánh giá được thực trạng các quy định pháp luật, những bấtcập, tồn tại và nguyên nhân. Đưa ra các giải pháp khắc phục tồn tại và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bầu cử của Việt Nam. Ngoài ra còn một số bài viết, cuốn sách của các học giả khác có đề cập đến vấn đề này. Các công trình nghiên cứu trên cho thấy, việc nghiên cứu về quyền của người bị tạm giữ, tạm giam ở Việt Nam tron g những năm qua đã được quan tâm và đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về vấn đề quyền bầu cử của người bị tạm giam, tạm giữ từ thực tiễn thành phố Hải Phòng. Những công trình nghiên cứu trên đều có giá trị tham khảo đối với tác giả luận văn ở chừng mực các nội dung có liên quan đến đề tài luận văn. Tuy nhiên, điều quan trọng là vấn đề “Bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” hiện nay chưa có công trình nào đề cập. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Khi nghiên cứu đề tài này, mục đích của tác giả nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam và lãm rõ thực tiễn áp dụng quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại Thành phố Hải Phòng; Chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế gặp phải, các nguyên nhân của vấn đề gặp phải qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để hoàn thành mục đích đặt ra luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, Nêu và phân tích những vấn đề chung về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam bao gồm: Khái niệm, cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, ý nghĩa chính trị, ý nghĩa xã hội và ý nghĩa pháp lý của quyền bầu cử của người bị tạm giam, tạm giữ. Thứ hai, Khảo sát, đánh giá quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn hiện nay, những kết quả đạt được, hạn chế gặp phải và nguyên nhân của vấn đề từ thực tiễn thi hành quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại Thành phố Hải Phòng. Thứ ba, Trên cơ sở các các bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn áp dụng quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại Thành phố Hải Phòng tác 3
  6. giả đề xuất một số giải pháp đảm bảo nâng cao chất lượng, hiệu qủa quyền bầu cử của người bị tạm giam, tạm giữ và khắc phục những hạn chế gặp phải từ thực tiễn áp dụng tại thành phố Hải Phòng nói riêng và địa bàn cả nước nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về Quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng. Đây là đề tài có đối tượng nghiên cứu khá rộng gồm các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành tạm giữ tạm giam, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, một số vấn đề lý luận về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam… Nhưng luận văn chỉ nghiên cứu Quyền bầu cử cho đối tượng là người bị tạm giữ, tạm giam tại thành phố Hải Phòng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại Thành phố Hải Phòng. Phân tích các kết quả đạt được cũng như hạn chế gặp phải và các nguyên nhân qua đó đề xuất một số giải pháp đảm bảo quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại thành phố Hải Phòng. - Về không gian: Tại Thành phố Hải Phòng - Về thời gian: Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu từ 2015 đến nay. Tác giả giới hạn từ mốc thời gian 2015 vì đây là thời gian ban hành Luật bầu cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân năm 2015 và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015. Từ 2015 đến nay là khoảng thời gian quy định cho phép người tạm giữ, tạm giam được thực hiện quyền công dân chính trị của mình đó là bầu cử. Khoảng thời gian các quy định pháp luật được đi vào thực tiễn, quyền của người bị tạm giữ, tạm giam được đảm bảo. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 5.1. Phương pháp luận Luận văn được triển khai nghiên cứu dựa trên phương pháp luận triết học Mác- Lê Nin, bao gồm các quan điểm về lý luận nhận thức; dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về quyền của công dân, chính sách, pháp luật của nhà nước về quyền công dân nói chung và quyền bầu cử của người bị tạm giam, tạm giữ nói riêng. Bên cạnh đó, tác giả cũng 4
  7. tham khảo các quan điểm, kết qủa nghiên cứu về quyền bầu cử cho các đối tượng xã hội của các nhà nghiên cứu trong nước có liên quan đến các nội dung của luận văn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích đã đề ra của luận văn, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử và logic; phương pháp thống kê, so sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa…nhằm làm rõ vấn đề Quyền bầu cử của người bị tạm giam, tạm giữ từ thực tiễn Thành phố Hải Phòng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đề cập và phân tích những vấn đề có tầm quan trọng và mang tính cấp thiết nhưng chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề quyền bầu cử của người bị tạm giam, tạm giữ từ thực tiễn thành phố Hải Phòng. Kết qủa nghiên cứu lý luận và thực tiễn đạt được của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về quyền bầu cử cho một nhóm đối tượng trong xã hội cụ thể. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn đã bổ sung thêm những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện lý luận về quyền bầu cử của người bị tạm giam, tạm giữ nói chung và quyền bầu cử của người bị tạm giam, tạm giữ tại thành phố Hải Phòng nói riêng. Đây là tài liệu khoa học có giá trị để các cơ quan hữu quan của nhà nước, các tỉnh, các huyện sử dụng phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành, triển khai thực hiện quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại địa phương mình. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn được kết cấu làm 3 chương: Chương 1: Quy định chung về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam. Chương 2: Thực tiễn tại thành phố Hải Phòng về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam. Chương 3: Một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam. 5
  8. Chương 1 QUY ĐỊNH CHUNG VỀ QUYỀN BẦU CỬ CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM 1.1. Khái niệm về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam 1.1.1. Khái niệm người bị tạm giữ, tạm giam Người bị tạm giữ, tạm giam là những người bị hạn chế, tước bỏ quyền tự do trong một khoảng thời gian nhất định trên cơ sở và trong khuân khổ của pháp luật quốc tế hoặc quốc gia. Mặc dù bị áp dụng biện pháp cưỡng chế hình sự, nhưng những người này vẫn được tôn trọng và đảm bảo quyền con người theo quy định của pháp luật. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền - 1948 tại điều 9 ghi nhận: “Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện”. Giải thích và cụ thể hóa nguyên tắc này, Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị quy định: “Mọi người có quyền tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt buộc và bị giam giữ vô cớ. Không ai tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng thủ tục pháp luật quy định”. Như vậy, theo quy định của Luật nhân quyền quốc tế thì “Mọi người có quyền tự do và an toàn cá nhân”, họ không bắt giữ, bỏ tù một cách tùy tiện, mà không theo quy định của pháp luật. Người bị tạm giữ hình sự là người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn ngay tức khắc trong thời gian ngắn. (tối đa 9 ngày) được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự đươc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành do nghi ngờ người đó thực hiện tội phạm (chưa khởi tố) hoặc đã bị khởi tố mà đang bỏ trốn (truy nã) nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật hình sự, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Tóm lại người bị tạm giữ là người bị hạn chế quyền tự do trong một khoảng thời gian nhất định do bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, khẩn cấp, truy nã, đầu thú hoặc tự thú… 1.1.2. Khái niệm quyền bầu cử của người bị tạm giữ tạm giam Tác giả đã đưa ra các luận điểm làm căn cứ để nêu ra khái niệm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam Tại khoản 5, Điều 29 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân quy định: “Cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang 6
  9. chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc”. Như vậy, Quyền bầu cử của người bị tạm giam, tạm giữ có thể hiểu như sau: Là quy định của pháp luật về khả năng của người bị tạm giam, tạm giữ thực hiện quyền lựa chọn người đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước. Tức là quyền chủ động lựa chọn của người bị tạm giam, tạm giữ. 1.1.3 .Đặc điểm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam Tác giả đã đưa các đặc điểm về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam và phân tích từng đặc điểm để thấy rõ được từng đặc điểm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam như: Quyền bầu cử của người bị tạm giam, tạm giữ là những giá trị gắn với mỗi người vừa với tư cách là cá nhân vừa với tư cách là thành viên trong xã hội, người bị tạm giữ, tạm giam bị hạn chế quyền tự do nên trong quá trình bầu cử sẽ “đặc biệt” hơn so với bầu cử của người tự do,gắn với nhân thân của công dân, người bị tạm giữ, tạm giam bị hạn chế một phần quyền tự do nhưng trong quá trình bầu cử vẫn đảm bảo nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. 1.2. Ý nghĩa quy định quyền bẩu cử của người bị tạm giữ, tạm giam 1.2.1. Ý nghĩa chính trị Quyền bầu cử là một trong những quyền chính trị quan trọng được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế. Trong công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, quyền bầu cử được quy định tại điều 25 của công ước: “Mọi công dân không có bất kỳ sự phân biệt nào như đã nêu ở điều 2 và không có sự hạn chế bất cập hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để:...Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo cho cử tri tự do bày tỏ ý chí của mình” Quyền bầu cử nói chung và quyền bầu cử của người bị tạm giam, tạm giữ nói riêng có ý nghĩa chính trị vô cùng quan trọng đảm bảo cho công dân thực hiện quyền chính trị của mình, thông qua bầu cử tiếp tục phát huy trách nhiệm công dân, phát huy đại đoàn kết dân tộc. Bầu cử không chỉ tăng dân chủ mà còn tăng đoàn kết, tăng đồng thuận xã hội… 7
  10. 1.2.2. Ý nghĩa xã hội Người bi tạm giam, tạm giữ là những người chưa bị tòa án kết tội nên họ chưa phải là tội phạm và họ được hưởng tất cả các quyền trên cương vị không phải là người có tội. Việc để người bị tạm giam, tạm giữ được thực hiện quyền bầu cử là cơ sở xây dựng, bảo vệ, phát triển giá trị quyền con người; đảm bảo cho các quyền đó được thực thi và mở rộng những quyền đó. Góp phần thay đổi cách nhìn của xã hội đối với người bị tạm giam, tạm giữ. Lần đầu tiên người đang bị tạm giữ, tạm giam được ghi tên vào danh sách cử tri để tham gia bầu cử. Đây là chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng quyền con người, quyền công dân của những cử tri “đặc biệt” này, qua đó giúp họ có thêm động lực, niềm tin rèn luyện, cải tạo tốt để sớm trở về hòa nhập với cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội. 1.2.3. Ý nghĩa pháp lý Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND 2015 mở rộng đối tượng cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Như vậy, theo những quy định của Hiến pháp, Luật bầu cử Quốc hội và HDND, Bộ luật tố tụng hình sự thì chỉ những người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù và người mất năng lực hành vi dân sự thì mới không được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND. Việc quy định để người bị tạm giam tạm giữ được tham gia bầu cử phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và thể hiện được tính nhân văn của Đảng và nhà nước ta, nhằm đảm bảo cho quyền con người, quyền công dân được thực hiện theo đúng hiến pháp và pháp luật. 1.2.4. Ý nghĩa cá nhân (Quyền con người - Quyền công dân) Quyền bầu cử là một trong những quyền chính trị cơ bản và quan trọng của công dân, đã được khẳng định xuyên suốt qua các bản Hiến pháp của nước ta. Vì vậy, việc Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 mở rộng quyền bầu cử đối với người đang bị tạm giam, tạm giữ… sẽ 8
  11. giúp cho họ có thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình, lựa chọn được những người có đủ đức, đủ tài, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ cho các tất cả tầng lớp nhân dân để tham gia vào các cơ quan quyền lực Nhà nước. Mặt khác, những quy định mới này cũng thể hiện tính nhân văn, đề cao quyền con người, quyền công dân của pháp luật Việt Nam. Thông qua công tác này góp phần nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ công dân, là cơ hội để những người đang trong diện tạm giam, tạm giữ và cai nghiện bắt buộc có cơ hội học tập, rèn luyện, phấn đấu trở thành công dân tốt, nhận thức rõ được bản chất tốt đẹp của nhà nước ta. 1.3. Quy định pháp luật của một số nước về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (International Convenant on Civil and Political Rights) (viết tắt là Công ước hoặc ICCPR) là một trong những điều ước quốc tế quan trọng nhất về quyền con người đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua cùng với Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (International Convenant on Economic, Social and Cultural Rights – ICESCR) theo Nghị quyết số 2200 A (XXI) ngày 16/2/1966. Ngoài ra, một Nghị định thư tùy chọn đi kèm với ICCPR cũng được thông qua trong Nghị quyết số 2200 A (XXI) nhằm quy định các thủ tục giải quyết các khiếu nại của các cá nhân về việc vi phạm các quyền dân sự, chính trị của các quốc gia. ICCPR có hiệu lực từ ngày 23/3/1976. 1.3.1. Pháp luật nước Pháp Nước Pháp rất đề cao quyền công dân nói chung và quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam nói riêng. Pháp luật nước Pháp quy định Người bị giam giữ chưa bị kết án có thể tự bỏ phiếu hoặc ủy quyền bỏ phiếu. Người bị tạm giữ, tạm giam có thể nộp đơn lên thẩm phán thi hành án tạm tha để đi bầu cử trừ khi người tạm giữ, tạm giam bị kết án hơn 5 năm tù. Người bị tạm giữ, tạm giam được quyền ghi tên vào danh sách cử tri và được quyền bầu cử. 1.3.2. Pháp luật các nước Common law Trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tháng 11 năm 2018 của Hoa Kỳ, các cử tri ở bang Florida đã hết sức ủng hộ việc người bị tạm giữ, tạm giam, ngoại trừ 9
  12. những kẻ phạm tội tình dục và những kẻ giết người có quyền bầu cử. Việc quy định như vậy phù hợp với xu hướng ở các quốc gia khác đang dần tiến tới việc người bị tạm giữ, tạm giam được quyền bầu cử. Ở Châu Âu, Thụy Sĩ, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch, Ireland, các nước vùng Baltic và Tây Ban Nha đã cho phép người bị tạm giữ, tạm giam có quyền bầu cử Tiểu kết chương 1 Đảm bảo quyền bầu cử của người đang bị tạm giữ, tạm giam là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật bầu cử đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật nhằm phát huy vai trò của hệ thống pháp luật trong việc điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, đặc biệt là thể hiện tính nhân văn của Đảng và Nhà nước ta trong việc đảm bảo các quyền con người và quyền công dân, phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Kết quả nghiên cứu tại chương 1, đã đề cập những vấn đề lý luận cơ bản nhất về quyền bầu cử của người đang bị tạm giữ, đặc biệt là quyền bầu cử của người đang bị tạm giữ trên các phương diện: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, và các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về lĩnh vực này. Đây là những vấn đề lý luận làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực trạng đảm bảo quyền bầu cử của người đang bị tạm giữ từ thực tiễn thành phố Hải Phòng thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn. 10
  13. Chương 2 THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG VỀ QUYỀN BẦU CỬ CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM 2.1. Khái quát về công tác tạm giữ, tạm giam của thành phố Hải Phòng Nhà tạm giữ, tạm giam cấp huyện là nơi giam giữ những người có lệnh tạm giữ hoặc tạm giam do Cơ quan điều tra thực hiện. Hải Phòng có 16 đơn vị quận huyện có nhà tạm giữ. Có 6 đơn vị được quyền lưu giam gồm: Cát Hải, Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, An Dương, Thủy Nguyên, Bạch Long Vĩ. Những vi phạm của nhà tạm giữ, lưu giam cấp huyện thường là: chưa thiết lập hồ sơ người bị tạm giữ, hồ sơ tạm giữ còn thiếu danh chỉ bản, biên bản bắt giữ, quyết định tạm giữ không có số, không có ngày tháng, chưa có dấu chức danh, dấu của cơ quan ban hành; giữ chung buồng người tạm giữ cùng vụ án, cùm chân người chưa thành niên, chưa lập sổ sách theo dõi việc gửi, nhận quà của người bị tạm giữ, chưa có bếp ăn riêng cho người bị tạm giữ... Thành phố Hải Phòng có 1 Trại giam thuộc Bộ Công an (Trại giam Xuân Nguyên). Đây là nơi giam những người đang chấp hành hình phạt tù với lưu lượng khoảng 3000 phạm nhân. Trại Xuân Nguyên được chia làm 3 phân trại và khu hành chính. Trong phạm vi nghiên cứu, Luận văn xin phân tích thực trạng tại Trại tạm giam Công an thành phố Hải Phòng là nơi tạm giữ những đối tượng thuộc các vụ án hình sự cấp tỉnh, các bị can bị tạm giam và một số phạm nhân được giữ lại để phục vụ và cải tạo. Các phạm nhân này thường có mức án dưới 5 năm, không có tiền sử về nghiện ma túy, nhân thân trước đó không có tiền án, tiền sự. 2.2. Thực tiễn quá trình thực hiện quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại thành phố Hải Phòng 2.2.1. Lập danh sách cử tri Công an thành phố đã có văn bản hướng dẫn cụ thể, chỉ đạo cho các đơn vị tiến hành lập danh sách những người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đồng thời phối hợp với Ủy ban Bầu cử phường Cát Dài tiến hành làm thẻ cử tri theo hướng như người tạm trú để đảm bảo họ có đầy đủ thẻ cử tri và thực hiện quyền bầu cử đúng quy định. 11
  14. 2.2.2. Tuyên truyền, vận động bầu cử Cùng với việc chuẩn bị các bước bầu cử, Trại Tạm giam thành phố Hải Phòng đã tăng cường tuyên truyền về Luật Bầu cử, hướng dẫn cách thức bầu cử, giải đáp những băn khoăn, thắc mắc liên quan đến bầu cử cho các đối tượng là người bị tạm giữ, tạm giam. Do đặc thù của Trại Tạm giam là phục vụ cho giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử nên đối tượng bị giam ở các khu giam giữ khác nhau, không thể đưa ra ngoài tập trung để tuyên truyền được. Vì vậy, Trại đã phân công cán bộ quản giáo trực tiếp đến các buồng giam để phổ biến cho người bị tạm giữ, tạm giam hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ tham gia bầu cử. Tuy nhiên, trong công tác tuyên truyền cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Cán bộ quản giáo đã tập trung đẩy mạnh công tác tuyền truyền luật bầu cử tới người bị tạm giữ, tạm giam với nhiều hình thức như: Phát loa phóng thanh các chương trình về bầu cử; Trực tiếp đến từng buồng giam tuyên truyền các nội dung, quy định về bầu cử đến những người bị tạm giữ, tạm giam; tiến hành thông qua danh sách cử tri, danh sách các đại biểu tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp ở các buồng giam, giữ… tạo điều kiện cho người bị tạm giữ, tạm giam biết danh sách cử tri, danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân đồng thời dán công khai niêm yết danh sách, tiểu sử của những người ứng cử Đại biểu Quốc hội, và đại biểu HDND để các cử tri nắm rõ thông tin của người ứng cử. 2.2.3 .Thành lập tổ bầu cử Căn cứ theo điều 25 của Luật bầu cử đại biểu Quốc Hội và đại biểu HĐND 2015, UBND phường Cát Dài sau khi thống nhất với thường trực HDND và Ban thường trực Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam cùng cấp và Trại giam quyết định thành lập tổ bầu cử có từ 11-21 thành viên gồm tổ trưởng, Thư ký và các ủy viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đại diện cử tri phường Cát Dài và đại diện Trại giam tham gia tổ bầu cử. Tổ bầu cử có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: - Phụ trách công tác bầu cử trong khu vực bỏ phiếu; - Bố trí phòng bỏ phiếu, chuẩn bị hòm phiếu; - Nhận tài liệu và phiếu bầu cử từ Ban bầu cử; phát thẻ cử tri, phiếu bầu cử có đóng dấu của Tổ bầu cử cho cử tri; 12
  15. - Thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu cử; - Bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về bầu cử và nội quy phòng bỏ phiếu; - Giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ bầu cử quy định tại Điều này; nhận và chuyển đến Ban bầu cử tương ứng khiếu nại, tố cáo về người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, khiếu nại, tố cáo khác không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tổ bầu cử; - Kiểm phiếu và lập biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử để gửi đến Ban bầu cử tương ứng; - Chuyển biên bản kết quả kiểm phiếu bầu cử và toàn bộ phiếu bầu cử đến Ủy ban nhân dân cấp xã khi kết thúc việc kiểm phiếu; - Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo quy định của các tổ chức phụ trách bầu cử cấp trên; - Thực hiện việc bầu cử thêm, bầu cử lại tại khu vực bỏ phiếu (nếu có). 2.2.4. Bỏ phiếu Ủy ban Bầu cử thành phố ban hành Công văn số 33/CV-UBBC về việc tổ chức cho người bị tạm giam, tạm giữ thực hiện quyền bầu cử. Theo đó, để tổ chức cho người bị tạm giam, tạm giữ thực hiện quyền bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 theo đúng quy định, Ủy ban Bầu cử thành phố yêu cầu UBND và Ủy ban Bầu cử thị trấn, các xã, phường trên địa bàn thành phố chỉ đạo và UBND xã, phường, thị trấn nơi Công an thành phố đóng quân cơ cấu số lượng cán bộ, chiến sĩ đại diện công an địa phương tham gia thành viên Tổ Bầu cử cho phù hợp. Đồng thời sử dụng hòm phiếu phụ để những người bị tạm giữ, tạm giam thực hiện tốt quyền bầu cử tại nơi tạm giữ, tạm giam; thực hiện tốt công tác bầu cử và kiểm phiếu theo quy định. Ngoài ra, chỉ đạo UBND xã, phường, thị trấn tổ chức rà soát, lập danh sách và cấp thẻ cử tri của những người bị khởi tố bị can nhưng cho tại ngoại, người đang có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng chưa thi hành, những người đang thi hành án nhưng hưởng án treo và thi hành án phạt khác mà không bị tước quyền bầu cử để họ thực hiện quyền bầu cử tại nơi thường trú, tạm trú. 13
  16. 2.2.4. Khiếu nại bầu cử Đối với việc khiếu nại, tố cáo về kiểm phiếu, Điều 75 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND quy định: Những khiếu nại, tố cáo tại chỗ về những hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong việc kiểm phiếu do Tổ bầu cử nhận, giải quyết và ghi nội dung giải quyết vào biên bản. Thực tiễn tại các điểm bầu cử thành phố Hải Phòng không có người bị tạm giữ, tạm giam nào khiếu nại, tố cáo trong quá trình bầu cử. 2.3. Một số tồn tại trong việc thực hiện quyền bẩu cử của người bị tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng 2.3.1. Một số bất cập, hạn chế trong việc đảm bảo quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam Tác giả đã nêu và phân tích những bất cập, hạn chế trong việc đảm bảo quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam còn tồn tại một số hạn chế cụ thể như: Còn hạn chế về quy định của pháp luật, quá trình tuyên truyền động cử tri là người bị tạm giữ, tạm giam tham gia bầu cử còn gặp nhiều khó khăn, quá trình tổ chức bầu cử của người bị tạm giam, tạm giữ cũng khác so với quá trình tổ chức bầu cử thông thường vì đây là những cử tri “đặc biệt”, đòi hỏi công tác chuẩn bị, tổ chức bầu cử phải hết sức chu đáo, đảm bảo đúng các quy định, danh sách cử tri biến động thường xuyên, hàng ngày nên việc lập danh sách và ghi thẻ cử tri rất vất vả đến tận thời điểm trước ngày bỏ phiếu, thậm chí là trong ngày bỏ phiếu vẫn có những thay đổi, cử tri bị tạm giữ, tạm giam nên việc tiếp cận và tiếp nhận thông tin cũng hạn chế, quyền bầu cử của người bị tạm giam, tạm giữ là quyền mới được quy định trong luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015 và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, do đó đây là lần đầu tiên tổ chức cho người bị tạm giữ, tạm giam được thực hiện quyền công dân chính trị là bầu cử nên không thể tránh khỏi những thiếu xót ở các giai đoạn của cuộc bầu cử. 2.3.2. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong việc bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam Thứ nhất, quy định cho phép người tạm giữ, tạm giam được tham gia bầu cử là quy định mới mang tính nhân văn, thể hiện sự ưu việt của luật pháp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có hai luồng dư luận xung quanh quy định này. Một là luồng dư luận đánh giá cao, bởi trên thực tế, với những người đang bị tạm giam, 14
  17. tạm giữ chưa có bản án, quyết định của tòa án thì họ chưa bị xem là tội phạm, chưa bị tước quyền công dân, thì đương nhiên họ vẫn có quyền bầu cử. Một luồng dư luận khác cho rằng, xét về bản chất và hành vi của những người bị tạm giam, tạm giữ mà chưa có bản án, quyết định của tòa án thì họ vẫn bị xem như vi phạm pháp luật, và tất nhiên là có những trường hợp bị xã hội ghét bỏ, lên án… Thứ hai, do nhận thức, tâm lý của người bị tạm giữ, tạm giam nên mức độ quan tâm tới quyền bầu cử còn hạn chế. Người bị tạm giữ, tạm giam là những người đã phạm tội nên tâm lý họ thường bất ổn họ không coi trọng đến quyền bầu cử hay quyền và nghĩa vụ của mình vì tâm lý họ nghĩ mình là người phạm tội sẽ bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Thứ ba, nguyên nhân từ ứng cử viên không tiến hành vận động bầu cử, tiếp xúc cử tri là người bị tạm giữ, tạm giam. Do người bị tạm giữ, tạm giam bị hạn chế quyền tự do, sống tách biệt với bên ngoài nên các ứng cử viên không thể tổ chức tiếp xúc cử tri ở trong các trại giam, các phòng giam. Những người bị tạm giữ, tạm giam chỉ có thể nắm được các thông tin về ứng cử viên qua tuyên truyền vận động của các cán bộ quản giáo. Thứ tư, nhận thức, thực hiện nhiệm vụ của những người thực thi vẫn còn chưa đầy đủ. Việc lựa chọn kỹ lưỡng cán bộ, nhân viên trông coi giam giữ cần thực hiện ở mọi cấp, bởi vì việc quản lý tốt một nhà tù phụ thuộc vào lòng nhân đạo, sự liêm chính, khả năng chuyên môn và sự thích nghi của chính bản thân họ đối với công việc. Nhưng trên thực tế nhiều khi việc tuyển chọn về mặt chuyên môn vẫn chưa được thực hiện. Có nhiều lý do nhưng có lẽ những lý do chủ yếu vẫn là kinh phí thực hiện tuyển chọn - đào tạo, cán bộ thiếu phải kiêm nhiệm nhiều công việc, sự luân chuyển công tác …. Thứ năm, cơ sở vật chất để thực hiện chưa đầy đủ khi đáp ứng Việc cơ sở vật chất của trại giam không đảm bảo và những vi phạm của trại giam cũng ảnh hưởng đến tâm lý, chất lượng cuộc sống của người bị tạm giữ, tạm giam nên ít nhiều cũng ảnh hưởng đến quá trình tuyên truyền, vận động bầu cử cho những người bị tạm giữ, tạm giam trong trại Thứ sáu, những tác động mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội tới con người và môi trường. 15
  18. Những người bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang chấp hành hình phạt tù là người bị mất tự do, tách biệt với thế giới bên ngoài. Họ phải sống trong khuôn khổ trật tự nhất định. Họ phải chịu sự giám sát, quản lý chặt chẽ của các cán bộ quản giáo. Những tác động tiêu cực ngoài xã hội nhiều khi làm ảnh hưởng trực tiếp tới họ. Phạm nhân trong trại giam vẫn lén lút sử dụng ma túy, chơi cờ bạc hoặc tìm cách trốn khỏi nơi giam để ra ngoài xã hội… Môi trường xung quanh cũng như thực tế của xã hội dù ít dù nhiều vẫn ảnh hưởng tới ý thức của người bị tạm giữ, tạm giam và phạm nhân. Tuy nhiên do bị tách biệt với thực tại xã hội nên khi trở lại cuộc sống thực tế trong xã hội dù ít dù nhiều họ vẫn không thể tiếp cận ngay với xã hội. Cho nên Nhà nước phải quan tâm đến vấn đề này. Nhà nước Việt Nam cũng rất quan tâm đến vấn đề tái hòa nhập cộng đồng của họ. Nhiều chương trình dạy nghề, kỹ năng sống, hiểu biết pháp luật… để giúp những người đã bị tước tự do sớm trở lại cuộc sống bình thường. Đây là lần đầu tiên tổ chức cho người bị tạm giữ, tạm giam được thực hiện quyền công dân chính trị là bầu cử nên không thể tránh khỏi những thiếu xót ở các giai đoạn của cuộc bầu cử. Theo cán bộ phụ trách bầu cử trong trại giam, cái khó là làm sao để người bị tạm giữ, tạm giam tiếp cận đầy đủ thông tin, nắm rõ được quy định, thể lệ của cuộc bầu và thực hiện việc bỏ phiếu đúng quy định, công bằng và dân chủ nhưng phải bảo đảm an toàn tuyệt đối, không ảnh hưởng đến công tác điều tra, phá án... Để làm được điều này, cán bộ, quản giáo của trại đã trở thành những tuyên truyền viên, phải nắm rõ các bước tiến hành, các quy định của Luật Bầu cử, đến từng buồng giam tuyên truyền cho người đang bị giam giữ, cho họ nghiên cứu danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng. 2.3.4. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn áp dụng quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại thành phố Hải Phòng. Thứ nhất, Tăng cường công tác giám sát bầu cử. Để đánh giá một cuộc bầu cử có dân chủ, khách quan, công bằng, minh bạch thực sự hay không, người ta thường xem xét các mục tiêu và phương thức tiến hành bầu cử đạt được ở mức độ nào, có đảm bảo được nguyên tắc dân chủ, công bằng hay không (giữa 16
  19. các tổ chức, các ứng cử viên và các cử tri). Điều này phụ thuộc một phần quan trọng vào công tác tổ chức giám sát bầu cử. Thực tiễn các trại tạm giam, tạm giữ tại thành phố Hải Phòng công tác tổ chức giám sát bầu cử còn chưa được quan tâm một cách đúng mức, dẫn đến một số nơi còn vi phạm các nguyên tắc bầu cử dân chủ, khách quan, công bằng, minh bạch. Thứ hai, Chú trọng công tác hướng dẫn nghiệp vụ về bầu cử, từ việc tổ chức Hội nghị toàn quốc về công tác bầu cử, việc tổ chức triển khai của các ngành, các cấp ở địa phương cần phải tiến hành thực sự có hiệu quả. Trong công tác tập huấn, cần đầu tư công sức và kinh phí để tập huấn nghiệp vụ cho các tổ chức phụ trách bầu cử, nhất là đối với thành viên của Tổ bầu cử, tổ chức trực tiếp thực hiện bầu cử ở cấp cơ sở, trực tiếp tiếp xúc với cử tri và thi hành các quy định về bầu cử. Thực tiễn các cuộc bầu cử vừa qua cho thấy, những sai sót của các nhân viên Tổ bầu cử là nguyên nhân căn bản dẫn đến các vi phạm trong bầu cử. Do vậy, đây là bài học quý báu trong thực tiễn chuẩn bị tổ chức bầu cử cần phải nghiêm túc rút kinh nghiệm và triển khai có hiệu quả trên thực tế. Thứ ba, cần pháp điển hóa các văn bản về bầu cử. Thực tế các cơ quan bầu cử tại thành phố Hải Phòng đã nhận được chỉ đạo, hướng dẫn, chỉ thị,… của các cơ quan nhà nước cấp trên, Đảng, Mặt trận bằng nhiều hình thức văn bản như Nghị quyết, Chỉ thị, Quyết định, Công văn, Báo cáo… lặp đi, lặp lại, chồng chéo nội dung. Để đảm bảo pháp chế, tính toàn vẹn của chế độ bầu cử, nên hệ thống thống hóa chặt chẽ công khai, minh bạch các văn bản đó. Cần rút kinh nghiệm thiết thực trong việc xây dựng Luật, các văn bản dưới Luật cần tiến hành đồng bộ, thống nhất, cụ thể để tránh tình trạng lúng túng, bị động cho địa phương khi triển khai. 17
  20. Tiểu kết chương 2 Chương 2 của luận văn tập chung phân tích, làm rõ thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng đến việc đảm bảo quyền của người bị tạm giam, tạm giữ tại thành phố Hải Phòng dưới các khía cạnh. Đánh giá thực trạng việc đảm bảo quyền của người bị tạm giam, tạm giữ trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gia qua trên các phương diện: quá trình lập danh sách cử tri, tuyên truyền vận động cử tri, bỏ phiếu, khiếu nại sau bầu cử. Trên cơ sở đó, khái quát những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. Qua đó, cho thấy việc đảm bảo quyền của người bị tạm giam, tạm giữ vẫn còn nhiều bất cập. Tuy nhiên, quá trình phân tích, đánh giá cũng đã chỉ ra những hạn chế, bất cập nhất định như: pháp luật quy định về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam còn những quy định mang tính chung, chưa cụ thể, khó thực hiện trên thực tế, một số quy định còn chưa có sự thống nhất, đồng bộ nên dẫn đến việc nhận thức khác nhau và thực hiện có sự khác nhau. Do vậy, cần thiết phải có các giải pháp để đảm bảo thực hiện quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam đã được Đảng và Nhà nước xác định, đây chính là cơ sở để tác giả đề xuất các giải pháp tại chương 3 của luận văn. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1