intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: Truong Tien | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

84
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Phân tích thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết<br /> định hình phạt trong trường hợp phạm tội có<br /> tổ chức theo luật hình sự Việt Nam<br /> Phí Thành Chung<br /> Khoa Luật<br /> Luận văn ThS. ngành: Luật hình sự; Mã số: 60 38 40<br /> Người hướng dẫn: GS.TS. Võ Khánh Vinh<br /> Năm bảo vệ: 2010<br /> Abstract. Trình bày một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong trường hợp<br /> phạm tội có tổ chức. Phân tích thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp phạm<br /> tội có tổ chức. Đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt trong<br /> trường hợp phạm tội có tổ chức.<br /> Keywords. Luật hình sự; Hình phạt; Tội phạm; Pháp luật Việt Nam<br /> <br /> Content<br /> MỞ ĐẦU<br /> 1. Tính cấp thiết của đề tài<br /> Phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm. Vì vậy, các quy định về quyết định<br /> hình phạt trong trường hợp đồng phạm cũng chính là các quy định về quyết định hình phạt<br /> trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Ở nước ta, ngay từ khi chưa có Bộ luật hình sự<br /> (BLHS), trong một số văn bản pháp luật cũng đã đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt<br /> trong trường hợp đồng phạm và phạm tội có tổ chức. Cho đến nay, trong cả hai BLHS, quyết<br /> định hình phạt trong phạm tội có tổ chức được chính thức quy định tại Khoản 4 Điều 17<br /> BLHS 1985 và được kế thừa tại Điều 53 BLHS 1999. Tuy nhiên, các quy định này của BLHS<br /> chỉ quy định quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm mà chưa chỉ ra các căn cứ đặc<br /> thù được áp dụng để quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Mặt khác,<br /> về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng quy định này còn tồn tại những quan điểm khác<br /> nhau về các căn cứ quyết định hình phạt riêng áp dụng trong trường hợp đồng phạm nói<br /> chung và phạm tội có tổ chức nói riêng. Trong thực tiễn xét xử, một số cơ quan điều tra, truy<br /> tố, xét xử có sự nhầm lẫn phạm tội có tổ chức với các hình thức đồng phạm khác, không có<br /> sự thống nhất trong các tiêu chí nhận dạng hình thức đồng phạm đặc biệt này. Điều này cũng<br /> đã dẫn đến việc quyết định hình phạt không chính xác đối với người phạm tội. Hơn nữa, khi<br /> các cơ quan tố tụng đã xác định đúng về trường hợp phạm tội có tổ chức thì lại có sự tranh<br /> chấp trong việc đánh giá tính chất của đồng phạm có tổ chức, tính chất, mức độ tham gia của<br /> từng người vào việc phạm tội. Về mặt lý luận, các quy định của bộ luật hình sự hiện hành về<br /> phạm tội có tổ chức còn quá chung chung, các dấu hiệu chủ yếu mang tính định tính. Trong<br /> khi đó, các văn bản hướng dẫn thực thi pháp luật còn ít, tính cập nhật không cao. Vì vậy, việc<br /> nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý luận chế định quyết định hình phạt trong trường hợp<br /> <br /> phạm tội có tổ chức, trên cơ sở đó giải quyết những vướng mắc mà thực tiễn đặt ra, đề xuất<br /> những phương án hoàn thiện pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có<br /> tổ chức, đảm bảo sự nhận thức thống nhất trong thực thi pháp luật là vấn đề mang tính cấp<br /> bách, có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật về quyết định hình<br /> phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức trong giai đoạn hiện nay.<br /> 2. Tình hình nghiên cứu đề tài<br /> Ở nước ta, dưới góc độ pháp lý hình sự, một số nhà hình sự học đã nghiên cứu về chế<br /> định quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Tuy nhiên, các công trình<br /> này chủ yếu đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm và ở một<br /> chừng mực nhất định có nghiên cứu về vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp phạm<br /> tội có tổ chức như là một trường hợp đặc biệt. Hiện nay, chưa có một công trình độc lập<br /> nghiên cứu về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức với tư cách là một<br /> chế định độc lập với những đặc điểm về quyết định hình phạt riêng.<br /> 3. Mục đích nghiên cứu<br /> Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận một cách có hệ thống và toàn<br /> diện về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức để từ đó đóng<br /> góp về mặt khoa học giải quyết những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xây dựng và áp<br /> dụng pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, nâng cao hiệu<br /> quả điều chỉnh của chế định này.<br /> 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu<br /> - Đối tượng nghiên cứu của Luận văn gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về<br /> quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo Luật hình sự Việt Nam.<br /> - Phạm vi nghiên cứu là các vấn đề pháp lý có liên quan tới quyết định hình phạt trong<br /> trường hợp phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam trong Bộ luật hình sự năm 1999<br /> dưới góc độ luật hình sự, cả lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội, giai<br /> đoạn từ năm 2005 đến năm 2010.<br /> 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu<br /> Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về<br /> chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối của Đảng<br /> về Nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn cũng sử dụng các<br /> phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh,<br /> diễn giải, suy diễn logic và phương pháp xã hội học để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.<br /> 6. Kết cấu của luận văn<br /> Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn<br /> gồm 3 chương:<br /> Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có<br /> tổ chức<br /> Chương 2:Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức<br /> Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt trong trường hợp<br /> phạm tội có tổ chức<br /> Chương 1<br /> MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT<br /> TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC<br /> 1.1. Phạm tội có tổ chức<br /> 1.1.1. Khái niệm phạm tội có tổ chức<br /> Sau nhiều lần pháp điển hóa, tại Khoản 3 Điều 17 BLHS 1985 và Khoản 3 Điều 20<br /> BLHS 1999 đều quy định: "phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt<br /> chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm".<br /> <br /> Tuy nhiên, định nghĩa này vẫn còn chung chung, trừu tượng. Cụm từ "câu kết chặt chẽ"<br /> được nhận định không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.<br /> Hiện nay, xung quanh khái niệm phạm tội có tổ chức còn có nhiều ý kiến khác nhau về<br /> bản chất pháp lý của khái niệm này.<br /> Theo chúng tôi, việc xác định những trường hợp phạm tội có tổ chức cần tránh hai xu<br /> hướng là xác định quá rộng hoặc xác định quá hẹp về khái niệm này.<br /> Vì vậy, căn cứ vào tinh thần của Nghị Quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988 hướng dẫn<br /> bổ sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986 giải thích về "sự câu kết" trong phạm tội có<br /> tổ chức và sự phân tích ở trên, chúng tôi cho rằng: phạm tội có tổ chức là hình thức đồng<br /> phạm đặc biệt. Trong hình thức đồng phạm này có sự phân công vai trò giữa người thực<br /> hành và người cầm đầu, chỉ huy trong việc thực hiện tội phạm. Dấu hiệu phạm một tội nhiều<br /> lần, phạm nhiều tội và sự câu kết lâu dài không phải là dấu hiệu bắt buộc của hình thức đồng<br /> phạm này.<br /> 1.1.2. Phân biệt khái niệm "phạm tội có tổ chức" với một số khái niệm khác có liên<br /> quan<br /> "Phạm tội có tổ chức", "tổ chức tội phạm", "tội phạm có tổ chức", tội phạm có sử dụng<br /> cụm từ "tổ chức" là những khái niệm khác nhau, có nội hàm giáp ranh với nhau nhưng không<br /> đồng nhất với nhau.<br /> Tổ chức tội phạm (tổ chức phạm tội)<br /> Tổ chức tội phạm có những đặc trưng sau để phân biệt với hình thức đồng phạm có tổ<br /> chức:<br /> Thứ nhất, tổ chức tội phạm phải là một tổ chức được kết cấu chặt chẽ hoặc rất chặt chẽ, có sự<br /> phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các thành viên. So sánh với phạm tội có tổ<br /> chức, thì phạm tội có tổ chức bao gồm cả trường hợp phân công vai trò, nhiệm vụ rõ ràng và cả<br /> trường hợp không dứt khoát rõ ràng.<br /> Thứ hai, tổ chức tội phạm có một cơ cấu ổn định về mặt tổ chức, luôn chịu sự điều hành<br /> của một nhóm thủ lĩnh. Còn phạm tội có tổ chức thì đặc trưng này thể hiện ở mức độ thấp<br /> hơn.<br /> Thứ ba, tổ chức tội phạm thường có hạ tầng cơ sở đảm bảo cho tổ chức tội phạm hoạt động<br /> mang tính ổn định thường xuyên trên một địa bàn xác định. Đối với phạm tội có tổ chức, nội<br /> dung này biểu hiện ở mức độ thấp.<br /> Vì vậy, tổ chức tội phạm thực chất cũng là một hình thức đồng phạm có tổ chức nhưng<br /> có cơ cấu tổ chức cao hơn, chặt chẽ, bền vững hơn so với phạm tội có tổ chức thông thường.<br /> Tội phạm có tổ chức<br /> Hiện nay có ba cách tiếp cận cơ bản về khái niệm phạm tội có tổ chức. Đó là từ góc độ luật<br /> hình sự, từ góc độ tội phạm học, từ góc độ tội phạm học và luật hình sự.<br /> Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh với tội phạm có tổ chức, chúng tôi cho rằng tội phạm có<br /> tổ chức là khái niệm được sử dụng trong cả hai lĩnh vực tội phạm học và luật hình sự. Từ góc<br /> độ của luật hình sự, để xây dựng khái niệm tội phạm có tổ chức phải xuất phát từ những cơ sở<br /> sau:<br /> - Tội phạm có tổ chức là tội phạm theo quy định của BLHS.<br /> - Khái niệm tội phạm có tổ chức muốn được thừa nhận phải phản ánh đầy đủ những dấu<br /> hiệu bản chất của tội phạm có tổ chức.<br /> - Khái niệm tội phạm có tổ chức không được trái, không được mâu thuẫn với khái niệm<br /> tội phạm được quy định tại điều 8 BLHS 1999.<br /> - Cụm từ "có tổ chức" dùng để chỉ tính chất của tội phạm đó. Điều đó có nghĩa là những<br /> hành vi nguy hiểm cho xã hội do một tổ chức tội phạm, nhóm phạm tội có tổ chức thực hiện.<br /> Từ những cơ sở trên, có thể đưa ra định nghĩa tội phạm có tổ chức như sau: Tội phạm có<br /> tổ chức là hệ thống những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, phải chịu hình phạt do một<br /> <br /> nhóm tội phạm có cơ cấu tổ chức rõ ràng, chặt chẽ, cố ý xâm hại những quan hệ xã hội được<br /> pháp luật hình sự bảo vệ.<br /> Như vậy, tội phạm có tổ chức có thể do tổ chức tội phạm hoặc nhóm phạm tội có tổ chức<br /> chuyên nghiệp thực hiện.<br /> Tội phạm có sử dụng cụm từ tổ chức trong BLHS<br /> Khái niệm phạm tội có tổ chức được phân biệt với các tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ<br /> chức" ở những điểm sau:<br /> Thứ nhất, Đối với các tội phạm sử dụng cụm từ "tổ chức" chỉ cần một người có hành vi thỏa<br /> mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm (CTTP) của tội này là có thể phạm tội này. Nếu có<br /> nhiều người cùng cố ý tham gia thực hiện tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức" thì cũng không<br /> cần có sự cấu kết chặt chẽ giữa họ thì mới cấu thành tội này. Nhưng khi những người đồng phạm<br /> này có sự cấu kết chặt chẽ với nhau thì những người này là đồng phạm của tội đó dưới hình thức<br /> phạm tội có tổ chức.<br /> Thứ hai, cơ sở trách nhiệm hình sự (TNHS) của phạm tội có tổ chức là điều luật cụ thể quy định<br /> tội phạm mà những người đồng phạm tham gia thực hiện và điều luật quy định về chế định đồng<br /> phạm. Trong khi đó, việc xác định TNHS đối với trường hợp phạm tội cụ thể có sử dụng cụm từ "tổ<br /> chức" chỉ cần căn cứ vào điều luật quy định tội phạm đó.<br /> Thứ ba, trong trường hợp phạm tội có tổ chức, những người tham gia thực hiện tội phạm<br /> cùng phạm một tội. Nhưng trong tội phạm có sử dụng cụm từ "tổ chức", thì người có hành vi<br /> tổ chức là người phạm tội này, còn người được tổ chức thực hiện tội phạm khi có hành vi<br /> phạm pháp thì chỉ là vi phạm hành chính hoặc tội phạm nhưng là những tội khác.<br /> 1.2. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức<br /> 1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt<br /> Chúng tôi cho rằng định nghĩa khái niệm quyết định hình phạt cần được hiểu toàn diện<br /> như sau: Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án do Hội đồng xét xử thực<br /> hiện căn cứ vào các quy định pháp luật hình sự, trên cơ sở kết quả của hoạt động định tội<br /> danh để xác định biện pháp xử lý tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của<br /> hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS của<br /> người phạm tội. Trong quyết định hình phạt, Tòa án quyết định miễn TNHS, miễn hình phạt<br /> hoặc xác định khung hình phạt, quyết định loại và mức hình phạt hay biện pháp tư pháp thay<br /> thế hình phạt cụ thể được quy định trong luật hình sự để áp dụng đối với người phạm tội thể<br /> hiện trong bản án kết tội đối với họ.<br /> 1.2.2. Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức<br /> Pháp luật hình sự Việt Nam không có quy định riêng về quyết định hình phạt trong trường<br /> hợp phạm tội có tổ chức ngoài các quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng<br /> phạm.<br /> Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội có tổ chức thì về nguyên tắc phải tuân thủ<br /> các quy định chung về quyết định hình phạt. Tuy nhiên, đồng phạm nói chung, phạm tội có tổ<br /> chức nói riêng là một quy định bổ sung cho chế định tội phạm. Nó có những đặc thù riêng nên<br /> khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án còn cần phải căn cứ vào những<br /> quy định có tính chất bổ sung.<br /> Từ những phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa quyết định hình phạt trong phạm tội có<br /> tổ chức như sau: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là trường hợp<br /> đặc biệt, được thực hiện bởi Tòa án (Hội đồng xét xử) sau khi xác định tội danh chung mà<br /> những người phạm tội có tổ chức cùng tham gia thực hiện trên cơ sở so sánh, đối chiếu, kiểm<br /> tra để xác định sự giống nhau giữa các dấu hiệu trong hành vi của từng người phạm tội có tổ<br /> chức với các dấu hiệu của CTTP cụ thể do điều luật tương ứng tại Phần các tội phạm BLHS<br /> và cấu thành tội phạm của chế định phạm tội có tổ chức. Khi quyết định hình phạt, Tòa án<br /> phải cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm đặc biệt của phạm tội có tổ chức so với các<br /> trường hợp đồng phạm khác, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người phạm tội<br /> <br /> có tổ chức, nhân thân người phạm tội có tổ chức để quyết định miễn TNHS, miễn hình phạt<br /> hoặc xác định khung hình phạt, quyết định loại và mức hình phạt hay biện pháp tư pháp thay<br /> thế hình phạt cụ thể được quy định trong luật hình sự áp dụng đối với từng người phạm tội có<br /> tổ chức thể hiện trong bản án kết tội đối với họ.<br /> 1.3. Các nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ<br /> chức<br /> 1.3.1. Các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức<br /> Các nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức là những tư<br /> tưởng chủ đạo, cơ bản trong quá trình xây dựng và áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự<br /> để Toà tưởngán căn cứ vào đó quyết định hình phạt một cách công bằng, hợp lý, đúng pháp<br /> luật, đảm bảo mục đích của hình phạt đối với những người phạm tội có tổ chức.<br /> Trên cơ sở phân tích bản chất và các đặc điểm của quyết định hình phạt và nguyên tắc<br /> quyết định hình phạt, chúng tôi cho rằng việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội<br /> có tổ chức phải dựa trên bốn nguyên tắc: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN),<br /> nguyên tắc nhân đạo XHCN, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, nguyên tắc công bằng trong<br /> quyết định hình phạt.<br /> - Nguyên tắc pháp chế XHCN<br /> Nội dung của pháp chế XHCN là sự tuân thủ và tôn trọng triệt để pháp luật của các cơ quan<br /> nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân trong hoạt động, có nghĩa là khi<br /> quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, Tòa án phải căn cứ vào các quy định<br /> của luật hình sự, các quy định liên quan đến hình phạt và quyết định hình phạt trong trường<br /> hợp phạm tội có tổ chức.<br /> Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện trước hết ở việc Tòa án chỉ có thể quyết định<br /> một hình phạt đối với người phạm tội. Ngoài ra, đối với việc quyết định hình phạt trong<br /> trường hợp phạm tội có tổ chức, nguyên tắc pháp chế còn yêu cầu chủ thể quyết định hình<br /> phạt phải chứng minh được sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng cố ý tham gia thực<br /> hiện tội phạm.<br /> Trong luật hình sự, nội dung nguyên tắc pháp chế XHCN khi quyết định hình phạt trong<br /> trường hợp phạm tội có tổ chức được thể hiện trong các quy định không chỉ của Phần chung<br /> mà còn cả các quy định của Phần các tội phạm BLHS.<br /> Nội dung của nguyên tắc pháp chế còn biểu hiện ở chỗ, khi quyết định hình phạt trong<br /> trường hợp phạm tội có tổ chức, Tòa án phải tuân theo trình tự tố tụng nhất định, các điều<br /> kiện áp dụng của từng loại hình phạt cụ thể và đặc biệt Tòa án chỉ có thể tuyên những hình<br /> phạt được quy định trong BLHS.<br /> Mặt khác, nội dung nguyên tắc pháp chế XHCN khi quyết định hình phạt trong trường hợp<br /> phạm tội có tổ chức đòi hỏi các quy định về mục đích hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt<br /> phải được Tòa án triệt để tuân thủ khi quyết định phạt.<br /> - Nguyên tắc nhân đạo XHCN<br /> Nguyên tắc nhân đạo trong quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức<br /> được thể hiện trong các quy định Phần chung và Phần các tội phạm BLHS 1999.<br /> Thực hiện nguyên tắc nhân đạo XHCN khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội<br /> có tổ chức đòi hỏi khi quyết định hình phạt, Tòa án phải xuất phát từ tư tưởng nhân đạo để áp<br /> dụng và tuân thủ triệt để các quy định của luật hình sự về hình phạt cũng như quyết định hình<br /> phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Theo đó, Toà án phải cân nhắc, đánh giá một cách<br /> hài hoà, hợp lý trong một thể thống nhất lợi ích của xã hội của Nhà nước và của người phạm<br /> tội có tổ chức.<br /> Đồng thời, thực hiện nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi hình phạt, các biện pháp tư pháp và các<br /> biện pháp cưỡng chế về hình sự khác được áp dụng đối với người phạm tội nói chung và<br /> người phạm tội có tổ chức nói riêng không nhằm mục đích gây đau đớn về thể xác và hạ thấp<br /> nhân phẩm con người.<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0