Những vấn đề lý luận và thực tiễn về<br />
tuổi chịu trách nhiệm hình sự<br />
theo Luật Hình sự Việt Nam<br />
Theoretical and practical issues of ages bearing criminal responsibility in Vietnam Criminal Law<br />
NXB H. : Khoa Luật, 2012 Số trang 111 tr. +<br />
<br />
Trần Thị Hoàng Lan<br />
Khoa Luật<br />
Luận văn ThS ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40<br />
Người hướng dẫn: GS.TS. Võ Khánh Vinh<br />
Năm bảo vệ: 2012<br />
Abstract: Phân tích các quy định của BLHS năm 1999 về chế định tuổi chịu TNHS trong<br />
sự so sánh với quy định của một số nước trên thế giới, sự ảnh hưởng của lịch sử có dựa<br />
trên các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và đặc điểm tâm-sinh lý của con người trong<br />
từng thời kỳ để từ đó đưa ra một số nhận xét có giá trị tham khảo cho các nhà làm luật Việt<br />
Nam. Đánh giá thực tiễn áp dụng chế định tuổi chịu Trách nhiệm hình sự (TNHS), những<br />
bất cập, vướng mắc và phân tích chúng trên cơ sở lý luận và thực tiễn. Đưa ra giải pháp<br />
khắc phục và kiến giải nhằm hoàn thiện chế định tuổi chịu TNHS trong pháp luật hình sự<br />
Việt Nam trong điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay và những dự báo trong tương lai.<br />
Keywords: Luật hình sự; Trách nhiệm hình sự; Pháp luật Việt Nam; Tội phạm chưa thành<br />
niên<br />
Content<br />
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:<br />
Theo các kết quả nghiên cứu và thống kê mới của tội phạm học cho thấy rằng: tình hình tội<br />
phạm ở nước ta trong những năm gần đây có gia tăng về số lượng, số vụ với tính chất và mức độ<br />
nguy hiểm cho xã hội cao, cũng như sự xuất hiện nhiều loại tội phạm mới trong điều kiện nền<br />
kinh tế thị trường và toàn cầu hóa khu vực và thế giới. Tội phạm xảy ra do các chủ thể trải dài với<br />
nhiều biên độ kéo dài từ thấp đến cao của độ tuổi, nhiều vùng miền khác nhau và ở những người<br />
có trình độ văn hoá khác nhau. Đặc biệt, một vấn đề nóng hổi hiện nay đó là tội phạm do lứa tuổi<br />
chthành viên thực hiện (nói cách khác là hiện tượng “trẻ hóa tội phạm”) trong xã hội ngày một gia<br />
tăng, độ tuổi của người thực hiện hành vi phạm tội ngày càng giảm và ở mức thấp trung bình từ<br />
14 đến 18 tuổi, thậm chí dưới độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) với các hành vi phạm tội<br />
manh động, liều lĩnh, hung bạo và tàn ác, cũng như mức độ gây nguy hiểm cho xã hội đặc biệt<br />
nghiêm trọng.<br />
Theo thống kê trong các báo cáo tổng kết hàng năm của Tòa án nhân dân tối cao cho thấy<br />
con số người chưa thành niên bị xét xử trong thời gian qua như sau: năm 2000 là 3.906 bị cáo,<br />
năm 2001 là 3.441 bị cáo, năm 2002 con số này là 3.139 bị cáo, năm 2003 là 3.994 bị cáo, năm<br />
2004 là 2.540 bị cáo, năm 2005 là 4.599 bị cáo và càng những năm gần đây (2006-2009), con số<br />
<br />
1<br />
<br />
này càng tăng nhanh hơn. Số lượng bị cáo chưa thành niên xét xử hàng năm dao động từ 6,5% đến<br />
6,8% trên tổng số bị cáo. Nếu từ những năm 1990 trở về trước, hành vi phạm tội của người chưa<br />
thành niên thường là những hành vi đơn giản, ít nghiêm trọng, phạm tội do hoàn cảnh, không gây<br />
ảnh hưởng đến trật tự an xã hội, đến cơ cấu gia đình và thuần phong mỹ tục của dân tộc, thì những<br />
năm 1999 trở lại đây, hành vi phạm tội của người chưa thành niên thường là rất nghiêm trọng,<br />
cướp tài sản, hiếp dâm, giết người... Ví dụ, năm 1998, Tòa án nhân dân xử 4.022 bị cáo chưa<br />
thành niên nhưng có đến 114 bị cáo phạm tội cướp tài sản, 183 bị cáo phạm tội hiếp dâm... và đến<br />
năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 con số này tăng lên gần gấp đôi.<br />
Cũng theo số liệu thống kê của Cục cảnh sát điều tra tội phạm hình sự (Bộ Công an), chỉ<br />
riêng trong 5 năm (2000-2005) thực hiện Đề án Đấu tranh phòng chống tội phạm xâm hại trẻ em<br />
và tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên thuộc Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, đã<br />
phát hiện 47.000 vụ phạm pháp hình sự do 64.500 em vị thành niên gây ra; trung bình hàng năm<br />
chiếm 1/4 tổng số vụ phạm pháp hình sự trên toàn quốc. Trong đó đối tượng dưới 14 tuổi chiếm<br />
13%, từ 14 đến 16 tuổi chiếm 34,7%, từ 16 đến 18 tuổi chiếm 52%. Từ năm 2005 đến nay, tình<br />
hình phạm tội ở lứa tuổi thành niên đang có dấu hiệu ngày càng cao hơn, cả về mức độ lẫn sự<br />
nghiêm trọng của các vụ án. Chỉ trong năm 2006, riêng trẻ em dưới 14 tuổi có gần 8.000 vụ vi<br />
phạm pháp luật, chiếm đến 70% tội phạm vị thành niên và năm 2007, 2008 thì trung bình cũng<br />
chiếm hơn 8.100 vụ vi phạm pháp luật. Con số này là một lời cảnh báo về tình trạng trẻ em nhỏ<br />
tuổi phạm tội. Ngoài ra, một vấn đề cũng đáng lo ngại là cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của<br />
đất nước, thời gian gần đây (hầu hết là ở những thành phố lớn, nơi đô thị có điều kiện kinh tế xã<br />
hội phát triển) đã nổi lên tình trạng một số thanh niên, học sinh, sinh viên, độ tuổi từ 14 đến 18, tụ<br />
tập ăn chơi thác loạn hoặc hình thành các băng nhóm tội phạm có tổ chức, tổ chức các vụ đánh<br />
nhau, cướp giật, giết người, sử dụng ma tuý hết sức nghiêm trọng, gây xôn xao dư luận mà các<br />
phương tiện thông tin đại chúng đã thường xuyên đăng tải.<br />
Những con số trên cho thấy tội phạm chưa thành niên diễn biến khá phức tạp, có nhiều<br />
hướng gia tăng và ngày càng nguy hiểm. Đặc biệt, cũng cần chú ý đến hiện tượng phạm tội ở<br />
những người cao tuổi đang tăng dần. Nguyên nhân của những hiện tượng nêu trên bắt nguồn từ<br />
tính chất và đặc biệt của sự phát triển kinh tế - xã hội và theo đó là các điều kiện tương ứng văn<br />
hóa, giáo dục, đạo đức, lối sống. Bên cạnh đó, Việt nam cũng là một nước đang phát triển. Do đó,<br />
ngoài tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật, văn hóa tinh hoa nhân loại nhiều chiều với nhiều<br />
màu sắc, mở rộng giao lưu với các nền văn minh thế giới trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa,<br />
bên cạnh đó là sự tồn tại của nền văn hóa truyền thống với nhiều tư tưởng, tập quán đậm đà bản<br />
sắc dân tộc những cũng không thiếu những hủ tục phong kiến, lạc hậu. Với sự thay đổi diễn ra<br />
trong các quy chuẩn lối sống, đạo đức, giá trị trực tiếp tác động đến cơ chế hành vi, tạo ra tình thế<br />
khi mà trong cùng một môi trường nhưng đa số thì tuân theo pháp luật, nhưng một số người đã vi<br />
phạm pháp luật và phạm tội. Cộng hưởng với các vấn đề này còn là sự thiếu ý thức của con người,<br />
một số yếu kém trong giáo dục, đào tạo, sự đua đòi theo nếp sống phương Tây không lành mạnh,<br />
<br />
2<br />
<br />
sự sa sút đạo đức con người, sự thiếu vắng tình cảm gia đình, con người chạy theo sức hút đồng tiền<br />
và đặc biệt là hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, không đủ sức mạnh để hướng con người theo những<br />
chuẩn mực và giá trị chung.<br />
Vấn đề trẻ hóa độ tuổi phạm tội cũng như hiện tượng phạm tội ở những người cao tuổi đặt<br />
ra cho nhiều ngành khoa học (tâm lý - xã hội học, luật tố tụng hình sự… ) đặc biệt là luật hình sự<br />
nên chăng có sự điều chỉnh về độ tuổi chịu TNHS khi độ tuổi của những người thực hiện hành vi<br />
phạm tội ngày càng thấp hoặc là quá cao so với trước đây. Hơn nữa, thực tiễn áp dụng Bộ luật hình<br />
sự (BLHS) năm 1999 cho thấy việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự (PLHS) về độ tuổi<br />
chịu TNHS còn nhiều bất cập, tồn tại và dẫn đến vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Công việc<br />
xác định tuổi của bị can, bị cáo cũng như người bị hại còn nhiều khó khăn. Hiện nay, chưa có văn<br />
bản cụ thể nào hướng dẫn chi tiết về việc xác định tuổi và áp dụng các quy định về tuổi đối với<br />
người phạm tội. Ngoài ra, trong xã hội thực trạng làm giả giấy tờ, giấy tờ không thống nhất hoặc<br />
không có giấy tờ để xác minh tuổi của người phạm tội ngày càng phổ biến với nhiều lý do khác<br />
nhau, làm cho công tác điều tra, truy tố và xét xử gặp nhiều khó khăn, đặc biệt đối với những trường<br />
hợp người phạm tội là người chưa thành niên. Đặc biệt, việc áp dụng tuổi chịu TNHS ở nhiều nơi, ở<br />
từng thời kỳ còn chưa thật thống nhất. Ngoài ra, điều kiện kinh tế mỗi vùng miền ở mỗi thời điểm là<br />
khác nhau, do đó không thể giống nhau. BLHS năm 1999 quy định có phần sơ sài về tuổi chịu TNHS,<br />
đồng nhất mọi cá thể ở các điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau trong cùng một độ tuổi, nhất là chủ thể<br />
đặc biệt với dấu hiệu độ tuổi chịu TNHS còn thiếu quy phạm trong Phần chung của Bộ luật hay định<br />
nghĩa lập pháp về tuổi và độ tuổi, về căn cứ xác định tuổi của người phạm tội dẫn đến việc hiểu và áp<br />
dụng chưa thống nhất đòi hỏi cần phải hoàn thiện về mặt lập pháp.<br />
Một vấn đề nữa đó là loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người cao tuổi chưa được đề cập đến<br />
trong Bộ luật. Khía cạnh này chỉ được đề cập đến như một tình tiết (dấu hiệu) miễn giảm TNHS hoặc<br />
hình phạt. Nếu đến một độ tuổi nhất định con người mới có khả năng nhận thức về điều khiển được<br />
hành vi của mình, thì theo thời gian đến một độ tuổi nhất định, sự già yếu và bệnh tật, sẽ làm giảm đi<br />
trí nhớ, sự minh mẫn, khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi đó. Do đó, nên chăng việc quy<br />
định độ tuổi tối đa phải chịu TNHS (ví dụ như BLHS của Liên bang Nga có điều chỉnh vấn đề này,<br />
không áp dụng hình phạt tử hình đối với người già từ 65 tuổi trở lên).<br />
Do đó, từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Những<br />
vấn đề lý luận và thực tiễn về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam” làm<br />
đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.<br />
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:<br />
Cho tới thời điểm này, chế định tuổi chịu TNHS, mặc dù là một trong những chế định<br />
quan trọng trong BLHS, những vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đáng kể. Đề tài này<br />
chủ yếu được đề cập đến như một phần nhỏ trong các bài viết, khóa luận, luận văn về tội phạm và<br />
cấu thành tội phạm, chủ thể của tội phạm hay nhân thân người phạm tội, hoặc trong các công trình<br />
<br />
3<br />
<br />
nghiên cứu về người chưa thành niên phạm tội. Các nghiên cứu khoa học khác cũng rất ít đề cập<br />
đến việc nghiên cứu về tuổi hay cách xác định tuổi của con người trong mối quan hệ với TNHS.<br />
Tuy nhiên, cũng có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: 1) Sách chuyên khảo<br />
Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung) của GS.TSKH. Lê<br />
Văn Cảm, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2)Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (sửa đổi và<br />
bổ sung) của GS.TS. Võ Khánh Vinh, NXB Công an nhân dân; 3) Bình luận khoa học Bộ luật<br />
hình sự 1999 – Phần chung, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2000 của ThS. Đinh Văn Quế; 4) Tội<br />
phạm và cấu thành tội phạm, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2006 của GS.TS. Nguyễn Ngọc<br />
Hòa; 5) Luận văn thạc sĩ luật học “Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả<br />
Lê Đăng Doanh, Trường đại học Luật Hà Nội, 1999…<br />
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí có liên quan đến tuổi chịu TNHS, ví<br />
dụ như: Nhân thân người phạm tội với việc quyết định hình phạt của tác giả Nguyễn Thị Thanh<br />
Thuỷ; bài về Xác định tuổi của người chưa thành niên như thế nào cho đúng? của tác giả Lưu<br />
Đình Nghĩa; Nhân thân người phạm tội - Một số vấn đề lý luận cơ bản của TSKH. PGS. Lê Cảm;<br />
Tiếp tục hoàn thiện những quy định của BLHS trước yêu cầu mới của đất nước của tác giả Trịnh<br />
Tiến Việt… đã được đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân và Tạp chí Kiểm sát.<br />
3. Nhiệm vụ của luận văn<br />
Tuổi chịu TNHS là một trong những dấu hiệu quan trọng thuộc chủ thể của tội phạm của<br />
cấu thành tội phạm và là đặc điểm thiết yếu thuộc về nhân thân người phạm tội. Nghiên cứu tuổi<br />
chịu TNHS có ý nghĩa to lớn trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, dựa trên đặc điểm về<br />
tâm lý độ tuổi.<br />
Tuổi của người phạm tội là dấu hiệu cho phép xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho<br />
xã hội của tội phạm, ảnh hưởng của độ tuổi đến việc thực hiện tội phạm, mà nó còn là dấu hiệu<br />
mang tính chất pháp lý có ý nghĩa quan trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Tuổi<br />
chịu TNHS là vấn đề vô cùng quan trọng khi người phạm tội là người chưa thành niên, nó liên<br />
quan đến vấn đề có TNHS hay không. Vì vậy, khi nghiên cứu về chế định này, cần phải giải quyết<br />
được một số vấn đề sau:<br />
1) Phân tích các quy định của BLHS năm 1999 về chế định tuổi chịu TNHS trong sự so<br />
sánh với quy định của một số nước trên thế giới, sự ảnh hưởng của lịch sử có dựa trên các điều<br />
kiện phát triển kinh tế - xã hội và đặc điểm tâm-sinh lý của con người trong từng thời kỳ để từ đó<br />
đưa ra một số nhận xét có giá trị tham khảo cho các nhà làm luật Việt Nam.<br />
2) Đánh giá thực tiễn áp dụng chế định tuổi chịu TNHS, những bất cập, vướng mắc và<br />
phân tích chúng trên cơ sở lý luận và thực tiễn.<br />
3) Đưa ra giải pháp khắc phục và kiến giải nhằm hoàn thiện chế định tuổi chịu TNHS<br />
trong pháp luật hình sự Việt Nam trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay và những dự báo trong<br />
tương lai.<br />
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn.<br />
<br />
4<br />
<br />
Đề tài này dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ<br />
trương chính sách của Đảng và Nhà nước với phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật lịch<br />
sử và phép biện chứng duy vật.<br />
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học luật hình sự, luật<br />
tố tụng hình sự và tội phạm học như: phương pháp so sánh luật học, phương pháp đối chiếu,<br />
phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê hình sự để tổng<br />
hợp các tri thức khoa học luật và những vấn đề cần nghiên cứu.<br />
5. Ý nghĩa khoa học - thực tiễn của luận văn<br />
Luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng thể hiện ở chỗ đây sẽ là đề tài đề cập<br />
tương đối đầy đủ và tương đối hệ thống đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học phân tích và<br />
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tuổi chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam.<br />
Bên cạnh đó, luận văn còn phân tích chế định tuổi chịu TNHS trong sự so sánh với quy<br />
định của một số nước trên thế giới, sự ảnh hưởng của lịch sử có dựa trên các điều kiện phát triển<br />
kinh tế - xã hội và đặc điểm tâm sinh lý của con người qua từng thời kỳ. Đồng thời, đánh giá tiễn<br />
áp dụng chế định tuổi chịu TNHS, những bất cập, vướng mắc và phân tích chúng qua các vụ án cụ<br />
thể. Từ đó, luận văn đưa ra giải pháp khắc phục và kiến giải nhằm hoàn thiện chế định tuổi chịu<br />
TNHS trong pháp luật hình sự Việt Nam dưới góc độ lập pháp hình sự và thực tiễn áp dụng.<br />
Luận văn có giá trị là tư liệu tham khảo cho các nhà lập pháp-hoạch định chính sách, các<br />
nhà tâm lý-xã hội học, các nhà khoa học-thực tiễn, sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh<br />
chuyên ngành luật hình sự<br />
6. Kết cấu của luận văn<br />
Ngoài phần Mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm ba chương<br />
chính với nội dung:<br />
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam<br />
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong hoạt động áp<br />
dụng pháp luật hình sự ở Việt Nam trong thời gian qua<br />
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong pháp luật<br />
hình sự Việt Nam.<br />
CHƢƠNG 1<br />
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG<br />
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM<br />
1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của tuổi chịu TNHS<br />
1.1.1. Khái niệm tuổi chịu TNHS<br />
Theo Đại từ điển Tiếng Việt – NXB Văn hóa thông tin năm 1998 tr.1750 thì tuổi là: “Năm,<br />
dùng làm đơn vị tính thời gian sống của người, là khoảng thời gian từ khi sinh ra đến thời điểm<br />
xác định nào đó”.<br />
<br />
5<br />
<br />