Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam
lượt xem 6
download
Mục đích của việc nghiên cứu là nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm xã hội trong bối cảnh kinh tế phát triển đáp ứng xu thế cách mạng công nghiệp 4.0.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam
- ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT NGUYỄN HOÀNG PHÚ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 838 0107 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC THỪA THIÊN HUẾ, năm 2020
- C«ng tr×nh ®-îc hoµn thµnh t¹i Trường Đại học Luật - Đại học Huế Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS.TS Ngô Thị Hường Ph¶n biÖn 1: TS Đào Mộng Điệp Ph¶n biÖn 2: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên LuËn văn sÏ ®-îc b¶o vÖ tr-íc Héi ®ång chÊm luËn văn th¹c sÜ häp t¹i: Trường Đại học Luật...............giê..............ngµy................th¸ng ............. n¨m..............
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 1.Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 1 2.Tình hình nghiên cứu của đề tài ......................................................................... 1 3.Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ...................................... 3 4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 3 5.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 3 6.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn............................................................................ 4 7.Bố cục của luận văn ........................................................................................... 4 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP ....................................................... 5 1.1. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp .................... 5 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ................... 5 1.1.1.1. Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ..................................... 5 1.1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ...................................... 6 1.1.2. Các loại trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ........................................... 6 1.1.2.1. Khía cạnh kinh tế...................................................................................... 6 1.1.2.2. Khía cạnh pháp lý..................................................................................... 7 1.1.2.3. Khía cạnh đạo đức và nhân văn ............................................................... 7 1.1.3. Cơ chế thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ................................ 7 1.1.4. Tiêu chuẩn và công cụ quản lí trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp .............. 8 1.1.5. Ý nghĩa của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ............. 8 1.1.5.1. Đối với doanh nghiệp ............................................................................... 8 1.1.5.2. Đối với người lao động ............................................................................ 9 1.1.5.3. Đối với người tiêu dùng và toàn xã hội ................................................... 9 1.2. Khái quát pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ....................... 9 1.2.1. Khái niệm pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp .................. 9 1.2.2. Pháp luật quốc gia về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp........................... 10 1.2.3. Pháp luật quốc tế về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp............................. 12 Kết luận chương 1 ............................................................................................... 13 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI VIỆT NAM 14 2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ................... 14 2.1.1. Quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lao động và an sinh xã hội ......................................................................................... 14 2.1.2. Quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ...................................................................... 15 2.1.3. Quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ................................................................................... 15 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ................ 15 2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp........................................................................................... 15
- 2.2.2. Những hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ....................................................................................................... 16 2.2.2.1. Hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lao động và an sinh xã hội.............................................................. 16 2.2.2.2. Hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ...................................................................................................... 17 2.2.2.3. Hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ..................................................................................................................... 17 2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ........................................................................... 18 Kết luận chương 2 ............................................................................................... 18 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP .................................................................................... 20 3.1. Định hướng và mục tiêu hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ....................................................................................................... 20 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ... 20 3.2.1. Giải pháp chung hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ....................................................................................................... 20 3.2.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lao động và an sinh xã hội.............................................................. 20 3.2.3. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ..................................... 21 3.2.4. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .................................................. 21 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ....................................................................................................... 21 3.3.1. Giải pháp chung nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ........................................................................................... 21 3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lao động và an sinh xã hội ................................................... 21 3.3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững .......................... 22 3.3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng........................................ 22 Kết luận chương 3 ............................................................................................... 22 PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................ 23 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 23
- PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Trách nhiệm xã hội ngày nay là một vấn đề mang tính toàn cầu và hiện đã và đang là một phần của “luật chơi” trong nền kinh tế thế giới. Trên thế giới, các sản phẩm được tiêu chuẩn hóa không chỉ về chất lượng mà còn cả về khía cạnh xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội cũng đang trở thành một trong những điều kiện trong buôn bán thương mại. Các doanh nghiệp buộc phải tham gia và họ cần phải nỗ lực đầu tư, nỗ lực cải tiến, nỗ lực chứng minh, các tiêu chuẩn lao động và môi trường. Thực tiễn cũng đã cho thấy, trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu, CSR đã trở thành một trong những yêu cầu đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nếu doanh nghiệp nào đó không tuân thủ CSR sẽ không thể tiếp cận được với thị trường thế giới… Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, khái niệm CSR còn tương đối mới ở Việt Nam, vì vậy, cho đến nay, việc thực hiện nó vẫn còn hạn chế. Theo nghiên cứu mới đây của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, rào cản và thách thức cho việc thực hiện CSR bao gồm: 1) Nhận thức về khái niệm CSR còn hạn chế; 2) Năng suất bị ảnh hưởng khi phải thực hiện đồng thời nhiều bộ quy tắc ứng xử COC (Code of Conduct); 3) Thiếu nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực CSR (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa); 4) Sự nhầm lẫn do khác biệt giữa qui định của CSR và Bộ luật Lao động; 5) Những quy định trong nước ảnh hưởng tới việc thực hiện các COC. Trong những vấn đề trên thì vấn đề quy định của pháp luật là vấn đề xương sống, xuyên suốt cả quá trình thực hiện, tuy nhiên tính pháp lý của việc đánh giá thực hiện CSR ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập. Chính vì vậy, cần thiết phải có sự phân tích, rà soát pháp luật ở Việt Nam. Cụ thể là về bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu dùng, chế độ xã hội cho người lao động,… để xác định rõ các nội dung khác biệt, các quy định chưa hợp lý và từ đó có sự điều chỉnh các quy định pháp luật Việt Nam nhằm bảo đảm vừa tăng lợi ích cho người lao động, người tiêu dùng, doanh nghiệp và toàn xã hội,... Chính điều này sẽ góp phần tận dụng những tiềm năng sẵn có để nâng cao giá trị, tăng năng suất và phát triển bền vững.Với lý do đó, tác giả chọn đề tài “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. 2.Tình hình nghiên cứu của đề tài Việt Nam là một nước đang phát triển, năng lực cạnh tranh còn thấp, khả năng tiếp cận thị trường hạn chế, cho nên để có thể phát triển bền vững và hội nhập hiệu quả, cần thiết phải đánh giá đúng vị trí quan trọng CSR. Việc thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nhiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế, buộc chúng ta phải thiết lập và vận hành cơ chế thực thi sao cho tương thích với các chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, bởi các quy định trong pháp luật ở Việt Nam chưa thống nhất và có tính ràng buộc đối với các bên nên vẫn còn để xảy ra nhiều vụ việc ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng, người lao động và ngay cả chính bản thân doanh nghiệp; chưa đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của nền kinh 1
- tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từ năm 2013 đến nay ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, tuy nhiên đa số các nghiên cứu đều thuộc lĩnh vực triết học và kinh tế, có rất ít nghiên cứu chú trọng về vấn đề pháp lý, có thể kể ra các công trình nghiên cứu như: - Bài viết trên Tạp chí Khoa học xã hội về “Trách nhiệm xã hội của các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể đối với người lao động: Nghiên cứu trường hợp ở thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thị Minh Châu năm 2013. - Luận văn Kinh tế “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp –CSR: Một số vấn đề lý luận và yêu cầu đổi mới trong quản lý Nhà nước đối với CSR ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức năm 2013. - Luận văn Triết học “Trách nhiệm xã hội của Doanh nghiệp ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách” của Phạm Văn Đức năm 2014. - Sách chuyên khảo “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội của Nguyễn Ngọc Thắng năm 2015. - Luận án Tiến sĩ Triết học “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Kim Chi năm 2016. - Luận văn Triết học “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” của Phạm Thị Mai Linh năm 2017. Những công trình nghiên cứu này đã làm rõ tính tất yếu của việc thực hiện TNXH của DN, đồng thời trình bày khái quát các vấn đề lý luận cơ bản về TNXH của DN trên nhiều khía cạnh. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đưa ra những phân tích, đánh giá về thực trạng nhưng chỉ mới ở góc độ kinh tế, xã hội, triết học. Có rất ít những nghiên cứu ở khía cạnh Luật học, có thể kể ra như: - Luận văn Thạc sĩ Luật học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội của Nguyễn Kim Anh Đào năm 2016 về “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Trong luận văn này, tác giả đã hệ thống những vấn đề lý luận về Trách nhiệm xã hội của DN thông qua việc tìm hiểu về nguyên tắc, căn cứ hình thành pháp luật điều chỉnh Trách nhiệm xã hội của DN, đồng thời đánh giá thực trạng của pháp luật Việt Nam về Trách nhiệm xã hội của DN và tình hình thực hiện thực tế tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó đưa ra những hạn chế, bất cập của pháp luật và nêu lên các ý kiến nhắm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về Trách nhiệm xã hội của DN. Tuy vậy, luận văn chỉ mới đi sâu nghiên cứu về TNXH của DN ở hai khía cạnh là pháp luật về lao động và bảo vệ môi trường và thực tiễn thực hiện ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Có thể nhận xét rằng: Hiện nay vẫn còn rất ít công trình khoa học nghiên cứu toàn diện và đánh giá thực trạng việc thực hiện, đồng thời đưa ra các giải pháp để góp phần hoàn thiện quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo pháp luật ở Việt Nam. Vì vậy có thể nói đề tài: “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam” là đề tài nghiên cứu có tính mới và hết sức cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. 2
- 3.Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 3.1.Phương pháp luận nghiên cứu Để nghiên cứu các vấn đề nêu ra trong đề tài và giải quyết các vấn đề này, phép biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được sử dụng với tư cách là phương pháp luận cho việc nghiên cứu. 3.2.Phương pháp nghiên cứu Tác giả chủ yếu vận dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết để thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có và bằng các thao tác tư duy logic để rút ra kết luận khoa học cần thiết, trong đó: - Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết được sử dụng để nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về các quy định của pháp luật về CSR ở trong từng bộ luật, luật, nghị định,… Sau đó tổng hợp, liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được phân tích tạo ra một hệ thống lý luận mới đầy đủ và sâu sắc về CSR. Bên cạnh đó, với việc sử dụng phương pháp này, luận văn chỉ ra một số điểm chưa hợp lý, thiếu thống nhất trong các quy định về CSR của pháp luật Việt Nam so với pháp luật các nước trên Thế giới. - Phương pháp lịch sử được áp dụng trong việc nghiên cứu bằng cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển CSR trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của đất nước từ đó rút ra bản chất, tính phù hợp, vai trò và ý nghĩa của các quy định. - Ngoài ra, những phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế, xã hội với từng vấn đề của đề tài cũng được vận dụng như: so sánh, thống kê, đối chiếu, diễn giải, quy nạp...để nghiên cứu về thực trạng pháp luật về thực hiện CSR ở Việt Nam và tham khảo các quy định pháp luật về CSR của các nước trên thế giới. 4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1.Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo pháp luật ở Việt Nam. 4.2.Phạm vi nghiên cứu - Về thời gian: Từ năm 2013 cho đến nay. - Về không gian: Tập trung nghiên cứu, rà soát về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo pháp luật ở Việt Nam. Các nội dung về CSR bao gồm nhiều lĩnh vực. Trong giới hạn nghiên cứu, luận văn này chỉ nêu lên các quy định CSR về lao động, bảo vệ môi trường và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. - Về địa bàn: Trên phạm vi nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 5.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5.1.Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu là nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm xã hội trong bối cảnh kinh tế phát triển đáp ứng xu thế cách mạng công nghiệp 4.0. 3
- 5.2.Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn làm rõ và giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau: 1) Nguyên cứu những vấn đề lý luận trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 2) Làm rõ các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp của pháp luật Việt Nam và quy định của các nước trên thế giới 3) Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam 4) Đề xuất kiến nghị và giải pháp cụ thể góp phần tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong thời gian tới. 6.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Luận văn có một số đóng góp mới về lý luận và thực tiễn như sau: Thứ nhất: Nghiên cứu một cách toàn diện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo pháp luật ở Việt Nam. Thứ hai: Rà soát các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp để chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế của pháp luật. Đồng thời, trên cơ sở phân tích thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp để nêu rõ những thuận lợi, khó khăn trong việc thực thi các quy định của pháp luật. Thứ ba: Luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về TNXH của DN nhằm phát huy những lợi thế và hạn chế những vấn đề như: Lao động và an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu dùng. Đồng thời, Luận văn đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về TNXH của DN. 7.Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. 4
- CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP 1.1. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 1.1.1.1. Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Khái niệm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility, viết tắt là CSR) được hình thành trên toàn thế giới khoảng 60 năm trước đây. Trước giai đoạn này, có các tiêu chuẩn khác nhau và quy định trong các lĩnh vực quản trị công ty, đạo đức công ty và mối quan hệ với đối thủ cạnh tranh, trách nhiệm đối với xã hội và đất nước. Các quy tắc và tiêu chuẩn chính sách xã hội chưa được phát triển vì đã sử dụng cách tiếp cận "ngẫu nhiên". Tuy nhiên, từ cuối những năm 60 - 70, các doanh nghiệp hàng đầu của Mỹ và châu Âu đã bắt đầu tìm hiểu sự cần thiết phải thống nhất các yếu tố khác nhau của chính sách doanh nghiệp liên quan đến mối quan hệ của công ty với môi trường và phát triển một tích hợp đơn lẻ tiếp cận tương tác với xã hội. Một chính sách như vậy nhằm hướng doanh nghiệp phải gắn liền với triết lý, phương thức hoạt động, chiến lược tiếp thị, phải đáp ứng được kỳ vọng của xã hội. Đã có nhiều cách định nghĩa của các học giả khác nhau về CSR. Chẳng hạn, ngay từ năm 1973, Keith Davis đã đưa ra một khái niệm khá rộng: “CSR là sự quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp với các vấn đề vượt ra ngoài việc thoả mãn những yêu cầu pháp lý, kinh tế, công nghệ”. Trong khi đó, Archie Carroll (1999) còn cho rằng, CSR có phạm vi rộng lớn hơn: “CRS bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định”. Matten và Moon (2004) lại cho rằng, “CSR là một khái niệm chùm, bao gồm nhiều khái niệm khác nhau, như đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp là từ thiện, công dân doanh nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi trường. Đó là một khái niệm động và luôn được thử thách trong từng bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù”… Trong khi đó, theo Hội đồng Doanh nghiệp thế giới vì sự phát triển bền vững, "CRS là sự cam kết trong việc ứng xử hợp đạo lý và đóng góp vào sự phát triển kinh tế, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc sống của lực lượng lao động và gia đình họ, cũng như của cộng đồng địa phương và của toàn xã hội nói chung”… Hay gần đây, theo Nhóm Phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng Thế giới (WB), “CRS là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những việc làm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên trong gia đình họ; cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”1. Có thể khái quát rằng: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) là sự tự nguyện của doanh nghiệp cam kết thực hiện tốt các vấn đề về lao động, môi trường và hoạt động kinh doanh trên cơ sở tuân thủ các luật pháp quốc gia, 1 Trần Anh Phương (2017), “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thực tiễn vận dụng ở Việt Nam hiện nay”, http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Chinh-tri-Xa-hoi/Trach-nhiem-xa-hoi-cua-doanh- nghiep-va-thuc-tien-van-dung-o-Viet-Nam-hien-nay-688.html, Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2019. 5
- thông lệ quốc tế và đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên đồng thời góp phần phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia một cách bền vững. Cần phân biệt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với việc làm từ thiện của doanh nghiệp và với doanh nghiệp xã hội. Làm từ thiện là hoạt động mang tính tự nguyện, tự giác, độc lập. Quyền thực hiện cũng như mức độ ủng hộ thuộc quyền của chủ thể thực hiện. Doanh nghiệp có thể tự mình trực tiếp thực hiện, cũng có thể thông qua một tổ chức hội đoàn có liên quan như mặt trận, hội chữ thập đỏ, hiệp hội ngành nghề… Doanh nghiệp xã hội được hình thành từ các sáng kiến xã hội, trên nền tảng nhu cầu giải quyết một vấn đề xã hội cụ thể của cộng đồng, được dẫn dắt bởi tinh thần doanh nhân của những người sáng lập. Doanh nghiệp xã hội là một mô hình kinh doanh, đem lại lợi nhuận, bề ngoài như các doanh nghiệp truyền thống khác, chỉ yêu cầu một điều kiện duy nhất là đặt sứ mệnh xã hội ở vị trí trung tâm, trong khi mục tiêu lợi nhuận đóng vai trò hỗ trợ. Một cách định nghĩa khác theo nghĩa rộng cũngcho rằng: “Doanh nghiệp xã hội hoạt động như mọi doanh nghiệp nhưng việc quản lý và sử dụng lợi nhuận đều hướng vào các mụctiêu xã hội và môi trường”. Có thể thấy, đối với các doanh nghiệp truyền thống, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, còn trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp chỉ là một chính sách, sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua các hoạt động cụ thể. Doanh nghiệp chỉ trích ra một phần rất nhỏ lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh để thực hiện trách nhiệm xã hội của mình. 1.1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Thứ nhất, trách nhiệm xã hội phải xuất phát từ bên trong doanh nghiệp. Thứ hai, trách nhiệm xã hội của các DN chính là sự tự nguyện, tự giác của các DN thực hiện trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh làm sao có được lợi ích cho DN của mình, cho xã hội, nhưng phải đảm bảo sự phát triển bền vững vì mục tiêu kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Thứ ba, trách nhiệm xã hội DN đang được xem như một trong những chiến lược kinh doanh hàng đầu của DN hơn là những quy định hay từ thiện mang tính bắt buộc. 1.1.2. Các loại trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 1.1.2.1. Khía cạnh kinh tế Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần và muốn với một mức giá có thể duy trì doanh nghiệp ấy và làm thỏa mãn nghĩa vụ của doanh nghiệp với các nhà đầu tư; là tìm kiếm nguồn cung ứng lao động, phát hiện những nguồn tài nguyên mới, thúc đẩy tiến bộ công nghệ, phát triển sản phẩm; là phân phối các nguồn sản xuất như hàng hoá và dịch vụ như thế nào trong hệ thống xã hội. Trong khi thực hiện các công việc này, các doanh nghiệp thực sự góp phần vào tăng thêm phúc lợi cho xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là cơ sở cho các hoạt động của doanh nghiệp và phần lớn các nghĩa vụ kinh tế trong kinh doanh đều được thể chế hoá thành các nghĩa vụ pháp lý. 6
- 1.1.2.2. Khía cạnh pháp lý Khía cạnh pháp lý trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ những quy định về pháp lý chính thức đối với các bên hữu quan. Những điều luật như thế này sẽ điều tiết được cạnh tranh, bảo vệ khách hàng, bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự công bằng và an toàn và cung cấp những sáng kiến chống lại những hành vi sai trái. Các nghĩa vụ pháp lý được thể hiện trong luật dân sự và hình sự. Về cơ bản, nghĩa vụ pháp lý bao gồm năm khía cạnh: (i)Điều tiết cạnh tranh; (ii)Bảo vệ người tiêu dùng; (iii)Bảo vệ môi trường; (iv)An toàn và bình đẳng; (v)Khuyến khích phát hiện và ngăn chặn hành vi sai trái. Thông qua trách nhiệm pháp lý, xã hội buộc các thành viên phải thực thi các hành vi được chấp nhận. Các tổ chức không thể tồn tại lâu dài nếu họ không thực hiện trách nhiệm pháp lý của mình 1.1.2.3. Khía cạnh đạo đức và nhân văn Khía cạnh đạo đức trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là những hành vi và hoạt động mà xã hội mong đợi ở doanh nghiệp nhưng không được quy định trong hệ thống luật pháp, không được thể chế hóa thành luật. Dưới khía cạnh nhân văn: Nhiều lãnh đạo của doanh nghiệp cho rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là tham gia vào các chương trình trợ giúp các đối tượng xã hội như hỗ trợ người tàn tật, trẻ em mồ côi, xây dựng nhà tình nghĩa, ủng hộ đồng bào lũ lụt và thiên tai... Điều đó là đúng nhưng hoàn toàn chưa đủ, mặc dù các hoạt động xã hội là một phần quan trọng trong trách nhiệm của một công ty. 1.1.3. Cơ chế thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp - Bảo đảm bằng pháp luật: Trong từng lĩnh vực pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa DN với các chủ thể khác trong xã hội đều có các quy định về các hành vi cam kết tự nguyện của DN và DN chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện theo các cam kết này. Ví dụ như cam kết về việc sử dụng một phần lợi nhuận vào các hoạt động CSR được ghi nhận trong điều lệ DN hoặc điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thể hiện các vấn đề CSR cụ thể về môi trường hay lao động hay việc DN công khai hứa thưởng, tài trợ cho các hoạt động CSR thì có giá trị ràng buộc bởi pháp luật. - Cơ chế tự thân của Doanh nghiệp: Cơ chế nội bộ của DN cũng góp phần ràng buộc DN thực hiện các cam kết tự nguyện của mình. Sự ràng buộc thể hiện thể ba nội dung: Một là điều lệ và quy chế hoạt động Hai là chế độ báo cáo Ba là quảng cáo và Marketing - Vai trò của các tổ chức phi nhà nước: Các tổ chức quốc tế và phi chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc đề xuất các tiêu chí thực hành CSR, đánh giá báo cáo cũng như thúc đẩy việc thực hiện CSR ở DN. Ngoài ra một số tổ chức xã hội dân sự trong nước đại diện cho các bên hữu quan để thương lượng và giám sát DN thực hiện các cam kết. 7
- 1.1.4. Tiêu chuẩn và công cụ quản lí trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người lao động và đối với môi trường chẳng qua chỉ là những vấn đề chất lượng tương tự như chất lượng sản phẩm mà các doanh nghiệp đã quen thuộc, đó là: chất lượng lao động và chất lượng đời sống. Ở những nước châu Âu, người ta có khái niệm QSE (quality safety environment, chất lượng – an toàn lao động – môi trường). Mục đích là mở rộng chính sách quản lý doanh nghiệp vượt khỏi khái niệm chất lượng để bao hàm thêm trách nhiệm xã hội, mở rộng sổ tay chất lượng (Quality Manual) thành sổ tay QSE (QSE Manual) và chứng nhận doanh nghiệp cùng một lúc theo cả ba tiêu chuẩn chất lượng, an toàn lao động và môi trường. Thực hiện đầy đủ cùng lúc ba chính sách này sẽ có thêm hiệu ứng hỗ trợ và giảm chi phí so với thực hiện riêng lẻ mỗi chính sách. Các tiêu chuẩn và công cụ về chất lượng và môi trường cũng rất quen thuộc. ISO (International Organization for Standardization, Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế) đã công bố bộ tiêu chuẩn ISO 9000 về hệ thống quản lý chất lượng và ISO 14000 về hệ thống quản lý môi trường. Hai tiểu ban của ISO chuyên về các bộ tiêu chuẩn này đã thống nhất những phương pháp thực hành tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp thiết lập một chính sách toàn bộ chung cho cả hai hệ thống quản lý chất lượng và môi trường. Còn về khía cạnh quản lý nhân lực, vấn đề này phức tạp vì không phải là một vấn đề kỹ thuật. Mỗi quốc gia có quan niệm khác nhau: (i) an toàn lao động là trách nhiệm cá nhân hay là trách nhiệm tập thể, (ii) quyền lợi tối thiểu của người lao động về nhân phẩm và tính dân chủ do phía thuê lao động tự nguyện ban cho hay phải theo quy định của nhà nước và thương lượng tập thể. Có thể liệt kê những tiêu chuẩn có thể dùng làm cơ sở để chứng nhận một doanh nghiệp: Các tiêu chuẩn của ILO (International Labor Organization, Tổ chức Lao động quốc tế), ISO 9001 về hệ thống quản lý chất lượng, ISO 14001 về hệ thống quản lý môi trường, OHSAS 8001 về an toàn lao động, và SA 8000 về quản lý nhân sự. Ngoài ra có một số tài liệu hướng dẫn cách trình bày một báo cáo về trách nhiệm xã hội như là GRI (Global Reporting Initiative, khởi đầu báo cáo toàn diện) hay AA 1000 Asurance Standard của ISEA (Institute of Social and Ethical Accountability, Viện Trách nhiệm xã hội và đạo đức). 1.1.5. Ý nghĩa của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 1.1.5.1. Đối với doanh nghiệp Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp có vai trò mấu chốt đối với quá trình phát triển của doanh nghiệp bởi vì các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đang trở thành một trong những điều kiện trong buôn bán thương mại. Có thể nói, lợi ích của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là rất nhiều. Xét riêng khía cạnh lợi ích mang lại cho doanh nghiệp đó là: giúp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; cải thiện quan hệ lao động; tạo dựng uy tín và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp; tăng cơ hội tiếp cận nhiều thị trường mới cũng như chiếm ưu thế trong kêu gọi đầu tư (đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài) nhằm phát triển doanh nghiệp bền vững. 8
- Doanh nghiệp ý thức được và thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tức là họ đang tự bảo vệ mình khi có những bất trắc xảy ra. Với tư cách là doanh nghiệp làm ăn liêm chính và có nhiều việc làm tích cực đối với môi trường, cộng đồng và xã hội, thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đó chắc chắn sẽ tạo nên sự khác biệt, tạo nên vị thế độc tôn cho doanh nghiệp để vượt qua nhiều đối thủ cạnh tranh.Các DN cần thực hiện trách nhiệm xã hội để tìm và duy trì chỗ đứng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.Hay nói cách khác, thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp chính là “giấy thông hành” đi vào thị trường thế giới của doanh nghiệp. 1.1.5.2. Đối với người lao động Mong muốn mà doanh nghiệp hướng đến khi thực hiện trách nhiệm xã hội là nâng cao sự trung thành của nhân viên, giữ chân được lực lượng lao động giỏi, thu hút được nhân tài. Doanh nghiệp ý thức được và thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tức là họ đang tự bảo vệ mình khi có những bất trắc xảy ra. Điều này sẽ góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn, tạo ra môi trường làm việc tốt hơn cho người lao động. Với những chế độ ưu đãi tốt hơn thì người lao động trong doanh nghiệp sẽ có tâm lý hài lòng hơn và muốn gắn bó, cống hiến lâu dài hơn. Doanh nghiệp càng phát triển nhanh và bền vững thì người lao động càng được hưởng lợi. 1.1.5.3. Đối với người tiêu dùng và toàn xã hội Một doanh nghiệp phát triển bền vững không chỉ là mỗi năm tạo ra doanh thu bao nhiêu, lợi nhuận thu về như thế nào, nộp ngân sách bao nhiêu, hay tạo ra bao nhiêu công ăn việc làm, bởi đó chỉ là điều kiện cần cho sự phát triển. Điều kiện đủ cho sự phát triển bền vững vẫn phải đánh giá đến yếu tố phi tài chính, trong đó bao hàm trách nhiệm xã hội, tức là đóng góp cho sự phát triển xã hội. Hoạt động trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không còn chỉ là các hoạt động từ thiện, mà nó đã được nâng lên thành một yếu tố cấu thành cho sự phát triển bền vững. Mỗi doanh nghiệp muốn phát triển bền vững phải nhận thức được rằng họ có trách nhiệm với xã hội trong toàn bộ tác động của họ với môi trường xã hội, môi trường tự nhiên và tuân thủ pháp lý, đó là những chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, an toàn lao động, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng. Cho nên trách nhiệm xã hội là yếu tố rất căn bản cấu thành sự phát triển bền vững cho xã hội nói chung và nên kinh tế nói riêng. Trong hoàn cảnh kinh tế thị trường cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, lợi ích người tiêu dùng luôn được đặt lên hàng đầu như một tiêu chí cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Cũng chính vì vậy, các sản phẩm đến với tay người tiêu dùng ngày một hoàn thiện hơn về chất lượng, mẫu mã sản phẩm, chất lượng dịch vụ, đặc biệt là nhiều nhà sản xuất đã chú trọng đầu tư công nghệ mới, không chỉ đem lại lợi ích lâu dài cho người tiêu dùng, mà còn cho toàn xã hội. 1.2. Khái quát pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm trách nhiệm bắt buộc (trách nhiệm pháp lý) và trách nhiệm không bắt buộc (ví dụ làm từ thiện, hỗ trợ người lao động…). 9
- - Trách nhiệm bắt buộc của doanh nghiệp là những việc mà doanh nghiệp buộc phải làm theo quy định của pháp luật. - Trách nhiệm không bắt buộc của doanh nghiệp là những việc mà doanh nghiệp có thể không làm vì pháp luật không bắt buộc phải làm (nhưng khi làm những việc này doanh nghiệp, nói chính xác hơn là doanh nhân, chủ doanh nghiệp được dư luận khen ngợi là người có lương tâm đạo đức). Để buộc các doanh nghiệp thực hiện tốt TNXH pháp lý của mình, nhà nước có vai trò quan trọng. Nhà nước với công cụ pháp luật có thể điều tiết hành vi của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, có thể buộc doanh nghiệp phải thực hiện trách nhiệm xã hội pháp lý. Nếu không thực hiện các nghĩa vụ bắt buộc đã quy định trong pháp luật, doanh nghiệp sẽ bị nhà nước xử phạt. Trong từng lĩnh vực pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa DN với các chủ thể khác trong xã hội đều có các quy định về các hành vi cam kết tự nguyện của DN và DN chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện theo các cam kết này. CSR là các cam kết tự nguyện của DN vượt trên các quy định tối thiểu của pháp luật, vì vậy việc ràng buộc thực hiện CSR bao hàm những bảo đảm thực thi của pháp luật, những cơ chế tự thân của DN và vai trò của các tổ chức phi nhà nước. Việc tuân thủ các quy định về chuẩn mực ứng xử, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp góp phần tạo nên lợi thế cạnh tranh nhất định cho các doanh nghiệp. Ở các quốc gia phát triển, xu thế chung của người tiêu dùng là lựa chọn các sản phẩm của doanh nghiệp có cơ chế thực hiện trách nhiệm xã hội tốt, trong đó đảm bảo quyền của người lao động, tôn trọng quyền của người tiêu dùng và bảo vệ môi trường được xem là những nguyên tắc không kém phần quan trọng để quyết định việc lựa chọn sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. 1.2.2. Pháp luật quốc gia về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp Để thực hiện CSR, trước tiên hết DN phải tuân thủ pháp luật. Trong phạm vi quốc gia, pháp luật, dưới hình thức thể hiện là các văn bản quy phạm pháp luật, có giá trị pháp lý cao nhất, được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Pháp luật là các quy định “cứng” bao gồm các nội dung về địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của DN trong mối quan hệ với các chủ thể khác trong xã hội vì thế nội dung pháp lý về trách nhiệm của DN rất đa dạng và dàn trải trong hệ thống pháp luật. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định các trách nhiệm pháp lý của DN, là những hậu quả bất lợi DN phải gánh chịu nếu không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, không đủ những nghĩa vụ được quy định, gây thiệt hại cho các chủ thể khác trong xã hội. Các trách nhiệm pháp lý này có thể bao gồm trách nhiệm về dân sự, trách nhiệm về hành chính, và trách nhiệm về hình sự. Khi DN vi phạm, phải thực hiện trách nhiệm pháp lý thì Nhà nước thực hiện các biện pháp cưỡng chế có tính chất răn đe, trừng phạt thông qua các quy định chế tài để duy trì trật tự công cộng xã hội. Như vậy, pháp luật điều tiết các hoạt động của DN trong một khuôn khổ thể hiện ở cụm từ “được pháp luật quy định”. Đó là căn cứ thỏa mãn điều kiện cần và đủ để điều chỉnh trách nhiệm tối thiểu của DN. 10
- Tuy nhiên CSR đòi hỏi DN thực hiện trách nhiệm của mình vượt ngoài phạm vi bao quát của pháp luật. Nội dung của CSR ngoài các quy định của pháp luật còn bao gồm các cam kết đơn phương về nghĩa vụ của DN xuất phát từ các tiêu chuẩn quốc tế và Bộ quy tắc ứng xử của DN2. Hiện nay, Việt Nam đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý từ các quy định trong Hiến pháp 2013, các văn bản luật chung như Bộ Luật Dân sự 2005, Bộ Luật Hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), Luật DN 2014, Luật Đầu tư 2014, Luật Xử phạt vi phạm hành chính 2012… đến các luật chuyên ngành như Luật Lao động 2012, Luật công đoàn 2012, Luật An toàn vệ sinh lao động 2014, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, Luật Bảo vệ môi trường 2014….. và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, trong tiến trình hội nhập toàn cầu, nước ta đã tham gia và ký kết nhiều điều ước quốc tế có liên quan đến CSR. Trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng các cam kết chuẩn mực pháp lý quốc tế và nhằm đảm bảo sự hài hòa giữ pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, Việt Nam đã từng bước cụ thể hóa các điều ước này bằng pháp luật quốc gia. Vai trò của các quy định pháp luật hiện hành trong thực hiện TNXH của doanh nghiệp thể hiện cụ thể ở những điểm sau: Thứ nhất, tạo lập khung pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp. Khi xây dựng hệ thống pháp luật, nhà nước đưa ra yêu cầu, nguyên tắc, quy định, tiêu chuẩn về TNXH của DN; định hướng phát triển doanh nghiệp theo một quỹ đạo phù hợp. Thứ hai, tạo cơ chế nhằm kiểm soát, thanh tra, giám sát các hoạt động của doanh nghiệp trong việc thực hiện TNXH. Khi kiểm soát, thanh tra, giám sát các hoạt động của DN trong việc thực hiện TNXH, nhà nước phải phát huy vai trò của các cơ quan như: kiểm toán nhà nước, thanh tra chính phủ, thanh tra bộ ngành. Sự kiểm tra, kiểm soát thường xuyên là một giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao TNXH của DN. Các cơ quan thanh kiểm tra không chờ khi doanh nghiệp vi phạm để lại hậu quả nghiêm trọng, mà phải vào cuộc khi xuất hiện dấu hiệu vi phạm. Nếu doanh nghiệp có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân thì nhà nước cần phải truy tố hình sự đối với họ. Thứ ba, góp phần hỗ trợ các nguồn lực vật chất và tinh thần cho các doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường, muốn có một môi trường sản xuất kinh doanh ổn định, tiến bộ, cần phải có sự can thiệp của nhà nước. Nhà nước có thể hỗ trợ doanh nghiệp về nguồn lực vật chất (kết cấu hạ tầng, thông tin, tài chính, ưu đãi vốn vay, trợ giúp công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực); có thể miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp nếu họ thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của mình. Hiện nay, các chính sách hỗ trợ DN tập trung chủ yếu vào phát triển sản xuất, cụ thể quy định tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP và Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DN của Chính phủ. Theo đó, Chính phủ tạo điều kiện cho các DNV&N đổi mới công nghệ, trang thiết bị, máy móc, phát triển sản phẩm mới, 2 Nguyễn Kim Anh Đào (2016), “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội, tr.16. 11
- hiện đại hóa quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. 1.2.3. Pháp luật quốc tế về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp Các tiêu chuẩn quốc tế quy định về CSR là phần mở rộng thêm về nội dung của CSR vượt ngoài các quy định của pháp luật. Các tiêu chuẩn này có nội dung bao quát mọi lĩnh vực từ kinh tế, đạo đức, quyền con người, lao động, môi trường… do các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ xây dựng nên. Các tiêu chuẩn này có các giá trị ràng buộc pháp lý khác nhau từ những quy định mang tính chất bắt buộc thực hiện đối với các quốc gia thành viên đến các chỉ dẫn khuyến nghị về hoạt động có trách nhiệm của DN. Số lượng của các bộ tiêu chuẩn quốc tế này rất nhiều, ta có thể liệt kê một số tiêu chuẩn tiêu biểu như: - Bộ chỉ dẫn của tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): Bộ chỉ dẫn này là khuyến nghị của các chính phủ đối với các tập đoàn đa quốc gia. Mặc dù chúng không có giá trị ràng buộc pháp lý đối với tập đoàn đa quốc gia, nhưng các quốc gia thành viên đã đồng ý tuân thủ các chỉ dẫn và khuyến khích các DN trong nước thực hiện ở bất cứ nơi nào DN hoạt động. Bộ chỉ dẫn đã được xuất bản lần đầu vào năm 1976 và gần đây nhất được cập nhật vào năm 2011, chứa các khuyến nghị về quyền con người, việc làm và quan hệ lao động, môi trường, hối lộ, lợi ích của người tiêu dùng, khoa học và công nghệ, cạnh tranh, và thuế… với mục tiêu tăng cường cơ sở tin tưởng lẫn nhau giữa các DN và xã hội, giúp cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, đóng góp vào sự phát triển bền vững. - Thỏa ước Toàn cầu của Liên Hợp Quốc (UN Global Compact): là một bộ quy tắc yêu cầu các DN phải nhận thức, hỗ trợ và thực hiện các nguyên tắc ứng xử cốt lõi về bảo vệ quyền con người, tiêu chuẩn lao động, bảo vệ môi trường và chống tham nhũng. Thỏa ước này được chính thức ra mắt vào tháng 9 năm 2000 xuất phát từ đề xuất của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. - Các tiêu chuẩn về lao động của Tổ chức lao động quốc tế (ILO): ILO đóng một vai trò quan trọng trong CSR vì các tiêu chuẩn về lao động và đối thoại xã hội là những khía cạnh quan trọng của CSR và đây cũng là sứ mạng cốt lõi của ILO. ILO thúc đẩy đối thoại giữa các chính phủ, các tổ chức đại diện của NLĐ và người sử dụng lao động và hỗ trợ cũng như cung cấp các công cụ để hiểu rõ hơn về khía cạnh lao động trong CSR. Hầu hết các phát kiến CSR đều dựa trên các công ước ILO phát xuất từ hai điểm chính do ILO phát triển. - Tổ chức Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu (GRI) do Liên minh và Chương trình môi trường của Liên Hợp quốc thành lập năm 1997 ở Boston (Mỹ), cung cấp các tiêu chí và hướng dẫn xây dựng báo cáo phát triển bền vững của các quốc gia. - Ngoài ra còn có thể kế đến các bộ tiêu chuẩn ISO điều chỉnh các vấn đề cụ thể như ISO 14000 về môi trường, ISO 22000 về an toàn thực phẩm .., các tiêu chuẩn áp dụng chung cho mọi loại hình DN như ISO 9000, ISO 26000, hoặc các quy định chung về hướng dẫn thực hành CSR như SA 8000, BSCI…3 3 Nguyễn Kim Anh Đào (2016), “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội, tr.18-19. 12
- Kết luận chương 1 CSR là phương tiện giải quyết những vấn đề quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng, nhà cung cấp, người lao động, cổ đông, cộng đồng và các bên liên quan khác cũng như với môi trường nhằm mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững trong một xã hội bền vững. CSR là vấn đề phức tạp vì nó bao gồm các khía cạnh kinh tế, pháp luật, đạo đức và từ thiện tích hợp trong hoạt động của DN. Để đảm bảo thực hiện tốt CSR, ngoài bản thân của DN còn có sự đóng góp phản biện của toàn xã hội. Vai trò của Nhà nước thông qua pháp luật với vai trò là các quy định cứng và các cơ chế giám sát thực hiện ràng buộc mềm phải được phối hợp để hỗ trợ DN nhận thức, thực hiện CSR hiệu quả. Trong chương này, tác giả vừa khái quát lý luận chung về TNXH của doanh nghiệp và pháp luật về TNXH của doanh nghiệp thông qua việc phân tích các khái niệm, đặc trưng; phân biệt TNXH của doanh nghiệp với việc làm từ thiện của doanh nghiệp và với doanh nghiệp xã hội; cơ chế thực thi; lợi ích của việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp. Đồng thời, tác giả cũng khái quát pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế) và nêu lên tầm quan trọng của pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Ở nước ta, CSR là một khái niệm mới vì vậy cần thiết phải xem xét thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện để có một đánh giá cụ thể hơn. Vì vậy, những nội dung được trình bày ở chương này sẽ là cơ sở lý luận để nghiên cứu về thực trạng pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và thực tiễn hiện tại Việt Nam trong chương 2 của luận văn này. 13
- CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp CSR bao gồm một phần là các quy định pháp lý tối thiểu và phần còn lại là những ràng buộc mềm, thể hiện là sự cam kết tự nguyện của DN. Các nội dung về CSR cũng rất đa dạng, bao gồm nhiều lĩnh vực. Trong giới hạn nghiên cứu, luận văn này chỉ nêu lên các quy định CSR về lao động, bảo vệ môi trường và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 2.1.1. Quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lao động và an sinh xã hội Thực hiện an sinh xã hội (ASXH) là một nội dung cơ bản và tất yếu trong trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, nó xuất phát từ chính nhu cầu tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và được quy định bằng pháp luật của Nhà nước chứ không phải chỉ là sự trợ giúp, lòng hảo tâm, làm từ thiện của doanh nghiệp đối với các thành viên kém may mắn trong xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, TNXH của doanh nghiệp đã trở thành xu hướng chủ đạo trong việc kết nối giữa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với những nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội. Loại trách nhiệm này được nhìn nhận trên cả hai khía cạnh: (i) mối tương quan giữa trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với các yếu tố ngoài doanh nghiệp; (ii) mối tương quan giữa trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với các yếu tố nội bộ của doanh nghiệp. Trong mối tương quan đối với các yếu tố nội bộ, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động là nội dung cốt lõi, là yếu tố quan trọng cấu thành sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Nội dung về thực hiện CSR trong pháp luật lao động có thể chia thành các nhóm như sau: (1)Bảo đảm các quyền lao động; (2)Các hành vi bị cấm trong pháp luật lao động; (3)Phát triển nguồn nhân lực; (3)Đảm bảo an sinh xã hội. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” yêu cầu “Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ... Đồng thời, thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm mức sống tối thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hoàn cảnh khó khăn; coi bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội". Như vậy, ASXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản thể hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước hướng vào mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Có thể nhận thấy rằng pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định DN bằng hoạt động của mình phải đảm bảo các lợi ích phát sinh từ các quyền của NLĐ được pháp luật quy định, đồng thời xóa bỏ các hành vi tiêu cực ảnh hưởng đến quyền con người trong lao động và việc làm. Điều này hoàn toàn phù hợp với các công ước mà Việt Nam đã phê chuẩn của Tổ chức Lao động quốc tế 14
- (ILO) cũng như các bộ chỉ dẫn, bộ tiêu chuẩn quốc tế (ISO). Về tổng thể, pháp luật lao động Việt Nam đã có sự tương thích khá lớn so với các chuẩn mực pháp lý quốc tế. 2.1.2. Quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững Theo pháp luật Việt Nam, trong lĩnh vực môi trường, DN phải có trách nhiệm với các tác động tới môi trường và cuộc sống cộng đồng, thông qua các hành vi kiểm soát ô nhiễm và xử lý, tái chế chất thải, tiết kiệm tài nguyên. Đặc biệt, nếu DN tuân thủ pháp luật môi trường, sẽ đạt được nhiều lợi ích thiết thực. Quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững nhằm hướng đến những mục tiêu sau: Thứ nhất, đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường. Thứ hai, về chính sách hỗ trợ và khuyến khích các DN phát triển khoa học công nghệ bảo vệ môi trường 2.1.3. Quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Có thể nói, các doanh nghiệp, với vai trò là đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng phải có quy trình sản xuất, quy trình kinh doanh và hệ thống quản lý sao cho các quyền của người tiêu dùng được thực thi, đây chính là việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, thể hiện qua: Một là, vấn đề Marketing và thực hành thông tin trung thực: Thông qua việc thông tin trung thực, không sai lệch, thực hiện kinh doanh công bằng và đúng cam kết. Mặc dù vấn đề thông tin, quảng cáo trung thực không chỉ được đề cập đến ở Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng mà còn ở rất nhiều văn bản khác, đặc biệt là Luật quảng cáo. Hai là, vấn đề bảo vệ an toàn và sức khỏe cho người tiêu dùng: Hàng hóa, dịch vụ cung cấp phải an toàn đối với người tiêu dùng trong quá trình sử dụng, đáp ứng được các chuẩn kỹ thuật liên quan đến sức khỏe và an toàn cho người tiêu dùng. Có cơ chế thu hồi và khắc phục hậu quả của hàng hóa có khuyết tật. Ba là, vấn đề tiêu dùng bền vững. Bốn là, vấn đề giải quyết khiếu nại, tranh chấp của người tiêu dùng. Năm là, vấn đề bảo mật dữ liệu cá nhân và đời tư của người tiêu dùng. Sáu là, vấn đề đảm bảo quyền sử dụng các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu của người tiêu dùng. 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Trên thực tế, ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mặc dù là vấn đề mới mẻ, nhưng bước đầu đã được một số bộ, ngành quan tâm, chú ý. Bằng chứng là, từ năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương cùng với các hiệp hội Da giày, Dệt may trao giải thưởng “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững” nhằm tôn vinh các doanh nghệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Hiện nay, nhiều 15
- doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đã nhận thấy rằng, TNXH của DN đã trở thành một trong những yêu cầu không thể thiếu được đối với DN. Bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nếu doanh nghiệp không tuân thủ TNXH của DN sẽ không thể tiếp cận được với thị trường thế giới. Nhiều DN khi thực hiện TNXH đã mang lại những hiệu quả thiết thực trong sản xuất kinh doanh. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với khách hàng, tạo được sự gắn bó và hài lòng của người lao động đối với doanh nghiệp, thu hút được lực lượng lao động có chuyên môn cao4. Nhờ nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một số doanh nghiệp lớn của Việt Nam, ngoài trách nhiệm đóng thuế cho nhà nước, đã đăng ký thực hiện trách nhiệm xã hội dưới dạng các cam kết đối với xã hội trong việc bảo vệ môi trường, với cộng đồng địa phương nơi doanh nghiệp đóng và với người lao động. Thực tiễn cho thấy, thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nhân Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay và nhiều năm tới ngày càng được các doanh nhân nước ta nhận thức sâu sắc và đó cũng chính là những đóng góp của các doanh nghiệp, doanh nhân vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và gia đình họ, có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như sự phát triển chung của cộng đồng xã hội. 2.2.2. Những hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 2.2.2.1. Hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lao động và an sinh xã hội Các công trình nghiên cứu trước đây khẳng định nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đã thực hiện chưa tốt TNXH của mình đối với người lao động. Đặc biệt, các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ mang tính hộ gia đình, kinh tế cá thể thì việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động hầu như chưa được quan tâm. Kết quả nghiên cứu trường hợp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp cho thấy, người lao động không có hợp đồng lao động, không có bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chưa được trang bị bảo hộ lao động, chưa đảm bảo an toàn lao động. Mối quan hệ lao động, cách thức quản lý theo mô hình “công ty gia đình”. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp chủ yếu được thực hiện theo kênh phi chính thức, không có sự ràng buộc nhất định và phụ thuộc hoàn toàn vào người sử dụng lao động, người lao động luôn ở thế bị động và chịu thiệt thòi về lợi ích5. Trách nhiệm xã hội là một trong những yêu cầu quan trọng đối với doanh nghiệp nếu thực sự muốn phát triển vươn xa hội nhập với nền kinh tế thế giới. Ở Việt Nam hiện nay, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (trong đó có vấn đề an sinh xã hội) còn tương đối khó khăn, sự hiểu biết của doanh 4 Phạm Việt Thắng (2018), “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đối với người lao động trong các doanh nghiệp đệt may tại Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường đại học kinh tế quốc dân, tr.77. 5 Nguyễn Thị Minh Châu (2013), “Trách nhiệm xã hội của các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể đối với người lao động: Nghiên cứu trường hợp ở thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học xã hội, (07), tr.9. 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 421 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 542 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 305 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 330 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Phân tích và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án đầu tư ở Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Petrolimex
1 p | 114 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển thương hiệu Trần của Công ty TNHH MTV Ẩm thực Trần
26 p | 99 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 199 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn