Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội
lượt xem 3
download
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận về QLNN đối với các TTCSNCT từ đó đánh giá thực trạng QLNN đối với các trung tâm này trên địa bàn thành phố Hà Nội để đưa ra các quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với các trung tâm này trên địa bàn thành phố.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ---------/---------- ------/------ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THANH TÙNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁC TRUNG TÂM CHĂM SÓC NGƢỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 8 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG Hà Nội - 2019
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG THỊ MINH Phản biện 1: TS. Tạ Thị Hương Phản biện 2: TS. Phạm Thị Hải Hà Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp …....., Nhà...... - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77 Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa – TP Hà Nội Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 2019 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nhân khẩu học mạnh mẽ. Từ năm 2007, Việt Nam đã bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”, tức là, cứ một người trong độ tuổi phụ thuộc (dưới 15 tuổi hoặc trên 60 tuổi) thì có từ 2 người trở lên trong độ tuổi lao động (từ 15 - 60 tuổi). Với cơ cấu dân số này, là cơ hội “vàng” để nước ta có được lực lượng lao động trẻ dồi dào trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế 2010 - 2020. Tuy nhiên, sau giai đoạn dân số “vàng” sẽ bước sang giai đoạn dân số “già”. Điều đáng nói là, Việt Nam nằm trong số 10 nước có tốc độ già hóa nhanh nhất trên thế giới, sẽ chỉ mất không tới 20 năm, tỉ lệ người từ 65 tuổi trở lên tăng từ 7% lên 14%. Thống kê của cơ quan chức năng cho thấy, tính đến hết năm 2017, cả nước có 11 triệu người cao tuổi, chiếm khoảng 11,95% dân số, trong đó có khoảng gần 2 triệu người từ 80 tuổi trở lên. Dự báo, Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ dân số già vào năm 2035, khi tỉ lệ này tăng lên tới 20% với khoảng 21 triệu người cao tuổi, đến năm 2038 nhóm cao tuổi ở Việt Nam sẽ chiếm đến 20% tổng dân số. Đến năm 2049, tỉ lệ người cao tuổi sẽ chiếm khoảng 25% dân số, tức là cứ 4 người dân có một người cao tuổi. Số NCT tăng nhanh sẽ cần một nhóm người đáng kể hỗ trợ cho NCT đảm bảo sinh hoạt bình thường. Đạo lý “Kính già” cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, được coi là một trong những giá trị văn hoá truyển thống và quan trọng của dân tộc Việt Nam. Song trên thực tế do số lao động kiếm sống đã và đang chiếm phần lớn số thành viên của các gia đình nên việc thực hiện đạo lý ấy đang bị sao nhãng và ít được quan tâm như trước. Chính vì thế, gần đây, ở nước ta cũng có nhiều loại hình dịch vụ chăm sóc NCT được hình thành và hoạt động; đặc biệt là các mô hình do tư nhân đứng ra thành lập bước đầu đã đạt được những thành công nhất định góp phần thực hiện các chính sách ASXH của nhà nước. Tuy nhiên do yếu tố tâm lý xã hội,truyền thống văn hóa dân tộc nên vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau xung quanh vấn đề này. Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, hành chính của cả nước, phát triển mạnh về kinh tế, văn hóa, xã hội nên đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân thành phố Hà Nội ngày càng nâng cao, điều kiện chăm sóc sức khỏe ngày càng tốt hơn nên tuổi thọ ngày càng tăng. Để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, nhà nước ngày càng quan tâm và đã đầu tư xây dựng các mô hình tuy nhiên vẫn không đáp ứng 1
- đầy đủ các nhu cầu của người cao tuổi. Do đó, thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện để các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia xây dựng các trung tâm chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn. Đến nay đã xuất hiện một số mô hình TTCSNCT do tư nhân quản lý đã được hình thành tuy nhiên chưa có sự quan tâm và điều tiết của nhà nước và thiếu sự quản lý của các cơ quan chức năng. Vì vậy bên cạnh một số mô hình hoạt động tốt, có hiệu quả thì vẫn tồn tại mô hình hoạt động không ngoài mục đích thu lợi nhuận. Việc tiếp nhận NCT vào sống trong TTCSNCT tư nhân hiện nay quá thông thoáng, nhiều khi chỉ cần có sự thỏa thuận giữa gia đình và trung tâm, bỏ qua cả sự đồng ý của chính bản thân NCT. Điều này vô hình chung đã làm sai với luật NCT và có thể là điều kiện cho những người con hư dễ dàng chối bỏ bố mẹ, không làm tròn trách nhiệm và bổn phận làm con của mình. Chất lượng dịch vụ của các trung tâm hiện nay đa phần chưa đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của các cụ về mô hình dưỡng lão lý tưởng. Do không được nhà nước quan tâm hỗ trợ, tạo điều kiện ưu tiên bất cứ điều gì cho nên các trung tâm hiện nay hoạt động còn rất khó khăn. Nguồn kinh phí chủ yếu có được là do đóng góp của các gia đình, hoạt động theo phương thức lấy thu bù chi nên họ không đầu tư vốn và mặt bằng. Vì vậy, trung tâm thường hẹp, ít có chỗ vui chơi ngoài trời cho các cụ và cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn nhiều. Từ lí do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội” để triển khai luận văn thạc sĩ quản lý công để có thể đề xuất những biện pháp hữu hiệu về quản lý nhà nước (QLNN), thúc đẩy sự phát triển đối với các loại hình dịch vụ này, tăng cường chất lượng dịch vụ, xã hội hóa và huy động sự tham gia của toàn thể cộng đồng, xã hội đối với công tác chăm sóc và phát huy vai trò NCT. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề các loại hình dịch vụ chăm sóc NCT nói chung và các trung tâm chăm sóc NCT do tư nhân thành lập nói riêng đã được đề cập đến trong nhiều cuốn sách, nhiều bài nghiên cứu, trao đổi của các học giả, nhà khoa học. Nhìn chung, có thể thấy rằng nhiều các công trình nghiên cứu, sách, giáo trình, các bài viết, luận văn,… đều đã nghiên cứu phân tích được một mặt nào đó đối với việc quản lý. Tuy nhiên, tới nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu về 2
- “Quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội” Do vậy, việc cần nghiên cứu kỹ lưỡng, chuyên sâu hơn về vấn đề này đối với thực tiễn tại một thành phố lớn như Hà Nội là vô cùng cấp thiết. Qua đó tạo ra những tư liệu tham khảo giá trị cho Thành phố Hà Nội với mục đích nâng cao chất lượng quản lý nhà nước (QLNN) đối với các trung tâm này đồng thời có các chính sách để khuyến khích các trung tâm này phát triển, giảm tải gánh nặng an sinh xã hội cho nhà nước đồng thời luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo giá trị đối với những đơn vị, tổ chức có nhu cầu. 3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận về QLNN đối với các TTCSNCT từ đó đánh giá thực trạng QLNN đối với các trung tâm này trên địa bàn thành phố Hà Nội để đưa ra các quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với các trung tâm này trên địa bàn thành phố. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ những vấn đề lý luận khái niệm, đặc điểm, vai trò và nội dung của quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi. - Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Đưa ra các quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong đề tài này, đối tượng nghiên cứu là quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi ngoài công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Hoạt động quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi ngoài công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Về không gian: Đề tài nghiên cứu tại Thành phố Hà Nội 3
- - Về phạm vi thời gian:Thời gian nghiên cứu trong đề tài được xác định từ năm 2009 đến nay. Đề tài chọn từ năm 2009 làm mốc nghiên cứu vì gắn với sự ra đời của Luật người cao tuổi năm 2009. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận - Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Phân tích lý thuyết về các yếu tố liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi ngoài công lập. Từ đó, làm nền tảng cho việc phân tích các yếu tố tác động tới hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi ngoài công lập. - Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Phương pháp này nhằm phân tích được hoạt động quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi ngoài công lập vào các hoàn cảnh, thời điểm cụ thể để nghiên cứu một cách khách quan, chính xác. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể - Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Tác giả thực hiện luận văn dựa trên các nghiên cứu đi trước có liên quan tới đề tài, tìm kiếm nguồn tài liệu từ Sở lao động thương binh và xã hội Hà Nội, Viện nghiên cứu gia đình và giới để nghiên cứu về hoạt động quản lý nhà nước . - Phương pháp chuyên gia: Tiến hành trao đổi, tham vấn các lãnh đạo các trung tâm chăm sóc người cao tuổi ngoài công lập và các chuyên gia xã hội học về các vấn đề nghiên cứu. Mục đích của phương pháp nhằm thu thập thêm những thông tin cần thiết khác mà các phương pháp khác chưa thu thập được. - Phương pháp quan sát: Phương pháp này dựa trên sự quan sát tình hình thực tế tại một số trung tâm chăm sóc người cao tuổi ngoài công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Phương pháp thống kê và thống kê phân tích: Phương pháp này được sử dụng để phân tích số liệu, tài liệu cụ thể thông qua các số liệu cụ thể từ Cục thống kê Hà Nội và Sở lao động thương binh và xã hội Hà Nội. - Phương pháp xử lý số liệu: Các phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh, dự báo… để tiến hành xử lý, đánh giá các dữ liệu, các thông tin thu thập được. Qua đó đưa ra các nhận định, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn 4
- thiện hoạt động quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi ngoài công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Về lý luận: Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi ngoài công lập, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc nghiên cứu nhằm tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Về thực tiễn: Luận văn phân tích làm rõ thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi ngoài công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó chỉ ra những nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước đối với các trung tâm này. Các kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho học tập và nghiên cứu, cho các cơ quan quản lý nhà nước, cho các tổ chức và cá nhân 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội 5
- CHƢƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁC TRUNG TÂM CHĂM SÓC NGƢỜI CAO TUỔI 1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài nghiên cứu 1.1.1. Khái niệm về người cao tuổi Có nhiều khái niệm khác nhau trên thế giới về NCT, tuy nhiên khái niệm về NCT trong đề tài này được điều chỉnh theo luật NCT năm 2009 được Quốc Hội ban hành, “NCT là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên”. 1.2.2. Vị trí, vai trò và đặc điểm tâm sinh lý của người cao tuổi 1.2.2.1. Vị trí, vai trò của người cao tuổi Trong gia đình Việt Nam hiện nay, NCT giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Đây là lớp người có công lớn với đất nước, từng trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ đầy gian khổ và giai đoạn xây dựng lại đất nước trong đống tro tàn của chiến tranh để làm nên lịch sử vẻ vang dân tộc. Họ có những vị trí, vai trò sau: - Lưu giữ và phát huy truyền thống - Giáo dục thế hệ sau - Góp công xây dựng đất nước 1.2.2.2. Đặc điểm tâm sinh lý của người cao tuổi a. Đặc điểm sinh lý - Quá trình lão hóa: - Các bệnh thường gặp ở người cao tuổi: b. Đặc điểm tâm lý - Hướng về quá khứ: - Chuyển từ trạng thái “tích cực” sang trạng thái “tiêu cực”: 1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của Trung tâm chăm sóc người cao tuổi Qua những phân tích đánh giá và bằng những kinh nghiệm làm việc thực tế làm việc tại Trung tâm chăm sóc người cao tuổi tác giả xin đưa ra quan điểm riêng như sau: “TTCSNCT là cơ sở do nhà nước hoặc tư nhân xây dựng và đầu tư nhằm phục vụ việc điều dưỡng, cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, cải thiện đời sống tinh thần cho NCT. Là mô hình nơi NCT tự nguyện đóng một khoản phí nhất định theo mức đề ra của trung tâm để được sống, sinh hoạt và được chăm sóc tại trung tâm.” 6
- Mô hình này hoàn toàn khác với các cơ sở trợ giúp xã hội được nhà nước hỗ trợ vì vậy nó sẽ giúp được phần nào xoá bỏ mặc cảm là bị con cháu bỏ rơi, không quan tâm đến, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế nước ta còn đang phát triển như hiện nay. 1.1.4. Khái niệm về quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi. 1.1.4.1. Khái niệm về quản lý nhà nước “Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… thông qua hệ thống pháp luật, chính sách, các nguyên tắc, các quy định và bằng các biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng quản lý”. Như vậy, hiểu một cách đơn giản nhất, quản lý chính là sự tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông qua các công cụ quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra. 1.1.4.2. Khái niệm về quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi Qua quá trình tìm hiểu các tài liệu, các công trình nghiên cứu dựa trên khái niệm quản lý nhà nước về kinh tế nói chung có thể đưa ra khái niệm quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi như sau: Quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi: là một hoạt động quản lý nhà nước về xã hội. Đó là hoạt động mang tính tổ chức quyền lựccủa các cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền nhằm tác động lên hoạt động của các trung tâm chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn lãnh thổ củamột quốc gia và định hướng nó phát triển theo các mục tiêu mà nhà nước đã đề ra. 1.2. Vai trò và sự cần thiết của quản lý nhà nƣớc đối với các trung tâm chăm sóc ngƣời cao tuổi 1.2.1. Vai trò của các trung tâm chăm sóc người cao tuổi với xã hội Tuổi già của NCT hiện nay ở nước ta diễn ra trong bối cảnh của sự quá độ từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tạo ra nhiều cơ hội cho nhiều tầng lớp nhân dân trong việc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của người lao động nhưng nó lại là những thử thách sẵn sàng “gạt bỏ” “nhóm người” “yếu thế” ra bên lề của sự phát triển. NCT, trong thời kỳ này thực sự 7
- trở thành nhóm “yếu thế” vì họ không còn khả năng thích nghi nhanh với những quy luật khắc nghiệt của cơ chế thị trường, hơn nữa năng lực vật chất (kiến thức, kỹ năng, tinh thần, sức khoẻ…) của NCT chưa được chuẩn bị cho cơ chế thị trường. Dưới tác động của cơ chế thị trường và chính sách dân số kế hoạch hoá như hiện nay, gia đình, đặc biệt là gia đình ở thành phố, điều kiện chăm sóc NCT cũng như trẻ em đã thay đổi rất nhiều: Mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2 con; nếu như trước đây nhiều gia đình trẻ, ít NCT thì hiện nay, ít gia đình trẻ lại nhiều NCT; số gia đình truyền thống càng ngày càng giảm, thay thế vào đó, gia đình hạt nhân ngày càng tăng; do làm ăn, thiếu thời gian cần thiết để chăm sóc người già, trẻ em… nhiều gia đình tan vỡ, vợ chồng ly hôn vì lối sống ích kỷ, chỉ biết sở thích của riêng mình mà không quan tâm lợi ích, nhu cầu cũng như mong muốn của các thành viên khác trong gia đình… trong điều kiện đó, gia đình khó có đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu chăm sóc NCT một cách chu đáo và đầy đủ, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của NCT như nó đã từng có trong những thời kỳ trước đây. Hơn nữa, số người già theo xu hướng tăng dần, tỷ lệ người trẻ tuổi trong dân số có xu hướng giảm. Hệ số phụ thuộc trong mỗigia đình và toàn xã hội đều tăng, nếu như trước đây, mỗi đôi vợ chồng có nhiều con, đến tuổi già mỗi đôi vợ chồng già có thể dựa vào một hoặc hai cặp vợ chồng con cháu nhưng đến nay, nhiều đôi vợ chồng trẻ phải chu cấp cho cả ông bà ngoại lẫn ông bà nội, còn nếu gia đình có 2 con thì bình quân, mỗi đôi vợ chồng trẻ có trách nhiệm chu cấp cho ít nhất một đôi vợ chồng bố mẹ. Điều này cũng là một sức ép rất lớn đòi hỏi xã hội, mà trước tiên là Nhà nước phải quan tâm tới nghiên cứu vấn đề chăm sóc đối với NCT trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội hiện nay. Trước thực trạng trên, nhu cầu đối với hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi là tất yếu trong đó có loại hình Trung tâm chăm sóc NCT đóng vai trò vô cùng quan trọng giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội cho địa phương và đất nước đồng thời mang đến một cuộc sống viên mãn dành cho người cao tuổi khi về già. 1.2.2. Vai trò của quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, một số mô hình trung tâm chăm sóc người cao tuổi do tư nhân quản lý đã được hình thành tuy nhiên chưa có sự điều tiết của nhà nước và thiếu sự quản lý của các cơ quan chức năng. Vì vậy bên cạnh một số mô hình hoạt động tốt, có hiệu quả thì vẫn tồn tại mô hình hoạt động không ngoài mục đích thu lợi nhuận. 8
- Việc tiếp nhận người cao tuổi vào sống trong trung tâm chăm sóc người cao tuổi hiện nay quá thông thoáng, nhiều khi chỉ cần có sự thỏa thuận giữa gia đình và trung tâm, bỏ qua cả sự đồng ý của chính bản thân người cao tuổi. Điều này vô hình chung đã làm sai với luật người cao tuổi và có thể là điều kiện cho những người con hư dễ dàng chối bỏ bố mẹ, không làm tròn trách nhiệm và bổn phận làm con của mình. Chất lượng dịch vụ của các trung tâm hiện nay đa phần chưa đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của các cụ về mô hình chăm sóc người cao tuổi lý tưởng. Do không được nhà nước hỗ trợ, ưu tiên bất cứ điều gì cho nên các trung tâm hiện nay hoạt động còn rất khó khăn. Nguồn kinh phí chủ yếu có được là do đóng góp của các gia đình, hoạt động theo phương thức lấy thu bù chi nên họ không đầu tư vốn và mặt bằng. Vì vậy, trung tâm thường hẹp, ít có chỗ vui chơi ngoài trời cho các cụ và cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn nhiều. Vì vậy, đòi hỏi cần phải cần phải có sự quản lý của nhà nước đối với các trung tâm này, nhằm đảm bảo các trung tâm này hoạt động đúng mục đích, đảm bảo chất lượng phục vụ dành cho người cao tuổi từ đó giải quyết được các vấn đề an sinh xã hội cho người cao tuổi. 1.3. Nội dung của quản lý nhà nƣớc đối với các trung tâm chăm sóc ngƣời cao tuổi 1.3.1. Ban hành chính sách, pháp luật về quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi 1.3.2. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút xã hội hoá, đầu tư xây dựng, phát triển các trung tâm chăm sóc người cao tuổi 1.3.3. Tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi 1.3.4. Thanh tra, kiểm tra, giám sát quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi 1.4. Yếu tố tác động tới hoạt động quản lý nhà nƣớc đối với các trung tâm chăm sóc ngƣời cao tuổi 1.4.1. Quan điểm chính trị 1.4.2. Chính sách, pháp luật 1.4.3. Nguồn lực tài chính 9
- 1.4.4. Năng lực, trình độ của dội ngũ cán bộ công chức 1.4.5. Nhận thức của xã hội 1.5. Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam về quản lý nhà nƣớc đối với các trung tâm chăm sóc ngƣời cao tuổi 1.5.1. Kinh nghiệm quốc tế 1.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Ở Việt Nam, ngoài mô hình Trung tâm Bảo trợ xã hội nuôi dưỡng miễn phí cho các cụ già cô đơn, không nơi nương tựa, hoặc các cơ sở chăm sóc, an dưỡng người cao tuổi có công của Nhà nước, đối tượng chính sách xã hội, đã xuất hiện các mô hình chăm sóc khác: mái ấm thiện nguyện, chăm sóc tại cộng đồng, cơ sở dịch vụ chăm sóc, một số mô hình thực hiện theo Dự án can thiệp mang tính thử nghiệm, đặc biệt là sự xuất hiện của các Trung tâm chăm sóc người cao tuổi do tư nhân đứng ra thành lập bước đầu đã đem lại nhiều lợi ích cho xã hội giúp Nhà nước giảm bớt áp lực và chi phí đầu tư cho chăm sóc người cao tuổi. Việc mở rộng các mô hình chăm sóc, đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư xã hội trong chăm sóc người cao tuổi là một hướng đi đúng, bổ sung cho những thiếu hụt, chia sẻ gánh nặng về chăm sóc từ phía Nhà nước, đáp ứng được nhu cầu khác nhau của người cao tuổi và gia đình họ. Tuy nhiên, những chính sách, cơ chế quản lý cần làm thế nào để gợi mở, khuyến khích và hỗ trợ để các mô hình này có điều kiện duy trì hoạt động, mở rộng và nâng cao chất lượng chăm sóc lại là vấn đề cần được quan tâm, tháo gỡ. 10
- CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁC TRUNG TÂM CHĂM SÓC NGƢỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Khái quát chung về các đặc điểm kinh tế, văn hóa và dân cƣ của thành phố Hà Nội. 2.1.1. Đặc điểm kinh tế: 2.1.2. Đặc điểm văn hoá 2.1.3. Đặc điểm dân cư 2.1.4. Tác động của các trung tâm chăm sóc người cao tuổi tới hoạt động kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội. Các Trung tâm chăm sóc NCT có nhiều tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội. Đóng góp vào sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân nói chung và của khu vực thành phố Hà Nội nói riêng. Thành phố sẽ có thêm nguồn thu ngân sách từ Thuế GTGT, Thuế Thu nhập doanh nghiệp. Tạo ra công ăn việc làm cho người lao động và thu nhập cho chủ đầu tư; Bên cạnh đó, mô hình các trung tâm chăm sóc NCT sẽ giúp cho người dân trên địa bàn và các vùng lân cận được tiếp cận thuận lợi, công bằng với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ có chất lượng cao, giảm áp lực quá tải cho tuyến trên, đồng thời giảm bớt phiền hà, tiết kiệm chi phí cho bệnh nhân, góp phần xoá đói, giảm nghèo bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Không chỉ tiềm năng về mặt thị trường ở lĩnh vực chăn sóc sức khỏe, dự án còn rất khả thi qua các thông số tài chính như giá trị thuần NPV; Suất sinh lời nội bộ là: IRR; thời gian hoà vốn. Điều này cho thấy các trung tâm chăm sóc NCT mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư, niềm tin lớn khi khả năng thanh toán nợ vay cao và thu hồi vốn đầu tư nhanh. Thêm vào đó, các trung tâm này còn đóng góp rất lớn cho ngân sách nhà nước và giải quyết một lượng lớn lực lượng lao động cho tỉnh. Tạo việc làm thường xuyên cho nhiều lao động trong thành phố, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của một bộ phận nhân dân. Tạo ra diện mạo mới, thúc đẩy kinh tế - xã hội ở thành phố phát triển, góp phần ổn định an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội từng bước góp phần đưa kinh tế phát triển. 11
- 2.2. Tình hình các trung tâm chăm sóc ngƣời cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.2.1. Một số mô hình trung tâm chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.2.1.1. Tổ chức nhà nước Trung tâm Bảo trợ xã hội III. Đây là cơ sở duy nhất của Hà Nội do nhà nước thành lập, dưới sự quản lý của Sở Lao động-Thương binh và xã hội Hà Nội. Địa chỉ: Thôn Miêu Nha, Xã Tây Mỗ, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, nơi chăm sóc, nuôi dưỡng 2 nhóm đối tượng NCT: diện bảo trợ xã hội và dịch vụ, trên khuôn viên 6.000m2. Trung tâm còn có cơ sở 2 tại Lạc Trung nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa. Ngày 17/2/1992, UBND thành phố Hà Nội ra quyết định thành lập Trung tâm nuôi dưỡng người già cô đơn. Ngày 19/11/1996, UBND Thành phố quyết định sáp nhập Trung tâm nuôi dưỡng người già cô đơn với Trung tâm bảo trợ xã hội 3 Đông Anh và lấy tên là Trung tâm Bảo trợ xã hội III. Phần lớn cơ sở hạ tầng của trung tâm này được xây dựng từ những năm 1990 trở về trước và hầu như ít được đầu tư để tu bổ, sửa chữa và nâng cấp nên trang thiết bị thiếu thốn hoặc chất lượng chỉ ở mức trung bình thấp. Cơ chế quản lý của các trung tâm bảo trợ xã hội là dựa vào quy định về hoạt động hành chính sự nghiệp của nhà nước và chịu sự quản lý trực tiếp của Sở LĐ‐TB&XH các tỉnh nên kinh phí hầu hết do nhà nước cấp. Hiện nay mức trợ cấp tối thiểu cho NCT được nuôi dưỡng, chăm sóc tại Trung tâm Bảo trợ xã hội III là 700.000đ/người/tháng nên gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc và đảm bảo ổn định đời sống NCT. Tháng 10/2015, UBND Thành phố Hà nội cũng đã có quyết định đầu tư cải tạo nâng cấp cơ sở này với số vốn dự toán là 31.837 triệu đồng. Năm 2007, theo chủ trương của Sở Lao động Thương Binh, xã hội Hà nội, Trung tâm mở thêm dịch vụ chăm sóc NCT theo nhu cầu trên một phần cơ sở vật chất của trung tâm. Vì là cơ sở của Nhà nước, chưa phải đầu tư nhiều nên mức phí ở trong khoảng 3-5 triệu đồng/người/tháng cũng tùy theo phòng ở. Hằng năm, số NCT sử dụng dịch vụ dao động từ 30-40 cụ, hiện có 35 cụ sử dụng dịch vụ. 2.2.1.2. Các cơ sở, tổ chức tư nhân Qua rà soát thống kê những năm qua toàn thành phố có 15 cơ sở Bảo trợ xã hội ngoài công lập chăm sóc NCT, Sở Lao động, Thương binh và xã hội Hà Nội đã kiểm 12
- tra, cấp giấy phép hoạt động cho 10 cơ sở ngoài công lập đủ điều kiện chăm sóc người cao tuổi, người khuyết tật trên địa bàn thành phố gồm: - TTCS NCT Bách Niên Thiên Đức (Cơ sở 1: Đông Ngạc, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội; Cơ sở 2: Khu dân cư Lâm Trường, Minh Phú, Huyện Sóc Sơn, Hà Nội; Cơ sở 3: Nhật Tảo, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội); - TTCS NCT Nhân Ái (Minh Khai, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội); - TT chăm sóc và nuôi dưỡng NCT Phúc Sinh (Phù Đổng, Huyện Gia Lâm, Hà Nội); - TT điều dưỡng NCT Tuyết Thái (Đại Mạch, Huyện Đông Anh, Hà Nội); - TT điều dưỡng và chăm NCT Vạn Phúc (Vạn Phúc,Huyện Thanh Trì, Hà Nội). - TTCS NCT Từ Tâm ( Thôn Đồng trứ, Xã Phú Nghĩa , Huyện Chương Mỹ, Hà Nội) - TTCS NCT An Dưỡng Đường ( Xóm 8, Xã Kim Lan, Huyện Gia Lâm, Hà Nội) - TTCS NCT Hồ Tiên Sa (Xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Nội) - TTCS NCT Diên Hồng ( Nhà LK U07-16 Dương Nội, Yên Nghĩa, Hà Đông, Hà Nội.) - TTCS NCT người khuyết tật Tâm Phúc ( Thôn 2 xã Vạn Phúc, Huyện Thanh Trì, Hà Nội) Có thể thấy, ngoài Trung tâm bảo trợ xã hội III, các trung tâm dịch vụ được hình thành bởi một cá nhân hoặc nhóm cán bộ đã từng có kinh nghiệm trong việc chăm sóc NCT và từng được học hỏi, đào tạo một cách bài bản ở nước ngoài nên nguồn nhân lực của các trung tâm này khá đồng đều và có chất lượng. Mô hình quản lý thường gọn nhẹ, hướng vào mục tiêu hiệu quả để đạt các tiêu chuẩn về chất lượng trong chăm sóc NCT. Mô hình cơ sở tư nhân với cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, năng động nên thu hút được các nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước. Có những trung tâm đã thiết lập được mối quan hệ hợp tác, trao đổi với nhiều tổ chức xã hội nước ngoài (Thiên Đức, Phù Đổng...). Một số trung tâm mở thêm hoạt động đào tạo nghề chăm sóc NCT đạt chuẩn, cung cấp nguồn nhân lực không chỉ cho các nhà dưỡng lão ở Việt Nam mà còn cả nhà cơ sở dịch vụ ở một số nước trên thế giới như Đài Loan, Nhật Bản (Thiên 13
- Đức, Nhân Ái) ; trao đổi thông tin và tổ chức nghiên cứu kinh nghiệm chăm sóc NCT với các trường đại học lớn trên thế giới, điều hiếm gặp ở các trung tâm bảo trợ xã hội của nhà nước. Đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội, các trung tâm tư nhân cũng đã xây dựng các gói dịch vụ khác nhau: chăm sóc nuôi dưỡng toàn phần, chăm sóc ngắn ngày, chăm sóc ban ngày hoặc nhận chăm sóc tại nhà. Tuy vậy, điểm chưa thu hút được rộng rãi người sử dụng dịch vụ đó là giá cả. Trong bối cảnh phải tự đầu tư xây dựng, trả lương cho nhân viên ở mức độ phù hợp (từ 4 triệu đồng/tháng trở lên) và mặt bằng giá cả... nên chưa thể hạ giá thành sản phẩm. Cũng từ những khó khăn này, một số cơ sở mới chỉ đầu tư được phần hạ tầng cơ bản cho nuôi dưỡng và chăm sóc NCT, diện tích còn chật hẹp chưa có khuôn viên đáp ứng nhu cầu thư giãn, giải trí của NCT cũng như không gian thăm hỏi, trò chuyện khi có người nhà vào thăm. Hiện chỉ có cơ sở 2 của Trung tâm Thiên Đức (Sóc Sơn) đang xây dựng theo mô hình công viên nghỉ dưỡng. Hơn nữa, mô hình nhà dưỡng lão / trung tâm chăm sóc NCT tư nhân vẫn là mô hình tự phát, dù về chuyên môn các trung tâm này chịu sự quản lý của Sở Lao động - Thương binh và xã hội thành phố, nhưng cũng chưa có được hướng dẫn, quy định cụ thể về điều kiện, quy chuẩn nên việc quản lý, đầu tư, chất lượng dịch vụ chưa đồng đều. Việc cung cấp dịch vụ chăm sóc lại tách rời các hoạt động điều trị, nên sự kết nối trong điều trị, xử lý các tình trạng bất thường về sức khỏe hoặc đảm bảo quyền lợi về bảo hiểm y tế cho người cao tuổi chưa được đảm bảo. 2.2.2. Đánh giá hoạt động của các trung tâm chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn Thành Phố Hà Nội Tìm hiểu và trò chuyện với đội ngũ lãnh đạo, quản lý tại các cơ sở được khảo sát đều thấy rằng họ là những người tâm huyết, có nghề và đón được nhu cầu của xã hội. Bằng chứng là nhiều cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng được mở ra trong những năm gần đây; nhiều loại dịch vụ dành cho người cao tuổi được hình thành. Về cơ sở vật chất, mô hình: Bước đầu đảm bảo được những nhu cầu cơ bản trong nuôi dưỡng và chăm sóc. Ngoài việc đầu tư trang thiết bị bằng nguồn vốn tự tạo, một số cơ sở đã có sự hợp tác với những tổ chức quốc tế trong việc đầu tư trang thiết bị, học hỏi kinh nghiệm và đào tạo (Thiên Đức, Phù Đổng…). Các gói dịch vụ linh hoạt cũng đã được xây dựng để đáp ứng nhu cầu khác nhau của các gia đình. 14
- Xây dựng một lịch biểu hoạt động để chăm sóc NCT tốt hơn. Các cơ sở đều xây dựng thời gian biểu,quy định giờ giấc ăn uống, sinh hoạt và các hoạt động chung. Phân nhóm các cụ để chăm sóc cho phù hợp. Như vậy, từ phía các nhà đầu tư đã thấy trước triển vọng của loại hình dịch vụ này. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào để các chính sách hỗ trợ được triển khai trên thực tế, để học có điều kiện tốt hơn nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hóa hơn nữa các gió sản phẩm hướng tới làm hài lòng nhiều nhóm khách hàng và hạ được giá thành sản phẩm. 2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với các trung tâm chăm sóc ngƣời cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.3.1. Tổ chức thực hiện các chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật Nhìn chung các chính sách liên quan đến chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đều đã được triển khai thực hiện ở tất cả các tỉnh nghiên cứu. Tuy nhiên, do thiếu đồng bộ trong việc ban hành các chính sách cũng như thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể của trung ương nên ở một số địa phương, việc ban hành văn bản mới chỉ dừng lại ở sự chỉ đạo chung chung mà chưa cụ thể hóa vai trò của từng ban ngành và mối quan hệ liên ngành trong phối hợp triển khai thực hiện giữa các bên liên quan ở tuyến cơ sở, dẫn đến tình trạng cơ sở tuyến dưới lúng túng trong quá trình thực hiện cũng như không thống nhất trong cách thức tổ chức thực hiện. Trên thực tế, hiện tại hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ở thành phố Hà Nội vẫn chưa được tổ chức thành mạng lưới từ Thành phố đến quận, huyện như những ngành khác. Gần đây, Nhà nước cũng khuyến khích xây dựng các cơ sở công lập và tư nhân chăm sóc nuôi dưỡng người cao tuổi, nhất là từ khi có Pháp lệnh về người cao tuổi (2000) và Luật về Người cao tuổi (2009). Tại mục 3 Điều 20 Luật người cao tuổi quy định “Nhà nước khuyến khích, tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở chăm sóc người cao tuổi; đầu tư cơ sở vật chất và hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ sở chăm sóc người cao tuổi công lập; hỗ trợ kinh phí cho cơ sở chăm sóc người cao tuổi ngoài công lập nuôi dưỡng người cao tuổi quy định tại khoản 2 Điều 18 của Luật này. Cơ sở chăm sóc người cao tuổi tại khoản 2 Điều 18 gồm: Cơ sở bảo trợ xã hội; Cơ sở tư vấn, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi; Cơ sở chăm sóc người cao tuổi khác. Hệ thống Luật, Nghị định, Thông tư như đã nêu trên đã và đang hoàn thiện dần nhằm cải thiện đời việc chăm sóc người cao tuổi tại gia đình, cộng đồng và các 15
- cơ sở chăm sóc. Các dịch vụ chăm sóc đã hình thành và phát triển bên cạnh những mô hình dịch vụ chăm sóc tập trung cho người cao tuổi, nhất là ở các thành phố lớn như Hà Nội. 2.3.2. Hoạt động quản lý, cấp giấy phép hoạt động cho các trung tâm chăm sóc người cao tuổi Hiện nay, thực hiện hoá chủ chương của Đảng và nhà nước về lĩnh vực này ngoài 10 trung tâm chăm sóc NCT đã nêu ở mục 2.2 của luận văn này thì, UBND thành phố Hà Nội đã chấp thuận địa điểm, cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 04 dự án có chăm sóc NCT như: + Trung tâm nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi nhân đạo Thịnh Phúc (thôn Tương Chúc - xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì). Quy mô: 150 người cao tuổi, tổng mức đầu tư dự kiến: 11 tỷ đồng. + Trung tâm chăm sóc người cao tuổi Ngọc Hà (xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn). Quy mô: 500 người cao tuổi, tổng mức đầu tư dự kiến: 100 tỷ đồng. + Trung tâm chăm sóc sức khỏe người cao tuổi Hoa Sen (tổ dân phố Hòe Thị, phường Phương Canh, quận Nam Từ Liêm). Quy mô: 350 người cao tuổi, tổng mức đầu tư dự kiến: 265 tỷ đồng. + Trung tâm điều dưỡng và chăm sóc người cao tuổi Hà Nội thuộc dự án Tổ hợp Sơn Hà (xã Song Phượng, huyện Đan Phượng, Hà Nội). Quy mô: 400 người cao tuổi, tổng mức đầu tư dự kiến: 103 tỷ đồng. Đây có thể nói là một nỗ lực không hề nhỏ của Đảng và nhà nước nói chung, UBND thành phố Hà Nội nói riêng trong việc cụ thể hoá các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về việc QLNN đối với các trung tâm chăm sóc NCT. Điều này sẽ giúp cho việc quản lý và cấp phép đối với các loại hình này dễ dàng, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, giúp các cơ sở này phát triển nhiều hơn nữa cả về số lượng và chất lượng 2.3.3. Thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển trung tâm chăm sóc người cao tuổi 2.3.4. Huy động các nguồn lực xã hội 2.3.5. Xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý 2.3.6. Thanh tra, kiểm tra hoạt động quản lý nhà nước đối với các trung tâm chăm sóc người cao tuổi 16
- 2.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với các trung tâm chăm sóc ngƣời cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.4.1. Kết quả đạt được - Hệ thống trợ giúp xã hội dành cho người cao tuổi của Thành phố được quan tâm và phát triển trong những năm gần đây, công tác chăm sóc phát huy vai trò người cao tuổi được chú trọng đảm bảo phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm và đầu tư vào lĩnh vực chăm sóc NCT góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi của Thành phố Hà Nội. - Các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội đã và đang hoạt động hiệu quả, ngày càng thu hút được người cao tuổi, người khuyết tật và việt kiều hồi hương vào sống tại trung tâm. Các trung tâm đã tạo được môi trường thân thiện, hoạt động chuyên nghiệp, có hiệu quả, cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội, thu hút NCT và gia đình của họ tin tưởng vào dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp. NCT ở đây được chăm sóc về y tế, dinh dưỡng và tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí, vật lý trị liệu, phục hồi chức năng... - Một số các gia đình đã tin tưởng và lựa chọn các trung tâm chăm sóc NCT để gửi người thân với mong muốn được cung cấp dịch vụ chăm sóc tốt, xóa bỏ phần nào quan niệm cho rằng: "Con cái đưa bố mẹ vào nhà dưỡng lão là bất hiếu". - Trung tâm chăm sóc NCT ngoài công lập còn là nơi để đào tạo thực hành, rèn luyện kỹ năng cho các y tá, điều dưỡng làm công tác chăm sóc NCT, NKT, tạo nguồn nhân lực có chất lượng để xuất khẩu lao động. Hợp tác trong nước và quốc tế về đào tạo, chia sẻ, học hỏi và trao đổi kinh nghiệm về chăm sóc Người cao tuổi và đặc biệt là nơi tạo việc làm, thu hút nhân lực tại địa phương, tiêu thụ các sản phẩm, thực phẩm, rau củ quả sạch cho các hộ sản xuất trên địa bàn, góp phần giải quyết việc làm và đảm bảo an sinh xã hội. 2.4.2. Hạn chế - Nhận thức về hoạt động của các TTCS NCT của cơ quan hoạch định chính sách chưa toàn diện, chưa hệ thống, chưa có tính dài hạn, chưa đặt phát triển của các trung tâm này cùng với phát triển kinh tế. Nhận thức của cấp địa phương, cơ sở về công tác chăm sóc NCT và loại hình dịch vụ này còn chưa đầy đủ, nhất là về trách nhiệm tổ chức thực hiện. 17
- - Khung khổ pháp lý về hoạt động của các TTCS NCT chưa hoàn thiện, chính sách phát triển các trung tâm này còn tản nạm, quy định ở nhiều văn bản khác nhau; việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách cũng như bổ sung, sửa đổi thường chậm, chưa bảo đảm tính kịp thời; chính sách ưu đãi với loại hình dịch vụ này còn mang tính chất ứng phó với tình thế hơn là mang tính chiến lược có tính hệ thống, đồng bộ. - Mô hình dịch vụ chăm sóc NCT ở Việt Nam còn mới, do vậy vẫn còn sự e ngại, cản trở về nhận thức nên số người vào cơ sở chăm sóc NCT chưa nhiều. Đối tượng được tiếp nhận vào cơ sở phần lớn sức khỏe yếu do tai biến, lẫn do tuổi già, không tự lo được cho bản thân, cần sự chăm sóc toàn diện. Công tác chăm sóc và nuôi dưỡng NCT rất vất vả, đòi hỏi có kỹ năng chuyên môn, tận tình. Tuy nhiên nguồn nhân lực trong lĩnh vực này rất thiếu và không ổn định. - Giá dịch vụ của các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập cao, chỉ phù hợp với một bộ phận người dân có mức thu nhập cao. Do kinh phí đầu tư vào loại hình dịch vụ chăm sóc NCT có hạn; đất đai phải thuê với thời hạn ngắn nên việc đầu tư cơ sở vật chất bị hạn chế. - Chưa có nhiều cơ sở đào tạo kỹ năng chăm sóc người cao tuổi, nhân viên chăm sóc NCT chưa được đào tạo kỹ năng chăm sóc người cao tuổi thường xuyên. 2.4.3. Nguyên nhân dẫn đến các hạn chế Thứ nhất, các chính sách, pháp luật về NCT nói chung và chăm sóc NCT nói riêng còn nằm rải rác ở các luật trong đó có nhiều nội dung thiếu thống nhất, nhiều lần sửa đổi bổ sung gây hoang mang cho các nhà đầu tư dẫn đến tình trạng sợ không dám đầu tư, hoặc không muốn đầu tư. Thứ hai, thực tiễn thực hiện cải cách thủ tục hành chính liên quan đến các TTCSNCT vẫn còn chưa được thực hiện một cách triệt để như chủ trương cải cách hành chính mạnh mẽ từ Chính phủ. Thêm vào đó, việc cải cách thủ tục hành chính vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của các nhà đầu tư. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực cải cách này còn thiếu. Thứ ba, lĩnh vực chăm sóc NCT còn khá mới ở nước ta nên bộ máy QLNN còn thiếu kinh nghiệm trong quản lý, quan hệ phối hợp giữa bộ phận trong bộ máy còn hạn chế. Nhận thức của cán bộ công chức làm công tác QLNN đối với các TTCSNCT còn chưa phù hợp với thực tiễn dẫn đến chưa khuyến khích được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực chăm sóc NCT. 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 421 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 541 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 305 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 330 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Phân tích và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án đầu tư ở Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Petrolimex
1 p | 114 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển thương hiệu Trần của Công ty TNHH MTV Ẩm thực Trần
26 p | 99 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 232 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 199 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn