Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các Bệnh viện công lập của tỉnh Đắk Lắk
lượt xem 3
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là Tập trung nghiên cứu, luận giải các vấn đề mang tính khoa học cả về lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ làm việc trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Đề xuất những giải pháp để quản lý hiệu quả hơn đối với đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của người dân trong giai đoạn hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các Bệnh viện công lập của tỉnh Đắk Lắk
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………/……… …./…. HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN VĂN PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ BÁC SĨ TRONG CÁC BỆNH VIỆN CÔNG LẬP CỦA TỈNH ĐẮK LẮK Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG ĐẮK LẮK, NĂM 2018
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẢI NINH Phản biện 1: PGS.TS Trương Quốc Chính Phản biện 2: TS Trương Đình Chiến Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ, Học viện Hành chính Quốc gia. Địa điểm: Phân viện khu vực Tây Nguyên. Số 51 - Đường Phạm Văn Đồng - thành phố Buôn Ma Thuột - tỉnh Đắk Lắk. Thời gian: Vào hồi 7 giờ 00 ngày 29 tháng 01 năm 2018 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia.
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở mọi thời đại, con người luôn là vốn quý nhất của xã hội, là nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội. Vì vậy, việc chăm sóc thể lực cho con người là thật sự cần thiết, luôn cần được quan tâm và đặt lên hàng đầu. Đầu tư cho sức khoẻ là đầu tư phát triển, thể hiện bản chất tốt đẹp của xã hội; là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể; trong đó, ngành Y tế giữ vai trò nòng cốt về chuyên môn và kỹ thuật. Trong những năm qua, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân của nước ta đã đạt được những kết quả tích cực, từng bước khẳng định vị thế của mình trong khu vực và quốc tế. Ngành Y tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trên tất cả các lĩnh vực khám và điều trị bệnh, đã góp phần tích cực vào sự nghiệp nâng cao chất lượng sống của người dân; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, dưới sự chỉ đạo quyết liệt, sự vào cuộc tích cực của các cấp Đảng, chính quyền; sự quan tâm, nỗ lực hết mực của ngành Y tế; trong thời gian qua, ngành Y tế tỉnh Đắk Lắk đã có những bước tiến trong quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở y tế, từng bước giúp người dân được thụ hưởng các dịch vụ y tế chất lượng cao ngay tại địa phương; nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được ứng dụng và mang lại kết quả cao trong điều trị. Để đạt được những kết quả nêu trên, bên cạnh việc thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong quản lý vĩ mô, định hướng phát triển, sự chỉ đạo quyết liệt, điều hành hiệu quả sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân thông qua hệ thống pháp lý, chính sách của Nhà nước thì còn có sự đóng góp tích cực của đội ngũ cán bộ ngành Y tế, đặc biệt là sự đóng góp, cống hiến của đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Năm 2016, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có 1.133 bác sĩ. Mặc dù có số lượng lớn bác sĩ tham gia hoạt động chuyên môn, nhưng hiện nay, các đề tài nghiên cứu liên quan đến vấn đề quản lý Nhà nước đối với nguồn nhân lực ngành Y tế chỉ thực hiện mang tính riêng lẻ ở từng vùng, miền, chưa có tập trung nghiên cứu tổng thể về quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Thực tế cho thấy, trong quá trình quản lý, ngành Y tế tỉnh Đắk Lắk còn có những lúng túng, chưa đưa ra được các giải pháp quản lý mang tính đột phá để phát huy tối đa hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước. Việc quản lý thông qua hệ thống các văn bản quản lý, cơ chế tài chính, chính sách thu hút nhân tài, chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp, chính sách đãi ngộ, đào tạo, tuyển dụng, khen thưởng còn nhiều bất cập. Do đó, việc nghiên cứu và đưa ra các giải pháp phù hợp với tình hình hình thực tế của địa phương trong thời kỳ hội nhập quốc tế là vấn đề mang tính cấp bách cả về lý luận và thực tiễn, là yêu cầu khách quan của quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới. Từ thực tế nêu trên, Tác giả chọn nội dung “Quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các Bệnh viện công lập của tỉnh Đắk Lắk” để làm chủ đề nghiên cứu của Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công. 1
- 2. Tình hình nghiên cứu Quản lý viên chức, trong đó có đội ngũ bác sĩ không còn là vấn đề mới; nhưng đội ngũ bác sĩ là lực lượng quang trọng, có vai trò nòng cốt trong cơ cấu tổ chức của tất cả các Bệnh viện. Vì vậy, công tác quản lý, đào tạo, tuyển dụng và sử dụng.v.v. đội ngũ bác sĩ luôn được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Liên quan đến chủ đề của Luận văn, đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu đã được công bố như: - Phạm Văn Tác (2014), Quản lý Nhà nước đội ngũ cán bộ chuyên khoa sau đại học trong lĩnh vực Y tế. Luận án Tiến sỹ Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội. - Nguyễn Tuấn Vũ (2015), Phát triển nguồn nhân lực ngành Y tế của tỉnh Đắk Lắk, Luận Văn Thạc sỹ Kinh tế, Đại học Đà Nẵng. - Trần Công Lộc (2016), Đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế cho khu vực công trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Đại học Đà Nẵng. - Vũ Hoàng Quỳnh (2016), Quản lý Nhà nước đối với viên chức ngành Y tế - từ thực tế Bệnh viện phổi Trung ương, Luận văn Thạc sỹ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia. - Nguyễn Thị Thu Phương (2016), Tạo động lực làm việc cho viên chức Bệnh việc Đa khoa Đông Anh, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia. - Vũ Tiến Dũng (2016), Quản lý Nhà nước về bồi dưỡng viên chức chuyên môn có trình độ sau đại học tại Bệnh viện hạng đặc biệt ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia. Các công trình khoa học, đề tài nghiên cứu, các bài viết phân tích, đánh giá đã phần nào làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến quản lý Nhà nước đối với viên chức ngành Y tế của nước ta nói chung, của tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn một số nội dung sau đây chưa được đề cập đến một cách trực tiếp, toàn diện dưới góc độ tiếp cận là một Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Chưa có nghiên cứu trực tiếp đến vấn đề quản lý đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk; chưa có sự phân tích chuyên sâu, cụ thể về việc quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk; chưa có nghiên cứu cụ thể về thực trạng công tác tuyển dụng, chế độ đãi ngộ, đào tạo, quản lý, đánh giá đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Nội dung Luận văn sẽ tập trung phân tích và làm rõ một số vấn đề sau: Làm rõ các khái niệm, các nhân tố tác động đến nội dung quản lý đối với đội ngũ bác sĩ trong các BVCL; làm rõ các vấn đề còn tồn tại trong công tác tuyển dụng, đào tạo và đãi ngộ đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk; làm rõ những nhiệm vụ của quản lý Nhà nước trong bối cảnh nhu cầu về đội ngũ bác sĩ làm việc tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk ngày càng gia tăng ; đề xuất các giải pháp sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy; đề xuất một số chính sách, chế độ đãi ngộ trong tuyển dụng và sử dụng đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích 2
- Tập trung nghiên cứu, luận giải các vấn đề mang tính khoa học cả về lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ làm việc trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Đề xuất những giải pháp để quản lý hiệu quả hơn đối với đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của người dân trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Phân tích cơ sở khoa học của quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Phân tích, đánh giá thực trạng, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong công tác quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Đề xuất một số định hướng và giải pháp để góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ làm việc trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về các hoạt động quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện có 20 BVCL, gồm: BVĐK tỉnh, 14 BVĐK của các huyện, thị xã, thành phố, BVĐK khu vực 333, Bệnh viện Y học cổ truyền, Bệnh viện Lao và Bệnh phổi, Bệnh viện Tâm thần và Bệnh viện Mắt. Trong phạm vi Luận văn, tác giả triển khai nghiên cứu tại 15 BVĐK gồm: BVĐK tỉnh, 14 BVĐK của các huyện, thị xã, thành phố. Về thời gian: Nội dung Luận văn nghiên cứu, phân tích trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến ngày 30/12/2016. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát triển để phân tích và tổng hợp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau: Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu; Phương pháp tổng hợp; Phương pháp nghiên cứu bổ trợ khác. 6. Đóng góp mới của Luận văn Về lý luận: Phân tích làm rõ thêm các nội dung của quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ làm việc trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Phân tích các yếu tố tác động đến quản lý Nhà nước nguồn nhân lực này. Về thực tiễn: Phân tích, đánh giá về thực trạng công tác quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Làm rõ những kết quả đạt được, chỉ ra những 3
- hạn chế và phân tích các nguyên nhân của hạn chế. Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp khả thi để tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Ngoài ra, Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học làm căn cứ, là tài liệu tham khảo cho các bác sĩ, các công chức, viên chức, kể cả các công chức lãnh đạo quản lý Nhà nước trong và ngoài ngành Y tế vận dụng thực hiện trong thực tế công tác của mình. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các chữ viết tắt, Danh mục các Bảng thống kê số liệu và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 03 Chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các Bệnh viện công lập. Chương 2: Thực trạng quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các Bệnh viện công lập của tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các Bệnh viện công lập của tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới. 4
- Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ BÁC SĨ TRONG CÁC BỆNH VIỆN CÔNG LẬP 1.1. Quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các Bệnh viện công lập 1.1.1. Khái quát về quản lý Nhà nước 1.1.1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước - Khái niệm về quản lý: Mặc dù có nhiều khái niệm, cách hiểu khác nhau về quản lý, tuy nhiên, có thể hiểu một cách tổng quát: Quản lý được xem là quá trình tổ chức, chỉ đạo, điều hành; là sự tác động có kế hoạch, mang tính chỉ huy, định hướng, hướng dẫn, kiểm tra của nhà quản lý đối với đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất định do nhà quản lý đề ra dựa trên những quy luật khách quan. - Khái niệm về quản lý Nhà nước: Là một dạng quản lý xã hội đặt biệt, mang tính quyền lực Nhà nước và sử dụng pháp luật, chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, do các cơ quan trong bộ máy Nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sợ ổn định và phát triển xã hội. 1.1.1.2. Quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các Bệnh viện công lập - Nguồn nhân lực: Hiểu một cách tổng quát thì nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con người với sự giao thoa giữa các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức, tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội sẽ vận dụng trong quá trình tác động vào tự nhiên để duy trì và phát triển xã hội. - Quản lý Nhà nước đối với nguồn nhân lực: Là quá trình các chủ thể quản lý mang tính quyền lực Nhà nước thông qua việc sử dụng hệ thống các thể chế pháp luật và các biện pháp cụ thể để tác động đến sự hình thành, phát triển nguồn nhân lực nhằm thu hút nhân tài, nâng cao trình độ, khai thác và phát huy hết tiềm năng của cá nhân để đáp ứng nhu cầu và hoàn thành với kết quả cao nhất trong việc thực thi nhiệm vụ được giao. - Quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các BVCL: Là sự tác động có định hướng, có tổ chức của nhà quản lý thông qua việc sử dụng hệ thống các thể chế pháp luật của Nhà nước, các chính sách, các công cụ phù hợp tác động đến đội ngũ bác sĩ nhằm phát huy hiệu quả cao nhất các nguồn nhân lực hiện có để đạt được các mục tiêu, kế hoạch đã đề ra. 1.1.2. Nội dung quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ trong các Bệnh viện công lập 1.1.2.1. Hoạch định chiến lược và xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ bác sĩ làm việc trong các Bệnh viện công lập Việc lập chiến lược phát triển đội ngũ bác sĩ làm việc trong các BVCL là một quy trình có tính hệ thống nhằm xác định tầm nhìn dài hạn trong tương lai về nguồn nhân lực chất lượng cao. Phụ thuộc vào đặc thù vùng, miền, điều kiện kinh tế xã hội của địa phương và trên cơ sở chiến lược chung của quốc gia mà các địa phương có những chính sách của riêng mình nhằm giải quyết các vấn đề y tế và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân trên trên địa bàn quản lý hướng tới các mục tiêu chung đã đề ra. Kế hoạch phát triển đội ngũ bác sĩ làm việc trong các BVCL là một chương trình hành động với mục tiêu cụ thể nhằm liên tục bổ sung, huy động, sử dụng và tạo động lực 5
- cho đội ngũ bác sĩ cống hiến để đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Việc hoạch định chiến lược và xây dựng kế hoạch được thể chế hóa bằng hệ thống các văn bản, đây là những công cụ quan trọng của quản lý và cần lưu ý đến một số vấn đề sau: Phải xác định, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ bác sĩ, nhìn thẳng vào thực trạng để xác định những tồn tại, hạn chế để đưa ra những giải pháp hiệu quả, thay đổi phương thức chỉ đạo, điều hành , phát triển hợp lý, hợp pháp và sát với thực tế đối với đội ngũ bác sĩ để giải quyết các thách thức của thời đại. Đánh giá, nhận định xu hướng phát triển của đất nước và thế giới, từ đó định hướng xây dựng cơ chế quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, chế độ đãi ngộ…và xác định các mục tiêu cụ thể phát triển đội ngũ bác sĩ làm việc trong các BVCL, đảm bảo tính khả thi và có hiệu lực, hiệu quả. Trong tất cả các khâu nêu trên, nhà quản lý cần phải huy động sự tham gia, có ý kiến góp ý tích cực, hiệu quả từ người dân và các đối tượng liên quan đối với các dự thảo nội dung của chính sách, kế hoạch. Đồng thời, tăng cường công tác trao đổi thông tin, cơ chế phối hợp và đối thoại trực tiếp giữa các nhóm được giao nhiệm vụ hoạch định chính sách với các tổ chức, cá nhân, địa phương liên quan, để đưa ra những chính sách phù hợp nhất với điều kiện thực tế của từng địa phương, vùng, miền, khu vực. 1.1.2.2. Tổ chức tuyển dụng bác sĩ làm việc trong các Bệnh viện công lập Hiểu một cách đơn giản thì tuyển dụng là việc tìm kiếm, lựa chọn nhân sự để làm việc, phù hợp với mục đích và mục tiêu của tổ chức. Tuyển dụng là một hoạt động diễn ra trong thời gian ngắn nhưng có ảnh hưởng sâu rộng, xuyên suốt tới sự tồn tại và phát triển của một tổ chức; nếu hoạt động tuyển dụng được thực hiện hiệu quả sẽ là cơ sở để xây dựng một đội ngũ nhân sự làm việc có trình độ, năng lực, đạo đức nghề nghiệp và góp phần đẩy nhanh tiến trình phát triển của tổ chức và ngược lại. Việc tuyển dụng được đội ngũ bác sĩ chất lượng cao, có đạo đức nghề nghiệp không những góp phần giúp nâng cao chất lượng dịch vụ y tế mà còn tăng cường công bằng trong chăm sóc sức khỏe và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực của các BVCL. Để đảm bảo tuyển dụng được đội ngũ bác sĩ có chất lượng cao, bên cạnh các điều kiện như: Lý lịch chính trị rõ ràng, độ tuổi, sức khỏe, quốc tịch… thì cần phải chú ý đến những điều kiện sau: Trình độ chuyên môn, năng lực công tác theo yêu cầu của vị trí việc làm; có tư cách đạo đức và y đức. 1.1.2.3. Phát triển đội ngũ bác sĩ làm việc trong các Bệnh viện công lập Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm tạo ra sự thay đổi tích cực về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực, được biểu hiện ở việc hoàn thiện và nâng cao kiến thức, kỹ năng, nhận thức của nguồn nhân lực, nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Nghị quyết số 46/NQ-TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị đã đưa ra giải pháp chiến lược về nguồn nhân lực y tế của nước ta, đó là: “Kiện toàn đội ngũ cán bộ y tế cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, sắp xếp lại mạng lưới, mở rộng và nâng cấp các cơ sở đào tạo, đáp ứng nhu cầu về cán bộ y tế phù hợp với quy hoạch phát triển ngành; chú trọng đào tạo cán bộ quản lý y tế, nhất là cán bộ quản lý BVCL; xây dựng và thực hiện chính sách đãi 6
- ngộ hợp lý đối với cán bộ, nhân viên y tế; thực hiện việc luân chuyển cán bộ; khuyến khích thầy thuốc về công tác ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn”. Thông qua hoạt động này có thể sắp xếp, bố trí, bổ nhiệm, đề bạt thuyên chuyển hoặc loại bỏ những nhân sự không đáp ứng được yêu cầu của vị trí việc làm đang đảm nhận và thu nạp mới những nhân sự có trình độ, năng lực đảm bảo đáp ứng yêu cầu đề ra. Việc sắp xếp, kiện toàn đội ngũ bác sĩ phải đảm bảo tính ổn định của tổ chức và gắn với điều kiện làm việc, các chế độ, chính sách đãi ngộ hợp lý; tạo động lực để họ cống hiến hết mình cho nhiệm vụ được giao. Song song đó, nhà quản lý phải tập trung rà soát, thực hiện việc đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ bác sĩ hiện có. 1.1.2.4. Tổ chức đánh giá, khen thưởng đối với bác sĩ làm việc trong các Bệnh viện công lập Đánh giá bác sĩ, về bản chất đây là sự đo lường về phẩm chất, năng lực của bác sĩ. Đây là khâu quan trọng tác động đến tất cả các khâu của quá trình quản lý Nhà nước đối với bác sĩ, đặc biệt là công tác bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chế độ, chính sách đối với bác sĩ trong các BVCL. Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc đánh giá, khen thưởng không được phiến diện, đánh giá không đúng thực chất về thành tích, mang tính chủ nghĩa cá nhân, thiên vị, cục bộ địa phương. 1.2. Các yếu tố tác động đến việc phát triển đội ngũ bác sĩ trong các Bệnh viện công lập 1.2.1. Thể chế Nhà nước Thể chế của một tổ chức là hệ thống các quy định, quy tắc, chuẩn mực được ban hành và sử dụng để điều chỉnh sự vận hành của tổ chức nằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Thể chế Nhà nước là hệ thống các quy định do Nhà nước ban hành dưới hình thức là một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội theo một hệ thống các chuẩn mực nhất định. Thể chế Nhà nước được hệ thống thành 03 nội dung gồm: (1) Hệ thống quan điểm hình thành nên các căn cứ pháp luật; (2) Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội; (3) Hệ thống tổ chức các cơ quan thực thi pháp luật. Trong quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ, thể chế Nhà nước có vai trò quan trọng, mang tính quyết định đến hiệu lực, hiệu quả của quản lý. Với tư cách là công cụ quản lý xã hội, nó định hướng hành vi, hướng dẫn, tạo khung khổ pháp lý cho việc tổ chức, vận hành các hoạt động và xác định địa vị pháp lý của bác sĩ, nó giúp cho bác sĩ nhận biết được chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình để có những cách thức ứng xử trong quan hệ và thực hiện nhiệm vụ một cách phù hợp; từ đó kiểm soát và hạn chế các hành vi mang tính chất tham nhũng. Hệ thống thể chế Nhà nước trong quản lý đội ngũ bác sĩ của nước ta đang từng bước được hoàn thiện và phù hợp với xu hướng phát triển trong nước và quốc tế. 1.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ 7
- Đội ngũ bác sĩ luôn phải được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, nghiệp vụ, đặc biệt là đào tạo chuyên khoa để rèn luyện kỹ năng làm chủ công nghệ kỹ thuật cao nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, đến nay, nhiều chính sách đã được ban hành và triển khai liên quan đến công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế, với mục tiêu chung là “phát triển nhân lực y tế đủ số lượng, chất lượng, cơ cấu và phân bố hợp lý, để góp phần nâng cao chất lượng công tác y tế, dân số, và đáp ứng nhu cầu về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của nhân dân hướng tới mục tiêu công bằng, hiệu quả và phát triển.”;“Đổi mới đào tạo nguồn nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu đạt chuẩn năng lực và nhu cầu sử dụng của hệ thống y tế. Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh.”. Như vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của nguồn nhân lực ngành Y tế nói chung, đội ngũ bác sĩ nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thực hiện và đạt được kết quả khả quan. Chính phủ cũng đặc biệt chú trọng đến sự gia tăng về cơ sở đào tạo, chất lượng đào tạo. “Mạng lưới các cơ sở đào tạo cán bộ y tế đã được mở rộng đáng kể trong thời gian qua. Tính đến tháng 6/2014, cả nước đã có 173 cơ sở đào tạo CBYT ở tất cả các trình độ với 68 cơ sở đào tạo ngoài công lập. Trong số đó, có 35 cơ sở đào tạo trình độ đại học (14 trường y tế, 21 trường đa ngành), tăng 10 cơ sở so với năm 2010, 44 cơ sở đào tạo trình độ cao đẳng và 123 cơ sở đào tạo trình độ trung cấp chuyên nghiệp”. 1.2.3. Chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ Lao động trong ngành Y tế nói chung và đội ngũ bác sĩ nói riêng là lực lượng lao động với nhiều tính chất đặc thù với thời gian đào tạo, thực hành nghiệp vụ dài hơn so với các ngành nghề khác; cường độ làm việc căng thẳng và luôn có nguy cơ cao bị tai nạn nghề nghiệp do phải thường xuyên, trực tiếp tiếp xúc với bệnh nhân và các dịch bệnh truyền nhiễm cũng như các loại hoá chất độc hại... Do vậy, cần phải đặc biệt quan tâm đến các chính sách ưu đãi phù hợp thì mới khuyến khích, phát huy triệt để tinh thần trách nhiệm, sự nhiệt huyết và cống hiến của đội ngũ bác sĩ làm việc trong các BVCL. Trong thực tế, mặc dù Chính phủ đã ban hành một số chính sách trực tiếp hoặc gián tiếp tăng cường, thu hút nhân lực cho mạng lưới y tế; nhưng theo quy định của Bộ Nội vụ, mức lương của bác sĩ cũng giống như lương của giáo viên, kỹ sư, của các ngành nghề khác. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu tại Báo cáo chung tổng quan ngành y tế (JAHR) năm 2015 thì “Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ y tế chưa phù hợp, lương và phụ cấp cho cán bộ y tế quá thấp, không tương xứng với thời gian học tập, công sức lao động, môi trường lao động, điều kiện làm việc vất vả, nhất là ở khu vực miền núi, nông thôn. Một số hình thức thu hút như thưởng tiền, phong trào tình nguyện của bác sĩ trẻ về công tác tại miền núi, vùng sâu, vùng xa có thể sẽ khó duy trì lâu dài, Đề án 1816 “luân chuyển cán bộ y tế” tuy có giải quyết được một số khó khăn bước đầu về nhân lực, nhưng cũng bị hạn chế nếu thiếu một chính sách tầm quốc gia như Nghị định của Chính phủ về sử dụng và đãi ngộ đặc biệt cán bộ y tế theo tinh thần Nghị quyết 46 của Bộ Chính trị”. Tại Hội nghị Trung ương Đảng 6, Khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đánh giá“Đào tạo, sử dụng, cơ cấu, chế độ đãi 8
- ngộ cán bộ y tế còn nhiều bất cập”; “còn có sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa các cơ sở y tế công lập với tư nhân, giữa các bộ phận trong cùng cơ sở.”. 1.2.4. Điều kiện vật chất để tạo môi trường hoạt động cho đội ngũ bác sĩ làm việc trong các Bệnh viện công lập Để phát huy tối đa những kỹ năng, trình độ chuyên môn của đội ngũ bác sĩ thì điều kiện vật chất của các cơ sở y tế có những ảnh hưởng nhất định. Vì vậy, đòi hỏi Nhà nước phải có sự quan tâm đúng mức đến công tác đầu tư xây dựng, trang bị cơ sở vật chất thỏa đáng cho lĩnh vực y tế. Theo nhận định tại Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế năm 2015 “Dù mục tiêu là tăng nhanh chi NSNN cho y tế và tăng tỷ lệ chi công trong tổng chi y tế, nhưng số liệu gần đây nhất cho thấy tỷ lệ chi công trong tổng chi y tế có xu hướng giảm nhẹ, từ 49,4% năm 2010 xuống còn 44,1% năm 2012, chưa đạt mục tiêu 50% và chưa bền vững. Tỷ lệ chi NSNN cho y tế khó đạt được mức 10% so với tổng chi NSNN, đặc biệt với tốc độ tăng chi NSNN cho y tế sụt giảm trong vài năm gần đây. Khó khăn về kinh tế vĩ mô ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện mục tiêu tăng chi NSNN cho y tế. Việc thực hiện các sáng kiến huy động thêm nguồn tài chính cho y tế mới ở mức độ hạn chế và chưa được quan tâm đúng mức.” [40, Tr 51]. Tại Hội nghị Trung ương Đảng 6, Khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đánh giá “Nguồn lực tài chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, thu nhập của người dân còn thấp, tiềm lực kinh tế chưa đủ mạnh, trong khi nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người dân ngày càng cao, đa dạng; yêu cầu đầu tư cho y tế lớn. Dược phẩm, thiết bị y tế chủ yếu phải nhập khẩu, theo mặt bằng giá quốc tế.”. Do khó khăn về tài chính nên việc đầu tư, mua sắm các trang thiết bị, đặc biệt là các máy móc hiện đại chưa được quan tâm đúng mức; Trong thời gian tới cần phải đẩy mạnh việc xã hội hóa để huy động mạnh mẽ nguồn lực ngoài ngân sách đầu tư vào cơ sở vật chất cho lĩnh vực y tế nhằm đầu tư xây dựng, cải thiện cơ sở hạ tầng Bệnh viện. 1.2.5. Yếu tố tổ chức bộ máy Mỗi cơ quan, tổ chức trong bộ máy hành chính Nhà nước được thành lập khi được pháp luật cho phép và được tổ chức hoạt động dựa trên các quy định chặt chẽ của pháp luật. Các BVCL của tỉnh Đắk Lắk được thành lập theo quy định của pháp luật và hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp tự chủ một phần chi phí hoạt động. Theo quy định thì các đơn vị sự nghiệp được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính. Tuy nhiên, với đơn vị sự nghiệp tự chủ một phần chi phí hoạt động thì các đơn vị phải chịu sự quản lý, can thiệp sâu của các cơ quan quản lý Nhà nước. Điều này đã làm giảm tính năng động và tính tự chủ của các đơn vị sự nghiệp. Thực hiện Thông tư số 37/2016/TT-BYT của Bộ Y tế thì đến ngày 01/01/2021 thì trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk không còn BVCL tuyến huyện (hoặc có thể còn duy trì BVĐK thị xã Buôn Hồ và BVĐK thành phố Buôn Ma Thuột – Bệnh viện hạng II). Đây là thời điểm để tỉnh Đắk Lắk xây dựng phương án tổ chức lại các BVCL bảo đảm không trùng lắp về nhiệm vụ, tinh giản về cơ cấu tổ chức, tăng cường hiệu quả hoạt động, khả năng cân đối về tài 9
- chính; việc này sẽ góp phần nâng cao nguồn lực đầu tư cho phát triển y tế nói chung và đội ngũ bác sĩ nói riêng. 1.2.6. Các yếu tố khác Bên cạnh các yếu tố tác động đã trình bày ở trên thì còn có nhiều yếu tố tác động đến việc duy trì và phát triển đội ngũ cán bộ bác sĩ trong các BVCL như: Yếu tố năng lực của nhà quản lý; tác động của hội nhập quốc tế; trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội, yếu tố thanh tra, kiểm tra, giám sát; yếu tố về sự tham gia của nhân dân và các tổ chức vào hoạt động quản lý Nhà nước đối với bác sĩ ngành Y tế, yếu tố văn hóa vùng miền và văn hóa tổ chức… 10
- Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ BÁC SĨ TRONG CÁC BỆNH VIỆN CÔNG LẬP CỦA TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Tổng quan về ngành Y tế tỉnh Đắk Lắk 2.1.1. Về tỉnh Đắk Lắk Đắk Lắk là tỉnh nằm ở trung tâm của vùng Tây Nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng với diện tích tự nhiên 1.303.045 km2, dân số khoảng 1.874.459 người; có 01 thành phố, 01 thị xã, 13 huyện với 125 xã, 20 phường, 12 thị trấn; 2.470 thôn, buôn, tổ dân phố. Tỉnh Đắk Lắk có 05 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao là: Krông Bông (38,95%), Buôn Đôn (42,46%), M’Drắk (46,33%), Ea Súp (48,63%), Lắk (50,24%). Dân cư Đắk Lắk là cộng đồng gồm 47 dân tộc cùng chung sống, trong đó, dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ hơn 33% dân số toàn tỉnh. Ngoài các dân tộc thiểu số tại chỗ là Ê đê, M’nông, Gia Rai còn có số đông đồng bào dân tộc thiểu số của các tỉnh khác di cư đến sinh sống. Tỉnh Đắk Lắk có hệ thống giao thông đường bộ thuận lợi nối liền với các tỉnh trong vùng Tây Nguyên và Duyên hải miềm Trung gồm: Quốc lộ 14, quốc lộ 27, quốc lộ 26, quốc lộ 14 C và quốc lộ 29 và hệ thống đường hàng không đi đến nhiều tỉnh, thành trong cả nước; phía Đông giáp tỉnh Khánh Hòa, tỉnh Phú Yên, phía Tây giáp tỉnh Đắk Nông, phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai. Ngoài ra tỉnh có khoảng 73 km đường biên giới và cửa khẩu Đắk Ruê với tỉnh Mondulkiri, Vương quốc Campuchia. 2.1.2. Về ngành Y tế tỉnh Đắk Lắk Sở Y tế là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh có chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý Nhà nước về y tế. Sở Y tế hiện quản lý 47 đơn vị trực thuộc, bao gồm: 20 Bệnh viện (05 Bệnh viện tuyến tỉnh, 01 BVĐK khu vực, 14 BVĐK tuyến huyện), 10 Trung tâm y tế tuyến tỉnh, 02 Chi Cục, 15 Trung tâm Y tế tuyến huyện (quản lý 185 trạm y tế xã/phường/thị trấn) và 15 Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình tuyến huyện trực thuộc Chi Cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình. Tính đến 31/12/2016, ngành Y tế có tổng số 5.924 công chức, viên chức và người lao động. Trong đó: Tổng số nữ là 3,837 người, chiếm tỷ lệ 64,77 %; người dân tộc thiểu số là 990 người, chiếm tỷ lệ 16,71%. 2.2. Đánh giá công tác quản lý Nhà nước đối với đội ngũ bác sĩ làm việc trong các Bệnh viện công lập của tỉnh Đắk Lắk 2.2.1. Hoạch định chiến lược và xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ bác sĩ làm việc trong ngành Y tế tỉnh Đắk Lắk UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số 3433/QĐ-UBND ngày 30/12/2011 về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực của tỉnh giai đoạn 2011 - 2020; theo đó, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của ngành Y tế như sau: “Đến năm 2015, tổng số cán bộ y tế có khoảng 07 nghìn người, trong đó, cán bộ y khoảng 6,1 nghìn người, cán bộ dược khoảng 0,9 nghìn người. Về trình độ đào tạo, có 03 tiến sỹ Y khoa, 70 thạc sỹ, 65 bác sĩ chuyên khoa cấp II, 390 bác sĩ chuyên khoa cấp I và 1.060 bác sĩ, có 10 dược sỹ sau đại học và 260 dược sỹ đại học (đạt 38 cán bộ y tế/10 nghìn dân, trong đó đạt khoảng 8,5 bác sĩ/10 nghìn dân). 11
- Đến năm 2020, tổng số cán bộ y tế có khoảng 7,9 nghìn người, trong đó, cán bộ y khoảng 6,9 nghìn người, cán bộ dược khoảng 01 nghìn người. Về trình độ đào tạo, có 08 tiến sỹ Y khoa, 105 thạc sỹ, 115 bác sĩ chuyên khoa cấp II, 470 bác sĩ chuyên khoa cấp I và 1.150 bác sĩ, có 35 dược sỹ sau đại học và 295 dược sỹ đại học (đạt 40 cán bộ y tế/10 nghìn dân, trong đó đạt khoảng 9,3 bác sĩ/10 nghìn dân)”. Như vậy, tỉnh Đắk Lắk đã có Quy hoạch phát triển nhân lực của tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2011 – 2020, phù hợp với định hướng phát triển chung của quốc gia và có xác định các nhóm giải pháp để đảm bảo thực hiện thành công các mục tiêu đề ra. Trong giai đoạn từ năm 2011 - 2015, mặc dù số bác sĩ/10 nghìn dân luôn có tỷ lệ % tăng qua hàng năm. Tuy nhiên, đến cuối năm 2015, tỉnh Đắk Lắk không thực hiện đạt chỉ tiêu, kế hoạch đề ra; cụ thể, đến năm 2015, số bác sĩ/10 nghìn dân chỉ đạt 7,05, trong khi kế hoạch đề ra là 8,5. Thêm vào đó, năm 2016, theo tính toán sơ bộ thì số bác sĩ/10 nghìn dân chỉ đạt 6,08, giảm 0,97 bác sĩ so với năm 2015. Đây là tín hiệu không tốt để đảm bảo thực hiện hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đạt khoảng 9,3 bác sĩ/10 nghìn dân vào năm 2020. 2.2.2. Tổ chức tuyển dụng bác sĩ làm việc trong các Bệnh viện công lập của tỉnh Đắk Lắk Nhằm bổ sung đội ngũ bác sĩ đủ về số lượng, đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực theo yêu cầu của vị trí việc làm và chức danh nghề nghiệp cho các đơn vị trực thuộc Sở Y tế; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm theo chức danh nghề nghiệp và cơ cấu ngạch cần tuyển; căn cứ các quy định hiện hành, hàng năm, Sở Y tế xây dựng Kế hoạch tuyển dụng viên chức sự nghiệp, trong đó có các chỉ tiêu tuyển dụng bác sĩ làm việc tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Kế hoạch tuyển dụng của tỉnh Đắk Lắk có một số nội dung mang tính riêng biệt như sau: Về nguyên tắc tuyển dụng: Xét nguyện vọng 2 ở các vị trí người trúng tuyển không đến nhận công tác mà không có lý do chính đáng. Về phương thức tuyển dụng: Luôn sử dụng hình thức xét tuyển. Về xét tuyển bổ sung: Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày công bố kết quả, người trúng tuyển không đến nhận công tác thì tổ chức xét tuyển bổ sung trong số người dự tuyển đã được phê duyệt kết quả. Về xét tuyển đặc cách: Thêm đối với người tốt nghiệp thạc sỹ, tiến sỹ, bác sĩ chuyên khoa cấp II, bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa cấp I ở trong nước và ngoài nước, có chuyên ngành đào tạo phù hợp với vị trí việc làm cần tuyển, trừ các trường hợp mà vị trí việc làm và chức danh nghề nghiệp cần tuyển dụng yêu cầu trình độ đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ, bác sĩ chuyên khoa cấp II, bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa cấp I. Qua tổng hợp, ngành Y tế tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức 03 đợt tuyển dụng trong các năm 2011, 2014, 2016, tuyển dụng được 244/499 bác sĩ đảm bảo theo trình tự, thủ tục quy định và bố trí làm việc tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Mặc dù số lượng biên chế bác sĩ được giao thấp hơn so với định biên theo quy định và nhu cầu tuyển dụng đội ngũ bác sĩ luôn duy trì ở mức cao. Nhưng, thực tế việc tuyển dụng bác sĩ không đạt được mục tiêu đề ra, cụ thể: Năm 2011, tổng nhu cầu tuyển dụng là 142 bác sĩ, tuy nhiên chỉ tuyển dụng được 21 bác sĩ, tỷ lệ tuyển dụng bác sĩ đạt rất thấp (chỉ đạt 14,7%). Trong đó có 11/15 BVCL của 12
- tỉnh Đắk Lắk không tuyển dụng được bác sĩ và BVĐK tỉnh cũng chỉ thực hiện được 28% nhu cầu tuyển dụng. Năm 2014, mặc dù sau 02 năm (2012, 2013) ngành Y tế tỉnh Đắk Lắk không tổ chức tuyển dụng bác sĩ, nhưng tình hình tuyển dụng bác sĩ trong năm 2014 cũng không có nhiều khởi sắc. Tổng nhu cầu tuyển dụng là 217 bác sĩ, nhưng chỉ tuyển dụng được 133 bác sĩ (chỉ đạt 61,2%), số bác sĩ không tuyển dụng được là 82 bác sĩ. Trong đó có, 06/15 BVCL của tỉnh Đắk Lắk thực hiện đạt trên 50% nhu cầu tuyển dụng, 09/15 BVCL của tỉnh Đắk Lắk có kết quả tuyển dụng đạt thấp, dưới 50% nhu cầu tuyển dụng, đặc biệt là huyện Ea Súp không tuyển dụng được bác sĩ. Năm 2016, tổng nhu cầu tuyển dụng là 140 bác sĩ nhưng chỉ tuyển dụng được 90 bác sĩ, chỉ đạt 64% kế hoạch đề ra. Trong đó, có 06 BVCL của tỉnh Đắk Lắk có kết quả tuyển dụng đạt thấp là: BVĐK Krông Ana, BVĐK Lắk, BVĐK Krông Bông, BVĐK M’Drắk, BVĐK Krông Năng, BVĐK Cư Kuin. Đặc biệt, BVĐK Ea Súp trong 03 kỳ tuyển dụng liên tiếp (2011, 2014, 2016) không tuyển dụng được bác sĩ. Đối với các trường hợp xét tuyển đặc cách, trong kỳ tuyển dụng năm 2014 và 2016 đã tuyển dụng được 31 bác sĩ, chiếm hơn 11% tổng số bác sĩ tuyển dụng được và chỉ có BVĐK tỉnh mới thu hút được nguồn nhân lực này; 100 % các Bệnh viện tuyến huyện không tuyển dụng được lực lượng này. Để giảm bớt áp lực thiếu bác sĩ làm việc tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk và thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hàng năm Sở Y tế hợp đồng thêm bác sĩ ngoài biên chế. Số lượng hợp đồng lao động biến động qua hàng năm. Tuy nhiên, việc hợp đồng lao động tập trung ở BVĐK tỉnh. Việc không tuyển dụng được bác sĩ làm việc tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk là một vấn đề rất đáng quan tâm và đòi hỏi các nhà quản lý của tỉnh Đắk Lắk phải có những giải pháp hiệu quả để khắc phục trong thời gian tới nhằm đảm bảo tuyển dụng đủ số lượng bác sĩ với chất lượng cao nhất để giảm tải áp lực và nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ khám chữa bệnh, đặc biệt là các BVCL ở các huyện có điều kiện kinh tế khó khăn. Song song với việc khó khăn trong việc tuyển dụng bác sĩ và thiếu bác sĩ làm việc ở tất cả các BVCL là tình trạng bác sĩ bỏ việc, xin chuyển công tác đến những nơi có điều kiện làm việc tốt hơn diễn ra phổ biến đã làm vấn đề thiếu bác sĩ làm việc ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Trong giai đoạn từ năm 2011-2016 ngành Y tế Đắk Lắk có 97 nhân viên xin thôi việc. Trong đó có 25 bác sĩ làm việc tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Trong 25 bác sĩ xin thôi việc có 13 bác sĩ có trình độ thạc sỹ, chuyên khoa I; số lượng bác sĩ này chủ yếu làm việc tại BVĐK tỉnh và xu hướng bác sĩ xin thôi việc ở các BVCL của tỉnh Đắk Lắk ngày càng gia tăng. 2.2.3. Phát triển đội ngũ bác sĩ làm việc trong các Bệnh viện công lập của tỉnh Đắk Lắk 2.2.3.1. Về số lượng bác sĩ làm việc Theo quy định tại Thông tư số 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2017 của liên Bộ Nội vụ, Y tế về hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế Nhà nước thì số lượng người làm việc/gường bệnh được tính như sau: BVĐK hạng I (tuyến tỉnh) là từ 1,40 – 1,45; BVĐK hạng II (tuyến huyện, thị xã, thành phố) là từ 1,25 – 1,40; BVĐK hạng 13
- III (tuyến huyện, thị xã, thành phố) là từ 1,10 – 1,20 và cơ cấu Bác sĩ/chức danh chuyên môn y tế khác (Điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên) là 1/3 – 1/3,5. Căn cứ quy định nêu trên và qua thống kê thì tổng số bác sĩ thực tế làm việc tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk so với định mức quy định đạt như sau: Năm 2011, có 489/855 bác sĩ, đạt 57%; Năm 2012, có 509/866, đạt 57,8%; Năm 2013, có 502/973 bác sĩ, đạt 51,5%; Năm 2014, có 557/973, đạt 57,2%; Năm 2015 có 579/1025 bác sĩ, đạt 56,4%; Năm 2016, 609/1050 bác sĩ, đạt 58%. Qua số liệu thống kê, số lượng bác sĩ thực tế làm việc tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk đạt thấp so với định mức được Bộ Nội vụ, Bộ Y tế quy định. Mặc dù số lượng bác sĩ làm việc có biến động tăng, giảm qua các năm, nhưng tỷ lệ % bác sĩ làm việc thực tế so với định mức quy định luôn ở mức thấp, hàng năm chỉ duy trì ở mức dưới 60%. Mức độ thiếu hụt bác sĩ cũng không giống nhau, điều này dẫn đến sự mất cân đối trong phân bố nguồn lực bác sĩ làm việc tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Trong năm 2011, tất cả các BVCL của tỉnh Đắk Lắk đều thiếu bác sĩ làm việc so với định mức và nhu cầu thực tế. Chỉ có 06/15 BVCL của tỉnh Đắk Lắk có số bác sĩ tỷ lệ từ 50% trở lên so với định biên, gồm: BVĐK tỉnh, BVĐK thành phố Buôn Ma Thuột và các BVĐK các huyện: Lắk, Krông Pắc, Cư M’gar và Krông Năng. Có 09/15 BVCL của tỉnh Đắk Lắk có bác sĩ làm việc đạt thấp hơn 50% so với định mức; trong đó, thiếu nhiều nhất là các BVĐK: Huyện Buôn Đôn (đạt 29%), huyện Ea Súp (đạt 36%). Trong các năm 2012, 2013, 2014, 2015, mặc dù số lượng bác sĩ có tăng nhưng tình hình thiếu bác sĩ làm việc tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk vẫn tiếp tục xảy ra và kéo dài liên tục qua các năm. Đến năm 2016, mặc dù đã qua 03 đợt tuyển dụng nhưng tình trạng thiếu bác sĩ làm việc tại các BVCL vẫn tiếp tục diễn ra nghiêm trọng. Vẫn còn 07 BVCL của tỉnh Đắk Lắk có tỷ lệ bác sĩ làm việc thực tế so với định mức đạt dưới 50%, gồm BVĐK các huyện: Krông Ana, Krông Bông, Krông Pắc, Ea Kar, Cư M’gar, Súp, Cư Kuin, trong đó BVĐK huyện Ea Súp chỉ đạt 35%. BVĐK tỉnh là BVCL được đầu tư cơ sở vật chất tốt nhất, có điều kiện để các bác sĩ làm việc; đây cũng là nơi phải tiếp nhận lượng bệnh nhân nhiều nhất trong tất cả các BVCL của tỉnh Đắk Lắk và luôn trong tình trạng quá tải bệnh nhân (Theo thống kê của Sở Y tế: BVĐK tỉnh được giao chỉ tiêu 1.000 gường bệnh nhưng thực thế công suất sử dụng Bệnh viện luôn ở mức 1.200 gường bệnh; số lượt đăng ký khám chữa bệnh trong 03 năm gần đây tăng 13.769 lượt, cụ thể: Tổng số lượt khám và điều trị năm 2014 là 251.730, năm 2016 là 265.499). Tuy nhiên, số lượng bác sĩ làm việc tại đây cũng không đạt theo định mức đề ra (năm 2016, chỉ đạt 61,3%), thậm chí, thời điểm chỉ đạt 51% so với định biên (năm 2013). Mặc dù trong bối cảnh số lượng định biên bác sĩ được giao thiếu so với định mức theo quy định, nhưng ngành Y tế còn phải thực hiện lộ trình tinh giản biên chế theo chủ trương của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức [4]; theo đó, hàng năm phải giảm bình quân 1,5% số lượng viên chức (so với năm 2015); chỉ được sử dụng 50% số biên chế đã được tinh giản và số biên chế giải quyết chế độ nghỉ hưu theo quy định. Thêm vào đó, ngày 11/9/2017, Bộ Chính trị có Kết luận số 17-KL/TW về tình hình thực hiện biên chế, tinh giản biên chế của các tổ chức trong hệ thống chính trị năm 2015 - 2017, mục tiêu, nhiệm vụ giải 14
- pháp giai đoạn 2017 – 2021 [43] đã chỉ đạo “Dừng việc giao bổ sung biên chế giai đoạn 2017 – 2021”. Thực hiện chủ trương này ngành Y tế tỉnh Đắk Lắk sẽ tiếp tục gặp khó khăn để đảm bảo cân đối giữa số lượng bác sĩ và nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng của người dân. 2.2.3.2. Về chất lượng và phân bố đội ngũ bác sĩ làm việc tại các Bệnh viện công lập của tỉnh Đắk Lắk Theo thống kê của Sở Y tế tỉnh Đắk Lắk, tính đến ngày 31/12/2016, toàn tỉnh có 1.133 bác sĩ làm việc tại các Bệnh viện, Trung tâm, Chi cục công lập thuộc ngành Y tế ở 03 cấp (cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh). Trong đó có 01 bác sĩ có trình độ tiến sỹ, 36 bác sĩ có trình độ chuyên khoa cấp II, 36 bác sĩ có trình độ thạc sỹ, 317 bác sĩ có trình độ chuyên khoa cấp I và 743 bác sĩ. Đối với 15 BVCL của tỉnh Đắk Lắk, có 609 bác sĩ (chiếm 54% so với toàn tỉnh). Trong đó, có 01 bác sĩ có trình độ tiến sỹ (chiếm 100% so với toàn tỉnh), 20 bác sĩ có trình độ thạc sỹ (chiếm 56% so với toàn tỉnh), 25 bác sĩ có trình độ chuyên khoa cấp II (chiếm 70% so với toàn tỉnh ), 220 bác sĩ có trình độ chuyên khoa cấp I (chiếm 70% so với toàn tỉnh) và 343 bác sĩ có trình độ Đại học (chiếm 47% so với toàn tỉnh). Như vậy, đa số bác sĩ có trình độ cao được tuyển dụng và bố trí làm việc tại các BVCL để thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh cho người dân. Số lượng bác sĩ biến động tăng qua các năm (riêng năm 2013, giảm 07 bác sĩ so với năm 2012). Trong đó, so với năm 2011, số lượng bác sĩ có trình độ đại học năm 2016 tăng 0,81%, bác sĩ có trình độ chuyên khoa cấp I tăng 0,84 %, bác sĩ có trình độ chuyên khoa cấp II tăng 0,4%, bác sĩ có trình độ thạc sỹ tăng 0,8 %. Riêng bác sĩ có trình độ tiến sỹ cho đến năm 2016 mới có 01 người. So sánh số liệu cho thấy tỷ lệ biến động tăng trình độ chuyên môn của bác sĩ còn hạn chế, chưa tương xứng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành Y tế trong nước và quốc tế. Số bác sĩ có trình độ cao còn hạn chế, đặc biệt là số lượng bác sĩ có trình độ tiến sỹ và chuyên khoa cấp II. Xét dưới góc độ phân bổ bác sĩ theo số gường bệnh, so sánh số liệu thống kê tại Bảng 2.5 và Bảng 2.6, ta thấy việc phân bổ bác sĩ không đồng đều giữa các BVCL của tỉnh Đắk Lắk, đặc biệt là có sự chênh lệch số lượng bác sĩ giữa các BVCL của tỉnh Đắk Lắk có cùng hạng và cùng số gường bệnh như: Năm 2011, BVĐK huyện Ea Súp, BVĐK huyện Ea Kar và BVĐK huyện Buôn Đôn có cùng số gường bệnh là 90, nhưng số bác sĩ phân bổ cho các Bệnh viện lần lược là 11, 09 và 15 hoặc BVCL có số gường bệnh ít hơn nhưng được phân bổ số bác sĩ nhiều hơn, như: BVĐK huyện Krông Năng có 100 gường bệnh, được phân bố 21 bác sĩ, trong khi BVĐK huyện Cư Kuin nhiều hơn 15 gường bệnh, nhưng số bác sĩ được phân bổ ít hơn 03 bác sĩ. Việc phân bố bác sĩ không đều duy trì qua các năm mà chưa được khắc phục, cân đối, thậm chí có chiều hướng tăng cao như: Năm 2016, BVĐK Ea Súp có 100 gường bệnh, được bố trí 12 bác sĩ, nhưng BVĐK huyện Buôn Đôn cũng có cùng số gường bệnh nhưng bố trí 18 bác sĩ, nhiều hơn 6 bác sĩ. Số bác sĩ có trình độ chuyên khoa cấp I chủ yếu tập trung ở BVCL của tỉnh Đắk Lắk có trụ sở đóng tại những địa phương có điều kiện có kinh tế xã hội phát triển như: Thành 15
- phố Buôn Ma Thuột, thị xã Buôn Hồ. Đối với bác sĩ có trình độ chuyên khoa cấp II chủ yếu tập trung tại BVĐK tỉnh, còn những BVCL của tỉnh Đắk Lắk khác không có bác sĩ chuyên khoa cấp II hoặc nếu có chỉ có từ 01 đến 02 người; cá biệt, BVĐK thành phố Buôn Ma Thuột là bệnh viện hạng II, nhưng trong năm 2016, Bệnh viện không có bác sĩ trình độ chuyên khoa cấp II. Việc phát triển, phân bố đồng đều đội ngũ bác sĩ này làm việc tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk, đặc biệt là Bệnh viện tuyến huyện là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách để làm nhân tố chủ chốt nâng cao chất lượng khám chữa bệnh của các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. 2.2.3.3. Chế độ đãi ngộ, thu hút đội ngũ bác sĩ trong các Bệnh viện công lập của tỉnh Đắk Lắk - Chế độ đãi ngộ, thu hút của tỉnh Đắk Lắk Ngày 19/12/2008, HĐND tỉnh Đắk Lắk ban hành Nghị quyết số 31/2008/NQ- HĐND, quy định: Hỗ trợ lần đầu 10 triệu đồng/người cho bác sĩ về nhận công tác tại các Bệnh viện thuộc 5 huyện: M’Drắk, Krông Bông, Lắk, Ea Súp và Buôn Đôn. Hỗ trợ kinh phí thu hút đối với bác sĩ chuyên khoa cấp I là 15 triệu/người; bác sĩ chuyên khoa cấp II là 20 triệu/người khi tuyển dụng mới hoặc mới nhận công tác tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Ngày 30/8/2011, HĐND tỉnh Đắk Lắk ban hành Nghị quyết số 16/2011/NQ-HĐND, theo đó, nâng mức hỗ trợ và bổ sung đối tượng được hưởng chế độ hỗ trợ như sau: Hỗ trợ kinh phí thu hút đối với bác sĩ nội trú và thạc sỹ y khoa là 20 triệu đồng; bác sĩ chuyên khoa cấp II là 25 triệu/người khi tuyển dụng mới hoặc mới nhận công tác tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Như vậy, trong giai đoạn 2011-2013, tỉnh Đắk Lắk đã có những quy định về hỗ trợ thu hút đối với bác sĩ về làm việc trong các BVCL của tỉnh Đắk Lắk tại các huyện có điều kiện kinh tế khó khăn. Trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2013, việc thực hiện chế độ hỗ trợ, thu hút đối với bác sĩ đạt hiệu quả rất thấp; chỉ thực hiện được đối với 05 trường hợp trong năm 2011. Những trường hợp này là được tuyển dụng mới thông qua kỳ tuyển dụng năm 2011 do ngành Y tế tỉnh Đắk Lắk tổ chức. Các mức hỗ trợ này không tạo được động lực để thu hút lực lượng bác sĩ hiện đang làm việc tại các đơn vị sự nghiệp khác (trong và ngoài tỉnh) đến nhận công tác tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. Ngày 20/12/2013, HĐND tỉnh Đắk Lắk ban hành Nghị quyết số 106/2013/NQ- HĐND, quy định: Trợ cấp lần đầu với mức bằng 10 lần so với mức lương cơ sở đối với bác sĩ mới nhận công tác tại các BVCL thuộc 07 huyện, gồm: Ea Súp, M’Drắk, Krông Bông, Lắk, Buôn Đôn, Krông Búk và Krông Năng. Hỗ trợ hàng tháng với mức bằng 0,1 mức lương cơ sở đối với bác sĩ làm việc tại 04 BVĐK huyện, gồm: Krông Bông, Lắk, Buôn Đôn và Ea Súp. Nghị quyết số 106/2013/NQ-HĐND chỉ áp dụng một mức trợ cấp lần đầu và hỗ trợ hàng tháng cho các bác sĩ ở tất cả các trình độ, không có sự phân chia mức hỗ trợ cho từng trình độ bác sĩ khác nhau (mang tính cào bằng mức hỗ trợ). Tính theo mức lương cơ sở của năm 2016 thì mỗi bác sĩ sẽ được trợ cấp một lần là: 10 x 1.210.000 = 12.100.000đ và được hỗ trợ hàng tháng là: 0,1 x 1.210.000 = 121.000 đ. So với giai đoạn từ năm 2011 - 2013 thì trong giai đoạn 2014 - 2018, bác sĩ có trình độ Đại học được trợ cấp một lần tăng thêm 16
- 2.100.000 đ và đối với bác sĩ làm việc tại 04 BVĐK huyện, gồm: Krông Bông, Lắk, Buôn Đôn và Ea Súp được nhận thêm khoản hỗ trợ là 121.000 đ; nhưng mức hỗ trợ cho bác sĩ có trình độ chuyên khoa cấp I trở lên lại giảm xuống, cụ thể: Trình độ chuyên khoa cấp I giảm 7.900.000 đ, chuyên khoa cấp II giảm 12.900.000 đ. b) Chế độ thu hút, đãi ngộ của một số tỉnh lân cận Năm 2016, tổng thu ngân sách của tỉnh Đắk Nông đạt 1.665 tỷ đồng, tỉnh Phú Yên là 3.235 tỉ đồng, tỉnh Đắk Lắk là 4.100 tỷ đồng. Mặc dù tỉnh Đắk Lắk có số thu ngân sách cao hơn các tỉnh Phú Yên và Đắk Nông, nhưng việc thực hiện chính sách thu hút bác sĩ của tỉnh Đắk Lắk là rất thấp, hỗ trợ một lần chỉ ở mức 10 lần mức lương cơ sở (Tính theo mức lương cơ sở của năm 2016 thì mỗi bác sĩ sẽ được trợ cấp một lần là 12.100.000đ và được hỗ trợ hàng tháng là 121.000 đ) cho bác sĩ ở tất cả các trình độ khi đến làm việc trên địa bàn của 7/15 huyện, thị xã thành phố; trong khi đó, tỉnh Đắk Nông hỗ trợ thấp nhất là 180.000.000đ, cao nhất là 300.000.000đ; tỉnh Phú Yên hỗ trợ thấp nhất là 150.000.000 đ và cao nhất là 500.000.000đ cho bác sĩ đến làm việc ở tất cả các địa phương của tỉnh. Ngoài ra, tỉnh Đắk Nông và tỉnh Phú Yên còn có những chế độ thu hút đi kèm như chính sách mua đất giá sàn, có định hướng bố trí sử dụng, phát triển đối với bác sĩ, chính sách liên quan đến tạo công ăn việc làm cho người thân để bác sĩ an tâm đến tỉnh công tác… Về chính sách đãi ngộ, tỉnh Đắk Lắk hỗ trợ hàng tháng cho bác sĩ ở 04 huyện có điều kiện kinh tế khó khăn ở mức 0,1 mức lương cơ sở. Trong khi đó, tỉnh Đắk Nông hỗ trợ ở mức thấp nhất là 0,7 mức lương cơ sở và cao nhất là 1,5 mức lương cơ sở, tùy thuộc vào địa bàn bác sĩ làm việc; tỉnh Phú Yên hỗ trợ ở mức thấp nhất là 1,5 lần mức lương cơ sở và cao nhất là 4,0 lần mức lương cơ sở. 2.2.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ bác sĩ làm việc trong các Bệnh viện công lập của tỉnh Đắk Lắk Trong thời gian qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực y tế của tỉnh Đắk Lắk luôn được quan tâm và đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào việc tăng cường chất lượng bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Để khuyến khích, hỗ trợ, nâng cao chất lượng học tập; ngày 13/12/2014, HĐND tỉnh Đắk Lắk ban hành Nghị quyết số 143/2014/NQ-HĐND Quy định chính sách hỗ trợ đào tạo sau đại học; điều động, luân chuyển đối với cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh Đắk Lắk. Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức khi được cấp có thẩm quyền cử đi đào tạo sau đại học, ngoài các khoản được hưởng theo quy định chung của Nhà nước, sau khi nhận bằng tốt nghiệp của đơn vị đào tạo sẽ được tỉnh hỗ trợ một khoản kinh phí (nếu đủ các điều kiện theo quy định) theo mức lương cơ sở tại thời điểm hỗ trợ. Theo thống kê của Sở Y tế tỉnh Đắk Lắk, trong giai đoạn 2011 - 2015, tỉnh đã quyết định cử 334 lượt bác sĩ làm việc trong ngành Y tế tham gia các lớp đào tạo sau Đại học. Cụ thể như sau: 06 trường hợp đi học tiến sỹ, 50 trường hợp đi học chuyên khoa II, 22 trường hợp đi học thạc sỹ và 192 trường hợp đi học chuyên khoa cấp I. Năm 2016, tỉnh đã quyết định cử 01 trường hợp đi học tiến sỹ, 09 trường hợp đi học thạc sỹ, 01 trường hợp đi học chuyên khoa cấp II và 53 trường hợp đi học chuyên khoa cấp I. 17
- Ngoài ra, thực hiện chính sách đào tạo liên tục, trong giai đoạn 2011 - 2015, tỉnh đã cử 548 lượt nhân viên y tế tham gia các lớp bồi dưỡng bắt buộc để cập nhật kiến thức, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp. Riêng đối với đội ngũ bác sĩ làm việc tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk, theo thống kê của Sở Y tế, trong khoảng thời gian từ năm 2011 – 2016, cơ quan chức năng của tỉnh đã thỏa thuận, cử 159 bác sĩ dự thi các lớp đào tạo bác sĩ ở các trình độ: Tiến sỹ, thạc sỹ, chuyên khoa cấp II, chuyên khoa cấp I. Số bác sĩ đi học tăng giảm hàng năm theo chu kỳ (02 năm) nhằm cân đối số bác sĩ đi học và số bác sĩ làm việc tại các BVCL của tỉnh Đắk Lắk, tổng số bác sĩ được cử đi học của chu kỳ sau luôn cao hơn chu kỳ trước. Tuy nhiên, cũng qua số liệu thống kê ta thấy, việc cử bác sĩ tham gia các lớp đào tạo nâng cao trình độ, tay nghề chủ yếu tập trung ở BVĐK tỉnh. Ngoài ra, số bác sĩ được cử đi học tập trung so với tổng số bác sĩ làm việc cũng còn hạn chế; cụ thể: Năm 2011 có 12/489 bác sĩ, chiếm 2,5 %; năm 2012 có 15/509 bác sĩ, chiếm 3,0 %; năm 2013 có 34/502 bác sĩ, chiếm 6,8%; năm 2014 có 8/557 bác sĩ, chiếm 1,43%; năm 2015 có 76/579 bác sĩ, chiếm 13%; năm 2016 có 14/609 bác sĩ, chiếm 2,3%. Việc cử bác sĩ đi đào tạo không cân đối giữa các BVCL của tỉnh Đắk Lắk là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phân bổ chất lượng bác sĩ không đồng đều giữa các BVCL của tỉnh Đắk Lắk. 2.2.4. Tổ chức đánh giá, khen thưởng đối với bác sĩ làm việc trong các Bệnh viện công lập của tỉnh Đắk Lắk 2.2.4.1. Đánh giá bác sĩ Hệ thống quy định việc đánh giá viên chức của nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước đảm bảo tính công khai, minh bạch, đánh giá sát thực tế, chất lượng viên chức. Theo Báo cáo của ngành Y tế, công tác đánh giá, phân loại viên chức ngành Y tế đạt kết quả như sau: Năm 2012: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm 16.53%; Hoàn thành tốt nhiệm vụ, chiếm 79,45%; Hoàn thành nhiệm vụ chiếm 3,67%; Không hoàn thành nhiệm vụ chiếm 0,34%. Năm 2013: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm 30,92%; Hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm 53,83%; Hoàn thành nhiệm vụ chiếm 14,99%; Không hoàn thành nhiệm vụ chiếm 0,31%. Năm 2015: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiếm 3.35%; Hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm 88.23%; Hoàn thành nhiệm vụ chiếm 7.97%; Không hoàn thành nhiệm vụ chiếm 0.45%. Năm 2016: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: 195 người, chiếm 3,42%; Hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm 86,76%; Hoàn thành nhiệm vụ chiếm 9,14%; Không hoàn thành nhiệm vụ chiếm 0,68%. Qua các năm, theo đánh giá của Sở Y tế, tỉ lệ bác sĩ không hoàn thành nhiệm vụ chiếm tỷ lệ rất thấp, chiếm khoảng dưới 1% trong tổng số bác sĩ trong các BVCL được đánh giá. Nguyên nhân chính là do vi phạm các chính sách về dân số kế hoạch hóa gia đình, vi phạm các nguyên tắc trong khám chữa bệnh. Đối với tỷ lệ viên chức ngành Y tế không hoàn thành nhiệm vụ tăng cao kể từ năm 2015, điều này thể hiện công tác đánh giá, phân loại viên chức ngày càng đi vào thực chất, phát huy được hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước. Thực hiện Quyết định số 2151/QĐ-BYT ngày 04/6/2015 của Bộ Y tế về phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện “đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 422 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 307 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 331 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm tra thuế của Cục thuế tỉnh Điện Biên đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản
9 p | 16 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 200 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn