Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về địa chính từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
lượt xem 2
download
Đề tài được thực hiện với mong muốn hệ thống hóa về mặt lý luận cho công tác QLNN về địa chính trong phạm vi toàn quốc. Làm rõ những khái niệm, sự cần thiết và nội dung của QLNN về địa chính, các yếu tố tác động đến công tác QLNN về địa chính.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về địa chính từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
- BỘ GIÁO DỤCVÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ --------/-------- -----/----- HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA ĐOÀN THU TRANG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐỊA CHÍNH TỪ THỰC TIỄN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: Mã số: 60 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI – 2016
- Luận văn được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: PTS.TS. TRẦN THỊ CÚC Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu Phản biện 2:GS.TS. Phạm Hồng Thái Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng 402C nhà D Hội trường bảo vệ Luận văn Thạc sĩ Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77, Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội Thời gian: vào hồi16h30 phút ngày07 tháng 12 năm 2016 Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
- MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, tại chương 3, điều 53 quy định “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Ở Việt Nam, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai nhưng không trực tiếp khai thác và sử dụng, mà trao QSD cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. Luật Đất đai năm 2013 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi: “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay!”. Tại điều 4 Luật đất đai 2013 cũng khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật”.Công tác quản lý đất đai cũng theo đó mà có những biến đổi qua các thời kỳ. Qua mỗi thời kỳ dù ở mức độ khác nhau nhưng ta đều nhận thấy sự quan tâm của Nhà nước đối với công tác quản lý nhà nước về địa chính. Quản lý nhà nước về địa chính là tiền đề để quản lý nhà nước về đất đai. Công tác quản lý địa chính ở nước ta đã được thiết lập từ cách đây hơn năm thế kỷ, được chính quyền ở các chế độ khác nhau kế thừa và tiếp tục bổ sung, điều chỉnh nhằm phục vụ mục đích quản lý đất đai của mình. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh, sự chia cắt đất nước, trải qua nhiều giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội của đất nước mà ranh giới các thửa đất, chủ sử dụng đất có thay đổi gây ra những bất cập, khó khăn trong quản lý đất đai như việc theo dõi, truy xuất, lưu trữ, xử lý, cập nhật, chỉnh lý biến động đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…Việc làm tốt công tác quản lý nhà nước về địa chính để Nhà nước quản lý chặt chẽ toàn bộ đất đai theo pháp luật, xác lập mối quan hệ pháp lý đầy đủ giữa Nhà nước và người sử dụng đất, tạo điều kiện cho việc sử dụng đất đai một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả là yêu cầu cấp thiết. Hai Bà Trưng là một quận nội thành có diện tích…..gồm 20 phường. Công tác quản lý nhà nước về địa chính trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội cũng còn nhiều bất cập, hạn chế, thiếu sót do nhiều nguyên nhân khách quan
- và chủ quan. Hồ sơ của mảnh đất bị thiếu,thậm chí bị thất lạc.Trong quá trình chuyển đổi, chuyển nhượng đất đai, nhiều trường hợp không đăng ký vào sổ địa chính, dẫn đến tranh chấp giữa chủ sử dụng cũ và chủ sử dụng mới…Điều này đặt ra chocông tác quản lý nhà nước về địa chính tại địa bàn Quận Hai Bà Trưng nói riêng và cả nước nói chung cần khắc phục các hạn chế, tồn tại trong thời gian tới. Xuất phát từ thực tế trên, việc nghiên cứu vấn đề “Quản lý nhà nước về địa chính từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng , thành phố Hà Nội” có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu Đã có một số công trình nghiên cứu về địa chính nhà nước, như: Đề tài “Nghiên cứu hoàn chỉnh lý luận địa chính nhà nước và xây dựng bộ hồ sơ địa chính các cấp giai đoạn 1983 - 1993” của nhóm nghiên cứu thuộc Tổng cục quản lý đất đai, chủ nhiệm đề tài là kỹ sư Nguyễn Trinh Thạch và các cán bộ tham gia nghiên cứu: kỹ sư Đặng Thị Vân, Phạm Tiến Lợi, Bùi Sỹ Dũng, Nguyễn Hữu Thắng. Các tác giả đã đưa ra được một hệ thống lý luận về quản lý nhà nước về địa chính,bao gồm nhiều khái niệm, nội dung và nguyên tắc cơ bản của quản lý nhà nước về địa chính. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích tình hình sử dụng đất đai và cơ cấu kinh tế xã hội của nước ta, đã xác định được nội dung và nhiệm vụ địa chính trong thời gian qua, vạch ra hướng tiến hành công tác địa chính trong thời gian tới. Đề tài đã xác lập được nội dung các bước xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính trước mắt cho các đơn vị sử dụng và đơn vị nhà nước cấp xã, đảm bảo tính khoa học, dễ sử dụng, dễ lưu trữ, phù hợp với trình độ và thực tế khó khăn hiện nay ở địa phương. Đặc biệt, đề tài đã chú ý xem xét đến những điều kiện khó khăn hiện tại và những tiến bộ khoa học kỹ thuật có thể ứng dụng được như sử dụng máy tính điện tử trong các khâu xây dựng bản đồ, tính toán diện tích, thống kê và lưu trữ số liệu, ứng dụng ảnh máy bay trong công tác bản đồ và thống kê đất đai... Đề tài“Hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính phục vụ yêu cầu đổi mới quản lý nhà nước về đất đai giai đoạn 1983 - 1993” của Tổng cục quản lý đất đai do chủ nhiệm đề tài là kỹ sư Bạch Gia Tế cùng các cán bộ tham gia nghiên cứu: kỹ sư Trần Hùng Phi, Bùi Ngọc Tuân và Đỗ Đức Đôi. Công trình nghiên cứu này được coi như một đề tài lớn, phạm vi nghiên cứu rộng cả về lĩnh vực chuyên môn và hoạt động quản lý nhà nước, hướng nghiên cứu giải quyết các yêu cầu bức xúc hiện nay trong quản lý đất đai. Đề tài đã được ứng dụng trong công tác đăng ký, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Xuân Hòa, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội năm 2010 với đề tài” Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác lập hồ sơ địa chính ở nước ta’. Tác giả đã phân tích thực trạng lập hồ sơ địa chính trong phạm vị cả nước tại cấp huyện và cấp xã, tìm nguyên nhân, tồn tại trong việc lập hồ sơ địa chính ảnh hưởng đến việc quản lý nhà nước về đất đai và làm chậm quá
- trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Tiến Lưu với đề tài “Đánh giá thực trạng công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa”, năm 2013. Từ vấn đề cơ sở khoa học về lập hồ sơ địa chính, tác giả đã khái quát tình hình lập và quản lý hồ sơ địa chính ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, chỉ ra các kết quả đạt được, khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân và đưa ra giải pháp để hoàn thiện, đẩy mạnh công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính. Tác giả Phạm Văn Cường (2012) đề tài: Xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính đa chức năng phục vụ quản lý đất đai và bất động sản tại khu vực phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh. Đại học Nông - Lâm Thái Nguyên. Từ vấn đề cơ sở khoa học về cơ sở dữ liệu địa chính, tác giả đã khái quát tình hình lập và quản lý cơ sở dữ liệu địa chính ở phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long, chỉ ra các kết quả đạt được, khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân. Từ đó, tác giả đưa ra giải pháp để xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính... Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về quản lý nhà nước về địa chính trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, vì vậy đề tài của học viên không trùng lặp với các đề tài thạc sĩ đã được bảo vệ. Địa chính là lĩnh vực rất rộng, tác giả chỉ nghiên cứu một phần của địa chính, đó là hồ sơ địa chính. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Phân tích thực trạng lập và quản lý hồ sơ địa chính trên địa bàn quận Hai Bà Trưngthấy những kết quả đạt được, hạn chế tồn tại, tìm ra nguyên nhân của các hạn chế, từ đó đề xuất giải pháp khả thinhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về hồ sơ địa chính trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. 3.2. Nhiệm vụ - Hệ thống hóakiến thức khoa họccủa quản lý Nhà nước về hồ sơđịa chính. - Khảo sát, đánh giá thực trạng, phân tích những thuận lợi, khó khăn, tồn tại trong công tác quản lý hồ sơ địa chính trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, qua đó tìm ra giải pháp để khắc phục các tồn tại và hạn chế trong công tác quản lý hồ sơ địa chính trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu của luận văn: tập trung nghiên cứu việc lập và quản lý hồ sơ địa chính tại Quận Hai Bà Trưng. - Phạm vi nghiên cứu:lập vàquản lý hồ sơ địa chínhtrên địa bàn quận Hai Bà Trưng,Thành phố Hà Nộitừ khi có Luật đất đai 1993 đếnnăm 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1.Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, đây là hệ thống lý luận nền tảng đối với toàn bộ khoa học xã hội ở nước ta, tức là đặt việc xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính trong mối quan hệ của đất đai cũng như nội
- dung khác của quản lý nhà nước. 5.2.Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như sau: - Phương pháp điều tra khảo sát: Đây là phương pháp hỗ trợ, bổ sung nhưng rất quan trong. Thông qua điều tra, khảo sát sẽ thu thập số liệu, tài liệu, thông tin cần thiết cho mục đích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về của việc quản lý bao gồm trách nhiệm lập, cập nhật, và bảo quản các tài liệu, hồ sơ địa chính tại quận Hai Bà Trưng. - Phương pháp thống kê: Là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong quá trình nghiên cứu các vấn đề kinh tế, xã hội. Đây là phương pháp các cơ quan quản lý nhà nước tiến hành điều tra, khảo sát, tổng hợp và sử dụng các số liệu trên cơ sở tính toán. Qua số liệu thống kê phân tích được tình hình, nguyên nhân của sự vật, hiện tượng có thể tìm ra được tính quy luật và rút ra những kết luận đúng đắn về sự vật, hiện tượng đó. Cho nên, việc sử dụng phương pháp này nhằm phân tích thống kê các số liệu để nắm được tình hình , phân loại số lượng, chất lượng của đất đai. - Phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp tức là sử dụng để phân tích làm rõ thực trạng hệ thống hồ sơ địa chính trên địa bàn quận từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá đối với yêu cầu quản lý Nhà nước về hồ sơ địa chính và sử dụng đất của quận Hai Bà Trưng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về mặt lý luận Đề tài được thực hiện với mong muốn hệ thống hóa về mặt lý luận cho công tác quản lý nhà nước về hồ sơ địa chính trong phạm vi toàn quốc. Làm rõ những khái niệm, sự cần thiết và nội dung của quản lý Nhà nước về hồ sơ địa chính, các yếu tố tác động đến công tác quản lý Nhà nước về hồ sơ địa chính. 6.2. Về mặt thực tiễn Luận văn phân tích thực trạng lập và quản lý hồ sơ địa chính trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng , tìm nguyên nhân tồn tại, bất cập, từ đó đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn chỉnh công tác quản lý Nhà nước về hồ sơ địa chínhtại quận Hai Bà Trưng.Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên và học viên, cán bộ làm công tác liên quan đến quản lý nhà nước về địa chính nói chung và quản lý nhà nước về hồ sơ địa chính nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn có kết cấu gồm 3 chương như sau: - Chương 1: Cơ sở lý luận củaquản lý Nhà nước vềđịa chính. - Chương 2: Thực trạng quản lý Nhà nước về địa chính trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội. - Chương 3: Giải phápvà đảm bảoquản lý Nhà nước vềđịa chínhtừ thực tiễnquận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀĐỊA CHÍNH 1.1. Quản lý nhà nước vềđịa chính 1.1.1.Khái niệmvề Quản lý nhà nước Quản lý là một hoạt động tất yếu khách quan, diễn ra ở mọi tổ chức có quy mô từ nhỏ đến lớn, từ cấu trúc đơn giản đến phức tạp. Xã hội ngày càng phát triển, trình độ hợp tác và phân công lao động ngày càng cao thì yêu cầu về công tác quản lý ngày càng hoàn thiện.Trong hệ thống các chủ thể quản lý xã hội, Nhà nước là chủ thể duy nhấtquản lý mọi mặt của xã hội bằng nhiều biện pháp, công cụ khác nhau, trong đó có công cụ chủ yếu quản lý bằng pháp luật như Nhà nước quản lýtoàn bộ những người sống vàlàm việc trên lãnh thổ quốc gia, bao gồm công dân và những người không phải làcông dân, quản lý toàn bộ các lĩnh vực của đờisống xã hội theo nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ. Nhà nước quản lý bằng pháp luật là nhà nước lấy pháp luật làm công cụ xử lýcác hành vi vi phạm pháp luật theo luật định một cách nghiêm minh. Vậy:Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhànước, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội vàhành vi hoạt động của con người để duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội,trật tự pháp luật nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. 1.1.2. Khái niệm về địa chính Ngày nay, danh từ “địa chính” không còn xa lạ với đối với người dân ở Việt Nam cũng như trên thế giới vì nó là một lĩnh vực gắn bó với đời sống của con người, nó liên quan đến quyền sở hữu bất động sản gắn với đất và quyền sử dụng đất, một giá trị kinh tế lớn đối với mỗi con người. Địa chính là tổng hợp các loại bản đồ đo đạc về đất và các tư liệu xác định rõ vị trí, ranh giới, phân loại, số lượng, chất lượng của đất đai, tài sản trên đất, quyền sử dụng đất làm cơ sở cho việc phân bổ, thu thuế đất, và của việc quản lý đất đai thông qua việc lập, cập nhật, và bảo quản các tài liệu địa chính. Có thể hiểu ngắn gọn, địa chính là khoa học về đo đạc bản đồ và quản lý đất đai trên cơ sở dữ liệu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tạo ra, bởi vậy,địa chính là công việc của nhà nước mà trọng tâm của công việc là lập hồ sơ địa chính và quản lý hồ sơ địa chính. “Địa” là đất, mảnh đất, thửa đất, lãnh thổ, còn “Chính” là công việc của nhà nước đề ra các phép tắc, luật lệ để quản lý đất đó.(Theo Từ điển Hán –Việt năm 1998). Chi tiết về “ địa chính” được hiểu các công việc sau: Thứ nhất, địa chính là bản kê về tài sản gắn liền với đất và quyền sử dụng đất, trong đó chứa đựng những thông tin đầy đủ về chủ sử dụng đất, loại đất, vị trí tọa lạc của thửa đất. Thứ hai, địa chính là việc quản lý đất đai do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành
- gồm ba khâu cơ bản:lập bản đồ địa chính, thống kê số lượng, đánh giá chất lượng làm căn cứ tính thuế, xác định khía cạnh pháp lý của đất đai nhằm quy định nghĩa vụ và quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu, chủ sử dụng đất, sản phẩm của ba khâu này phải được thể hiện cơ bản trong hồ sơ địa chính. Hồ sơ địa chính còn được gọi là hồ sơ pháp lý về thửa đất. Vậy, Quản lý nhà nước về địa chính là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm thực hiện bảo vệ quyền sở hữu nhà nước về đất đai, điều chỉnh các lợi ích của nhà nước. Quản lý địa chính dựa trên cơ sở Hiến pháp, luật và các văn bản pháp luật khác. Việc quản lý được thực hiện thông qua hệ thống nhà nước. mà trọng tâm của công việc là lập HSĐC và quản lý HSĐC. 1.1.3.Khái niệm về hồ sơ địa chính Khái niệm về hồ sơ địa chính (HSĐC) được quy định tại Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.Điều 2, Thông tư 24/2014 qui định: Hồ sơ địa chính là tập hợp tài liệu thể hiện thông tin chi tiết về hiện trạng và tình trạng pháp lý của việc quản lý, sử dụng các thửa đất, tài sản gắn liền với đất để phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước về đất đai và nhu cầu thông tin của các tổ chức, cá nhân có liên quan…. chứa đựng những thông tin cần thiết về các mặt tự nhiên, kinh tế, xã hội, pháp lý của đất đai và những thông tin này chúng ta có được trong quá trình đo đạc lập bản đồ địa chính, đăng ký ban đầu và đăng ký biến động đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Tất cả các thông tin đất đai ở trong HSĐC như trên là cơ sở để thực hiện quản lý Nhà nước về đất đai, để bảo hộ quyền hợp pháp của người sử dụng đất. 1.1.4. Các loại hồ sơ địa chính Hệ thống địa bạ: là một hệ thống hồ sơ ghi chép, cập nhật những dữ liệu cơ bản về tình hình đất đai, chứa đựng những thông tin về đất đai do chính quyền quản lý. Hệ thống địa bạ chứa đựng các thông tin về vị trí, hình thể, kích thước, ranh giới, loại đất, tên chủ sử dụng đất (SDĐ). Hệ thống bằng khoán (bằng khoán điền thổ): là hệ thống hồ sơ quản lý đất đai một cách thống nhất, trên cơ sở đó hệ thống BĐĐC cùng với các hệ thống quản lý hoàn chỉnh và đồng bộ. Hệ thống này được áp dụng thời Pháp thuộc ở nước ta. Hồ sơ địa chính là hệ thống tài liệu, số liệu, bản đồ, sổ sách… chứa đựng đầy đủ các thông tin về đất đai. Các tài liệu cấu thành hồ sơ địa chính bao gồm:Bản đồ địa chính, Sổ địa chính, Sổ mục kê, Sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), Sổ theo dõi biến động đất đai, Biểu số liệu thống kê diện tích.Tất cả các tài liệu trên phục vụ cho công tác trực tiếp quản lý đất đai, đây là hồ sơ thường trực, hồ sơ này được sử dụng thường xuyên. Các tài liệu này dùng xác nhận thông tin đảm bảo hệ thống hồ sơ trên mang tính pháp lý và dùng để thẩm tra, kiểm tra. 1.1.5. Đặc điểm của hồ sơ địa chính
- Hồ sơ địa chính bao gồm nhiều tài liệu chứa đựng thông tin về đất đai. Không một tài liệu riêng lẻ nào chứa đựng được toàn bộ thông tin về đất đai, chỉ có HSĐC mới có được toàn bộ thông tin về đất đai bởi nó là tập hợp của tất cả các tài liệu chứa đựng các thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, pháp lý của đất đai. Nhìn vào HSĐC ta có thể biết được toàn bộ thông tin về đất đai. Các loại tài liệu trong HSĐC chứa đựng các thông tin về đất đai một cách chính xác và thống nhất. Với đặc điểm này yêu cầu đặt ra cần biết phân loại và quản lý các tài liệu sao cho tiện lợi nhất. Việc quản lý địa chính là một nội dung mang tính đặc thù của cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai và nó có quan hệ mật thiết với các nội dung khác của quản lýNhà nước về đất đai mang tính chuyên trách thực hiện như phải thực hiện một số nghĩa vụ đặc thù của ngành địa chính như đo đạc bản đồ, lưu trữ thông tin... Các tài liệu, số liệu trong hồ sơ mang tính pháp lý cao. Các tài liệu này có ý nghĩa pháp lý chặt chẽ ở chỗ nó là căn cứ để hoạch định các chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, làm cơ sở xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý của đối tượng sử dụng. Việc thực hiện tốt công tác đo đạc bản đồ, đăng ký đất đai (ĐKĐĐ), cấp GCNQSDĐ là những tư liệu pháp lý để Nhà nước quản lý tốt về địa chính. 1.1.7. Những yêu cầu đối với việcquản lý lập và quản lý địa chính Việc lập HSĐC phải đảm bảo các yêu cầu sau: Phải đầy đủ các loại tư liệu. Bởi nếu không đầy đủ thì những thông tin về đất đai sẽ không đầy đủ, tính chất pháp lý không đầy đủ dẫn đến khai thác và sử dụng các tài liệu khác bị hạn chế. Bên cạnh việc lập đầy đủ các loại tư liệu thì mỗi loại tư liệu phải đảm bảo tính pháp lý. Song song với hai yêu cầu trên thì công tác lập HSĐC đòi hỏi các nội dungthông tin phải thể hiện chính xác, thống nhất trên tất cả các tài liệu của HSĐC. Yêu cầu về hình thức trình bày các tài liệu hồ sơ HSĐC phải rõ ràng, không được tẩy, xóa hoặc dùng bút phủ nội dung đã viết, việc chỉnh lý biến động trên tài liệu hồ sơ phải theo đúng quy định đối với mỗi tài liệu. Để đảm bảo các yêu cầu trên được thực hiện thì cần thực hiện phân cấp trong việc lập và quản lý HSĐC. * Về lập HSĐC: công tác ĐKĐĐ, lập HSĐC được tiến hành ngay từ cấp cơ sở đồng thời có sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát cũng như hướng dẫn của cấp trên do đó muốn công tác lập HSĐC được tiến hành nhanh cần có sự phối hợp chỉ đạo giữa các ngành và các cấp chính quyền. * Về phân cấp lưu trữ HSĐC:Cấp nào hình thành và phê duyệt loại tài liệu nào thì có quyền lưu trữ tài liệu đó.
- 1.2. Các yếu tố tác động đến công tác quản lý nhà nước về hồ sơ địa chính 1.2.1. Yếu tố thể chế Trong lĩnh vực quản lý địa chính, thể chế hành chính là hệ thống các văn bản quy định tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong công tác quản lý địa chính. Do đó, nếu có thể chế khoa học, phù hợp, đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước về địa chính thì kết quả quản lý Nhà nước về đất đai sẽ đạt hiệu quả tốt . Ngược lại, nếu hệ thống thể chế không tốt, nhiều bất cập, hạn chế, chậm được sửa đổi, bổ sung, không phù hợp với thực trạng và yêu cầu của quản lý thì sẽ kìm hãm công tác quản lý Nhà nước về hồ sơ địa chính. Như vậy, thể chế hành chính là một nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành công của quản lý hồ sơ địa chính. 1.2.2. Yếu tố con người Một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả của công tác quản lý địa chính đó là yếu tố con người. Con người là trung tâm của mọi hoạt động quản lý nhà nước từ lập kế hoạch, thực thi kế hoạch, lãnh đạo điều hành và kiểm soát công tác địa chính, tất cả đều do con người thực hiện. Do đó, yếu tố con người tác động đến công tác quản lý nhà nước về địa chínhbao gồm: cán bộ, công chức địa chính và các cấp lãnh đạo và cá nhân, tổ chức sử dụng đất. Cả hai chủ thể này đều ảnh hưởng đến thành công của công tác quản lý địa chính. 1.2.3. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện quản lý nhà nước vềhồ sơ địa chính Công tác chỉ đạo được quan tâm, thực hiện quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm thì việc tổ chức thực hiện sẽ đồng bộ, hiệu quả, không để tình trạng làm cho có hay làm theo phong trào. Hơn nữa, công tác lãnh đạo còn được thể hiện qua việc kiểm soát, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của công chức, cơ quan hành chính. 1.2.4. Tổ chức bộ máy chuyên trách Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về địa chính được thành lập thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở. Việc thực hiện quản lý hồ sơ địa chínhdo các cấp (Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp xã) thực hiện nên việc quản lý địa chính có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc vào tổ chức cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước. Do đó, công tácquản lý về địa chính có hiệu quả thì yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. 1.2.5. Công nghệ thông tinvà các yếu tố kỹ thuật khác Công nghệ thông tin được ứng dụng trong quản lý hành chính cho việc lưu trữ, trao đổi thông tin, truyền văn bản, giao ban trực tuyến, xây dựng cơ sở dữ liệu đặc biệt trong lĩnh vực quản lý địa chính thì công nghệ thông tin rất cần thiết cho việc thành lập, số hóa bản đồ, hồ sơ, từ đó tạo hệ thống dữ liệu thống nhất và là cơ sở để giải quyết các thủ tục hành chính về đất đai. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý địa chínhđã tạo ra bước đột phá góp phần giải quyết nhanh gọn, giảm phiền hà trong cung cấp thông tin đất đai cho công dân và tổ chức.
- 1.3.Kinh nghiệm quản lý Nhà nước về hồ sơ địa chính ở một số nước trên thế giới Thứ nhất,Hệ thống quản lý nhà nước về hồ sơ địa chính ở Cộng hòa liên bang Đức: Là loại địa chính theo hướng pháp lý. Bộ HSĐC của Đức bao gồm 1 bình đồ địa chính và một sổ cái dùng để mô tả, cụ thể là được dùng để định vị và mô tả tổng thể các thửa ruộng đất và nhà cửa.Hệ thống địa chính Đức được tin học hóa khá sớm, ngày nay đã trở thành hệ thống hồ sơ địa chính đa mục đích. Thứ hai, hệ thống quản lý nhà nước vềhồ sơ địa chính của Australia: Australia là một trong những quốc gia áp dụng hệ thống bằng khoán (title System) khá sớm và điển hình. Hệ thống quản lý nhà nước về hồ sơ địa chính chủ yếu là công tácđăng ký đất đai Torrens được hình thành từ năm 1857 ở bang Nam Australia. Trong hệ thống này phải thành lập cơ quan đăng ký đất đai với chức năng đăng ký đất đai và cung cấp thông tin về đất đai và bất động sản cho cộng đồng.Australia đã phát huy thế mạnh của hệ thống quản lý nhà nước về hồ sơ địa chính này từ đầu thế kỷ XX. Ngày nay, hệ thống này được tin học hóa và hiện đại hóa theo hướng đa mục đích. Thứ ba, hệ thống quản lý nhà nước về hồ sơ địa chínhcủa Pháp: Ở Pháp, ngay sau thời kỳ cách mạng tư sản năm 1970, Quốc hội lập hiến đã bãi bỏ thuế thân và chỉ còn lại thuế đất duy nhất đánh vào các diện tích đất đai sử dụng và thu nhập từ đất. Năm 1807, Pháp quyết định xây dựng lại hệ thống địa chính dựa trên hệ thống địa chính Napoleon. Các tài liệu địa chính có giá trị to lớn, nó trở thành nền móng của nền địa chính Pháp đương đại. Khi cần xác định quyền pháp lý về đất đai thì chủ sở hữu tự chứng minh quyền sở hữu của mình thông qua các chứng thư pháp lý khác được công nhận trong luật dân sự. Trên thế giới, nhiều nước đã có kinh nghiệm về quản lý nhà nước về hồ sơ địa chính , tuỳ vào tình hình kinh tế- xã hội của họ để chọn ra hình thức và nội dung phù hợp (quản lý địa chính kiểu Australia, quản lý kiểu Pháp...), tuy có nhiều điểm khác nhau về cả nội dung và hình thức nhưng đều có thể chuyển hoá theo sự phát triển của kỹ thuật tin học hiện đại và đều lấy thửa đất làm cơ bản, làm đối tượng để lập và quản lý hồ sơ địa chính. Qua việc tìm hiểu các hệ thống quản lý về địa chính tại một số quốc gia đã nêu ở trên có thể rút ra kinh nghiệm có thể áp dụng tại Việt Nam như :Hệ thống địa chính được thiết lập ở bất kỳ quốc gia nào đều không tách rời mục tiêu là quản lý chặt chẽ quỹ đất đai, các hệ thống tài liệu địa chính ở các nước nghiên cứu đều đi sâu thể hiện từng thửa đất của mỗi chủ sở hữu kèm theo các thông tin cần thiết phục vụ việc thu thuế, các nhu cầu về thông tin đất đai và yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu đất đai, để hiện đại hoá hệ thống quản lý, các nước đều tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu (ngân hàng dữ liệu) về đất đai và xây dựng, vận hành hệ thống thông tin
- đất đai. Đó chính là hệ thống quản lý nhà nước về địa chính đa mục đích mà nhiều quốc gia dang theo đuổi và bắt đầu xây dựng để ứng dụng. Quản lý nhà nước về địa chính có nhiệm vụ trọng tâm là lập và quản lý hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu về địa chính sẽ giúp Nhà nước quản lý đất đai hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Quản lý nhà nướcvề địa chính ở nước ta đã được thiết lập từ cách đây hơn năm thế kỷ, được chính quyền ở các chế độ khác nhau kế thừa và tiếp tục bổ sung, điều chỉnh nhằm phục vụ mục đích quản lý của mình. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh và sự chia cắt đất nước nên việc lập và quản lý các loại hồ sơ địa chính bị phân tán theo đặc thù của từng miền và từng chế độ. Hơn nữa, sau khi thống nhất đất nước, do sự thay đổi chế độ sở hữu đối với đất đai nên công tác lập hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu về đất đai bị gián đoạn. Hiện nay, nhà nước đang nỗ lực xây dựng hệ thống HSĐC và các cơ sở dữ liệu ngày càng hiện đại với sự trợ giúp của công nghệ thông tin để quản lý đất đai chặt chẽ hơn, minh bạch hơn.
- Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐỊA CHÍNH TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1. Vị trí địa lý Quận Hai Bà Trưng là một trong 4 quận nội thành cũ, nằm ở phía Đông Nam trung tâm thành phố Hà Nội. Quận Hai Bà Trưng có diện tích tự nhiên 1.025,80 ha, gồm 20 phường: Bạch Đằng (109,92 ha), Bách Khoa (52,13 ha), Bạch Mai (25,62 ha), Bùi Thị Xuân (14,05 ha), Cầu Dền (16,96 ha), Đống Mác (15,28 ha), Đồng Nhân (14,93 ha), Đồng Tâm (51,42 ha), Lê Đại Hành (86,81 ha), Minh Khai (47,20 ha), Ngô Thì Nhậm (19,18 ha), Nguyễn Du (37,00 ha), Phạm Đình Hổ (30,05 ha), Phố Huế (20,16 ha), Quỳnh Lôi (25,22 ha), Quỳnh Mai (16,83 ha), Thanh Lương (157,14 ha), Thanh Nhàn (73,61 ha), Trương Định (52,03 ha), Vĩnh Tuy (160,24 ha). 2.1.2. Địa hình Quận Hai Bà Trưng thuộc vùng Đồng bằng châu thổ sông Hồng, địa hình bằng phẳng, có hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông. Mức chênh lệch độ cao giữa các vùng không đáng kể, độ cao trung bình từ 4 - 10m so với mực nước biển. Phần lớn diện tích đất trên địa bàn quận là đất phi nông nghiệp; đấtnông nghiệp của quận chiếm tỷ lệ thấp (1,46% diện tích tự nhiên) chủ yếu là các ao hồ nhỏ nuôi trồng thủy sản, trồng rau màu và đất sân vườn. 2.2. Tổ chức bộ máy nhà nước về quản lý địa chính 2.2.1. Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân quận: Chính quyền quận Hai Bà Trưngthực hiệnnhiệm vụ QLNN về địa chính trên phạm vi hành chính. Chức năng nhiệm vụ, cơ cấu của HDND và UBND quận được quy định cụ thể tại Luật tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13 ngày 19/6/2015 chịu sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền thành phố Hà Nội, có trách nhiệm chấp hành sự phân công, phân nhiệm của thành phố và các quy định của pháp luật về QLNN về địa chính. 2.2.1. Phòng Tài nguyên và Môi trường Phòng Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn thuộc UBNDquận Hai Bà Trưng, tham mưu, giúp UBND Quận thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai, môi trường. Thực hiện nhiệm vụ, công tác chuyên môn theo quy định của Nhà nước và của Ngành, với chức năng, nhiệm vụ cụ thể được quy định tại điều 4, chương II Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV ngày 28/8/2014. 2.2.2. Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội – Chi nhánh Quận Hai Bà Trưng Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội có chức năng, nhiệm vụ cụ thể được quy định tại điều 1, điều 2 thông tư liên tịch số 15/2015/TTLT-BTNMT-
- BNV-BTC ngày 04/04/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở tài nguyên và môi trường. 2.2.3. Cán bộ địa chính tại các phường Cán bộ địa chính xã, phường,thị trấn (gọi chung là cán bộ địa chính cấp xã) giúp Ủy ban nhân dân xã, phường,thị trấn (gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) thực hiện quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường trong phạm vi xã, chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội và phòng Tài nguyên và Môi trường quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường.Cán bộ địa chính cấp xã có nhiệm vụ và quyền hạn như tham mưu giúp UBND cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong các lĩnh vực đất đai, tài nguyên, môi trường, xây dựng, đô thị, trình UBND cấp xã kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt. Trước năm 2001 lực lượng cán bộ địa chính tại quận và phường rất ít. Điều này ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý đất đai, nhất là công tác quản lý HSĐC.Từ năm 2005 đến nay, cùng với sự thành lập Văn phòng đăng ký Đất và Nhà quận Hai Bà Trưng (nay là Văn phòng ĐKĐĐ Hà Nội – chi nhánh quận Hai Bà), số lượng cán bộ làm đất đai tại cấp huyện tăng lên, cơ cấu tổ chức và trình độ học vấn của cán bộ tại quận đều có trình độ chuyên môn được đào tạo đúng chuyên ngành quản lý đất đai. Tại các phường của Quận Hai Bà Trưng hiện nay, mỗi phường có 02 cán bộ trong biên chế và 1 hoặc 2 cán bộ hợp đồng giúp việc. Về trình độ chuyên môn được đào tạo đúng chuyên ngành, một số có trình độ thạc sỹ quản lý đất đai nhìn chung trình độ chuyên môn của các cán bộ địa chính đã phù hợp với công tác quản lý đất đai. Về cơ sở vật chất, hiện nay theo thống kê của phòng Tài nguyên và Môi trường về cơ sở vật chất đảm bảo đầy đủ cho các cán bộ khi làm việc.. 2.3. Thực trạng quản lý và sử dụng đất quận Hai Bà Trưng 2.3.1. Hiện trạng sử dụng đất Theo số liệu thống kê đất đất đai đến hết ngày 31/12/2015, quận Hai Bà Trưng có tổng diện tích 1025.80 ha, bao gồm: Nhóm đất nông nghiệp là: 14,94 ha, chiếm 1,46% tổng diện tích đất tự nhiên; Nhóm đất phi nông nghiệp có diện tích: 1010,51 ha, chiếm 98,51% tổng diện tích đất tự nhiên và Nhóm đất chưa sử dụng có diện tích là: 0,35 ha, chiếm 0,03% tổng diện tích đất tự nhiên. 2.3.2. Thực trạngthực hiệnqui định pháp luật trên địa bàn Quận liên quan đến việc lập và quản lý địa chính Việc xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính của Quận được thực hiện tốt trên cơ sở kết quả hoạch
- địnhlại ranh giới theo Chỉ thị 364/1991/CT của Chính phủ. Ranh giới giữa quận Hai Bà Trưng và các quận, huyện giáp ranh được xác định bằng các yếu tố địa vật cố định hoặc mốc giới và được chuyển vẽ lên bản đồ. Thực hiện Nghị định số 132/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 6/11/2003 về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập các quận Long Biên, Hoàng Mai, thành lập các phường trực thuộc quận Long Biên, Hoàng Mai, thành phố Hà nội. Quận Hai Bà Trưng cũ 24 đơn vị hành chính được chia tách 04 phường chuyển sang thành quận Hoàng Mai. Tổng diện tích tự nhiên của Quận là 1025.80 ha. Sau khi điều chỉnh địa giới, việc cắm và bàn giao mốc giới, lập bản đồ địa giới được tiến hành kịp thời, tạo điều kiện tốt cho công tác quản lý địa giới hành chính cũng như công tác quản lý đất đai. Hồ sơ địa giới hành chính được chỉnh sửa thường xuyên theo Chỉ thị 364/1991/CT ngày 06/11/1991 của Thủ tướng Chính phủ. Bản đồ địa chínhcấp xã được tiến hành đo đạc năm 1994-1996 với tổng số tờ trên toàn quận là 971 tờ bao gồm 644 tờ bản đồ giải thửa tỷ lệ 1/200 và 327 tờ bản đồ tỷ lệ 1/500.Bản đồ hiện trạng SDĐ được thực hiện qua các kỳ kiểm kê đất đai 2000, 2005, 2010, 2015. Về cơ bản hệ thống bản đồ đã đáp ứng tốt cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai; BĐĐC luôn được chỉnh lý, cập nhật thường xuyên phù hợp với hiện trạng SDĐ, tuy nhiên hệ thống bản đồ đã được đo vẽ từ khá lâu, do vậy trên một số tờ đã biến động khá nhiều cần được đo vẽ mới hoặc đo vẽ bổ sung trong thời gian tới để đáp ứng tốt hơn công tác quản lý đất đai. Hệ thống hồ sơ địa giới hành chính của các phường trong Quận khá đầy đủ, gồm có: Tài liệu kiểm kê đất đai năm 2000, 2005, 2010, 2015; số liệu thống kê đất đai định kỳ hàng năm từ 2000 đến 2004, từ 2005 đến 2009, từ 2009 đến 2014; hồ sơ địa giới hành chính các cấp theo chỉ thị 364/1991/CT, các biểu mẫu thống kê. Quyết định thu hồi, giao đất của các phường được cấp có thẩm quyền cho phép, các dự án cải tạo đô thị, phương án đền bù thiệt hại đất….. Công tác quy hoạch, kế hoạch SDĐ được UBND quận khá quan tâm. Trên địa bàn quận Hai Bà Trưng có 20/20 phường đã lập quy hoạch phân bổ SDĐđến năm 2020, phương án quy hoạch SDĐ của các phường đã được phê duyệt và đang triển khai thực hiện. Hầu hết các phường trên địa bàn quận đều có kế hoạch SDĐ cho từng năm và được phê duyệt, thực hiện theo quy định của pháp luật đất đai. Về cơ bản, việc thu hồi đất được UBND Quận triển khai tốt, triệt để, đúng đối tượng, đúng luật, góp phần ngăn chặn tình trạng SDĐ sai mục đích, kém hiệu quả. Công tác cấp GCNQSD đối với đất ở đô thị: tính đến thời điểm cuối năm 2015 trên địa bàn quận Hai Bà Trưng đã có 45.703 hồ sơ kê khai cấp GCNQSDĐ, trong đó, số hồ sơ hợp lệ và đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận là 40.524 hồ sơ, số hồ sơ chưa đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận là 5.179 hồ sơ. Tổng số hồ sơ đã được cấp giấy chứng nhận tính đến 31/12/2015 là 33.270hồ sơ. Số hồ sơ chưa cấp là 12.433giấy chứng nhận.
- Việc lập hồ sơ địa chính HSĐC được triển khai thực hiện ở tất cả các phường cho 3 loại đất (đất ở, đất nông nghiệp và một số loại đất phi nông nghiệp). Các phườngcơ bản có sổ theo dõi biến động đất đai, sổ mục kê, sổ theo dõi cấp GCNQSDĐ, sổ địa chính, sổ đăng ký kê khai nhưng việc cập nhật các thông tin biến động, chỉnh lý biến động trên bản đồ, HSĐC chưa đều đặn. Kiểm kê đất đai 5 năm 1 lần thường xuyên được Quận duy trì, cụ thể, quận Hai Bà Trưng đã tiến hành làm tổng kiểm kê đất đai năm 2005, 2010 và 2015 với kết quả được đánh giá với chất lượng tốt. Thống kê đất đai hàng năm được duy trì, hàng năm công tác thống kê đất đai được tiến hành cả cấp huyện và xã. Chấp hành Chỉ thị số 28/2004/CT-TTg ngày 15 tháng 7 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về kiểm kê đất đai; Thông tư số 08/2007/TT-BTNMT ngày 02/8/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc hướng dẫn thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất, thông tư số 28/2014/TT-BTNMT của Bộ tài nguyên và môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố đã triển khai kế hoạch và phương án thực hiện công tác này đến quận Hai Bà Trưng. Trong năm 2010, 2015Quận đã tiến hành tổng kiểm kê đất đai theo đúng quy định, được sự chỉ đạo của UBND thành phố, Sở Tài nguyên và Môi trường tổ chức triển khai, đôn đốc các phường thực hiện kiểm kê theo hướng dẫn mới của Bộ Tài nguyên và Môi trường. 2.4. Thực trạng quản lý nhà nước về địa chính tại quận Hai Bà Trưng Sau khi quận Hai Bà Trưng được thành lập và đi vào hoạt động ổn định, UBND quận đã phối hợp với chính quyền cơ sở (phường) và các cơ quan chức năng tiến hành thực hiện hàng loạt các văn bản dưới Luật nhằm quản lý chặt chẽ quỹ đất đồng thời đáp ứng nhu cầu sử dụng đất của thành phố và địa phương. Nhìn chung, từ khi Luật đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành, Chính phủ, Bộ, liên Bộ, thành phố Hà Nội đã liên tục có các văn bản quy định, hướng dẫn chi tiết, cụ thể để các ngành, các cấp chính quyền thực hiện được thuận lợi. Việc thực hiện các chính sách trên địa bàn quận trong giai đoạn đô thị hoá mạnh mẽ đã có những tiến bộ đáng kể, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất phục vụ mục đích phát triển kinh tế – xã hội của quận Hai Bà Trưng nói riêng, thành phố Hà Nội nói chung, tạo ra một bộ mặt đô thị mới khang trang, hiện đại. 2.4.2. Thực trạng lập và quản lý hệ thống hồ sơ địa chính tại Quận Hai Bà Trưng * Thực trạng về lập hồ sơ địa chính Trong những năm qua, quận Hai Bà Trưng đã từng bước thiết lập hồ sơ địa chính phục vụ công tác quản lý Nhà nước về địa chính.
- Muốn lập được bộ hồ sơ địa chính, trước hết phải tiến hành điều tra, khảo sát đo đạc thành lập bản đồ địa chính của quận theo lưới toạ độ quốc gia đã được thực hiện từ năm 1995, gồm các tỷ lệ 1/2.000, 1/500 và 1/200. Do bản đồ điạ chính được lập từ lâu, đất đai lại luôn biến động, các thông tin về biến động đất đai không được cập nhật thường xuyên dẫn đến bản đồ địa chính không phản ánh được hiện trạng sử dụng đất. Việc hoàn thành công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính bước đầu đã tạo cơ sở khoa học và căn cứ pháp lý ban đầu cho việc quản lý và sử dụng đất, là cơ sở cho công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Công tác đo đạc bản đồ địa chính chính quy trên tòan quận cần phải được triển khai ngay. Để lập được hệ thống HSĐC thì cần phải có bản đồ địa chính(BĐĐC), sổ mục kê, sổ địa chính và sổ cấp GCN quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Hệ thống HSĐC chính quy phải được xây dựng trên cơ sở các tài liệu chính quy, có độ chính xác cao về thông tin không gian, thuộc tích và các thông tin pháp lý cho thửa đất. Về lập bản đồ địa chính: Tình hình đo đạc lập bản đồ trên địa bàn quận Hai Bà Trưng được đánh giá qua từng giai đoạn như sau: Trước Luật đất đai năm 1993: Đo đạc, lập BĐĐC chủ yếu mới chỉ dừng lại ở bước điều tra cơ bản. Phần lớn các phường ven ngoại ô mới chỉ có bản đồ giải thửa được xây dựng bằng phương tiện và công nghệ thủ công lạc hậu. Các biến động đất đai không được chỉnh lý kịp thời nên độ chính xác của bản đồ chưa cao, sau khi chỉnh lý không được ký và xác nhận, lưu giữ lộn xộn, khai thác tùy tiện. Hệ thống bản đồ này tới nay phần lớn không phù hợp với thực tế do không chỉnh lý biến động kịp thời như: Thanh Lương, Vĩnh Tuy, Bạch Đằng….Kết quả trong giai đoạn này đã đo đạc, chỉnh lý lập được 84 tờ bản đồ với tỷ lệ 1/1.000. Hiện nay bản đồ này bị thất lạc nhiều chủ yếu được sử dụng làm tài liệu tra cứu tại các xã, thị trấn. Sau Luật đất đai năm 1993: Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 1997, Quận Hai Bà Trưng đã tập trung đo đạc lập bản đồ theo phương pháp toàn đạc truyền thống (dùng máy kinh vĩ để đo),BĐĐC được thành lập theo quy phạm tại Quyết định 220/QĐ-ĐC ngày 01/7/1991 của Tổng cục Địa chính về ban hành Quy phạm đo vẽ BĐĐC tỷ lệ 1/500, 1/1000.Trong giai đoạn này,đo vẽ BĐĐC đã được thực hiện trên toàn bộ các xã của huyện (đạt 100% diện tích toàn Quận) với tổng số tờ bản đồ trên toàn Quận là644tờ tỷ lệ 1/200. * Về lập các loại sổ:Kèm theo hệ thống BĐĐC đã đo vẽ tại phường là các loại hồ sơ kèm theo (cùng thời điểm): sổ mục kê, sổ địa chính, sổ cấp GCNQSDĐ, biểu mẫu các loại đất. Sổ Cấp GCNQSDĐ ở cho hộ gia đình, cá nhân Công tác cấp GCNQSDĐ ở trên địa bàn quận Hai Bà Trưng được thực hiện theo Luật đất đai năm 1993 và các Quyết định của UBND thành phố Hà Nội: tính
- đến hết ngày 31/12/2015, toàn quận đã cấp được là 33.270 GCNQSDĐ.Như vậy, với tổng số 45.703 trường hợp SDĐ trên địa bàn quận Hai Bà Trưng còn 12.433 trường hợp chưa được cấp GCNQSDĐ. Theo báo cáo của UBND các phường về rà soát các trường hợp chưa được cấp GCN năm 2015 thì trong tổng số trường hợp chưa được cấp GCNQSDĐ có 5179trường hợp chưa đủ điều kiện cấp GCN. *Sổ cấp GCNQSDĐ cho các tổ chức SDĐ Số GCNQSDĐ đã cấp cho các tổ chức SDĐ là rất ít. Trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng tính đến hết ngày 31/12/2015 có khoảng 52 tổ chức SDĐ. Trong đó 100% các tổ chức này đã thực hiện việc kê khai ĐKĐĐ theo quy định. Việc cấp GCNQSDĐ cho các tổ chức này do Sở Tài Nguyên và Môi trường Hà Nội thực hiện. Trong 25 tổ chức đã cấp GCNQSDĐ cho, đạt tỷ lệ 48 % . Số tổ chức chưa được cấp GCNQSDĐ là 27 tổ chức. 2.5.1. Những kết quả đạt được trong thời gian qua: Trong công tác đo đạc lập BĐĐC: 100% xã, thị trấn đã được thành lập BĐĐC được chuẩn hóa, quản lý sử dụng, khai thác.Trong công tác ĐKĐĐ: đã tổ chức tuyên truyền vận động người SDĐ thực hiện kê khai đăng ký lần đầu đã đạt số lượng khá cao 93%, một chỉ tiêu mà trong nhiều năm trước khi có luật đất đai 2003 gần như bị bỏ ngỏ. Công tác cấp GCNQSDĐ: đất đai có nhiều nguồn gốc khác nhau, quá trình quản lý gặp nhiều khó khăn, vướng mắc ... Hệ thống HSĐC được số hóa, scan, dữ liệu được cập nhật lên các file máy tính đã phục vụ hữu hiệu công tác quản lý nhà nước về đất đai cũng như nhu cầu tra cứu của người dân và doanh nghiệp. 2.5.2. Tồn tại, bất cập Tuy đã có những thành tựu vượt bậc nhưng qua công tác cũng thấy bộc lộ một số vấn đề trong công tác đo đạc bản đồ (thông tin tư liệu địa chính,công tác thông tin tư liệu sổ sách (thông tin tư liệu HSĐC),công tác kê khai đăng ký, cấp GCNQSDĐ với thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, cứng nhắc. 2.5.3. Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, bất cập Hệ thống pháp luật về đất đai còn chồng chéo, chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, cơ cấu tổ chức bộ máy và lực lượng nhân sự làm công tác quản lý địa chính thiếu tính ổn định. Quản lý nhà nước về hồ sơ địa chính ở Quận Hai Bà Trưng là bộ phận trong nội dung quản lý của Nhà nước về đất đai, được tiến hành chủ yếu phục vụ mục tiêu quản lý. Mặc dù còn nhiều hạn chế, tồn tại trong quản lý về địa chính do nguyên nhân khách quan và chủ quan, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Quận Hai Bà Trưng đã và đang có nhiều nỗ lực nhằm xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu về địa chính hoàn chỉnh, đáp ứng cho yêu cầu quản lý đất đai trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. 2.5. Đánh giá quản lý nhà nước về địa chính của chính quyền quận Hai Bà Trưng
- Đánh giá QLNN nước về địa chính là một công việc phức tạp, nhiều tiêu chí, chỉ tiêu không thể lượng hoá được. Trên cơ sở áp dụng 5 tiêu chí đánh giá chính sách công của Ngân hàng thế giới, tác giả xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp nhằm thực hiện việc đánh giá QLNN về địa chính từ thực tiễn của quận Hai Bà Trưng như sau: 1. Tiêu chí phù hợp: Chất lượng QLNN về địa chính của quận Hai Bà Trưngphụthuộc vào những yếu tố được xem là đầu vào của quản lý. 2. Tiêu chí hiệu lực: Tính hiệu lực QLNN về địa chính thểhiệnởvai trò lãnhđạo của cấp uỷ Đảng, việc giám sát thực hiện pháp luật của HĐND, việc tổ chức thực hiện của UBND, sự phối hợp tham gia của các tổ chức chính trị- xã hội và người sử dụng đất. Đối quận Hai Bà Trưng công tác này đã được sự quan tâm của chính quyền, tuy nhiên chưa thật sự thường xuyên và có những chương trình, mục tiêu cụ thể. 3. Tiêu chí hiệu quả: được xem xét trong QLNN về địa chính của quận Hai Bà Trưng thể hiện mức độ hoàn thành 3 mục tiêu tổng quát của quản lý. QLNN về địa chính đã có những tiến bộ đáng kể, góp phần ổn định KT- XH tại quận. 4. Tiêu chí tác động: QLNN về địa chính của quận Hai Bà Trưng đã có những tácđộng nhất định đối sự phát triển kinh tế xã hội quận như: các khoản thu ngân sách tăng bình quân hàng năm; ý thức pháp luật của người dân đã được nâng cao; tình hình an ninh chính trị trên địa bàn ổn định; cảnh quan môi trường, di tích lịch sử được và hệ thống hạ tầng kỹ thuật được cải thiện, quận đã có dáng dấp của một đô thị hiện đại, đời sống văn hoá tinh thần cho người dân ngày càng được nâng cao. 5. Tiêu chí bền vững: Để được sựbền vững trong QLNN về địa chính củaquận cần 3 yếu tố chính là: bền vững về tài chính, bền vững về nghiên cứu khoa học và áp dụng công nghệ, bền vững về mức độ tham gia vào các hoạt động quản lý của người sử dụng đất, các tổ chức chính trị xã hội.
- Chương 3 GIẢI PHÁP VÀ BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐỊA CHÍNH TỪ THỰC TIỄN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Phương hướng bảo đảm công tác quản lý nhà nước về địa chính Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cho ta thấy cần thiết phải thực hiện công tác quản lý nhà nước về đất đai đặc biệt là công tác địa chính. Quản lý nhà nước về địa chính là một nội dung rất quan trọng, là nền tảng cho việc bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, là điều kiện để Nhà nước quản lý chặt chẽ toàn bộ quỹ đất trong phạm vi lãnh thổ đảm bảo cho đất đai được sử dụng một cách triệt để. Trong những năm tới, với mục tiêu hoàn thiện theo hướng hoàn chỉnh, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của quản lý, UBND quận Hai Bà Trưng tập trung thực hiện theo phương hướng sau: Thứ nhất, ổn định quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất là cơ sở cho việc quản lý địa chính. Bên cạnh việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch cần rà soát lại quy trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch để có được tính khả thi, dân chủ và đủ công cụ để đảm bảo tính thực thi, tránh trình trạng quy hoạch “treo”, dự án “treo”. UBND quận cần rà soát lại từng khu vực để công bố quy hoạch, kế hoạch SDĐ, xem xét lại khu vực cần tiếp tục thực hiện, khu vực nào không có khả năng thực hiện thì quyết tâm công bố huỷ bỏ để giải phóng các nguồn lực đang bị “chết”, hoặc đang nằm im. Công khai hoá, minh bạch hoá các mối quan hệ mang tính “lịch sử”, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công chúng về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Tạo điều kiện giảm bớt tình trạng tham nhũng, hối lộ xẩy ra khá phổ biến hiện nay, gây thiệt hại không nhỏ cho người dân và Nhà nước. Tăng cường công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, cần tăng cường ở bề rộng và chiều sâu. Bên cạnh việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch cần rà soát lại quy trình xây dựng quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất để có được tính khả thi, dân chủ và đủ công cụ để đảm bảo tính thực thi. Như vậy, cần xây dựng một lực lượng có kinh nghiệm và trình độ cao để thực hiện công tác kiểm tra phương án quy hoạch đồng thời kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp. Thứ hai, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước về địa chính. Cần xác định ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực quản lý địa chính nhất . Việc này có vai trò quan trọng, tạo bước đột phá trong công tác quản lý, cải cách thủ tục hành chính. Do vậy, để công tác quản lý địa chính được chặt chẽ, khoa học thì ứng dụng công nghệ thông tin, tin học hóa các quy trình nghiệp vụ, dịch vụ và tác nghiệp chuyên môn tại cơ sở là rất cần thiết nhằm:
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng tổ trưởng chuyên môn trường tiểu học trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
26 p | 461 | 115
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường trung học văn hóa nghệ thuật Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay
26 p | 457 | 66
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trung học phổ thông các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay
13 p | 340 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 307 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 331 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 201 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn