intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk

Chia sẻ: Tomhum999 Tomhum999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

12
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là nghiên cứu quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk để củng cố và làm sâu sắc thêm cơ sở lý luận và để xuất những giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk

  1. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuyên Phản biện 1: Phản biện 2: Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia. Địa điểm: Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên. Số: 51, đường Phạm Văn Đồng, TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Thời gian: vào hồi giờ tháng năm 2018. Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia.
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM NGỌC HOÀNG TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH ĐẮK LẮK Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60340403 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG ĐẮK LẮK - NĂM 2018
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài luận văn Công tác quản lý văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Công tác này được Đảng và Nhà Nước ta đặc biệt quan tâm nhằm bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc. Cụ thể là đã có những văn bản pháp quy quy định đầy đủ, chi tiết về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý văn hóa. Như Quyết định số: 1966/QĐ-UBND, ngày 25/8/2014 của UBND tỉnh Đắk Lắk về việc Quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Đắk Lắk và quy định chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban chuyên môn huyện, thị xã, thành phố. Nghị định số: 103/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2009 của Chính phủ về việc Ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng (ngày có hiệu lực 01/01/2010)…Qua đó, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của công tác này. Huyện Krông Búk là một huyện thuộc tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam. Theo tiếng Ê Đê, Krông Búk có nghĩa là suối tóc. Ngày 23 tháng 12 năm 2008 Chính phủ ra nghị định 07/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Krông Búk để thành lập thị xã Buôn Hồ và huyện Krông Búk trực thuộc tỉnh Đắk Lắk. Sau khi điều chỉnh, huyện Krông Búk có diện tích 35.867,71 ha, có 14 dân tộc anh em cùng sinh sống với số dân là 57.002 người. Krông Búk có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng. Để phát huy những giá trị văn hóa của vùng đất này, chính quyền các cấp đã có những chính sách phù hợp để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc, riêng có của huyện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được công tác quản lý nhà nước về một số lĩnh vực văn hóa, dịch vụ văn hóa ở huyện Krông Búk vẫn còn những hạn chế. Do đó, để công tác quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Krông Búk có hiệu quả cần phải có sự đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân để đề xuất các giải pháp khắc phục. Xuất phát từ lý do nêu trên và nhận thức được tầm quan trọng trong việc quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện, học viên chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài Luận văn Cao học Quản lý công của mình với mong muốn làm rõ những ưu điểm để phát huy, đề xuất những giải pháp khoa học góp phần hoàn thiện việc xây dựng, nâng cao chất lượng hoạt động quản lý về văn hóa của huyện nhà đạt hiệu quả hơn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Nhóm thứ nhất, những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý văn hoá trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quản lý văn hoá được thể hiện trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp quy đã được Nhà nước ban hành. Vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng là sự kế thừa những nội dung cốt lõi nhất đã được khẳng định trong các văn kiện, nghị quyết của các nhiệm kỳ đại hội trước đây, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Đồng thời, xuất phát từ thực tiễn 30 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới đã và đang đặt ra những vấn đề về phương diện xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới, cần phải có sự bổ sung, phát triển mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Do đó, trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, một mặt Đảng ta khẳng định những quan điểm vừa cơ bản, vừa cấp bách để tiếp tục quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam; đồng thời, có 1
  4. bước phát triển mới về mặt lý luận về quá trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy, các Luật, Nghị định, Chỉ thị, Thông tư… về phát triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hoá, có nội dung liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến vấn đề quản lý văn hoá. Các Nghị định của Chính phủ có liên quan: Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các hoạt động văn hoá, dịch vụ văn hoá và phòng chống một số tệ nạn xã hội; Về việc thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao; về Quy định về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet; Về quản lý xuất nhập khẩu văn hoá phẩm không nhằm mục đích kinh doanh; về Xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hoá; về Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng; Về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường; về Quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan; Về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hoá. Các Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ: Về việc chấn chỉnh các hoạt động tiêu cực trong quán bar, nhà hàng karaoke, vũ trường; Thông tư liên tịch về quản lý Internet; Chỉ thị của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch về tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo nhằm thúc đẩy sự ra đời, phát triển của các Bảo tàng và sưu tập tư nhân; Chiến lược phát triển văn hóa từ 2011 đến 2020… là định hướng quan trọng trong phát triển văn hóa và quản lý văn hóa. Nhóm thứ hai, những công trình nghiên cứu bước đầu xây dựng hệ thống lý luận về quản lý văn hoá: Một số công trình tiêu biểu, như: - Nguyễn Duy Bắc, Về lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật trong công cuộc đổi mới. - Hoàng Sơn Cường, Lược sử Quản lý văn hoá ở Việt Nam - PGS. TS. Huỳnh Văn Tới, Quản lý nhà nước về Văn hóa. - GS. Hoàng Vinh, Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hoá ở nước ta. Những công trình trên bước đầu làm rõ một số vấn đề quan trọng liên quan đến phương diện lý luận của công tác quản lý văn hoá, như: Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế, đại cương về quản lý hoạt động văn hoá, chính sách quản lý hoạt động văn hoá, nội dung quản lý hoạt động văn hoá, quản lý xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở hiện nay.. Nhóm thứ ba, Một số luận văn, đề tài khoa học liên quan đến vấn đề quản lý văn hoá, quản lý các hoạt động văn hoá cơ sở: - PGS,TS Nguyễn Duy Bắc chủ nhiệm đề tài cấp Bộ: "An ninh văn hóa trong điều kiện hiện nay", Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã nghiệm thu, 2016. - Luận Văn Thạc sĩ Trần Sĩ Minh (Trường Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh): Quản lý Lễ hội truyền thống ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, 2015. - Ths. Vũ Thị Phương Hậu (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) chủ nhiệm đề tài cấp cơ sở: Quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn, đã nghiệm thu, 2008. - Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Mỹ Xuân (Trường Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh): Quản lý hoạt động của Trung tâm Văn hóa – Điện ảnh tỉnh Bình Dương trong giai đoạn hiện nay, 2015. Những công trình nghiên cứu trên đây đã góp phần làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn của vấn đề trên các phương diện: 2
  5. Thứ nhất: Nghiên cứu về mối quan hệ giữa phát triển văn hoá và kinh tế thị trường trong điều kiện hiện nay của đất nước. Thứ hai: Góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý luận của quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hoá nói chung. Thứ ba: Về quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực cụ thể của văn hoá. Thứ tư: Bước đầu nghiên cứu, khảo sát thực trạng quản lý nhà nuớc về văn hoá ở một số địa phương. Các kết quả nghiên cứu trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xây dựng, hoàn thiện thể chế quản lý trên lĩnh vực văn hoá ở nước ta hiện nay, trong đó có vấn đề quản lý nhà nước về văn hoá trên một số địa bàn. Bên cạnh đó, còn một số lượng khá lớn những bài viết đã đăng trên các báo, tạp chí, liên quan đến vấn đề quản lý nhà nước về văn hoá từ nhiều phương diện khác nhau. Nhìn một cách tổng quát, những nghiên cứu trên đây có liên quan đến đề tài: hoặc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm định huớng, tạo điều kiện cho phát triển văn hoá và quản lý hoạt động văn hoá; hoặc chỉ mới tập trung ở phần lý luận chung về quản lý các hoạt động văn hoá. Đối với những công trình nghiên cứu trực tiếp công tác quản lý văn hoá ở một số đơn vị cơ sở, hay tiếp cận vấn đề từ góc độ quản lý một số hoạt động văn hoá, thì kết quả nghiên cứu thuờng gắn với từng hoàn cảnh cụ thể, trong một giai đoạn nhất định. Để thực hiện đề tài của luận văn, người viết đã tiếp thu những thành quả của các tác giả đi trước, vận dụng cụ thể vào mục tiêu nghiên cứu của đề tài mình đã chọn cả về mặt lý luận và thực tiễn để giải quyết những yêu cầu đặt ra của luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Mục đích của luận văn là nghiên cứu quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk để củng cố và làm sâu sắc thêm cơ sở lý luận và để xuất những giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mu ̣c đić h trên, nhiệm vụ của luận văn là: - Hệ thống hóa, phân tích và làm rõ thêm lý luận QLNN về VH. - Đánh giá và phân tích thực trạng QLNN về VH ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. - Đề xuất các giải pháp tăng cường QLNN về VH ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn QLNN về VH ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. - Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng Từ năm 2011 đến năm 2017. - Quản lý văn hóa là một trong những vấn đề rất nóng bỏng và có phạm vi rộng cả về không gian và thời gian. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ giới hạn trong địa bàn huyện Krông Búk và trong khoảng thời gian từ năm 2011 tới năm 2017 (chủ yếu năm 2017). 5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận 3
  6. Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư t-ưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vai trò của văn hóa; đường lối quan điểm về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Tìm hiểu các nghiên cứu đã có về VH và QLNN về VH ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk và ở Việt Nam, đánh giá các quan điểm hợp lý và chưa hợp lý từ đó đưa ra các kiến giải theo cách tiếp cận của tác giả. - Phương pháp thực chứng: Dựa trên những tư liệu thực tiễn của các ngành, các địa phương để phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về VH ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk, những kết quả và hạn chế làm cơ sở để đối chứng, phân tích và đề xuất các giải pháp tăng cường QLNN về VH ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích trong quá trình nghiên cứu. 6. Đóng góp mới của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn Luận văn hệ thống hóa, trình bày cơ sở lý luận quản lý nhà nước về văn hóa. Đồng thời trên cơ sở hệ thống hóa quy định hiện hành về quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn cấp huyện, tác giả trình bày khái niệm, nội dung quản lý văn hóa trên địa bàn huyện. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn khảo sát, phân tích chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân, đề xuất các giải pháp khắc phục, hy vọng góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hoá ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk nói riêng và quản lý nhà nước về văn hóa cấp huyện trên phạm vi cả nước nói chung. Đề tài có thể làm nguồn tư liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập của sinh viên, học sinh chuyên ngành quản lý hành chính công của Học viện Hành chính Quốc gia. Học viên hy vọng nhận được sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà lãnh đạo, quản lý, các cơ quan hành chính nhà nước, các giảng viên giảng dạy về văn hóa. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Luận văn được bố cục thành 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về văn hóa. Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. 4
  7. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA 1.1. Một số khái niệm: 1.1.1. Khái niệm văn hóa Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ lợi ích nhu cầu của con người. Nhìn từ góc độ đó, con người làm ra rất nhiều sản phẩm văn hóa hấp dẫn như các công trình kiến trúc chùa chiền, lễ hội, đời sống tâm linh, ẩm thực… Trong đó, những sản phẩm ẩm thực là gần gũi với đời sống con người nhất. 1.1.2. Khái niệm quản lý Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, quản lý khi là động từ mang ý nghĩa: - “Quản” là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định; - “Lý” là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo yêu cầu nhất định. - Hiểu theo ngôn ngữ Hán Việt, công tác “quản lý” là thực hiện hai quá trình liên hệ chặt chẽ với nhau: “quản” và “lý”. Quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ thống ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm việc sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ thống vào thế “phát triển”. Nếu người quản lý chỉ lo việc “quản” tức là chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn thì tổ chức dễ trì trệ; tuy nhiên nếu chỉ quan tâm đến việc “lý”, tức là chỉ lo việc sắp xếp, tổ chức, đổi mới mà không đặt trên nền tảng của sự ổn định, thì hệ thống sẽ phát triển không bền vững. Nói chung, trong “quản” phải có “lý” và trong “lý” phải có “quản”, làm cho hoạt động của hệ thống luôn ở trạng thái cân bằng. Sự quản lý đưa đến kết quả đích thực bền vững đòi hỏi phải có mưu lược, nghệ thuật làm cho hai quá trình “quản” và “lý” tích hợp vào nhau, hỗ trợ cho nhau cùng tồn tại để phát triển theo đúng quy luật khách quan vốn có của một xã hội cụ thể. Sau khi chỉ ra nội hàm và khu biệt ngoại diên của khái niệm, ta có thể hiểu khái niệm về quản lý là: Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý để chỉ huy, điều khiển, liên kết các yếu tố tham gia vào hoạt động thành một chỉnh thể thống nhất, điều hoà hoạt động của các khâu một cách hợp quy luật nhằm đạt đến mục tiêu xác định trong điều kiện biến động của môi trường. 1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước Bằng những lát cắt khác nhau về quản lý nhà nước, ta có thể hiểu: quản lý nhà nước là tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế bằng một hệ thống các luật lệ, chính sách, nguyên tắc, phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. Đối tượng của quản lý có thể trên quy mô toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành, đơn vị, có thể là một con người, sự vật cụ thể. Quản lý thể hiện việc tổ chức, điều hành tập hợp con người, công cụ, phương tiện tài chính… để kết hợp các yếu tố đó với nhau nhằm tạo mục tiêu định trước. 1.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước về văn hóa Quản lý nhà nước về văn hoá gắn với quyền lực nhà nước. Bất kỳ mọi hoạt động văn hoá nào cũng cần có sự quản lý nhà nước, vì vậy, cần phải xác định rõ đối tượng thuộc phạm vi văn hoá mà nhà nước cần phải quản lý. Nhà nước có thể quản lý được và cần quản lý là đời sống văn hoá, hoạt động văn hoá. Nhà nước đảm nhận một phần quan trọng trực tiếp quản lý những công trình văn hoá (công trình lịch sử văn hoá cũng như công trình nghệ thuật) và những cơ sở trực tiếp phục vụ nhu cầu văn hoá của nhân dân. Nhà nước là cơ quan đại diện cho nhân dân để đảm bảo các quyền được ghi trong hiến pháp của công dân về văn hoá, điều tiết sự hài hoà của cơ cấu văn hoá, lợi ích văn hoá của các nhóm xã hội, các yêu cầu phát triển và thoả 5
  8. mãn nhu cầu văn hoá của toàn xã hội trước các mâu thuẫn, nghịch lý nảy sinh từ sự vận động, phát triển xã hội. Cần xác định rõ rằng quản lý Nhà nước về văn hóa, xây dựng và phát triển về văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thông nhất và đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vì vậy, phải tạo điều kiện đảm bảo cho nhân dân tham gia vào sự nghiệp đó. Văn hóa dân tộc gắn liền với nhân dân, mọi người dân đều có quyền hưởng thụ văn hóa và có nghĩa vụ đóng góp bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Trong quản lý văn hóa, ngoài vai trò của Nhà nước, cần thực hiện hình thức tự quản của nhân dân, đảm bảo tính phong phú, đa dạng của văn hóa và đáp ứng được nhu cầu văn hóa của nhân dân. 1.2. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển 1.2.1. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước Vị trí, vai trò của văn hóa ngày càng được nâng cao, được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, nhất là trong việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến Chân, Thiện, Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học; thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Văn hóa là biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, sức mạnh tiềm tàng và vị thế, tầm vóc dân tộc. Thực tế đã chứng minh, một quốc gia muốn phát triển bền vững, cùng với việc dựa vào các “yếu tố cứng” như tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, cơ sở vật chất,… thì cần phải biết tận dụng, khai thác “yếu tố mềm”, đó chính là nguồn lực con người với nhân cách văn hóa, trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ, khả năng lao động sáng tạo. Nói cách khác, văn hóa là một “nguồn lực mềm” làm động lực và đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển và làm “hài hòa hóa” các mối quan hệ xã hội và “lành mạnh hóa” môi trường xã hội. Nhận thức sâu sắc giá trị của văn hóa trong quá trình phát triển, Đảng ta xác định tiến hành đồng bộ và gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt cùng với việc xây dựng văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội nhằm tạo nên sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Trong đó, nội dung xây dựng văn hóa được xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, một định hướng quan trọng để đất nước phát triển bền vững. 1.2.2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về văn hóa: Quản lý Nhà nước về văn hóa là một nhiệm vụ hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần, vừa phản ánh đời sống hiện thực con người và xã hội, vừa thúc đẩy sự phát triển, sự hoàn thiện nhân cách, làm phong phú và sâu sắc thêm các giá trị nhân bản, nhân đạo và nhân văn của đời sống xã hội. Sự phát triển của văn hóa gắn với các điều kiện lịch sử, xã hội, mang lại những điều kiện cho hoạt động văn hóa và văn hóa cũng đem lại diện mạo mới cho xã hội, do vậy công tác tuyên truyền và nhận thức về hoạt động quản lý văn hóa cần được nâng cao. Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước về văn hóa với các lý do cụ thể: Thứ nhất, Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội; là năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người; trụ cột phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc và nhân loại. Vai trò đối với kinh tế - Xã hội, đối với tinh thần, đối với đất nước, đối với dân tộc và đối với hội nhập… Thứ hai, giao lưu và hội nhập văn hóa giữ vai trò hết sức quan trọng đối với văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Nhưng hội nhập quốc tế trong tất cả các lĩnh vực kể cả văn hóa nói chung, văn hóa chính trị nói riêng có hai mặt, mặt tích cực và mặt tiêu cực. Mặt tích cực là sẽ giúp cho văn hóa mỗi dân tộc (theo nghĩa quốc gia - dân tộc) luôn phát triển, tiếp nhận được những giá trị tiến bộ của văn hóa các dân tộc khác, 6
  9. làm giàu thêm cho văn hóa của dân tộc mình, quảng bá được văn hóa của mình cho các dân tộc khác. Tuy nhiên, mặt tiêu cực là nguy cơ san bằng và đồng nhất các hệ giá trị, các chuẩn mực văn hóa dân tộc, đe dọa và làm suy kiệt sự phong phú, khả năng sáng tạo của các nền văn hóa dân tộc, dẫn đến nguy cơ tha hóa, vong bản, thậm chí thủ tiêu các giá trị văn hóa dân tộc. Từ những vấn đề nêu trên cho chúng ta thấy sự cần thiết phải quản lý nhà nước về văn hóa 1.3. Nội dung của quản lý nhà nước về văn hóa 1.3.1. Các văn bản luật điều chỉnh về văn hóa - Quản lý bằng Hiến Pháp và pháp luật Luật pháp phải thực sự là công cụ quản lý Nhà nước về văn hóa - thông tin. Đó là việc xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp luật đối với các loại hình hoạt động văn hóa – thông tin. Hoạt động quản lý bao gồm cả xây dựng, ban hành văn bản quản lý và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đó - Hiến pháp Đối với lĩnh vực văn hóa – thông tin, Chương III, Hiến pháp năm 1992 có một số điều khoản luật Nhà nước đối với sự phát triển và vận hành các hoạt động văn hóa. Điều 30 Hiến pháp quy định: Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam; Dân tộc, hiện đại, nhân văn; Kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân, Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa. - Luật, Pháp lệnh Ngoài những vấn đề đề chung đã ghi trong Hiến pháp, Nhà nước còn Ban hành hệ thống các đạo luật, pháp lệnh riêng với từng lĩnh vực hoạt động văn hóa – thông tin như: Đối với lĩnh vực văn hóa có các luật: + Luật về tổ chức bộ máy quản lý văn hóa đối với các Hội đồng, các Ủy ban, các Bộ; + Luật di sản văn hóa; + Luật bảo hộ quyền tác giả. + Luật điện ảnh Đối với lĩnh vực thông tin có các luật, pháp lệnh: + Luật Báo chí + Luật xuất bản, + Pháp lệnh Quảng cáo, pháp lệnh Thư viện v.v.. Văn bản dưới luật: + Ngoài ra còn có hệ thống văn bản dưới luật như các Nghị định, Thông tư, Chỉ thị, Quyết định và nhiều văn bản pháp quy khác. Ví dụ: NĐ 75,87,88,103/NĐ-CP. 1.3.2. Hoạt động quản lý nhà nước về văn hoá bao gồm những nội dung sau: - Hoạt động xây dựng, ban hành các chính sách và văn bản pháp luật về văn hoá. Chính sách văn hoá được hiểu là tổng thể những nguyên tắc thể hiện tư tưởng chủ đạo của Nhà nước về đường lối, phương hướng xây dựng và phát triển nền văn hoá. Chính sách văn hoá đặt ra các nguyên tắc chung của sự nghiệp phát triển văn hoá phù hợp với mục tiêu phát triển văn hoá chung của đất nước. Các chính sách về quản lý và phát triển văn hoá hiện nay có thể kể đến: sáng tạo các giá trị văn hoá; bảo tồn, phát huy tài sản văn hoá; phát triển văn hoá cơ sở; giao lưu văn hoá quốc tế; hiện đại hoá kỹ thuật và phương thức sản xuất, phân phối sản phẩm văn hoá; đào tạo, phát triển đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ; đảm bảo ngân sách, điều kiện pháp lý cho 7
  10. phát triển văn hoá; nâng cao tính tự quản và phân cấp quản lý văn hoá...Chính sách văn hoá có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về văn hoá song chính sách văn hoá không thể thay thế pháp luật. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về văn hoá nhằm phát huy tác dụng của văn hoá tới sự hình thành nhân cách, nâng cao chất hượng cuộc sống tinh thần của con người. - Hoạt động tổ chức thực hiện của bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá: Cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về văn hoá là Chính phủ; Bộ văn hoá, thể thao và du lịch (cấp trung ương); UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hoá trong địa phương mình theo quy định của pháp luật. Hoạt động này bao gồm các công việc như đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; xây dựng và chỉ đạo quy hoạch, kế hoạch; ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp quy; hướng dẫn, tuyên truyền; thẩm định; cấp giấy phép, giấy chứng nhận… Đây là những hoạt động trên thực tế để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về văn hoá theo mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra. - Hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực văn hoá: Đây là một hoạt động có vai trò quan trọng của công tác quản lý nhà nước về văn hoá, sự tác động trực tiếp của cơ quan kiểm duyệt và thanh tra có vai trò đặc biệt quan trọng. - Vấn đề nhận thức: Trong thực tiễn hoạt động nhiều năm qua, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, một vấn đề lớn đặt ra là phát triển văn hóa chưa đồng bộ với phát triển kinh tế dẫn đến nhiều hệ lụy về phát triển xã hội, đồng thời làm cho phát triển kinh tế không bền vững. Nguyên nhân chính của vấn đề đó là do nhận thức chưa đầy đủ về văn hóa trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt, sự bất cập trong hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa. - Đổi mới nhận thức về quản lý nhà nước bất cập so với phát triển văn hóa: Các hoạt động văn hóa ngày càng đa dạng, các dịch vụ văn hóa cũng phát triển khá mạnh, một mặt đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội, mặt khác cũng gây nhiều hệ lụy với những đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, gây tâm trạng bất an trong dư luận xã hội. Quản lý nhà nước không theo kịp sự phát triển, thêm vào đó còn tồn tại cách hiểu sai quản lý đến đâu, phát triển đến đó, dẫn đến nhận thức lệch lạc, quy quản lý nhà nước vào một việc cho và không cho (sinh ra tệ xin cho với bao hệ lụy đi kèm), dẫn đến cách quản lý hạn chế sự phát triển, không quản lý được thì cấm. 1.3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Quan điểm văn hoá của Hồ Chí Minh chống lại mọi biểu hiện kỳ thị, độc tôn về văn hoá. Đúc kết trong kho tàng tri thức của mình tinh hoa văn hoá đông, tây, kim, cổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra chủ trương kế thừa truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc phải đi đôi với việc học tập và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hoá là kim chỉ nam cho chúng ta trong việc xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trên cơ sở đó có thể hội nhập và giao lưu với các nền văn hoá khác trên thế giới, cùng nhau phát triển. Xu hướng chung của văn hóa nhân loại trong tương lai là kết hợp hài hoà nền văn minh khoa học công nghiệp phương tây với tinh hoa văn hoá nhân bản phương Đông. Cả hai ưu thế này đã được đúc kết trong nhân cách vĩ đại và tư tưởng sâu rộng về văn hoá Hồ Chí Minh. 1.3.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về văn hóa và quản lý văn hóa Đảng ta khẳng định: “Nền văn hóa Việt Nam đã phát triển trong sự tiếp thu có chọn lọc và biến thành của mình nhiều tinh hoa văn hóa của những nền văn hóa lớn trên thế giới. Ông cha ta đã tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trên tinh thần độc lập dân tộc, với lòng tự hào sâu sắc về những giá trị của con người Việt Nam, của truyền thống lịch sử và văn hóa Việt Nam” [4, tr.20]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đề ra: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam 8
  11. tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển… Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu hiện phản văn hóa” [5, tr.75-76]. 1.3.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về văn hóa 1.3.5.1. Yếu tố con người: Con người là nguồn lực vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả cơ quan QLNN cũng như mục tiêu chung của tổ chức, nếu cán bộ công chức nắm bắt tốt công việc thì công việc của tổ chức sẽ được thực hiện thuận lợi nhanh chóng. Ngược lại nếu có nhiều cán bộ công chức ở các bộ phận không nắm rõ yêu cầu của công việc hoặc không có thái độ đúng đắn với công việc thì công việc của cơ quan gặp rất nhiều khó khăn. Trong cơ quan hành chính nhà nước nhiều cán bộ chuyên môn không là tốt công tác lập hồ sơ văn bản, không có ý thức tuân thủ các quy trình chuyển giao văn bản trong công việc hàng ngày một cách đầy đủ. Do vậy công việc kiểm tra hoạt động các bộ phận khác gặp rất nhiều khó khăn. 1.3.5.2. Yếu tố môi trường pháp lý: - Đề cập đến vấn đề này trước hết cần nói đến pháp luật, tức là những quy định của pháp luật liên quan đến công tác QLNN về VH và cán bộ công chức. Mỗi ngành nghề đều có những văn bản pháp luật điều chỉnh riêng. Những quy định mang tính chất pháp lý sẽ được điều chỉnh, quy định và định hướng hoạt động của cán bộ công chức sẽ tuân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. - Ảnh hưởng của môi trường pháp lý đến công tác QLNN về VH và cán bộ công chức là những văn bản quy phạm pháp luật quy định: + Luật về tổ chức bộ máy quản lý văn hóa đối với các Hội đồng, các Ủy ban, các Bộ; + Luật di sản văn hóa; + Luật bảo hộ quyền tác giả; + Luật điện ảnh; + Luật Báo chí; + Luật xuất bản;, + Pháp lệnh Quảng cáo, pháp lệnh Thư viện v.v.. + NĐ-CP-NĐ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực VH thông tin;. + Quyền và nghĩa vụ của những người đang giữ chức vụ trong cơ quan Nhà nước; + Quan hệ công tác, phối hợp trong cơ quan khi giải quyết công việc (quan hệ giữa người bên trong và người bên ngoài) v.v… 1.3.5.3. Yếu tố môi trường: - Là các thể chế hoặc lực lượng bên ngoài có thể tác động tới hoạt động của tổ chức. + Môi trường bên trong: Điều kiện làm việc, cán bộ công chức, tiền lương, mối quan hệ giữa các cán bộ công chức trong công sở + Môi trường bên ngoài: Môi trường trong nước, môi trường Quốc tế, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường chính trị… 1.3.5.4. Yếu tố chỉ huy, cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ: 9
  12. - Đây là yếu tố then chốt, công tác QLNN và nhân sự trong công sở như thế nào là do người chỉ huy, họ quyết định mọi vấn đề của công sở và đưa ra các mệnh lệnh hành chính có phù hợp với chức năng nhiệm vụ của công sở hay không. - Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ: Nếu cơ cấu hợp lý thì hoạt động của công sở sẽ nhịp nhàng, thuận tiện, đảm bảo thực hiện công việc tốt hơn. Chức năng nhiệm vụ là yếu tố cơ bản cho công sở, đó là điều kiện thiết yếu cho công sở thực hiện nhiệm vụ cụ thể của mình. Tiểu kết Chương 1 Quản lý nhà nước về văn hóa có vai trò quan trọng trong việc thực hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng và Nhà nước. Thực chất của công tác quản lý các hoạt động văn hóa là quá trình tác động, điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước thông qua pháp luật trên tất cả các hoạt động văn hóa trong đời sống xã hội nhằm phát triển, đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân. Quản lý nhà nước về văn hóa được thực hiện thông qua ba cơ quan trong bộ máy nhà nước: cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Theo nghĩa hẹp: quản lý nhà nước về văn hóa được thể hiện trong hoạt động quản lý có tính chất nhà nước nhằm điều hành các hoạt động văn hóa, được thực hiện bởi hệ thống bộ máy các cơ quan hành pháp (Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở, Phòng…). Quản lý nhà nước về văn hóa thực chất là quản lý hành chính đối với văn hóa. Kết quả nghiên cứu về phương diện lý luận và thực tiễn của quản lý văn hóa ở Chương 1 là cơ sở để luận văn khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý văn hóa của huyện trong thời gian qua, làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng của công tác quản lý văn hóa của huyện trong thời gian tới. Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Những yếu tố điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa của huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. 2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên - Huyện Krông Búk là một huyện thuộc tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam. Ngày 23 tháng 12 năm 2008 Chính phủ ra nghị định 07/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Krông Búk để thành lập thị xã Buôn Hồ và huyện Krông Búk trực thuộc tỉnh Đắk Lắk. Sau khi điều chỉnh, huyện Krông Búk có diện tích 35.867,71 ha, có 14 dân tộc anh em cùng sinh sống với số dân là 57.002 người. - Địa giới huyện Krông Búk: Phía Đông giáp huyện Krông Năng. Phía Tây giáp huyện Cư M’Gar, Ea H’Leo. Phía Nam giáp thị xã Buôn Hồ, huyện Cư M’Gar. Phía Bắc giáp huyện Ea H’Leo. - Địa hình cao nguyên núi lửa chiếm hầu hết diện tích Phía Nam, phía Đông và khu vực trung tâm huyện có mức độ phân cắt mạnh tạo thành những dãy đồi dạng bát úp, độ dốc trung bình 8-150, độ cao trung bình 500 – 700 m, địa hình có xu thế thấp dần về phía Tây và phía Nam. Địa hình núi thấp trung bình bao quanh phần phía Tây, có sườn dốc, được hình thành từ các đá granite. Địa hình đồng bằng tích tụ bao gồm các bãi bồi, các bậc thềm của các sông suối thuộc lưu vực suối Ea Tul và Krông Búk. - Nhìn chung, huyện Krông Búk, Nằm ở cửa ngõ phía Bắc của tỉnh, giáp thị xã Buôn Hồ, trên trục Quốc lộ 14, nối huyện Krông Búk với thành phố Buôn Ma Thuột, thành phố PLâyKu; cách sân bay Buôn Ma Thuột 10
  13. khoảng 60 km, giao lưu thuận tiện với các tỉnh Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung và cả nước. Đây chính là điều kiện khá thuận lợi trong quan hệ phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Tuy vậy, là huyện mới được điều chỉnh địa giới hành chính, còn nhiều xã khó khăn, huyện ít được kế thừa các cơ sở hạ tầng của huyện Krông Búk cũ, vì vậy sẽ còn nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn tiếp theo. 2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội: - Về kinh tế: Nông nghiệp và lâm nghiệp là các ngành kinh tế chính của Krông Búk. Các sản phẩm chủ yếu là cà phê, cao su, hồ tiêu, gỗ xẻ… Là địa bàn tiếp giáp giáp thị xã Buôn Hồ, trên trục Quốc lộ 14, nối huyện Krông Búk với thành phố Buôn Ma Thuột, thành phố PlâyKu, nên thuận lợi cho việc giao lưu hàng hóa. Có 2 khu công nghiệp nằm trên địa bàn huyện là điều kiện thuận lợi cho huyện cung cấp nguyên, vật liệu và sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ tận gốc; khu công nghiệp cũng là nơi thu hút lao động của địa phương, nhằm đạt mục tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động sang phi nông nghiệp. Trong những năm qua đựơc sự quan tâm của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân và UBND huyện, sự nỗ lực của nhân dân địa phương kinh tế - xã hội của huyện Krông Búk đã có những bước phát triển đáng kể. Các công trình phúc lợi xã hội như: Trường học, trạm y tế, chợ, đường giao thông, điện sinh hoạt… đã được quan tâm đầu tư xây dựng, phục vụ nhu cầu sinh họat văn hóa, xã hội của người dân ngày một tốt hơn. Các ngành kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, tính cạnh tranh; thương mại dịch vụ đã đựơc quan tâm phát triển; đời sống của người dân từng bước đựơc cải thiện; bộ mặt nông thôn đã có sự thay đổi cơ bản. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì kinh tế của huyện vẫn còn những hạn chế như: hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội chưa đựơc đầu tư đồng bộ nên gây khó khăn cho việc đi lại và tổ chức sinh họat văn hóa của người dân; ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu kinh tế của nước ta; các ngành thương mại, dịch vụ phát triển nhỏ lẻ, manh mún; công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển chậm. - Về xã hội: Huyện Krông Búk Có 7 xã: Chứ Kbô, Cư Né, Cư Pơng, Ea Ngai, Ea Sin, Pơng Drang và Tân Lập, có 64 thôn và 42 buôn. Tổng số dân toàn huyện là 57.002 người, 14 dân tộc anh em cùng sinh sống. Trong đó, Đồng bào DTTS là 18.521; chiếm 32.5% DS. Đồng bào dân tộc tại chỗ là 17.862; chiế m 31.3% DS. Có 4 tôn giáo chính: Công giáo, Phật giáo, Tin lành và Cao đài (tín đồ: 15.259, chiếm 23,7% dân số). Hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường tự nguyện và đúng quy định pháp luật Nhà nước. Đến nay, toàn huyện có 06 Niệm phật đường, 01 Tịnh xã, 02 Giáo họ, 03 Chi hội sinh hoạt đạo Tin lành và 20 điểm nhóm sinh hoạt tập trung. Tín độ các đạo và dân cư không theo đạo cùng chung sống hòa đồng, tạo nên một cộng đồng đoàn kết cùng nhau xây dựng và bảo vệ quê hương. Những yếu tố này vừa mang tính tích cực đối với sự phát triển của huyện nhưng vừa tạo ra những khó khăn phức tạp cho hoạt động QLNN, đặc biệt là trong quản lý văn hóa trên địa bàn huyện. Huyện Krông Búk là một trong số các huyện được ưu tiên và quan tâm đặc biệt. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách đặc thù nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách về đất ở, đất sản xuất, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho người dân địa phương, lồng ghép các chương trình quốc gia với các dự án phát triển nông, lâm nghiệp bền vững. Tuy nhiên, đời sống người dân còn nhiều khó khăn như thiếu đất sản xuất, thiếu việc làm và thu nhập thấp. 11
  14. 2.1.3. Hệ thống tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý văn hóa của huyện Krông Búk Thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk được nghiên cứu dựa vào vai trò của chủ thể quản lý văn hóa là Ủy ban nhân dân huyện Krông Búk và cơ quan chuyên môn là Phòng Văn hóa và Thông tin huyện. 2.1.4. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý văn hóa huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk Phòng Văn hóa và Thông tin là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Krông Búk, có chức năng tham mưu giúp Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương về lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch trên địa bàn huyện và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện và theo quy định của pháp luật. Phòng Văn hóa và Thông tin có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng để hoạt động theo quy định của pháp luật. 2.1.5. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của phòng Văn hóa và Thông tin huyện Krông Búk - Chức năng: Phòng Văn hoá và thông tin là cơ quan chuyên môn trực thuộc Uỷ ban nhân dân huyện Krông Búk, đồng thời là tổ chức của hệ thống quản lý ngành từ Trung ương đến huyện. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động thuộc lĩnh vực Văn hoá và thông tin trên địa bàn huyện theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Bảo đảm các hoạt động lành mạnh, chống xu hướng văn hoá thông tin và thể thao độc hại. Phòng Văn hoá và thông tin huyện dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Uỷ ban nhân dân huyện, đồng thời sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Thông tin Truyền thông và Sở Văn hoá thể thao và du lịch tỉnh Đắk Lắk. - Nhiệm vụ: Thực hiện việc quản lý sát sao đối với các hoạt động văn hoá, nghệ thuật của mọi tổ chức và cá nhân. Thực hiện giáo dục truyền thống cách mạng, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá cho mọi tầng lớp nhân dân. Thực hiện quản lý bảo tồn, bảo tàng, thư viện, câu lạc bộ văn hoá, quản lý việc kinh doanh, cho thuê phim ảnh, băng từ, in ấn, sao chụp, xuất bản, phát hành, cổ động, quảng cáo... nhằm đưa các hoạt động này hoạt động theo đúng qui định của Nhà nước. - Quyền hạn: Triệu tập các cuộc họp để phổ biến, triển khai các nhiệm vụ công tác do phòng quản lý. Ký các văn bản giao dịch, văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, văn bản quản lý hành chính có liên quan đến hoạt động văn hoá thông tin và Thể dục thể thao; được Uỷ ban nhân dân quận Uỷ quyền giải quyết những công việc thuộc phạm vi ngành. Kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc thi hành nhiệm vụ chính trị của các tổ chức hoạt động văn hoá thông tin và thể dục thể thao trong toàn huyện. Thông qua thực tế đề xuất những vấn đề bất cập trong các hoạt động để kiến nghị Uỷ ban nhân dân quận, Sở Thông tin Truyền thông và Sở Văn hoá thể thao và du lịch tỉnh để có chủ trương, biện pháp thích hợp kể cả việc đầu tư cơ sở, vật chất cho hoạt động của ngành nhằm đạt kết quả tốt nhất. 2.1.6. Mối quan hệ công tác Sở Thông tin Truyền thông và Sở Văn hoá thể thao và du lịch tỉnh, Uỷ ban nhân dân huyện, các phòng, ban thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, Uỷ ban nhân dân các xã, các cá nhân và pháp nhân đến yêu cầu giải quyết công việc, Trung tâm, cơ sở văn hoá thông tin và thể dục thể thao của huyện. 2.1.7. Thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk 2.1.7.1. Công tác thông tin, tuyên truyền cổ động - Ngành văn hoá và thông tin đã chủ động tổ chức tuyên truyền bằng nhiều hình thức phong phú như: Tuyên truyền trên hệ thống loa truyền thanh, tuyên truyền trực quan bằng băng rôn, pa nô, apphích, cờ đuôi nheo, cờ Đảng, cờ Tổ quốc, cờ phướn, xe cổ động...; Năm 2017, toàn huyện đã làm mới băng rôn, khẩu hiệu tuyên truyền 1.252m2, panô: 1.305m2, panô tuyên truyền xe loa: 130m2; 150 lá cờ Đảng, 150 lá cờ Tổ quốc, 50 lá phướn lớn, 150 lá cờ phướn nhỏ; cờ nheo: 104m2, xe loa tuyên truyền 30 buổi phục vụ tuyên 12
  15. truyền kịp thời tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị - xã hội của tỉnh, của huyện. Hệ thống đài phát thanh trên địa bàn huyện đã thực hiện 4.280 giờ phát thanh đảm bảo đưa lượng thông tin chính xác, kịp thời đến mọi tầng lớp nhân dân. 100% các xã qui hoạch và lắp đặt các cốc cắm cờ trên các trục đường chính trên địa bàn. 2.1.7.2. Công tác quản lý văn hoá và các dịch vụ văn hoá - Qua thống kê, rà soát, trên địa bàn huyện có: 20 hộ kinh doanh Internet, 10 hộ kinh doanh karaoke, 15 điểm photocopy (In ấn, bán sách báo), 3 cơ sở kinh doanh các dịch vụ văn hoá khác. Phối hợp với các phòng, ban ngành chức năng và các xã tổ chức ký cam kết không vi phạm quy định trong kinh doanh dịch vụ với 100% các hộ kinh doanh dịch vụ văn hoá. - Chuẩn hoá thủ tục hành chính theo Nghị định số: 103/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2009 của Chính phủ về việc Ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng. - Năm 2017, đội kiểm tra liên ngành từ huyện tới xã đã tổ chức kiểm tra 100% cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá: Nhắc nhở 02 trường hợp, không có trường hợp nào bị xử lý nộp phạt. - Phối hợp với thanh tra Sở và các ngành chức năng của huyện rà soát, nhắc nhở các trường hợp có biển quảng cáo vi phạm, biển quảng cáo sai quy định. - Phối hợp với Uỷ ban nhân dân các xã, hướng dẫn và thực hiện xử lý biển quảng cáo tấm nhỏ, biển hiệu, băng rôn quảng cáo sai qui định, ra quân bóc, xoá quảng cáo rao vặt. Hướng dẫn các xã lên phương án xử lý các khung quảng cáo trên nóc nhà gây nguy hiểm trong mùa mưa bão. 2.1.7.3. Xây dựng đời sống văn hoá, gia đình Cuộc vận động “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” Hướng dẫn cơ sở đăng ký xây dựng danh hiệu gia đình văn hóa; thôn, buôn văn hóa; xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa năm 2017 Hướng dẫn cho các thôn, buôn đạt thôn, buôn văn hóa lần đầu năm 2016 tổ chức đón nhận quyết định công nhận danh hiệu thôn, buôn văn hóa, trao quyết định cho các thôn, buôn đạt thôn buôn văn hóa duy trì 3 năm liền 2014-2016. - Việc cưới + Các phòng ban ngành Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể thường xuyên, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện tốt quy ước cưới: trang trọng - lành mạnh - tiết kiệm . Động viên tặng quà lưu niệm, tổ chức tiệc trà hoặc cử cán bộ tham gia tư vấn tổ chức các đám cưới cho các đôi nam nữ theo đúng tinh thần quy ước. Toàn huyện đã có 572 đôi đăng ký kết hôn, 100% các đôi được trao giấy chứng nhận kết hôn tại Uỷ ban nhân dân huyện (trong đó có 2 trường hợp kết hôn với người nuóc ngoài) - Việc tang + Ban chỉ đạo các phường mà nòng cốt là Hội người cao tuổi, Hội phụ nữ đã chủ động tuyên truyền, vận động các hội viên và gia đình cố gắng tổ chức việc tang theo nếp sống mới và nhận trách nhiệm đứng ra lập ban lễ tang, làm các thủ tục giúp cho gia đình các hội viên khi có việc tang. Toàn huyện có 230/230 đám tang thực hiện đúng theo quy ước (đạt 100%). + Các xã đã vận động nhân dân không để người mất quá hai mươi bốn tiếng ở trong nhà và mai táng tại các nghĩa trang theo quy định. 2.1.7.4. Công tác quản lý Văn hóa dân gian – Du lịch Huyện Krông Búk có 15 dân tộc anh em cùng chung sống, tạo nên những giá trị văn hóa vô cùng đặc sắc. Với truyền thống lịch sử, đặc điểm vùng miền cư trú và đặc trưng văn hóa, phương thức canh tác đã tạo nên sự khác biệt trong văn hóa của người dân Krông Búk. Các loại hình văn hóa dân gian huyện Krông Búk không chỉ phong phú về thể loại, độc đáo về giá trị văn hóa mà còn đậm đà sắc thái văn hóa. Trong đó có thể 13
  16. kể đến: Lễ cưới của người dân tộc M’Nông Gar; Lễ ăn cơm mới; Lễ cúng hồn lúa; Lễ bỏ mả; Lễ cúng sức khỏe; Lễ hội văn hóa cồng chiêng, nhà dài, ẩm thực, diễn tấu nhạc cụ, biểu diễn dân ca, dân vũ của người dân tộc Êđê… Trong năm 2017 phòng Văn hóa và Thông tin huyện Krông Búk đã Khai mạc, bế mạc tổng kết 02 lớp truyền dạy đánh chiêng Kram tại buôn Drah 2, xã Cư Né và trường Dân tộc nội trú (cấp chứng chỉ cho 62 em hoàn thành khóa học). - Phục dựng Lễ cúng bến nước tại buôn Ea Nu, xã Pơng Drang và buôn Đrao, xã Cư Né. - Phục dựng Lễ cam Dyr tại buôn Drah, xã Cư Né. - Xây dựng và hoàn thiện đề án phát triển du lịch huyện Krông Búk. 2.1.7.5. Hoạt động Tuyên tuyền lưu động, Văn hóa văn nghệ - Năm 2017 Đội tuyên truyền lưu động, văn hóa văn nghệ Trung tâm Văn hóa -Thông tin - Thể thao huyện đã xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ tuyên truyền lưu động tại Trung tâm huyện và đi phục vụ tại các cơ sở và các thôn, buôn đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa trên địa bàn huyện. 2.1.7.6. Hoạt động chiếu phim - Trong năm 2017: Đơn vị đã phối hợp với Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng Đắk Lắk tổ chức chiếu phim tuyên truyền các ngày lễ của đất nước và địa phương. Tổ chức (07 đêm) chiếu phim Chào mừng kỷ niệm 127 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2017)tuyên truyền Chào mừng kỷ niệm 72 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944-22/12/2016), 27 năm ngày Hội quốc phòng toàn dân và Tết Dương lịch năm 2017 phục vụ nhân dân trên địa bàn huyện. Mỗi đêm thu hút khoảng 350 lượt người đến xem và cổ vũ cho đêm chiếu, tình hình an ninh trật tự tại các đêm tổ chức chiếu phim diễn ra bình thường. 2.1.7.7. Câu lạc bộ - Duy trì và phát huy hoạt động của gần 10 câu lạc bộ văn hoá - thể thao tại Trung tâm Văn hoá - Thông tin - Thể thao huyện và các xã như các câu lạc bộ cầu lông, câu lạc bộ thể hình, câu lạc bộ erobic, câu lạc bộ võ thuật câu lạc bộ dưỡng sinh, câu lạc bộ chim Chào mào. Đồng thời, mở rộng các mô hình hoạt đồng của các câu lạc bộ văn hoá - thể thao tại cơ sở như: Câu lạc bộ thư pháp, câu lạc bộ khiêu vũ, câu lạc bộ bóng bàn, bóng chuyền... 2.1.7.8. Hoạt động Thư viện - Giới thiệu sách, báo, tạp chí...cho độc giả có nhu cầu mượn sách, đọc sách tại thư viện. Chuẩn bị tài liệu giới thiệu chào mừng ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam 3/2. Tiếp tục hướng dẫn thủ tục làm thẻ thư viện cho độc giả mượn sách về nhà và đọc tại chỗ. mua bổ sung các loại sách, báo, tài liệu vào Thư viện. - Hưởng ứng Ngày Sách Việt Nam (21/04) Phòng VH-TT huyện tổ chức Lễ phát động Hưởng ứng phong trào văn hóa đọc sách trên địa bàn huyện năm 2017. Năm 2017, cấp mới thẻ bạn đọc: 120 thẻ/năm; lượt bạn đọc đến thư viện: 4.000 lượt/năm, lượt sách, báo phục vụ bạn đọc: 8.300 lượt/năm. 2.1.7.9. Tập huấn nâng cao nghiệp vụ - Tổ chức 02 lớp tập huấn công tác quản lý nhà nước trong hoạt động văn hoá - thông tin trên địa bàn huyện với gần 200 học viên tham gia. Tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, nâng cao nghiệp vụ do tỉnh tổ chức như: Công tác viết bài về cuộc vận động, tập huấn nâng cao nghiệp vụ quản lý Internet và lớp tập huấn kiến thức về Chính phủ điện tử do sở Thông tin truyền thông và sở Văn hóa, thể thao và du lịch tổ chức. 2.1.7.10. Đầu tư cơ sở vật chất 14
  17. - Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân huyện tiếp tục bổ sung một số cụm pa nô tuyên truyền nhiệm vụ chính trị-xã hội với tổng kinh phí gần 200 triệu đồng. - Đầu tư tu sửa 4 sân cầu lông thuộc Trung tâm VH-TT-TT huyện quản lý với kinh phí hơn 300 triệu đồng. Đồng thời, tiếp tục khảo sát lên phương án xây dựng Trung tâm VH-TT-TT huyện, nhà Văn hoá thiếu nhi huyện, thư viện huyện, nhà Văn hoá xã Pơng Drang. - Sửa chữa, thay thế hệ thống truyền thanh ở các xã. 2.2. Đánh giá chung - Trong những năm qua, phòng Văn hóa và Thông tin huyện Krông Búk đã từng bước kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa từ huyện cho đến xã. Nhiều cán bộ người dân tộc thiểu số tại chỗ đảm nhiệm cương vị chủ chốt trong ngành. Toàn huyện đã đào tạo, bồi dưỡng hệ thống cán bộ cơ sở, cán bộ trung cấp và cán bộ cao đẳng, đại học, kiện toàn đội kiểm tra liên ngành trong hoạt động văn hoá - xã hội từ huyện tới xã để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về năng lực đội ngũ cán bộ cho ngành. Các hoạt động văn hóa ngày càng đa dạng và phong phú, liên hoan, hội thi văn hóa các dân tộc được tổ chức thường xuyên. Xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động thông tin lưu động, chiếu bóng lưu động, đội tuyên truyền văn hóa, với những đầu tư trang bị cần thiết phục vụ đồng bào dân tộc. Phối hợp với sở Văn hóa, Trung tâm Phát hành phim, chiếu bóng có chương trình băng, đĩa hình, với hàng vạn bản bằng các thứ tiếng dân tộc phục vụ đồng bào. Hệ thống phát thanh truyền hình huyện và các xã đã và đang tăng thời lượng, chất lượng như phát thanh truyền hình bằng tiếng phổ thông và các thứ tiếng dân tộc, nội dung ngày càng phù hợp với nguyện vọng của đồng bào. 2.2.1. Thành tựu và hạn chế Về thành tựu - Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, công tác văn hóa trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk đã có những chuyển biến tích cực về nhận thức cũng như công tác quản lý, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Trên cơ sở các văn bản pháp quy, các đề án, dự án khả thi của Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành để phát triển lĩnh vực văn hóa, UBND huyện Krông Búk nhanh chóng triển khai đến các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các tầng lớp nhân dân cùng tham gia thực hiện. Điều này đã góp phần có hiệu quả trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển các hoạt động văn hóa của tỉnh, huyện. Với nỗ lực cố gắng, tâm huyết của mỗi cán bộ, nhân viên trong ngành từ đó đã đề xuất tham mưu với lãnh đạo các cấp triển khai tổ chức thực hiện các kế hoạch công tác một cách cụ thể, thiết thực. Bởi vậy, công tác văn hoá - thể thao trên địa bàn huyện năm 2017 đã đạt được những kết quả đáng phấn khởi. Các chương trình, kế hoạch đều được hoàn thành tốt, vượt chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra. - Công tác thông tin tuyên truyền cổ động được chú trọng tạo ra những đợt hoạt động cao điểm sâu rộng gây được sự chú ý tập trung của nhiều người tạo ra được phong trào sôi nổi rộng khắp trong toàn huyện. Hoạt động thường xuyên và có trọng tâm, nên hoạt động ngày càng chất lượng, nội dung thể hiện phong phú đa dạng thu hút được sự quan tâm của quần chúng nhân dân. Công tác thông tin, tuyên truyền trực quan đã góp phần đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với mỗi người dân, tạo không khí tưng bừng phấn khởi trên địa bàn huyện. - Công tác phối hợp, tổ chức phục dựng các nghi lễ truyền thống của đồng bào dân tộc Êđê của huyện được tập trung thực hiện có hiệu quả rõ rệt góp phần bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị truyền thống của các lễ hội phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần cho nhân dân, đồng thời là tiềm năng quan trọng để phát triển du lịch. 15
  18. - Công tác quản lý văn hoá hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hoá được chú trọng, các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hoá đã đi vào nề nếp. Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường. Nghiêm túc thực hiện các Nghị định, Chỉ thị của Chính phủ về chấn chỉnh các tiêu cực trong hoạt động kinh doanh quán cà phê, nhà hàng karaoke, có biện pháp xử lý cương quyết đối với hoạt động quảng cáo có hành vi vi phạm - Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được triển khai và thực hiện sâu rộng ở các khu dân cư, thôn buôn, các hộ gia đình, các cơ quan, đơn vị, trường học với mục tiêu xây dựng thôn buôn văn hoá, xã văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa một năm, hai năm và ba năm. - Công tác xã hội hoá hoạt động văn hoá thông tin được quan tâm chỉ đạo và vận động có hiệu quả, thể hiện vai trò quản lý Nhà nước, cụ thể là: Xã hội hoá trong công tác tu bổ, làm đường, trường học; Tổ chức các hoạt động văn hoá - thể thao quần chúng; qui hoạch quảng cáo, qui hoạch karaoke, xây dựng các cụm panô tuyên truyền nhiệm vụ chính trị - Xã hội trên địa bàn. - Hoạt động sự nghiệp được tăng cường và phát triển với nhiều hình thức thiết thực, hiệu quả, ngày càng nâng cao về chất lượng. Các hoạt động phong phú, đa dạng và sáng tạo góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị và nâng cao đời sống văn hoá ở cơ sở, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của người dân. - Công tác phối hợp tổ chức hoạt động giữa phòng văn hoá thông tin với các phòng ban, ngành, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từ huyện tới xã ngày càng rõ nét cụ thể, hiệu quả cao, chất lượng công việc ngày càng được cải thiện góp phần hoàn thành nhiệm vụ của ngành nói riêng và những nhiệm vụ chính trị của huyện trong năm 2017 nói chung. - Lãnh đạo huyện quan tâm tới công tác quy hoạch tổng thể các thiết chế văn hoá và có kế hoạch thực hiện công tác đầu tư cụ thể hàng năm nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hoạt động của nhân dân. - Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đã có chuyển biến tích cực làm cho đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao, giảm hộ nghèo, số hộ giàu tăng lên. Kết cấu hạ tầng và các thiết chế sinh hoạt văn hóa được xây dựng khang trang, cảnh quan môi trường sạch đẹp. Các chỉ tiêu xã hội như y tế, giáo dục được thực hiện tốt, giảm tệ nạn xã hội. Tình làng nghĩa xóm được củng cố, nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội được thực hiện, an ninh chính trị được đảm bảo, tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh ngày càng tăng, người dân có ý thức chấp hành các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. - Quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở có tác động làm thay đổi diện mạo đời sống văn hóa: Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số được chú trọng khơi dậy, gìn giữ và phát huy. Mức hưởng thụ về văn hóa của đồng bào từng bước được nâng lên, cơ sở vật chất và trang thiết bị hoạt động văn hóa được tăng cường lên. Nếp sống văn hóa đã và đang được chú ý chỉ đạo xây dựng, xuất hiện nhiều nhân tố mới, mô hình mới có tác động tích cực trong đời sống văn hóa xã hội của đồng bào các dân tộc. Một số truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được phát huy làm phong phú và lành mạnh đời sống tinh thần, thắt chặt tình đoàn kết giữa các dân tộc. - Cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý ở các đơn vị trực thuộc ngành văn hóa, trưởng, phó phòng văn hóa huyện và các cán bộ phụ trách văn hóa - xã hội của xã, thị trấn luôn không ngừng học tập, lý luận chính trị, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, do đó việc thực hiện các nhiệm vụ văn hóa xuyên suốt và mang lại hiệu quả cao. Công tác thi đua, khen thưởng được các ngành các cấp trong huyện quan tâm chú trọng. Kịp thời khuyến khích, động viên sự sáng tạo duy trì ổn định và không ngừng phát triển đi lên của các hoạt động quản lý văn hóa. Về hạn chế 16
  19. - Trong những năm qua, những hạn chế, yếu kém trong quản lý nhà nước về các hoạt động văn hóa của huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk thể hiện ở những mặt sau: - Một số hoạt động văn hóa chưa được đầu tư thỏa đáng kể cả phương tiện vật chất và con người, do đó chỉ mang tính chất phong trào, thiếu bền vững, chất lượng hoạt động đạt hiệu quả chưa cao. - Sự đầu tư của các cấp cho hoạt động văn hóa: cơ sở vật chất, trang thiết bị và kinh phí cho hoạt động còn hạn chế, lực lượng cán bộ làm công tác văn hóa còn thiếu, cán bộ làm phong trào ở xã đa số là kiêm nhiệm, kinh phí hoạt động còn thấp. Trụ sở Phòng văn hóa và Thông tin, trung tâm Văn hóa – Thông tin – Thể thao còn mượn tạm chưa có trụ sở chính, trang thiết bị phục vụ chuyên môn chưa đầy đủ gây khó khăn trong công tác phục vụ chuyên môn nghiệp vụ các hoạt động văn hóa còn gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được với xu thế phát triển chung của đất nước trong quá trình hội nhập. - Trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, tỉnh còn thiếu quỹ đất dành cho xây dựng các thiết chế văn hóa như: Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã; nhà văn hóa, khu thể thao thôn, làng; quy mô xây dựng không đồng bộ do phụ thuộc vào việc huy động góp vốn của nhân dân. Chính vì vậy, vấn đề thống nhất về quy mô xây dựng, số tiền đóng góp sẽ phức tạp hơn. - Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tuy đã được đẩy mạnh và nhân rộng song chất lượng phong trào chưa cao. Trong quá trình tổ chức thực hiện, sự phối kết hợp giữa các ban ngành còn thiếu sự đồng bộ. - Công tác quản lý nhà nước các hoạt động dịch vụ văn hoá có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả tốt, song vẫn còn những bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của đời sống xã hội. Việc xử lý vi phạm quảng cáo tấm lớn còn nhiều vướng mắc từ cơ sở (Liên quan đến nhiều Sở, Ngành). - Tình trạng quảng cáo rao vặt vẫn là vấn đề bức xúc chưa được giải quyết triệt để. Hoạt động kinh doanh Internet, karaoke vẫn còn nhiều hộ không phép và vi phạm những qui định về thời gian, khoảng cách. - Hoạt động thư viện tại các bưu điện văn hóa xã không gian phòng đọc còn hạn chế vì vậy chưa thu hút được nhiều độc giả. Trong khi chờ Trung ương có những giải pháp hữu hiê ̣u phu ̣c hồ i hê ̣ thố ng thư viê ̣n, tủ sách cơ sở đang có nguy cơ bi ̣tiêu vong, trước những đòi hỏi cấ p bách của sự nghiê ̣p nâng cao dân trí và phu ̣c vu ̣ các nhu cầ u đo ̣c sách, báo của nhân dân. - Việc bố trí, sắp xếp cán bộ chuyên môn văn hóa còn nhiều điều bất cập, đáng lưu ý nhất là sự thiếu hụt cán bộ chuyên trách ở cơ sở xã. - Khó khăn hiện nay là kinh phí đầu tư cho hoạt động văn hóa, sự nghiệp văn hóa còn thấp. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận được công tác quản lý văn hóa ở huyện Krông Búk đã có những thành tựu nhất định. Qua thực trạng quản lý các hoạt động văn hóa nêu trên, đang đặt ra cho công tác quản lý văn hóa tại huyện một số vấn đề cần giải quyết. - Việc nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc định hướng, giám sát, đôn đốc, kiểm tra đối với các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa trong việc thể chế hóa các quan điểm của Đảng, trong việc thực thi các chính sách về văn hóa, trong việc tăng cường hiệu lực nhà nước thông qua các xử phạt vi phạm hành chính còn hạn chế. - Việc triển khai công tác quản lý hoạt động văn hóa còn chậm, quy hoạch về sự phát triển sự nghiệp văn hóa chưa theo kịp sự phát triển của đô thị hóa, còn thiếu cán bộ nghiệp vụ và trang thiết bị, cơ sở vật chất. Một số huyện dân số đông, địa bàn rộng nhưng không có thiết chế về hoạt động văn hóa cho nhân dân… dẫn đến phong trào văn hóa phát triển chưa đồng đều. - Tốc độ phát triển quá nhanh của các loại hình dịch vụ công nghệ thông tin là một vấn đề khó khăn trong lĩnh vực quản lý văn hóa. 17
  20. - Đội ngũ những người làm công tác văn hóa, đặc biệt là cấp cơ sở còn quá thiếu, yếu về trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; cơ chế quản lý, chính sách đãi ngộ trong việc bồi dưỡng, đào tạo chưa phù hợp. Chưa có chính sách thu hút, sử dụng người có năng khiếu ở sở tại, người dân tộc - miền núi đi học về quê không được bố trí việc làm, nên nhiều người được cử đi đào tạo không muốn trở lại địa phương, người vùng thấp không muốn lên vùng núi. - Ngân sách đầu tư của Nhà nước đối với công tác văn hóa chưa hoàn toàn dựa trên cơ sở thực tiễn, mức độ và tỉ lệ đầu tư còn thấp và mang tính bình quân theo đầu người, chưa đầu tư chiều sâu nhằm phát triển văn hóa vùng dân tộc thiểu số. Chưa có cơ chế phù hợp, thống nhất giữa các cơ quan chức năng với địa phương trong việc quản lý, điều hành kinh phí bảo tồn, phát triển văn hóa ở vùng các dân tộc thiểu số. 2.2.2. Một số vấn đề đặt ra trong công tác quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk Nhận thức về văn hóa và quản lý văn hóa - Khái niệm “quản lý văn hóa” trong xã hội hiện đại được hiểu là công việc của nhà nước, được thực hiện thông qua việc ban hành quy chế, chính sách, tổ chức triển khai, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và cả nước. Nhìn vào thực tiễn, không khó để nhận thấy, quản lý văn hóa còn được hiểu là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình thức, phương pháp của chủ thể quản lý (các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, các cơ cấu dân sự, các cá nhân được trao quyền và trách nhiệm quản lý) đối với khách thể (mọi thành phần/thành tố tham gia và làm nên đời sống văn hóa) nhằm đạt được mục tiêu mong muốn (bảo đảm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nâng cao vị thế quốc gia, cải thiện chất lượng sống của người dân...). Đào tạo đội ngũ tổ chức, quản lý văn hóa - Khảo sát trên toàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk về tình hình đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý văn hóa cho thấy: có 29,5% cán bộ làm việc tại phòng Văn hóa và Thông tin huyện, ban Văn hóa xã trên địa bàn huyện được đào tạo ngành văn hóa nghệ thuật, 11,5% đào tạo ngành Thể dục – Thể thao và 59% đào tạo các ngành khác. Cán bộ quản lý văn hóa chủ yếu được tuyển dụng ở nhiều ngành nghề khác nhau. Trong khi đó khối lượng công việc họ phải đảm nhiệm lại khá lớn và có tính đặc thù. - Thống kê về tình hình đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ văn hóa cho thấy: đối tượng cán bộ cấp huyện, xã có 82,3% đã tham gia các lớp về chuyên môn, nghiệp vụ lĩnh vực văn hóa; 80% đã tham gia các lớp về chuyên môn, nghiệp vụ lĩnh vực TDTT; 35,4% được tham gia các lớp về chuyên môn, nghiệp vụ lĩnh vực du lịch; 38,0% được tham gia các lớp về chuyên môn, nghiệp vụ lĩnh vực gia đình; 81% được tham gia các lớp tập huấn về công nghệ thông tin; 17,7% chưa tham gia lớp bồi dưỡng nào. Nhìn chung, cán bộ quản lý Văn hóa của huyện Krông Búk được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên. Các xã còn lại, việc tập huấn, bồi dưỡng chưa thực sự hiệu quả do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu do đội ngũ cán bộ, công chức này quá bận, phần lớn không bố trí, sắp xếp thời gian tham gia. Nội dung chương trình tập huấn, bồi dưỡng còn nặng tính lý thuyết, thiếu thực tiễn, chủ yếu là phổ biến văn bản mới mà thiếu những lớp kỹ năng tác nghiệp, đặc biệt là các kiến thức, kỹ năng dành riêng cho công tác quản lý văn hóa hầu như không có. - Nghiên cứu trên còn chỉ ra năng lực giải quyết công việc của đội ngũ cán bộ. Lực lượng ở các địa phương rất mỏng, thiếu kiến thức, kỹ năng tác nghiệp, nhưng phải đảm đương khối lượng công việc tương đối lớn. Vì vậy, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, phòng Văn hóa và Thông tin huyện cần tăng cường đào tạo nguồn nhân lực ở nhiều cấp độ khác nhau, có khả năng độc lập nghiên cứu, chỉ đạo thực tiễn, biết cách tham 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2