Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Văn kiện Đại hội XIII
lượt xem 2
download
Bài viết "Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Văn kiện Đại hội XIII" với mục tiêu nhằm phát huy những kết quả đạt được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội XIII của Đảng tin tưởng chúng ta nhất định sẽ lập nên thành tựu phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Văn kiện Đại hội XIII
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII Nguyễn Đình Hòa Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa Học Xã hội Việt Nam Tác giả liên hệ: Nguyễn Đình Hòa, email: nguyendinhhoa.vth@gmail.com Tóm tắt: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội hết sức sâu sắc, về phương diện chính trị, đó là xã hội do “dân là chủ” và “dân làm chủ”, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân; về phương diện kinh tế, đó là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dân giàu nước mạnh; về phương diện văn hóa, đó là xã hội có nền văn hóa tiên tiến, dân tộc và đại chúng; về phương diện xã hội, đó là xã hội không có áp bức, bất công và bảo đảm sự tiến bộ, công bằng xã hội; về phương diện môi trường, đó là xã hội có quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên. Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã luôn kiên trì vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Phát huy những kết quả đạt được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội XIII của Đảng tin tưởng chúng ta nhất định sẽ lập nên thành tựu phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta. Từ khóa: Hồ Chí Minh; Việt Nam; chủ nghĩa xã hội. 1. MỞ ĐẦU Là một nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt Nam, đồng thời là danh nhân văn hóa của thế giới, Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng rất sâu sắc và đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những phác họa của Người về xã hội tốt đẹp đó hết sức bình dị, dễ hiểu và gần gũi với đời thường mà người dân ai ai cũng đều có thể cảm nhận được. Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã luôn kiên trì vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với những thành tựu to lớn và 211
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được, như Đại hội XIII của Đảng khẳng định, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 25). 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt...” (Hồ, 2011d, 438), là "... mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do” (Hồ, 2011c, 593), là “... làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ” (Hồ, 2011f, 521), là “... tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng” (Hồ, 2011d, 78). Tựu trung lại, “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh” (Hồ, 2011c, 390). Từ góc nhìn lý luận hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh là xã hội cao hơn, tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản. Thứ nhất, về phương diện kinh tế, chủ nghĩa xã hội là xã hội có nền kinh tế phát triển cao. Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, bảo đảm và từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Muốn phát triển nền kinh tế của đất nước, theo Hồ Chí Minh, cần nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới, có cơ chế quản lý kinh tế phù hợp và hiệu quả. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hoá nhằm xây dựng nền tảng vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng cần xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa nhân tố bên trong và bên ngoài, giữa nội lực và ngoại lực trong phát triển kinh tế nhằm từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, về phương diện chính trị, chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân làm chủ, mọi quyền hành đều thuộc về nhân dân. Với Hồ Chí Minh, “dân là chủ” và “dân làm chủ”, quyền lực của nhân dân là tối cao và phải được thể hiện, thực thi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trách nhiệm xuyên suốt của Nhà nước là vì dân, là phục vụ nhân dân. Bởi vậy, Người chủ 212
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” trương phải thực hành dân chủ rộng rãi, coi đó là biện pháp quan trọng để tích cực hóa và phát huy nhân tố con người: “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên” (Hồ, 2011f, 376). Nếu quần chúng tích cực phát huy quyền dân chủ, cán bộ thực sự tôn trọng và thực hành dân chủ thì mọi công việc từ nhỏ đến lớn, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp… đều sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng, hiệu quả và do vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ thực sự là một “phong trào hiện thực” (C.Mác) và càng sớm thành công, bởi nó thu hút sự tham gia tự giác với những hoạt động sáng tạo của đông đảo quần chúng nhân dân. Thứ ba, về phương diện văn hóa, chủ nghĩa xã hội là xã hội văn hóa cao. Văn hoá là một khái niệm rộng, bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hồ Chí Minh quan niệm văn hoá “là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ, 2011a, 458). Với Hồ Chí Minh, văn hoá có ý nghĩa vô cùng to lớn và giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, nó không chỉ biểu hiện cốt cách của một dân tộc mà còn là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, là nhân tố nội sinh “soi đường cho quốc dân đi”. Với quan niệm như vậy, Người đã yêu cầu phải làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống xã hội, phải xây dựng xã hội ta trở thành một xã hội có văn hoá cao, đưa nền văn hoá của dân tộc ta lên ngang tầm thời đại. Tất cả mọi người phải không ngừng gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc; đồng thời, phải hấp thụ một cách có chọn lọc và sáng tạo những giá trị tinh hoa của văn hoá nhân loại phù hợp với đất nước và con người Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định phải xây dựng nền văn hóa tiên tiến, dân tộc và đại chúng thấm đậm bản sắc Việt Nam. Để xây dựng nước ta thành một nước văn hoá cao và có đời sống tươi vui, hạnh phúc, theo Người, bên cạnh việc phát triển giáo dục, chúng ta phải cải tạo, xoá bỏ triệt để những cái không tốt, lạc hậu, lỗi thời trong xã hội cũ; phải giải phóng con người khỏi những thành kiến cũ kỹ, tẩy rửa những thói quen, phong tục, tập quán xấu... Đặc biệt, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng và phát triển con người, yêu cầu tất cả mọi người phải ra sức học tập, rèn luyện về mọi mặt: Tư tưởng, văn hoá, đạo đức, lối sống... Đối với cán bộ và đảng viên, phải tích cực chống bệnh quan liêu, tham ô, hống hách, cậy quyền cậy thế, 213
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG chống chủ nghĩa cá nhân; phải trau dồi, bồi dưỡng đạo đức cách mạng. Tiếp cận xã hội xã hội chủ nghĩa với tính cách xã hội tốt đẹp nhất từ phương diện đạo đức, Hồ Chí Minh đặt đạo đức cách mạng là cái gốc tạo nên nhân cách của con người, là nền tảng tinh thần của xã hội. Thứ tư, về phương diện xã hội, chủ nghĩa xã hội là xã hội công bằng, tiến bộ. Công bằng xã hội là một giá trị nhân văn mà nhân loại luôn hướng đến, là một tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tốt đẹp, sự tiến bộ của xã hội. Hồ Chí Minh coi tiến bộ, công bằng xã hội là một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là “một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng” (Hồ, 2000, 241). Theo Người, công bằng và bình đẳng xã hội cho tất cả mọi người chỉ có thể có được trong chế độ xã hội mới - chế độ xã hội chủ nghĩa. Chỉ dưới chế độ xã hội tốt đẹp ấy, nhân dân lao động mới được hưởng ngày càng nhiều hơn, đầy đủ hơn sự công bằng và bình đẳng, mới vừa “có nghĩa vụ, đồng thời có quyền lợi” (Hồ, 2011b, 264). Chăm lo cho hạnh phúc con người biểu hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Ngay trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: Vấn đề con người là hết sức quan trọng, nhà máy cũng cần có, nhưng cần hơn là con người, là sự phấn khởi của quần chúng; bởi con người làm nên tất cả. Do đó, Người yêu cầu Nhà nước phải xây dựng và thực thi một hệ thống chính sách xã hội phù hợp, bảo đảm sự công bằng, sao cho người dân ai cũng được hưởng thành quả phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, xã hội của đất nước, sự an toàn cho đời sống của mọi người dân. Đó chính là những biện pháp quan trọng để thực hiện công bằng xã hội, phản ánh bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó con người được đặt vào vị trí trung tâm, là mục tiêu và động lực phát triển kinh tế - xã hội. Thứ năm, về phương diện môi trường, chủ nghĩa xã hội là xã hội có quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội không chỉ có sự phát triển cao về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, mà còn có mối quan hệ hài hòa giữa con người với tự nhiên. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ và mang tính cộng sinh, cùng tồn tại. Đó là cơ sở vững chắc 214
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” nhằm vừa duy trì cuộc sống của thế hệ hiện tại, vừa bảo đảm lợi ích lâu dài của thế hệ tương lai, đồng thời xây dựng nước nhà ngày càng tươi đẹp. Xuất phát từ những nhận thức sâu sắc về vai trò của môi trường đối với cuộc sống con người và sự phát triển bền vững của đất nước, Hồ Chí Minh khẳng định chúng ta cần nắm được quy luật của tự nhiên, “cần phải hiểu biết tự nhiên để buộc tự nhiên phục vụ hạnh phúc loài người”. Đặc biệt, bên cạnh việc khai thác hợp lý còn phải coi trọng bảo vệ, giữ gìn và tái tạo tài nguyên thiên nhiên. Người nhấn mạnh: “… cần hết sức chú ý vấn đề bảo vệ rừng (…). Phá rừng thì dễ, nhưng gây dựng lại rừng phải mất hàng chục năm. Phá rừng nhiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống rất nhiều” (Hồ, 2011e). Theo Hồ Chí Minh, tất cả mọi người trong xã hội cần phải có ý thức bảo vệ tài nguyên, môi trường; đồng thời có những hành động thiết thực, phù hợp và hiệu quả. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã thể hiện sự vượt trước trong tư tưởng về xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa con người với tự nhiên. Nếu phải đến năm 1972 Hội nghị quốc tế về môi trường lần đầu tiên mới được tổ chức tại Helsinki (Phần Lan), thì ngay từ năm 1959, Hồ Chí Minh đã đưa ra một sáng kiến vĩ đại về thực hiện rộng rãi và thường xuyên phong trào trồng cây, gây rừng đem lại những nguồn lợi to lớn về vật chất, tinh thần cho xã hội và con người. Xét từ góc độ sinh thái học hiện đại cũng như quan điểm phát triển bền vững, đó là một biểu hiện độc đáo và sinh động về hệ giá trị văn hoá sinh thái nhân văn của dân tộc Việt Nam. Tóm lại, bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú và tầm nhìn, trí tuệ uyên bác của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng các dân tộc, đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người. Có thể nói, so với quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa xã hội, sự bổ sung và sáng tạo quan trọng nhất của Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người đã gắn kết chặt chẽ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với cách mạng xã hội chủ nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; đồng thời, nhấn mạnh nhân tố con người (nhân dân) với tính cách chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Với Người, dân tộc độc lập, dân sinh hạnh phúc và dân quyền tự do là những giá trị nổi bật, bao trùm nhất mà chủ nghĩa xã hội mang lại cho tất thảy mọi người Việt Nam. Đó cũng là ước 215
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG nguyện cao cả, đồng thời là mục tiêu đấu tranh, phấn đấu trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. 3. SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (1986), Đảng ta đã từng bước xây dựng, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm và điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước. Sau 35 năm đổi mới, “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 103). Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh rằng, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã và đang nỗ lực phấn đấu xây dựng, như Cương lĩnh năm 2011 chỉ rõ, là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Có thể khẳng định rằng, những đặc trưng cơ bản đó của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng ta khái quát trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, đồng thời bổ sung và hoàn thiện trên cơ sở tổng kết, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta qua từng giai đoạn. Muốn có chủ nghĩa xã hội thì việc định hình, định dạng rõ những nét cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, điều quan trọng không kém, 216
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” thậm chí có ý nghĩa quyết định sự thành bại là còn phải hình thành một hệ thống quan điểm chỉ đạo mang tính nguyên tắc. So với Đại hội XII, một điểm mới nổi bật của Đại hội XIII là trình bày rõ hệ thống quan điểm chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hệ quan điểm chỉ đạo này có ý nghĩa quan trọng, chứa đựng những nội dung mới về nhận thức lý luận. Đó là: Thứ nhất, quan điểm về kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng… Thứ hai, quan điểm về chiến lược phát triển tổng thể của đất nước, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Thứ ba, quan điểm về khơi dậy và phát huy mạnh mẽ các động lực quan trọng và phát huy các nguồn lực để phát triển đất nước. Thứ tư, quan điểm về tăng cường xây dựng Đảng gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị. Thứ năm, quan điểm về mục tiêu tổng quát giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo là phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 109-111). Xây dựng thành công một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là mục tiêu xuyên suốt, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta do nhân dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mục tiêu lâu dài đó được cụ thể hóa một cách phù hợp qua các kỳ đại hội Đảng dựa trên bối cảnh thế giới, đặc biệt là những điều kiện lịch sử cụ thể và trình độ phát triển của đất nước. Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, trở thành nuớc phát triển, thu nhập cao (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 112). Để hiện thực hóa những mục tiêu cụ thể, qua đó thực hiện từng bước vững chắc mục tiêu tổng quát, lâu dài trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo tinh thần Đại hội lần thứ XIII của Đảng cần tập trung thực hiện một số biện pháp cơ bản sau: Một là, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. 217
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Thực hiện công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa nhằm thúc đẩy nền kinh tế - xã hội được các Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới xem như là phương thức phát triển rút ngắn của đất nước trong bối cảnh mới, trước hết là phát triển lực lượng sản xuất. Điểm mới trong quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII là nhấn mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải dựa trên nền tảng những tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, tận dụng những cơ hội thuận lợi mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại để tạo sự phát triển có tính đột phá trên một số ngành, lĩnh vực. Những nội dung cốt lõi là điều chỉnh, bổ sung, nâng cao chất lượng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nền kinh tế, các ngành, các lĩnh vực và các vùng phù hợp với thực tiễn đất nước và trình độ phát triển khoa học, công nghệ hiện đại trên thế giới. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, làm chủ công nghệ hiện đại; nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế số; ưu tiên phát triển những nghành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường và những ngành có lợi thế. Phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng; phát triển các ngành dịch vụ trên nền tảng ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại. Thực hiện tốt chiến lược phát triển bền vững (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 122-126). Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhất quán với đường lối về hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng khẳng định tiếp tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích “tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 114). Điều đó có nghĩa là, nước ta đã chuyển sang phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ nhằm nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế và quản lý nhà nước đối với kinh 218
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” tế như Đại hội XII đã xác định, mà rộng hơn và căn bản hơn - còn là tiền đề, điều kiện quan trọng để thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng kết cấu hạ tầng…; trước hết là góp phần tháo gỡ các điểm nghẽn đang cản trở sự phát triển kinh tế, giải phóng các nguồn lực phát triển và sử dụng chúng một cách hiệu quả, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhanh và bền vững. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. So với Đại hội XII, quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII về phát triển con người và xây dựng văn hóa thể hiện sự nhận thức mới trong quan hệ giữa văn hóa và con người. Đại hội XII chủ trương: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Tại Đại hội XIII, luận điểm trên có một số điều chỉnh, cụ thể là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 115-116). Điểm mới ở đây là “phát triển con người toàn diện” được đặt trước “xây dựng nền văn hóa”, điều này không đơn giản chỉ là sự hoán đổi vị trí các thuật ngữ, mà nó thể hiện sự nhấn mạnh hơn đến nhân tố con người với tính cách chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa là hết sức quan trọng, thậm chí được xem như “giá đỡ”, “bệ phóng” cho sự phát triển; song văn hóa cũng là do con người sáng tạo nên. Vì vậy, định hướng “phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam…” là hoàn toàn đúng đắn, hợp lý. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Đối với Việt Nam, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền, song hành với xây dựng chủ nghĩa xã hội, đây là một trong những quy luật phát triển căn bản của đất nước; vì thế, Đại hội XIII nhất quán với quan điểm của Đại hội XII coi bảo đảm an ninh, quốc phòng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; khẳng định kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Song, trên cơ sở đánh giá tình hình thế 219
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG giới và trong nước, cũng như sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại, Đảng ta đã có những nhận thức mới về an ninh và quốc phòng, chủ trương nâng cao cảnh giác, chủ động ứng phó từ sớm, từ xa với các yếu tố, các nguy cơ có thể đe dọa độc lập, chủ quyền, an ninh và sự phát triển của đất nước trong bối cảnh mới. Đại hội XIII đã bổ sung một số nội dung cụ thể mới, nhấn mạnh phải giữ vững “… an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 117). Năm là thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra định hướng trong lĩnh vực này là: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 117-118). Như vậy, về cơ bản, Đại hội XIII đã kế thừa và tiếp tục phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ đã được Đảng khẳng định từ Đại hội XII nêu trên. Điểm mới trong Văn kiện Đại hội XIII là đã nhấn mạnh các yêu cầu toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả trong việc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bởi lẽ, cho đến nay, sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã mở cửa và thiết lập các mối quan hệ quốc tế rộng lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, là thành viên có uy tín của Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế; có quan hệ ngoại giao với 188 quốc gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ thương mại với hơn 220 nền kinh tế trên toàn cầu… Trong bối cảnh như vậy, việc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả vừa là yêu cầu phát triển mới về chất trong quan hệ đối ngoại, vừa là điều kiện để chúng ta tranh thủ tốt nhất các nguồn lực ngoại sinh phục vụ công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh 220
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 118). So với Đại hội XII, quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII đã nhấn mạnh việc thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đây là phương thức hết sức quan trọng, hiệu quả để khắc phục tình trạng dân chủ hình thức hay vi phạm quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi thời gian qua, đồng thời tạo động lực thúc đẩy sự chủ động, sáng tạo, tinh thần dám nghĩ, dám làm của nhân dân; qua đó giải phóng những tiềm năng to lớn trong nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cùng với việc tiếp tục thực hiện các yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh và tinh gọn, cũng như đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội mà Đại hội XII đã nêu ra, Đại hội XIII đã bổ sung, nhấn mạnh một số nội dung cụ thể, nổi bật được xã hội đặc biệt quan tâm trong thời gian qua. Ngoài các tiêu chí trong sạch, vững mạnh và tinh gọn, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn phải bảo đảm những yêu cầu rất cao và khắt khe khác, đó là “hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 118). Những yêu cầu trên, một mặt, thể hiện những đặc tính cần có của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, mặt khác, phản ánh những đòi hỏi đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Thực tiễn 35 năm đổi mới của Việt Nam đã chứng tỏ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là hình thức tối ưu thực hiện quyền lực của nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. 221
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG So với Đại hội XII, định hướng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đại hội XIII vừa có sự kế thừa, tiếp tục thực hiện những nội dung cơ bản đã được Đại hội XII đề ra, vừa có một số nội dung thể hiện nhận thức mới, toàn diện và đồng bộ hơn của Đảng về nhiệm vụ hết sức quan trọng này. Ngoài những nội dung đã được xác định trong Văn kiện Đại hội XII, như tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ…, Đại hội XIII đề ra nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện (cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ); không chỉ nâng cao năng lực lãnh đạo, mà còn nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng; không chỉ xây dựng Đảng mà cả hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên… có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, nhất là đối với đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu. Cùng với việc nhấn mạnh tập trung vào các biện pháp trên, Đại hội XIII của Đảng còn khẳng định: Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 119). Như vậy, nếu Đại hội XII đưa ra 9 mối quan hệ lớn, thì tại Đại hội XIII, ngoài việc tiếp tục khẳng định các mối quan hệ đó, Đảng ta đã bổ sung thêm một quan hệ mới - quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Việc bổ sung mối quan hệ này là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, vừa bảo đảm quyền làm chủ của người dân, vừa giữ cho cho xã hội luôn trong trạng thái ổn định, trật tự. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy rằng, thực hiện dân chủ luôn phải song hành, gắn liền với tăng cường pháp chế và bảo đảm kỷ cương; tự do phải gắn với trách nhiệm, quyền hạn phải gắn với nghĩa vụ. Nếu 222
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” không giải quyết tốt mối quan hệ này, xã hội sẽ trở nên rối loạn, bất ổn, thậm chí đứng trước nguy cơ suy yếu, đổ vỡ. Bên cạnh đó, Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung yếu tố bảo vệ môi trường vào mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” (Đại hội XII) thành mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”. Với sự bổ sung đó, quan điểm của Đảng đã thể hiện sự bao quát đầy đủ, toàn diện các trụ cột của phát triển bền vững - một chiến lược phát triển đúng đắn hiện nay. Đó là những điểm mới của Đại hội XIII trong định hướng về nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến 2030. 4. KẾT LUẬN Tựu trung lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hết sức đúng đắn, khoa học và có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc. Những di sản lý luận quý báu đó của Người được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng và phát triển một cách sáng tạo. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt được đã minh chứng giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [2]. Hồ, C. M. (2000). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia. [3]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 3). Chính trị quốc gia. [4]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia. [5]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia. [6]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 13). Chính trị quốc gia Sự thật. [7]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 14). Chính trị quốc gia. [8]. Hồ, C. M. (2011f). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia. [9]. Hội đồng Lý luận Trung ương. (2021). Những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Chính trị Quốc gia Sự thật. 223
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học và vận dụng tư tưởng đó trong việc học tập của sinh viên
18 p | 2346 | 375
-
Bài thuyết trình môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
36 p | 3552 | 330
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 7 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới
18 p | 587 | 71
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới (34tr)
34 p | 812 | 64
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 2 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
7 p | 264 | 35
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức, con người (2022)
32 p | 53 | 16
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (2022)
52 p | 39 | 13
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế (2022)
21 p | 46 | 13
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 6 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức, con người (2023)
32 p | 49 | 9
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 3 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (2023)
52 p | 65 | 8
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiết kiệm
8 p | 101 | 4
-
Ebook Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và việc vận dụng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam: Phần 1
97 p | 5 | 4
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
14 p | 8 | 3
-
Ebook Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và việc vận dụng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam: Phần 2
182 p | 4 | 3
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
12 p | 3 | 2
-
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay
9 p | 5 | 2
-
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong nghiên cứu, giảng dạy ở các trường sư phạm
5 p | 4 | 1
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và những mốc phát triển quản lý giáo dục trong tiến trình 70 năm nền giáo dục Việt Nam
6 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn