Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền<br />
20:37' 31/08/2004 (GMT+7)<br />
Hồ Chí Minh - người khai sinh nước Việt nam dân chủ cộng hoà, trực tiếp<br />
đứng đầu Nhà nước đó trong 24 năm, đã lãnh đạo nhân dân ta nhằm thực<br />
hiện sứ mệnh lịch sử: giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đưa đất<br />
nước đi lên con đường ấm no hạnh phúc, sánh vai với các nước tiên tiến<br />
trên thế giới.<br />
Chúng ta có thể tự hào về dân tộc ta đã sản sinh ra con<br />
người vĩ đại, đã kế thừa và phát huy những tư tưởng của<br />
các bậc tiền bối như “nước lấy dân làm gốc” hay “người<br />
đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” và “vận<br />
nước thịnh hay suy, mất hay còn là do sức mạnh của dân<br />
quyết định” (Nguyễn Trãi) trong truyền thống dân tộc; đã Chủ tịch Hồ Chí Minh trên lễ đài<br />
xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam; từ sự tiếp thu trong ngày 2/9/1945.<br />
tinh hoa văn hoá nhân loại và những thành quả về Nhà<br />
nước pháp quyền của nhiều quốc gia tiên tiến; vận dụng sáng tạo những kinh<br />
nghiệm và lý luận đó vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và<br />
vì dân ở Việt Nam.<br />
Có thể nói quá trình đi tìm đường cứu nước của Người cũng là quá trình tìm<br />
kiếm một nhà nước mới phù hợp với đất nước Việt Nam, với dân tộc Việt Nam,<br />
bởi lẽ trong mọi cuộc cách mạng, vấn đề chính quyền nhà nước luôn luôn là vấn<br />
đề cơ bản.<br />
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh sống trong cảnh nước mất nhà<br />
tan, từng chứng kiến cảnh nhân dân ta bị áp bức, bóc lột nặng nề dưới chế độ hà<br />
khắc, bất chấp luật pháp của bọn thực dân Pháp và phong kiến Nam triều. Khi bôn<br />
ba nơi hải ngoại, nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của các nước phương Tây, ý<br />
tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở Hồ Chí Minh. Bởi vậy khi<br />
có điều kiện thể hiện ý tưởng ấy của mình, Người đã chớp thời cơ, đấu tranh để<br />
có được trước hết những quyền của người dân ghi trong pháp luật.<br />
Năm 1919, Hội nghị Vécxây họp sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Người đã<br />
gửi Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị gồm 8 điều, trong đó có 4 điều<br />
liên quan tới vấn đề pháp quyền. Cụ thể là:<br />
Điều 1: Yêu cầu ân xá đối với tất cả chính trị phạm.<br />
Điều 2: Đòi cải cách nền công lý ở Đông Dương nhằm đảm bảo cho người bản<br />
xứ được hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu. Người nói:<br />
“Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ hưởng những<br />
đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu”.<br />
Điều 7: Đòi thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.<br />
Điều 8: Đòi có đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ cử ra tại Nghị viện<br />
Pháp.<br />
Và Người đã chuyển bản yêu sách trên thành “Việt Nam yêu cầu ca” để phổ biến<br />
rộng rãi cho mọi người, trong đó có hai câu:<br />
“Bảy xin hiến pháp ban hành<br />
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”<br />
Sau khi tìm được con đường cứu nước, Người đã tổ<br />
chức, lãnh đạo nhân dân ta giành lấy tự do độc lập cho Tổ<br />
quốc. Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, sau khi<br />
Nhật đảo chính Pháp, Hồ Chí Minh đã chủ trương “thành<br />
lập chính quyền cách mạng” ở các căn cứ địa, các khu<br />
giải phóng lúc bấy giờ. Đến đầu tháng Tám 1945, mặc dù<br />
tình hình lúc đó hết sức khó khăn, Người đã kiên quyết<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các<br />
thành viên Chính phủ đầu tiên. triệu tập Đại hội quốc dân ở Tân Trào, cử ra Uỷ ban dân<br />
tộc giải phóng Việt Nam - một tổ chức tiền chính phủ ra đời đảm bảo tính hợp<br />
pháp của chính quyền mới. Tháng 8 năm 1945, Hà Nội và các địa phương trong<br />
toàn quốc khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Trước khi quân Đồng<br />
minh đổ bộ vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày<br />
2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình để tuyên bố với toàn thế giới và quốc dân<br />
đồng bào sự “khai sinh” của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam dân chủ cộng<br />
hoà. Chính phủ lâm thời đã ra mắt trước quốc dân Việt Nam và thế giới. Tuyên<br />
ngôn độc lập là văn kiện chính trị đặc biệt, khẳng định rằng: Dân tộc Việt Nam<br />
bằng sức mạnh kỳ diệu của mình đã giành được độc lập tự do và kiên quyết bảo<br />
vệ quyền tự do và độc lập ấy. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời là hợp<br />
hiến, hợp pháp. Chính phủ lâm thời là hợp pháp, hợp công lý.<br />
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chí Minh đề ra 6 nhiệm vụ cấp<br />
bách, trong đó nhiệm vụ thứ 3 là: “Phải có một hiến pháp dân chủ” và đề nghị sớm<br />
tổ chức tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Đó là việc tiếp tục xây<br />
dựng một Nhà nước pháp quyền, một Nhà nước dân chủ, hợp pháp, một Nhà<br />
nước thực sự đại diện cho nhân dân, do toàn dân bầu cử ra và quản lý xã hội<br />
bằng pháp luật. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong cả nước được thực hiện ngày<br />
6 tháng 1 năm 1946 và đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt nam dân chủ<br />
cộng hoà.<br />
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng Hiến pháp và pháp luật, khẳng<br />
định pháp luật của nước ta là ý chí chung của nhân dân, của dân tộc Việt Nam.<br />
Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, cán bộ viên chức nhà nước từ Trung ương<br />
đến địa phương phải gương mẫu chấp hành pháp luật và Đảng cầm quyền cũng<br />
phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Người rất coi trọng<br />
việc đưa Hiến pháp và pháp luật vào thực hiện có hiệu quả trong cuộc sống.<br />
Hiến pháp đầu tiên (1946) của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thể hiện tư<br />
tưởng này của Hồ Chí Minh. Người yêu cầu Nhà nước ta phải là nhà nước có bộ<br />
máy hành chính mạnh, có hiệu lực, điều hành bằng pháp luật; mọi quyền dân chủ<br />
phải được thể chế trong hiến pháp, trong các bộ luật và đòi hỏi công dân phải tuân<br />
theo.<br />
Hồ Chí Minh đòi hỏi tính nghiêm túc không trừ một ai trong thi hành pháp luật, nhất<br />
là cán bộ ngành tư pháp càng phải nêu cao tinh thần “Phụng công, thủ pháp, chí<br />
công vô tư”. Người nói: “Về việc Chính phủ liêm khiết, thì Chính phủ hiện thời đã<br />
cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh cho đến những<br />
người làm việc ở các uỷ ban làng hiện đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao Chính<br />
phủ cũng đã hết sức làm gương. Và nếu làm gương không xong thì sẽ dùng pháp<br />
luật mà trị những kẻ ăn hối lộ- đã trị, đương trị và sẽ trị<br />
cho kỳ hết.”<br />
Đặc biệt, trong tư tưởng trị nước của Hồ Chí Minh có sự<br />
kết hợp nhuần nhuyễn giữa “pháp trị” và “đức trị”. Người<br />
nói: “Không xử phạt là không đúng, song chút gì cũng<br />
trừng phạt là không đúng”. “Nhà nước phải vừa giáo dục<br />
vừa sử dụng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên<br />
lương thiện”.<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Việt<br />
Xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền, yêu cầu mọi Bắc.<br />
người sống và làm việc tuân thủ pháp luật là nội dung<br />
chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước. Người nói: “ Pháp lụât của ta<br />
là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân<br />
dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự<br />
do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng<br />
quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp”<br />
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền đã được phát triển trong quá<br />
trình hoạt động cách mạng của Người. Người đã dành không ít tâm trí, nghị lực để<br />
xây dựng một Nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì<br />
dân.<br />
Hồ Chí Minh nói: “Nhà nước của ta là Nhà nước của dân”, “Bao nhiêu quyền hạn<br />
đều là của dân”, "Vận mệnh quốc gia trong tay nhân dân."<br />
Nội dung đầu tiên, cơ bản nhất về Nhà nước của dân trong tư tưởng Hồ Chí<br />
Minh, là thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Dân bầu ra chính quyền Nhà<br />
nước ở Trung ương và chính quyền các cấp. “Tất cả quyền bính trong nước là của<br />
toàn thể nhân dân Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một người con Rồng<br />
cháu Tiên, bất kỳ già trẻ, gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo đều phải gánh<br />
vác một phần” và bản thân Người đã hoạt động không mệt mỏi nhằm thức tỉnh<br />
toàn dân tộc phát huy cao nhất sức mạnh của trí tuệ, tài năng và nghị lực vào sự<br />
nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền, sự thống nhất của dân tộc Việt Nam.<br />
Ngay sau ngày thành lập nước, Người yêu cầu tổ chức “càng sớm càng hay<br />
cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Người nhấn mạnh : “Tổng<br />
tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có<br />
đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những<br />
người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có<br />
quyền đi bầu cử...”. Lần đầu tiên tất cả công dân Việt Nam có quyền bầu cử và<br />
ứng cử. Đây quả là điều hết sức mới mẻ đối với nhân dân lao động Việt Nam.<br />
Cuộc Tổng tuyển cử diễn ra thành công vào ngày 6 tháng 1 năm 1946 và sau đó<br />
Quốc hội chính thức tổ chức ra bộ máy nhà nước đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí<br />
Minh trên thực tế, huy động toàn thể nhân dân tham gia quản lý đất nước, nhân<br />
dân đóng vai trò làm chủ đất nước.<br />
Chính quyền là vấn đề cốt tử của cách mạng, mà chính sách bầu cử, ứng cử là<br />
để cho toàn dân giải quyết vấn đề đó, tính lập hiến trong việc hình thành bộ máy<br />
nhà nước: tự do hay hạn chế; bình đẳng hay phân biệt; giả hay thật; áp đặt hay tự<br />
do lựa chọn; cũng là một chuẩn mực để xem xét bộ máy chính quyền thực sự của<br />
dân hay không. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tổng tuyển cử là<br />
một dịp cho toàn thể quốc dân lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác<br />
công việc nước nhà. Có như thế dân mới thực hiện được nguyện vọng và ý chí<br />
của mình. Đồng thời cũng xuất phát từ nhu cầu cấp bách của tình hình phải<br />
chuyển từ Chính phủ lâm thời sang chính thức để đối phó với những âm mưu của<br />
kẻ thù định xoá nền độc lập và chính quyền non trẻ của nước ta lúc bấy giờ. Đó<br />
thực sự là một ý tưởng tuyệt vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nhà nước của<br />
dân.<br />
Đối với Hồ Chí Minh, xây dựng một nhà nước của dân<br />
không chỉ trong ý tưởng, trong thiết kế, mà bằng hành<br />
động thực tiễn của Người. Trước vận mệnh của đất nước<br />
hiểm nghèo, “ngàn cân treo sợi tóc”, để đoàn kết dân tộc<br />
và giữ vững chính quyền nhân dân non trẻ, Người đã đề<br />
nghị bổ sung 70 ghế đại biểu quốc hội cho Việt Nam Quốc<br />
dân Đảng. Đây là một sáng kiến kịp thời của Chủ tịch Hồ<br />
Bác Hồ thǎm hỏi chiến sỹ thi đua<br />
Phạm Trung Pồn, bị mù cả hai mắt Chí Minh để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm<br />
nhưng đã có nhiều sáng kiến cải tiến tập hợp lực lượng, lôi kéo các đảng phái, các tầng lớp xã<br />
nông cụ.<br />
hội tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước.<br />
Được sự uỷ nhiệm của Quốc hội, trong “Lời tuyên bố sau khi thành lập Chính<br />
phủ mới”, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Chính phủ mới phải tỏ rõ tinh thần đại<br />
đoàn kết, không phân đảng phái...Kết quả là, có những vị có tài năng nhận lời<br />
tham gia Chính phủ: như Cụ Huỳnh, vì tuổi già sức yếu mà cố từ, nhưng vì tôi lấy<br />
đại nghĩa mà lưu Cụ, Cụ cũng gắng ở lại. Lại có nhiều vị đứng ngoài sẵn sàng ra<br />
sức giúp đỡ: như Cụ Bùi Bằng Đoàn, linh mục Phạm Bá Trực...Dầu ở trong hay<br />
ngoài Chính phủ, ai nấy đều hứa sẽ cố gắng làm việc, một lòng vì nước, vì dân...<br />
Tôi có thể tuyên bố trước Quốc hội rằng, Chính phủ này tỏ rõ cái tinh thần quốc<br />
dân liên hiệp, là một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh<br />
thủ quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt Nam mới.<br />
Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam. Bắc tham gia”<br />
Quyền bính của nhân dân cũng được thể hiện rõ trong việc nhân dân có quyền<br />
kiểm tra, kiểm soát và bãi miễn đại biểu. Người nhắc nhở: “Chính phủ ta là Chính<br />
phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân.<br />
Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc kiểm soát và phê bình để làm tròn<br />
nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành, tận tuỵ của nhân dân”.<br />
Để nhân dân có thể kiểm tra, kiểm soát , Người yêu cầu cơ quan nhà nước phải<br />
có cách tổ chức thuận tiện cho nhân dân thực hiện quyền của mình, tránh “cửa<br />
quyền”, hách dịch, chống “lạm quyền”, “đứng trên dân”, “đè đầu cưỡi cổ,ức hiếp<br />
dân”, thực hiện quyền khiếu tố của nhân dân, đảm bảo quyền tự do dân chủ của<br />
nhân dân. Người thường nhắc nhở: Nạn lãng phí, tham ô, là do bệnh quan liêu,<br />
mệnh lệnh trong công tác của các cấp lãnh đạo ở các cơ quan nhà nước gây<br />
ra...Vì vậy, cần có cơ quan thanh tra nhà nước, chẳng những chống lãng phí tham<br />
ô mà còn chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh để giúp đỡ các cơ quan nhà nước cải<br />
tiến công tác, giữ gìn kỷ luật, thực hành dân chủ, góp phần củng cố bộ máy nhà<br />
nước. “Đồng bào có oan ức, có thắc mắc mới khiếu nại. Ta giải quyết tốt các khiếu<br />
nại, đồng bào thấy Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến họ, do đó mối quan<br />
hệ giữa quần chúng nhân dân với Đảng và Chính phủ được củng cố tốt hơn.”<br />
Người còn nói: “Từ ngày thành lập Chính phủ, trong nhân viên còn có nhiều<br />
khuyết điểm. Có người là quan cách mạng, chợ đen, chợ đỏ, mưu vinh thân phì<br />
gia...Xin đồng bào hãy phê bình, giám sát công việc chính phủ.”<br />
Hồ Chí Minh yêu cầu: Để nhà nước thực sự là của dân thì cán bộ nhà nước phải<br />
thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình, lấy ý kiến tín nhiệm hay không<br />
tín nhiệm, khen, chê rõ ràng. Vì theo Người: kiểm soát, giám sát là một nguyên tắc<br />
để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân: nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu<br />
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Nguyên tắc ấy đảm bảo quyền kiểm soát<br />
của nhân dân đối với đại biểu của mình. Những người trong bộ máy các cấp phải<br />
là “công bộc của dân, do dân cử ra trực tiếp hay gián tiếp thực thi quyền lực của<br />
dân, là người phục vụ nhân dân”. bản thân Hồ Chí Minh tự nhận là “Người lính già<br />
vâng mệnh lệnh của quốc dân ra mặt trận”.<br />
Nhận thức rõ vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp giải phóng<br />
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nhà<br />
nước do dân. Điều đó có nghĩa là dân không chỉ lập ra Nhà nước mà còn phải<br />
tham gia vào công việc quản lý nhà nước, Người nói: “Nước ta là nước dân chủ,<br />
địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ...". “Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung<br />
ương do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.”<br />
Bao nhiêu nhiệm vụ, quyền hạn đều của dân, xây dựng đất nước trách nhiệm<br />
của dân. Trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc<br />
hội khoá I ngày 18 tháng 12 năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,<br />
Người nói: Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Hội đồng nhân<br />
dân là cơ quan quyền lực cao nhất ở địa phương. Dân bầu ra người đại diện cho<br />
mình và sử dụng cơ quan quyền lực thông qua người đại diện đó, đồng thời dân<br />
có quyền kiểm soát, giám sát người mình bầu ra và bãi miễn khi họ không làm tròn<br />
sự uỷ thác.<br />
Nhà nước do dân tức là dân phải tham gia vào công việc của nhà nước. Quốc<br />
hội nước ta tuy vị trí cao nhất song không phải là cơ quan tập trung tất cả quyền<br />
lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan đến vận mệnh của quốc gia, thì sẽ<br />
được đưa ra nhân dân giải quyết, nếu ba phần tư tổng số đại biểu của quốc hội<br />
đồng ý (điều 22 Hiến pháp 1946).<br />
Hội đồng nhân dân được xem như là một cơ quan tự quản của dân, do dân địa<br />
phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương.<br />
Nhà nước do dân tức là mọi công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của<br />
quần chúng nhân dân. Do đó, phải phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể<br />
trong công tác quản lý Nhà nước và xã hội, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề<br />
nhân dân thảo luận, phát huy sáng kiến và tìm cách giải quyết các vấn đề của đất<br />
nước. Người nói: “Dân như nước, mình như cá”, “lực lượng nhiều là ở dân hết”,<br />
“công việc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân”. Do vậy, Nhà<br />
nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa<br />
vào dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. “Đem tài dân, sức dân, của dân làm<br />
lợi cho dân...Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động.”<br />
Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc, thông<br />
qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các đoàn thể, chứ không phải Nhà nước<br />
bao cấp, lo thay dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi. Người cho rằng: “Làm<br />
việc gì cũng phải có quần chúng tham gia bàn bạc, khó đến mấy cũng trở nên dễ<br />
dàng và làm được tốt...<br />
Dễ mười lần không dân cũng chịu<br />
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.<br />
Chính vì vậy, Nhà nước do dân xây dựng và làm chủ, đặt dưới sự kiểm tra và<br />
kiểm soát của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là Nhà nước tin dân, mọi<br />
lực lượng đều ở nơi dân, do dân nắm mọi quyền hành. Nhà nước tin dân, dân tin<br />
ở sự lãnh đạo của Nhà nước thì việc gì cũng làm được.<br />
<br />
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân là Nhà nước phục vụ lợi ích của<br />
nhân dân, đảm bảo quyền dân chủ rộng rãi và có hiệu quả trong đời sống xã hội.<br />
Đây là tư tưởng nhất quán, nổi bật trong đời hoạt động của Người từ những năm<br />
bôn ba ở nước ngoài cho đến khi trở thành lãnh tụ tối cao của dân tộc Việt Nam,<br />
của Nhà nước Việt Nam.<br />
Chỉ sau hơn một tháng thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong thư<br />
“Gửi các Uỷ ban nhân dân, các bộ, tỉnh, huyện và làng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã<br />
nhắc nhở: “Chúng ta hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến các<br />
làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác công việc chung cho dân, chứ<br />
không phải đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.<br />
Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.<br />
Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh.”<br />
Bản thân cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về một con người<br />
suốt đời phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Người yêu cầu mọi quy định của<br />
pháp luật đều phải vì dân, cán bộ từ Trung ương đến địa phương phải hết lòng,<br />
hết sức phục vụ nhân dân, phải thực sự gương mẫu, thực sự trong sạch, phải lo<br />
trước thiên hạ và hưởng sau thiên hạ, thực hành tiết kiệm, liêm chính, chí công<br />
vô tư.<br />
Sau khi Nhà nước Việt Nam mới ra đời (1945), Người đã nhìn thấy trước một<br />
loạt các vấn đề phức tạp xuất hiện ở một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất đình<br />
trệ. Trong hoàn cảnh đó, dễ nảy sinh những tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan<br />
liêu. Đề phòng tệ nạn đó, Người nêu bật những đòi hỏi trên đối với người cán bộ là<br />
có ý nghĩa rất thiết thực. Bản thân Hồ Chí Minh là con người không có tham vọng<br />
quyền lực, chức vụ của Người đảm nhiệm là trọng trách mà Người phải gánh vác<br />
trước nhân dân, đất nước mà thôi...”Tôi tuyệt nhiên không muốn công danh phú<br />
quý chút nào, bây giờ phải gánh vác chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi<br />
phải cố gắng làm...Bao giờ đồng bào cho tôi lui thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một<br />
sự ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được<br />
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.<br />
Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ nơi có non xanh nước biếc, để câu cá,<br />
trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính<br />
líu gì đến vòng danh lợi.”<br />
Đây quả là điều tuyệt vời trong đạo đức Hồ Chí Minh. Người nhận thấy rõ rằng<br />
những kẻ quá ham muốn quyền lực sẽ dẫn đến tình trạng chuyên quyền, độc<br />
đoán, sa vào chủ nghĩa cá nhân, làm cho nhà nước biến dạng. Nhà nước kiểu mới<br />
không cho phép như vậy. Nói chuyện với đồng bào trước lúc sang Pháp đàm phán<br />
với Chính phủ Pháp về nền độc lập của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh bày tỏ: "Cả<br />
đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho lợi ích của Tổ quốc và hạnh phúc của<br />
nhân dân. Khi tôi ẩn nấp nơi núi non, ra vào chốn tù tội, xông pha nơi hiểm nghèo<br />
vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, giành được chính quyền, uỷ thác<br />
tôi gánh vác việc của Chính phủ, tôi lo lắng ngày đêm, nhẫn nhục, cố gắng là vì<br />
mục đích đó.“<br />
Trong cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc sau tháng<br />
8 năm 1945, Người nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là:<br />
1.”Làm cho dân có ăn<br />
2. Làm cho dân có mặc<br />
3. Làm cho dân có chỗ ở<br />
4. Làm cho dân có học hành”<br />
Người còn nói: “Chúng ta hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh<br />
được rồi...Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì<br />
tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà<br />
dân được ăn no, mặc đủ.”<br />
Nhà nước vì dân không chỉ biết làm lợi cho dân mà còn phải kính dân. Người<br />
nói: “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Trong lời dạy<br />
của Người thể hiện rõ sự kế thừa có sáng tạo các tư tưởng của những bậc tiền<br />
bối: Dân là gốc, là quý và phải đối đãi dân như thế nào thì dân mới kính mến, yêu<br />
nhà cầm quyền.<br />
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân còn là nhà nước sống trong lòng<br />
dân, tạo sự công bằng cho dân, đặt lợi ích của Nhà nước gắn chặt với lợi ích của<br />
quần chúng nhân dân. Như vậy, Nhà nước ta do dân xây dựng, phải là Nhà nước<br />
hoạt động vì lợi ích của con người. Con người ở đây trước hết là nhân dân lao<br />
động nói chung, bao gồm công nhân, nông dân, trí thức và các giai tầng xã hội<br />
khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp ấy là lực lượng của<br />
toàn dân tộc, là những người chung lưng đấu cật cho sự nghiệp chấn hưng dân<br />
tộc, gắn vận mệnh của mình với vận mệnh dân tộc. Vì dân, vì con người, vì sự<br />
nghiệp thúc đẩy tiến bộ của con người, của dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong<br />
tư tưởng Hồ Chí Minh.<br />
Để có được một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, Hồ Chí Minh luôn<br />
luôn nhắc nhở phải xây dựng một bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, đấu<br />
tranh với những bệnh tật như tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi<br />
phạm quyền và lợi ích của nhân dân lao động.<br />
Nhà nước vì dân còn là Nhà nước có trách nhiệm trước dân. Nhiều lần Người<br />
căn dặn: “bất cứ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm<br />
trước nhân dân”. “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến<br />
đời sống của nhân dân, nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là<br />
Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là<br />
Đảng và Chính phủ có lỗi.”<br />
Trong lịch sử, tư tưởng Nhà nước “lấy dân làm gốc” đã sớm xuất hiện ở những<br />
nhà lãnh đạo, những nhà chính trị lớn. Nhưng đến Hồ Chí Minh, tư tưởng về Nhà<br />
nước của dân, do dân và vì dân được phát triển sâu sắc, phong phú về nội dung,<br />
với chất lượng mới, trở thành một quan điểm khoa học, nhân đạo về bản chất nhà<br />
nước mới - Nhà nước của dân, do dân, vì dân.<br />
Nếu như nước “lấy dân làm gốc” là tư tưởng chính trị truyền<br />
thống thì đến Hồ Chí Minh, tư tưởng ấy được diễn đạt trong một<br />
mệnh đề chủ động hết sức giản dị, tự nhiên: "Dân là gốc nước"<br />
đúng như mấy câu thơ của Người:<br />
“Gốc có vững thì cây mới bền<br />
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”<br />
Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt<br />
Nam xã hội chủ nghĩa và lấy tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí<br />
Minh.<br />
dân, do dân và vì dân của Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho<br />
chúng ta trong công cuộc xây dựng đó.<br />
Với những kết quả đạt được trong qúa trình đổi mới, cũng như những khó khăn,<br />
tồn tại quả hơn 18 năm đổi mới, hoàn thiện nhà nước theo hướng xây dựng nhà<br />
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến quá<br />
trình đổi mới đất nước nói chung. Thực tế cho thấy, vấn đề đổi mới và hoàn thiện<br />
nhà nướ chiện nay là công việc còn khó khăn cả về lý thuyết và thực tiễn. Điều đó<br />
đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần có những bước đi và giải pháp vừa<br />
khẩn trương, vừa vững chắc trong hiện thực, tiếp tục cải cách triệt để hơn nữa tổ<br />
chức và hoạt động của Nhà nước để đáp ứng được tình hình mới của đất nước<br />
trong quá trình chấn hưng dân tộc và hội nhập hiện nay.<br />
PGS.TS Lê Doãn Tá<br />