TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HIỆN ĐỜI SỐNG MỚI
lượt xem 11
download
Đổi mới là một yêu cầu khách quan , có tính quy luật đối với một cuộc cách mạng . Nó là bản chất của cách mạng xã hội chủ nghĩa . Nó khác hẳn với các cuộc đảo chính chính trị, mà thực chất của đảo chính là sự tranh giành quyền lực chứ không thay đổi quan hệ sản xuất, không thay đổi sở hữu về tư liệu sản xuất.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HIỆN ĐỜI SỐNG MỚI
- TƯ TƯỞ NG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HIỆN ĐỜI SỐNG MỚI Đổi mới là một yêu cầu khách quan , có tính quy luật đối với một cuộc cách mạng . Nó là bản chất của cách mạng xã hội chủ nghĩa . Nó khác hẳn với các cu ộc đảo chính chính trị, mà thực chất của đảo ch ính là s ự tranh giành quyền lực chứ không thay đổi quan hệ s ản xuất, không thay đổi s ở hữu về tư liệu s ản xu ất. Trong điều kiện của cách mạng khoa học và công nghệ, đạc điểm và trình độ lực lượng s ản xuất thay đổi không ngừng, đòi hỏi quan hệ s ản xuất luôn đổi mới ph ù hợp. vậy, đổi mới tư duy tất yếu ph ải đi trước một bước , đóng vai tr ò dẫn dắt tiến trình đổi mới đi theo đúng hướng. Nhận thức đúng, đầy đủ các quy luật tác động và vận dụng chúng một cách chủ động, s áng tạo và hoàn cảnh, điều kiện cụ thể là một yêu cầu hết s ức quan tr ọng của đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế . Ngay sau khi tiến hành tổng khởi nghĩa thành công, giành ch ính quyền về tay giai cấp công – nông, và trong bối cảnh phải đương đầu với thù trong giặc ngoài , phải giải quyết nh ững vấn đề cấp bách ch ống lại giặc đói, giặc dốt với một nền tài chính rỗng tuếch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ph át động phong ch ào toàn dân “thực hiện đời s ống mới” với mục đích xuyên su ốt: bảo vệ nền độc lập non tr ẻ và bắt tay vào xây dựng một xã hội mới. Tư tưởng dổi mới của Hồ Chí Minh xuất ph át từ quyền lợi của dân tộc và của nhân dân. Thay mặt Chính ph ủ lâm thới của nước Việt Nam dân ch ủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh tr ọng tuyên bố với thế giới rằng : “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và s ự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập. toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy ”. Sau ng ày đọc “ Tuyên ngôn Độc lập”, ngày 3 tháng 9 năm 1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội Đồng Chính Phủ, Chủ Tịch Hồ Chí minh nêu lên s áu nhiệm vụ cấp bách cùng những biện pháp thực hiện rất cụ thể. V ề “ vấn đề thứ tư”, ng ười nói: “ ch ế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thu ốc phiện.Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc ch úng ta bằng nh ững thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác.ch úng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta ph ải làm cho nhân dân chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động. Một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở lại một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nh ân dân bằng cách thự c hiện: cần, kiệm, liêm, ch ính” Hiểu đầy đủ lời “đề nghị” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: tinh thần cần, kiệm, liêm, chính của nhân dân ta đã có truyền thống lâu đời, tinh thần ấy là tài s ản qu ý báu của dân tộc, nó thẩm thấu vào con Hồng ch áu Lạc, nó không bị đánh mất trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng và nó tiếp tục có giá tr ị to lớn trong sự nghiệp cách mạng để đưa dân tộc ph át triển tr ên con đường mới, dẫn tới cu ộc s ống ấm no, hạnh ph úc cho toàn dân. Tinh thần ấy phải được “giáo dục lại” vì chế độ thực dân đã làm tổn hại và làm tho ái hóa, biến chất trong những con ng ười phải ch ịu cuộc đời của kiếp nô lệ. việc “giáo dục lại” tinh thần ấy cũng có nghĩa là làm cu ộc giải ph óng nhân dân, trước hết là giải phóng tư tưởng để họ nh ận thức đúng đắn về nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của nước Việt Nam ho àn toàn độc lập và tự do; cho nên người cũng kêu gọi “ phải có
- giáo dục đạo đức công dân”. Trong cu ộc vận động: “thực hiện đời s ống mới”, Hồ Chí Minh rất coi trọng chữ đức. người viết : “ trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Đất có bốn phương: đông, tây, nam, bắc. Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một mùa, thì không thành trời. Thiếu một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức, thì không thành người. Thiên (tr ời) – Địa (đất)- Nhân(người), đối với ng ười ph ương Đông là một quan hệ khít( tam tài), thể hiện một vũ tr ụ quan và một nhân sinh quan rất đặc trưng và có ý nghĩa thực tiễn trong đời s ống lao động s ản xu ất cũng như đời s ống sinh hoạt hằng ngày.coi người là yếu tố chủ đạo, có tính quyết định trong mối quan hệ với hai yếu tố trời và đất, là một quan niệm vừa mang tính truyền thống( trong câu “nh ân định thắng thiên”) vừa có tính biện ch ứng (con người là tiểu vũ trụ), bởi người là chủ thể trong việc nh ận thức và tác động vào các quy luật của tự nhiên, thông qua quá trình lao động và cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo ch ính mình. Trong tác phẩm “Cần Kiệm Liêm Chính ” Hồ Chí minh giải thích rất rõ ý nghĩa giá trị của bốn đức này và mối quan hệ giữa ch úng. Người nh ấn mạnh: “ Cần, Kiệm, Liêm,Ch ính là nền tảng của đời s ống mới, nền tảng của thi đua ái quốc”; và: “ Từ ng ày Cách mạng thành tháng Tám thành công lập nền dân chủ cộng hòa,cho đến mấy năm kháng chiến, dân ta nhờ Cần, Kiệm, Liêm, Chính mà đánh thắng được giặc đói, giặc dốt, giặc thực dân và giặc lụt.Tuy vậy, đồng bào ta có người đã hiểu rõ, có người chưa hiểu rõ. Có ng ười thực hành nhiều, có ng ười thực hành ít. Cho nên cần phải giải thích rõ ràng, để cho mọi ng ười hiểu rõ, mọi ng ười đều thực hành”. Thời gian và thực tiễn cu ộc s ống, ngày càng chứng minh s ự cảm nh ận của Hồ Chí Minh là đúng khi người nói: “thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều”. cảm nhận đó xuất phát từ lịch s ử và chính từ s ự từng trải của Người.Do vậy, tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh là tư tưởng khoa học, tư tưởng cách mạng triệt để, được Người cụ thể hóa bằng các cuộc vận động, các phong tr ào thi đua nh ằm tuyên truyền, giáo dục nhân dân chuyển biến nhận thức phù hợp với nhữ ng đổi thay của xã hội cách mạng đem lại.B ởi, không có s ự chuyển biến đó, từ mỗi ng ười dân cho đến toàn xã hội, thì khó có thể tiến hành s ự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc và tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi hoàn toàn. Chủ ngh ĩa cá nhân – con đẻ của các ch ế độ phong kiến va thực dân, với nhiêu thói hư tật xấu trong lới s ống, nếp s ống, tạo nên s ức ì trong tâm lý mỗi ng ươi, lan truyền ra khắp cộng đồng , lâu ngay trở nên “thâm căn cố đế”, la vật cản nguy hiểm đối với cuộc cách mạng. Thực hiện đời s ống mới là nhằm phá cách I thâm căn cố đế đó đi. Song, điều đó không dễ, không phải ngày một ngày hai đã làm được. Thế mà Hồ Chí Minh đã khẳng định là phải làm bằng được nếu quyết tâm làm và có biện ph áp đúng để làm . Dưới dạng hỏi – đáp, trong tác phẩm “Đời s ống mới” (V, 91-110), Người phân tích, lý giải và ch ỉ ra cho mọi tầng lớp nhân dân cách mạng thực hiện nội dung, ý nghĩa của đời s ống mới một cách giản dị, chân xác và thuyết phục . Trả lời câu hỏi :Đời s ống mới là gì?, Người viết :
- “Đời s ống mới không ph ải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới “. Người ph ân tích:”Cái gì cũ mà xấu, thì ph ải bỏ” ,” cái gì cũ mà không xấu, nh ưng phiền phức thì phải s ửa đổi lại cho hợp lý”, “cái gì cũ mà tốt, thì ph ải phát triển thêm”,”cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”. Nội dung tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh nằm trong những câu – chữ hết s ức bình dị, ai cũng có thể hiểu và đều thực hiện được, bởi đổi mới ch ính là s ự kế thừa có chọn lọc truyền thống dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. cách tư duy này tránh được s ự không tưởng; tr ánh được s ự lãng phí s ức lực, tiền của, thời gian không cần thi ết; tránh được s ự vòng vo, lặp lại vô ích. Điều căn bản là lam thế nào để phân biệt, xác định được cái xấu, cái không xấu, cái tốt hay và cái hay; để làm gì ? – Để “làm thế nào cho đời s ống của dân ta, vật ch ất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích đời s ống mới”. Mục đích đời s ống mới, theo cách nói của Hồ Chí Minh, cũng là mục đích của cách mạng – cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa – mà Đảng ta lãnh đạo nh ân dân ta thực hiện su ốt chiều dài hơn bảy mươi năm qua. Người nói r õ hơn: Đời s ống mới “Nó chỉ s ửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông, trong đời s ống của mọi ng ười, tức là s ửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại,cách làm việc. Sử a đổi được nh ững điều đó, thì mọi người đều được hưởng hạnh ph úc. Mà ch ắc s ửa đổi được, vì nó không có gì là gay go, khó làm”. Tuy việc s ửa đổi có tính ch ất phổ thông như vậy, nhưng lại là s ự s ửa đổi căn bản, s ửa đổi tận gốc gác ý thức con người.Nó là nền tảng cho s ự nhận thức mới. Vì vậy, đổi mới là một qu á trình s ửa đổi liên tục s ự nhận thức (đổi mới tư duy), không cho phép thỏa mãn với nh ững gì đã đạt được. Nó ph ù hợp với quy luật phát triển xã hội, với chính nhu cầu ( vật ch ất và tinh thần) của bản thân mỗi cá nhân con ng ười trong qu á trình tự hoàn thiện mình. Do ho àn cảnh thực tế của cách mạng và cũng do tr ình độ dân tr í ở thời điểm đó, Hồ Chí Minh đã lựa ch ọn hình thức diễn đạt phổ thông nhất nội dung và cách thực hiện đời s ống mới.Thực ch ất, tác phẩm “ Đời s ống mới” và nhữ ng bài viết , bài nói của Hồ Chí Minh về đời s ống mới , là học thuyết về đổi mới, bao gồm trong đó cả phương pháp luận và cả phương pháp khoa học, được phát triển tr ên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin một cách độc lập và s áng tạo . Trong bài”Khổng Tử” viết ngày 20 tháng 2 năm 1947, đăng trên báo thanh niên s ố 80, Người phê phán chính phủ Trung Hoa dân quốc ra quyết định xóa bỏ những nghi lễ tưởng niệm Khổng Tử - một nhà tư tưởng vĩ đại, Người viết: “ Với việc xóa bỏ những nghi lễ tưởng niệm Khổng Tử, ch ính ph ủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ và trái với tinh thần dân ch ủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác ph ẩm của Khổng Tử , và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác ph ẩm của LêNin”. Tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh thật là s âu s ắc và có bề rộng của mọi thời đại. kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hóa nh ân loại từ cổ ch í kim, cả đông và tây, Người ch ỉ ra cách “tự hàn thiện mình” cho ng ười Việt Nam.Sự vận dụng những cái hay cái đẹp
- của học thuyết Khổng Tử và học thuyết Lênin là một s áng tạo độc đáo, chỉ có ở Hồ Chí Minh, đã nâng tư tưởng đổi mới của Người lên tầm thời đại, ở chỗ việc s ửa đổi bao quát toàn bộ đời s ống kinh tế và xã hội, đời s ống vật ch ất và tinh thần của toàn bộ các tầng lớp dân cư, không ph ân biệt già trẻ, nam nữ, thành ph ần xuất thân, tôn giáo, dân tộc, tr ình độ nhận thức, miễn là ai ai cũng hưởng ứng “Thi đua ái quốc”vì độc lập dân tộc va chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với ý nghĩa đó, “đời s ống mới” do Chủ Tịch Hồ Chí Minh đề xướng đã trở thành cái gốc,c ái nền của một nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa và một nền đạo đức xã hội chủ ngh ĩa – hai nh ân tố không thể thiếu trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Mỗi người phải có đủ bốn đức: Cần, Kiệm,Liêm, Chính thi mới có thể thực hiện được mục tiêu của cu ộc cách mạng xã hội chủ nghĩa – đó là một nguyên lý ngày càng được thực tế cu ộc s ống chứng minh là xác đáng. Hồ Chí Minh viết: “ một dân tộc biết Cần, Kiệm, Liêm, Chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”; và “Một ng ười phải cần Kiệm, Liêm nhưng còn ph ải ch ính mới là hoàn toàn”. Như vậy, Cần, Kiệm, Liêm, Chính không chỉ có ý nghĩa đạo đức đơn thu ần,m à có giá trị to lớn trong đời s ống lao động s ản xuất về mọi phương diện: tổ ch ức và qu ản lý s ản xuất để nâng cao năng suất, ch ất lượng và phân bố s ản ph ẩm.Cũng vì lẽ đó mà Người nói: “ không s ợ thiếu, ch ỉ s ợ không công bằng”, một cách nói rất Việt Nam và cũng là nguyên lý của ch ủ nghĩa Mác – Lênin: ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai không làm không hưởng.Nhưng, để thực hiện được s ự công bằng đó thì trước tiên cán bộ cách mạng ph ải tự nguyện là “công bộc của dân” với tinh thần: “ Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gi hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Tư tưởng “toàn dân toàn diện” là s ợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các luận điểm cách mạng của Hồ Chí Minh. Sức dân là s ức nước, nên mối quan hệ giữa cách mạng và nhân dân là mối quan hệ giữa cá và nước, giữa thuy ền và nước. Đó là tư tưởng nh ân nghĩa của Nguyễn Trãi và khác xa với tư tưởng của Khổng Tử. Thừa nhận Khổng giáo không phải là một tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm về đạo đức và phép ứng xử, nhưng Hồ Chí Minh ph ê phán: “những ông vua tôn s ùng Khổng Tử không phải ch ỉ vì ông không phải là người cách mạng, mà còn là vì ông tiến hành một cuộc tuyên truyền mạnh mẽ có lợi cho họ. Họ hai thác Khổng giáo như bọn đế quốc đang khai thác kitô giáo”; và “Khổng Tử đã viết Kinh Xuân Thu để ch ỉ tr ích “những thần dân nổi loạn” và “những đứa con hư hỏng ”, nhưng ông không viết gì để lên án những tội ác của “những ng ười cha của tai ác” và “nh ững hoàng tử thiển cận”. Nói tóm lại, ông r õ ràng là ng ười phát ngôn bênh vực những người bóc lột ch ống lại những người bị áp bức. ” Tính chất ph ản động của Khổng giáo còn thể hiện r õ ở ba cặp quan hệ: quân – thần (vua – tôi), ph ụ - tử (cha – con), và phu – ph ụ (vợ - chồng), dẫn đến khái niệm “trung quân” mù quáng (vua bắt chết là ph ải ch ết), đặc biệt đưa người ph ụ nữ đến chỗ lệ thu ộc hoàn toàn: khi ở nh à phải phục tòng cha, lấy ch ồng phục tòng chồng, chồng chết ph ải phục tòng con trai (tam tòng). Đạo đức Hồ Chí Minh hoàn toàn khác. Người vận động và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, giáo dục đạo đức
- công dân cho toàn dân tr ên cơ s ở “trung với nước, hiếu với dân” và luôn tự rèn luyện, tự ho àn thi ện bản thân bằng bốn đức cân, kiệm, liêm, chính . (Khổng giáo đưa ra năm đức căn bản:nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tiếp thu và chọn lọc những cái tốt, cái hay từ khổng giáo và cuộc vận động nh ân dân thực hiện đời s ống mới và s áng tạo nó trong hoàn cảnh của cách mạng, Hô Chí Minh thấu hiểu gắng: trong tâm thức người Việt Nam bao đời nay chịu ảnh hưởng rất s âu s ắc học thuyết của Khổng Tử, trong đó có cả những yếu tố kìm hãm s ự phát triển cá nhân và xã hội. Việc tẩy r ửa nh ững tâm lý hủ nho cùng nh ững thói xấu do thực dân đế quốc gieo rắc trong su ốt tám mươi năm đô hộ bằng rượu và thu ốc phiệ, là việc làm tất yếu . Song, như vậy ch ưa đủ . Muốn có một xã hội mới thi phải giáo dục, bồi dưỡng những con người mới – chuyên cần lao động (lao đông ch ân tay và lao động tr í óc, kể cả học tập);biết ch ân giá trị và tiết kiệm những thanh qu ả lao động của chính mình và của toàn xã hội(kể cả thời gian, s ức lực, tiền bạc va của cải);biết đặt lợi ích của quốc gia, của tập thể tr ên lợi ích cá nh ân, không tự tư, tự lợi;phải thẳng thắn, trung thực, có lòng tự trọng và biết tôn trọng người khác, luôn luôn hướng thiện. Để trở thành một con ngươi mới trong xã hội mới, duy nh ất ch ỉ có con đường là học, mà tự học, tự rèn luyện, tự cải tạo mình là cốt yếu, tức là “tu thân”(tu thân, tề gia, tr ị qu ốc,bình thiên hạ) và cũng là”cách mệnh tiên cách tâm”. Học để làm ng ười, học để biết minh có những trách nhiệm và nghĩa vụ gì đối với xã hội . Có học thi mớ biết đấu tranh cho cái tốt, cái đẹp. Hồ Chí Minh nói:”Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không ch ịu đót, thì “quan”dù là không liêm cũng phải hóa ra liêm”. Sau khi từ pháp về, gửi thư cho các cháu thiếu nhi (ngày 24 tháng 10 năm 1946), điều đầu tiên Bác Hồ khuyên các cháu là”phải siêng học”. Trước đó, nhân ngày khai trương đâu tiên ở nước Việt Nam dân ch ủ cộng hòa, người viết: “Non s ông Việt Nam có tr ở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để s ánh vai với các cường qu ốc năm ch âu được hay không, chính la nhờ một phần lớn công học tập của các em ”. Đối với ch ị em ph ụ nữ, Người cũng khuyên: “Phụ nữ lại càng cần ph ải học, đã lâu ch ị em bị kìm hãm, đây là lúc ch ị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu cử và ứng cử”. “Chống giặc dốt” là một trong s áu nhiệm vụ cấp bách mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra tại phiên họp đầu tiên của hội đông Chính phủ lâm thời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nó ch ỉ đứng sau nhiệm vụ “chống giặc đói”. Vận động toàn dân “chống nạn thất học”, hơn ai hết và hơn bất cứ lúc nào trong lịch s ử, Hồ Chí Minh coi “việc học” là một nh ân tố quan tr ọng đầu tiên của tiến trình đổi mới, coi tri thức là một lực lượng vật ch ất thực s ự của cách mạng, nó có ý nghĩa to lớn đối với s ự chinh phục toàn diện thế giới, đưa thế giới đến đại đồng. Ngày nay, khi thế giới bước vào thời kì của kinh tế tri thức, ý nghĩa của “việc học” càng có giá trị to lớn. Trước lúc đi xa, Người di ch úc cho toàn đảng, toàn dân ta: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và r ất cần thiết.”; và Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế văn hóa, nh ằm không ngừ ng nâng cao đời s ống nhân dân”.
- Đối với Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế và văn hóa luôn luôn là nhiệm vụ song hành trên con đường cách mạng ở Việt Nam. Một mặt là do lịch s ử để lại; mặt khác cũng Do lịch s ử yêu cầu – phải “s ửa đổi” nh ững cái cũ và từng bước xây dựng cái mới, cả về vật chất lẫn tinh thần, cho một xã hội có đủ những điều kiện để phát triển. Khi xóa bỏ chế độ thực dân – phong kiến cũng là lúc nh à nước dân ch ủ nh ân dân phải giải quyết một loạt nh ững nhiệm vụ để đưa đất nước và nhân dân nhanh ch óng tho át khỏi sự bần cùng, lạc hậu. Ph ân tích nền kinh tế cách mạng Việt Nam tr ước cách mạng tháng 8 năm 1945, các nhà nghiên cứu đều cho rằng: với một trình độ phát triển cao, ch ỉ đứng sau nước Anh thời đó, nước Pháp có đủ tiềm lự c để giúp đỡ và khai hóa Việt Nam, đồng thời nước Pháp cũng có quyền uy rất mạnh để thực hiện thống trị Việt Nam. Cả hai nhân tố đã đưa nước Pháp đến chỗ “nh ập nh ằng” hay “mập mờ” , như cách nói của các nh à s ử học Pháp,trong ch ính s ách cai trị Việt Nam. Thực chất, thực dân Pháp tiến hành chính s ách “khai hóa” ở Việt Nam là để khai thác – mọi sự kiến tạo là để khai thác, chứ không ph ải khai thác là để kiến tạo. điều này khác với chủ ngh ĩa thực dân Anh, vì ch ủ nghĩa thực dân Ph áp bủn xỉn, hẹp hòi và ích kỉ hơn – những “đức tính” xấu đến nỗi nhà cách mạng Pháp jean jaures, s áng lập viên của tờ L’Humanite`, đã phải tuyên bố từ năm 1911 rằng: “Nếu chúng ta cứ tiếp tục như thế này, thì ở trên xứ s ở đó chúng ta ch ỉ còn gặt hái được hận thù và thất bại” – một lời cảnh báo có tính chất tiên tri. Trên thực tế, trong nh ững năm 20 của thế kỉ XX, Nguyễn Ái Quốc đã có nhận xét về những “đức tính” xấu của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, ở Đông Dương và ở nhiều nước thuộc địa khác mà người đã tận mắt chứng kiến; và người đã tố cáo đanh thép tội ác của ch ủ nghĩa thực dân nói chung, chủ nghĩa thực dân Pháp nói riêng, bằng một loạt nh ững bài báo đậm chất chính luận pha ch ất hài hước s âu ca. người viết: “còn nh ư chính phủ thu ộc địa Ph áp thì vẫn ngoan cố một cách ngây thơ cho rằng ở Đông Dương này mu ốn ràng buộc những người bản xứ thì ch ỉ cần vỗ về họ mãi mãi bằng nh ững bài diễn văn long tr ọng, nh ững luận điệu tuyên truyền gian ngoan và bằng những lời thề nguyện trung thành mà nó ch ỉ đáng giá ở ch ỗ nguời ta đặt vào đấy: trong cái xứ này do thiếu s ót hay nói cho đúng hơn, là do ý định của Chính phủ, nên đâu đâu tử trên xuống dưới cũng đều có cái nạn tham nhũng mua quan bán chứ c, những bọn người mua bán được bằng tiền thì không phải là thứ hàng hóa hiếm. V à để nhồi s ọ những người da vàng, Chính ph ủ thuộc địa đã s ẵn s àng những biện pháp và phương tiện cực kỳ mạnh ”. Sự “khai hóa” của chủ nghĩa thực dân Ph áp bằng nh ững “đức tính” xấu – bủn xỉn, hẹp hòi và ích kỷ - và “phương tiện cực kỳ mạnh” là rượu và thu ốc phiện, cộng với s ự già cỗi của chế độ phong kiến, đã đẩy người dân bản xứ đến tình trạng dốt nát. Nguy ễn Ái Quốc viết về tình trạng đó nh ư sau: “Trong tất cả các nước thu ộc địa, ở cái xứ Đông D ương già cỗi kia cũng như ở xứ Đahomay trẻ trung này, người ta không hiểu đấu tranh giai cấp là gì, lực lượng giai cấp vô s ản là gì cả, vì một lẽ đơn giản là ở đó không có nền kinh doanh lớn về thương nghiệp hay công nghiệp, cũng không có tổ ch ức công nhân”, và “Nói chung, qu ần chúng căn bản là có tinh thần nổi dậy, nh ưng còn rất dốt nát. Họ muốn giải phóng, nhưng họ chưa biết làm cách nào để đạt được mục đích ấy”. Những con s ố thống kê và s ự ph ân tích sau đây cho thấy nhận định của Nguyễn Ái Quốc là hoàn toàn có căn cứ. trong 80 năm đô hộ Ph áp đã đầu tư vào Đông Dương
- 1/5 tổng s ố vốn đầu tư vào các nước thu ộc địa Pháp (trong đó đầu tư của nhà nước ch ỉ chiếm 1/3, còn 2/3 là đầu tư của tư nhân), trong khi Đông Dương ch ỉ chiếm 1/6 diện tích toàn đế qu ốc Pháp (740.000km2 /12.300.000km2 ). Đầu tư lớn nh ư vậy đã đưa đến kết quả là: thực dân Pháp đã khai thác triệt để những tài nguyên thi ên nhiên và biến s ở hữu của dân tộc Việt Nam thành s ở hữu của tư nh ân Pháp; và, đẩy mức tiền lương của nhân công làm thuê người Việt xuống thấp hơn nhiều lần so với mức tiền lương bình quân của ng ười Pháp (mức ch ênh lệch tới 7,933 lần). Người ta cũng tính rằng, đến năm 1939, tất cả các cơ s ở kinh doanh của Ph áp ho ạt động ở Việt Nam đã thuê 317.800 nhân công các loại, trong đó số người được đào tạo về chuyên môn r ất ít, chỉ có 1.575 người. Chỉ nh ư vậy thôi cũng đủ thấy bản ch ất đích thực của chính s ách “khai hóa” do chủ nghĩa thực dân Pháp tiến hành ở Việt Nam là nh ư thế nào. Đó là chính s ách ăn cướp tàn bạo. Sau tám mươi năm đô hộ, nó đã để lại cho Việt nam một nền kinh tế kiệt quệ, một đời s ống xã hội bần cùng đén mức không thể bần cùng hơn được nữa. Thêm vào đó, phát xít Nhật vào Việt Nam đã gây nên nạn đói khủng khiếp, từ tháng 2 đén tháng 4 năm 1945 đã cướp đi sinh mạng của gần hai triệu dân (tức là 1/5 dân s ố miền Bắc lúc đó) và 300.000 trong tổng s ố 450.000 con trâu bò. Việt Nam giành được độc lập trong tình hình kinh tế xã hội nh ư vậy, nên nhà nước dân ch ủ nhân dân non trẻ ph ải đương đầu với muôn ngàn khó khăn, thử thách. Nguy cơ tám triệu dân miền Bắc sẽ bị đói trong thời gian giáp hạt, vì vụ lúa mùa ph ải đến tháng 11 mới cho thu ho ạch. Vỡ đê và lũ lụt xảy ra ở nhiều nơi, đúng vào những ng ày cách mạng tháng Tám, làm ngập 350.000ha trong tổng s ố 830.000ha (chiếm khoảng 40%) diện tích đã cấy xong lúa mùa ở Bắc Bộ. Đó là ch ưa kể những khó khăn về nạn thù trong, luôn quấy rối và giặc ngoài luôn lăm le xâm lược. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên nh ững nhiệm vụ cấp bách và những biện pháp cụ thể thực hiện những nhiệm vụ đó. Người gương mẫu thực hiện và vận động toàn dân thực hiện thắng lợi, đưa dân tộc từ ng bước vượt qua hiểm ngh èo – là một s ự nỗ lực phi thường, biểu hiện một quyết tâm s ắt đá của một trái tim yêu nước, thương dân vô bờ bến và của một bộ óc tinh anh hiếm có. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận động toàn dân thực hiện “đời s ống mới” và Người tin ch ắc s ẽ thực hiện được, thì càng thấy tầm chiến lược của Người vĩ đại như thế nào. Phải là một ng ười có khát vọng độc lập, tự do đến cháy bỏng, phải có lòng yêu thương và tin tưởng tuyệt đối vào nhân dân, vào truyền thống tự lực tự cường của dân tộc nh ư Hồ Chí Minh mới có thể tư duy và hành động vừa quyết liệt vừa mềm mỏng, một cách linh ho ạt và đạt kết quả to lớn như vậy. Kết qu ả thực hiện đời s ống mới không chỉ dừ ng lại ở thời kì xây dựng ch ính quyền nhân dân và trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thự c dân Pháp xâm lược, mà nó còn tiếp tục ở thời kỳ xây dựng ch ủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất nước nh à, và tiếp tục cả trong những giai đoạn sau này.B ởi thực hiện đời s ống mới cũng chính là thực hiện đổi mới liên tục tr ên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, để toàn xã hội nh ằm tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân ch ủ và văn minh – cũng là mục tiêu của độc lập dân tộc và ch ủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh vận động mọi người thực hiện đời sống mới một cách giản dị, chân thành và rất thiết thực: “Nước ta người khá đông, đất khá rộng, ruộng khá tốt, của khá nhiều. Đồng bào ta lại có tính ch ịu khổ, chịu khó, biết việc phải thì vui lòng theo.Thế là nh ững điều kiện để
- làm đời s ống mới đã đủ rồi. cũng như gạo, nước, củi đều s ẵn s àng, ch ỉ cần nhen lửa thì có cơm ăn.N êu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời s ống mới”. Mối quan hệ “tam tài” (thiên- địa- nh ân) - ở đầu tác phẩm “Đời s ống mới”, được Người nhắc lại ở cuối tác phẩm bằng lối văn sinh động và tha thiết. Ở đây, cái gốc – cái nền của đời s ống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính – một lần nữa được Người khẳng định rõ ràng. Cho đến cu ối đời, Hồ Chí Minh vẫn kiên định giữ vững lập trường cách mạng của mình. Trong bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét s ạch ch ủ nghĩa cá nhân”, đăng tr ên báo Nhân Dân s ố 5409, ngày 3 tháng 2 năm 1969, kí T.L, Hồ Chí Minh viết : “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, tr ước hết. Ph ải kiên quyết quét s ạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể,tinh thần đoàn kết, tính tổ chứ c và tính kỷ luật. Phải đi s âu đi s át thực tế, gần gũi quần chúng, thật s ự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân.Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ”. Thực hiện nh ững lời di huấn của chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, trong công cu ộc đổi mới ngày nay, đảng cộng s ản Việt Nam đã xác định: “Tư tưởng H ồ Chí Minh soi đường cho cu ộc đấu tranh của nh ân dân ta dành thắng lợi, là tài s ản tinh thần to lớn của Đảng và của dân tộc ta. Khẳng định lấy chủ ngh ĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động và bước phát triển quan tr ọng nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta”. Để đảm bảo thắng lợi cho công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta chù tr ương không ngừng “xây dựng, ch ỉnh đốn đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và s ức chiến đấu của Đảng”, trong đó nhiệm vụ giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống ch ủ nghĩa cá nhân thường xuyên được coi trọng. Đó chính là s ự kế tục và ph át huy tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc vận động, giáo dục đảng viên và nhân dân “s ửa đổi” để biến cái cũ thành cái mới, biến cái xấu thành cái tốt trên cơ s ở thay đổi từ nhận thức đến hành động, tr ước tiên là thay đổi lối nghĩ, nếp nghỉ và r èn luyện bản thân thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Cho đến nay, bốn đức cơ bản của con người: Cần, Kiệm, Liêm, Chính do ch ủ tịch Hồ Chí Minh do Hồ Chí Minh đề xướng vẫn là cái gốc, là khởi điểm của s ự giáo dục đạo đức cách mạng, của s ự đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Thực hành tốt Cần, Kiệm, Liêm, Chính trong mỗi con người và trong toàn bộ xã hội là nhân tố đặc biệt quan trọng trong s ự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nh ất là trong tình hình chuyển nền kinh tế sang cơ ch ế thị trường định hướng xã hội ch ủ ngh ĩa và tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế. ph át triển nền kinh tế thị trường, thực tế càng đặt s ự cấp thiết phải tăng cường thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính vì mục tiêu của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
20 p | 4651 | 661
-
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học và vận dụng tư tưởng đó trong việc học tập của sinh viên
18 p | 2350 | 375
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 6 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân
11 p | 1573 | 97
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 7 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới
18 p | 596 | 71
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân (18tr)
18 p | 513 | 68
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 4 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam
16 p | 432 | 66
-
Bài giảng chuyên đề Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và văn hóa
14 p | 449 | 61
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Bài 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
16 p | 370 | 57
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Bài 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
16 p | 255 | 53
-
Vấn đề: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
7 p | 221 | 42
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 2 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
7 p | 268 | 35
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Bài 8: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
17 p | 205 | 23
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Bài 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
11 p | 95 | 8
-
Bài giảng môn Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, đạo đức và xây dựng con người mới
9 p | 127 | 8
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là một thành tố văn hóa
4 p | 108 | 6
-
Giáo dục lối sống cho sinh viên Cao đẳng sư phạm Hòa Bình thông qua học tập nội dung về văn hóa đời sống trong chương VII: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới
9 p | 32 | 5
-
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về điều kiện đảm bảo dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
11 p | 7 | 5
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vấn đề đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay
5 p | 15 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn