
2
bệnh co giật nửa mặt là công cụ quan trọng phát hiện xung đột mạch máu- thần
kinh. Tuy nhiên kết quả cộng hưởng từ chịu ảnh hưởng bởi trang thiết bị và kinh
nghiệm của bác sĩ chẩn đoán hình ảnh.
- Kết quả điều trị vi phẫu thuật kết hợp nội soi giải ép mạch máu thần kinh
cho người bệnh co giật nửa mặt: Chúng tôi thu thập được kết quả khả quan khi
thực hiện nghiên cứu. Vi phẫu thuật kết hợp nội soi giải ép mạch máu-thần kinh là
an toàn và hiệu quả ngay cả với người bệnh lớn tuổi (>65 tuổi). 100% các trường
hợp tìm thấy xung đột mạch máu-thần kinh qua nội soi. Hiệu quả phẫu thuật có
thể thay đổi theo thời gian. Hiện tượng “khỏi trì hoãn” là nguyên nhân những
trường hợp cải thiện triệu chứng muộn. Việc tìm thấy xung đột mạch máu- thần
kinh tại vùng đi ra của rễ ảnh hưởng đến hiệu quả phương pháp phẫu thuật. Tái
phát sau mổ vẫn xuất hiện.
- Ngoài những kết quả khả quan thu được, chúng tôi có 1 số hạn chế như
chưa áp dụng điện sinh lý thần kinh trong mổ, nghiên cứu không có nhóm chứng.
3. Bố cục của luận án
Luận án gồm 144 trang, trong đó phần đặt vấn đề 2 trang, tổng quan tài liệu
38 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 22 trang, kết quả nghiên cứu 36
trang, bàn luận 43 trang, kết luận 2 trang và kiến nghị 1 trang. Luận án có 39
bảng, 35 hình, và 7 biểu đồ; 198 tài liệu tham khảo.
Nghiên cứu sinh có 04 bái báo đã đăng trên các tạp chí chuyên ngành có uy
tín, trong đó có 03 bài báo trong nước, 01 bài báo Tiếng Anh.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm
Bệnh lý co giật nửa mặt (CGNM) là một rối loạn vận động của dây thần kinh
số VII được đặc trưng các cơn co giật ngắn hoặc dai dẳng không liên tục của các cơ
chịu sự chi phối của dây thần kinh VII. Dấu hiệu nhận biết của bệnh là các cơn co
thắt không tự chủ và / hoặc co rút của các cơ biểu hiện trên khuôn mặt, thường là
một bên, bắt đầu tại các cơ quanh ổ mắt, nhưng sau đó tiến triển đến các nhóm cơ
quanh miệng, các cơ da cổ và các cơ khác trên mặt.
1.2. Các nghiên cứu bệnh lý co giật nửa mặt
1.2.1. Lịch sử thế giới
F Schultze, năm 1875, đã báo cáo trường hợp đầu tiên của bệnh lý co giật
nửa mặt trong y văn. Năm 1886, Gowers đã nghiên cứu kỹ hơn về hội chứng này
và mô tả các đặc điểm cổ điển của bệnh lý này. 6 năm sau, Édouard Brissaud, cũng
đưa ra những nhận xét tương tự khi mô tả một nữ bệnh nhân 35 tuổi bị co thắt cơ
nửa mặt bên phải. Ông thấy rằng những cơn co thắt này mặc dù có biểu hiện khi
nghỉ ngơi, nhưng lại trở nên tồi tệ hơn khi người bênh có tình trạng căng thẳng.
Babinski đã đặt tên bệnh lý này là ‘’ hémispasme facial’’vào năm 1905. Babinski
đồng thời cũng mô tả thêm đặc trưng lâm sàng khác của bệnh lý, sau đó được biết
đến với tên gọi "dấu hiệu Babinski khác", tức là khi cơ vòng mi co lại và mắt
nhắm lại, phần bên trong của trán co lại tại cùng một thời điểm đồng thời, và lông