intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai Trò của nhà nước đối với hệ thống tài chính

Chia sẻ: Vũ Văn Hiệu | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:20

154
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cơ chế thị trường với những ưu thế vượt trội đã thắng thế các cơ chế vận hành khác như cơ chế tự nhiên, cơ chế bao cấp. Kinh tế thị trường phát triển khi các bộ phận trong hệ thống tài chính được hình thành, phát triển đầy đủ và đồng bộ. Cùng với đó, sự điều tiết của nhà nước trên các bộ phận của hệ thống tài chính là cần thiết nhằm giúp hệ thống tài chính đạt được sự phát triển ổn định và hiệu quả, từ đó tạo nên sự tăng trưởng phát triển lành...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai Trò của nhà nước đối với hệ thống tài chính

  1. A. PHẦN MỞ ĐẦU Cơ chế thị trường với những ưu thế vượt trội đã thắng thế các cơ chế vận hành khác như cơ chế tự nhiên, cơ chế bao cấp. Kinh tế thị trường phát triển khi các bộ phận trong hệ thống tài chính được hình thành, phát triển đầy đủ và đồng bộ. Cùng với đó, sự điều tiết của nhà nước trên các bộ phận của hệ thống tài chính là cần thiết nhằm giúp hệ thống tài chính đạt được sự phát triển ổn định và hiệu quả, từ đó tạo nên sự tăng trưởng phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Trong lịch sự phát triển kinh tế, các học thuyết kinh tế ra đời, nổi bật là hai quan điểm được xem là đối lập nhau của Adam Smith và Keynes. 1) Adam Smith, nhà kinh tế học người Scotland đã đưa ra lý thuyết “bàn tay vô hình”. Điểm chủ chốt mà Adam Smith đề ra chính là : “Sự giầu có của mỗi quốc gia đạt được không phải do những quy định chặt chẽ mà do bởi tự do kinh doanh”. 2) John Maynard Keynes, nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh lại cho rằng. Để chống đỡ khủng hoảng và thất nghiệp đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước, thông qua đó: - Nâng cao tổng cầu trong nền kinh tế - Kích thích tiêu dùng - Khuyến khích doanh nhân đầu tư và kinh doanh. Thực tế từ cuộc khủng hoảng 1929-1933 và khủng hoảng tài chính 2007-2008 cho thấy, luận thuyết “bàn tay vô hình” cảu Adam Smith chỉ có thể dẫn dắt thị trường kinh tế tự do hướng tới hiệu quả khi vấn đề thông tin thị trường được xử lý tốt. Nhưng sự tham gia ngày càng lớn của các nhà đầu tư vào hệ thống tài chính với mục đích tìm kiếm lợi nhuận tối đa trong khi nguồn thông tin không đầy đủ và sự xuất hiện ngày một đa dạng của các công cụ tài chính mới đã tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy cơ đã trở thành hiện thực trước cơn bão khủng hoảng kinh tế 2007-2008. Tuy nhiên nếu nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế sẽ hạn chế việc tự điều tiết và tính năng động của thị trường, dẫn tới suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng trong những năm của 1970. Chính vì thế, vai trò của nhà nước với hệ thống tài chính là cực kỳ quan trọng để hệ thống tài chính phát triển ổn định và bền vững. Không chỉ thể hiện vai trò của mình ở việc thúc đẩy hệ thống tài chính phát triển mà nhà nước còn có các chế tài kiểm soát chặt phù hợp, kịp thời và đồng bộ mọi hoạt động của các bộ phận trong hệ thống tài chính. Vậy nhà nước tác động đến hệ thống tài chính bằng cách nào? Đó là thông qua các bộ phận cảu hệ thống tài chính: 1. Thị trường tài chính 2. Các định chế tài chính trung gian 3. Cơ sở hạ tầng pháp lý - kỹ thuật 4. Các tổ chức giám sát và điều hành hệ thống tài chính
  2. B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI I. Hệ thống tài chính 1. Khái niệm hệ thống tài chính Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn liền với quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Trong thực tế, các quan hệ tài chính diễn ra rất phức tạp và đa dạng, chúng đan xen nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế. Tuy nhiên, đó không phải là một hoạt động hỗn loạn mà ngược lại, chúng tuân thủ những nguyên tắc, những quy luật nhất định, trong đó những quan hệ tài chính có tính chất đặc thù giống nhau nhóm lại thành một bộ phận riêng. Giữa các bộ phận này luôn có mối liên hệ, tác động ràng buộc lẫn nhau và tạo thành hệ thống tài chính. Vậy, Hệ thống tài chính là tổng thể của các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu tài chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhưng có mối liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy luật nhất định. Các bộ phận trong hệ thống tài chính hoạt động trên các lĩnh vực: tạo ra nguồn lực tài chính, thu hút các nguồn tài chính và chu chuyển các nguồn tài chính (dẫn vốn). Với các lĩnh vực hoạt động này, toàn bộ hệ thống tài chính thực hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân là đảm bảo nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội. 2. Ba quan niệu về hệ thống tài chính Quan niệm thứ nhất: hệ thống tài chính được chia thành 2 mô hình . - Hệ thống tài chính được kiểm soát: lãi suất ngân hàng được ấn định, kiểm soát chặt và gần như cố định, không tồn tại yếu tố cạnh tranh. Hệ thống tài chính này ta có thể thấy ở Ba Lan.
  3. - Hệ thống tài chính tự do: các định chế tài chính giữ vị trí quan trọng việc phân bổ nguồn lực tài chính và chịu sức ép cạnh tranh của các thị trường tài chính trong quá trình huy động vốn. Theo quan niệm này thì hệ thống tài chính đã nhấn m ạnh đ ến vai trò kiểm soát của nhà nước đặc biệt là kiểm soát đối với lãi suất. Thực tế đã chứng minh rằng việc đề cao hay xem nhẹ quá mức vai trờ kiểm soát của nhà nước đối với hệ thống tài chính đều gây ra những tác động khôn lường đối với nên kinh tế. Quan niệm thứ hai: hệ thống tài chính là tổng thể các hoạt động tài chính trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân nh ưng có quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ th ể kinh t ế - xã h ội.V ới quan niệm này, hệ thống tài chính đã đề cập đến tổng th ể các hoạt động của một tập lớp các định chế tài chính có mối quan h ệ ràng bu ộc ch ặt ch ẽ nhằm thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn cũng như đảm bảo tính hi ệu qu ả trong việc phân bổ nguồn lực tài chính theo những mục đích nh ất đ ịnh. Tuy nhiên cách thức này chủ yếu theo hướng xác định các định ch ế tài chính r ồi từ đó hình thành nên cấu trúc của hệ thống, mà cấu trúc của hệ thống lại thay đổi theo quy mô và tính phức tạp của nền kinh t ế trong t ừng th ời kì.Vì vậy Hệ thống tài chính theo mô hình này có th ể phù hợp v ới th ời kỳ này nhưng lại không phù hợp với thời kì khác. Trước đây Việt Nam đã áp dụng quan điểm tài chính này vào thời kì trước khi hội nhập với quốc tế.
  4. Quan niệm thứ ba: hệ thống tài chính được xem xét theo cách thức cung ứng vốn cho nền kinh tế.Hệ thống tài chính là m ột t ổng th ể bao g ồm các thị trường tài chính, các định chế tài chính trung gian, cơ sở h ạ t ầng pháp lý-kỹ thuật và các tổ chức quản lý giám sát và đi ều hành h ệ th ống tài chính để tổ chức phân bổ nguồn lực tài chính nhằm đạt được mục tiêu c ủa các chủ thể trong nền kinh tế. Với quan niệm trên thì các yếu tố cấu thành thị trường tài chính được biểu diễ dưới sơ đồ sau: Với cách tiếp cận như vậy hệ thống tài chính theo quan điểm thứ ba mang tính bao quát hơn vì đã đề cập dến sự vận động c ủa dòng v ốn không chỉ thông qua các định chế tài chính mà còn thông qua th ị tr ường tài chính - kênh huy động vốn hấp dẫn với các doanh nghiệp hiện nay. Việt Nam và nhiều nước trên thế giới đang xây dựng hệ thống tài chính theo quan niệm thứ ba này.
  5. II. Vai trò của nhà nước đối với hệ thống tài chính. 1. Vai trò của Nhà nước đối với thị trường tài chính a. Khái niệm và bản chất của thị trường tài chính Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng nguồn tài chính được thực hiện thông qua các công cụ tài chính như: tín phiếu, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi, chấp phiếu ngân hàng, trái phiếu, cổ phiếu… và được cấu thành từ các bộ phận khác nhau tùy theo cách phân loại. b. Phân loại thị trường tài chính Căn cứ vào thời hạn luân chuyển: + Thị trường tiền tệ: • Thị trường liên ngân hàng • Thị trường hối đoái • Thị trường vay nợ +Thị trường vốn: • Thị trường chứng khoán • Thị trường vay dài hạn Căn cứ vào mục đích hoạt động: + Thị trường sơ cấp + Thị trường thứ cấp Căn cứ vào phương thức tổ chức giao dịch: +Thị trường phi tập trung +Thị trường tập trung Căn cứ vào phương thức huy động vốn: +Thị trường nợ +Thị trường cổ phần. c. Vai trò của nhà nước trên thị trường tài chính Thị trường tài chính hình thành theo hai con đường: hình thành tự phát và hình thành dưới sự can thiệp của Chính phủ. Dù hình thành theo cách nào đi nữa, thì nhà nước cũng có vai trò nhất định trong việc hình thành và phát triển thị trường tài chính. Và vai trò của Nhà nước được thể hiện qua sự tác động của Nhà nước đối vs việc tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự ra đời và phát triển của thị trường tài chính. Cụ thể:
  6. Thứ nhất, Nhà nước tạo khuôn khổ pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của thị trường tài chính, đồng thời thực hiện chức năng giám sát các hoạt động của thị trường tài chính. - Nhà nước xây dựng ban hành hệ thống pháp luật tạo khuôn khổ pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của thị trường tài chính. Hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành là cơ sở pháp lý điều chỉnh các hành vi của nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức trung gian tài chính, giải quyết tranh chấp và xử lý các vi phạm trong hoạt động của thị trường tài chính - Có một số nhóm quy chế được ban hành đó là: - Nhà nước xây dựng ban hành hệ thống pháp luật tạo khuôn khổ pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của thị trường tài chính. Hệ thống pháp luật do nhà nước ban hành là cơ sở pháp lý điều chỉnh các hành vi của nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức trung gian tài chính, giải quyết tranh chấp và xử lý các vi phạm trong hoạt động của thị trường tài chính. - Có một số nhóm quy chế được ban hành đó là: • Quy chế pháp lý đối với các tác nhân tham gia vào thị trường • Quy chế pháp lý về phát hành, mua bán các loại chứng khoán. • Quy chế vè tổ chức thị trường nhằm xây dựng quy mô tổ chức thị trường - Đồng thời nhà nước thông qua hệ thống pháp luật cùng các cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng quản lý, giám sát, điều hành các hoạt động của thị trường tài chính như là việc: • Thanh tra những điểm nghi vấn hoặc sai lệch trong hoạt động phát hành, niêm yết chứng khoán và công bố thông tin. • Thanh tra các hoạt động giao dịch tại trụ sở giao dịch chứng khoán • Thanh tra về khả năng tài chính vá các hoạt động của các tổ chức tài chính, các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán… Vì vậy, việc nhà nước tạo ra khuôn khổ pháp lý rõ ràng, cụ thể cho hoạt động của thị trường tài chính và duy trì chế độ xã hội ổn định sẽ:  Bảo đảm cho sự an toàn trong môi trường đầu tư trên thị trường tài chính  Hạn chế được các mặt tiêu cực của thị trường  Bảo vệ lợi ích cho mọi tác nhân kinh tế tham gia thị trường.  Củng cố lòng tin của chỉ thể cần nguồn tài chính và chủ thể cung ứng nguồn tài chính.  Tạo ra sức hút đối vs nguồn tài chính không chỉ trong nước mà còn từ nước ngoài.  Thúc đẩy thị trường tài chính phát triển ở phạm vi rộng hơn. Thứ hai, Nhà nước tạo môi trường kinh tế cho thị trường tài chính hình thành và phát triển.
  7. - Để thúc đẩy sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa, đảm bảo lưu thông tiề tệ được ổn định, Nhà nước có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại. Áp dụng thuế thống nhất đối vs các thành phần kinh tế nhẳm tạo MT cạnh tranh lành mạnh, công bằng giữa các thành phần kinh tế. Chính sách chi tiêu công của Nhà nước tạo môi trường cho đầu tư, tăng nhu cầu về nguồn tài chính. Chính sách tài chính, ngân sách góp phần kiềm chế lạm phát, tạo công cụ cho thị trường tài chính. Chính sách tác động rất lớn đến các quá trình hình thành và phát triển của thị trường tài chính nhất là chính sách thuế và lãi suất. - Bên cạnh đó, nhà nước cũng vạch ra các kế hoạch dài hạn cho thị trường. Đối với thị trường tài chính hình thành không theo con đường tự phát, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ sở vật chất cho thị trường, tạo ra hệ thống máy móc, thiết bị, trụ sở làm việc, nơi giao dịch của thị trường tài chính. Thứ ba, Nhà nước đào tạo con người cung cấp cho thị trường tài chính. Thị trường tài chính hình thành và phát triển không thể thiếu yếu tố con người. Với cơ chế hoạt động phức tạp, thị trường tài chính đòi hỏi đội ngũ nhân viên ưu tú, được trang bị đẩy đủ kiến thức chuyên môn, kinh tế, thương mại, luật pháp, ngoại ngữ, thành thạo thực hành… Để có được đội ngũ nhân viên như vậy thì cần có chi phái đào tạo lớn, kế hoạch đào tạo bài bản, khoa học. Mà những kế hoạch này lại ro nhà nước lập ra, tổ chức thực hiện và chi phí đó được lấy từ các nguồn tài chính mà chủ yếu là ngân sách nhà nước. 2. Vai trò của nhà nước đối với trung gian tài chính. a. Khái niệm trung gian tài chính. Các trung gian tài chính là những tổ chức chuyên hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên của tổ chức này là thong qua việc cung cấp các dịch vụ tài chính – tiền tệ mà thu hút, tập hợp các khoản vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế rồi cung ứng cho những nơi có nhu cầu vốn. Các trung gian tài chính đóng vai trò như một trung gian, cầu nối giữa những người có vốn và những người cần vốn, giúp cho việc luân chuyển vốn được thuận lợi hơn. Các trung gian tài chính đã thực hiện các chức năng chủ yếu là tạo vốn thông qua huy động vốn nhàn rỗi; cung ứng vốn cho nền kinh tế; kiểm soát nhằm giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra với các hợp đồng vay và cho vay. Hoạt động huy động và cho vay vốn của các trung gian tài chính có thể diễn ra trực tiếp với các chủ thể kinh tế hoặc thông qua thị trường tài chính
  8. Lợi nhuận của các trung gian tài chính dưới dang khoản chênh lệch giữa lãi xuất mà chúng ta cho vay và đi vay và các khoản phí từ cung cấp dịch vụ tài chính – tiền tệ. b. Vai trò của nhà nước đối với các trung gian tài chính. + Trung gian tài chính là một tổ chức chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính, làm trung gian giữa những chủ thể có vốn và các chủ thể cần vốn giúp cho đồng vốn được luân chuyển có hiệu quả. Trung gian tài chính bao gồm các ngân hang thương mại, tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm … Với xu thế phát triển của thị trường hiện nay, ranh giới giữa các trung gian tài chính và các thị trường ngày càng mờ nhạt. Điều tai hại hơn ở chỗ các trung chính và các thị trường ngày càng mờ nhạt. Điều tai hại hơn ở chỗ các trung gian tài chính lao vào cuộc đầu tư tài chính với vai trò như một nhà đầu tư để kiểm lợi nhuận từ sự chênh lệch. Luồng vốn không được đổ vào trong sản xuất kinh doanh mà lại được sử dụng vào việc mua bán trên thị trường vốn. + Nhà nước đưa ra các chính sách thông qua các trung gian tài chính để can thiệp vào nền kinh tế với mục tiêu ổn định nền kinh tế (chính sách tiền tệ, các quy định về lãi suất… để kích thích đầu tư hoặc làm giảm độ nóng của thị trường, hạn chế lạm phát) Trung gian tài chính ở nước ta phát triển quá nóng cả về số lượng các ngân hàng thương mại, số lượng các công ty chứng khoán (số lượng tài khoản mở), các công ty tài chính... Nhận thấy những bất cập và tác hại của sự phát triển quá nóng này, Bộ tài chính đã quyết định dùng một chính sách nhằm điều tiết lại thị trường. Ngày 17/03/2008, Bộ tài chính ban hành nghị quyết theo đó các ngân hàng thương mại buộc phải mua 20300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc. Điều này làm các ngân hàng thiếu vốn khả dụng buộc họ phải thu hút tiền gửi từ dân cư. Hành động của Bộ tài chính có tác dụng nhằm thắt chặt tiền tệ, kiểm soát lạm phát. Với hành động này Nhà nước kỳ vọng sẽ kiểm soát được tình trạng phát triển quá nóng của các tổ chức tài chính. + Tuy nhiên trong thực tế sự tác động này vẫn tồn tại một số bất cập do sự nhúng tay quá sâu của nhà nước vào nền kinh tế. Sự điều chỉnh là cần thiết nhưng hãy tôn trọng vai trò tự điều chỉnh của nền kinh tế thị trường. Tác động trên của Bộ tài chính có tác dụng làm giảm đi độ nóng của thị trường, tuy nhiên điều ngược lại lại xảy ra đối với thị trường chứng khoán. Vốn bị rút ra liên tục khỏi thị trường chứng khoán, điều này dẫn tới một sự việc hoàn toàn dễ hiểu chứng khoán down liên tục, phá vỡ tất cả các ngưỡng hỗ trợ mặc cho Bộ tài chính liên tục động viên. Cả thị trường chứng khoán và quỹ đầu tư rơi vào tình trạng héo hắt khi mà các giao dịch cực thấp, lượng nhà đầu tư đóng băng tài chính rất cao. Các doanh nghiệp cũng ngày càng khó khăn do lượng vốn lớn trên thị trường chứng khoán mất đi, lãi suất cho vay của các ngân hàng quá cao. Các
  9. doanh nghiệp xuất nhập khẩu mất liên tục các đơn đặt hàng quan trọng, các doanh nghiệp sản xuất bị đình đốn. 3. Vai trò của nhà nước đối với cơ sở hạ tầng pháp lý, kỹ thuật a. Các khái niệm Cơ sở hạ tầng pháp lý, kỹ thuật là khuôn khổ các luật lệ và hệ thống thông tin làm nền tảng để các bên (người có vốn, người cần vốn) lập kế hoạch đàm phán và thực hiện các giao dịch tài chính. Cơ sơ hạ tầng cung cấp các chuẩn mực kế toán, một hệ thống pháp luật đảm bảo cho việc thực hiện các hợp đồng và bảo vệ các quyền sơ hữu tài sản, các quy định về giao dịch… cơ sở hạ tầng vững chắc mới giúp cho hệ thống tài chính phát triển mạnh và bền vững. Cơ sở hạ tầng tài chính bao gồm: Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước; Nguồn lực và cơ chế giám sát, thực thi; Cung cấp thông tin; Hệ thông thah toán và hỗ trợ giao dịch chứng khoán. b. Vai trò của nhà nước đối với cơ sở hạ tầng pháp lý kỹ thuật Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước: Hệ thống pháp luật là công cụ có từ sớm nhất và chung nhất để quan lý nhà nước ở mọi quốc gia. Tính đến thời điểm hiện tại với bối cảnh và điều kiện thực tiễn ở Việt Nam thì hệ thống pháp luật được đánh giá là tương đối đầy đủ để hệ thống tài chính hoạt động. Ở Việt Nam, các luật để giúp nhà nước quản lý hệ thống tài chính gồm: Luật Ngân sách Nhà nước; Luật Ngân hàng Nhà nước; Luật các tổ chức tín dụng; Luật bảo hiểm; Luật chứng khoán. Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH 11, ngày 16/12/2002 được ban hành nhằm quản lýthống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chu động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quan lý và sử dụng ngân sách nhà nước, củng cố kỹ thuật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiểu quả ngân sách và tài sản nhà nước. Ngân sách nhà nước Việt Nam với các công cụ thuế và chitieeu có điều tiết sự phát triển của hệ thống tài chính trong những tường hợp củ thể nhất định. Chẳng hạn, để đói phó với tình trạng giảm phát và suy giảm kinh tế, ngày 16/01/09 thường trực chính phủ đã thông qua phương án sử dụng từ 17000 tỷ đồng , trong đó hỗ trợ lãi suất cho vay là 14% (thời hạn tối đa là 12 tháng) đói với một số đối tượng thông qua ngân hàng thương mại. Với động thái này, các doanh nghiệp sẽ giảm bớt được khó khăn, tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng với chi phí hợp lý, tạo động lực cho hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng mở rộng hoạt động vốn và cung ứng vốn cho nền kinh tế. Luật Ngân hàng Nhà nước số 06/1997/QHX ngày 12/12/1997; Luật sửa đổi bổ sung số 10/2003/QH11 ngày 17/06/2003. Luật được ban hành nhằm xây dựng và thực thi có hiểu quả chính sách tiền tệ quốc gia; tăng cường quản lý nhà nước và hoạt động ngân hàng; góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
  10. Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính cua Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân. Ở Việt Nam, sau khung hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (2008 – 2009), tăng trưởng GDP của Việt Nam đã được đây nhanh trong năm 2010 (6,8%) nhờ sự phục hồi của xuất khẩu và những điều tiết phù hợp về chính sách. Tuy nhiên, lạm phát 2010 của Việt Nam lên mức hai con số (11,8%) vào cuối năm 2010 và tiền đồng Việt Nam (VND) bị trượt giá. Những tháng đầu năm 2011chir số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam cũng đã tăng khá cao đe dọa mục tiêu kiềm chế lạm phát ttrong năm dưới mức hai con số. Diễn biến nêu trên đã ảnh hưởng tới niềm tin của người dân, thị trường và các nhà đầu tư. Để khắc phục những hạn chế, yếu kém về kinh tế vĩ mô, tháng 2/2011 Chính phu Việt Namđã có nghị quyết 11 tập trung “ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội” với sáu gói các biện pháp chính sách bao gồm: “Thắt chặt chính sách tiền tệ, thắt chặt chính sách tài chính, kìm hãm thâm hụt thương mại, tăng giá điện đồng thời với việc hỗ trợ người nghèo và sử dụng một cơ chế mang tính thị trường hơn đối với việc định giá xăng dầu, tăng cường an sinh xã hội, nâng cao hiểu quả việc phổ biến thông tin chính sách”. Việc thực hiện nghị quyết 11 sẽ làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ttrong năm 2011 (dự kiến xuống dưới mức 6,1%). Tuy nhiên, triển vọng phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong trung hạn vẫn rất tốt nếu điều kiện kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định. Việt Nam vẫn sẽ là một điểm đến hấp dẫn đói với các nhà đầu tư nước ngoài. Luật các tố chức tín dụng sửa đổi bổ sung số 20/2004/QH11 ngày 15/06/2004 có hiểu lực từ ngày 01/10/2004. Luật này quy định: thống nhất mọi hoạt động quan lý cua Ngân hàng, xây dựng các hệ thống tổ chức tín dụng hiện đại, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, baor vệ lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, dầu tư vốn và các nguồn lực khác để phát triển các tố chức tín dụng nhà nước, tạo điều kiện cho các toorr chức này giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trên thị trường tiền tệ, Nhà nước thành lập các ngân hàng chính sách hoạt độngkhông vì mục đích lợi nhuận đê phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách khác, phục vụ miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, phục vụ nông nghiệp nông thôn và nông dân nhằm thực hiện chính sách kinh tế - xã hôi của Nhà nước. Chính phủ quy định chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện, thời hạn vay vốn. Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000. Luật này ra đời nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia bao hiểm, dẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội, ổn định đời
  11. sống nhân dân, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đói với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29/06/2006. Luật này quy định về hoạt động chào bán chứng khoán và thị trường chứng khoán. Luật chứng khoán xác định rõ 5 nguyên tắc hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán đó là: Tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh và ịch vụ chứng khoán của tổ chức cá nhân; công bằng, công khai, minh bạch; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; tự chịu trách hiệm về rủi ro; tuân thủ quy định của pháp luật. Tuy nhiên vấn đề quản lý nhà chưa thực sự đồng bộ và đồng nhất. Một số tổ chức có quy mô hoạt động rất lớn nhưng không chịu sự chi phối của luật các tổ chức tín dụng và chịu sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước như Quỹ hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển địa phương. Tổng tài sản của Quỹ hỗ trợ phát triển có thể lớn hơn tổng tài sản của Ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam và phát triển nông thôn. Cung cấp thông tin: Hiện nay các Ngân hàng nói riêng và các tổ chức tài chính nói chung đang từng bước áp dụng các chuân mực kế toán quốc tế. Các quy định về kiểm toán vẫn chưa thực sự đầy đủ và tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Hiện vẫn chưa có hệ thống lưu trữ thông tin tín dụng và tổ chức xếp loại tín dụng đủ độ tin cậy. Hệ thống thanh toán và hỗ trợ giao dịch chứng khoán: Là loại nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt do các ngân hàng trung gian cung cấp để phục vụ cho các dịch vụ chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Hệ thống này thường do một ngân hàng đứng ra đảm nhận (ở Việt Nam là Ngân hàng Đầu tư và phát triển) với mục tiêu tạo ra thuận lợi ttrong việc đối chiếu, kiểm soát khi thanh toán và giam thời gan toán cho các giao dịch. Trước năm 2000, hầu hết các tổ chức tài chính ở Việt Nam sử dụng hệ thống thanh toán phân tán. Nhưng từ năm 2000 đến nay, các tổ chức tài chính, nhất là các ngân hàng thương mại đã sử dụng hệ thông thanh toán tập trung. Từ năm 2002, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã triển khai hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Đây là một bước tiến trong việc áp dụng công nghệ thanh toán cua hệ thống tài chính Việt Nam. 4. Vai trò của các tổ chức có nhiệm vụ giám sát và điều hành hệ thống tài chính ở Việt Nam a. Vai trò của hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam Hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam hiện nay về th ực ch ất đ ược tổ chức theo mô hình phân tán chuyên ngành, tức là m ỗi b ộ ph ận c ủa th ị trường tài chính được giám sát bởi một cơ quan giám sát chuyên ngành như: Thị trường ngân hàng được giám sát bởi cơ quan thanh tra, giám sát ngân
  12. hàng (trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam); thị trường chứng khoán được giám sát bởi Ủy ban chứng khoán Nhà nước (trực thuộc Bộ Tài chính) ; thị trường bảo hiểm được giám sát bởi Cục quản lý, giám sát bảo hiểm ( trực thuộc Bộ Tài chính). Ưu điểm: Bảo đảm giám sát được các định chế trung gian tài chính một cách chặt chẽ, thường xuyên. Nhược điểm: Với mô hình như trên sẽ tất yếu dẫn đến những khoảng trống trong hoạt động giám sát như giám sát chéo hoạt động trong các tập đoàn tài chính kinh doanh đa ngành và giám sát rủi ro đan xen giữa các bộ phận của thị trường khó thực hiện, giám sát an toàn vĩ mô thị trường tài chính bị xem nhẹ, đồng thời việc điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành không thực hiện được. Hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam gồm hai nội dung lớn đó là: giám sát hành vi và giám sát sức khỏe tài chính. ­ Giám sát hành vi tập trung vào việc phát hiện những hành vi vi phạm và lạm dụng thị trường nhằm đảm bảo tính tuân thủ luật pháp và duy trì một sân chơi công bằng và minh bạch cho mọi thành viên tham gia thị trường. ­ Giám sát sức khỏe tài chính tập trung vào việc phát hiện, phòng ngừa và ngăn chặn những rủi ro liên quan đến sức khỏe tài chính của các định chế tài chính và toàn bộ hệ thống tài chính nhằm đảm bảo sự lành mạnh và phát triển bền vững của thị trường tài chính. Các tổ chức có nhiệm vụ giám sát và điều hành hệ thống tài chính ở Việt Nam: ­ Ủy ban giám sát tài chính quốc gia: đây là cơ quan quan trọng nhất trong hệ thống giám sát tài chính. Trong nền kinh tế thị trường, ủy ban giám sát sẽ làm theo chế độ thủ tướng, chịu sự chỉ đạo của nhà nước, nhà nước sẽ có vai trò đẩy mạnh chức năng và tăng quyền hạn cho ủy ban giám sát. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia có vai trò phân tích, dự báo, cảnh báo mức độ thông tin thị trường, định hướng phát triển kinh tế. ­ Ngân hàng trung ương: là cơ quan trực thuộc chính phủ thực hiện chức năng quản lí nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Ngân hàng trung ương có vai trò điều chỉnh lãi suất và biên độ tỉ giá dưới sự cho phép của thủ tướng, thực hiện chính sách tiền tệ, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. - Bộ tài chính: là cơ quan của chính phủ, thực hiện chức năng về tài chính của chính phủ, bao gồm: ngân sách nhà nước, thuế, phí, đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp…
  13. - Ủy ban chứng khoán nhà nước: là là tổ chức thuộc bộ nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Ủy ban chứng khoán nhà nước có vai trò giữ vững, ổn định thị trường chứng khoán, tăng cường hợp tác quốc tế chứng khoán và thị trường chứng khoán, tổ chức nghiên cứu khoa học về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho ủy ban chứng khoán, thống kê dự báo về hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán. - Trung gian tài chính đặc biệt: bao gồm ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển. Nó có vai trò trợ giúp nền kinh tế mà không vì mục tiêu lợi nhuận. - Các tổ chức tài chính quốc tế: bao gồm quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)….Nhà nước đã tạo điều kiện để triển khai các dịch vụ tài chính do các tổ chức tài chính cung cấp, tìm mọi khả năng để đạt được yêu cầu theo các nguyên tắc quy định để nhận được sự ưu đãi trong việc sử dụng các dịch vụ tài chính. b. Những thách thức, khó khăn đối với việc giám sát tài chính quốc gia của Việt Nam hiện nay. So với các nước trên thế giới, thị trường tài chính Việt Nam ra đời muộn hơn, vì vậy, còn nhiều hạn chế. Hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam hiện nay về thực chất được tổ chức theo mô hình phân tán chuyên ngành, tức là mỗi bộ phận của thị trường tài chính được giám sát bởi một cơ quan giám sát chuyên ngành như: Thị trường ngân hàng được giám sát bởi cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng (trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam); thị trường chứng khoán được giám sát bởi Ủy ban chứng khoán Nhà nước (trực thuộc Bộ Tài chính) ; thị trường bảo hiểm được giám sát bởi Cục quản lý, giám sát bảo hiểm (trực thuộc Bộ Tài chính). Ưu điểm chính của mô hình là bảo đảm giám sát được các định chế trung gian tài chính một cách chặt chẽ, thường xuyên. Tuy nhiên, nó cũng mang những nhược điềm rất lớn: tất yếu dẫn đến những khoảng trống trong hoạt động giám sát như giám sát chéo hoạt động trong các tập đoàn tài chính kinh doanh đa ngành và giám sát rủi ro đan xen giữa các bộ phận của thị trường khó thực hiện, giám sát an toàn vĩ mô thị trường tài chính bị xem nhẹ, đồng thời việc điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành không thực hiện được. Đánh giá lại công tác điều tiết và giám sát đối với hoạt động của các tổ chức giám sát tài chính tại Việt Nam trong thời gian qua, có thể nhận thấy một số những điểm yếu và cũng chính là những thách thức, khó khăn mà chúng ta phải đối mặt, cụ thể như sau: Thứ nhất: Sự yếu kém trong quá trình theo dõi và giám sát bao gồm tính thiếu minh bạch và chất lượng các báo cáo; sự phát triển, đổi mới của hệ
  14. thống tài chính tạo ra những sản phẩm lai ghép, do đó, công tác giám sát cũng gặp khó khăn hơn. Sở dĩ như vậy là vì hệ thống kế toán của Việt Nam chưa hoàn thiện, chưa tạo ra một chuẩn mực chung, vẫn nằm ở các quy định rải rác, thiếu đồng bộ, chính nó đã làm cho việc thực hiện chế độ kiểm toán và lập báo cáo hàng năm gặp không ít khó khăn, phiền toái trong công tác quản lý. Điều này dẫn tới việc công bố thông tin trên thị trường không minh bạch, gây thiệt hại cho nhà đầu tư cũng như làm nhiễu luồng thông tin. Như vậy, việc đưa ra quy định chung về hạch toán, kế toán cũng như chế độ kiểm toán, báo cáo, công bố thông tin hàng năm đối với các loại hình doanh nghiệp là hết sức cầp thiết và cần được quan tâm đúng mức. Khi nền kinh tế đang phát triển, mục tiêu lợi nhuận càng được đặt lên cao đồng nghĩa với những rủi ro phải đối mặt ngày càng nhiều, đòi hỏi cần phải có các sản phẩm tài chính nhằm điều hòa và hạn chế rủi ro. Vì vậy, khi các công cụ phái sinh ra đời, tăng sự lựa chọn đầu tư nhưng lại làm gia tăng các sản phẩm tài chính cần quản lý trên thị trường, công tác giám sát gặp những bất cập nhất định. Bên cạnh đó, việc sử dụng các công cụ phái sinh ở Việt Nam còn mạng tính sơ khai, liên tục cần thay đổi và điều chỉnh quy định áp dụng nên càng gây ra nhiều khó khăn, chồng chéo. Thứ hai: Sự không tương thích giữa các tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn thế giới trong việc giám sát dựa trên rủi ro đã góp phần làm bộc lộ tính yếu kém của công tác điều tiết và giám sát. Ngoài ra, cơ chế cảnh báo và giám sát hệ thống sớm cũng là một điểm yếu của hệ thống điều tiết hiện nay. Thứ ba: Sự thiếu phối hợp điều tiết của các cơ quan chức năng trong việc xử lý các vấn đề tài chính. Để có được một hệ thống giám sát hoạt động theo nguyên tắc chung, có sự phối hợp nhịp nhàng, tránh sự quản lý chồng chéo giữa các cơ quan chức năng, đòi hỏi cần có một cơ quan kiểm soát, giám sát từ cấp cao. Tuy nhiên thực tế thì, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia của Việt Nam chỉ mới được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2008, quá non trẻ so với kinh nghiệm và những yêu cầu của quản lý tài chính quốc tế nên việc hoạt động còn cần nhiều thời gian để ổn định. Vấn đề đặt ra: Cơ chế hoạt động của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia đã thực sụ hiệu quả chưa? Câu hỏi chưa có lời giải đáp và là niềm trăn trở của những người có trạc nhiệm và những bên liên quan. Bên canh đó, là sự yếu kém trong quản lý các dòng vốn, quản lý các công ty tài chính có dòng vốn nước ngoài vẫn còn khá lỏng lẻo; những quy định về giám sát cơ sở hạ tầng chưa đầy đủ; cơ chế cảnh báo sớm và giám sát hệ thống vẫn còn những lỗ hổng, sai sót; là chất lượng đội ngũ cán bộ nhân viên chưa cao. Tóm lại, hiện nay, công tác điều tiết và giám sát đối với hoạt động của các tổ chức tài chính vẫn còn chưa đạt được những hiệu quả như mong muốn, tồn đọng nhiều điểm yếu và trở thành những thách thức trước mắt cũng như lâu dài của hệ thống tài chính Việt Nam. Cuộc khủng hoảng tài
  15. chính gần đây tại các thị trường phát triển và các giai đoạn khó khăn của hệ thống ngân hàng Việt Nam cho thấy những yếu kém trong hệ thống hiện hành. Chính những khó khăn đang vướng mắc, đòi hỏi cần có một sự nhìn nhận đúng đắn của các cơ quan chức năng, những định hướng phát triển đồng bộ, từng bước đưa hệ thống tài chính Việt Nam phát triển vững và mạnh. c. Những bất cập của hệ thống giám sát tài chính hiện tại: Xét trên bình diện tổng thể thị trường tài chính, giám sát tài chính ở Việt Nam vẫn còn những bất cập, hạn chế chính sau.: Một là, Sự thiếu minh bạch trong công tác xây dựng báo cáo gây cản trở cho khả năng nắm băt tình hình thực tế tại các cơ quan chức năng sở dĩ như vậy là vì hệ thong kế tán việt nam chưa thực sự hoàn thiện chưa tạo ra chuẩn mực chung mà vẫn nằm ở các quy định rải rác .Sự thiếu quy định đòng bộ trong việc thực hiện kiểm toán và lạp báo cáo hằng năm gây không ít phiền toái cho việc quản lí điều nàydẫn đến công bố thông tin trên thị trường không minh bạch gây thiệt hại cho nhhf đầu tư và tạo ra nhiều luồng thông tin nhiễu Hai là là, các cơ quan giám sát (NHNN, UBCKNN và Bộ Tài chính vừa thực hiện chức năng cấp phép, ban hành cơ chế - chính sách, vừa thực hiện chức năng hướng dẫn, triển khai thực hiện cơ chế chính sách và kiêm luôn vai trò kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các định chế tài chính. Điều này có thể dẫn tới xung đột về lợi ích, khiến hiệu quả và hiệu lực giám sát không cao. Ba là, việc thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro, giám sát an toàn vĩ mô vẫn còn yếu kém; chủ yếu thiên về giám sát tuân thủ. Đến nay, vẫn chưa có một quy định chung về cách thức giám sát cho cả hệ hống tài chính; việc giám sát vẫn chưa bao quát được tất cả các lĩnh vực hoạt động của các tập đoàn kinh tế, nhất là tập đoàn tài chính (cả chính thức lẫn phi chính thức) trong nước, các tập đoàn xuyên quốc gia (ví dụ Merril Lynch, AIG v.v…). Các công cụ phái sinh tài chính (nhằm giảm rủi ro) vẫn chậm được áp dụng và ban hành (trong khi trên thực tế có những công cụ về thực chất là biến tấu của các công cụ phái sinh). Bốn là, khó giám sát một cách hữu hiệu các rủi ro chéo do thiếu sự phối kết hợp, liên thông trong giám sát toàn bộ thị trường tài chính do các cơ quan giám sát hoạt động một cách độc lập. Hoạt động phối kết hợp giám sát giữa Việt Nam và các nước khác vẫn còn hạn chế. Đặc biệt, hiện vẫn chưa có một cơ quan giám sát tài chính vĩ mô có đủ thẩm quyền và năng lực bộ máy để có thể cảnh báo, ngăn ngừa và xử lý hữu hiệu các loại rủi ro của hệ thống tài chính đất nước. Điều này có liên quan đến bản chất của mô hình giám sát tài chính của Việt Nam. Bản thân vị thế pháp lý yếu còn kém so với những “trọng trách” được giao của UBGSTC cũng là nhân tố khiến sự phối kết hợp
  16. thiếu chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, giám sát các TTTC. Sự phối hợp giữa các cơ quan giám sát tài chính đối với tổng thể hệ thống chưa có hiệu quả cao, do một số hoạt động nghiệp vụ có liên quan tới nhiều cơ quan quản lý nhà nước. Thách thức, rủi ro ở đây là hoạt động giám sát các định chế tài chính ngày càng trở nên khó khăn do ngày càng gia tăng các hoạt động đổi tài chính và công nghệ thông tin - truyền thông, tự do hóa kinh tế - tài chính, các bộ phận của thị trường tài chính ngày càng đan xen nhau chặt chẽ;44 ranh giới giữa thị trường tiền tệ và TTCK truyền thống trong một nước hay giữa thị trường vốn nội địa với thị trường vốn quốc tế đang bị ‘mờ’ dần; các tổ chức tài chính ngày càng trở nên đa năng, đa quốc gia với các công cụ tài chính ngày càng phong phú và phức tạp. Điều này đòi hỏi các cơ quan giám sát phải có tầm nhìn toàn cầu và sự phối hợp chặt chẽ trong việc vừa quản lý một cách hiệu quả, vừa tạo điều kiện cho các bộ phận thị trường tài chính phát triển. Sự phối hợp này là rất cần thiết từ việc lập chiến lược phát triển tổng thể thị trường tài chính, sự hợp tác thường xuyên trong việc quản lý, xử lý những vấn đề của thị trường (nhất là lĩnh vực chứng khoán ngân hàng), cho đến việc giám sát một cách có hiệu quả các đối tượng tham gia và các hoạt động đan xen trên thị trường. Năm là, vẫn còn thiếu khuyết các công cụ phục vụ cho giám sát an toàn vĩ mô và giám sát an toàn vi mô, nhất là đối với giám sát dựa trên rủi ro trong thời gian tới. Các mô hình phân tích định lượng, dự báo, kiểm định EWS, ST, VaR cho của cả hệ thống tài chính và cho từng định chế tài chính hầu như chưa được phát triển. Sáu là, vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập của các cơ quan thanh tra giám sát tài chính, thể hiện trên các phương tiện kỹ thuật lẫn nguồn nhân lực. Đến nay, công nghệ thu thập, xử lý thông tin để phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa còn lạc hậu; trong khi đó, hiệu quả hoạt động giám sát tài chính lại phụ thuộc nhiều về khả năng thu thập thông tin, nhất là có được một hệ thống thông tin quản lý có khả năng cập nhật thông tin từ cơ sở đến cơ quan giám sát một cách nhanh chóng và chính xác. Chất lượng nguồn nhân lực giám sát vẫn còn bất cập, còn yếu so với yêu cầu đảm bảo an toàn an toàn cho hoạt động khu vực tài chính. Nhìn chung, cán bộ thanh tra, giám sát chưa có khả năng sử dụng mô hình định lượng và kiểm tra tính hiệu quả của mô hình quản trị rủi ro của các tổ chức tài chính; bên cạnh đó, văn hóa giám sát cũng như động lực thanh tra tại chỗ của cán bộ thanh tra còn yếu. Cuối cùng, song không kém phần quan trọng, vẫn còn nhiều khác biệt giữa các tiêu chuẩn/chuẩn mực an toàn hoạt động, kế toán và kiểm toán của Việt Nam với của quốc tế. Điều này khiến việc áp dụng các chỉ tiêu an toàn hoạt động tài chính (ví dụ: tiêu chuẩn nợ xấu) không mang lại kết quả
  17. như ý muốn; gây ra một số khó khăn khi thực hiện giám sát các tổ chức tài chính quốc tế có hoạt động tại Việt Nam. Đánh giá thực trạng về hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam thời gian qua cho thấy còn rất nhiều hạn chế, bất cập như khuôn khổ pháp lý về giám sát tài chính còn nhiều khe hở, chưa đồng bộ; năng lực giám sát của các cơ quan giám sát giám sát chuyên ngành còn yếu; thiếu sự liên thông trong việc giám sát chung thị trường tài chính do các cơ quan giám sát chuyên ngành hoạt động độc lập, thực hiện nhiệm vụ giám sát theo từng cách riêng của họ, chưa có sự điều phối giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành, dẫn đến gây nhiều khó khăn cho việc giám sát rủi ro chéo; thực tiễn áp dụng các chuẩn mực quốc tế về giám sát thị trường tài chính vẫn còn nhiều bất cập, chưa quan tâm tới giám sát an toàn vĩ mô; việc giám sát hoạt động xuyên biên giới của các định chế tài chính có vốn nước ngoài còn yếu; các quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan giám sát chuyên ngành còn nhiều quy định chồng chéo vì thế đã tạo ra nhiều kẽ hở trong việc giám sát. d. Một số giải pháp cơ bản Thứ nhất, thiết lập đồng bộ hệ thống thể chế tạo môi trường cho hoạt động thực hiện giám sát tài chính, đặc biệt chú ý đến những quy đinh về hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Về nguyên tắc, việc giám sát hoạt động tín dụng không phải là nhằm bóp nghẹt hoạt động của các ngân hàng mà là hướng vào phòng ngừa rủi ro cho toàn bộ hệ thống. Theo đó, các giao dịch ngầm, các hoạt động né luật, lách luật cần được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Những giao dịch tín dụng theo kiểu "tay trong" cần được xử lý nghiêm khắc và triệt để. Mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước và tư nhân trong các ngân hàng cổ phần hoá phải được giám sát đặc biệt nhằm tránh hiện tượng xung đột lợi ích giữa các bộ phận đó. Thể chế phòng ngừa các hoạt động rửa tiền và lừa đảo cần phải được chú ý hoàn thiện. Hiện nay, điều chỉnh hoạt động phòng chống rửa tiền thuộc phạm vi của Nghị định số 74/2005/NĐ-CP. Tuy nhiên, tiêu chí để xác định đâu là những giao dịch đáng ngờ, xét trong điều kiện hiện nay là không còn phù hợp. Trên thực tế hoạt động giám sát theo cơ chế này vừa qua mới chỉ phát hiện được khoảng 20 giao dịch đáng ngờ như vậy(5). Do đó, trong thời gian tới cần phải sửa đổi hoàn thiện những thể chế này nhằm tạo điều kiện nâng cao hiệu lực cho hệ thống giám sát tài chính. Bên cạnh đó, các thể chế giám sát hoạt động của các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm (bao gồm các tổ chức bảo hiểm nội địa và tổ chức nước ngoài) cần được thiết lập nhằm ngăn chặn những hoạt động lừa đảo xâm nhập theo hệ thống từ bên ngoài vào, cũng như hoạt động tại thị trường Việt Nam; Chú trọng kiểm soát các sản phẩm tài chính phát sinh phi truyền thống như bảo hiểm nhân thọ của các công ty tài chính; kiểm soát các hoạt động tái đầu tư từ nguồn vốn huy động trong dân cư về lĩnh vực bảo hiểm;
  18. Đặc biệt phải kiểm soát chặt hệ thống hoạt động cho vay dưới chuẩn nhằm đề phòng những rối loạn trên lĩnh vực tín dụng, bảo hiểm. Đối với thị trường chứng khoán, cần bổ sung những quy định về minh bạch hoạt động giao dịch nhằm tạo sự lành mạnh trên thị trường; Giám sát hệ thống các hoạt động giao dịch thông qua các quỹ đầu tư thuộc chủ sở hữu nước ngoài để có thể phát hiện những hoạt động làm giá hoặc lũng đoạn thị trường, gây khó khăn cho công tác quản lý an toàn vận hành thị trường từ phía cơ quan chức năng. Thứ hai, xây dựng hệ thống cảnh báo sớm hướng đến giám sát từ xa rủi ro, phòng ngừa khủng hoảng. Nhìn chung, hoạt động thị trường tài chính vốn vận hành hết sức tinh vi và phức tạp do dòng lưu chuyển giá trị vốn chịu tác động của rất nhiều quy luật khác nhau và khó kiểm soát, do đó luôn chứa đựng yếu tố bất ổn và tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng. Chính vì vậy, nâng cao năng lực phòng ngừa khủng hoảng thông qua hiệu lực giám sát tài chính là lĩnh vực đặc biệt phải chú ý trong điều kiện thị trường tài chính Việt Nam đang hội nhập vào thị trường tài chính khu vực và thế giới như hiện nay. Đặc biệt, khó kiểm soát hơn khi từ năm 2012, lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam sẽ phải được mở hoàn toàn theo cam kết với WTO, khi đó hoạt động và quy mô vận hành hệ thống thị trường tài chính tại Việt Nam không chỉ bó hẹp vào một số ít chủ thể như hiện nay. Bởi vậy, nếu không kiểm soát tốt, nguy cơ đổ vỡ, khủng hoảng cục bộ cũng như khủng hoảng hệ thống là rất dễ xảy ra. Vì thế, việc nâng cao năng lực hệ thống giám sát theo kinh nghiệm tăng cường siết chặt sự vận hành của hệ thống tài chính như xu hướng chung của thế giới là cần thiết. Điều cần đặc biệt lưu ý là thay vì giám sát theo tiêu chuẩn thì trong thời gian tới cần hướng tới hệ thống giám sát rủi ro và phòng ngừa rủi ro. Mô hình này đòi hỏi sự phức tạp và trình độ giám sát cao hơn nhiều so với việc giám sát theo mô hình cổ điển là giám sát theo quy định như trước đây. Giám sát tài chính theo phương hướng phòng ngừa rủi ro đòi hỏi phải cảnh báo và phát hiện từ xa những yếu tố gây rủi ro và phân loại được rủi ro để có giải pháp tình huống cũng như giải pháp lâu dài, căn bản để phòng ngừa khủng hoảng. Để đạt được trình độ như vậy chắc chắn không thể chỉ trong một thời gian ngắn. Vì thế, ngay từ bây giờ, sự chuyển đổi mô hình giám sát tài chính là cần thiết. Thứ ba, minh bạch hoá mô hình kiểm soát nợ quốc gia và hoàn thiện cơ chế tài chính trong sử dụng ngân sách nhà nước. Đối với việc kiểm soát nợ quốc gia, trước hết là nợ chính phủ phải được giám sát đặc biệt chặt chẽ. Cần xuất phát tìm chính "sức khoẻ" và khả năng chịu đựng của nền kinh tế Việt Nam để tính toán quy mô và ngưỡng an toàn của vay nợ chứ không thể chỉ dựa vào các khuyến nghị của chuyên gia nước ngoài. Việc cân đối nợ mới và trả nợ cũ phải được thực hiện trên cơ sở mức tăng trưởng của nền kinh tế. Đặc biệt phải có cơ chế kiểm soát trách nhiệm của những người thực hiện chỉ đạo và tổ chức các
  19. khoản vay nhằm tránh những gánh nặng nợ cho thế hệ sau. Việc sử dụng nguồn tài chính vay được cần được thực hiện bởi một hệ thống phân loại mục tiêu và giám sát chi tiêu đặc biệt nghiêm ngặt, nhằm tránh việc đầu tư dàn trải vào những hạng mục không sinh lời, hoặc thất thoát lớn dẫn đến không tạo được nguồn bù đắp cho việc trả nợ giai đoạn sau. Cần có thể chế kiểm soát nghiêm ngặt các chủ thể sử dụng nguồn tài chính vay nợ để tránh xảy ra tư lợi và tham nhũng. Việc phân bổ ngân sách cần loại trừ cơ chế xin cho vẫn rất phổ biến hiện nay, thể chế về phân bổ ngán sách cho đầu tư cần trên cơ sở cân đối nguồn thu gắn với yêu cầu trả nợ của Chính phủ và kiểm soát nợ trong ngưỡng an toàn. Phải căn cứ vào đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế của vùng để thực hiện đầu tư và phân bổ ngân sách. Quy trình giám sát đặc biệt việc sử dụng ngân sách phân bổ cần được cải tiến để tránh việc lạm dụng mục tiêu ưu tiên để làm thất thoát và tham nhũng. Có thể tiến tới thành lập ủy ban phân loại đầu tư trực thuộc Quốc hội để giám sát chặt chẽ các công trình trọng điểm và cơ chế phân bổ, kỹ thuật phân bổ vốn cho các công trình trọng điểm nhằm hạn chế đầu tư dàn trải, gây lãng phí ngân sách nhà nước và gây rủi ro, mất cân đối, thậm chí vỡ nợ quốc gia.
  20. C. KẾT LUẬN
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2