Đề bài: Ý kiến của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ<br />
1. Đề bài<br />
Nêu ý kiến của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ. Theo anh/chị, đó là câu <br />
chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ hay là câu chuyện về <br />
niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn?<br />
(Nhà văn Thạch Lam cho rằng: "Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao <br />
quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn". <br />
Em hãy dựa vào quan niệm này của tác giả để nhận xét chủ đề xuyên suốt qua tác phẩm Hai <br />
đứa trẻ.)<br />
2. Dàn ý nêu ý kiến của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ<br />
I. Mở bài<br />
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn thành công và hết sức đặc sắc của <br />
Thạch Lam, qua truyện đã thấy được tài năng của tác giả.<br />
Khái quát chủ đề của truyện: Câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn, những <br />
cuộc đời tàn tạ và cũng là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp <br />
hơn.<br />
II. Thân bài<br />
Nêu đoạn văn có thể giúp bạn đọc tìm kiếm được chủ đề của tác phẩm:<br />
“Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con <br />
tàu, như đã đem đến một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác <br />
hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối dường như vẫn bao <br />
bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”.<br />
a. Những dòng liên tưởng của Liên<br />
– Dòng mơ tưởng của Liên khi con tàu đã rời ga phố huyện đem theo ánh sáng của <br />
cuộc sống kinh thành mà cô hằng khao khát. Niềm vui chợt đến lại mất đi ngay, chỉ còn lại <br />
sự tiếc nuối, khiến Liên lặng theo mơ tưởng. Một chữ “lặng” thôi mà như nói được bao điều <br />
buồn vui lẫn lộn của cô gái, diễn tả đúng tâm trạng của con người vừa được một cái gì lại <br />
mất đi ngay cái đó.<br />
+ Đoàn tàu đã đi khuất xa lắm rồi, nhưng hiện thực trước mắt không còn nữa – dù <br />
hiện thực đó chỉ có giá trị như một mơ ước.<br />
+ Liên chỉ còn biết mơ tưởng về một Hà Nội xa xăm, một Hà Nội ở đó đã sáng rực vui <br />
vẻ và huyên náo. Đó là Hà Nội trong kí ức tuổi thơ của Liên, của những kỉ niệm mà đã bấy <br />
lâu nay Liên khao khát muốn được sống lại những ngày hạnh phúc ấy, dù chỉ trong khoảnh <br />
khắc.<br />
+ Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, thế giới sôi động, sầm uất, vang <br />
dội đủ thứ âm thanh của cuộc sống đời thường. Chỉ cần một chút thế thôi, Liên cũng cảm <br />
thấy lòng mình rộn rã hẳn.<br />
+ Sống trong cảnh buồn chán, tẻ nhạt nơi phố huyện, Liên khao khát ánh sáng và sự <br />
hoạt động biết bao! Chỉ có sự háo hức chờ đợi tàu mỗi đêm là có thể giúp Liên như giải thoát <br />
nỗi buồn lặng lẽ ở nơi phố huyện nghèo này mà thôi.<br />
Nhưng cả Hà Nội xa xăm, cả con tàu đi qua phố huyện đều chỉ là ước mơ của cô bé <br />
tội nghiệp.<br />
+ Cuối cùng thì dòng mơ tưởng ấy lại quay về với hiện thực mà Liên đang phải sống, <br />
quay về với vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Khác hẳn với ánh sáng <br />
nơi kinh thành, đây chỉ là vầng sáng leo lót của ngọn đèn con trên chõng hàng chị Tí và ánh <br />
lửa yếu ớt trong bếp lửa bác Siêu chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ, còn xung quanh thì bóng <br />
tối vẫn bao phủ kín mít.<br />
=> Cái vầng sáng và ánh lửa của những con người nhỏ bé tội nghiệp sống lầm lũi nơi <br />
phố huyện nghèo nàn tăm tối không đẩy lùi được bóng tối đang bủa vây và đè nặng lên cuộc <br />
đời họ. Đó cũng là cuộc sống hiện tại của hai chị em Liên, cuộc sống đơn điệu đến nhàm <br />
chán và ngưng đọng.<br />
+ Trong những dòng mơ tưởng đẹp đẽ về một Hà Nội kia, dường như tâm trạng của <br />
cô bé Liên buồn vui lẫn lộn trước những gì thuộc về quá khứ, trước hiện tại đáng buồn và <br />
hướng về một tương lai mơ hồ, xa xôi…<br />
Dòng mơ tưởng của Liên trong tác phẩm như mang một ý nghĩa nhân văn và nhân <br />
đạo sâu sắc: Con người ta bao giờ cũng hướng đến những cuộc sống tốt đẹp hơn, có ý nghĩa <br />
hơn chứ không hề muốn sống cam chịu một cuộc sống vô vị, nhạt nhẽo.<br />
+ Tuy ở đây chưa có những hành động cụ thể để thay đổi cuộc sống (nhà văn lãng <br />
mạn Thạch Lam chưa thể làm được điều này), nhưng dòng mơ tưởng của Liên ở đây có giá <br />
trị như những ước mơ nhân đạo của con người. Và nhà văn Thạch Lam như muốn nhắn nhủ <br />
rằng chừng nào con người còn có ước mơ thay đổi cuộc sống thì chừng đó con người rất <br />
đáng được trân trọng.<br />
+ Dòng mơ tưởng đó còn mang ý nghĩa rất hiện thực khi Liên nhớ đến vầng sáng ngọn <br />
đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu.<br />
=> Bản thân hai hình ảnh này vốn mang ý nghĩa tượng trưng cho những kiếp người <br />
nhỏ bé tội nghiệp trong chế độ cũ, vì vậy khi Thạch Lam đưa nó vào dòng mơ tưởng của <br />
Liên thì giá trị khái quát càng cao, ý nghĩa hiện thực càng lớn.<br />
+ Có thể nói rằng dòng ý nghĩa hiện thực đó lại càng rõ nét hơn khi nhà văn khép lại <br />
dòng mơ tưởng của Liên bằng bóng tối của phố huyện, đưa nhân vật về với cuộc sống mà <br />
Liên đang phải sống: Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng <br />
ruộng mênh mang và yên lặng.<br />
b. Chủ đề của tác phẩm<br />
Đoạn văn trên có thể xem như là sự cô đúc chủ đề của tác phẩm đặc sắc “Hai đứa <br />
trẻ” ở đây có hiện thực và ước mơ, có bóng tối và ánh sáng, có hai thế giới khác hẳn nhau, <br />
hai cuộc sống khác hẳn nhau với những con người nhỏ bé tội nghiệp: hai chị em Liên và An, <br />
chị Tí, bác Siêu… Những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: Hà Nội sáng rực vui vẻ <br />
và huyên náo đối lập với vầng sáng ngọn đèn của chị Tí, ánh lửa của bác Siêu và đêm tối nơi <br />
phố huyện. Tất cả đã cho ta thấy rõ nội dung và chủ đề của truyện.<br />
Đầu tiên và trên nhất đó là số phận của những con người sống âm thầm, lay lắt, tàn <br />
lụi trong bóng tối của cuộc đời cũ. Họ như hiện thân là những kiếp người nhỏ bé vô danh, <br />
không bao giờ được biết đến ánh sáng và hạnh phúc, cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm <br />
tối, nghèo đói, buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra, trên đất nước còn chìm dần trong <br />
cảnh nô lệ, đói nghèo tại thời điểm đó. Người đọc đồng cảm sâu sắc với niềm xót thương <br />
vô hạn của Thạch Lam đối với những con người bất hạnh đó.<br />
Tiếp sau nữa, thì qua dòng mơ tưởng của Liên, qua hình ảnh “hai đứa trẻ”, truyện <br />
còn muốn nói lên một điều có ý nghĩa nhân văn sâu sắc: cuộc sống của con người đâu phải <br />
chỉ có miếng cơm, manh áo mà còn là cuộc sống tinh thần, tình cảm. Cuộc sống đơn điệu, <br />
buồn chán và ngưng đọng ở cái phố huyện nghèo nàn tăm tối quả thực là một điều đáng sợ <br />
cho hai đứa trẻ và cũng là điều khiến ta phải suy nghĩ. Qua tâm trạng Liên, tác phẩm muốn <br />
lay tỉnh ở những tàm hồn uể oải, đang lụi tắt, đốt lên trong lòng họ ngọn lửa của lòng khao <br />
khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang <br />
muốn chốn vùi họ. Truyện đã đem đến cho ta ước mơ thật đẹp của những con người sống <br />
trong cảnh đời cũ.<br />
III. Kết bài<br />
“Hai đứa trẻ” một truyện không có chuyện, mà tràn đầy không khí tâm trạng. Không <br />
khí một cảnh quê, nơi có một ga xép nhờ một chuyến tàu đúng giờ ấy, khắc ấy chạy qua mà <br />
mang một chút dư âm, dư vị, đưa con người vào một tâm trạng buồn vui lẫn lộn không xác <br />
định được ranh giới. Khi trước “một cái gì thuộc về quá khứ, vừa hướng tới tương lai” <br />
(Phong Lê).<br />
3. Bài văn mẫu nêu ý kiến của em về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ<br />
3.1. Bài mẫu 1<br />
Hành trình của văn học là hành trình đi từ trái tim đến những trái tim. Vì vậy, mỗi nhà <br />
văn khi đã cầm bút đều có thiên chức của mình. Như Thạch Lam quan niệm: "Thiên chức của <br />
nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có <br />
nhiều công bằng, thương yêu hơn". Ý thức được sâu sắc nhiệm vụ thiêng liêng đó, mỗi tác <br />
phẩm của Thạch Lam luôn nâng đỡ những yêu thương cao quý ở đời. "Hai đứa trẻ" là chút <br />
"Nắng trong vườn" vừa là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời <br />
tàn tạ vừa là câu chuyện về niềm khát kháo vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.<br />
Mỗi tác phẩm văn học ra đời đều có một chủ đề khác nhau. Chủ đề là vấn đề cơ bản, <br />
trung tâm được nêu lên trong tác phẩm. Nó thể hiện được chiều sâu tư tưởng, khả năng nắm <br />
bắt những vấn đề cuộc sống của người viết. Qua đó biểu hiện nhận thức, sự đánh giá và tư <br />
tưởng của tác giả đối với đời sống hiện thực. Trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ", Thạch Lam <br />
không chỉ tái hiện số phận của những con người sống âm thầm, lay lắt, tàn lụi trong bóng tối <br />
của cuộc đời cũ nơi phố huyện nghèo mà còn gửi gắm giá trị nhân văn sâu sắc. Đó là niềm <br />
tin vào cuộc sống và lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khát khao thoát <br />
khỏi cuộc sống tăm tối mù mịt hiện tại. Chính vì thế, “Hai đứa trẻ" không chỉ là câu chuyện <br />
về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ mà còn là câu chuyện về niềm <br />
khát kháo vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.<br />
Trước hết, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là câu chuyện về một ngày tàn. “Chiều, chiều <br />
rồi. Một chiều êm ả như ru.” “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng <br />
một vang xa” gọi buổi chiều nơi phố huyện. Trong ánh mặt trời dần lụi tàn ở "phương tây <br />
đỏ rực như lửa cháy", cảnh vật cũng dần bước vào trạng thái tàn lụi: “những đám mây ánh <br />
hồng như hòn than sắp tàn” và dãy tre làng “đen lại”, “cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Cả <br />
không gian ngập tràn âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng”, <br />
tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng tối. Bóng tối lan dần, nuốt chửng lấy cả phố huyện “tối hết <br />
cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm <br />
đen hơn nữa”. Trong bóng tối mênh mông ấy, chỉ có chút ánh sáng “le lói, lập loè, yếu ớt” <br />
của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng nước chị Tí và những “hột <br />
sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên. Cái buồn của ngày tàn lặng <br />
lẽ len lỏi vào cả những con người cũng đang dần chìm trong bóng tối và thấm thía vào tâm <br />
hồn Liên: “Đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào <br />
tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu vì sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước <br />
cái giờ khắc của ngày tàn”. Khung cảnh ngày tàn được tái hiện qua những câu văn êm dịu, <br />
uyển chuyển, tinh tế. Mỗi câu như một nét vẽ đơn sơ, mộc mạc không cầu kỳ không kiểu <br />
cách nhưng lại gợi được cái hồn của cảnh vật và cái thần thái của thiên nhiên. Có thể nói, <br />
không gian phố huyện lúc chiều tàn hiện lên tuy buồn nhưng thơ mộng, mang dáng hình của <br />
một hồn quê Việt Nam quen thuộc, gần gũi vô cùng bình dị. Qua đó gửi gắm tình cảm gắn bó <br />
của Thạch Lam.<br />
Trong không gian của ngày tàn còn có cả một câu chuyện về một phiên chợ tàn nơi xã <br />
hội thu nhỏ này. Phiên chợ đã "vãn từ lâu", "người về hết và tiếng ồn ào cũng mất", chỉ còn <br />
lại sự nghèo nàn, xơ xác với những "rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía", chỉ còn lại <br />
"mùi âm ẩm bốc lên", hơi nóng ban ngày, mùi cát bụi quen thuộc”. Cuộc sống tẻ nhạt, nghèo <br />
khổ từng nét hiện ra qua vẻ xác xơ, tiêu điều của phiên chợ tàn.<br />
Và trên phông nền thời gian, không gian tàn lụi của một ngày tàn và một phiên chợ tàn <br />
là những cuộc đời tàn tạ, những kiếp người đang âm thầm hoà mình chìm trong bóng tối. <br />
Chân dung những con người nghèo khổ lam lũ của phố huyện hiện dần ra. Đó là “mấy đứa <br />
trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi nhặt nhạnh những thanh <br />
nứa thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Chợ đã vãn <br />
từ lâu, chúng tìm được gì ở nơi đã tàn ấy? Cuộc sống nghèo khổ gieo rắc bất hạnh lên những <br />
kiếp người, cướp đi tuổi thơ của chúng và trả về gánh nặng mưu sinh.<br />
Không một ai thoát khỏi cảnh tù túng nơi phố huyện nghèo. Mẹ con chị Tí, “ngày mò <br />
cua bắt tép” tối đến lại lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng. Dù không kiếm được <br />
bao nhiêu, nhưng ngày nào chị cũng dọn giống như đang chờ đợi một điều gì đó. Còn gia đình <br />
bác Xẩm, họ ngồi trên manh chiếu với cái thau sắt để trước mặt, rồi không khách không <br />
tiền. Mệt mỏi, họ lăn ra đất và như đã lẫn vào trong đất. Bác Siêu với gánh hàng phở ế ẩm <br />
khốn khó. Hai chị em Liên với cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu mở ra từ ngày cả nhà rời Hà Nội về <br />
phố huyện này. Bà cụ Thi điên nghiện rượu, bà cười “khanh khách” rồi lảo đảo đi vào trong <br />
đêm tối gợi cho người đọc nỗi buồn thương về những kiếp người đang dần bị vùi lấp trong <br />
cái nghèo khố tối tăm và sự lãng quên của cuộc đời. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, <br />
khổ cực và tàn tạ.<br />
Phố huyện nghèo kéo theo những kiếp người gần tàn vào bóng tối mênh mông mờ mịt. <br />
Ánh sáng âm ỉ trong bóng tối bao trùm, mong manh tới nỗi chỉ là “hột sáng” hắt ra từ ngọn <br />
đèn con của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn Hoa Kì vặn nhỏ của chị em Liên. Chút <br />
ánh sáng ấy không làm cho đêm tối trở nên sáng sủa hơn mà ngược lại chỉ càng làm thêm mịt <br />
mù u tối. Với nghệ thuật đối lập khi miêu tả ánh sáng và bóng tối, Thạch Lam đã khắc họa <br />
thành công nhịp sống tẻ nhạt, u buồn lay lắt của con người nơi ph ố huy ện nghèo. Trong khi <br />
bóng tối nuốt chửng cả phố huyện thì ánh sáng xuất hiện là “hột sáng”, “khe ánh sáng”, <br />
“đốm sáng”, “vệt sáng” thật bé nhỏ, chúng “mất đi rồi lại hiện ra trong đêm tối”. Ánh sáng <br />
nhỏ nhoi, yếu ớt đó le lói cùng những phận người bấp bênh, trôi nổi. Nhịp sống ấy lặp đi lặp <br />
lại quẩn quanh, đơn điệu từ ngày này sang ngày khác.<br />
“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu,<br />
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người”.<br />
Nhưng “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái <br />
đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức” <br />
(Thạch Lam). Dưới cái nhìn đầy yêu thương của Thạch Lam, "Hai đứa trẻ" còn là một câu <br />
chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn của những cuộc đời tàn tạ. <br />
Ngày tàn, phiên chợ cũng đã tàn nhưng không che lấp đi niềm tin và khao khát của những <br />
cuộc đời. Trong hoàn cảnh tàn tạ, con người vẫn ước mơ, vẫn hi vọng. Cuộc sống của họ <br />
vẫn tiếp diễn lặp lại dù họ biết mình không nhận được bao nhiêu. Nhưng dường như, họ <br />
vẫn luôn chờ đợi, chờ đợi điều gì đó chưa đến “Chừng ấy con người sống trong bóng tối <br />
mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Và họ chờ, chờ <br />
chuyến tàu cuối ngày ngang qua phố huyện.<br />
Trong cảnh chờ tàu, Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp tương phản rất tự nhiên có sức <br />
khơi gợi về cuộc sống đời thường: tẻ nhạt, đơn điệu nhưng lại chứa bên trong nhũng vận <br />
động đến xôn xao. Ánh sáng bừng lên trong bóng tối, cái đẹp ẩn trong cái bình thường, nỗi <br />
khao khát và ước mơ ẩn mình trong cam chịu, sự xao động nằm trong sự tĩnh lặng, cái tăm tối <br />
lại hiển hiện những kỉ niệm sáng tươi và hé mở một tương lai hi vọng dù cho còn mơ hồ xa <br />
xăm. Đó là nhìn của một nhà văn lãng mạn nhưng giàu lòng nhân hậu với con người và cuộc <br />
đời. Hai đứa trẻ chờ đợi tàu trong vui buồn phức tạp. Thạch Lam đã khéo léo tái hiện “những <br />
rung động cực điểm của những tâm hồn thơ dại” khi miêu tả sự thiết tha chờ tàu chạy qua <br />
tới mức An đã buồn ngủ nhíu cả mắt mà vẫn dặn chị: “Tàu đến chị gọi em dậy nhé!”.<br />
Đoàn tàu ngang qua đem đến cho phố huyện không khí náo nhiệt, rạo rực bởi âm <br />
thanh, hình ảnh, màu sắc và ánh sáng của nó. Tiếng còi gióng lên hối hả, tiếng các toa tàu <br />
dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng người đi lại ồn ào huyên háo. Trên những toa tàu, <br />
đèn điện sáng trưng: “Đồng và kền lấp lánh ở những ô cửa kính sáng”. Chuyến tàu ở Hà Nội <br />
mang cho phố huyện cả một thế giới hoa lệ “như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. <br />
Một thế giới tươi sáng khác hẳn với chút ánh sáng le lói nơi đây. Chuyến tàu mang theo nuối <br />
tiếc về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Nó thức dậy trong Liên một <br />
trời kỉ niệm đã qua để Liên sống với tuổi thơ trong chốc lát, sống lại một thời xa xôi nay chỉ <br />
còn trong hồi ức, thời mà thầy chưa mất việc, sống ở Hà Nội “chủ nhật được đi bờ hồ uống <br />
những cốc nước xanh đỏ”. Tàu đến rồi lại đi, lao về phía trước mở ra một chân trời tương <br />
lai khác mà không biết bao giờ con người mới đến được. Chị em Liên đứng nhìn theo con tàu <br />
mãi.<br />
Qua khung cảnh đầy cảm động ấy, Thạch Lam với sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu sắc <br />
đã bày tỏ lòng xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ <br />
biết đến ánh sáng và hạnh phúc. Trái tim của một nhà văn chân chính "nhà nhân đạo từ <br />
trong cốt tủy" đã nâng niu và trân trọng niềm tin của con người, dù cho niềm tin ấy vô cùng <br />
mong manh.<br />
Trong thiên truyện ngắn của mình, Thạch Lam đã sử dụng thành công ngôn ngữ truyện <br />
giàu cảm xúc, giọng văn thủ thỉ điềm tĩnh, nhẹ nhàng như ẩn chứa một tâm sự kín đáo có sức <br />
khơi gợi sâu vào cảm xúc người đọc kết hợp nghệ thuật đối lập tương phản, nghệ thuật <br />
miêu tả nội tâm nhân vật. Từ đó sáng tạo thành công một câu chuyện không có cốt truyện <br />
nhưng lại như một thứ thơ bằng văn xuôi ấn tượng. “Hai đứa trẻ” là bức tranh phác họa <br />
cảnh phố huyện nghèo trong một ngày tàn, qua một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ, <br />
chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của Liên. Bên cạnh niềm cảm <br />
thương chân thành đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối <br />
tăm, Thạch Lam còn khẳng định và ngợi ca niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp <br />
hơn của họ. Để rồi "Hai đứa trẻ" không những là tác phẩm tiêu biểu cho cây bút tài năng của <br />
"Tự lực văn đoàn" mà còn tiêu biểu cho tấm lòng nhân đạo, yêu thương và nâng đỡ con người <br />
của Thạch Lam.<br />
Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" với chủ đề nhân văn cao đẹp, mang theo thiên chức cao <br />
quý của người cầm bút giống như viên ngọc sáng được thời gian mài giũa. Cho đến tận hôm <br />
nay, nó vẫn âm thầm sống mãi trong lòng độc giả với tuyên ngôn văn học của một nhà văn <br />
chân chính: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự <br />
thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta <br />
có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm <br />
trong sạch và phong phú hơn”.<br />
2. Bài mẫu 2<br />
Thạch Lam được biết đến là một cây viết cứng và khỏe của nhóm Tự lực văn đoàn. <br />
Các tác phẩm của ông luôn khiến độc giả và rất nhiều nhà phê bình phải lưu tâm và nó để lại <br />
dấu chấm hỏi lớn đáng suy ngẫm. Những tác phẩm của ông được ví như “truyện mà không <br />
có cốt truyện”, song hàm chứa trong nó lại là những băn khoăn, trăn trở mà tác giả gửi gắm. <br />
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” được coi là một dấu ấn lớn trong sự nghiệp của Thạch Lam. Có <br />
ý kiến băn khoăn “truyện là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc <br />
đời tàn hay là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn?”. Vậy <br />
theo bạn ý kiến của bạn là gì?<br />
Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam chủ yếu hướng về cuộc sống quẩn quanh <br />
bế tắc đến tội nghiệp của những người dân nghèo khổ nơi phố huyện. Đó là tàn dư của chế <br />
độ thực dân nửa phong kiến mà con người phải hứng chịu trước cách mạng tháng Tám <br />
1945. Vì thế có thể khẳng định trước hết đó là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ <br />
tàn và một cuộc đời tàn.<br />
Mở đầu câu chuyện đó là khung cảnh của một phiên chợ tàn vùng quê nghèo xơ xác <br />
“Chiều chiều rồi, một chiều êm ả như ru văng vẳng tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng <br />
ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Đó cũng là một buổi chiều với tiếng trống thu không như gọi <br />
chiều yên ả và tĩnh mịch đến cô liêu. Hình ảnh mặt trời đỏ rực, những cây tre quen thuộc,… <br />
Như càng tô đậm vẻ tịch liêu đến hoang xơ nơi vùng quê yên bình. Đó cũng là dấu hiệu bắt <br />
đầu của màn đêm buông xuống, “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Tất <br />
cả khung cảnh vũ trụ chìm vào bóng đen mịt mờ bóng tối bao trùm mọi cảnh vật.<br />
Nỗi buồn đó càng được khắc họa rõ nét qua cảm nhận của nhân vật Liên “Liên không <br />
hiểu vì sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Dẫu không <br />
có bất cứ lời văn nào u uất hay thấm đẫm buồn thương thế nhưng Thạch Lam đã phần nào <br />
khiến người đọc mường tượng ra được không gian một buổi chiều tà đầy lặng lẽ buồn <br />
thương đến nao lòng.<br />
Đây cũng là lúc mọi hoạt động của con người dường như cũng tạm ngưng. Nó càng <br />
khiến cho lòng người trở nên ảm đạm và chan chứa nỗi niềm xúc động.<br />
Ai đó đã từng nói “muốn biết tình hình đời sống của một khu dân cư chỉ cần nhìn vào <br />
buổi chợ của những con người nơi đó”. Những thứ xót lại của buổi chợ tiêu điều này sẽ cho <br />
bạn cảm nhận được về cuộc sống con người nơi đây. “Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, <br />
vỏ thị, lá nhãn và bã mía”. Đó là những thứ biểu trưng cho sự nghèo nàn xơ xác đời sống <br />
khốn khó của người dân nơi đây. Những dư vị còn xót lại của phiên chợ chỉ còn là mùi đất <br />
xộc lên. Chao ôi cái mùi vị của cuộc sống nghèo khó, lầm than đến xót xa tội nghiệp.<br />
Hòa cùng với khung cảnh tiêu điều đó là những mảnh đời héo hon đến tội nghiệp. <br />
Lầm lũi trong bóng đêm càng tô đậm sự cô tịch. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo lom khom mặt <br />
đất lạnh nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay bất thứ cái gì có thể dùng được của <br />
những người bán hàng để lại”. Đáng nhẽ ở cái tuổi ấy chúng sẽ được đến trường, được vui <br />
chơi tận hưởng một cuộc sống vui vẻ thế nhưng lại phải bon chen đánh vật với cuộc sống <br />
mưu sinh. Hình ảnh những người lớn cũng chẳng khá khẩm hơn bao nhiêu. Chị Tí mò cua bắt <br />
tép đến tối lại dọn cái chõng tre ra bán nước, bác phở Siêu với gánh hàng phở ế ẩm khốn <br />
khó, anh phu xe, chị hàng gạo… Những mảnh đời bé nhỏ bất hạnh như chìm vào trong bóng <br />
tối của màn đêm ảm đạm.<br />
Trong cái hoàn cảnh đó, Liên và An cũng không thoát ra được cái nghèo. Từ ngày bố <br />
mất việc rời Hà Nội về sống với mảnh đất nghèo khó này. Mẹ chúng lăn lộn với gánh hàng <br />
xáo, hai chị em trông coi cái cửa hàng tạp hóa bé xíu. Tuổi thơ của chúng cũng không được <br />
học hành tử tế, thậm chí đối với hai chị em bát phở của bác Siêu cũng trở thành những món <br />
quà vặt đầy xa xỉ.<br />
Không gian tiêu điều của phố huyện càng được tô điểm bởi những hột sáng hắt ra từ <br />
ngọn đèn Hoa Kì vặn nhỏ của chị em Liên, của ánh đèn của chị Tí và bác Phở Siêu. Tưởng <br />
rằng những thứ ánh sáng ấy có thể khiến không gian sáng sủa hơn nhưng nó chỉ làm cho <br />
bóng đêm trở nên thăm thẳm hơn. Hình ảnh ngọn đèn con ở chõng tre của chị Tí đã trở thành <br />
những hình ảnh có sức gợi đặc biệt. Nó tô đậm sự nhỏ nhoi của những mảnh đời khiến tâm <br />
trạng người đọc trở nên u buồn day dứt.<br />
Cái ngày tàn của phố huyện sẽ là những chuỗi ngày nối tiếp nhau dài bất tận, ngày <br />
mai, ngày kia và hôm nào cũng thế. Thế nhưng dường như sự nghèo đói không khiến ước mơ <br />
của con người bị dập tắt. Bởi con người nếu không có hi vọng sẽ không thể tồn tại được. <br />
Họ vẫn mong chờ vào một thứ gì thật tươi sáng mặc dù đó là những thứ rất mơ hồ. Hình <br />
ảnh những đứa trẻ ngóng chờ sự xuất hiện của đoàn tàu đêm càng khắc họa mảnh đời bất <br />
hạnh ở đó.<br />
Sự đối lập giữa khung cảnh bên ngoài với sự nhộn nhịp của đoàn tàu càng khiến <br />
khung cảnh bên ngoài thêm đìu hiu. Họ chờ đợi để bán hàng dù chỉ đôi bao diêm gói thuốc thế <br />
nhưng nó mang đến giá trị tinh thần lớn lao. Đã là thứ khát vọng gửi gắm vào thứ ánh sáng <br />
phồn hoa kia dù nó rất mơ hồ. Khát vọng vì một ngày mai tươi sáng những mảnh đời bất <br />
hạnh sẽ không còn lầm than nữa. Đây chính là dụng ý nghệ thuật cũng là sự nhạy cảm về <br />
tâm hồn của Thạch Lam.<br />
Có thể nói trong tác phẩm này Thạch Lam đã khắc họa thành công một buổi chợ tàn, <br />
một buổi chiều tàn và một cuộc đời tàn bên cạnh đó còn gửi gắm những khát vọng vì cuộc <br />
sống tươi sáng. Hình ảnh đoàn tàu mang ý nghĩa ẩn dụ lớn lao thể hiện giá trị tinh thần nhân <br />
đạo mà nhà văn gửi gắm vào tác phẩm của mình.<br />
3. Bài mẫu 3<br />
“Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi <br />
người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”.<br />
(Nguyễn Đình Thi, Tiếng nói của văn nghệ)<br />
Tác phẩm của Thạch Lam như những bài thơ trữ tình chứa đựng tâm hồn của người <br />
sáng tác, chứa đựng biết bao tình cảm yêu mến chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước <br />
những biến đổi của cảnh vật và lòng người. Một trong những tác phẩm hay như thế là <br />
truyện ngắn Hai đứa trẻ, câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời <br />
tàn tạ hay là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn?<br />
Trước hết, chúng ta tìm hiểu chủ đề của câu chuyện. Chuyện kể về một phố huyện <br />
nghèo nàn vào một buổi chiều tối với những nhân vật như chị Tí, bà Lực, cụ Thi, bác Siêu… <br />
và nhân vật chính là chị em Liên và An. Từ đó câu chuyện thể hiện một cách nhẹ nhàng mà <br />
thấm thía niềm xót thương của tác giả đối với những kiếp người cơ cực, quẩn quanh, tăm <br />
tối ở phố huyện nghèo trước Cách mạng. Đồng thời cũng biểu lộ sự trân trọng ước mong <br />
đổi đời tuy còn mơ hồ của họ.<br />
Trước tiên, truyện ngắn Hai đứa trẻ là câu chuyện về một ngày tàn. Bức tranh đời <br />
sống ở phố huyện nghèo lúc chiều tối được bắt đầu bằng âm thanh của một “tiếng trống thu <br />
không” vang vọng như đang gọi: “Chiều, chiều rồi”. Đó là một tiếng kêu ngậm ngùi trước <br />
cảnh ngày tàn. Cảnh vật thiên nhiên trong ánh mặt trời đang lụi tàn “đỏ rực” như lửa đang <br />
cháy khiến cho những đám mây ánh hồng lên như “hòn than sắp tàn”. Tiếp đến là những luỹ <br />
tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Đó là một buổi chiều “êm ả như ru” trong <br />
những âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng” được “ngọn gió <br />
nhẹ hoang vu” mang theo vào phố huyện. Hoà vào đó là tiếng muỗi kêu vo ve thật gợi buồn. <br />
Phố huyện nghèo giờ đây chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh mông, “tối hết cả con <br />
đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn <br />
nữa”. Bóng tối càng mênh mông dày đặc hơn khi tác giả điểm vào đó những điểm sáng “le <br />
lói, lập loè, yếu ớt” của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng nước chị <br />
Tí, những “hột sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên. Nỗi buồn của <br />
buổi chiều quê được thể hiện thấm thía qua tâm hồn của nhân vật Liên: “Đôi mắt chị bóng <br />
tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thìa vào tâm hồn ngây thơ của chị. <br />
Liên không hiểu vì sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. <br />
Chính bức tranh đời sống rất chân thật, vừa thấm đượm cảm xúc trữ tình này đã gây nên cảm <br />
giác buồn thương day dứt cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ <br />
bức tranh đời sống phố huyện nghèo.<br />
Ngày tàn nơi phố huyện cũng báo hiệu sự ngưng lại của những hoạt động chung trong <br />
cái xã hội thu nhỏ này. Phiên chợ tàn cũng gieo vào lòng người nhiều nỗi niềm xúc động. Đó <br />
là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu: “Người về hết và tiếng ồn ào <br />
cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện, ống kính <br />
cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, vỏ bưởi vỏ thị, lá nhãn và <br />
lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế cho nhà văn: “Một mùi âm ẩm bốc lên, <br />
hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng <br />
của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện đầy sức ám ảnh vì những màu sắc và <br />
hương vị như thế. Điều đó đủ thấy nhắc đến phố huyện là nhắc đến sự nghèo khó, lầm <br />
than, lam lũ. Chao ôi! Cái mùi quê hương buổi chợ tàn thân thiết quá nhưng cũng thật tội <br />
nghiệp, xót xa!<br />
Trên cái nền thời gian và không gian đã tàn lụi là những cuộc đời tàn tạ, những kiếp <br />
người cũng đang âm thầm hoà mình vào bóng tối. Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, <br />
hình ảnh những con người nghèo khổ lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Đó là <br />
“mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi nhặt nhạnh <br />
những thanh nứa thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để <br />
lại”. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày chị đi mò cua bắt tép; <br />
tối đến chị mới dọn cái hàng nước này…”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau <br />
sắt trắng để ở trước mặt”. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu mẹ Liên dọn <br />
ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên mua rượu <br />
uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm <br />
than, cực khổ, tàn tạ. Cảnh đêm tối càng làm cho phố huyện chìm dần trong cái mênh mông <br />
mờ mịt. Có chăng chỉ thỉnh thoảng có những “hột sáng” hắt ra từ ngọn đèn con của chị Tí, <br />
bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn Hoa Kì vặn nhỏ của chị em Liên. Những đốm lửa ấy chẳng <br />
làm cho đêm tối trở nên sáng sủa hơn mà ngược lại chỉ càng làm thêm mịt mù dày đặc. Hình <br />
ảnh ngọn đèn con nơi chõng hàng chị Tí trở đi trở lại tới bảy lần trong tác phẩm là một hình <br />
ảnh có sức gợi cảm rất nhiều về những kiếp người nhỏ nhoi mù tối trong đêm đen mênh <br />
mông của cuộc đời. Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập để miêu tả bóng tối <br />
và ánh sáng. Nếu như bóng tối nuốt chửng tất cả phố huyện vào trong cái dạ dày tối thui của <br />
nó thì ánh sáng xuất hiện với tần số thấp. Đó chỉ là “hột sáng”, “khe ánh sáng”, “đốm sáng”, <br />
“vệt sáng”… tất cả đều hiện lên thật bé nhỏ tội nghiệp “mất đi rồi lại hiện ra trong đêm <br />
tối”. Và cùng với ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt đó là những phận người với cuộc sống bấp bênh, <br />
trôi nổi và lụi tàn, le lói như ngọn đèn trước gió. Nhịp sống ấy cứ lặp đi lặp lại một cách <br />
quẩn quanh, đơn điệu, buồn tẻ gây cho người đọc một tâm trạng u buồn day dứt. Đây là ý <br />
nghĩa cảm động và sâu sắc của thiên truyện. Bức tranh đời sống nơi phố huyện không chỉ là <br />
cuộc sống nghèo khổ của những người dân vì nếu giá trị của tác phẩm chỉ có vậy thì có nghĩa <br />
lí gì so với Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Chí Phèo của Nam Cao…? Cái hay của tác phẩm là ở <br />
chỗ nó đã diễn tả được nhịp sống nơi phố huyện. Cảnh ngày tàn, chợ tàn, và đời tàn nơi phố <br />
huyện tối nay sẽ giống như hôm qua và sẽ lặp lại trong ngày mai, ngày kia… Chiều nào cũng <br />
vậy, mẹ con chị Tí lại lễ mễ dọn hàng, bác Xẩm lại trải chiếu ra, bác Siêu lại quẩy hàng… <br />
để chờ đợi những người cũng bần hàn như họ. Và chị em Liên cũng vậy, tối nào hai chị em <br />
cũng ngồi lên chõng tre dưới gốc bàng để ngắm nhìn trời đêm và nhìn những người từ từ đi <br />
vào đêm. Mọi người chờ đợi những điều mà họ vẫn chờ đợi. Nhịp sống ấy vẫn lặp đi lặp <br />
lại, ngày này sang ngày khác, buồn tẻ, đơn điệu vô cùng.<br />
“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu,<br />
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người”.<br />
Cuối cùng, truyện ngắn Hai đứa trẻ là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một <br />
cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong hoàn cảnh tàn tạ ấy, những đứa trẻ cũng ước mơ, cũng hi <br />
vọng nhưng chúng chỉ là những đứa trẻ còn thơ dại nên cũng chỉ biết ngóng đợi đoàn tàu đêm <br />
đêm vẫn đi qua nơi phố huyện của đời mình. Bởi âm thanh, hình ảnh, màu sắc, ánh sáng của <br />
con tàu khi vào ga đem đến cho phố huyện cả một không khí náo nhiệt, rạo rực. Tiếng còi <br />
gióng lên hối hả, tiếng các toa tàu dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng người đi lại ồn <br />
ào huyên háo. Trên những toa tàu, đèn điện sáng trưng: “Đồng và kền lấp lánh ở những ô cửa <br />
kính sáng”. Chuyến tàu ở Hà Nội về. Ở Hà Nội cũng có nghĩa là ở nơi phồn hoa đô hội. Con <br />
tàu ấy đã mang về phố huyện cả một thế giới hoa lệ, “con tàu như đã đem một chút thế giới <br />
khác đi qua”. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị <br />
Tí và ánh lửa của bác Siêu. Con tàu từ Hà Nội về, “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và <br />
huyên náo”. Con tàu ấy đã thức dậy trong Liên một trời kỉ niệm để Liên sống với tuổi thơ <br />
trong chốc lát, sống lại một thời “vàng son”nay chỉ còn vang bóng. Đó là cái thời thầy chưa <br />
mất việc, gia đình ở Hà Nội, mẹ có nhiều tiền, “chủ nhật được đi bờ hồ uống những cốc <br />
nước xanh đỏ”. Nghĩ đến ngày ấy là lòng hai đứa trẻ u hoài nuối tiếc. Nhưng tàu đến rồi tàu <br />
lại đi. Con tàu lao về phía trước mở ra một chân trời tương lai mà con tàu cuộc đời Liên <br />
không biết bao giờ mới đến được. Chị em Liên cứ đứng nhìn theo con tàu mãi không thôi. <br />
Con tàu chính là con thoi rực sáng lấp lánh những kỉ niệm từ quá vãng trở về hiện tại và khơi <br />
dậy một tương lai trong mắt người nhìn. Thạch Lam đã miêu tả rất tinh tế “những rung động <br />
cực điểm của những tâm hồn thơ dại”. Hai đứa trẻ đợi tàu với một niềm thiết tha mong chờ <br />
và những vui buồn phức tạp. Chỉ riêng điểm này đã cho thấy Thạch Lam yêu thương, đồng <br />
cảm như thế nào đối với trẻ em Việt Nam. Như vậy, đợi tàu là nhu cầu của đời sống tinh <br />
thần. Đợi tàu là một nhu cầu bức xúc để chốc lát thoát ra khỏi cuộc sống tù túng tẻ nhạt của <br />
hiện tại. Đợi tàu là để sống với một thế giới khác, khác hẳn cái thế giới buồn tẻ mà chúng <br />
đang phải sống. Thể hiện tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ, Thạch Lam với sự thức tỉnh ý <br />
thức cá nhân sâu sắc muốn bày tỏ lòng xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé <br />
vô danh không bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc.<br />
Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác hoạ bức tranh phố huyện nghèo, chân <br />
thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với <br />
một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ. Ngòi bút của nhà văn thấm đẫm <br />
niềm cảm thương chân thành đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế <br />
tắc, tối tăm nhưng vẫn toát lên niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ đó, <br />
ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó bằng bức <br />
thông điệp: Xin đừng để tắt ngọn lửa của lòng khao khát. Vì con người không còn khao khát <br />
đợi chờ gì nữa thì cũng có nghĩa cuộc đời đã hết. Và tất cả đều trở nên vô nghĩa. Phải biết <br />
ước mơ thì cuộc đời mới được chắp cánh bay cao bay xa hơn. Và đây cũng chính là “Tuyên <br />
ngôn văn học” của Thạch Lam trong bài giới thiệu tập truyện ngắn Gió đầu mùa xuất bản <br />
trước Cách mạng tháng Tám:<br />
“Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li <br />
hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để <br />
vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong <br />
sạch và phong phú hơn”.<br />
<br />