1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG ----------- NGUYỄN ĐỖ VÂN ANH
MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ
VÀ HIỆU QUẢ CỦA VIÊN TỎI – FOLATE ĐỐI VỚI
TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID MÁU
TRÊN NGƯỜI 30-69 TUỔI TẠI HÀ NỘI
Chuyên ngành: Dinh Dưỡng Tiết Chế
Mã số: 62.72.73.10
LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC Người hướng dẫn khoa học
1. PGS.TS. Nguyễn Xuân Ninh
2. GS.TS. Phùng Đắc Cam
HÀ NỘI – 2014
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG ----------- NGUYỄN ĐỖ VÂN ANH
MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ
VÀ HIỆU QUẢ CỦA VIÊN TỎI – FOLATE ĐỐI VỚI
TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID MÁU
TRÊN NGƯỜI 30-69 TUỔI TẠI HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC HÀ NỘI – 2014
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
do chính tôi cùng với các đồng nghiệp thực hiện. Các
số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Đỗ Vân Anh
4
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới:
PGS.TS. Nguyễn Xuân Ninh, GS.TS. Phùng Đắc Cam, là những người thầy
đã đầu tư nhiều công sức và thời gian hướng dẫn tôi trong quá trình thực
hiện bản luận án này.
Viện Dinh Dưỡng – cơ quan chủ quản, khoa Dinh dưỡng Học đường và
Ngành nghề đã tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành bản luận án này.
Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Cở sở Đào tạo Sau Đại học Viện Vệ sinh
Dịch tễ Trung ương đã tổ chức học tập và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn
thành bản luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ Trung tâm Y tế của các phường Hàng
Bạc, Ngã Tư Sở, Điện Biên Phủ, Tương Mai và Trương Định cùng như toàn thể đối
tượng đã tham gia nghiên cứu này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các anh chị kỹ thuật viên và xét nghiệm viên của công
ty Công nghệ và Xét nghiệm Y học Bệnh viện MEDLATEC đã giúp đỡ tôi rất nhiều
trong việc triển khai nghiên cứu tại cộng đồng và phân tích mẫu máu tại labo.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp trong quá trình học
tập và nghiên cứu.
Tôi vô cùng biết ơn gia đình và bạn bè, những người đã hết lòng ủng hộ, động
viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập cũng như hoàn thành
bản luận án này.
5
MỤC LỤC
Trang
i Danh mục các chữ viết tắt…………….……………………………………….
iii Danh mục các bảng…..………………………………………………………..
iv Danh mục các hình vẽ.. …………………………………………………………
1 ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………………………
3 MỤC TIÊU ………………………………………………………………………
4 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ……………………………………………………
4 1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ LIPID……………………………………………………
4 1.1.1. Đặc tính của lipid……………………………………………………
5 1.1.2. Vai trò của lipid……………………………………………………..
6 1.1.3.Tiêu hóa và hấp thu …………………………………………………
6 1.1.4. Sử dụng, vận chuyển trong máu ……………………………………
7 1.1.5. Các typ lipoprotein …………………………………………………
7 1.1.6. Chức năng của lipoprotein ……………………………………….....
8 1.1.7. Dự trữ mỡ …………………………………………………………..
8 1.2. LIPID MÁU VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG……………………..
8 1.2.1. Sự điều hòa của nội tiết đối với chuyển hóa lipid…………………..
9 1.2.2. Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng đến chuyển hóa lipid…………..
13 1.2.3. Ảnh hưởng của một số thói quen sinh hoạt đến chuyển hóa
lipid…..
6
20 1.2.4. Thừa cân béo phì và chuyển hóa lipid ……………………………...
23 1.3. RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID MÁU………………………………...
23 1.3.1. Định nghĩa rối loạn chuyển hóa lipid máu …………………………
23 1.3.2. Phân loại rối loạn chuyển hóa lipid máu……………………………
25 1.3.3. Tình hình rối loạn chuyển hóa lipid máu……………………………
27 1.4. HIỂU BIẾT VỀ TỎI VÀ FOLATE………………………………………..
27 1.4.1. Thành phần hóa học của tỏi…………………………………………
30 1.4.2. Thực trạng nghiên cứu hiệu quả của tỏi đối với RLCHLPM .........
36 1.4.3. Hiểu biết về folate…………………………………………………..
39 CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU …………
39 2.1. GIAI ĐOẠN I………………………………………………………………..
39 2.1.1. Mục tiêu……………………………………………………………..
39 2.1.2. Thiết kế nghiên cứu ………………………………………………...
39 2.1.3. Đối tượng nghiên cứu………………….……………………………
40 2.1.4. Địa điểm nghiên cứu ……………………………………………….
40 2.1.5. Cỡ mẫu ……………………………………………………………..
42 2.1.6. Chọn mẫu …………………………………………………………...
43 2.1.7. Phương pháp thu thập, kỹ thuật thu thập các chỉ tiêu, biến số……
45 2.1.8. Chỉ tiêu đánh giá ……………………………………………………
47 2.2. GIAI ĐOẠN II………………………………………………………………
7
47 2.2.1. Mục tiêu …………………………………………………………….
47 2.2.2. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………...
54 2.2.3. Phân tích số liệu …………………………………………………….
54 2.3. ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU ………………………………………………...
55 2.4. KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ VÀ CÁCH KHẮC PHỤC …………………….
57 CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ…………………………………………………….......
57 3.1. Sự kết hợp giữa một số yếu tố nguy cơ và tình trạng RLCHLPM……...
57 3.1.1. Đặc điểm hai nhóm nghiên cứu …………………………………….
58 3.1.2. Rối loạn chuyển hóa lipid máu và một số yếu tố nguy cơ………….
62 3.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi – folate đối với tình trạng RLCHLPM
……
62 3.2.1. Đặc điểm hai nhóm nghiên cứu trước khi can thiệp ………………..
66 3.2.2. Sự chấp nhận can thiệp của các đối tượng nghiên cứu ……………..
69 3.2.3. Sự thay đổi các chỉ tiêu nhân trắc …………………………………..
70 3.2.4. Sự thay đổi các chỉ tiêu lipid máu ………………………………….
3.2.5. Khẩu phần ăn và thói quen luyện tập thể thao của hai nhóm đối
tượng tại thời điểm kết thúc nghiên cứu…………………………. 81
84 CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN……………………………………………………….
84 4.1. Sự kết hợp giữa một số yếu tố nguy cơ và tình trạng RLCHLPM……...
84 4.1.1. Mối nguy cơ thừa cân, béo bụng, % mỡ cơ thể và tình trạng
RLCHLPM………………………………………………………….
8
86 4.1.2. Sự kết hợp giữa một số thói quen sinh hoạt và tình trạng
RLCHLPM………………………………………………………….
94 4.1.3. Sự kết hợp giữa khẩu phần ăn và tình trạng RLCHLPM………..
99 4.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi – folate đối với tình trạng
RLCHLPM…….
99 4.2.1. Sự chấp nhận can thiệp ……………………………………………..
4.2.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi – folate đối với tình trạng
RLCHLPM…………………………………………………………. 101
115 KẾT LUẬN……………………………………………………….
115 5.1. Sự kết hợp giữa một số yếu tố nguy cơ và tình trạng RLCHLPM……...
116 5.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi –folate đới với tình trạng
RLCHLPM……..
117 KHUYẾN NGHỊ…………………………………………………
118 Những đóng góp mới của luận án…………... …………………………………
119 Danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu……………………..…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
9
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AMS Allyl Methyl Sulfide
BMI Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể)
BTM Bệnh tim mạch
CM Chylomicron
CT Cholesterol toàn phần
FDA Food and Drug Administration (Cục quản lý thực phẩm và dược
phẩm Hoa Kỳ)
FFA Free Fat Acid (Acid béo tự do)
GRAS Genarally Recognized As Save (Được công nhân rộng rãi là an
toàn)
HATT Huyết áp tâm thu
HATTr Huyết áp tâm trương
HCCH Hội chứng chuyển hóa
HDL_C High Density Lipoprotein - Cholesterol (Lipoprotein tỷ trọng
cao)
IDF International Diabetes Federation (Hiệp hội đái đường thế giới)
LDL_C Low Density Lipoprotein - Cholesterol (Lipoprotein tỷ trọng
thấp)
LP Lipoprotein
MUFA Monounsaturated Fatty Acid (acid béo chưa no có một nối đôi)
NCEP ATP III National Cholesterol Education Program Adult Treatment Panel
10
III (Chương trình giáo dục cholesterol quốc gia Mỹ, kênh điều
trị cho người lớn)
NCD Non communicable disease (Bệnh mạn tính không lây)
PUFA Polyunsaturated Fatty Acid (Acid béo chưa no có nhiều nối đôi)
RLCH Rối loạn chuyển hóa
RLCHLPM Rối loạn Lipid máu
SFA Saturated Fatty Acid (Acid béo bão hòa hay acid béo no)
SAC S-allylcysteine
VE Vòng eo
VM Vòng mông
VLDL_C Very Low Desity Lipoprotein (Lipoprotein tỷ trọng rất thấp)
TBMMN Tai biến mạch máu não
TC-BP Thừa cân – Béo phì
tFA trans Fatty Acid (Acid béo thể trans)
TG Triglycerid
THA Tăng huyết áp
TLC Therapeutic Lifestyle Change a diet (Liệu pháp điều trị bằng
thay đổi chế độ ăn)
TTDD Tình trạng dinh dưỡng
TTLTTP Tiêu thụ lương thực thực phẩm
WHO World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế Giới)
XVĐM Xơ vữa động mạch
11
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Nội dung Trang
3.1 Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 57
3.2 Mối nguy cơ của thừa cân, béo bụng, % mỡ cơ thể và RLCHLPM 58
3.3 Sự kết hợp giữa một số thói quen sinh hoạt và RLCHLPM 59
3.4 Sự kết hợp giữa khẩu phần ăn và RLCHLPM 60
3.5 RLCHLPM và một số yếu tố nguy cơ khác 61
3.6 Các chỉ số nhân trắc và huyết áp khi bắt đầu nghiên cứu 62
3.7 Các chỉ số lipid máu (mmol/l) khi bắt đầu nghiên cứu 63
3.8 Mức tiêu thụ lương thực thực phẩm ở hai nhóm nghiên cứu tại T0 64
3.9 Đặc điểm cân đối của khẩu phần ở hai nhóm nghiên cứu tại T0 65
3.10 Thói quen luyện tập thể thao ở hai nhóm nghiên cứu tại T0 66
3.11 Tình trạng vệ sinh an toàn của viên tỏi – folate dùng trong nghiên cứu 66
3.12 Các biểu hiện của đối tượng ở nhóm can thiệp trong thời gian nghiên cứu 68
3. 13 Số đối tượng bỏ cuộc 69
3. 14 Thay đổi các chỉ số nhân trắc và huyết áp ở hai nhóm nghiên cứu 69
3. 15 Sự thay đổi nồng độ các chỉ tiêu lipid máu ở hai nhóm nghiên cứu 70
3. 16 Hiệu quả của can thiệp theo các chỉ tiêu lipid máu 79
3. 17 Mức tiêu thụ lương thực thực phẩm ở hai nhóm nghiên cứu tại T3 81
3. 18 Đặc điểm cân đối của khẩu phần ở hai nhóm nghiên cứu tại T3 82
3. 19 Thói quen luyện tập thể thao ở hai nhóm nghiên cứu tại T3 83
12
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình Nội dung Trang
3.1 Tỷ lệ RLCHLPM theo các chỉ tiêu lipid máu ở thời điểm trước can thiệp 63
3.2 Sự khác biệt về nồng độ các chỉ tiêu lipid máu giữa hai nhóm nghiên cứu 71
3.3 Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ triglycerid và nồng độ triglycerid ban đầu 72
3.4 Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ cholesterol và nồng độ cholesterol ban đầu 73
3.5 Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ HDL_C và nồng độ HDL_C ban đầu 74
3.6 Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ LDL_C và nồng độ LDL_C ban đầu 75
3.7 Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu triglyceride huyết thanh 76
3.8 Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu cholesterol huyết thanh 77
3.9 Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu LDL_C huyết thanh 78
3.10 Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu HDL_C huyết thanh 79
13
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn chuyển hóa lipid máu hiện nay là một trong những vấn đề đang được y
học thế giới quan tâm, nghiên cứu bởi mối liên quan chặt chẽ của nó với bệnh lý tim
mạch. Nghiên cứu rối loạn chuyển hóa lipid máu ngoài việc phục vụ cho điều trị, còn
mang một ý nghĩa dự phòng rất lớn đối với nguy cơ tim mạch. Bệnh lý tim mạch trong
tương lai quan hệ chặt chẽ với hàm lượng cholesterol toàn phần và những tiểu thành
phần của nó [35].
Rối loạn chuyển hóa lipid máu do nhiều nguyên nhân, có thể do di truyền hay
thứ phát do mắc một số bệnh trong cơ thể hoặc do thói quen ăn uống sinh hoạt… [30].
Nguy cơ bị bệnh động mạch vành và các bệnh lý tim mạch khác càng tăng cao hơn nếu
rối loạn chuyển hóa lipid máu đi kèm với các yếu tố nguy cơ khác như hút thuốc lá,
tăng huyết áp, đái đường, thói quen ít vận động và thừa cân, béo phì [124].
Điều trị rối loạn lipid máu sẽ giúp chúng ta tránh được các biến chứng tim mạch
nguy hiểm như đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, suy tim, tránh được các biến chứng
khác do bệnh xơ vữa động mạch gây ra như tai biến mạch máu não, tăng tuổi thọ và
chất lượng cuộc sống, giảm chi phí điều trị [124]. Hiện nay để điều trị rối loạn chuyển
hóa lipid máu, bên cạnh việc thay đổi chế độ ăn, chế độ luyện tập, một số thuốc thuộc
nhóm statin, những dẫn chất acid fibric, acid nicotinic…đã mang lại hiệu quả trong
điều trị, nhưng việc sử dụng thuốc kéo dài gây ra một số tác dụng phụ như rối loạn
chuyển hóa, rối loạn tiêu hóa, giảm bạch cầu... Mặt khác giá thành của thuốc còn cao,
chưa phù hợp với điều kiện kinh tế của đa số người bệnh [3].
Tỏi được cả thế giới coi như là thực phẩm có lợi cho sức khỏe [134]. Tỏi có tác
dụng chống nhiễm trùng và chống tắc nghẽn mạch máu, bảo vệ tế bào nội mạc, ức chế
quá trình ôxy hóa lipid, giảm các thành phần lipid máu. Như vậy có tác dụng bảo vệ hệ
thống tim mạch và chống đột quỵ [153]. Vai trò của tỏi trong điều trị bệnh đã được
14
chứng minh bằng rất nhiều nghiên cứu trên thế giới, tuy nhiên kết quả nghiên cứu ảnh
hưởng của tỏi lên các chỉ tiêu lipid máu vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ,
còn nhiều mâu thuẫn, thiếu tính thống nhất. Gần đây, vai trò của acid folic và nồng độ
homcysteine máu với bệnh tim mạch cũng được giới khoa học quan tâm. Nhiều nước
trên thế giới đã tiến hành tăng cường folate bắt buộc vào bột mỳ ngoài mục đích giảm
dị dạng ống thần kinh ở trẻ sinh ra, còn nhằm phòng chống các rối loạn có liên quan
đến bệnh tim mạch của cộng đồng [154,86,155].
Ở Việt Nam, tỏi là một thực phẩm gia vị, được trồng và sử dụng rất phổ biến,
công dụng của tỏi và liều dùng hầu như chỉ dựa trên kinh nghiệm dân gian. Gần đây,
một số chế phẩm được sản xuất từ tỏi dưới dạng viên nang, viên nén đã xuất hiện trên
thị trường trong nước, nhưng cho đến nay chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả
của sử dụng tỏi trên người bệnh có rối loạn chuyển hóa lipid máu. Do vậy, việc đánh
giá hiệu quả của sản phẩm tỏi sản xuất trong nước đối với sự cải thiện tình trạng rối
loạn lipid máu trên người trưởng thành là thực sự cần thiết.
15
MỤC TIÊU
1. Mục tiêu chung
Xác định sự kết hợp của một số yếu tố nguy cơ và đánh giá hiệu quả của sử
dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu trên người
30-69 tuổi.
2. Mục tiêu cụ thể:
2.1. Xác định sự kết hợp giữa một số thói quen sinh hoạt, tình trạng thừa cân,
phân bố mỡ trong cơ thể với tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu ở người
trưởng thành (30-69 tuổi) sống ở nội thành Hà Nội.
2.2. Đánh giá hiệu quả của sử dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng rối loạn
chuyển hóa lipid máu trên người 30-69 tuổi.
16
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ LIPID
1.1.1. Đặc tính của lipid
Lipid gồm nhiều loại khác nhau, nhưng vẫn có một số tính chất chung. Về tính
chất lý học, các lipid đều có tỷ trọng nhẹ hơn nước, không tan trong nước (có thể gây
tắc mạch nếu không kết hợp với protein), khi gắn với protein huyết tương để thành
lipoprotein, tùy tỷ lệ của protein tham gia phức hợp, tỷ trọng của LP có thể thay đổi (từ
0,9 đến 1,2) [9].
Về tính chất hoá học, các lipid đều có nhóm rượu (-OH) có thể thực hiện được
phản ứng ester hóa với các acid béo: là những acid hữa cơ có nhóm (-COOH) gắn vào
một chuỗi dài hydratcarbon với số nguyên tử carbon chẵn, gồm có các nhóm khác nhau
như acid béo no hay acid béo bão hòa (saturated fatty acid) acid béo chưa no có một
nối đôi (monounsaturated fatty acid) và acid béo chưa no có nhiều nối đôi
(polyunsaturated fatty acid), khi các phân tử carbon mang một số lượng tối đa nguyên
tử hydrogen thì chất béo được gọi là bão hòa (no), nếu thiếu nguyên tử hydrogen thì
chất béo được gọi là chưa bão hòa (chưa no), nếu chỉ thiếu một nguyên tử hydrogen thì
được gọi là chưa bão hòa dạng đơn, nếu thiếu nhiều nguyên tử hydrogen thì được gọi là
chưa bão hòa dạng đa [7].
Lipid trong cơ thể gồm 3 nhóm chính [27]
- Triglycerid (hay mỡ trung tính): cấu trúc gồm một phân tử glycerol
(rượu bậc 3) được ester hoá với 3 acid béo.
- Phospholipid: Trong cấu trúc có phospho, cũng kết hợp với acid béo
bằng phản ứng ester hóa
17
- Cholesterol: như tên gọi, thoạt đầu nó được phát hiện trong dịch mật
có nhóm rượu, do vậy có thể tồn tại dưới dạng ester hóa. Nhân sterol
của nó được cấu thành từ sản phẩm thoái hóa của acid béo.
Trong cơ thể lipid tồn tại dưới 3 dạng:
- Dạng cấu trúc: có trong tất cả các tổ chức bao gồm nhiều loại lipid
phức tạp, phổ biến là phospholipid.
- Dạng dự trữ: tạo nên lớp mỡ dưới da mà thành phần chủ yếu là TG.
- Dạng lưu hành: lipid được kết hợp với một loại protein gọi là apo-
protein để tạo thành lipoprotein (LP) vận chuyển trong máu và hệ
bạch huyết.
Ngày nay xét nghiệm lipid toàn phần ít được chỉ định, thay vào đó việc xét
nghiệm từng thành phần lipid máu có ý nghĩa hơn nhiều trong chẩn đoán, phòng và
điều trị bệnh [14].
1.1.2. Vai trò của lipid [30]
Lipid có vai trò rất quan trọng đối với cơ thể:
- Trước hết, nó là thành phần không thể thiếu được của các tế bào.
- Rất cần thiết cho sự hình thành tế bào mới trong cơ thể.
- Là một thành phần của bào tương và các màng sinh học như màng tế
bào, màng ti lạp thể.
- Là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể: 1g lipid khi bị đốt cháy
trong cơ thể cung cấp 9,3kcal.
- Ngoài ra lipid còn là nguồn cung cấp acid béo cho cơ thể.
18
- Nhiều loại vitamin cần thiết cho cơ thể như vitamin A,E,D,F,K…cơ
thể chỉ có thể hấp thu được dưới tác dụng của lipid.
1.1.3.Tiêu hóa và hấp thu
Cơ thể người có thể tổng hợp các loại lipid, nhưng nguồn lipid từ thức ăn vẫn rất
quan trọng vì cung cấp phần chủ yếu nhu cầu lipid hàng ngày, đồng thời là môi trường
hòa tan nhiều loại vitamin để cơ thể có thể hấp thu được. Nhu cầu lipid phụ thuộc và
tuổi, tính chất lao động, khí hậu…
Lipid được tiêu hóa ngay từ tá tràng: lipase của dịch tụy và ruột làm đứt toàn bộ
hay một phần số dây nối ester (tách acid béo thành dạng tự do) để hấp thu vào cơ thể
theo tĩnh mạch cửa (qua gan). Tuy nhiên, phần quan trọng nhất lipid được hấp thu nhờ
muối mật, có tác dụng biến lipid thành dạng nhũ tương hay còn gọi là chylomicron, có
thể hấp thu theo đường bạch mạch ruột vào tuần hoàn chung (không qua gan). Bữa ăn
nhiều lipid có thể làm huyết tương trở thành đục vì nhiều chylomycron.
1.1.4.Sử dụng, vận chuyển trong máu
Triglycerid được sử dụng trong cơ thể chủ yếu như nguồn năng lượng tương tự
vai trò của glucid còn phospholipid, cholesterol (và một số ít TG) chủ yếu sử dụng để
tạo ra cấu trúc tế bào và thực hiện một số chức năng. Cholesterol còn là nguyên vật liệu
ban đầu để tạo vitamin D, hormon sinh dục, thượng thận và muối mật…
Chylomicron bị cơ thể loại trừ ra khỏi máu khoảng 1 giờ bằng cách đưa qua
vách mao mạch để vào gan và mô mỡ.
Để được sử dụng như nguồn năng lượng cho cơ thể, việc đầu tiên TG trong mô
mỡ phải được thủy phân thành acid béo tự do (free fat acide = FFA), còn gọi là acid
béo không ester hóa, đưa ra máu gắn với albumin để tới nơi sử dụng (chủ yếu là tới
gan).
19
Không kể chylomicron chỉ tồn tại ngắn sau bữa ăn và FFA thì 95% lipid máu có
mặt và vận chuyển dưới dạng LP, kích thước nhỏ hơn chylomicron rất nhiều (không
làm đục huyết tương). Thành phần của LP gồm: protein, triglycerid, phospholipid và
cholesterol. Tuy nhiên, LP máu là một hỗn hợp gồm nhiều typ, mỗi typ có tỷ lệ khác
nhau cấu thành.
1.1.5.Các typ lipoprotein
Hầu hết lipoprotein được tạo thành ở gan, vì hầu như toàn bộ mỡ trong máu do
gan sản xuất, trừ TG của chylomicron là do hấp thu từ ruột. Gan cũng chính là nơi sản
xuất loại protein chuyển chở lipid, gọi là apo-protein.
Có các typ lipoprotein sau:
o Chylomicron: tỷ trọng 0,93, không di chuyển khi điện di, tồn tại ngắn hạn.
o LP tỷ trọng rất thấp (VLDL_CP): gồm 90% là lipid (50% là TG nội sinh),
protein chỉ chiếm 10%.
o LP tỷ trọng thấp (LDL_C): 75% lipid, chủ yếu là cholesterol và
phospholipid, rất ít TG.
o LP tỷ trọng trung gian (IDL) chứa chủ yếu TG nội sinh và cholesterol.
o LP tỷ trọng cao (HDL_C): được chia thành HDL_C2 và HDL_C3 (do tỷ
trọng) chứa 50% lipid, 50% protein.
1.1.6.Chức năng của lipoprotein
Chủ yếu là vận chuyển các loại lipid đi khắp cơ thể. Giúp cho lipid không bị vón
tụ lại làm giản nguy cơ tắc mạch. Triglycerid sau khi được sản xuất ở gan từ glucid và
ra khỏi gan dưới dạng VLDL_C để tới mô mỡ và sau khi trao đổi phần lớn TG cho mô
mỡ thì tỷ trọng tăng lên và biến thành IDL rồi LDL_C, gồm đa số là cholesterol,
phospholipid. Sau khi trao cholesterol cho các tế bào (theo nhu cầu), LDL_C biến
20
thành HDL_C là dạng vận chuyển cholesterol khỏi các mô ngoại vi để về lại gan (nếu
mô thừa chất này) do vậy typ HDL_C đóng vai trò quan trọng giảm nguy cơ vữa xơ
động mạch.
1.1.7. Dự trữ mỡ
Mô mỡ, gồm chủ yếu các tế bào mỡ là nơi dự trữ triglycerid của cơ thể
Tế bào mỡ: tạo thành mô mỡ có khả năng lưu giữ lipid chiếm 80-90% thể tích tế
bào. Ngoài khả năng thu nhận lipid hấp thu ở ruột, nó cũng có khả năng sản xuất một
lượng nhỏ acid béo và TG từ glucid, bổ sung không đáng kể cho sự tổng hợp tương tự
ở gan. Hầu hết lipid trong cơ thể chứa ở mô mỡ, gan và một số nơi khác. Chức năng là
cung cấp TG cho cơ thể như một nguồn năng lượng, ngoài ra còn có chức năng giữ
nhiệt.
Mô mỡ nhận được TG từ gan dưới dạng đã bị thủy phân, nhờ một số enzym
lipase, gọi là lipase mô phụ thuộc hormon (để phân biệt với lipase tụy, ruột, gan), mô
mỡ có thể đưa TG vào máu sau khi đã thủy phân nó. Quá trình này diễn ra thường
xuyên với tốc độ cao làm cho mô mỡ trong cơ thể hoàn toàn đổi mới sau 2-3 tuần.
Gan không phải kho lipid của cơ thể mà là nơi chủ yếu chuyển hóa chúng. Nhiệm
vụ của gan trong chuyển hóa lipid gồm: thoái hóa FFA thành các mảnh nhỏ sau đó tạo
thành thể cetonic là các dạng tế bào ưa sử dụng (tạo năng lượng), tổng hợp acid béo và
TG chủ yếu từ glucid và một phần nhỏ từ protid, tổng hợp các lipid (chủ yếu
cholesterol, phospholipid) từ mẩu 2C nguồn gốc từ TG. Tế bào gan ngoài chuyển hóa
TG còn chuyển hóa cholesterol, phospholipids do chính nó liên tục tổng hợp ra.
1.2. LIPID MÁU VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
1.2.1.Sự điều hòa của nội tiết đối với chuyển hóa lipid
Hormon làm tăng thoái hóa lipid: tối thiểu có 7 hormôn làm tăng sử dụng lipid
trong cơ thể mạnh mẽ nhất là adrenalin, rồi đến noradrenalin (khi hưng phấn giao cảm,
21
vận cơ) vì tác dụng trực tiếp trên các lipase phụ thuộc hormon của mô mỡ tạo ra huy
động rất nhanh và rất mạnh mẽ. Các stress cũng có tác dụng tương tự chính là thông
qua hệ giao cảm như thế. Ngoài ra stress còn làm tăng tiết corticoid (ACTH) và sau đó
là glucocorticoid (chủ yếu cortisol) cả hai đều hoạt hóa enzym lipase phụ thuộc
hormon để giải phóng FFA khỏi mô mỡ, GH cũng gây huy động nhanh nhưng gián tiếp
qua sự tăng chuyển hóa ở mọi tế bào cơ thể để huy động FFA ở mức trung bình, cuối
cùng hormon giáp trạng cũng tác dụng gián tiếp qua sự sản xuất nhiệt ở các tế bào cơ
thể.
Hormon kích thích tổng hợp triglycerid:
o Insulin giúp glucid nhanh chóng vào tế bào và sử dụng, đẩy mạnh chu trình
pentose cung cấp NADPH2 làm tăng cao các mẩu actyl-CoA và hydro, là
những nguyên liệu chính tổng hợp acid béo. Isulin còn ức chế hoạt động
adenyl-cyclase, ức chế tổng hợp AMP vòng làm giảm hoạt động TG lipase,
giảm thoái hóa lipid.
o Prostaglandin E: PGE1 có tác dụng chống thoái hóa, tăng tổng hợp lipid
giống như insulin nhưng yếu hơn.
1.2.2. Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng đến chuyển hóa lipid
Những bằng chứng dịch tễ học cho thấy có mối liên quan dương tính giữa chế
độ ăn với nồng độ lipid máu cũng như tỷ lệ mắc bệnh tim mạch. Nghiên cứu thuần tập
trên 5.251 nam, nữ 40-69 tuổi ở Hàn quốc cho thấy chế độ ăn uống khỏe mạnh bao
gồm đa dạng thực phẩm, như cá, hải sản, rau, tảo biển, thức ăn chứa nhiều protein, trái
cây, sản phẩm từ sữa, có mối liên quan ngược với hội chứng chuyển hóa. Hiệu quả có
lợi xuất phát từ mối liên quan ngược với béo bụng, HDL_C thấp, glucose tăng cao.
Nghiên cứu chỉ ra việc đa dạng hóa thực phẩm nên được khuyến nghị để ngăn ngừa
HCCH [40]. Nghiên cứu thử nghiệm có đối chứng thông qua việc cung cấp tư vấn chế
độ ăn. Kết quả: tháng thứ 3, nhóm A (được tư vấn từ tháng thứ 1) giảm LDL_C. Tháng
22
thứ 6, LDL_C của nhóm A vẫn tốt hơn nhóm B (nhóm B bắt đầu được tư vấn tháng
thứ 3). Điểm chế độ ăn nhóm A cải thiện ở tháng thứ 3 và tiếp tục tăng vào tháng thứ 6,
nhóm B có sự cải thiện chế độ ăn nhiều nhất vào tháng thứ 6. Không có sự thay đổi có
ý nghĩa mức HDL_C ở cả hai nhóm [95].
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng thành phần chất béo và hàm lượng cholesterol của
khẩu phần ăn có tác dụng tới sự thay đổi cholesterol máu [6,54,96,151,161]. Vấn đề
không chỉ là do số lượng chất béo mà là tương quan giữa các thành phần chất béo trong
khẩu phần. Tổng chất béo không có vai trò quan trọng đến lipid máu bằng loại chất
béo, cụ thể là acid béo no và acid béo thể trans. Ảnh hưởng của các acid béo no lên
chuyển hóa cholesterol là không giống nhau. Acid stearic (18:0) và acid béo no dưới 12
nguyên tử carbon được cho là không làm tăng nồng độ cholesterol huyết thanh. Các
acid béo no Lauric C 12:0, myristic C 14:0 và palmitic C 16:0 được cho là làm tăng
cholesterol và LDL_C. Tuy nhiên 3 acid này có ảnh hưởng khác nhau lên nồng độ
cholesterol huyết thanh. Kết quả nghiên cứu thử nghiệm bằng việc kiểm soát chế độ ăn
cho thấy acid lauric ít ảnh hưởng hơn acid myristic và acid palmitic [113]. Các acid
béo chưa no có nhiều nối kép (từ 2 trở lên) có tác dụng làm hạ cholesterol còn các acid
béo chưa no có một nối kép có tác dụng làm giảm cholesterol tổng số và LDL_C [15].
Acid béo no có nguồn gốc từ mỡ động vật (thịt và các sản phẩm của thịt) cá biệt từ
một số loại thực vật như dầu dừa. Acid béo không no chứa trong đậu, lạc, vừng và các
dầu thực vật. Mỡ thực vật chứa rất ít cholesterol, nên ít gây hại cho hệ thống tim mạch.
Trong một số loài cá như cá hồi, cá thu, cá trích có chứa loại acid béo không no là acid
béo omega-3. Theo một số công trình nghiên cứu, nếu một tuần ăn 3 bữa loại cá này sẽ
giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Tóm lược các bài trình bày của những nghiên cứu gần đây nhất tại Hội nghị sinh
học thực nghiệm năm 2011 về mối liên quan giữa cholesterol khẩu phần và nguy cơ
bệnh tim mạch. Hơn 50 năm qua, rất nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy chất béo và
23
cholesterol khẩu phần có mối liên quan dương tính với bệnh tim mạch. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, có nhiều nghiên cứu dịch tễ học đã không ủng hộ cho mối
liên quan này. Hơn thế nữa, nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng cho thấy việc tiêu
thụ trứng trong thời gian dài đã không gây ảnh hưởng lên những dấu hiện khác nhau
của bệnh tim mạch. Số liệu cho thấy ảnh hưởng của khẩu phần ăn cholesterol thấp lên
mức LDL_C là rất ít so với khẩu phần khác và các thói quen sống. Cần quan tâm xem
xét phối hợp thực phẩm có lợi cho sức khỏe để đáp ứng nhu cầu cholesterol khuyến
nghị trong khẩu phần hiện nay [92].
Các nước Châu Âu, Úc, Canada, New Zealand, Hàn Quốc và Ấn Độ không đưa
ra giới hạn cao đối với cholesterol khẩu phần trong lời khuyên dinh dưỡng của họ. Mặc
dù nhiều nghiên cứu lâm sàng chỉ ra rằng sự thay đổi cholesterol khẩu phần có thể làm
tăng LDL_C huyết tương ở những người nhạy cảm với cholesterol khẩu phần (chiếm
khoảng ¼ dân số) HDL_C cũng tăng dẫn đến duy trì tỷ lệ LDL_C/HDL_C, yếu tố chỉ
điểm cho nguy cơ tim mạch. Những bằng chứng từ các nghiên cứu dịch tễ học và từ
những thử nghiệm lâm sàng sử dụng những loại cholesterol khác cho thấy những
khuyến cáo về việc giới hạn cholesterol khẩu phần nên được xem xét lại [62].
Chất xơ là phần dự trữ và thành phần tế bào poly saccharid của thực vật không
bị phân hủy bởi men tiêu hóa, bao gồm cellulose, hemicellulose, pectin và lignin, có
mặt trong các thực phẩm nguồn gốc thực vật gồm chất xơ từ rau quả và vỏ của các hạt
ngũ cốc. Cơ thể không thể tiêu hóa được chất xơ. Chất xơ phân thành 2 loại hòa tan và
không hòa tan, cả hai đều có lợi. Giảm LDL_C là một trong các lợi ích của việc khẩu
phần ăn có mặt chất xơ. Ăn cả hai loại chất xơ giúp tăng lượng chất xơ khẩu phần.
Chất xơ hòa tan trong hệ tiêu hóa giúp đào thải trực tiếp cholesterol theo phân. Tại ruột
non, chất xơ gắn kết các phân tử cholesterol thành khối do đó ngăn cản quá trình hấp
thu cholesterol vào máu và bám vào thành mạch. Chất xơ hòa tan hấp thu nước tạo
thành dạng gel làm tăng cảm giác no, điều này giúp giảm cân. Giảm cân cũng giúp
24
giảm cholesterol. Mặc dù chất xơ không hòa tan không có hiệu quả trực tiếp lên
cholesterol, nó giúp giảm cholesterol bằng cách tham gia kiểm soát cân nặng. Người
thừa cân, chất xơ không hòa tan giúp giảm cân bằng cách gây cảm giác no khi ăn khẩu
phần năng lượng thấp. Một số thực phẩm cung cấp chất xơ không hòa tan đó là: bánh
mỳ trắng, ngũ cốc, cám, lúa mạch đen, gạo, lúa mạch, cải bắp, củ cải, củ cải đường, cà
rốt, súp lơ, vỏ táo. Tiêu thụ chất xơ với lượng vừa phải rất quan trọng để giảm
cholesterol [106].
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy vai trò của chất xơ trong chế độ ăn với nguy
cơ của bệnh tim mạch và mối liên quan giữa chất xơ với chuyển hóa lipid, chuyển hóa
glucose và các giá trị sinh học khác [96,151,161].
Protein thực vật đặc biệt là protein nguồn đậu đỗ có hiệu quả giảm nguy cơ tim
mạch. Đạm động vật lại có mối quan hệ có ý nghĩa với acid béo no và cholesterol là hai
yếu tố đặc biệt gây ra tăng cholesterol máu và xơ vữa động mạch. Vitamin, chất
khoáng và vi khoáng có liên quan chặt chẽ với bệnh mạn tính. Các nhà khoa học đã tìm
thấy vai trò quan trọng của các vitamin như vitamin C, E, beta-caroten như là những
chất chống oxy hóa tự nhiên mạnh nhất giúp cơ thể con người chống lại các tác nhân
oxy hóa có hại, nguyên nhân gây ra nhiều bệnh mạn tính nguy hiểm như bệnh tim
mạch, ung thư…[17].
Hành vi ăn uống của con người vừa đa dạng vừa khó đo lường một cách chính xác.
Kết quả thu được từ những nghiên cứu thực nghiệm trên động vật không phải lúc nào
cũng giống với người. Mặt khác thời gian của một nghiên cứu thử nghiệm thường
không đủ dài để có được kết luận đúng đắn. Tuy vậy, kết quả thu được cũng giúp cho
những chỉ dẫn bổ ích cho dinh dưỡng dự phòng. Liệu pháp điều trị bằng thay đổi chế
độ ăn (Therapeutic Life Style change a Diet) đã được Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ đưa
ra những hướng dẫn cụ thể giúp nâng cao sức khỏe tim mạch [34].
- Giới hạn acid béo no ở mức dưới 7% tổng năng lượng khẩu phần.
25
- Cholesterol khẩu phần dưới 200 mg/ngày.
- Tổng chất béo không vượt quá 30% tổng số năng lượng khẩu phần
- Acid béo chưa no có nhiều nối kép trong khẩu phần đạt mức 10% và acid béo
chưa no có một nối kép đạt mức 20% năng lượng khẩu phần.
- Khẩu phần cung cấp từ 10-20g chất xơ hòa tan/ngày.
1.2.3. Ảnh hưởng của một số thói quen sinh hoạt đến chuyển hóa lipid
Luyện tập thể thao:
Theo Arixtot: “Không có gì làm tổn thương và phá hủy con người bằng sự thiếu
vận động”. Hội nghị Tim mạch Việt Nam tổ chức vào tháng 12/1997 đã kết luận:
“Bệnh tim mạch đang gia tăng ở Việt Nam, không chỉ gặp ở người già mà còn gặp ở
người trẻ tuổi. Ngoài các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến bệnh lý tim mạch như di
truyền, giới tính, hút thuốc lá, rối loạn lipid máu, dinh dưỡng không hợp lý…còn có
nguyên nhân thiếu vận động”. Nhiều kết quả nghiên cứu trên thế giới cho thấy ít vận
động thể lực thường kèm theo tăng trọng lượng cơ thể và tăng cholesterol máu. Ở
những người lao động chân tay hoặc thường xuyên rèn luyện thể lực, cơ tim có khả
năng thích ứng tốt hơn khi gắng sức, làm giảm thiểu lượng LDL_C, đồng thời tăng
HDL_C, làm tiểu cầu ít bị kết dính nên ít có khả năng đông vón máu [30]. Tập lyện rèn
sức bền có tác dụng điều hòa lượng mỡ máu như giảm lượng cholesterol, TG và làm
tăng lượng HDL_C, giảm xơ vữa động mạch, giảm nguy cơ bị nhồi máu cơ tim. Trên
cơ sở theo dõi nhiều năm đối với bệnh nhân thiểu năng mạch vành, một số nhà khoa
học (Selvester, 1997; Gogchia, 1980, Cowan, 1983, K.Cooper,1987…) đã chứng minh
rằng có thể kìm hãm sự phát triển của XVĐM ở các bệnh nhân mạch vành khi tập
luyện thường xuyên các bài tập. Các bài tập này có tác dụng hoạt hóa sự trao đổi mỡ
trong cơ thể, giảm hàm lượng LDL_C và tăng HDL_C [2]. Một số cơ chế liên quan
giữa tập luyện và tình trạng cholesterol huyết thanh đó là, tập luyện kích thích các
26
enzyme giúp vận chuyển LDL_C từ máu và thành mạch về gan. Từ đó, cholesterol
được chuyển vào trong đường mật để tiêu hóa hoặc bài tiết ra ngoài. Tập luyện làm
tăng kích thước của các hạt lipoprotein. Trong đó, một số có kích thước nhỏ và dày
đặc, một số kích thước lớn hơn. Các lipoprotein có kích thước nhỏ dày đặc nguy hiểm
hơn kích thước lớn, do nó có thể dễ dàng chui vào lớp nội mạc của tim và thành mạch
máu [49].
Tập luyện thể dục thể thao mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe, để việc luyện tập
mang lại hiệu quả phòng chống bệnh tật, đặc biệt là bệnh tim mạch, việc thiết lập một
chương trình tập luyện là điều hết sức quan trọng [2]. Hiệu quả đối với bệnh tim mạch
của một chương trình luyện tập được quy định bởi một loạt các yếu tố như: loại bài tập,
cường độ và khối lượng vận động, tần số buổi tập và phương pháp luyện tập. Theo
Fábio, tổng số năng lượng tiêu hao trong quá trình tập luyện có thể điều chỉnh quá trình
chuyển hóa lipid ở gan [59]. Ferguson và cộng sự cho thấy năng lượng tiêu hao sau
mỗi bài tập có mối liên quan với tình trạng lipid máu. Số liệu cho thấy tập luyện ở
cường độ trung bình, năng lượng tiêu hao từ 1.100-1.500 kcal, ảnh hưởng nhiều đến
nồng độ lipid máu so với tập luyện với mức tiêu hao năng lượng thấp hơn. Do vậy,
cường độ tập có thể là yếu tố quan trọng giúp điều chỉnh tình trạng lipid máu [108].
Trong phân tích có hệ thống 31 nghiên cứu thử nghiệm trên 1.833 đối tượng
bình thường và RLCHLPM nhằm xác định hiệu quả của tập luyện (aerobic và bài tập
rèn luyện sức bền), chương trình tập luyện hiệu quả nhất với thời gian, cường độ, tần
số luyện tập để tối ưu hóa tình trạng lipid máu. Kết quả cho thấy, cường độ tập của các
chương trình aerobic khác nhau có ảnh hưởng không giống nhau lên các chỉ tiêu lipid
máu, nhưng việc tập luyện thường xuyên không mang lại hiệu quả cao hơn so với thời
gian tập luyện 3 lần/tuần. Bằng chứng về hiệu quả của các bài tập rèn luyện sức bền
vẫn chưa rõ ràng [94]. Tập Aerobic được cho là làm giảm nguy cơ tim mạch thông qua
việc tăng HDL_C huyết thanh. Một phân tích khác dựa trên 25 kết quả nghiên cứu cho
27
thấy hiệu quả thay đổi HDL_C. Để tăng HDL_C, việc tập luyện tiêu hao tối thiểu 900
kcal/tuần với 120 phút/tuần. Kết quả phân tích hồi quy cho thấy trong một lần tập cứ
kéo dài mỗi 10 phút thời gian luyện tập sẽ làm tăng khoảng 1,4mg/dl (0,036mmol/l)
HDL_C. Tác giả đưa ra kết luận, tập aerobic thường xuyên làm tăng đáng kể HDL_C.
Thời gian của mỗi lần tập là yếu tố quan trọng nhất khi xây dựng chương trình luyện
tập. Tập luyện mang lại hiệu quả hơn đối với những đối tượng có BMI thấp và CT cao
[94]. Bên cạnh thời gian của mỗi lần tập, tần xuất tập thì quãng thời gian tập hay việc
duy trì tập luyện hết sức quan trọng. Một số công trình nghiên cứu cho thấy trên 60%
số người lớn bắt đầu chương trình tập luyện đã bỏ tập ngay trong tháng đầu tiên khi mà
hiệu quả rèn luyện đạt chưa đáng kể [2].
Hoạt động thể lực với cường độ thấp (đứng và đi bộ) trong thời gian dài giúp
cải thiện insulin và lipid huyết tương hơn là tập luyện với cường độ trung bình và nặng
(đạp xe), khi mà tiêu hao năng lượng có thể so sánh được. Duvivier tiến hành nghiên
cứu trên 18 đối tượng khỏe mạnh, theo 3 chương trình tập luyện: chương trình (1) ngồi
14 tiếng/ngày; (2) ngồi 13 tiếng và 1 tiếng tập nặng; (3) ngồi 6 tiếng, 4 tiếng đi bộ, 2
tiếng đứng. TG, HDL_C, CT, apolipoprotein B huyết tương cải thiện đáng kể trong
nhóm có chương trình hoạt động thể lực với cường độ nhẹ, so với nhóm ngồi. Ông cho
rằng, tăng thời gian dành cho đứng và đi bộ hiệu quả hơn một tiếng luyện tập nặng, khi
mà tiêu hao năng lượng giữ ở mức hằng định [57].
Hoạt động thể lực có mối liên quan với bệnh lý tim mạch, tuy nhiên, khối lượng
tập là bao nhiên để mang lại hiệu quả?. Nghiên cứu thử nghiệm có đối chứng trên 111
đối tượng cả nam lẫn nữ thừa cân trong thời gian 8 tháng. Các chế độ luyện tập sử
dụng trong nghiên cứu là: (1) khối lượng và cường độ cao, năng lượng tiêu hao tương
đương với chạy bộ 20 dặm (32,0 km)/tuần, 65 đến 80% oxy tiêu thụ; (2) khối lượng
thấp và cường độ cao, năng lượng tiêu hao tương đương với chạy bộ 12 dặm (19,2
km)/tuần, 65 đến 80% oxy tiêu thụ (3) khối lượng thấp và cường độ trung bình, năng
28
lượng tiêu hao tương đương với chạy bộ 12 dặm (19,2 km)/tuần, 40 đến 55% oxy tiêu
thụ. Các đối tượng được khuyến khích duy trì cân nặng như ban đầu. Kết quả cho thấy,
tập luyện mang lại hiệu quả cho các chỉ tiêu lipid máu, rõ nét nhất là chế độ tập luyện
với khối lượng cao, chế độ luyện tập này mang lại kết quả tốt hơn so với chế độ luyện
tập khối lượng thấp. Tuy nhiên cả hai chế độ luyện tập với khối lượng thấp vẫn mang
lại lợi ích đối với tình trạng lipid máu hơn so với nhóm chứng. Vậy sự cải thiện lipid
máu liên quan đến khối lượng tập luyện, không liên quan đến cường độ tập hay sự cải
thiện cân nặng trong quá trình luyện tập [79].
Hiệu quả tập luyện còn được quy định bởi mức độ RLCHLPM. Couillard và
cộng sự cho rằng việc tập luyện thường xuyên kéo dài đặc biệt có lợi cho những đối
tượng nam giới có nồng độ HDL_C ban đầu thấp, TG cao và béo bụng khi tiến hành so
sánh đáp ứng của các chỉ tiêu lipid huyết thanh với chương trình tập luyện thường
xuyên kéo dài trong 20 tuần giữa các nhóm nam giới [51].
Hút thuốc lá:
Từ năm 1940, người ta đã tìm thấy có mối liên hệ giữa hút thuốc lá và nguy cơ
bị bệnh tim mạch. Dù hút một vài điếu thuốc trong ngày cũng làm tăng nguy cơ mắc
bệnh tim mạch. Mối liên quan chặt chẽ giữa hút thuốc lá và bệnh tim mạch không chỉ
thấy ở cả hai giới, trong lớp trẻ và người già mà còn thấy ở tất cả các chủng tộc. Hút
thuốc lá không những làm tăng nguy cơ mắc bệnh mà nó còn tương tác với các yếu tố
khác làm tăng nguy cơ lên gấp nhiều lần. Theo ước tính của Law M thì cứ 1% nồng độ
lipid máu tăng sẽ đi cùng với tăng 2,7% nguy cơ bệnh tim mạch [104].
Cơ chế thuốc lá làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch vẫn chưa rõ ràng. Các nghiên
cứu về sinh lý bệnh đã đưa ra cơ chế chung mà qua đó khói thuốc có thể gây nên bệnh
tim mạch. Những người hút thuốc có tăng nồng độ các sản phẩm oxy hóa bao gồm cả
cholesterol, LDL_C oxy hóa và làm giảm nồng độ HDL_C. Những yếu tố này cùng với
29
các ảnh hưởng trực tiếp của CO2 và nicotine gây tổn thương nội mạch. Tuy nhiên bằng
chứng từ những nghiên cứu để công nhận giả thuyết này vẫn chưa đầy đủ [90].
Năm 1993, nghiên cứu tại Nhật của Nagoya J trên 726 công nhân giao thông đô
thị để tìm mối liên quan giữa nồng độ HDL_C và cholesterol toàn phần. Kết quả cho
thấy, hút huốc lá không có mối liên quan với nồng độ cholesterol >230md/dl, nhưng
khi hút từ 1-20 điếu/ngày hoặc ≥21 điếu/ngày sẽ làm tăng nguy cơ HDL_C<40mg/dl
lên 1,9 lần (95% CI: 1,1-3,26) hoặc 2,27 lần (95% CI: 1,27- 4,05) so với những người
không hút thuốc [119].
Năm 1995, Jacobson BH với mục tiêu xác định mối liên quan độc lập giữa số
lượng thuốc hút và nồng độ TC, HDL_C ở phụ nữ trong nghiên cứu với 805 đối tượng
nữ cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa về nồng độ TC giữa nhóm hút thuốc ở mức độ
nặng với tất cả các nhóm còn lại (p<0,01), nồng độ HDL_C ở nhóm hút thuốc nặng và
trung bình thấp hơn hẳn so với nhóm không hút. Jacobson đi đến kết luận hút thuốc ở
mức trung bình và nặng là nguy cơ độc lập với TC cao và HDL_C thấp, ngừng hoặc bỏ
hút thuốc ở phụ nữ có mối liên quan với các chỉ tiêu lipid máu theo chiều hướng có lợi
[85].
Năm 2002, trong một nghiên cứu thuần tập tìm hiểu ảnh hưởng của thói quen
hút thuốc lên các chỉ tiêu CT, LDL_C, HDL_C và TG. Bốn trăm chín hai đối tượng
trong độ tuổi 26-66 bị RLCHLPM đươc đưa vào nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, hút thuốc gây ảnh hưởng bất lợi đến nồng độ LDL_C, HDL_C và TG của cả nam
lẫn nữ, không phân biệt tuổi tác [139].
Năm 2006, nghiên cứu của O.A.Adedeji cho thấy nồng độ cholesterol toàn phần
trung bình của người hút thuốc cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với nồng độ
này ở những người không hút thuốc. Không tìm thấy sự khác biệt đối với các chỉ tiêu
lipid máu khác [125].
30
Năm 2012, trong một nghiên cứu tại Ấn Độ trên 100 đối tượng trong đó, 25 đối
tượng thuộc nhóm I – không hút thuốc lá và 75 đối tượng thuộc nhóm II - hút thuốc lá,
các đối tượng của nhóm II lại được phân loại theo thời gian và cường độ hút (mức nhẹ:
10-15 điếu/ngày trong từ 1 đến 5 năm; mức trung bình: 16-20 điếu/ngày trong 6-10
năm; mức nặng: trên 20 điếu/ngày trong thời gian trên 10 năm). Kết quả cho thấy,
nồng độ TC, TG, LDL_C và HDL_C trung bình ở nhóm hút thuốc ở các mức độ đều
cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê (p<0,001) so với nhóm không hút thuốc [56].
Uống bia rượu
Trong nhiều thập kỷ qua, tác động của ethanol lên quá trình tổng hợp, đào thải
và oxy hóa lipid đã được phát hiện. Gần đây nghiên cứu của Margaret Sozio cho thấy
vai trò của hệ miễn dịch tự nhiên trong gan và tác động của nó lên quá trình chuyển
hóa lipid, nghiên cứu cũng nhận ra nhiều yếu tố trong hệ tuần hoàn có thể ảnh hưởng
đến sự đáp ứng của gan đối với ethanol, đa tác động của ethanol lên gan cũng như các
bộ phận khác trong cơ thể [110].
Một số nghiên cứu dịch tễ học đã đưa ra những kết luận trái ngược về tác động
của tiêu thụ rượu lên bệnh tim mạch. Sự biến đổi giữa nguy cơ và lợi ích của rượu ở
mỗi cá nhân là không giống nhau và còn tùy thuộc vào số lần uống, lượng uống…
Các nghiên cứu thực nghiệm Đông Tây cũng nêu ra nhiều tác dụng tích cực của
rượu như kích thích khẩu vị, giảm cholesterol, ý kiến về ảnh hưởng của rượu lên các
loại chất béo vẫn chưa được hoàn toàn thống nhất. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy
bia có thể làm tăng mức HDL_C và giảm LDL_C, theo Peter Cremer của Đại học
Gottingen (Đức) rượu chỉ tốt với người có mức độ cholesterol thấp còn với những
người có mức cao >230mg/dl thì không có lợi; rượu làm giảm nguy cơ ung thư, theo
nghiên cứu của Nhật ăn thịt nướng có chất gây ung thư thuộc nhóm Has, nhưng khi
dùng chung với rượu cất bằng men chế từ cây hoa bia thì nguy cơ này giảm. Kết quả
nghiên cứu vào năm 2004 của đại học Albert Einstein - New York cho biết rằng nếu
31
uống dưới 45ml rượu mỗi ngày có thể giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Rượu có thể
mang lại tác dụng tích cực nếu được dùng vừa phải hạn chế, lạm dụng rượu bia sẽ
mang lại hậu quả tiêu cực như gây nghiện, theo American Cancer Society, người uống
trên 45ml rượu mạnh mỗi ngày có nhiều nguy cơ bị ung thư miệng, cuống
họng…Nghiên cứu tại University of Okalahoma cho thấy uống nhiều hơn 525 ml bia
mỗi ngày thì có nhiều nguy cơ bị ung thư trực tràng. Rượu làm tăng tế bào mỡ quanh
vùng bụng và tăng cholesterol máu [7].
Nghiên cứu của Van der Gaag MS năm 2001 cho thấy tiêu thụ rượu ở mức trung
bình (30g/ngày) làm tăng khoảng 4mg/dl nồng độ HDL_C và apoA-I 8,82 mg/dl, cùng
với việc làm giảm nguy cơ BTM ước tính vào khoảng 24,7% [139]. Hơn thế nữa rượu
làm giảm sự thoái hóa HDL_C, tác động lên quá trình chuyển hóa LDL_C ở gan theo
chiều hướng có lợi cho sức khỏe [150].
Số liệu điều tra của Reynolds K và cộng sự năm 2003 cho thấy, tỷ lệ đột quỵ do
xuất huyết não, nhồi máu não trên những người uống nhiều rượu cao hơn so với những
người không uống rượu [132]. Thêm vào đó, tỷ bệnh tật được cho là có liên quan đến
việc tiêu thụ rượu như đái tháo đường, cao huyết áp, bệnh tim mạch, tai biến mạch máu
não ngày càng tăng [63, 126].
Filmore và cộng sự đã mô tả ảnh hưởng của rượu đối với BTM trong phân tích
meta, những người tiêu thụ rượu ở mức độ nhẹ, trung bình và điều độ cho thấy nguy cơ
tử vong do bất cứ BTM nào là như nhau [63]. Gần đây, Chen và cộng sự cho thấy nồng
độ TG cao ở những người tiêu thụ rượu 10g/ngày. Tiêu thụ trên 50g/ngày làm giảm
đáng kể nguy cơ HDL_C giảm, nhưng nguy cơ nồng độ cholesterol toàn phần cao lại tăng lên [47] .
Ở Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lương Hạnh thì nguy cơ
RLCHLPM theo chỉ tiêu cholesterol sẽ tăng lên 1,22 lần ở những người lạm dụng rượu
bia [10]. Phạm Thị Dung khi đánh giá ảnh hưởng của lạm dụng rượu bia đối với
32
HCCH cho thấy, nam giới lạm dụng rượu bia có nguy cơ mắc HCCH cao hơn nhóm
không lạm dụng 4 lần [5].
Sự biến đổi giữa nguy cơ và lợi ích của rượu là không giống nhau đối với từng
người, việc sử dụng rượu như là một công cụ để bảo vệ tim mạch không nên khuyến
khích như là một giải pháp sức khỏe cộng đồng [53].
1.2.4. Thừa cân béo phì và chuyển hóa lipid
Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra định nghĩa thừa cân và béo phì như sau: “Thừa cân
là tình trạng cân nặng vượt quá cân nặng “nên có” so với chiều cao. Còn béo phì là tình
trạng tích lũy mỡ thái quá và không bình thường một cách cục bộ hay toàn thể tới mức
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe” [16].
Tổ chức Y tế thế giới khuyên dùng “chỉ số khối cơ thể” (Body Mass Index -
BMI) để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người trưởng thành vì nó có tính khoa học
cao, dễ áp dụng, lại đơn giản và rẻ tiền [156].
Cân nặng (kg)
BMI = --------------------- Chiều cao 2 (m)
Gần đây, cơ quan khu vực Thái Bình Dương của WHO (WPRO) và hội nghiên
cứu béo phì quốc tế đã phối hợp với Viện nghiên cứu Bệnh đái tháo đường Quốc tế
(IDI), Trung tâm hợp tác dịch tễ học đái tháo đường và các bệnh không lây của WHO
đã đưa ra khuyến nghị về chỉ tiêu phân loại béo phì cho cộng đồng các nước Châu á
(IDI & WPRO, 2000) như sau [81]:
33
Đánh giá thừa cân và béo phì của WHO (1998) và của IDI &WPRO (2000)
Phân loại WHO, 1998 IDI & WPRO, 2000
BMI (kg/m2) BMI (kg/m2)
TTDD bình thường 18,5 - 24,9 18,5 - 22,9
Thừa cân 25,0 23,0
- Tiền béo phì 25,0- 29,9 23,0 - 24,9
- Béo phì độ I 30,0 - 34,9 25,0 - 29,9
- Béo phì độ II 35,0 - 39,9 30,0
- Béo phì độ III 40,0
Thừa cân và béo phì là một trong những yếu tố thúc đẩy phát sinh các bệnh lý
như đái tháo đường, tim mạch, ung thư. Hậu quả này là do sự tăng khối mỡ và tăng
kích thước các tế bào mỡ. Khi mô mỡ gia tăng nhanh chóng và không cân đối, nó sẽ
làm thay đổi các hoạt động bình thường của mô mỡ, từ đó dẫn đến rối loạn chuyển hóa
trong cơ thể. Hiện nay, theo một số tác giả khi phần trăm mỡ cơ thể >25% đối với nam
và >30% đối với nữ được coi là ngưỡng nguy cơ đe dọa sức khỏe [16].
Sự phân bố mỡ trong cơ thể cũng được quan tâm: Có 2 dạng phân bố, mà dựa
vào đó người ta phân loại béo phì, đó là béo phì trung tâm (béo phì dạng quá táo) và
béo phì ngoại biên (béo phì dạng quả lê). Trong béo phì trung tâm, mô mỡ ứ đọng ở
quanh bụng và nội tạng, trong khi đó béo phì ngọai biên là tình trạng ứ đọng mỡ ở
vùng mông và đùi. Đối với nhóm béo bụng, người ta nhân thấy có một mối liên quan
giữa ứ đọng mỡ bụng với rối loạn chuyển hóa mỡ trong cơ thể. Người béo phì trung
tâm thường mắc bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư nhiều hơn người béo phì
ngoại biên [70].
34
Tỷ số vòng eo/vòng mông (waist-hip ratio) và vòng eo (waist circumference)
được sử dụng để đánh giá sự phân bố mỡ trong cơ thể. Khi tỷ số này vượt quá 0,9 ở
nam giới và 0,8 ở nữ giới thì các nguy cơ tăng huyết áp, bệnh tim mạch, bệnh đái tháo
đường đều tăng lên rõ rệt. Người ta còn thấy vòng eo, thường không liên quan đến
chiều cao mà có liên quan chặt chẽ với chỉ số BMI và tỷ số vòng eo/vòng mông, do đó
thường được coi như là tiêu chí đơn giản để đánh giá khối lượng mỡ bụng và toàn cơ
thể. Hiện chưa có các “ngưỡng” quy ước đối với vòng eo. Người ta thấy các nguy cơ
tăng lên khi vòng eo 94cm đối với nam, 80cm đối với nữ và tăng lên rõ khi các trị
số tương ứng là 102cm và 88cm [14].
Nghiên cứu cắt ngang của Schröder H cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa giữa
BMI và nồng độ cholesterol toàn phần đối với nam giới và mối liên quan giữa nồng độ
HDL_C và BMI ở cả hai giới [138].
Brown mô tả và đánh giá mối liên quan giữa BMI với tình trạng cao huyết và
RLCHLPM trong một cuộc tổng điều tra trên người trưởng thành ở Mỹ. Kết quả cho
thấy tỷ lệ RLCHLPM và mức cholesterol trung bình ở những người BMI>25 cao hơn
so với những đối tượng có BMI<25. Tỷ lệ có HDL_C thấp tăng và mức HDL_C trung
bình giảm khi BMI tăng. Mối liên quan giữa BMI với tình trạng cao huyết áp và
RLCHLPM có ý nghĩa thống kê. OR cao nhất ở độ tuổi 20-39 [45].
Tầm quan trọng của phân bố mỡ ở trung tâm đã được biết đến từ những năm 50:
Morris đã mô tả tỷ lệ tử vong do tim mạch tăng ở những người lái xe buýt với kích cỡ
dây an toàn lớn [117]. Nghiên cứu theo chiều dọc đầu tiên ở Thụy Điển năm 1984 cho
thấy tỷ số vòng eo/vòng mông cao có mối liên quan với đột quỵ [97].
Kết quả nghiên cứu tình trạng RLCHLPM và một số yếu tố liên quan của
Nguyễn Lương Hạnh cho thấy tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu CT và TG và BMI có mối
quan hệ đồng biến [10].
35
Nghiên cứu của Phạm Thị Dung cho thấy BMI và phần trăm mỡ cơ thể có mối
liên quan chặt chẽ với tỷ lệ mắc HCCH [5].
1.3. RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID MÁU
1.3.1.Định nghĩa rối loạn chuyển hóa lipid máu
Rối loạn chuyển hóa lipid máu (RLCHLPM) là một thuật ngữ nhằm chỉ sự biến
đổi của các thành phần lipid máu cao hoặc thấp hơn chỉ số hóa sinh bình thường. Dùng
cụm từ “rối loạn” mà không dùng là tăng, cao hoặc dư là vì thực sự có nhiều loại lipid
trong máu, mà một số loại khi tăng là “xấu” đối với cơ thể, nhưng có loại lipid có vai
trò bảo vệ, chống bệnh tật nên càng cao lại càng tốt. Do đó thuật ngữ “rối loạn chuyển
hóa lipid máu” có ý nghĩa chính xác hơn [30].
Đánh giá RLCHLPM theo WHO (2000) [157]
- Cholesterol tổng số >5,2 mmol/l (200mg/dl), hoặc
- HDL_C < 0,9 mmmol/l (35mg/dl), hoặc
- LDL_C >3,38 mmol/l (130mg/dl), hoặc
- Triglycerid huyết thanh >2,26mmol/l (90mg/dl)
1.3.2. Phân loại rối loạn chuyển hóa lipid máu
Có nhiều cách phân loại
1.3.2.1.Phân loại dựa trên nguyên nhân phát sinh bệnh [30]
o RLCHLPM nguyên phát: đó là những trường hợp rối loạn có nguyên nhân di truyền
đã được xác nhận hoặc nguyên nhân bên ngoài nào đó mà cơ chế chưa rõ.
o RLCHLPM thứ phát: đó là trường hợp rối loạn mà cơ chế bệnh sinh của nó là do
bệnh nhân mắc các bệnh RLCH, bệnh của một số cơ quan trong cơ thể như thiểu
năng tuyến giáp, bệnh lý gan, thận, đái tháo đường, đang uống thuốc tránh thai,
36
thuốc điều trị ĐTĐ, nội tiết tố nam, corticoid…hoặc do thói quen ăn uống, cách
sống.
1.3.2.2.Phân loại dựa trên kết quả xét nghiệm Lipid và LP máu
- Phân loại của Fredrickson [11]: Sự phân loại này dựa trên cơ sở phân loại của tăng
LP, gồm 5 kiểu, sau này được phát triển và bổ sung thêm bằng cách phân tách kiểu
II thành 2 kiểu IIa và IIb và bổ sung thêm kiểu mới là giảm α LP huyết (hypo
Lipoproteinaemia). Cách phân loại này cho biết sự thay đổi các thành phần lipid
máu dễ gây XVĐM, nhưng không cho biết sự thay đổi thành phần của lipid máu có
tác dụng chống XVĐM.
- Phân loại của Chương trình giáo dục Quốc gia về cholesterol của Mỹ (NCEP)
[121], xác định đầy đủ các thông số lipoprotein sau ăn 9-12 giờ. Cách phân loại này
cho biết sự thay đổi các thành phần lipid máu dễ XVĐM và có tác dụng bảo vệ
chống VXĐM đồng thời nó cũng cho biết mức độ rối loạn của các thành phần trên.
Đây là cách phân loại mới nhất.
Loại Lipid mmol/l mg/dl Phân loại
<2,6 <100 Tối ưu
2,6-3,3 100-129 Gần tối ưu
3,4-4,1 130-159 Giới hạn cao LDL_C
4,2-4,9 160-189 Cao
Rất cao 4,9 190
<5,2 <200 Mong muốn
Cholesterol toàn 5,2-6,2 200-239 Giới hạn cao phần
Cao 6,2 240
37
<1,0 <40 Thấp
HDL_C >1,6 Cao 60
<5,2 <200 Bình thường
5,2-10,2 200-399 Giới hạn cao Triglycerid 10,3-26 400-1000 Cao
>26 >1000 Rất cao
- Phân loại của De Gennes theo các thành phần của lipid [6], ông cho rằng cách phân
loại này đơn giản, dễ sử dụng, nêu lên được tất cả những trường hợp rối loạn lipid
máu vào một khung ổn định:
o Tăng cholesterol đơn thuần: CT huyết thanh tăng (>5,2mmol/l), TG bình
thường hoặc tăng nhẹ, tỷ lệ CT/TG>2,5.
o Tăng TG: CT có thể tăng nhẹ, TG rất cao, khi TG>11,5mmol/l trong máu
luôn có chylomicron.
o Tăng lipid máu hỗn hợp: CT tăng vừa phải, TG tăng nhiều hơn, tỷ lệ
CT/TG<2,5.
1.3.3. Tình hình RLCHLPM trên thế giới và ở Việt Nam
Ngày nay trên thế giới cũng như Việt Nam, số người RLCHLPM ngày càng gia
tăng. Theo số liệu của Hội tim mạch Hoa Kỳ, tính đến năm 2000 nước Mỹ có khoảng
37 triệu người và Châu Âu có 47 triệu người có RLCHLPM ở mức cần điều trị [9].
Vào những năm cuối thể kỷ XX, tỷ lệ người RLCHLPM khác nhau ở từng Quốc gia:
Pháp 15%, Malaysia 22%, Thụy Điển 26%, Nhật Bản 17,6%, Mỹ 29,6%.
Ở Việt Nam, một số nghiên cứu trong bệnh viện cho thấy mối liên quan chặt chẽ
giữa rối loạn chuyển hóa lipid máu với bệnh đái tháo đường, tình trạng tăng huyết áp,
38
bệnh tim mạch [1,4,8,22,26]. Theo Phạm Gia Khải và cộng sự khi nghiên cứu ở Hà Nội
(2001), trên 263 đối tượng cho thấy tỷ lệ tăng LDL_C là 51,27%, tăng CT 54,7%, tăng
TG 41,9% và giảm HDL_C là 40,7%, tần xuất có ít nhất một chỉ tiêu lipid máu không
nằm trong giới hạn bình thường là 78,8% [13]. Nghiên cứu của Nguyễn Huy Ngọc cho
thấy tỷ lệ RLCHLPM trên bệnh nhân tai biến mạch máu não là 70,5% và 53,2% [20].
Theo Trần Đức Thọ và cộng sự (2000-2001) tỷ lệ RLCHLPM trên bệnh nhân giảm
dung nạp glucose là 84% [25]. Nghiên cứu mô tả trên 3.438 bệnh nhân đến khám bệnh
tại khoa khám bệnh viện Bạch Mai cho thấy: Cholesterol toàn phần trong máu cao
chiếm 58,28%, Triglycerid cao 48,57% và LDL_C cao 23,87%; thấp HDL_C- C
(28,08%) [28]. Rối loạn lipid máu ở bệnh nhân tai biến mạch máu não chiếm tới 70,5%
bệnh nhân bệnh viện Trung ương Huế [23].
Ở nước ta, các nghiên cứu về tình trạng rối loạn lipid máu trên người trưởng
thành thực hiện tại cộng đồng còn khá ít. Nghiên cứu của Phạm Thắng (2003) trên
1.305 đối tượng từ 60 tuổi trở lên cho thấy tỷ lệ rối loạn lipid máu chiếm 47,5% [24].
Nghiên cứu của Viện Tim mạch Việt Nam trong cuộc điều tra về bệnh tăng huyết áp
cũng đã thu thập một số chỉ tiêu lipid máu trên các đối tượng nghiên cứu cho thấy tình
trạng rối loạn lipid máu liên quan chặt chẽ với tăng huyết áp và bệnh tim mạch [12].
Gần đây, nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng (2004) ở người trưởng thành, tuổi từ 30-59
tuổi bị thừa cân, béo phì có choleserol toàn phần máu cao là 48,9%, triglycerid máu
cao: 65,33%, LDL_C cao: 8,23%, HDL_C thấp: 7,22% [19]. Nghiên cứu của Nguyễn
Minh Tuấn năm 2004-2005 trên 2014 người trưởng thành từ 20-59 tuổi là giảng viên
trường đại học Thái Nguyên, các cán bộ ngân hàng, công nhân tại các mỏ than và nhà
máy xi măng, tỷ lệ tăng cholesterol và triglycerid đơn thuần là 36,4% và 8,8%, tỷ lệ
tăng phối hợp cả cholesterol và triglyceride là 23,9% [29]. Năm 2008, kết quả nghiên
cứu của Nguyễn Lương Hạnh trên đối tượng người trưởng thành ở nội thành Hà Nội
cho thấy, tỷ lệ RLCHLPM là 59,8%, tỷ lệ tăng cholesterol đơn thuần chiếm 47,2%,
tăng triglyceride là 38,4%, tỷ lệ tăng phối hợp cholesterol và triglycerid là 25,4%, tình
39
trạng RLCHLPM có xu hướng tăng dần theo nhóm tuổi, nam giới có tỷ lệ cao hơn so
với nữ giới [10].
1.4. HIỂU BIẾT VỀ TỎI VÀ FOLATE
1.4.1. Thành phần hóa học của tỏi
Tỏi được cả thế giới coi như là thực phẩm có lợi cho sức khỏe. Tỏi đã được viết
cách đây 500 năm trong các tài liệu của người Hy Lạp và Ấn Độ. Theo bản dịch từ
tiếng Hy Lạp, Ai Cập, Ý, Trung Quốc, tỏi được kê đơn cho đa mục tiêu trong y học
bao gồm điều trị nhiễm trùng, tăng cường thể lực, chống độc [134,135].
Tỏi không chỉ đơn giản là gia vị, thảo dược hay là loại rau củ mà là tổng hòa của
cả ba. Thuộc họ hành do vậy tỏi có đặc tính tương tự với hành, tỏi tây và rau thơm
[134].
Một amino acid chứa lưu huỳnh được phân lập từ tỏi và đặt tên là alliin (S-allyl-
L-cysteine sulfoxide). Bản thân alliin không có hoạt tính kháng khuẩn và tương đối bền.
Alliin có hàm lượng từ 5 đến 14mg trong một gam tỏi tươi. Do có nhóm amin,
carboxyl, liên kết đôi, nên alliin có khả năng phản ứng hóa học rất cao. Trong các điều
kiện phản ứng khác nhau, alliin dễ dàng bị chuyển hoá để tạo ra các sản phẩm. Một
trong những phản ứng chuyển hoá cơ bản và quan trọng nhất là sự tạo thành allicin
(Diallyl thiosulfinate) dưới tác dụng của enzym allinase [52]. Sự chuyển hoá này xảy ra
rất nhanh ở nhiệt độ phòng chỉ trong vòng 10 giây. Allinase có mặt trong tỏi với lượng
lớn khác thường đối với một enzym, gồm ít nhất 10% tổng protein tép tỏi. Các tép tỏi
chứa các lượng alliinase và alliin xấp xỉ bằng nhau (10mg/g trọng lượng tươi). Điều
này có thể giải thích rõ tại sao alliin lại chuyển thành các thiosulfinate quá nhanh khi
tỏi được ép ra [80].
Nhiều quy trình được sử dụng để sản xuất các sản phẩm tỏi dùng làm thuốc. Các
quy trình đó cố gắng giữ lại chất đặc trưng alliin bằng cách tránh sự hoạt hoá của men
40
alliinase. Có nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng để làm mất hoặc giảm hoạt
tính men alliinase như dùng các dung môi chiết xuất [ví dụ methanol/nước (4/1),
methanol/acid formic 1% trong nước (1/2)] hoặc dung dịch chứa các chất ức chế
alliinase như amino-oxy acetat...Tuy nhiên, dịch chiết này hoặc bột thu được từ dịch
chiết này không chứa alliinase, một tác nhân để phân hủy alliin thành các hợp chất có
hoạt tính. Vì vậy, chế phẩm tỏi này cần được bổ sung một lượng nhất định bột tỏi có
chứa allinase đủ để chuyển hóa được hoàn toàn alliin. Ngoài ra, người ta còn sử dụng
quy trình ngâm giầm tỏi để chuyển hoá nhanh chóng alliin thành allicin và các hợp chất
chứa lưu huỳnh, rồi tiếp tục xử lý bằng hơi nước hoặc các dung môi khác [134].
Allicin là hoạt chất mạnh nhất và quan trọng nhất của tỏi, nó không hiện diện
trong tỏi, tuy nhiên, khi được cắt mỏng hoặc đập dập và dưới sự xúc tác của men
alliinase, chất alliin có sẵn trong tỏi biến thành allicin. Do đó, càng cắt nhỏ hoặc càng
đập nát hoạt tính càng cao. Một ký tỏi có thể cho ra từ 1 - 2g allicin. Allicin dễ biến
chất sau khi được sản xuất ra. Càng để lâu, càng mất bớt hoạt tính. Đun nấu sẽ đẩy
nhanh quá trình mất chất này. Đun qua lò vi sóng sẽ phá hủy hoàn toàn chất allicin.
Allicin là một chất kháng sinh tự nhiên rất mạnh, mạnh hơn cả penicillin. Nước tỏi pha
loãng 125.000 lần vẫn có dấu hiệu ức chế nhiều loại vi trùng gram âm và gram dương
như: staphylococcus, streptococcus, samonella, V. cholerae, B. dysenteriae,
mycobacterium tuberculosis. Tỏi cũng ức chế sự phát triển của nhiều loại siêu vi như:
bại liệt, cúm và một số loại nấm gây bệnh ở da hoặc bộ phận sinh dục nữ như candida
[116].
41
Cấu trúc của Alliin
Cấu trúc của Allicin
Allicin sẽ nhanh chóng bị phân hủy, đặc biệt đưới tác động khi bị đun nóng. Khi
bị phân hủy, nó sản sinh ra nhiều diallyl sulphides khác nhau, dạng phổ biến nhất là
diallyl dishulphide:
Cấu trúc của Diallyl Disulphide
42
Mặc dù diallyl sulphides hoạt tính không mạnh bằng allicin, nhưng nó vẫn mang
lại lợi ích trong y học đặc biệt là hệ tim mạch.
Hợp chất sulfur, chiếm khoảng 1% trọng lượng của tỏi. Trong khi carbohydrat
chiếm 33% trọng lượng của tỏi, có một phần đáng kể các oligosaccharides, chất này có
thể ảnh hưởng lên hệ sinh vật và chức năng đường ruột. Tỏi có chứa một lượng trung
bình protein, đó là nguồn amino acid arginine dồi dào. Những thuộc tính chống oxy
hóa phối hợp với hợp chất carbohydrate-arginine làm cho tỏi được xem như có lợi cho
sức khỏe. Sự có mặt của một số chất như selenium và flavonoid có thể ảnh hưởng lớn
đến đáp ứng với tỏi của cơ thể [84].
Hầu hết nghiên cứu về tỏi đều tập trung đến thành phần sulfur. Sulfur đầu tiên
chứa trong thành phần của củ tỏi đó là γ-glutamyl-(S)-alk(en)yl-L-cysteines và (S)-
alk(en)yl-L-cysteine sulfoxides. Lượng (S)-alk(en)yl-L-cysteine sulfoxides thay đổi
đáng kể, từ 0,53-1,3% trọng lượng tỏi tươi. Nồng độ alliin có thể tăng trong quá trình
bảo quản do sự biến đổi γ-glutamy-lcysteines [84].
Do allicin không bền vững một cách tương đối, phân hủy thành sulfides, ajoene
và dithiins. Mùi thơm của tỏi tăng lên do allicin và chuyển hóa tan được trong dầu của
nó. Tỏi bị đun nóng được liên quan với sự biến đổi allinase và sự giảm allyl mercaptan,
methyl mercaptan và allyl methyl sulfide. Nhìn chung, phương pháp sử dụng để chế
biến tỏi ảnh hưởng đáng kể đến hợp chất sulfur đó là hợp chất chiếm ưu thế và đáp ứng
sinh học của tỏi [84].
1.4.2. Thực trạng nghiên cứu hiệu quả của tỏi đối với tình trạng RLCHLPM
Trong sách codex Ebes (1550 năm trước công nguyên), người Ai cập cổ đại đã
mô tả tỏi là một vị thuốc rất tốt cho người lao động thể lực, cho các vận động viên
tham gia Olipic. Người Trung quốc sử dụng tỏi như phương thuốc giá trị chữa bệnh
đường hô hấp và tiêu hóa, bệnh tiêu chảy và bệnh giun sán [38,44]. Những năm gần
43
đây, nhờ tiến bộ của y học hiện đại, nhiều nghiên cứu trên thế giới về vai trò của tỏi
trong phòng chống các rối loạn lipid máu và các bệnh tim mạch được công bố [32, 46].
Cơ chế tỏi và chế phẩm làm giảm lipid huyết thanh vẫn chưa được nghiên cứu
một cách đầy đủ. Một số nghiên cứu trên động vật cho thấy bổ sung tỏi trong chế độ ăn
làm giảm hoạt động của các enzyme tham gia vào quá trình tổng hợp cholesterol như
enzyme malic, fatty acid synthase, glucose-6 phosphate dehydrogenase và 3-hydroxy-
3-methyl-glutaryl-CoA (HMG-CoA) reductase [128,129]. Ghi nhận trên cơ sở nghiên
cứu thực nghiệm trên chuột cho thấy tỏi làm giảm hấp thu cholesterol ở ruột [112]. Tổng hợp cholesterol được xác định bằng việc đo sự kết hợp của [2-14C] acetate với
cholesterol [162]. Những nghiên cứu trên gan chuột, nhiều loại dịch chiết tỏi được
kiểm tra, bao gồm dịch chiết trong nước, trong methanol và trong dầu từ tỏi tươi. Tỷ lệ [2-14C] acetate kết hợp với cholesterol giảm 44% đối với dạng dịch chiết trong
methanol, 56% với dịch chiết trong dầu và 64% với dịch chiết trong nước. Như vậy,
hợp chất tỏi tan trong nước có hiệu quả ngăn cản tổng hợp cholesterol hơn so với hợp
chất tan trong dầu. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Gebhardt [69].
Kyolic chứa hợp chất tan trong nước đặc biệt là S-allylcysteine (SAC) và một lượng
nhỏ hợp chất sulfide tan trong dầu. Nồng độ SAC trong Kyolic ở mức 0,4 mmol/l giảm
87% việc tổng hợp cholesterol. Khi nồng độ này ở mức 2,0mmol/l, việc tổng hợp
cholesterol chỉ giảm khoảng 25%. Khi so với nhóm chứng, kết quả nghiên cứu cho
thấy việc ngăn cản tổng hợp cholesterol không chỉ là hydrophilic hay hydrophobic tự
nhiên, đạt hiệu quả tối đa cần phải có sự kết hợp hoạt tính của nhiều hợp chất trong tỏi.
Quá trình oxy hóa lipid, đặc biệt LDL_C tham gia vào cơ chế bệnh sinh bệnh
tim mạch, làm tăng cường các mảng xơ vữa ở thành mạch máu, kết quả làm tăng nguy
cơ bệnh tim mạch và đột quỵ. Các hoạt tính chống oxy hoá của tỏi ức chế và làm thay
đổi quá trình oxy hóa LDL_C làm giảm lượng LDL_C và sản phẩm cholesterol trong
các đại thực bào, cơ trơn và thành mạch máu, kết quả là ức chế quá trình xơ vữa động
44
mạch. Sự oxy hóa LDL_C xảy ra khi tiếp xúc với gốc tự do giải phóng bởi các tế bào
ngoại vi như tế bào cơ trơn hay monocyte/macrophages, cả hai đều có thể bị ảnh hưởng
bởi việc sử dụng tỏi [98]. Cách đây một vài năm, Munday và cs cung cấp bằng chứng hạt LDL_C bị oxy hóa bởi Cu2+ giảm xuống trên những đối tượng được uống 2-4g tỏi
triết tách hàng ngày trong 7 ngày so với những người không được sử dụng. Đáp ứng
tương tự không được quan sát thấy khi đối tượng được cung cấp 6g tỏi thô, gợi ý rằng
không phải tất cả thuốc pha chế có thể so sánh được trong việc mang lại sự thay đổi vật
lý [118]. Gần đây nhất, Ou và cs so sánh khả năng của 4 hợp chất allyl sulfur (DAS,
DADS, (s)-ethylcystein, N-acetylcysteine) trong việc biến đổi sự oxy hóa LDL_C.
Trong khi tất cả cho thấy là có hiệu quả, nhưng có sự khác nhau đáng kể trong hiệu quả
giữa chúng [126].
Bên cạnh khả năng giúp chống oxy hóa, tỏi còn có thể giúp ngăn ngừa các huyết
khối hình thành bên trong các mạch máu. Tác dụng bảo vệ tim mạch này được xem gắn
liền với một chất disulfide đặc biệt trong tỏi có tên là ajoene. Chất này có thể giúp ngăn
ngừa ngưng kết tiểu cầu, giảm nồng độ fibrinogen trong máu do đó làm giảm nguy cơ
hình thành huyết khối. Hoạt chất của tỏi có tính chất gần giống như nội tiết tố
prostaglandin PGI2 có tác dụng nở mạch nên có tác dụng hạ huyết áp [111].
Cho đến nay, các kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của tỏi lên mức cholesterol vẫn
còn nhiều mâu thuẫn, chưa thống nhất. Nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng cho
thấy hiệu quả của tỏi lên các chỉ tiêu lipid. Kết quả từ hai phân tích meta tiến hành năm
1993 [152] và 1994 [141] cho thấy tỏi giảm có ý nghĩa TC (9-12%) so với nhóm
chứng. Sau đó kết quả một nghiên cứu thử nghiệm cho kết quả trái ngược [42,137].
Một nghiên cứu meta công bố năm 2000 cho thấy tỏi làm giảm 4-6% [144]. Một phân
tích meta gần đây hơn phân tích những nghiên cứu thử nghiệm có đối chứng sử dụng
bột tỏi khô cho thấy giảm đáng kể TC (19,2mg/dl), LDL_C giảm 6,7mg/dl và TG giảm
21,1g/dl ở tuần thứ 8 đến tuần thứ 12 [33].
45
Từ những năm 90, nghiên cứu trên quy mô lớn của Mader tiến hành trên 261 đối
tượng RLCHLPM ở nhiều trung tâm với TC ban đầu 5,2-7,7 mmol/l và/ hoặc TG 2,3-
3,4 mmol/l. Đối tượng được phân bổ ngẫu nhiên, mù kép vào 2 nhóm một nhóm uống
viên tỏi 200mg, 4 lần/ngày, tổng cộng 800mg/ngày, nhóm còn lại uống viên giả dược
với số lượng tương tự trong thời gian 16 tuần. Kết quả nghiên cứu tương tự một số
nghiên cứu thử nghiệm với quy mô nhỏ trước đó. Ở nhóm được uống viên tỏi, TC giảm
đáng kể (14%) trên đối tượng có TC ban đầu ở mức 6,5-7,7 mmol/l so với những đối
tượng có mức TC ban đầu thấp hơn (7%) [109].
Năm 1993, Jain và cs báo cáo kết quả nghiên cứu tại một trung tâm về hiệu quả
của tỏi trên 42 đối tượng RLCHLPM với TC≥4,6mmol/l và TG>4,6 mmol/l. Đối tượng
được phân bổ ngẫu nhiên để uống viên tỏi, 300mg, 3 lần/ngày, tổng cộng 900mg/ngày
và số viên giả dược tương tự cho những đối tượng ở nhóm chứng trong thời gian 12
tuần. Các đối tượng được khuyên là không nên thay đổi thói quen ăn uống và hoạt
động hàng ngày. Lấy máu vào tuần thứ 6 và 12. Không có sự khác biệt ở tuần thứ 6,
nhưng sang tuần thứ 12, TC giảm đáng kể ở nhóm can thiệp. LDL_C giảm đáng kể,
HDL_C giảm không có ý nghĩa thống kê [87].
Nghiên cứu của Simons và cộng sự năm 1995 trên 30 đối tượng RLCHLPM với
nồng độ TC và TG ban đầu là 6,0-7,8mmol/l và <3,0mmol/l, được sử dụng bột tỏi
900mg/ngày chia làm 3 lần, trong 30 tuần, cùng với tư vấn chế độ ăn ít chất béo (dưới
30% năng lượng khẩu phần), acid béo bão hòa dưới 10% năng lượng khẩu phần và
cholesterol dưới 300mg/ngày, chế độ ăn này được kiểm soát trong suốt thời gian
nghiên cứu bằng ghi nhật ký và sử dụng phần mềm thống kê tính toán thành phần dinh
dưỡng trong chế độ ăn của đối tượng. Không thấy hiệu quả của tỏi lên các chỉ tiêu lipid
máu [142].
Nghiên cứu của Neil và cộng sự vào năm 1996 trong thời gian 24 tuần, mù kép,
ngẫu nhiên có đối chứng, sử dụng tỏi khô 300mg/lần x 3 lần/ngày, trên 115 đối tượng
46
với nồng độ TC ban đầu là 6,0-8,5mmol/l và LDL_C≥3,5mmol/l. Các đối tượng được
yêu cầu tiêu thụ chất béo dưới 30% năng lượng khẩu phần, acid béo bão hòa dưới 10%
năng lượng khẩu phần, cholesterol dưới 300mg/ngày và tiêu thụ 35g chất xơ/ngày. Kết
quả nghiên cứu không thấy hiệu quả của bột tỏi lên các chỉ tiêu lipid máu [122].
Sử dụng hai trung tâm, 12 tuần, mù kép, ngẫu nhiên có đối chứng, Isaacsohn và
cộng sự năm 1998 đã nghiên cứu hiệu quả của 900mg bột tỏi/ngày, trên 50 đối tượng
RLCHLPM với nồng độ LDL_C ban đầu ≥4,1mmol/l và TG<4,0mmol/l kết hợp với
hạn chế chất béo trong khẩu phần ăn. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỏi không có hiệu
quả làm giảm cholesterol trên những bệnh nhân RLCHLPM ở mức độ nhẹ [83].
Gần đây, Superko và Kraus đã đưa ra kết luận tương tự cho một nghiên cứu
trong thời gian 12 tuần, mù kép, ngẫu nhiên có đối chứng trên 50 đối tượng
RLCHLPM với 5,2mmol/l>LDL_C>3,9mmol/l. Hỏi ghi khẩu phần 3 ngày được tiến
hành ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu. Đối tượng được uống viên bột tỏi 300mg, 3
lần/ngày. Không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức lipid máu giữa hai
nhóm [147].
Berthold và cộng sự cho thấy hiệu quả giảm lipid của dầu tỏi chưng cất trong
nghiên cứu mù đơn, ngẫu nhiên, có đối chứng trên 25 đối tượng RLCHLPM ở mức
trung bình, với nồng độ TC ban đầu là 6,2-9,0mmol/l và TG>3,0mmol/l. Các đối tượng
tham gia nghiên cứu được yêu cầu giữ chế độ ăn bình thường trong suốt thời gian
nghiên cứu [42].
Ilker và cộng sự năm 2004, tiến hành nghiên cứu hiệu quả của bổ sung dịch
chiết tỏi lên lipid máu và tình trạng oxy hóa trên người tình nguyện có cholesterol máu
cao. Hai ba đối tượng tình nguyện với nồng độ CT ban đầu >5,98mmol/l tham gia
nghiên cứu, trong đó 13 người cao huyết áp còn lại huyết áp hoàn toàn bình thường.
Phân tích các thông số lipid máu, test đánh giá chức năng gan, thận, đo lường các
thông số oxy hóa máu, khả năng chống oxy hóa được tiến hành ở thời điểm T0 và T4.
47
CT, LDL_C, VLDL_C, TG thấp hơn một cách có ý nghĩa thống kê, HDL_C tăng sau
thời gian sử dụng dịch chiết tỏi. Các thông số khác, sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê. Các thông số về tình trạng chống oxy hóa ở T4 tăng so với thời điểm T0.
Huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương ở nhóm cao huyết áp thấp hơn có ý nghĩa
thống kê ở nhóm cao huyết áp, nhóm không cao huyết áp, sự thay đổi không có ý
nghĩa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, bổ sung dịch chiết tỏi giúp cải thiện lipid máu,
củng cố khả năng chống oxy hóa thông qua việc giảm mức sản phẩm oxy hóa ở máu,
điều này có nghĩa là giảm phản ứng oxy hóa trong cơ thể, giảm huyết áp [82].
Năm 2005, nghiên cứu thực nghiệm trên chuột tại trường đại học tổng hợp
Kuwait, chuột được chia làm ba nhóm, một nhóm được nuôi bằng chế độ ăn nhiều
cholesterol không có tỏi, nhóm còn lại với chế độ ăn tương tự cùng với tỏi, nhóm đối
chứng được nuôi bằng chế độ ăn bình thường. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm
chuột có chế độ ăn nhiều cholesterol không có tỏi có mức cholesterol huyết thanh cao
hơn đáng kể so với nhóm chứng và nhóm có chế độ ăn nhiều cholesterol cùng với tỏi
không những cholesterol mà cả TG và huyết áp đều thấp hơn so với nhóm có chế độ ăn
tương tự nhưng không có tỏi [42].
Năm 2009, M.Koseoglu và cộng sự tiến hành nghiên cứu hiệu quả của tỏi lên
khả năng chống oxy hóa và các chỉ tiêu lipid máu trên 17 người tình nguyện khỏe
mạnh, tuổi trung bình 35,2 ± 6,7. Các đối tượng uống viên bột tỏi hàm lượng 66mg, 4
viên/ngày, chia 2 lần. Trong quá trình nghiên cứu, các đối tượng được lấy máu 4 lần tại
các thời điểm: ban đầu, 3 giờ ngay sau khi uống 4 viên tỏi đầu tiên, ngày thứ 15 và 30
của nghiên cứu để xét nghiệm các chỉ tiêu lipid máu và chỉ tiêu thể hiện khả năng
chống oxy hóa của cơ thể. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỏi có hiệu quả lên khả năng
chống oxy hóa của cơ thể, tổng hàm lượng chất chống oxy hóa huyết thanh tăng có ý
nghĩa ở thời điểm 30 ngày so với thời điểm bắt đầu nghiên cứu, sau 3 giờ và 15 ngày
48
(p<0,05). Các chỉ tiêu lipid máu thay đổi không có ý nghĩa thống kê giữa các thời điểm
ban đầu, sau 3 giờ, sau 15 và 30 ngày sử dụng liệu pháp can thiệp [115].
Gần đây nhất, năm 2009-2010, một nghiên cứu ngẫu nhiên mù kép, có đối
chứng của Fumiko, trên 55 người khỏe mạnh có nồng độ TG huyết thanh ban đầu là
120-200mg/dl, phân bổ ngẫu nhiên vào hai nhóm, một nhóm uống dịch chiết tỏi lên
men với Monascus pilosus 4 viên/ngày tổng cộng 900mg dịch chiết tỏi lên men với
Monascus pilosus. Nhóm còn lại uống viên giả dược, sau 12 tuần. Nhóm can thiệp TG
giảm có ý nghĩa ở tuần thứ 8 so với nhóm chứng (p<0,01), TC (p<0,01), LDL_C
(p<0,001), LDL_C/HDL_C (p<0,001) giảm đáng kể trong hiệu quả tương tác giữa thời
gian và điều trị bằng dich chiết tỏi lên men. Tuy nhiên, không có sự thay đổi phần trăm
mỡ cơ thể và vòng bụng [67].
Phòng chống bệnh tim mạch bằng cách thay đổi các yếu tố nguy cơ chính, bao
gồm cholesterol huyết thanh. Các kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của tỏi lên mức
cholesterol vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, còn nhiều mâu thuẫn, thiếu
tính thống nhất. Hơn nữa, nếu thấy được hiệu quả của tỏi trên người, cần làm sáng tỏ
thêm loại chế phẩm tỏi nào mang lại hiệu quả nhất. Tiếp tục tiến hành nghiên cứu để
đưa ra những kết luận đáng tin cậy về hiệu quả của tỏi với tình trạng RLCHLPM vẫn là
một việc làm hết sức cần thiết.
1.4.3. Hiểu biết về Folate
Folate, acid folic (hay viamin B9) là một chất đồng yếu tố rất quan trọng trong
cơ thể. Từ folate và acid folic thường được sử dụng thay thế lẫn nhau, nhưng có một
điểm khác nhau quan trọng giữa folate và acid folic. Folate là dạng vitamin tự nhiên,
acid folic là dạng vitamin tổng hợp, được sử dụng trong hầu hết các thực phẩm bổ
sung. Nói folate nghĩa là muốn đề cập đến folate ở dạng tự nhiên, có trong thiên nhiên
như trong rau quả. Folate thuộc nhóm vitamin tan trong nước, hoạt tính sinh học của
folate mất đi nhanh chóng trong quá trình thu hoạch, bảo quản, chế biến hay bào chế. ½
49
thậm chí ¾ hoạt tính sinh học ban đầu của folate bị mất trong quá trình này. Do vậy
nhu cầu folate rất khó đáp ứng nếu chỉ thông qua chế độ ăn uống thông thường [73].
Theo các điều tra ở Mỹ đa số mọi người không ăn đủ folate hàng ngày. Nhiều
quốc gia khác trên thế giới cũng gặp phải tình trạng thiếu hụt folate tương tự. Theo cơ
quan sức khỏe cộng đồng Canada, mỗi năm có khoảng 260 trẻ em được sinh ra bị
khiếm khuyết ống thần kinh mà nguyên nhân chính là do người mẹ không bổ sung đủ
folate trước và trong suốt quá trình mang thai. Ngoài ra, tình trạng thiếu hụt Folate
cũng ảnh hưởng đến khoảng 3.000 phụ nữ mang thai mỗi năm ở Hoa Kỳ [105]. Ở Việt
Nam, kết quả nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng năm 2005 tại Hà Nội và Hải Dương
cho thấy 63% phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có hàm lượng Folate trong máu dưới mức
tối ưu (905 nmol/l). Vì vậy, cần bổ sung folate bằng việc phối hợp thức ăn tự nhiên và
các sản phẩm có tăng cường [105]. Trái ngược với folate, tính bền vững của dạng tổng
hợp vitamin này đó là acid folic. Hoạt tính sinh học của acid folic bổ sung vào trong
thực phẩm hoàn toàn có thể bền vững trong nhiều tháng thậm chí hàng năm.
Folate và acid folic có vai trò như nhau trong cơ thể, trừ một điểm khác biệt đó
là dạng tổng hợp (acid folic) được cơ thể hấp thu tốt hơn dạng tự nhiên. Bổ sung
60mcg acid folic tương đương với 100 mcg thức ăn chứa folate. Theo FAO/WHO nhu
cầu acid folic khuyến nghị cho người trưởng thành là 400mcg/ngày [105].
Acid folic cần thiết để giúp cho sự phân chia tế bào, với vai trò đồng yếu tố
tham gia trực tiếp vào chu trình methyl, chu trình tổng hợp các Nucleotid của AND
trong cơ thể, hình thành, tạo nên tế bào mới. Là chất bắt buộc phải có để làm cho một
tế bào có thể phát triển được, nhất là tế bào máu cho nên có thể nói là một chất tạo
máu. Trong quá trình thực hiện vai trò của mình, một lượng đáng kể folate dị hóa và
một lượng nhỏ folate bài tiết qua da, nước tiểu và dịch mật. Do vậy rất cần thiết bổ
sung folate từ khẩu phần ăn. Khi chế độ ăn không cung cấp đủ folate, hoạt động của cả
50
hai chu trình methyl hóa và AND sẽ bị giảm sút, do đó giảm sinh tổng hợp AND và
quá trình phân chia tế bào giảm dẫn đến tăng nhạy cảm đối với bệnh nhiễm trùng, giảm
đông máu.
Biểu hiện rõ ràng khi giảm hoạt động chu trình methyl hóa dẫn đến tăng
homocysteine huyết tương. Homocystein là một amino axit có chứa sulfur trong cấu
trúc phân tử, được tạo thành từ quá trình khử methyl của methionine [21,130]. Hoạt
động chu trình methyl hóa giảm dẫn đến giảm tính sẵn có của nhóm methyl mới đó là
5-methyltetrahydrofolate, cần thiết cho quá trình tái methyl của homocysteine huyết
tương. Bên cạnh acid folic, sự chuyển hoá của homocystein máu còn liên quan đến
vitamin B12 hoặc vitamin B6. Vì vậy, khi cơ thể thiếu các chất này thì homocystein máu
sẽ tăng. Theo Selhub (2003), hai phần ba các trường hợp tăng homocystein máu có liên
quan đến tình trạng thiếu ít nhất một trong các vitamin này. Việc bổ sung acid folic,
vitamin B12 và vitamin B6 có thể đưa homocystein máu về mức bình thường [21,71].
Sự tăng homocysteine huyết tương là chỉ tiêu sinh hóa mang tinh chất chỉ điểm, tương
đối nhạy đối với tình trạng thiếu hụt folate trong cơ thể. Tai biến mạch máu não là
nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 3 sau ung thư và các bệnh tim mạch. Có nhiều
yếu tố nguy cơ gây tai biến mạch máu não, ngoài các yếu tố nguy cơ kinh điển như
tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim mạch, béo phì, hút thuốc lá, yếu tố nguy cơ
vừa mới lộ diện đó là homocystein máu [105].
51
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành theo hai giai đoạn
2.1. GIAI ĐOẠN I:
2.1.1. Mục tiêu:
Xác định sự kết hợp giữa một số thói quen sinh hoạt, tình trạng thừa cân, sự
phân bố mỡ trong cơ thể với tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu ở người
trưởng thành (30-69 tuổi) sống ở nội thành Hà Nội.
2.1.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu Bệnh- Chứng
2.1.3. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng cho nhóm bệnh:
Là những người trong độ tuổi 30-69 tuổi, sống ở nội thành Hà Nội.
Tự nguyện tham gia nghiên cứu.
Kết quả xét nghiệm lipid máu tại thời điểm nghiên cứu, có một hoặc
nhiều hơn một biểu hiện như sau:
o Cholesterol tổng số >5,2 mmol/l (200mg/dl), hoặc
o HDL_C < 0,9 mmmol/l (35mg/dl), hoặc
o LDL_C >3,38 mmol/l (130mg/dl), hoặc
o Triglycerid huyết thanh >2,26mmol/l (90mg/dl)
Tại thời điểm điều tra không có thai hoặc cho con bú, không mắc các
bệnh cấp tính, không bị dị tật bẩm sinh.
52
Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng cho nhóm chứng:
Là những người trong độ tuổi 30-69 tuổi, sống ở nội thành Hà Nội.
Tự nguyện tham gia nghiên cứu.
Kết quả xét nghiệm lipid máu tại thời điểm nghiên cứu như sau:
o Cholesterol tổng số 5,2 mmol/l (200mg/dl), và
o HDL_C 0,9 mmmol/l (35mg/dl), và
o LDL_C 3,38 mmol/l (130mg/dl), và
o Triglycerid huyết thanh 2,26mmol/l (90mg/dl)
Từ trước đến nay chưa từng điều trị RLCHLPM bằng thuốc hay bất
kỳ liệu pháp điều trị nào khác.
Tại thời điểm điều tra không có thai hoặc cho con bú, không mắc các
bệnh cấp tính, không bị dị tật bẩm sinh.
2.1.4. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành ở 5 phường nội thành Hà Nội.
2.1.5. Cỡ mẫu:
Với các dữ kiện như sau:
- Tỷ lệ Bệnh/Chứng : 1/1=1
- Tỷ xuất chênh OR mong đợi: 3
- Tỷ lệ (%) phơi nhiễm trong nhóm chứng: 15%
- Lực mẫu: 95%
- Độ tin cậy: 95%
53
Cỡ mẫu được tính theo công thức:
{1/[p1(1-p1)] + 1/[p0(1-p0)]}
1-α/2________________________
n = Z2
[ln(1- ε)]2
Trong đó:
(OR)p0
p1 = ----------------------
(OR)p0 + (1-p0)
- p1: Tỷ lệ các cá thể phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ được ước lượng
cho nhóm bệnh.
- p0: Tỷ lệ các cá thể phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ được ước lượng
cho nhóm chứng.
- ε : Mức độ chính xác mong muốn (chênh lệch cho phép giữa tỷ suất
chênh (OR) thực của quần thể OR thu được từ mẫu)
Sau khi thay các giá trị để tính toán, cỡ mẫu nghiên cứu là 268 (134 cho nhóm
chứng và 134 cho nhóm bệnh), cộng thêm 10% dự phòng bỏ cuộc, ta có cỡ mẫu nghiên
cần cho nghiên cứu là:
150 đối tượng - Nhóm Bệnh:
- Nhóm Chứng: 150 đối tượng
300 đối tượng - Tổng cộng:
54
2.1.6. Chọn mẫu
Tất cả các đối tượng tham gia nghiên cứu của cả hai nhóm bệnh, chứng đều
được chọn từ quần thể nghiên cứu. Việc chọn mẫu đã được tiến hành như sau:
Theo kết quả của một số nghiên cứu trước [10], tỷ lệ RLCHLPM ở nội thành
Hà Nội vào khoảng 60%. Để có đủ cỡ mẫu cho nghiên cứu, chọn 5 phường
nội thành Hà Nội, dự kiến mỗi phường lấy khoảng 100 người trưởng thành
trong độ tuổi 30-69 tuổi để xét nghiệm 4 chỉ tiêu lipid máu. Trên thực tế, do
phối hợp cùng Công ty Công nghệ và Xét nghiệm Y học Bệnh viện
MEDLATEC, là đơn vị có rất nhiều kinh nghiệm và uy tín trong triển khai
việc khám sức khỏe định kỳ trên địa bàn Hà Nội đặc biệt là khu vực nội
thành, số đối tượng trên thực tế tự nguyện tham gia nghiên cứu mỗi phường
dao động từ 100-150 người, tổng cộng 5 phường có 686 đối tượng, căn cứ
kết quả xét nghiệm của 686 đối tượng, nhóm có RLCHLPM gồm 309 đối
tượng và 309 đối tượng này đều thỏa mãn tiêu chuẩn của nhóm bệnh. Nhóm
không có RLCHLPM gồm 377 đối tượng, trong đó có 368 đối tượng thỏa
mãn tiêu chuẩn lựa chọn nhóm chứng.
- Lập khung mẫu của những đối tượng RLCHLPM thỏa mãn các tiêu
chuẩn của nhóm Bệnh (309 đối tượng).
- Lập khung mẫu của những đối tượng không RLCHLPM thỏa mãn các
tiêu chuẩn của nhóm Chứng (368 đối tượng).
Lấy ngẫu nhiên 150 đối tượng có RLCHLPM từ khung mẫu có RLCHLPM
dựa vào bảng số ngẫu nhiên trên chương trình EPI INFO.
55
Lấy 150 đối tượng từ khung mẫu không có RLCHLPM theo nguyên tắc lấy
một đối tượng cùng nhóm tuổi, cùng phường và cùng giới với 1 đối tượng có
tình trạng RLCHLP được chọn ở trên.
2.1.7. Phương pháp, kỹ thuật thu thập các chỉ tiêu, biến số
Thu thập các chỉ tiêu nhân trắc bằng phương pháp cân đo bao gồm:
o Cân nặng:
- Sử dụng cân Seca, đảm bảo chính xác đến 0,1kg. Cân được kiểm
tra và điều chỉnh chính xác trước khi cân.
- Cân đối tượng vào buổi sáng khi chưa ăn uống gì và đã đi đại tiểu
tiện.
- Đặt cân ở vị trí ổn định trên mặt phẳng, đối tượng chỉ mặc quần áo
mỏng, không đi dép guốc, không đội mũ, cầm hoặc mang vật gì
khác. Đối tượng đứng giữa bàn cân, không cử động, mắt nhìn
thẳng, trọng lượng phân bố đều cả hai chân.
- Kết quả được ghi theo kg với một số lẻ
o Đo chiều cao:
- Dùng thước đo bằng gỗ của UNICEF
- Đối tượng đứng thẳng, bỏ giầy dép, đứng quay lưng vào thước đo
sao cho hai gót chân, mông, vai và đầu theo một đường thẳng áp
sát vào tường, mắt nhìn thẳng theo một đường thẳng nằm ngang,
hai tay buông thõng theo thân mình. Kéo cái chặn đầu của thước
từ trên xuống, khi áp sát đến đỉnh đầu nhìn vào thước đọc kết quả.
- Kết quả được ghi theo cm với một số lẻ
o Đo vòng eo
56
- Đo bằng thước dây không co dãn, đo áp sát thước vào phần mềm,
không đo chặt quá.
- Đối tượng đứng thẳng, hai chân mở từ 25-30cm
- Vị trí đo ở mức ngang rốn, tương ứng với trung điểm của bờ dưới
xương sườn cuối với bờ trên mào chậu theo đường nách giữa.
o Đo vòng mông: Đo vòng lớn nhất đi qua mông, vòng đo ở mặt phẳng
ngang
Đo tỷ lệ mỡ cơ thể: dựa trên nguyên lý đo điện trở sinh học của cơ thể. Khi hai
bàn tay của đối tượng được tiếp xúc với 4 điện cực của máy đo ở tư thế hai tay
giơ ra phía trước và vuông góc với thân người, máy sẽ tự động đo điện trở sinh
học của cơ thể. Sau khi nhập số liệu về cân nặng, chiều cao, tuổi và giới của đối
tượng vào máy, máy đo sẽ tính toán phần trăm mỡ cơ thể dựa vào những thông
số đó cùng với điện trở sinh học vừa đo được. Dụng cụ sử dụng là máy đo phần
trăm mỡ OMRON HBF 306 của Nhật, với độ chính xác 0,1%.
Phỏng vấn trực tiếp: sử dụng mẫu phiếu thiết kế sẵn cho giai đoạn 1(đã được
hoàn chỉnh sau khi thử nghiệm), để thu thập các thông tin bao gồm:
o Thông tin chung của đối tượng tham gia nghiên cứu.
o Thói quen sinh hoạt.
o Tiền sử bệnh tật.
o Kiến thức về rối loạn chuyển hóa lipid máu.
Khẩu phần ăn: Sử dụng phương pháp “hỏi ghi khẩu phần 24 giờ qua”, kết hợp
với cân đong, album các món ăn thông dụng của Viện Dinh dưỡng và một số
dụng cụ hỗ trợ khác để giúp đối tượng nhớ lại trả lời một cách chính xác nhất
57
lượng thức ăn mà đối tượng tiêu thụ trong giai đoạn 24 giờ kể từ lúc điều tra
viên bắt đầu phỏng vấn trở về trước.
Xét nghiệm sinh hóa máu:
o Lấy 5ml máu tĩnh mạch vào buổi sáng, khi đói (đối tượng nhịn đói ít nhất là
10 tiếng đồng hồ, tốt nhất là qua một đêm, nhưng không quá 16 tiếng đồng
hồ) và được nghỉ ngơi ít nhất 10 phút trước khi lấy máu.
o Các đối tượng đang sốt, hoặc sợ hãi quá đều không lấy máu.
o Cho 5ml máu vào ống nghiệm có chứa sẵn các hạt nhựa chuyên để lấy huyết
thanh. Các mẫu máu sau khi ly tâm phân tách huyết thanh, được bảo quản ở -20oC cho đến khi phân tích.
o Các phương pháp phân tích như sau [72]:
- Định lượng cholesterol toàn phần huyết thanh theo phương pháp
CHOD-PAP, so màu dùng enzyme (enzymatic colorometric),
cholesterol oxidase phenazon amino peroxidase.
- Triglyxerid huyết thanh được định lượng theo theo phương pháp
GPO-PAP, so màu dùng enzyme (glycerol phosphate oxidase
phenazon amino oxidase).
- HDL_C huyết thanh được định theo phương pháp sự kết tủa của
LDL_C,VLDL_C, chylomicron.
2.1.8. Chỉ tiêu đánh giá
Đánh giá TTDD dựa vào Chỉ số khối cơ thể (BMI) được tính theo công thức:
BMI = Cân nặng (kg)/Chiều cao2(m)
Đánh giá thừa cân của IDI &WPRO (2000): Thừa cân khi BMI 23
58
Béo bụng khi tỷ số vòng eo/vòng mông (VE/VM) vượt quá 0,9 ở nam giới
và 0,8 ở nữ giới.
Tỷ lệ mỡ cơ thể cao khi giá trị đo được >30% đối với nữ và >25% đối với
nam.
Hút thuốc thường xuyên (được quy định trong nghiên cứu): Hút thuốc hàng
ngày.
Thói quen uống rượu, bia (được quy định trong nghiên cứu này): uống ≥3
lần/tuần.
Lạm dụng rượu bia: đánh gía dựa vào số đơn vị rượu sử dụng trung
bình/ngày:
- Một đơn vị rượu tính bằng 10g etanol, tương đương 285 ml bia, 30ml
rượu nặng, 60ml rượu khai vị, 120 ml rượu vang [158].
- Lạm dụng rượu bia khi tiêu thụ trên 3 đơn vị rượu/ngày đối với nam
và 2 đơn vị rượu/ngày đối với nữ.
Mức độ hoạt động nghề nghiệp (được quy đinh trong nghiên cứu này):
- Nhẹ: Về hưu, thất nghiệp.
- Trung bình: Văn phòng, buôn bán, học sinh.
- Nặng: công nhân, nông dân, lao động phổ thông.
Thói quen luyện tập thể thao (được quy định trong nghiên cứu này).
- Thường xuyên luyện tập thể thao: 3lần/tuần, mỗi lần từ 30 phút trở
lên.
- Không thường xuyên luyện tập thể thao: <3lần/tuần, hoặc 3 lần/tuần
nhưng <30phút/lần.
59
Đánh giá kiến thức về RLCHLPM (được dùng trong nghiên cứu này):
- Có kiến thức: trả lời đúng 3/5 số câu hỏi
- Không có kiến thức: trả lời đúng <3/5 số câu hỏi
Đánh giá RLCHLPM theo WHO (2000) [157]:
- Cholesterol tổng số >5,2 mmol/l (200mg/dl), hoặc
- HDL_C < 0,9 mmmol/l (35mg/dl), hoặc
- LDL_C >3,38 mmol/l (130mg/dl), hoặc
- Triglycerid huyết thanh >2,26mmol/l (90mg/dl)
2.2. GIAI ĐOẠN II
2.2.1. Mục tiêu:
Đánh giá hiệu quả của sử dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng rối
loạn chuyển hóa lipid máu trên người 30-69 tuổi.
2.2.2. Phuơng pháp nghiên cứu đánh giá hiệu quả của viên tỏi-folate
2.2.2.1.Đối tượng
Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng vào nghiên cứu
Những đối tượng có RLCHLPM
Tự nguyện tham gia nghiên cứu
Chưa dùng thuốc hạ lipid máu bao giờ, hoặc đã ngừng dùng thuốc uống,
hoặc liệu pháp khác điều trị RLCHLPM 3 tháng.
Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng
LDL_C 4,9mmol/l (190mg/dl), Triglycerid>26mmol/l.
60
LDL_C4,2mmol/l(160mg/dl) ở đối tượng vừa kết thúc việc thực hiện
chế độ ăn bệnh lý trong thời gian từ 3 tháng trở lên. Tăng huyết áp độ II
(HATT160mmHg và/hoặc HATTr100mmHg) [165].
Hiện đang sử dụng một số loại thuốc (điều trị RLCHLPM, nội tiết tố,
corticoid, thuốc tránh thai, lợi tiểu chẹn 1 giao cảm, chẹn giao cảm)
Mắc các bệnh lý nột tiết như: suy giáp, cường giáp, suy tuyến yên, hội
chứng Cushing, đái tháo đường, hội chứng thận hư
Các đối tượng trong quá trình nghiên cứu áp dụng biện pháp điều trị
RLCHLPM khác, không tuân thủ liệu trình can thiệp, vì lý do nào đó
không có số liệu trong các lần điều tra ban đầu và điều tra kết thúc,
không lĩnh thuốc hoặc lĩnh thuốc nhưng số thuốc sử dụng dưới 85%.
2.2.2.2. Chế phẩm sử dụng trong nghiên cứu
o Hai loại chế phẩm phục vụ nghiên cứu (viên tỏi-folate và viên giả dược), có
hình dáng, kích cỡ, màu sắc giống hệt nhau, được đựng trong cùng một loại
lọ có nhãn mác như nhau, loại lọ đựng viên tỏi folate thật được bôi thêm một
vạch vàng trên nhãn mác. Chế phẩm được đóng lọ 100 viên, đủ dùng trong
25 ngày, kèm theo hướng dẫn sử dụng rõ ràng chi tiết.
o Viên nang tỏi –folate có hàm lượng bột tỏi 200mg, 0,1mg acid folic, 0,4mg
vitamin B6, 0,5mg vitamin B12 và 4mg Aerosil.
o Xây dựng công thức, quy trình sản xuất, hình thành sản phẩm, kiểm nghiệm,
phân tích đánh giá chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm của viên tỏi –folate
sau sản xuất và theo thời gian bảo quản, xây dựng hồ sơ công bố sản phẩm
về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đã được thực hiện và nghiệm thu
trong nội dung Đề tài nhánh cấp Nhà nước số KC.10.05/06-10 do Viện Dinh
dưỡng và Xí nghiệp Dược Hậu Giang phối hợp thực hiện.
61
2.2.2.3. Thiết kế nghiên cứu
Theo mô hình nghiên cứu “thử nghiệm can thiệp ngẫu nhiên có đối chứng”, áp
dụng kỹ thuật mù đơn.
2 (Zα +Z)
N = 2 x
1 - 2
2.2.2.4. Cỡ mẫu:
Trong đó:
Zα: Là phân vị chuẩn hóa ứng với hệ số tin cậy 95%, α=0,05 thì
Zα=1,96.
Zβ: Phân vị chuẩn hóa ứng với độ mạnh của nghiên cứu 1-β = 90%,
β=0,1 thì Zβ = 1,28.
δ: Là độ lệch chuẩn ước lượng dựa vào nghiên cứu trước.
μ1- μ2: Chênh lệch trung bình mong muốn về nồng độ lipid máu giữa
hai nhóm nghiên cứu sau can thiệp.
Cỡ mẫu được tính dựa theo sự khác biệt mong đợi về nồng độ LDL_C huyết thanh
giữa hai nhóm sau khi can thiệp [72].
(1,96 + 1,28) 0,46 2
N = 2 = 14 0,57
Cỡ mẫu được tính dựa theo sự khác biệt mong đợi về nồng độ cholesterol toàn phần
huyết thanh giữa hai nhóm sau khi can thiệp [72].
(1,96 + 1,28) 0,64 2 N = 2 = 54 0,4
62
Cỡ mẫu được tính dựa theo sự khác biệt mong đợi về nồng độ triglyceride huyết
thanh giữa hai nhóm sau khi can thiệp [72].
(1,96 + 1,28) 0,6 2
N = 2 = 27
0,56
Cỡ mẫu được tính dựa theo sự khác biệt mong đợi về nồng độ HDL_C huyết thanh
giữa hai nhóm sau khi can thiệp [72].
(1,96 + 1,28) 0,2 2
N = 2 = 37
0,15
Vậy cỡ mẫu chung cần thiết để đánh giá hiệu quả của viên tỏi – folate đối với tình
trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu ở giai đoạn II là 54 đối tượng/nhóm, cộng thêm
10% dự phòng bỏ cuộc. Tổng số đối tượng cho hai nhóm nghiên cứu sẽ là:
60 đối tượng/nhóm x 2 nhóm = 120 đối tượng
2.2.2.5. Chọn mẫu:
Dựa trên kết quả xét nghiệm máu của giai đoạn I, lập khung mẫu các đối tượng các
đối tượng có đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu can thiệp, đánh số ngẫu nhiên 1,2
những đối tượng mang số 1 được chọn vào nhóm can thiệp, những đối tượng mang số
2 được chọn vào nhóm đối chứng cho đến khi đủ số đối tượng cho mỗi nhóm nghiên
cứu.
2.2.2.6. Thực hiện nghiên cứu
Bước 1: Chuẩn bị đối tượng và chế phẩm sử dụng trong nghiên cứu
- Lập khung mẫu, phân bổ ngẫu nhiên đối tượng vào hai nhóm nghiên cứu.
63
- Sau khi phân bổ ngẫu nhiên các đối tượng vào hai nhóm nghiên cứu: mỗi
nhóm đối chứng và can thiệp gồm 60 đối tượng. Tổng cộng 120 đối tượng
được đưa vào nghiên cứu ở giai đoạn ban đầu (T0).
Bước 2: Thu thập số liệu tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu
- Cân nặng, chiều cao, VE,VM, % mỡ cơ thể, các chỉ tiêu lipid máu và thói
quen luyện tập thể thao: sử dụng số liệu thu thập ở giai đoạn I
- Tiến hành phỏng vấn khẩu phần ăn 24 giờ qua trong 3 ngày (2 ngày liên tục
trong tuần và một ngày cuối tuần) của tất cả các đối tượng ở cả hai nhóm
nghiên cứu.
- Đo huyết áp:
o Dụng cụ sử dụng là máy huyết áp kế thủy ngân.
o Đối tượng được nghỉ ngơi trước khi đo 5 phút. Đo HA cánh tay,
lấy HA tay trái làm chuẩn, đo ở tư thế ngồi.
o Đối tượng không hoạt động mạnh, không uống cà phê, nước chè,
uống rượu, hút thuốc lá trước khi đo, không tra thuốc nhỏ mắt,
nhỏ mũi có hoạt chất kích thích giao cảm trước khi đo, phòng đo
yên tĩnh, ấm áp.
o Đối tượng được đo 2 lần, mỗi lần cách nhau ít nhất 2 phút, kết quả
HA là trung bình cộng của 2 lần đo. Nếu kết quả huyết áp giữa hai
lần đo chệnh lệch nhau >10mmHg thì phải đo lại lần thứ 3.
Bước 3: Tiến hành liệu pháp can thiệp
- Sau khi thu thập số liệu, các đối tượng ở nhóm can thiệp gồm 60 đối tượng,
được uống viên nang tỏi –folate, 4viên/ngày, chia 2 lần/ngày, trong thời gian 12
tuần liên tục. Chế phẩm được đóng lọ 100 viên, đủ dùng trong 25 ngày, kèm
64
theo hướng dẫn sử dụng rõ ràng chi tiết. Mỗi tháng, đối tượng được phát 01 lọ, 3
lọ trong 3 tháng. Mỗi đối tượng uống 6 ngày/tuần.
- Các đối tượng ở nhóm đối chứng gồm 60 đối tượng, không dùng viên tỏi, chỉ
dùng viên giả dược trong 12 tuần liên tục. Chế phẩm được đóng lọ 100 viên, đủ
dùng trong 25 ngày, kèm theo hướng dẫn sử dụng rõ ràng chi tiết. Mỗi tháng,
đối tượng được phát 01 lọ, 3 lọ trong 3 tháng. Mỗi đối tượng uống 6 ngày/tuần.
- Do áp dụng kỹ thuật mù đơn nên các đối tượng nghiên cứu được giải thích là sử
dụng viên vi chất dinh dưỡng với những thành phần khác nhau, không có thành
phần nào có hại cho sức khỏe.
Bước 4: Thu thập số liệu tại thời điểm kết thúc nghiên cứu
Sau 12 tuần sử dụng liệu pháp can thiệp, tất cả đối tượng ở cả hai nhóm nghiên cứu
đã được:
- Lấy máu lần 2 để đánh giá sự thay đổi về các chỉ số sinh hóa lipid máu sau
can thiệp.
- Phỏng vấn khẩu phần ăn, thói quen luyện tập thể thao lần 2.
- Thu thập các chỉ tiêu cân nặng, chiều cao, VE,VM, % mỡ cơ thể, HA lần 2.
2.2.2.7. Chỉ số hiệu quả và hiệu quả của can thiệp
Chỉ số hiệu quả và hiệu quả của can thiệp theo các chỉ tiêu lipid máu:
Chỉ số hiệu quả (CSHQ): H (%) = (B-A)/B x 100
(Trong đó: B là tỷ lệ RLCHLPM theo các chỉ tiêu lipid máu trước can thiệp;
A là tỷ lệ RLCHLPM theo các chỉ tiêu lipid máu sau can thiệp)
H1: Chỉ số hiệu quả của nhóm can thiệp H2: Chỉ số hiệu quả của nhóm chứng
Hiệu quả can thiệp (HQCT) = H1-H2
65
Đối tượng RLCHLPM
SƠ ĐỒ NGHIÊN CỨU
Thu thập số liệu:
Nhóm can thiệp (60 đối tượng)
Nhóm đối chứng (60 đối tượng)
Phân bổ ngẫu nhiên
- TT chung - Nhân trắc - KP, LTTT - HA - CT, TG, LDL_C, HDL_C
Nhóm đối chứng:
Nhóm can thiệp
- Uống viên tỏi-
T0
- Uống viên placebo 4v/ngày x 3 tháng
folate (200mg tỏi, 100mcg acid folic/v) 4v/ngày x 3 tháng
Thu thập số liệu:
Can thiÖp (3 tháng)
Nhóm can thiệp (55 đối tượng)
Nhóm đối chứng (56 đối tượng)
- Nhân trắc - KP, LTTT - HA - CT, TG, LDL_C, HDL_C
T3
So sánh
Hiệu quả
Hiệu quả của nhóm đối chứng
của nhóm can thiệp
Đánh giá kết quả
66
Công tác giám sát:
Giám sát việc sử dụng thuốc: hàng tuần nghiên cứu viên gửi và thu phiếu theo dõi,
ghi chép lại tình hình sức khỏe chung, tác dụng phụ, số viên thuốc sử dụng (theo mẫu
phiếu định sẵn). Nghiên cứu viên cũng gặp ngẫu nhiên và phỏng vấn trực tiếp việc sử
dụng thuốc của một số đối tượng.
2.2.3. Phân tích số liệu:
Chỉ những số liệu thu thập được từ những đối tượng sử dụng 85% số viên thuốc
được phát trở lên (tương đương 255 viên) và có đầy đủ số liệu tại hai thời điểm trước
và sau can thiệp mới được đưa vào tính toán đánh giá hiệu quả của can thiệp.
Số liệu thu thập bằng phương pháp “Hỏi ghi khẩu phần 24 giờ qua”, được làm sạch,
quy đổi, phân tích thành phần các chất dinh dưỡng bằng việc sử dụng “Bảng thành
phần thức ăn Việt Nam 2007”.
Toàn bộ số liệu được nạp vào phần mềm EPI data, sau đó số liệu được chuyển sang
SPSS 10.0 để xử lý. Số liệu nhân trắc được kiểm định phân bố chuẩn qua phần kiểm
định chạy trên phần mềm SPSS. Các phép tính trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn sẽ
được thực hiện. Các Test thống kê: t test, t ghép cặp được dùng để so sánh 2 biến liên
tục có phân bố chuẩn, của 2 nhóm trước và sau can thiệp. Mann-Whiney test và
Wilconxon Test được sử dụng để so sánh hai biến số liên tục không phân bố chuẩn của
hai nhóm hoặc một nhóm ở thời điểm trước và sau can thiệp. Test khi bình phương
hoặc Mc-Nemar test dùng để so sánh hai tỷ lệ của hai nhóm hoặc một nhóm vào các
thời điểm trước và sau can thiệp.
2.3. §¹O §øC NGHI£N CøU
Nghiên cứu tiến hành sau khi được Hội đồng khoa học và Hội đồng Y đức của Viện
Dinh dưỡng thông qua. Các đối tượng đều được thông báo và giải thích về mục đích và
những nội dung sẽ tiến hành trong nghiên cứu. Những đối tượng không đồng ý tham
67
gia nghiên cứu đều được chấp nhận. Đối tượng chấp nhận tham gia nghiên cứu được
mời ký vào bản cam kết.
Các số liệu về sức khỏe riêng của đối tượng được giữ bí mật. Khi công bố kết
quả về khoa học cũng không nêu tên cụ thể từng đối tượng.
Toàn bộ mẫu máu được thu thập và xét nghiệm bởi đội ngũ kỹ thuật viên và xét
nghiệm viên có trình độ chuyên môn sâu, giàu kinh nghiệm của Công ty Công nghệ và
Xét nghiệm Y học Bệnh viện MEDLATEC, cùng hệ thống máy móc trang thiết bị xét
nghiệm được công nhận đáp ứng yêu cầu về quy trình kỹ thuật và quản lý chất lượng
xét nghiệm y học ngoại kiểm hàng năm.
Trong thời gian tiến hành can thiệp, các đối tượng ở nhóm đối chứng đều được
theo dõi liên tục để phát hiện các thay đổi bất thường. Khi kết thúc nghiên cứu, toàn bộ
đối tượng của nhóm chứng được phát một cơ số viên tỏi-folate tương tự nhóm can
thiệp.
2.4. KHã KH¡N, H¹N CHÕ Vµ C¸CH KH¾C PHôC
Do nhóm chứng trong giai đoạn I được chọn từ quần thể, do đó đòi hỏi chi phí tốn
kém hơn và mất nhiều thời gian hơn, khó tiếp cận hơn. Rất dễ gặp phải sai số chọn,
xảy ra trường hợp những đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu có thể khác với
những người không tham gia nghiên cứu về mức độ phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ
của RLCHLPM. Để khắc phục khó khăn này, nhóm nghiên cứu đã cố gắng tìm
kiếm kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau, chú trọng công tác vận động đối tượng
tham gia nghiên cứu thông qua mạng lưới cộng tác viên ở địa bàn nghiên cứu.
Việc thu thập các thông tin như thói quen ăn uống, khẩu phần ăn, luyện tập thể
thao, thói quen sinh hoạt dùng trong nghiên cứu bằng hình thức phỏng vấn trực tiếp
đối tượng nghiên cứu, khó tránh khỏi sai số nhớ lại. Để khắc phục hạn chế này,
nhóm nghiên cứu đã chọn lựa, cử những cán bộ có kinh nghiệm, được tập huấn kỹ
68
năng khai thác thông tin, thử nghiệm, bàn bạc, chỉnh sửa bộ câu hỏi theo đúng trình
tự, áp dụng phương pháp hỏi ghi khẩu phần 24 giờ qua trong 3 ngày để hạn chế tối
đa sai số. Các chỉ số như HA hay dao động, đo nhiều lần để lấy giá trị trung bình.
Hiệu quả của can thiệp hoàn toàn phụ thuộc vào việc tuân thủ can thiệp của đối
tượng nghiên cứu. Do vậy, trong suốt quá trình nghiên cứu ngay từ khâu lên kế
hoạch triển khai rồi tổ chức triển khai can thiệp, luôn được nhóm nghiên cứu viên
giàu kinh nghiệm xem xét cân nhắc kỹ càng từng chi tiết, sao cho đạt hiệu quả nhất.
Công tác huấn luyện các cộng tác viên tham gia vào nghiên cứu cũng như công tác
giám sát trong suốt thời gian tiến hành nghiên cứu đã luôn được chú trọng.
69
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ
3.1. Sự kết hợp giữa một số yếu tố nguy cơ và tình trạng RLCHLPM
3.1.1 Đặc điểm hai nhóm nghiên cứu
Bảng 3.1: Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
( p, 2test)
Đặc điểm Nhóm bệnh Nhóm chứng Mức YN
(n=150 (n=150)
n % n %
Nhóm tuổi (năm) 30-39 15 10,0 15 10,0
40-49 35 23,3 35 23,3 >0,05
50-59 50 33,3 50 33,3
60-69 50 33,3 50 33,3
Giới Nam 49 32,7 49 32,7
Nữ 101 67,3 101 67,3 >0,05
Mức độ Nhẹ 93 62,0 87 58,0
43 28,7 57 hoạt động Trung bình 38,0 >0,05
nghề nghiệp Nặng 14 9,3 6 4,0
Trình độ học vấn Cấp 1 9 6,0 6 4,0
Cấp 2 47 31,3 25 16,7 <0,01
Cấp 3 65 43,3 71 47,3
TC/CĐ/ĐH 29 19,3 48 32,0
Bảng 3.1 cho thấy có sự tương đồng về tuổi, giới tính và nghề nghiệp giữa hai
nhóm. Trong từng nhóm số lượng nữ giới nhiều gấp đôi nam giới.
70
Bảng 3.1 còn cho thấy sự khác biệt về trình độ học vấn giữa nhóm chứng và
nhóm bệnh với p<0,01; trong đó số đối tượng có học vấn cao (trung cấp/cao đẳng/đại
học) ở nhóm chứng (32%) cao hơn so với nhóm bệnh (19,3%), ngược lại số đối tượng
tốt nghiệp cấp 2 ở nhóm bệnh (31,3%) cao hơn nhóm chứng (16,7%).
3.1.2. Rối loạn chuyển hóa lipid máu và một số yếu tố nguy cơ
Bảng 3.2: Mối nguy cơ của thừa cân, béo bụng, % mỡ cơ thể và RLCHLPM
Nhóm bệnh Nhóm chứng OR p
n (%) n (%) (CI.95%) (χ 2test)
Tình trạng thừa cân: Có 89 (59,3) 65 ( 43,3) 1,9(1,2-3,0) <0,01
Không 61 (40,7) 85 (56,7) -
Tình trạng béo bụng Có 98 (65,3) 34 (22,7) 6,4(3,9-10,7) <0,001
Không 52 (34,7) 116 (77,3) -
% mỡ cơ thể cao Có 85 (56,7 ) 51 (34,0) 2,5(1,6-4,1) <0,001
Không 65 (43,3) 99 (66,0 ) -
Bảng 3.2 cho thấy thừa cân, béo bụng, % mỡ cơ thể cao, là những yếu tố nguy
cơ liên quan với tình trạng RLCHLPM. Khi bị thừa cân, nguy cơ mắc RLCHLPM sẽ
tăng lên 1,9 lần (p<0,01), nguy cơ này tăng 6,4 lần (p<0,001) khi bị béo bụng và tăng
2,5 lần (p<0,001) khi có % mỡ cơ thể cao.
71
Bảng 3.3: Sự kết hợp giữa một số thói quen sinh hoạt và RLCHLPM
Nhóm bệnh Nhóm chứng OR p
( χ 2 test)
(CI.95%)
n (%) n (%)
Thói quen hút thuốc
- Hút thường xuyên 17 (11,3) 11 (7,3) 1,6 (0,7-3,6) >0,05
<20điếu 2 (1,3) 6 (4,0) 0,4(0,7-1,8) >0,05
≥20 điếu 15 (10,0) 5 (3,3) 3,1 (1,2-8,9) <0,05
- Hút không thường xuyên 14 (9,3) 15 (10,0) 1 (0,5-2,1) >0,05
- Không hút 119 (79,3) 124 (82,7) -
Thói quen uống rượu bia
- Lạm dụng 3 (2,0) 4 (2,7) 0,7 (0,2-3,5) >0,05
- Uống >3 lần/tuần
<1 đơn vị/ngày 10 (6,8) 16 (10,6) 0,6 (0,3-1,5) >0,05
11 (7,4) 10 (6,7) 1,1 (0,4-2,8) >0,05 1đơn vị /ngày
81 (54,7) 78 (52,0) 1,0 (0,6-1,7) >0,05 - Uống <3 lần/tuần
43 (29,1) 42 (28,0) - - Không uống
Thói quen luyện tập thể thao
- Không tập 45 (30,2) 38 (25,3) 1,3(0,8-2,2) >0,05
- Không thường xuyên 38 (25,5) 40 (26,7) 1(0,6-1,8) >0,05
- Thường xuyên 66 (44,3) 72 (48,0) -
72
Kết quả bảng 3.3 cho thấy việc hút thuốc lá thường xuyên trên 20 điếu/ngày sẽ
làm tăng nguy cơ RLCHLPM lên gấp 3,1 lần(p<0,05).
Bảng 3.4: Sự kết hợp giữa khẩu phần ăn và RLCHLPM
Nhóm bệnh Nhóm chứng OR p
n (%) n (%) (KTC_95%) (χ2 test)
Năng lượng từ lipid
≥ 20% 13 (8,7) 24 (16,0) 0,5(0,2-1,0) >0,05
Choleterol khẩu phần
< 20% 137 (91,3) 126 (84,0) -
≥ 200mg 15 (10,0) 14 (9,3) 1,1(0,5-2,3) >0,05
<200mg 135 (90,0) 136 (90,7) -
SFA
≥ 7% 35 (23,3) 15 (10,0) 2,7(1,4-5,3) <0,01
< 7% 115 (76,7) 135 (91,0) -
MUFA
<10% 146 (97,3) 143 (95,3) 1,8(0,5-6,2) >0,05
≥ 10% 4 (2,7) 7 (4,7) -
PUFA
< 10% 147 (98,0) 143 (95,2) 2,4(0,6-9,5) >0,05
≥ 10% 3 (2,0) 7 (4,7) -
Chất xơ
<20g 136 (80,3) 23 (82,0) 2,1(1,1-4,3) <0,05
≥ 20g 14 (9,3) 27(18,0) -
73
Bảng 3.4 cho thấy không có mối liên hệ giữa phần trăm năng lượng từ lipid
khẩu phần, hàm lượng cholesterol cũng như phần trăm năng lượng từ acid béo chưa no
một nối đơn (MUFA) và acid béo chưa no nhiều nối đôi trong khẩu phần với tình trạng
RLCHLPM. Nhưng khi phần trăm năng lượng từ acid béo no (SFA) khẩu phần ở mức
từ 7% trở lên thì nguy cơ mắc RLCHLPM tăng lên gấp 2,7 lần (p<0,01). Khẩu phần ăn
ít chất xơ (dưới 20g/ngày) làm tăng nguy cơ mắc RLCHLPM lên gấp 2,1 lần (p<0,05).
Bảng 3.5: Rối loạn chuyển hóa lipid máu và một số yếu tố nguy cơ khác
Nhóm bệnh Nhóm chứng OR p
n (%) n (%) (KTC_95%) (χ2 test)
Tiền sử gia đình
Có 37 (24,7) 21 (14,0) 2(1,1-3,6) <0,05
113 (75,3) 129 (86,0) - Không
Kiến thức RLCHLPM
Không đạt 90 (60,0) 94 (63,5) 0,9(0,6-1,4) >0,05
60 (40,0) 56 (36,5) - Đạt
Tình trạng mãn kinh
Mãn kinh 81 (81,0) 51 (50,5) 4,0(2,1-7,4) <0,001
20 (19,0) 50 (49,5) - Chưa mãn kinh
Tuy không thấy sự kết hợp giữa kiến thức và RLCHLPM, nhưng kết quả bảng
3.5 cho thấy, tiền sử gia đình và tình trạng mãn kinh ở phụ nữ làm tăng nguy cơ mắc
RLCHLPM lên gấp 2 và gấp 4 lần so với người không có yếu tố gia đình và so với
những phụ nữ chưa mãn kinh.
74
3.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng RLCHLPM.
3.2.1. Đặc điểm hai nhóm nghiên cứu trước khi can thiệp
Bảng 3.6: Các chỉ số nhân trắc và huyết áp khi bắt đầu nghiên cứu
Chỉ tiêu Đối chứng Can thiệp p
(n=56) (n=55) ( t test)
Tuổi (năm) 49,7±7,9 50,1±8,1 >0,05
Chiều cao (cm) 157,2±5,8 157,1±6,5 >0,05
Cân nặng (kg) 58,6±7,1 58,4±8,3 >0,05
BMI 23,8±1,9 23,6±2,3 >0,05
Tỷ lệ mỡ (%) 30,08±4,02 29,83±5,21 >0,05
Tỷ số vòng eo/mông 0,87±0,04 0,88±0,04 >0,05
HA-Tâm thu (mmHg) 120,1±15,4 121,4±15,8 >0,05
HA- Tâm trương (mmHg) 78,3±9,5 78,1±10,0 >0,05
Tuổi trung bình của nhóm chứng và nhóm can thiệp là 49,7 và 50,1 tuổi, không
có sự khác biệt về tuổi giữa hai nhóm nghiên cứu (p>0,05). Cân nặng, chiều cao trung
bình của hai nhóm nghiên cứu là tương đương nhau (p>0,05). Chỉ số khối cơ thể, tỷ lệ
phần trăm mỡ cơ thể, tỷ số vòng eo/vòng mông giữa hai nhóm khác nhau không có ý
nghĩa thống kê (p>0,05). Huyết áp tâm thu và tâm trương của các đối tượng ở hai
nhóm tại thời điểm trước khi bổ sung viên tỏi - folate sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
75
Bảng 3.7: Các chỉ số lipid máu (mmol/l) khi bắt đầu nghiên cứu
Chỉ tiêu Đối chứng Can thiệp p
(n=56) (n=55) ( t test)
Triglycerid 2,82±1,97 2,73±1,97 >0,05
Cholesterol_TP 5,75±0,71 5,79±0,82 >0,05
LDL_C 4,07±0,51 4,03±0,51 >0,05
HDL_C 1,22±0,26 1,22±0,27 >0,05
Kết quả phân tích cho thấy nồng độ triglyceride trung bình huyết thanh của các
đối tượng nghiên cứu là 2,82 và 2,73 mmol/l, không có sự khác biệt giữa hai nhóm
nghiên cứu (p>0,05). Tương tự đối với chỉ tiêu cholesterol toàn phần (p>0,05). Bảng
3.7 còn chỉ ra sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê về nồng độ LDL_C và HDL_C
trung bình giữa hai nhóm tại thời điểm ban đầu.
Hình 3.1: Tỷ lệ RLCHLPM theo các chỉ tiêu lipid máu ở thời điểm trước can thiệp
76
Tỷ lệ RLCHLPM chung tại thời điểm ban đầu của các đối tượng tham gia
nghiên cứu lần lượt theo các chỉ tiêu trglycerid, cholesterol toàn phần, LDL_C và
HDL_C là 54,8%; 80%, 88,3% và 7,8%. Không có sự khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu (χ 2 test, p>0,05).
Bảng 3.8: Mức tiêu thụ lượng thực thực phẩm ở hai nhóm nghiên cứu tại T0
Trung vị (g/người/ngày) Tên lương thực thực phẩm
Đối chứng Can thiệp
(n=56) (n=55)
Gạo 219 210 NS
Lương thực khác 69 60 NS
Đậu đỗ 5,5 6,0 NS
Đậu phụ 37 31 NS
Rau các loại 304 257 NS
Quả 153 148 NS
Đường 13 16 NS
Dầu/mỡ 8,5 7,8 NS
Thịt các loại 111 115 NS
Trứng/sữa 77 75 NS
(NS): p>0,05, so với nhóm chứng, Mann-Whiney Test
Cá, thủy sản 62 57 NS
77
Gạo là lương thực chính của các đối tượng nghiên cứu. Mức tiêu thụ lương thực
thực phẩm ở cả hai nhóm tương đối đồng đều, nhóm chứng tiêu thụ gạo, lương thực
khác, rau, quả, dầu mỡ, trứng sữa, cá thủy sản nhiều hơn nhóm can thiệp và ngược lại,
mức tiêu thụ đậu đỗ, đường và thịt ở nhóm can thiệp lại cao hơn so với nhóm chứng,
nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Bảng 3.9: Đặc điểm cân đối của khẩu phần ở hai nhóm nghiên cứu tại T0
Đối chứng Can thiệp
(n=56) (n=55)
Tổng số năng lượng (Kcal) 1609(1301-1755) 1569 (1247-1761)NS
Tỷ số Ca/P 0,45(0,39-0,46) 0,43( 0,36-0,46) NS
Fe (mg) 6,5(5,7-8,4) 7,1(6,0-8,7) NS
Vit. B1(mg)/1000kcal 0,63(0,61-0,65) 0,63(0,61-0,67) NS
Lipids ĐV/Lipid tổng số (%) 60(57-64) 57(46-63) NS
Năng lượng do Protid (%) 15(13-16) 13(12-15) NS
Năng lượng do Lipids(%) 13(11-15) 14(11-16) NS
(NS): p>0,05, so với nhóm chứng, Mann-Whiney Test
Năng lượng do Glucid(%) 72(70-74) 73(71-74) NS
Năng lượng khẩu phần của các đối tượng tham gia nghiên cứu đạt 60-70% nhu
cầu khuyến nghị, sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Tỷ
lệ các chất sinh nhiệt của các đối tượng ở nhóm can thiệp là 13:14:73, tương đương với
tỷ lệ 15:13:72 ở nhóm chứng. Hàm lượng sắt, vitamin B1 trong khẩu phần là tương
đương nhau ở cả hai nhóm (p>0,05).
78
Bảng 3.10: Thói quen luyện tập thể thao ở hai nhóm nghiên cứu tại T0
Thói quen luyện tập thể thao Đối chứng Can thiệp p
n (%) n (%) ( χ 2 test)
- Không tập 21 (37,5) 14 (25,5) >0,05
- Không thường xuyên 9 (16,1) 16 (29,1) >0,05
- Thường xuyên 26 (46,4) 25 (45,4) >0,05
Kết quả bảng 3.10 cho thấy, tại thời điểm khi bắt đầu nghiên cứu không có sự
khác biệt về thói quen luyện tập thể thao giữa hai nhóm nghiên cứu (p>0,05).
3.2.2 . Sự chấp nhận can thiệp của các đối tượng nghiên cứu
Tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu: 120 đối tượng được chọn, 60 đối tượng cho
mỗi nhóm can thiệp và đối chứng.
Bảng 3.11 Tình trạng vệ sinh an toàn của viên tỏi – folate dùng trong nghiên cứu
Ngay sau
3 tháng sau
Kết quả Tiêu chuẩn cho
xuất xưởng
xuất xưởng
104khuẩn lạc/1g sản phẩm
Tổng số vi sinh vật hiếu khí TCVN 4886-89
Chỉ tiêu Phương pháp phép
10 vi khuẩn/1g sản phẩm
50 60
3 vi khuẩn/1g sản phẩm
Coliforms TCVN 4883-1993 0 0
10 vi khuẩn/1g sản phẩm
E.coli TCVN 5155-1990 0 0
10 vi khuẩn/1g sản phẩm
S.aureus TCVN 4830-1989 0 0
0 vi khuẩn/1g sản phẩm
Cl.perfringens TCVN 4991-1989 0 0
10 vi khuẩn/1g sản phẩm
Salmonella TCVN 4829-2001 0 0
B.cereus ISO 21871-2006 0 0
79
Tiêu chuẩn cho Kết quả
6 tháng sau
9 tháng sau
xuất xưởng
xuất xưởng
104khuẩn lạc/1g sản phẩm
Tổng số vi sinh vật hiếu khí TCVN 4886-89
phép Chỉ tiêu Phương pháp
10 vi khuẩn/1g sản phẩm
90 1x102
3 vi khuẩn/1g sản phẩm
Coliforms TCVN 4883-1993 0 0
10 vi khuẩn/1g sản phẩm
E.coli TCVN 5155-1990 0 0
10 vi khuẩn/1g sản phẩm
S.aureus TCVN 4830-1989 0 0
0 vi khuẩn/1g sản phẩm
Cl.perfringens TCVN 4991-1989 0 0
10 vi khuẩn/1g sản phẩm
Salmonella TCVN 4829-2001 0 0
B.cereus ISO 21871-2006 0 0
Bảng 3.11 cho thấy viên tỏi - folate dùng trong nghiên cứu đạt tiêu chuẩn an
toàn vệ sinh cho phép tại thời điểm ngay sau khi xuất xưởng. Sau 3, 6 và 9 tháng bảo quản tuy tổng số vi sinh vật hiếu khí tăng từ 60 lên 102 khuẩn lạc/1g sản phẩm nhưng
vẫn nằm trong giới hạn an toàn.
80
Bảng 3.12: Các biểu hiện của đối tượng ở nhóm can thiệp trong thời gian nghiên cứu
Nhóm can thiệp
(n=55) Biểu hiện
n %
Hơi thở, cơ thể có mùi tỏi 23 41,8
Ợ hơi, nóng bụng, đầy bụng 6 10,9
Buồn nôn, nôn 1 1,8
Đau bụng 0 0
Đi ngoài phân lỏng 0 0
Nổi ban 0 0
Khác 0 0
Không có biểu hiện 32 58,2
4 7,3 Uống <85% số thuốc
Hơi thở, cơ thể có mùi tỏi là biểu hiện hay gặp nhất chiếm tới 41,8% khi sử
dụng liệu pháp can thiệp, ít gặp hơn là các biểu hiện ở dạ dày như ợ hơi, nóng bụng,
đầy bụng chiếm 10,9%. Buồn nôn, nôn hiếm gặp, chỉ xuất hiện ở 1 đối tượng. Các biểu
hiện rối loạn tiêu hóa khác và dị ứng không thấy xuất hiện trong thời gian nghiên cứu.
Phần đông đối tượng tham gia nghiên cứu (58,2%) không gặp bất kỳ biểu hiện bất
thường nào trong thời gian 3 tháng sử dụng viên tỏi- folate.
81
Bảng 3.13: Số đối tượng bỏ cuộc
Lý do bỏ cuộc Nhóm đối chứng Nhóm can thiệp Tổng
4 Xét nghiệm dưới 2 lần 1 5
Số thuốc sử dụng dưới 85% 4 4
Tổng 4 5 9
Kết thúc nghiên cứu, 56 đối tượng ở nhóm chứng và 55 đối tượng ở nhóm can
thiệp đủ điều kiện đưa vào tính toán thống kê hiệu quả của can thiệp đó là những đối
tượng có đầy đủ kết quả của hai lần xét nghiệm tại thời điểm T0 và T3 và số thuốc sử
dụng từ 85% trở lên (tương đương 255 viên). Số đối tượng bị loại khỏi nghiên cứu,
không đưa vào tính toán thống kê gồm 9 đối tượng trong đó 5 đối tượng ở nhóm can
thiệp và 4 đối tượng ở nhóm chứng.
3.2.3. Sự thay đổi các chỉ tiêu nhân trắc
Bảng 3.14 : Thay đổi các chỉ số nhân trắc và huyết áp ở hai nhóm nghiên cứu
Đối chứng (n=56) Can thiệp (n=55) p ( t test)
Tăng cân (kg) 0,25±0,15NS 0,24±0,15 NS >0,05
BMI 0,01±0,45 NS 0,08±0,45 NS >0,05
Tăng % mỡ 0,15±0,14 NS 0,37±0,16 NS >0,05
Vòng eo (cm) 0,09±0,22 NS -0,20±0,26 NS >0,05
Vòng mông (cm) 0,18±0,13 NS 0,026±0,13 NS >0,05
Tỷ số eo/mông 0,001±0,015 NS 0,003±0,001 NS >0,05
HA-Tâm thu (mmHg) -1,54±1,09 NS 0,29±0,95 NS >0,05
(NS) p>0,05: so sánh giữa T0 và T3, cùng nhóm ( t ghép cặp)
HA_Tâm trương (mmHg) -0,45±0,82 NS -1,36±0,92 NS >0,05
82
Bảng 3.14 cho thấy hiệu số trung bình (giá trị khi kết thúc (T3) - giá trị khi bắt
đầu can thiệp (T0)) của các chỉ số nhân trắc, huyết áp trên các đối tượng nghiên cứu.
So với thời điểm trước khi tiến hành nghiên cứu, tại thời điểm kết thúc nghiên
cứu, các chỉ số cân nặng, BMI, % mỡ cơ thể, vòng mông và tỷ số vòng eo/vòng mông
của các đối tượng ở từng nhóm nghiên cứu đều có xu hướng gia tăng, nhưng sự tăng
này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Sau 3 tháng nghiên cứu, vòng eo và huyết áp tâm trương của các đối tượng ở
nhóm can thiệp giảm nhiều hơn so với nhóm chứng (-0,2cm; 0,09cm và -0,45mmHg;
-1,36mmHg), nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05). Cũng tại thời điểm T3,
khi đem so sánh sự thay đổi của các chỉ tiêu nhân trắc khác và huyết áp tâm thu giữa
nhóm can thiệp và nhóm chứng, không tìm thấy sự khác biệt (p>0,05).
3.2.4. Sự thay đổi các chỉ tiêu lipid máu
Bảng 3.15: Sự thay đổi nồng độ các chỉ tiêu lipid máu ở hai nhóm nghiên cứu
T0
2,82 ± 1,97
Triglycerid
T3
2,75 ± 1,66
(mmol/l)
2,73 ± 1,97 2,66 ± 1,85 NS -0,01 ± 0,09 NS
T3-T0
-0,11 ± 0,12
T0
5,75 ± 0,71
T3
5,75 ± 0,95
T3-T0
0,04 ± 0,09
5,79 ± 0,82 5,48 ± 0,92 a, * -0,31 ± 0,08 **
Cholesterol_TP (mmol/l)
T0
4,07 ± 0,51
LDL_Cholesterol
T3
4,17 ± 0,79
(mmol/l)
T3-T0
0,09 ± 0,08
4,03 ± 0,51 3,46 ± 0,71 b, ** -0,41 ± 0,05 **
T0
1,22 ± 0,26
HDL_Cholesterol
T3
1,19 ± 0,23
(mmol/l)
1,22 ± 0,27 1,22 ± 0,24 NS -0,01± 0,03 NS
T3-T0
-0,02 ± 0,03
(a); (b):p<0,05; p<0,01; so sánh giữa T0 và T3 cùng nhóm, (t ghép cặp).
(NS); (*); (**): p>0,05; p<0,05; p<0,01; so sánh với nhóm chứng( t test).
Đối chứng (n=56) Can thiệp (n=55) Chỉ tiêu lipid máu Thời điểm
83
So với thời điểm ban đầu, nồng độ triglyceride huyết thanh sau 3 tháng can
thiệp của cả hai nhóm đều có xu hướng giảm, tuy nhiên sự thay đổi này không có ý
nghĩa thống kê: 2,82-2,75mmol/l(p>0,05) ở nhóm chứng và 2,73-2,66 mmol/l(p>0,05)
ở nhóm can thiệp. Kết quả tương tự với chỉ tiêu HDL_C. Đối với chỉ tiêu cholesterol
toàn phần và LDL_C, tại thời điểm kết thúc nghiên cứu, ở nhóm can thiệp, so với thời
điểm bắt đầu nghiên cứu, sự thay đổi theo hướng có lợi cho sức khỏe: 5,79–5,48mmol/l
(p<0,05) và 4,03-3,46mmol/l (p<0,01).
Tại thời điểm T3, nồng độ cholesterol toàn phần và LDL_C của các đối tượng ở
nhóm nhận can thiệp đều giảm hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng
(p<0,05 và p<0,01).
Hình 3.2: Sự khác biệt về nồng độ các chỉ tiêu lipid máu giữa hai nhóm nghiên cứu
84
Khi đem so sánh với nhóm chứng, sự khác biệt trung bình thay đổi nồng độ
cholesterol toàn phần giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê (0,04 mmol/l ở nhóm chứng
và -0,31 ở nhóm can thiệp; p<0,01), với LDL_C sự thay đổi trung bình là (0,09mmol/l
ở nhóm chứng và -0,41 ở nhóm can thiệp; p<0,01). Không có sự khác biệt về thay đổi
Hình 3.3: Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ triglyceride và nồng độ triglycerid ban đầu
nồng độ triglyceride và HDL_C giữa hai nhóm nghiên cứu (p>0,05).
85
Hình 3.3 cho thấy có mối liên quan nghịch chiều giữa nồng độ triglyceride
huyết thanh ban đầu với sự cải thiện nồng độ triglyceride huyết thanh: nồng độ
triglyceride ban đầu càng cao thì sau can thiệp nồng độ này càng giảm. Mối liên quan
này có ý nghĩa thống kê (Pearson r = -0,44; p<0,001).
Hình 3.4: Liên quan giữa sự cải thiện cholesterol và nồng độ cholesterol ban đầu
Hình 3.4 cho thấy, mối liên quan giữa sự cải thiện nồng độ cholesterol huyết
thanh và nồng độ cholesterol tại thời điểm ban đầu thiên theo xu hướng nghịch chiều,
tuy nhiên mối tương quan này không có ý nghĩa thống kê (Pearson r = - 0,12; p>0,05).
86
Hình 3.5: Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ HDL_C và nồng độ HDL_C ban đầu
Không tìm thấy mối liên quan giữa nồng độ HDL_C huyết thanh ban đầu với sự
cải thiện nồng độ HDL_C sau can thiệp (Pearson r = -0,25; p>0,05).
87
Hình 3.6: Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ LDL_C và nồng độ LDL_C ban đầu
Tương tự như đối với chỉ tiêu HDL_C, mối tương quan giữa nồng độ LDL_C
huyết thanh ban đầu với mức cải thiện tình trạng RLCHLPM theo chỉ tiêu LDL_C
cũng không có ý nghĩa thống kê (Pearson r = 0,02; p>0,05).
88
Hình 3.7: Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu triglyceride huyết thanh
So với thời điểm ban đầu, có sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu
triglyceride máu ở cả hai nhóm nghiên cứu từ 56,9% lên 65,5% ở nhóm chứng và từ
52,6% xuống 49,1% ở nhóm can thiệp, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê với p>0,05. Với tỷ lệ 49,1% của nhóm nhận can thiệp ở thời điểm kết thúc
nghiên cứu so với tỷ lệ 65,5% của nhóm chứng, sự khác biệt cũng không có ý nghĩa
(p>0,05).
89
Hình 3.8: Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu cholesterol huyết thanh
Tại thời điểm T3, cả hai nhóm chứng và can thiệp, tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ
tiêu cholesterol toàn phần đều giảm so với thời điểm T0, nhưng chỉ có sự giảm tỷ lệ ở
nhóm can thiệp là có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu, ở nhóm đối chứng tỷ lệ đối tượng có
RLCHLPM theo chỉ tiêu cholesterol toàn phần là 74,1%, tỷ lệ này cao hơn đáng kể so
với tỷ lệ 52,6% của nhóm can thiệp (p<0,05).
90
Hình 3.9: Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu LDL_C huyết thanh
Trước khi tiến hành can thiệp, không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ
RCHLPM theo chỉ tiêu LDL_C giữa hai nhóm nghiên cứu (p>0,05). Kết thúc can
thiệp, nhóm can thiệp, với tỷ lệ 45,6% giảm đáng kể so với 87,3% tại thời điểm T0
(p<0,001) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001) so với nhóm chứng (79,3%).
91
Hình 3.10: Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu HDL_C huyết thanh
Hình 3.10 cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu
HDL_C huyết thanh giữa hai nhóm nghiên cứu tại hai thời điểm ban đầu và kết thúc
nghiên cứu (p>0,05).
Bảng 3.16: Hiệu quả của can thiệp theo các chỉ tiêu lipid máu
Chỉ tiêu lipid máu Thời điểm Đối chứng Can thiệp
(n=56) (n=55)
T0 56,9 52,6
T3 Triglycerid (%) 65,5 49,1 NS
(>2,26 mmol/l) Chỉ số hiệu quả -15,1 6,7
Hiệu quả của can thiệp 21,8
92
T0 79,3 80,7
T3 Cholesterol _TP (%) 74,1 52,6 a, (*)
(>5,2mmol/l) Chỉ số hiệu quả 6,6 34,8
Hiệu quả của can thiệp 28,2
T0 89,3 87,3
T3 LDL_Cholesterol (%) 7,.3 45,6 a, (**)
(>3,38 mmol/l) Chỉ số hiệu quả 20,7 54,4
Hiệu quả của can thiệp 31,7
T0 8,6 7,0
T3 HDL_Cholesterol (%) 6,9 5,3 NS
(<0,9mmol/l) Chỉ số hiệu quả 19,8 24,3
a: p<0,001; so sánh giữa T0 và T3 cùng nhóm, Mc Nemar test.
(NS); (*); (**): p>0,05; p<0,05; p<0,001; so sánh với nhóm chứng, χ 2 test.
Hiệu quả của can thiệp 4,5
Bảng 3.16 cho thấy hiệu quả can thiệp của viên tỏi - folate đều cao hơn so với
nhóm chứng, tuy nhiên chỉ số hiệu quả và hiệu quả can thiệp rõ nhất với chỉ số
LDL_Cholesterol (31,7%), Cholesterol toàn phần (28,2%), triglyceride (21,8%) và sau
cùng là HDL_C cholesterol (4,5%).
93
3.2.5. Khẩu phần ăn và thói quen luyện tập thể thao của hai nhóm đối tượng tại
thời điểm kết thúc nghiên cứu.
Bảng 3.17: Mức tiêu thụ lượng thực thực phẩm ở hai nhóm nghiên cứu tại T3
Trung vị (g/người/ngày) Tên lương thực thực phẩm
Đối chứng Can thiệp
(n=56) (n=55)
Gạo 207 207,5 NS
Lương thực khác 56 67 NS
Đậu đỗ 3,65 4,5 NS
Đậu phụ 24 26 NS
Rau các loại 239 345 NS
Quả 128,5 142 NS
Đường 14,5 12 NS
Dầu/mỡ 5,65 6 NS
Thịt các loại 106,5 105 NS
Trứng/sữa 58,5 67 NS
(NS): p>0,05, so với nhóm chứng, Mann-Whiney Test
Cá, thủy sản 52,5 50 NS
Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu, mức tiêu thụ lương thực thực phẩm ở nhóm
chứng có xu hướng giảm hơn so với thời điểm ban đầu, tuy nhiên sự giảm này không
94
có ý nghĩa thống kê. Không có sự khác biệt giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng về
mức tiêu thụ thực phẩm tại thời điểm kết thúc nghiên cứu (p>0,05).
Bảng 3.18: Đặc điểm cân đối của khẩu phẩu ở hai nhóm nghiên cứu tại T3
Đối chứng Can thiệp
(n=56) (n=55)
Tổng số năng lượng (Kcal) 1605NS 1535
Tỷ số Ca/P 0,43 NS 0,43
Fe (mg) 7,99 NS 7,61
Vit. B1(mg)/1000kcal 0,65NS 0,66
Lipids ĐV/Lipid tổng số (%) 58NS 62
Năng lượng do Protid (%) 15 NS 14
Năng lượng do Lipids(%) 13 NS 13
(NS): p>0,05, so với nhóm chứng, Mann-Whiney Test
Năng lượng do glucid(%) 72 NS 73
Số liệu về tính cân đối của khẩu phần thời điểm kết thúc nghiên cứu cho thấy
không có sự khác biệt giữa 2 nhóm nghiên cứu. Tuy nhiên xu thế chung là các đối
tượng của cả 2 nhóm vẫn tiêu thụ năng lượng ở mức thấp hơn nhu cầu, tỷ lệ
Ca/phospho chưa hợp lý, năng lượng do glicid cung cấp vẫn tương đối cao, dao động ở
mức 70%, xu thế ăn thịt và mỡ giảm đi và năng lượng do protid, lipid cung cấp vẫn
xung quanh 13% tổng năng lượng khẩu phần.
95
Bảng 3.19: Thói quen luyện tập thể thao ở hai nhóm nghiên cứu tại T3
Thói quen luyện tập thể thao Đối chứng Can thiệp Mức YN
n (%) n (%) (p, χ 2 test)
- Không tập 17 (30,3) 12 (21,8) >0,05
- Không thường xuyên 9 (16,1) 16 (29,1) >0,05
- Thường xuyên 30 (53,6) 27 (49,1) >0,05
Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu, số đối tượng luyện tập thể thao một cách
thường xuyên ở cả hai nhóm đều tăng hơn so với thời điểm ban đầu, tuy nhiên sự tăng
này không có ý nghĩa thống kê. So với nhóm chứng, thói quen luyện tập thể thao ở
nhóm can thiệp không có sự khác biệt (p>0,05).
96
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
4.1. Sự kết hợp giữa một số yếu tố nguy cơ và tình trạng RLCHLPM
4.1.1. Mối nguy cơ của thừa cân, béo bụng, % mỡ cơ thể và tình trạng RLCHLPM
Sự kết hợp dương tính giữa tình trạng thừa cân với rối loạn chuyển hóa lipid
máu (CI.95%: 1,9 (1,2-3,0); p<0,01) trong nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp
với kết quả của nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước, cho thấy mối liên quan chặt chẽ
giữa BMI với với tình trạng RLCHLPM:
Schröder H tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa BMI và nồng độ
cholesterol toàn phần (p<0,05), LDL_C (p<0,05) đối với nam giới và mối
liên quan giữa nồng độ HDL_C và BMI ở cả hai giới (p<0,01) [138].
Brown mô tả và đánh giá mối liên quan giữa BMI với tình trạng cao
huyết áp và RLCHLPM trong một cuộc tổng điều tra trên người trưởng
thành ở Mỹ. Kết quả cho thấy, mối liên quan giữa BMI với tình trạng cao
huyết áp và RLCHLPM có ý nghĩa thống kê. OR cao nhất ở độ tuổi 20-
39 [45].
Kết quả nghiên cứu tình trạng RLCHLPM và một số yếu tố liên quan của
Nguyễn Lương Hạnh tại Hà Nội cho thấy béo phì độ I, nguy cơ
RLCHLPM theo chỉ tiêu TG tăng gấp 2,94 lần, nguy cơ này tăng 8,9 lần
khi bị béo phì độ II [10]. Nghiên cứu của Phạm Thị Dung cho thấy BMI
và phần trăm mỡ cơ thể có mối liên quan chặt chẽ với tỷ lệ mắc hội
chứng chuyển hóa [5]. Trong nghiên cứu của Trần Trung Thông (2009)
trên bệnh nhân béo phì cho thấy, bệnh nhân béo phì, RLCHLPM theo chỉ
tiêu cholesterol chiếm tỷ lệ 63%, 34% theo chỉ tiêu triglycerid máu và
27,3% bệnh nhân béo phì có RLCHLPM theo chỉ tiêu HDL_C [18].
97
Bên cạnh yếu tố nguy cơ đối với RLCHLPM là tình trạng thừa cân. Kết quả
bảng 3.2 cho thấy, sự phân bố mỡ trong cơ thể cụ thể là tình trạng béo bụng là yếu tố
nguy cơ cao, đáng quan tâm hơn cả đối với RLCHLPM, tình trạng béo bụng sẽ làm
tăng nguy cơ bị RLCHLPM lên gấp 6,4 lần (p<0,001):
Để đánh giá mức độ thừa cân béo phì, người ta thường dùng chỉ số khối
cơ thể, tổ chức y tế thế giới khuyến cáo BMI là một chỉ tiêu đo lường
dịch tễ học về tình trạng béo phì hữu hiệu nhất trên cộng đồng. Tuy
nhiên BMI chỉ là một chỉ tiêu thô, không phản ánh sự phân bố mỡ trong
cơ thể. Tầm quan trọng của phân bố mỡ ở trung tâm đã được biết đến từ
những năm 50 khi Morris mô tả tỷ lệ tử vong do tim mạch tăng ở những
người lái xe buýt với kích cỡ dây an toàn lớn [117]. Nghiên cứu theo
chiều dọc đầu tiên ở Thụy Điển năm 1984 cho thấy tỷ số vòng eo/vòng
mông cao có mối liên quan với đột quỵ [97].
Đánh giá các chỉ tiêu lâm sàng đo lường thừa cân béo phì để dự báo tử
vong do bệnh tim mạch và bệnh mạch vành. Bằng kỹ thuật thống kê hiện
đại phân tích số liệu thu thập được từ một nghiên cứu dọc với cỡ mẫu
đại diện gồm 9.206 đối tượng 20-69 tuổi tại các thành phố ở Úc đã cung
cấp sự so sánh các chỉ tiêu đo lường tình trạng béo phì có hệ thống đầu
tiên. Kết quả cho thấy, đo lường tỷ số vòng eo/vòng mông sử dụng kỹ
thuật đã được chuẩn hóa tốt hơn so với vòng eo và BMI trong việc xác
định nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch, bệnh mạch vành trong tương lai
và khẳng định tỷ số vòng eo/vòng mông là yếu tố chính của nguy cơ tử
vong do bệnh tim mạch, bệnh mạch vành liên quan đến tình trạng béo
phì. Việc nhận biết béo trung tâm rất quan trọng về mặt lâm sàng. Tỷ số
vòng eo/vòng mông là một chỉ tiêu đo lường chiếm ưu thế hơn để dự báo
98
bệnh tim mạch, áp dụng phổ biến hơn đối với từng cá nhân có cấu trúc
cơ thể khác nhau. Kết quả phân tích đa biến khẳng định tỷ số vòng
eo/vòng mông hoàn toàn độc lập với các nguy cơ tim mạch khác. Chỉ
tiêu vòng eo có thể phù hợp khi đánh giá đối tượng béo phì mức độ
nặng, những người này đo vòng mông rất khó và không chính xác. Dù
sao, tỷ số vòng eo/vòng mông vẫn có thể dự báo nguy cơ tim mạch, do
nó ít phụ thuộc vào kích cỡ cơ thể và chiều cao. Hơn thế nữa, vòng
mông là một chỉ số về khối cơ có thể phản ánh tình trạng tập luyện. Tỷ
số vòng eo/vòng mông là chỉ tiêu nguy cơ phù hợp và phổ biến hơn cho
các dân tộc khác nhau, tầm vóc khác nhau [148].
4.1.2. Sự kết hợp giữa một số thói quen sinh hoạt và tình trạng RLCHLPM.
4.1.2.1. Thói quen luyện tập thể thao và tình trạng RLCHLPM.
Trong nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm thấy sự kết hợp giữa thói quen luyện tập
thể thao thường xuyên (tập 3 lần/tuần, mỗi lần từ 30 phút trở lên) với tình trạng
RLCHLPM (bảng 3.3; p>0,05). Không giống với kết quả nghiên cứu của Phạm Thị
Dung cho thấy hoạt động thể lực có ảnh hưởng rõ ràng đến nguy cơ mắc hội chứng
chuyển hóa[5]. Trong nghiên cứu của Nguyễn Lương Hạnh, không hoạt động thể lực,
hoặc hoạt động thể lực ở mức thấp nguy cơ tăng TC và TG là 1,28 lần và 1,47 lần so
với hoạt động thể lực ở mức cao [10]. Lý do có thể dẫn đến sự khác biệt này là gì?.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của chúng tôi chỉ khai thác chủ yếu vào tính thường
xuyên hay tần suất luyện tập, trong nghiên cứu của Nguyễn Lương Hạnh và Phạm Thị
Dung lại tập trung nhiều đến cường độ luyện tập. Mà hiệu quả đối với bệnh tim mạch
của một chương trình luyện tập được quy định bởi một loạt các yếu tố như: loại bài tập,
cường độ và khối lượng vận động, tần số buổi tập và phương pháp luyện tập. Yếu tố
nào là quan trọng nhất?. Các nghiên cứu trả lời câu hỏi này vẫn chưa thống nhất:
99
- Ferguson và cộng sự cho thấy năng lượng tiêu hao sau mỗi bài tập có mối liên
quan với tình trạng lipid máu. Số liệu cho thấy tập luyện ở cường độ trung bình,
năng lượng tiêu hao từ 1.100-1.500 kcal, ảnh hưởng nhiều đến nồng độ lipid
máu so với tập luyện với mức tiêu hao năng lượng thấp hơn. Do vậy, cường độ
tập có thể là yếu tố quan trọng giúp điều chỉnh tình trạng lipid máu [108].
- Trong phân tích có hệ thống 31 nghiên cứu thử nghiệm trên 1.833 đối tượng
bình thường và RLCHLPM nhằm xác định hiệu quả của tập luyện (aerobic và
bài tập rèn luyện sức bền), chương trình tập luyện hiệu quả nhất với thời gian,
cường độ, tần số luyện tập để tối ưu hóa tình trạng lipid máu. Kết quả cho thấy,
tập aerobic giảm nhẹ nhưng có ý nghĩa thống kê lần lượt lên các chỉ tiêu TC,
LDL_C,và TG là 0,10mmol/l (95% CI: 0,02-0,18); 0,10mmol/l (95% CI: 0,02-
0,19) và 0,08mmol/l (95% CI: 0,02-0,14), đồng thời tăng nồng độ HDL_C ở
mức 0,05mmol/l (95% CI: 0,02-0,08). Cường độ tập của các chương trình
aerobic khác nhau có ảnh hưởng không giống nhau lên các chỉ tiêu lipid máu,
việc tập luyện thường xuyên không mang lại hiệu quả cao hơn so với thời gian
tập luyện 3 lần/tuần [75].
- Trong một nghiên cứu khác, tác giả đưa ra kết luận, tập aerobic thường xuyên
làm tăng đáng kể HDL_C. Thời gian của mỗi lần tập là yếu tố quan trọng nhất
khi xây dựng chương trình luyện tập. Tập luyện mang lại hiệu quả hơn đối với
những đối tượng có BMI thấp và CT cao [94].
- Bên cạnh thời gian của mỗi lần tập, tần xuất tập thì quãng thời gian tập hay việc
duy trì tập luyện hết sức quan trọng. Một số công trình nghiên cứu cho thấy trên
60% số người lớn bắt đầu chương trình tập luyện đã bỏ tập ngay trong tháng đầu
tiên khi mà hiệu quả rèn luyện đạt chưa đáng kể [2]. Shegarfy nghiên cứu trên
21 đối tượng, được phân bổ vào ba nhóm, một nhóm tập aerobic, nhóm thứ hai
tập bài tập rèn luyện sức bền, còn lại thuộc nhóm chứng trong thời gian ngắn (8
100
tuần), 3 lần/tuần. Kết quả cho thấy, những bài tập không có hiệu quả lên các chỉ
tiêu lipid máu [107].
- Hoạt động thể lực với cường độ thấp (đứng và đi bộ) trong thời gian dài giúp cải
thiện insulin và lipid huyết thanh hơn là tập luyện với cường độ trung bình và
nặng (đạp xe), khi mà tiêu hao năng lượng có thể so sánh được. Duvivier tiến
hành nghiên cứu trên 18 đối tượng khỏe mạnh, tuổi trung bình 21±2, BMI 22,6
± 2,6 theo 3 chương trình tập luyện: chương trình (1) ngồi 14 tiếng/ngày; (2)
ngồi 13 tiếng và 1 tiếng tập nặng; (3) ngồi 6 tiếng, 4 tiếng đi bộ, 2 tiếng đứng.
TG, HDL_C, CT, apolipoprotein B huyết tương cải thiện đáng kể trong nhóm có
chương trình hoạt động thể lực với cường độ nhẹ, so với nhóm ngồi. Ông cho
rằng, tăng thời gian dành cho đứng và đi bộ hiệu quả hơn một tiếng luyện tập
nặng, khi mà tiêu hao năng lượng giữ ở mức hằng định [57].
- Hoạt động thể lực có mối liên quan với bệnh lý tim mạch, tuy nhiên, khối lượng
tập là bao nhiêu để mang lại hiệu quả?. Một nghiên cứu thử nghiệm có đối
chứng trên 111 đối tượng cả nam lẫn nữ thừa cân trong thời gian 8 tháng. Các
chế độ luyện tập sử dụng trong nghiên cứu là: (1) khối lượng và cường độ cao,
năng lượng tiêu hao tương đương với chạy bộ 20 dặm (32,0 km)/tuần, 65 đến
80% oxy tiêu thụ; (2) khối lượng thấp và cường độ cao, năng lượng tiêu hao
tương đương với chạy bộ 12 dặm (19,2 km)/tuần, 65 đến 80% oxy tiêu thụ (3)
khối lượng thấp và cường độ trung bình, năng lượng tiêu hao tương đương với
chạy bộ 12 dặm (19,2 km)/tuần, 40 đến 55% oxy tiêu thụ. Các đối tượng được
khuyến khích duy trì cân nặng như ban đầu. Kết quả cho thấy, tập luyện mang
lại hiệu quả cho các chỉ tiêu lipid máu, rõ nét nhất là chế độ tập luyện với khối
lượng cao, chế độ luyện tập này mang lại kết quả tốt hơn so với chế độ luyện tập
khối lượng thấp. Tuy nhiên cả hai chế độ luyện tập với khối lượng thấp vẫn
mang lại lợi ích đối với tình trạng lipid máu hơn so với nhóm chứng. Vậy sự cải
101
thiện lipid máu liên quan đến khối lượng tập luyện, không liên quan đến cường
độ tập hay sự cải thiện cân nặng trong quá trình luyện tập [79].
- Hiệu quả tập luyện còn được quy định bởi mức độ RLCHLPM. Couillard và
cộng sự cho rằng việc tập luyện thường xuyên kéo dài đặc biệt có lợi cho những
đối tượng nam giới có nồng độ HDL_C thấp, TG cao và béo bụng khi tiến hành
so sánh đáp ứng của các chỉ tiêu lipid huyết thanh với chương trình tập luyện
thường xuyên kéo dài trong 20 tuần giữa các nhóm nam giới. Hai trăm nam giới,
tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu được phân bổ vào 4 nhóm: nhóm (1) TG thấp
và HDL_C cao (không RLCHLPM), (2) TG thấp và HDL_C thấp, (3) TG cao và
HDL_C cao; nhóm (4) TG cao và HDL_C thấp. Ở thời điểm bắt đầu nghiên
cứu, đối tượng ở nhóm (4) có mỡ nội tạng cao hơn các đối tượng ở nhóm (1) và
(2). Chương trình luyện tập giảm 0,4% HDL_C (p>0,05) trên các đối tượng
thuộc nhóm (2). Ngược lại, đối tượng ở nhóm (4) HDL_C tăng một cách có ý
nghĩa thống kê (4,9%, p<0,01) và giảm TG đáng kể (-6,0%, p<0,01) ở thời điểm
kết thúc nghiên cứu. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy tập luyện đem lại sự
thay đổi lớp mỡ dưới da (10,6%, p<0,01) có liên quan với việc tăng nồng độ
HDL_C do kết quả của luyện tập ở nhóm TG cao/HDL_C thấp [51].
Mặt khác, một số cơ chế liên quan giữa tập luyện và tình trạng cholesterol huyết
thanh đó là, tập luyện kích thích các enzyme giúp vận chuyển LDL_C từ máu và thành
mạch về gan. Từ đó, cholesterol được chuyển vào trong đường mật để tiêu hóa hoặc
bài tiết ra ngoài. Tập luyện làm tăng kích thước của các hạt lipoprotein. Trong đó, một
số có kích thước nhỏ và dày đặc, một số kích thước lớn hơn. Các lipoprotein có kích
thước nhỏ dày đặc nguy hiểm hơn kích thước lớn, do nó có thể dễ dàng chui vào lớp
nội mạc của tim và thành mạch máu [49]. Do vậy, rất có thể thói quen thường xuyên
luyện tập thể thao (tập 3 lần/tuần, mỗi lần từ 30 phút trở lên) trong nghiên cứu này đã
102
mang lại hiệu quả đối với tình trạng lipid huyết thanh thông qua việc làm tăng kích
thước các hạt lipoprotein, điều mà trong nghiên cứu chúng tôi chưa đo lường được.
4.1.2.2. Thói quen uống rượu bia và tình trạng RLCHLPM
Trong nghiên cứu này, chưa tìm thấy sự kết hợp giữa việc tiêu thụ rượu và tình
trạng RLCHLPM. Khác với kết quả nghiên cứu của chúng tôi, trong nghiên cứu của
Nguyễn Lương Hạnh [10] và Phạm Thị Dung [5] cũng trên đối tượng người trưởng
thành sống tại Hà Nội cho thấy mối liên quan có ý nghĩa theo chiều hướng bất lợi cho
sức khỏe giữa lạm dụng rượu bia và tình trạng RLCHLPM cũng như hội chứng chuyển
hóa.
Tương tự nghiên cứu cắt ngang ở Đài Loan trên 2.358 nam giới. Sử dụng bộ câu
hỏi tự điền để thu thập thông tin về chế độ ăn và thói quen sống. Những người uống
rượu ít nhất một lần/tuần trong 6 tháng liên tiếp được coi là người hiện đang uống
rượu. Người hiện đang uống rượu có nguy cơ cao mắc béo bụng và TG cao, nhưng ít
nguy cơ HDL_C thấp. Nguy cơ mắc HCCH, TG cao phụ thuộc vào lượng rượu tiêu
thụ. Lượng rượu cần thiết để giảm nguy cơ nồng độ HDL_C thấp là ≥50 g/ngày. Tiêu
thụ nhiều loại rượu làm tăng nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa [47]. Reynolds K tiến
hành phân tích meta dựa trên số liệu của nhiều cuộc điều tra cho thấy, tỷ lệ đột quỵ do
xuất huyết não, nhồi máu não trên những người uống nhiều rượu cao hơn so với những
người không uống rượu [132]. Thêm vào đó, kết quả nghiên cứu của Foppa M năm
2001 và Rehm J năm 2010 đều nhận thấy, tỷ bệnh tật được cho là có liên quan đến việc
tiêu thụ rượu như đái tháo đường, cao huyết áp, bệnh tim mạch, tai biến mạch máu não
ngày càng tăng [66,131].
Bên cạnh mối liên quan giữa tiêu thụ rượu và tình trạng RLLPM theo chiều
hướng bất lợi cho sức khỏe, nghiên cứu của chúng tôi cũng không tìm thấy tác động có
lợi của rượu đối với nguy cơ bệnh tim mạch như trong nghiên cứu của Hendriks HF
năm 1994 cho thấy tiêu thụ rượu ở mức trung bình (30g/ngày) làm tăng khoảng 4mg/dl
103
nồng độ HDL_C và apoA-I 8,82 mg/dl [77], cùng với việc làm giảm nguy cơ bệnh tim
mạch ước tính vào khoảng 24,7% theo kết quả nghiên cứu sau này của De Oliveira
ESER [55]. Hơn thế nữa rượu làm giảm sự thoái hóa HDL_C, tác động lên quá trình
chuyển hóa LDL_C ở gan theo chiều hướng có lợi cho sức khỏe [150]. Palomäki H,
Kaste M đánh giá mối liên quan giữa tiêu thụ rượu và nguy cơ đột quỵ ở nam trẻ tuổi
và nam trung niên trong một nghiên cứu bệnh chứng bao gồm 156 đối tượng ở nhóm
bệnh và 153 đối tượng ở nhóm chứng. Kết quả cho thấy, uống rượu ở mức độ nặng làm
tăng nguy cơ đột quỵ (OR= 4,45; 95% CI: 1,09-18,1), nguy cơ có xu hướng giảm khi
uống rượu ở mức nhẹ và trung bình (OR = 0,54; 95% CI: 0,28-1,05). Uống rượu
thường xuyên mức độ nhẹ và trung bình làm giảm nguy cơ đột quỵ (OR = 0,12; 95%
CI: 0,02–0,65) [127].
Những lý do dẫn đến sự không thống nhất giữa kết quả nghiên cứu của chúng
tôi với kết quả của nghiên cứu trên có thể là:
Số liệu thu thập được chưa phản ánh một cách đầy đủ lượng rượu thực tế đối
tượng tiêu thụ. Ảnh hưởng bởi sai số nhớ lại có lẽ chỉ chiếm phần nhỏ trong
nghiên cứu của chúng tôi do đã được khắc phục bằng cách hỏi ghi trực tiếp,
bởi những điều tra viên có kinh nghiệm được tập huấn kỹ càng. Ảnh hưởng
lớn nhất rất có thể bởi chính bản thân đối tượng, tính chân thực của họ khi
trả lời các thông tin liên quan đến lượng rượu tiêu thụ, người uống nhiều
rượu có thể không thích nói thật việc tiêu thụ rượu của họ, thường theo xu
hướng ít hơn so với thực tế. Số liệu bảng 3.3 cho thấy chỉ có tổng cộng 7
người (3 ở nhóm bệnh và 4 ở nhóm chứng) xếp vào tiêu thụ rượu ở mức lạm
dụng.
Đơn vị đo lường, phương pháp đánh giá tiêu thụ rượu cũng khác nhau giữa
các nghiên cứu. Ví dụ nghiên cứu của Palomäki H, Kaste M [127] sử dụng
bộ câu hỏi tự điền, chỉ tiêu đánh giá: Uống rượu thường xuyên khi uống
104
rượu hàng ngày hoặc hầu hết các ngày, không thường xuyên khi uống ≤3
lần/tuần, trong khi nghiên cứu của chúng tôi chỉ tiêu đánh giá uống rượu
thường xuyên ≥3 lần tuần. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc so sánh
cũng như đánh giá các kết quả nghiên cứu với nhau.
Một số nhận định sau khi phân tích meta các kết quả quan sát. Chất lượng
của phân tích phụ thuộc vào số liệu gốc được công bố rất có thể thừa hưởng
sai số và nhiễu tiềm tàng. Hơn nữa, một vài nghiên cứu từ rất sớm, các kỹ
thuật chẩn đoán hình ảnh chưa sẵn có, một số nghiên cứu chỉ dựa vào thông
tin được ghi lại trong hồ sơ tử vong, điều này ảnh hưởng đến mối liên quan
quan sát được.
4.1.2.3. Thói quen hút thuốc lá và tình trạng RLCHLPM
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sự kết hợp giữa thói quen hút thuốc
lá và tình trạng RLCHLPM:
Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Jacobson BH, trên 805 đối tượng
nữ cho thấy hút thuốc lá là nguy cơ độc lập với TC cao và HDL_C thấp, ngừng
hoặc bỏ hút thuốc ở phụ nữ có mối liên quan với các chỉ tiêu lipid máu theo
chiều hướng có lợi [85].
Thống nhất với kết luận hút thuốc gây ảnh hưởng bất lợi đến nồng độ LDL_C,
HDL_C và TG của cả nam lẫn nữ, không phân biệt tuổi tác từ kết quả nghiên
cứu thuần tập trên 492 đối tượng trong độ tuổi 26-66 bị RLCHLPM. Sự khác
biệt giữa hút thuốc và không hút thuốc đối với giá trị TC, LDL_C, HDL_C và
TG trung bình lần lượt là 2,2%; 5,5%; -8,1%, và 3,7% (p<0,05). Tỷ lệ
LDL_C>4,9mmol/l, TG >2,0mmol/l và HDL_C <0,9mmol/l ở nam, <1,2mmol/l
ở nữ lần lượt là 43% - 59%; 38% - 59% và 82% - 91% [139].
105
Năm 2006, nghiên cứu của O.A.Adedeji cũng cho thấy nồng độ cholesterol toàn
phần trung bình của người hút thuốc cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê so
với nồng độ này ở những người không hút thuốc. Không tìm thấy sự khác biệt
này đối với các chỉ tiêu lipid máu khác [125].
Sự kết hợp giữa thói quen hút thuốc lá và tình trạng RLCHLPM được thể hiện
thông qua số điếu thuốc hút:
Trong nghiên cứu của chúng tôi nguy cơ bị RLCHLPM sẽ tăng lên gấp 3,1 lần
(95% CI: 1,2-8,9) ở những người hàng ngày hút từ 20 điếu trở lên so với người
không hút thuốc lá, không tìm thấy mối liên hệ với tình trạng RLCHLPM ở
những người hút thuốc không thường xuyên và dưới 20 điếu/ngày.
Khác với nghiên cứu của Nguyễn Lương Hạnh [10] và Phạm Thị Dung [5] cho
thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa hút thuốc với tình trạng RLCHLPM và
HCCH với lượng thuốc lá tiêu thụ thấp hơn ở mức 10 bao/năm.
Kết quả nghiên cứu tại Nhật năm 1993 của Nagoya J, trên 726 công nhân giao
thông đô thị tại Nhật, đối tượng tham gia nghiên cứu được phân loại theo mức
độ hút thuốc lá dựa trên số điếu thuốc hút trong một ngày: (1) không hút; (2) từ
1-20 điếu; (3) từ 21 điếu/ngày trở lên cho thấy, khi hút từ 1-20 điếu/ngày hoặc
≥21 điếu/ngày sẽ làm tăng nguy cơ HDL_C < 40mg/dl lên 1,9 lần (95% CI:1,1 -
3,26) hoặc 2,27 lần (95% CI:1,27 - 4,05) so với những người không hút thuốc
[119].
Năm 2012, trong một nghiên cứu tại Ấn Độ trên 100 đối tượng trong đó, 25 đối
tượng thuộc nhóm I – không hút thuốc lá và 75 đối tượng thuộc nhóm II - hút
thuốc lá, các đối tượng của nhóm II lại được phân loại theo thời gian và cường
độ hút (mức nhẹ: 10-15 điếu/ngày trong từ 1 đến 5 năm; mức trung bình: 16-20
điếu trong 6-10 năm; mức nặng: trên 20 điếu/ngày trong thời gian trên 10
106
năm). Kết quả cho thấy, nồng độ TC, TG, LDL_C và HDL_C trung bình ở
nhóm hút thuốc ở các mức độ đều cao hơn một cách có nghĩa (p<0,001) so với
nhóm không hút thuốc [56].
Nghiên cứu của chúng tôi, cũng như các nghiên cứu nêu trên chỉ mới đề cập đến
số lượng điếu thuốc tiêu thụ còn loại thuốc hay lượng độc chất được cho là
nguyên nhân gây nên sự biến đổi các chỉ tiêu lipid máu mà đối tượng tiêu thụ
đều chưa được quan tâm nghiên cứu, rất có thể điều này là một trong các lý do
mang đến sự không thống nhất giữa các kết quả nghiên cứu.
4.1.3. Sự kết hợp giữa khẩu phần ăn và tình trạng RLCHLPM
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.4 cho thấy phần trăm năng lượng từ lipid khẩu
phần ở mức 20% tổng năng lượng ăn vào không làm thay đổi nguy cơ mắc RLCHLPM
(95% CI: 0,2-1; p>0,05).
Không giống với kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Dung cho thấy mức
tiêu thụ lipid của nhóm mắc hội chứng chuyển hóa trên các đối tượng
sống ở ngoại thành Hà Nội cao hơn nhóm không mắc HCCH một cách có
ý nghĩa (p<0,05) [5]. Tương tự kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lương
Hạnh trên đối tượng người trưởng thành ở nội thành Hà Nội cho thấy có
mối liên quan giữa phần trăm năng lượng do lipid cung cấp với chỉ tiêu
triglyceride máu [10].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phần trăm năng lượng từ lipid khẩu
phần trung bình của các đối tượng trong cả hai nhóm nghiên cứu trong
khoảng 13-14%, thấp hơn so với nhu cầu khuyến nghị và thấp hơn so với
kết quả của Nguyễn Lương Hạnh (16,3-17,5%) và Phạm Thị Dung (23,4
- 24,8%), điểm khác biệt này có thể do thiết kế nghiên cứu của chúng tôi
là nghiên cứu bệnh chứng, các đối tượng đưa vào nghiên cứu dựa trên
107
tiêu chí của nhóm bệnh và nhóm chứng để phục vụ cho mục tiêu chính là
xác định sự kết hợp của các yếu tố nguy cơ đối với tình trạng RLLPM,
khác với thiết kế nghiên cứu cắt ngang của Nguyễn Lương Hạnh và
Phạm Thị Dung, nên số liệu về mức tiêu thụ lipid trung bình có thể mang
tính đại diện hơn nhưng khi xác định sự kết hợp của các yếu tố nguy cơ
và tình trạng bệnh có thể sẽ gặp phải một số hạn chế nhất định.
"Chế độ ăn ít chất béo" là câu thần chú cho chế độ ăn lành mạnh trong nhiều
thập kỷ. Như là một cách để giảm cân và ngăn ngừa hoặc kiểm soát bệnh tim mạch và
các bệnh mãn tính không lây khác.
Trong những năm của thập niên 60, phần trăm năng lượng trung bình từ
lipid khẩu phần trong chế độ ăn của người Mỹ vào khoảng 45% [149], tỷ
lệ béo phì là 13%, đái tháo đường typ II dưới 1% [43,64]. Những năm
gần đây, phần trăm năng lượng từ lipid khẩu phần đã giảm xuống còn
khoảng 33% [160], nhưng tỷ lệ béo phì lại gia tăng (34%), 11% bị đái
tháo đường [36, 65]. Vậy tại sao việc cắt giảm chất béo khẩu phần đã
không mang lại kết quả như mong đợi? Nghiên cứu thực hiện tại Đại học
Harvard cho thấy, tổng lượng chất béo trong chế độ ăn uống không thực
sự liên quan với trọng lượng cơ thể hay bệnh tật, chất béo xấu (acid béo
thể trans và acid béo bão hòa), làm tăng nguy cơ mắc một số bệnh. Chất
béo tốt (acid béo chưa bão hòa dạng đơn và dạng đa), làm điều ngược
lại, tốt cho tim và hầu hết các bộ phận khác trong cơ thể [78,120].
Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ kết luận nên thay việc giảm acid béo bão hòa
(SFA) và acid béo thể trans (tFA) hơn giảm tổng chất béo khẩu phần.
Báo cáo sức khỏe Canada 2000 cho rằng cholesterol khẩu phần không
phải là yếu tố chính ảnh hưởng đến LDL_C và các mức lipoprotein khác.
Giảm 100mg cholesterol khẩu phần chỉ giảm 0,05mmol/l cholesterol
108
huyết tương. Chỉ những người được xác định cholesterol ở mức cao mới
cần hạn chế những thực phẩm giàu cholesterol. Báo cáo chỉ ra, giảm
SFA xuống dưới 7% năng lượng khẩu phần mang lại hiệu quả giảm
LDL_C hơn so với chế độ ăn SFA chiếm dưới 10% năng lượng khẩu
phần [76].
Phù hợp với nghiên cứu Keys và cộng sự trên 7 nước sau chiến tranh thế giới
lần thứ hai cho thấy mức cholesterol huyết thanh liên quan ít với tổng số chất béo mà
liên quan chặt chẽ với lượng các acid béo no. Qua 10 năm theo dõi nhận thấy tỷ lệ tử
vong do bệnh mạch vành tăng lên một cách có ý nghĩa theo mức tăng của các acid béo
no trong khẩu phần. Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả bảng 3.4 cho thấy khi
năng lượng từ acid béo no khẩu phần chiếm từ 7% trở lên sẽ làm tăng nguy cơ
RLCHLPM lên gấp 2,7 lần (95% CI: 1,4-5,3); p<0,01) và hàm lượng cholesterol khẩu
phần ở mức 200mg không ảnh hưởng đến các chỉ tiêu lipid máu (p>0,05). Trong
nghiên cứu của Johnson trên 10 nam vận động viên khỏe mạnh. Khi so sánh hai thực
đơn cho mỗi 4 tuần: thực đơn (1) chứa 600mg cholesterol/ngày; thực đơn (2) chứa
200mg cholesterol. Cả hai thực đơn 15% năng lượng từ protid, 55% từ glucid; 30% từ
lipid, tỷ lệ acid béo chưa no nhiều nối đôi/acid béo no là 1:5. Mức độ tập luyện không
thay đổi trên từng đối tượng. Kết quả cho thấy, thực đơn 600mg/ngày làm tăng LDL_C
và apolipoprotein B 10% và 13% có ý nghĩa so với thực đơn 200mg. TG, HDL_C và
apolipoprotein A-1 không thay đổi có ý nghĩa thống kê [89]. Vậy câu hỏi đặt ra, có
thực sự cholesterol khẩu phần không ảnh hưởng đến mức lipid huyết thanh hay ở mức
200mg chưa đủ để xác định sự kết hợp?.
Các nước Châu Âu, Úc, Canada, New Zealand, Hàn Quốc và Ấn Độ không đưa
ra giới hạn cao đối với cholesterol khẩu phần trong lời khuyên dinh dưỡng của họ. Hơn
thế nữa còn có những số liệu dịch tễ học cho thấy không có mối liên quan giữa
cholesterol khẩu phần và nguy cơ bệnh tim mạch. Mặc dù nhiều nghiên cứu lâm sàng
109
chỉ ra rằng sự thay đổi cholesterol khẩu phần có thể làm tăng LDL_C huyết tương ở
những người nhạy cảm với cholesterol khẩu phần (khoảng ¼ dân số), HDL_C cũng
tăng dẫn đến duy trì tỷ lệ LDL_C/HDL_C, yếu tố chỉ điểm cho nguy cơ tim mạch.
Những bằng chứng từ các nghiên cứu dịch tễ học và từ những can thiệp lâm sàng sử
dụng những mức cholesterol khác nhau ủng hộ cho các khuyến cáo về việc giới hạn
cholesterol khẩu phần nên được xem xét lại [62]. Tóm lược các bài trình bày của
những nghiên cứu gần đây nhất tại Hội nghị Sinh học thực nghiệm năm 2011 về mối
liên quan giữa cholesterol khẩu phần và nguy cơ BTM. Hơn 50 năm qua, rất nhiều
nghiên cứu khoa học cho thấy chất béo và cholesterol khẩu phần có mối liên quan
dương tính với BTM. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, có nhiều nghiên cứu dịch
tễ học đã không ủng hộ cho mối liên quan giữa cholesterol khẩu phần và bệnh tim
mạch. Hơn thế nữa, nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đã nghiên cứu hiệu quả của
việc tiêu thụ trứng trong thời gian dài cho thấy, không ảnh hưởng lên các dấu hiện khác
nhau của BTM. Nhiều số liệu cho thấy ảnh hưởng của khẩu phần ăn cholesterol thấp
lên mức LDL_C là rất ít so với khẩu phần khác và các thói quen sống, cần quan tâm
cách nào khác để xem thực phẩm có lợi cho sức khỏe có thể được phối hợp trong khẩu
phần để đáp ứng khuyến nghị cholesterol khẩu phần hiện nay [92].
Không giống với nghiên cứu tại Hà Lan khi phân tích 60 nghiên cứu thử nghiệm
về ảnh hưởng của carbohydrate và các loại chất béo khác nhau đối với các chỉ tiêu lipid
máu cho thấy, các chất béo tốt làm giảm nồng độ LDL_C và tăng HDL_C [114]. Gần
đây, trong một thử nghiệm ngẫu nhiên khi thay thế một chế độ ăn giàu carbohydrate
bằng chế độ ăn giàu chất béo chưa bão hòa, chủ yếu là dạng đơn đã làm giảm huyết áp,
cải thiện các chỉ tiêu lipid máu và làm giảm nguy cơ tim mạch ước tính [36]. Nghiên
cứu của chúng tôi chưa tìm thấy sự kết hợp giữa việc tiêu thụ acid béo chưa no có một
nối đôi (MUFA) (p>0,05) và acid béo chưa no nhiều nối đôi (PUFA) với các chỉ tiêu
lipid máu (p>0,05). Hành vi ăn uống của con người vốn dĩ vừa đa dạng vừa khó đo
lường một cách chính xác, mà nguồn cung cấp acid béo chưa no chủ yếu là từ dầu thực
110
vật, đây là một trong số những thực phẩm tiêu thụ, bằng kỹ thuật hỏi ghi 24 giờ qua,
việc thu thập con số đo lường chính xác gặp nhiều khó khăn nhất, do thực phẩm này
được sử dụng phần lớn trong khâu chế biến, số lượng dầu sử dụng thường bị che lấp ở
những thức ăn thành phẩm, có thể chính điều này đã ảnh hưởng đến việc đo lường mối
liên quan giữa MUFA và PUFA với tình trạng RLCHLPM trong nghiên cứu.
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy vai trò của chất xơ trong chế độ ăn với nguy
cơ của bệnh tim mạch và mối liên quan giữa chất xơ với chuyển hóa lipid, chuyển hóa
glucose và các giá trị sinh học khác [96,151,161]. Theo kết quả nghiên cứu của chúng
tôi, tiêu thụ dưới 20g chất xơ/ngày, nguy cơ dẫn đến RLCHLPM sẽ tăng lên 2,1 lần
(bảng 3.4) so với việc tiêu thụ từ 20g chất xơ/ngày trở lên. Kết quả nghiên cứu của
Davidson, sử dụng cám hạt ngũ cốc là một phần của chế độ ăn giảm hàm lượng chất
béo, góp phần giảm nguy cơ của bệnh mạch vành [54]. Phân tích 67 nghiên cứu thử
nghiệm cho thấy, tiêu thụ 2-10g/ngày chất xơ hòa tan làm giảm nhẹ nhưng có ý nghĩa
thống kê cholesterol máu. Mức độ giảm cholesterol liên quan đến loại chất xơ hòa tan.
Hiệu quả tác động lên TC dao động từ −18% đến 0% đối với những thử nghiệm sử
dụng sản phẩm yến mạch, từ −17% đến 3% đối với psyllium, từ −16% đến −5% đối
với pectin [106].
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ mới đưa ra nhận định về chất xơ nói chung
chưa phân định giữa chất xơ hòa tan và không hòa tan, tuy nhiên, cả hai loại chất xơ
đều có lợi. Ăn cả hai loại chất xơ giúp tăng lượng chất xơ khẩu phần. Chất xơ hòa tan
trong hệ tiêu hóa giúp đào thải trực tiếp cholesterol theo phân. Tại ruột non, chất xơ
gắn kết các phân tử cholesterol thành khối do đó ngăn cản quá trình hấp thu cholesterol
vào máu và bám vào thành mạch. Chất xơ hòa tan hấp thu nước tạo thành dạng gel làm
tăng cảm giác no, điều này giúp giảm cân. Giảm cân cũng giúp giảm cholesterol. Mặc
dù chất xơ không hòa tan không có hiệu quả trực tiếp lên cholesterol, nó giúp giảm
cholesterol bằng cách tham gia kiểm soát cân nặng [106].
111
4.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng RLCHLPM.
4.2.1. Sự chấp nhận can thiệp.
Tỏi là một phần trong khẩu phần ăn của chúng ta trong nhiều thế kỷ qua, như
một thực phẩm được sử dụng nói chung [145], tỏi nằm trong danh sách thực phẩm
được công nhận rộng rãi là an toàn (GRAS) do Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm
Hoa kỳ (FDA) phê duyệt. Các tiêu chuẩn để xét duyệt chứng nhận GRAS thông qua
các nghiên cứu khoa học, hay chất đó được chấp nhận sử dụng thông qua các kinh
nghiệm sử dụng thực phẩm phổ biến, đòi hỏi lịch sử sử dụng của một số lượng người
tiêu dùng và một lượng thực phẩm đủ thỏa đáng. Tuy vậy, để đảm bảo an toàn tuyệt
đối cho các đối tượng tham gia nghiên cứu này, viên tỏi sử dụng trong liệu pháp can
thiệp được kiểm nghiệm, phân tích đánh giá chất lượng vệ sinh an toàn và cung cấp
cho đối tượng sau khi có chứng nhận đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tỏi được công nhận là an toàn và phạm vi liều rộng thông qua các nghiên cứu
thử nghiệm như nuôi chuột bằng tỏi với liều 2g/kg thể trọng trong 6 tháng không tìm
thấy bất kỳ tác dụng phụ nào, điều trị tỏi dài hạn với liều gấp 3 liều thông thường cùng
với dầu cá, không tìm thấy tác dụng phụ trên chuột [147]. Gần đây nhất trong kết quả
một phân tích meta dựa trên cơ sở số liệu của 39 nghiên cứu thử nghiệm hiệu quả của
chế phẩm tỏi lên các chỉ tiêu lipid máu cho thấy, chế phẩm tỏi được chấp nhận cao
trong tất cả các nghiên cứu với tác dụng phụ ở mức tối thiểu, có thể coi các chế phẩm
tỏi này như là một lựa chọn cho liệu pháp điều trị thay thế an toàn hơn so với những
thuốc hạ cholesterol thông thường trên những bệnh nhân có RLCHLPM ở mức độ nhẹ
[133]. Bên cạnh đó, một vài tác dụng phụ có liên quan đã được báo cáo trong các
nghiên cứu lâm sàng sử dụng tỏi và chế phẩm. Đa số báo cáo tác dụng phụ không rõ
ràng. Buồn nôn, khó chịu trong dạ dày ruột là những phàn nàn hay gặp [41]. Một điều
tra của Koch (1995) cho thấy phản ứng dị ứng khi sử dụng tỏi trong tổng số 39 công bố
trong các năm từ 1938 đến 1994. Đa số các trường hợp này liên quan dị ứng biểu hiện
112
trên da, có một số trường hợp nặng hơn, những người có nghề nghiệp tiếp xúc với tỏi
[93]. Đôi khi có một số báo cáo về viêm kết mạc dị ứng, viêm mũi dị ứng, viêm phế
quản dị ứng xảy ra khi ăn hay hít phải tỏi [58]. Báo cáo khác về tác dung phụ của tỏi
bao gồm phù, đau đầu, hoa mắt chóng mặt và vã mồ hôi [41].
Trong nghiên cứu của chúng tôi khi đánh giá khả năng chấp nhận can thiệp của
các đối tượng tham gia thông qua việc theo dõi tác dụng phụ của việc sử dụng viên tỏi
(bảng 3.12), không có trường hợp nào bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tác dụng phụ của
tỏi, hơi thở và cơ thể có mùi tỏi là thường gặp và chiếm đa số (23 đối tượng) chiếm
41,8%, thấp hơn so với tỷ lệ 57% ở nhóm sử dụng tỏi tươi trong nghiên cứu của
Christopher D. [50]. Trong cuốn hướng dẫn sử dụng thảo dược của Schulz V đã viết,
tác dụng phụ thường gặp nhất của sử dụng tỏi đó là hơi thở có mùi khó chịu. Thậm chí
50% người sử dụng cơ thể sản sinh ra “mùi hôi của tỏi”, tác dụng phụ khác hiếm gặp.
Mùi hăng này là do allyl methyl sulfide (AMS), là một hợp chất được hình thành trong
quá trình trao đổi chất của các hợp chất lưu huỳnh trong tỏi. Allyl methyl sulfide một
khi hấp thu vào máu sẽ đi đến phổi và gây ra những gì là phổ biến được biết đến như
hơi thở có mùi tỏi. Nó cũng được tiết ra từ các lỗ chân lông trên bề mặt da gây ra mùi
cơ thể hăng. Đây là tác dụng phụ không mong muốn và thường gặp nhất của việc sử
dụng tỏi [140].
Một số biểu hiện khó chịu ở dạ dày như ợ hơi, nóng bụng, đầy bụng là những
biểu hiện không mong muốn ít gặp hơn, chiếm 10,9% trong nghiên cứu này, xảy ra chủ
yếu vào 2 tuần đầu tiên của nghiên cứu nguyên nhân chính là do các đối tượng không
tuân thủ theo đúng hướng dẫn sử dụng chế phẩm, uống viên tỏi khi bụng đói, sau khi
phát hiện nguyên nhân và được tư vấn bởi nghiên cứu viên, uống viên tỏi sau khi ăn
theo đúng hướng dẫn sử dụng ban đầu, các biểu hiện này hầu như không xuất hiện
trong khoảng thời gian 2 tháng cuối của nghiên cứu. Tương tự với nghiên cứu của
Christopher D, biểu hiện rối loạn tiêu hóa khác như đau bụng, đi ngoài phân lỏng và dị
113
ứng không thấy xuất hiện trong nghiên cứu của chúng tôi [50]. Không hoàn toàn giống
với nghiên cứu theo dõi trên 1.997 người sử dụng tỏi hàng ngày trong thời gian 16 tuần
cho thấy 6% có cảm giác buồn nôn, 1,3% hoa mắt chóng mặt, 1,1% có phản ứng dị ứng
[140].
Mặc dù gặp phải một số tác dụng phụ không mong muốn, đặc biệt là hơi thở, cơ
thể có mùi tỏi tạo cảm giác không thực sự thoải mái cho người sử dụng cũng như
người xung quanh, nhưng có lẽ những tác dụng phụ này không phải là vấn đề nghiêm
trọng gây ảnh hưởng nhiều đến khả năng chấp nhận can thiệp của các đối tượng tham
gia nghiên cứu, vì kết quả thực tế cho thấy, sau 3 tháng can thiệp, chỉ có 4 đối tượng
không uống đủ 85% số thuốc, trong đó 2 đối tượng không uống đủ thuốc do quên,
không chấp nhận can thiệp do tác dụng phụ xảy ra trên 2 đối tượng (chiếm 3,6%). Kết
quả này rất đáng để quan tâm xem xét trong việc lựa chọn liệu pháp điều trị thay thế an
toàn hơn so với những thuốc hạ cholesterol thông thường hiện nay.
4.2.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng RLCHLPM.
Sau thời gian 3 tháng, với liệu pháp can thiệp sử dụng viên tỏi-folate. Ở nhóm
can thiệp, nồng độ cholesterol toàn phần giảm 0,31mmol/l (p<0,01) (bảng 3.15) so với
thời điểm khi bắt đầu nghiên cứu, so với mức giảm 0,04mmol/l ở nhóm chứng sự khác
biệt này mang ý nghĩa thống kê (p<0,01). Tương tự như vậy đối với chỉ tiêu LDL_C
giảm 0,41mmol/l (p<0,05) so với thời điểm ban đầu và so với mức giảm 0,09mmol/l ở
nhóm chứng sự khác biệt này cũng mang ý nghĩa thống kê (p<0,01). Sự thay đổi có ý
nghĩa các chỉ tiêu cholesterol toàn phần và LDL_C trong nghiên cứu có thể cho là
những minh chứng cho hiệu quả của viên tỏi-folate đối với tình trạng RLCHLPM vì
các lý do sau:
Thứ nhất: Đây là một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối
chứng, là một phương pháp nghiên cứu dịch tễ đặc thù, là một công cụ tối ưu để
so sánh các liệu pháp điều trị.
114
Thứ hai: Số lượng đối tượng hay cỡ mẫu nghiên cứu được tính toán dựa trên
công thức tính cỡ mẫu trong thử nghiệm lâm sàng với hệ số tin cậy 95%, độ
mạnh của nghiên cứu là 90% để phát hiện ra sự khác biệt giữa nhóm nhận liệu
pháp can thiệp và nhóm không nhận liệu pháp can thiệp, đảm bảo ý nghĩa về
mặt thống kê trong việc đưa ra kết luận cho các kết quả nghiên cứu.
Thứ ba: Các đối tượng nghiên cứu và các điều kiện nghiên cứu được kiểm soát
chặt chẽ
- Tất cả đối tượng tham gia nghiên cứu được chọn tại cùng một thời điểm,
địa điểm với tiêu chí rõ ràng.
- Các đối tượng sau khi được tuyển chọn, phân bổ một cách ngẫu nhiên
vào nhóm nhận can thiệp và không nhận can thiệp.
- Trong suốt thời gian 3 tháng tiến hành nghiên cứu, tất cả các đối tượng
đều được theo dõi, đo lường kết quả và ghi chép lại như tình hình sức
khỏe nói chung, sự tuân thủ liệu pháp can thiệp (tác dụng phụ, số viên
thuốc sử dụng…) theo mẫu phiếu định sẵn hoặc gặp ngẫu nhiên và phỏng
vấn trực tiếp việc sử dụng thuốc của một số đối tượng.
Thứ 4: Kết quả ở các bảng từ 3.6 đến bảng 3.10 và các bảng từ 3.17 đến 3.19
cho thấy, tại thời điểm trước khi tiến hành can thiệp và thời điểm kết thúc can
thiệp các đối tượng ở hai nhóm nghiên cứu là tương đồng về độ tuổi, cấu trúc cơ
thể, chế độ ăn uống và luyện tập.
Thứ 5: Chỉ những số liệu thu thập được từ những đối tượng sử dụng 85% số
viên thuốc được phát trở lên và có đầy đủ kết quả xét nghiệm máu hai thời điểm
trước và sau nghiên cứu mới được đưa vào tính toán đánh giá hiệu quả của can
thiệp. Số liệu sau khi được thu thập sẽ được nạp vào phần mềm EPI data, sau đó
115
số liệu sẽ được chuyển sang SPSS 10.0 để xử lý bằng những kỹ thuật thống kê
thích hợp.
Thứ 6: Viên tỏi sử dụng trong nghiên cứu, việc xây dựng công thức, quy trình
sản xuất, hình thành sản phẩm, kiểm nghiệm, phân tích đánh giá chất lượng vệ
sinh an toàn thực phẩm ngay sau sản xuất và theo thời gian bảo quản, xây dựng
hồ sơ công bố sản phẩm về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đã được thực
hiện và nghiệm thu trong nội dung Đề tài nhánh cấp Nhà nước số KC.10.05/06-
10 do Viện Dinh dưỡng và Xí nghiệp Dược Hậu Giang phối hợp thực hiện (phụ
lục).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tương tự với kết quả nghiên cứu:
Năm 1993 của Jain và cộng sự trên 42 đối tượng RLCHLPM, liệu pháp can
thiệp cũng là sử dụng viên bột tỏi trong thời gian 12 tuần nhưng với liều
900mg/ngày. Các đối tượng được lấy máu hai lần vào tuần thứ 6 và 12. Các
chỉ tiêu lipid máu không có sự khác biệt trong từng nhóm cũng như so sánh
giữa hai nhóm ở tuần thứ 6, nhưng sang tuần thứ 12, TC và LDL_C giảm
đáng kể ở nhóm can thiệp [87].
Việc giảm có ý nghĩa thống kê nồng độ cholesterol và LDL_C sau can thiệp
trong nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn thống nhất với kết quả nghiên cứu
của Steiner năm 1996, khi cung cấp 7,2g/ngày dịch chiết tỏi cho 20 đối
tượng ở nhóm can thiệp trong thời gian 44 tuần [143].
Khi đem so sánh với nghiên cứu có quy mô lớn hơn của Mader vào những năm
1990 [109]:
Trên 261 đối tượng RLCHLPM ở nhiều trung tâm với nồng độ TC ban đầu
là 5,2-7,7mmol/l và/hoặc TG 2,3-3,4 mmol/l. Đối tượng được phân bổ ngẫu
nhiên, mù kép vào 2 nhóm, một nhóm uống viên tỏi 200mg, 4 lần/ngày, tổng
116
cộng 800mg/ngày, nhóm còn lại uống viên giả dược với số lượng tương tự
trong thời gian 16 tuần. Ở nhóm được uống viên tỏi TC giảm đáng kể (14%)
trên đối tượng có TC ban đầu ở mức 6,5-7,7mmol/l so với những đối tượng
có mức TC ban đầu thấp hơn (7%).
Tương tự như trong nghiên cứu của chúng tôi, liệu pháp can thiệp ở đây
cũng là bột tỏi với liều 800mg/ngày, nhưng lại được sử dụng trong thời gian
dài hơn (16 tuần), chỉ tiêu LDL_C không có sự cải thiện.
Lý do lớn nhất có thể dẫn đến sự khác biệt này đó là do Mader tiến hành
nghiên cứu trên quy mô rộng tại nhiều trung tâm, việc phân tích mẫu được
tiến hành một cách cục bộ tại mỗi trung tâm theo cách riêng do vậy dẫn đến
sai số đo lường tiềm tàng là điều khó tránh.
Sự thay đổi nồng độ triglycerid và HDL_C trong nghiên cứu của chúng tôi không
có ý nghĩa thống kê. Khác với kết quả nghiên cứu ngẫu nhiên mù kép, có đối chứng
của Fumiko vào năm 2009 tại Nhật, trên 55 người khỏe mạnh có nồng độ TG huyết
thanh từ 120 đến 200mg/dl tại thời điểm ban đầu, phân bổ ngẫu nhiên vào hai nhóm
uống dịch chiết tỏi lên men với Monascus pilosus (MGFE), 4viên/ngày tổng cộng
900mg dịch chiết tỏi lên men với Monascus pilosus. Nhóm uống viên giả dược trong
12 tuần. TG, LDL_C được đánh giá sau mỗi 4 tuần. Kết quả cho thấy, ở tuần thứ 8 khi
đem so sánh với nhóm chứng, TG giảm có ý nghĩa thống kê (p<0,01), TC (p<0,01),
LDL_C (p<0,001), tỷ lệ LDL_C/HDL_C (p<0,001). TG ở nhóm can thiệp giảm 14,9%;
14,8% và 1,1% lần lượt ở các tuần 4; 8 và 12. Ngược lại,TG ở nhóm chứng lại có xu
hướng gia tăng 7,4%; 9,4% ở tuần 8;12. Nồng độ LDL_C ở nhóm can thiệp giảm
12,5%; 14,2% và 13,6% ở các tuần 4;8 và 12 [67]. Sự khác biệt này có thể do:
Thứ nhất liệu pháp can thiệp Fumiko sử dụng ở đây là dịch chiết tỏi lên men
thay cho bột tỏi, đây rất có thể là một trong các lý do dẫn đến sự khác biệt về
kết quả nghiên cứu. Nhìn chung, phương pháp sử dụng để chế biến tỏi ảnh
117
hưởng đáng kể đến hợp chất sulfur, đó là hợp chất chiếm ưu thế và đáp ứng
sinh học của tỏi [84]. Ngoài ra tỷ lệ hợp chất sulfur này trong củ tỏi tươi phụ
thuộc vào trạng thái của tỏi, đất, điều kiện khí hậu, độ dài của khoảng thời gian
giữa việc thu hoạch, tiêu thụ tỏi cũng như phương pháp điều chế [128]. Từ
những năm 1990, Augusti KT đã tìm ra sự khác biệt về thành phần nguyên tố
sulfur trong một số chế phẩm tỏi, tỏi tươi chứa S-alkylcysteine sulfoxides (chủ
yếu là alliin), γ-glutamin-S-alkylcysteines, alkylalkane thiosulfinates (chủ yếu
là allicin), dịch chiết tỏi khô chứa S-alkylcysteine sulfoxides (chủ yếu là alliin),
γ-glutamin-S-alkylcysteines, alkylalkane thiosulfinates (chủ yếu là allicin), hợp
chất thiosulfinate transformation, dầu tỏi chưng cất bằng hơi chứa những hợp
chất biến đổi thiosulfinate: diallyl, allylmethyl, dimethyl sulfides, dịch chiết tỏi
già chứa γ-glutamin-S-alkylcysteines [37].
Thứ hai: Trong nghiên cứu của Fumiko, các chỉ tiêu lipid máu được đánh giá
mỗi 12 tuần. Kết quả cho thấy có mối tương tác giữa hiệu quả và thời gian sử
dụng dich chiết tỏi lên men, trái ngược với nồng độ LDL_C (giảm 12,5%;
14,2%; 13,6% ở tuần 4;8;12), hiệu quả lên nồng độ TG huyết thanh của dịch
chiết tỏi lên men lại giảm theo thời gian (giảm 14,9%; 14,8% và 1,1% ở tuần
4;8;12). Quay lại với liệu pháp can thiêp bằng sử dụng bột tỏi trong nghiên cứu
của chúng tôi, rất có thể hiệu quả lên TG lại xuất hiện và tăng dần tại thời điểm
13 tuần hay lâu hơn nữa. Cần có nghiên cứu dài hơi hơn để đưa ra kết luận.
Thứ ba: Đề cập đến mối liên quan giữa hiệu quả và mức độ tổn thương. Theo
kết quả nghiên cứu của Mader cho thấy ở nhóm can thiệp TC giảm đáng kể
(14%) trên đối tượng có TC ban đầu ở mức 6,5-7,7 mmol/l so với những đối
tượng có mức TC ban đầu thấp hơn (7%) [109]. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, tại thời điểm trước khi can thiệp nồng độ TG trung bình của các đối tượng ở
nhóm can thiệp là 2,73±1,97mmol/l thấp hơn khá nhiều so với nồng độ TG
118
trung bình của các đối tượng trong nghiên cứu của Fumiko (3,2-5,3mmol/l).
Phải chăng, hiệu quả của tỏi sẽ nổi bật ở trên những đối tượng có chỉ tiêu lipid
huyết thanh cao hơn ở thời điểm ban đầu. Điều này hoàn toàn phù hợp với kết
quả thể hiện ở hình 3.3, cho thấy có mối liên quan nghịch chiều giữa nồng độ
triglyceride huyết thanh ban đầu với sự cải thiện nồng độ triglyceride huyết
thanh, nồng độ triglyceride ban đầu càng cao thì sau can thiệp nồng độ này
càng giảm.
Thứ 4: Câu hỏi đặt ra, liệu bột tỏi hay dịch chiết tỏi có hiệu quả hơn đối với tình
trạng RLCHLPM, hay dịch chiết tỏi có hiệu quả hơn đối với chỉ tiêu TG?, Cần
có những nghiên cứu đủ độ tin cậy và phù hợp để trả lời câu hỏi này.
Thứ 5: Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng như nghiên cứu của Fumiko việc
xác định hoạt tính sinh học của các hợp chất hoạt tính chưa được thực hiện do
phương pháp xác định hoạt tính chưa sẵn có ở Việt Nam. Theo Lawson LD
những thử nghiệm lâm sàng sử dụng viên bột tỏi để đánh giá bất kỳ hiệu quả
nào của tỏi mà có liên quan đến allicin, không thể được coi là có giá trị khi kết
quả thử nghiệm cho thấy hiệu quả âm tính, trừ phi ít nhất là việc giải phóng
allicin từ chế phẩm đã được xác định bằng phương pháp USP 724A [102]. Do
vậy tiến hành những nghiên cứu chuyên sâu hơn trong tương lai để đưa ra đánh
giá chính xác về hiệu quả của viên tỏi lên chỉ tiêu triglyceride huyết thanh là
việc nên làm.
Khác với những minh chứng về hiệu quả của tỏi lên các chỉ tiêu cholesterol toàn
phần và LDL_C mà kết quả của nghiên cứu chúng tôi mang lại:
Nghiên cứu của Simons và cộng sự tiến hành năm 1995 cho kết quả hoàn
toàn trái ngược. Ba mươi đối tượng RLCHLPM với nồng độ TC ban đầu là
6,0-7,8mmol/l và TG <3,0mmol/l, được sử dụng bột tỏi 900mg/ngày chia
làm 3 lần, trong 30 tuần, cùng với tư vấn chế độ ăn ít chất béo (dưới 30%
119
năng lượng khẩu phần), acid béo bão hòa dưới 10% năng lượng khẩu phần
và cholesterol dưới 300mg/ngày, chế độ ăn này được kiểm soát trong suốt
thời gian nghiên cứu thông qua việc ghi nhật ký và sử dụng phần mềm
thống kê tính toán thành phần dinh dưỡng trong chế độ ăn của đối tượng.
Khác với nghiên cứu của Mader và Jain. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỏi
không có hiệu quả lên các chỉ tiêu lipid máu. Đây là một nghiên cứu thử
nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, nghiên cứu này đã khắc phục được một
số hạn chế của những nghiên cứu trước như kiểm soát được yếu tố liên
quan như khẩu phần ăn, thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của đối
tượng được tính toán bằng phần mềm thống kê, thời gian can thiệp dài hơn
(30 tuần) [142]. Tuy nhiên, không thấy cung cấp số liệu về việc tuân thủ
điều trị của các đối tượng, do vậy có thể chưa được phản ánh một cách
chính xác số viên tỏi đối tượng tiêu thụ. Mặt khác, với cỡ mẫu 30, liệu đã
đủ lớn để việc so sánh giữa các nhóm có ý nghĩa về mặt thống kê?.
Neil và cộng sự, năm 1996, cũng bằng thiết kế nghiên cứu thử nghiệm, mù
kép, ngẫu nhiên có đối chứng trong thời gian 24 tuần, sử dụng bột tỏi khô
300mg/lần, 3 lần/ngày, trên 115 đối tượng với nồng độ TC ban đầu từ 6,0
đến 8,5mmol/l và LDL_C≥3,5mmol/l. Các đối tượng được yêu cầu tiêu thụ
chất béo dưới 30% năng lượng khẩu phần, acid béo bão hòa dưới 10% năng
lượng khẩu phần, cholesterol dưới 300mg/ngày và tiêu thụ 35g chất
xơ/ngày. Viên giả dược được bọc bên ngoài bằng bột tỏi để không thấy sự
khác biệt với viên tỏi thật. Việc tuân thủ điều trị được xác định bằng cách
đếm những viên còn lại. Mùi tỏi, tác dụng phụ và khả năng chấp nhận được
ghi lại, tất cả mẫu máu được phân tích tập trung vào thời điểm kết thúc
nghiên cứu. Số liệu thu thập được của những đối tượng tuân thủ từ 75%
liệu pháp can thiệp trở lên mới được đưa vào phân tích [122]. Giống như
nghiên cứu của Simons, không tìm thấy sự khác biệt về nồng độ lipid huyết
120
thanh giữa hai nhóm. Trong nghiên cứu này, mặc dù các đối tượng được
yêu cầu hạn chế chất béo khẩu phần, nhưng không thấy bất kỳ số liệu nào
cho thấy khẩu phần ăn của đối tượng nghiên cứu trong cả hai nhóm được
phân tích đánh giá, vậy liệu khẩu phần ăn có thể là nguy cơ nhiễu ảnh
hưởng đến kết quả nghiên cứu?.
Trong thời gian 12 tuần, sử dụng hai trung tâm, bằng nghiên cứu thử
nghiệm ngẫu nhiên mù kép có đối chứng, Isaacsohn và cộng sự đã nghiên
cứu hiệu quả của việc bổ sung 900mg bột tỏi/ngày, trên 50 đối tượng
RLCHLPM với nồng độ LDL_C ban đầu ≥4,1mmol/l và TG <4,0mmol/l
kết hợp với hạn chế chất béo trong khẩu phần ăn. Việc tuân thủ liệu pháp
can thiệp của các đối tượng đạt tỷ lệ cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỏi
không có hiệu quả làm giảm cholesterol trên những bệnh nhân RLCHLPM
[83]. Trong nghiên cứu này, các đối tượng được yêu cầu hạn chế chất béo
khẩu phần, nhưng không thấy đề cập đến cách kiểm soát. Rất có thể kết quả
nghiên cứu bị ảnh hưởng bởi sự hợp tác của các đối tượng nghiên cứu, tính
trung thực và khả năng ước lượng mô tả chính xác khẩu phần ăn cũng như
cách chế biến. Việc làm cho khẩu phần ăn ổn định mới là điều cốt yếu để
xác định khả năng làm giảm lipid thực sự, những thiếu sót về phương pháp
có thể đi kèm với ước lượng không chính xác về hiệu quả.
Gần đây, Superko và Kraus đã đưa ra kết luận tương tự cho một nghiên cứu
trong thời gian 12 tuần, mù kép, ngẫu nhiên có đối chứng trên 50 đối tượng
RLCHLPM với 5,2mmol/l>LDL_C>3,9mmol/l. Hỏi ghi khẩu phần 3 ngày
được tiến hành ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu. Đối tượng được uống viên
bột tỏi 300mg, 3 lần/ngày. Không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
mức lipid máu giữa hai nhóm [147]. Khắc phục hạn chế của một số nghiên
cứu trước, Superko đã quan tâm đến việc kiểm soát yếu tố nguy cơ nhiễu.
121
Nhưng với cỡ mẫu 50 (25 đối tượng cho mỗi nhóm), thì độ mạnh của trắc
nghiệm liệu có đủ để phát hiện ra được sự khác biệt giữa các nhóm đem so
sánh, nếu quả thật sự khác biệt đó là có trong quần thể. Việc kiểm nghiệm,
phân tích đánh giá chất lượng, thành phần dinh dưỡng của viên tỏi ngay sau
khi xuất xưởng và theo thời gian bảo quản không được đề cập đến trong
nghiên cứu, câu hỏi đặt ra, liệu hàm lượng tỏi trong viên thuốc có luôn đạt
mức 300mg trong suốt thời gian nghiên cứu?. Quan trọng hơn nữa, yếu tố
thiết lập hiệu quả dược lý trong cơ thể của tỏi đó là hoạt tính sinh học của
allicin rất có thể đã gặp phải trở ngại?:
- Khi tỏi tươi bị nghiền nát, sự hình thành allicin được hoàn tất trong
thời gian khoảng 6 giây. Với những chế phẩm tỏi, cơ hội hình thành
allicin sẽ không xảy ra khi tỏi chưa được tiêu thụ, nói cách khác sự
hình thành allicin chỉ xảy ra sau khi tiêu thụ chế phẩm tỏi, khi viên tỏi
bị hòa tan. Tuy nhiên, do hoạt tính của alliinase bị ảnh hưởng rất lớn
bởi môi trường dạ dày ruột (acid dạ dày, các protease ruột), bởi quá
trình chế biến sản xuất các chế phẩm và lượng allicin được sản xuất
trong cơ thể từ các chế phẩm [99]. Ảnh hưởng của pH, sự trung hòa
sau khi acid hóa, thời gian và nhiệt độ lên sự giải phóng các allyl
thiosulfinates từ chế phẩm bột tỏi đã được xác định. Tất cả các allyl
thiosulfinates (allicin, 1-propenyl allyl và allyl 1-propenyl) được hình
thành trong điều kiên pH tối ưu từ 4,5 đến 5,0. Methyl propenyl
thiosulfinates (allyl methyl + methyl allyl và 1-propenyl methyl +
methyl 1-propenyl) và dimethyl thiosulfinate ở pH lần lượt 6,5-7,0 và
5,5. pH dưới 3,6 không có bất kỳ loại thiosulfinates nào được hình
thành. Dipropenyl thiosulfinates được hình thành trong 0,3 phút ở 370C, trong khi methyl thiosulfinates không được hình thành cho đến
122
tận 3,5 phút. Allyl 1-propenyl thiosulfinate được hình thành nhanh
nhất và lại không bền vững nhất. Sự ổn định của dipropenyl
thiosulfinates được cải thiện ở pH 4,5 hay thấp hơn. Sấy tỏi ở nhiệt độ 600C không gây ảnh hưởng đến alliin hay tỷ lệ hình thành dipropenyl
thiosulfinates, nhưng làm giảm trans-1-propenylcysteine sulfoxide
(isoalliin) và sự hình thành methyl thiosulfinates. Như vậy, lớp vỏ bao
chế phẩm giúp kháng acid dạ dày cần thiết cho việc giải phóng
thiosulfinate và khâu chế biến, sản xuất các chế phẩm là hai yếu tố
chính ảnh hưởng đến hoạt tính alliinase trong tỏi [99].
- Hầu hết chế phẩm tỏi bổ sung được chuẩn hóa dựa trên hoạt chất
allicin và là dạng viên bao tan trong ruột ngăn sự phá hủy acid dạ dày
bất hoạt enzyme hình thành allicin (alliinase). Trong một nghiên cứu
của Lawson LD vào năm 2001, Để xác định xem liệu những chế phẩm
này giải phóng lượng allicin theo yêu cầu trong điều kiên tương tự
trong dạ dày ruột hay không?, ông đã sử dụng phương pháp 724A
phân hủy USP, phương pháp 724A phân hủy USP được áp dụng cho
tất cả 24 loại chế phẩm dạng viên bao. Cho thấy, hầu hết các chế phẩm
việc bao viên có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đối với allicin. Tuy
nhiên, hầu hết các chế phẩm (trừ một loại), giải phóng allicin hòa tan
chậm, với 83% loại chế phẩm giải phóng allicin ít hơn 15% so với trữ
lượng. Việc giải phóng allicin thấp được tìm thấy là do sự suy giảm
hoạt tính của allinase , tốc độ phân hủy của chế phẩm cũng ảnh hưởng
đến hoạt tính allinase. Chỉ khi viên thuốc có hoạt tính allinase cao và
phân hủy nhanh thì mới cho thấy sự giải phóng allicin cao. Phương
pháp phân hủy USP 724A để ước tính lượng allicin giải phóng trong
cơ thể là phương pháp có giá trị, bằng việc theo dõi mức trao đổi
allicin, allyl methyl sulfide trong hơi thở. Lawson đã đưa ra kết luận,
123
chế phẩm bột tỏi bổ sung nên chuẩn hóa dựa trên sự giải phóng allicin
hòa tan hơn là chuẩn hóa dựa trên trữ lượng [101].
- Theo phân tích của Lawson về sự thất bại của 5 nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng sử dụng bột tỏi gần đây trong việc cho thấy sự giảm
có ý nghĩa nồng độ lipid huyết thanh trái ngược với nhiều kết quả
nghiên cứu trước đây khi sử dụng chế phẩm tỏi tương tự. Khả năng
giải phóng allicin của các loại chế phẩm sử dụng trong những nghiên
cứu thử nghiệm cho kết quả dương tính và âm tính từ năm 1989 đến
năm 1997 được xác định dưới điều kiện tương tự trong dạ dày ruột,
được xác định bằng phương pháp USP 724A. So với những chế phẩm
mới hơn, phương pháp này đã cho thấy những chế phẩm trước kia bền
vững hơn đối với sự phân hủy của acid (2,5 giờ so với 1,5 giờ,
p<0,001) và những chế phẩm này giải phóng allicin nhiều hơn gấp 3
lần (44% trữ lượng so với 15%, p<0,001). Do vậy, những đối tượng
trong những nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng cho kết quả âm tính gần
đây có thể được nhận một lượng allicin ít hơn đáng kể so với những so
với những đối tượng trong những nghiên cứu cho kết quả dương tính
trước kia, điều này dẫn đến sự không nhất quán giữa các kết quả
nghiên cứu [102].
- Năm 2005, Larry D tiến hành nghiên cứu xác định lượng allicin giải
phóng trong môi trường phân hủy tương tự dạ dày ruột của các chế
phẩm bột tỏi được sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu thử nghiệm
lâm sàng từ năm 1994 đến năm 2000 cho thấy lượng allicin giải phóng
dao động từ 14% đến 18%. Đánh giá tương tự 24 chế phẩm viên bao
bảo vệ khỏi acid dịch vị lượng allicin giải phóng từ 3-94% trữ lượng
trong chế phẩm, trung bình là 13%, cho thấy trở ngại trong việc hình
thành allicin từ các chế phẩm trong môi trường dạ dày ruột. Thực vậy,
124
hoạt tính sinh học sẵn có của allicin, được đo lường bằng allyl methyl
sulfide trong hơi thở, có thể lên tới >95% đối với những chế phẩm giải
phóng 94% allicin hòa tan, trong khi những chế phẩm có trữ lượng
alliin tương tự nhưng hoạt tính alliinase thấp chỉ đạt 5% [103].
- Tính đến thời điểm trước năm 2002, hầu hết các nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng được tiến hành với những chế phẩm tỏi chưa được
biết hoạt tính allicin, chỉ duy nhất một nghiên cứu thử nghiệm, sự giải
phóng allicin hòa tan được báo cáo, đó là nghiên cứu thử nghiệm của
Kannar D đánh giá hiệu quả của viên bao bột tỏi được chuẩn hóa dựa
trên khả năng giải phóng allicin (hàm lượng allicin được giải phóng là
9,6mg) trên 46 đối tượng có RLCHLPM mức nhẹ và trung bình. Sau
12 tuần, nhóm can thiệp (22 đối tượng) TC giảm có ý nghĩa thống kê
(-0,36 mmol/l; -4,2%) và LDL_C giảm (-0,44 mmol/l, -6,6%) trong
khi nhóm chứng (24 đối tượng) TC tang (0,13 mmol/l; 2,0%) và
LDL_C tăng (0,18 mmol/l; 3,7%). HDL_C và TG thay đổi không có ý
nghĩa thống kê [91].
Như vậy, những thử nghiệm lâm sàng sử dụng viên bột tỏi để đánh giá bất kỳ
hiệu quả nào của tỏi mà có liên quan đến allicin. Ngoài việc tập trung vào thiết kế một
phương pháp nghiên cứu đạt chất lượng cần xác định (1) thành phần của những hợp
chất sulfur trong chế phẩm tỏi sử dụng, (2) tính ổn định của những hợp chất hoạt tính
trong thời gian bảo quản và đặc biệt là dưới điều kiện sử dụng của nghiên cứu và (3)
hoạt tính sinh học của các hợp chất hoạt tính. Điều mà hầu hết các nghiên cứu từ trước
đến nay chưa thực hiện được. Nghiên cứu của chúng tôi, trong điều kiện phương pháp
xác định hoạt tính sinh học của các hợp chất hoạt tính trong chế phẩm sử dụng trong
can thiệp chưa sẵn có ở Việt Nam, đã mang lại những hạn chế nhất định. Nghiên cứu
không đạt được mức tối ưu như mong đợi để có thể ước lượng một cách chính xác nhất
125
về hiệu quả của viên tỏi sử dụng trong nghiên cứu lên các chỉ tiêu lipid máu. Tuy
nhiên, với kết quả thu được từ nghiên cứu này không những góp phần minh chứng cho
hiệu quả của tỏi lên tình trạng RLCHLPM, mà còn là cơ sở để phát triển các phương
pháp xác định chất lượng của viên tỏi, phục vụ cho những nghiên cứu sâu hơn trong
tương lai.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chế phẩm sử dụng trong liệu pháp can thiệp là
viên tỏi – folate, thành phần chính trong chế phẩm là bột tỏi với hàm lượng 200mg,
ngoài ra còn bổ sung thêm acid folate với hàm lượng 0,1mg. Cơ sở để bổ sung thêm
folate vào chế phẩm đó là:
Thứ nhất: Folate thuộc nhóm vitamin tan trong nước, hoạt tính sinh học của
folate mất đi nhanh chóng trong quá trình thu hoạch, bảo quản, chế biến hay
bào chế. ½ thậm chí ¾ hoạt tính sinh học ban đầu của folate bị mất trong quá
trình này. Do vậy nhu cầu folate rất khó đáp ứng nếu chỉ thông qua chế độ ăn
uống thông thường [73]. Theo các điều tra ở Mỹ đa số mọi người không ăn
đủ folate hàng ngày. Nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng gặp phải tình
trạng thiếu hụt Folate tương tự. Ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu của Viện
Dinh dưỡng năm 2005 tại Hà Nội và Hải Dương cho thấy 63% phụ nữ trong
độ tuổi sinh đẻ có hàm lượng folate trong máu dưới mức tối ưu (905
nmol/L). Vì vậy, FAO/WHO khuyến cáo cần bổ sung folate bằng việc phối
hợp thức ăn tự nhiên và các sản phẩm có tăng cường. Nhu cầu acid folic
khuyến nghị cho người trưởng thành là 400mcg/ngày [105].
Thứ hai: Nồng độ homocysteine máu tăng được xem là yếu tố nguy cơ với
bệnh lý tim mạch có thể thay đổi được [154]. Folat khẩu phần là yếu tố quyết
định nồng homocysteine máu. Thiếu hụt folate dẫn đến giảm hoạt động chu
126
trình methyl, giảm hoạt động chu trình methyl dẫn đến tăng nồng độ
homocystein máu [130].
Các nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả giảm nồng độ homocystein máu của
việc bổ sung folate đã rõ ràng [21,71], việc cung cấp thêm bằng chứng là điều không
cần thiết. Chính vì vậy trong nghiên cứu này chúng tôi đã không tiến hành thu thập chỉ
tiêu homocystein huyết thanh hay không cung cấp bằng chứng liên quan đến hiệu quả
của folate.
127
KẾT LUẬN
5.1. Sự kết hợp giữa một số yếu tố nguy cơ và rối loạn chuyển hóa lipid máu
Từ kết quả nghiên cứu bệnh chứng trên 300 đối tượng 30-69 tuổi sống ở nội thành Hà
Nội năm 2009-2010, chúng tôi có một số kết luận sau:
- Tình trạng thừa cân, béo bụng, % mỡ cơ thể cao là yếu tố nguy cơ của RLCHLPM:
Nguy cơ mắc RLCHLPM sẽ tăng lên 1,9 lần (p<0,01) khi bị thừa cân.
Nguy cơ mắc RLCHLPM sẽ tăng lên 6,4 lần (p<0,001) khi bị béo bụng.
Nguy cơ mắc RLCHLPM sẽ tăng lên 2,5 lần khi có % mỡ cơ thể cao
(p<0,001).
- Thói quen hút thuốc lá ≥20 điếu/ngày làm tăng nguy cơ mắc RLCHLPM lên gấp
3,1 lần so với không hút thuốc (p<0,05).
- Phần trăm năng lượng từ acid béo no(SFA) khẩu phần ở mức từ 7% trở lên thì nguy
cơ mắc RLCHLPM tăng lên gấp 2,7 lần (p<0,01).
- Khẩu phần ăn ít chất xơ (dưới 20g/ngày) làm tăng nguy cơ mắc RLCHLPM lên gấp
2,1 lần (p<0,05).
- Tiền sử gia đình, tình trạng mãn kinh làm tăng nguy cơ RLCHLPM lên gấp 2 và 4
lần.
- Không thấy sự kết hợp giữa lạm dụng rượu bia, thói quen luyện tập thể thao và kiến
thức về RLCHLPM với tình trạng RLCHLPM.
- Không thấy sự kết hợp giữa phần trăm năng lượng từ lipid khẩu phần, hàm lượng
cholesterol cũng như phần trăm năng lượng từ acid béo chưa no một nối đôi và acid
béo chưa no nhiều nối đôi trong khẩu phần với tình trạng RLCHLPM (p>0,05).
128
5.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng RLCHLPM.
Từ kết quả nghiên cứu can thiệp trên 111 đối tượng 30-69 tuổi có RLCHLPM sống ở
nội thành Hà Nội năm 2009-2010, chúng tôi có một số kết luận sau:
Sau 3 tháng nghiên cứu:
Nhóm đối tượng sử dụng viên tỏi-folate, mức giảm nồng độ cholesterol toàn
phần nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (-0,31mmol/l và
0,04mmol/l, p<0,01).
Nồng độ LDL_C huyết thanh ở nhóm nhận can thiệp giảm có ý nghĩa thống kê
so với nhóm chứng (-0,41mmol/l và 0,09mmol/l, p<0,01).
Sự thay đổi nồng độ triglyceride và nồng độ HDL_C huyết thanh ở nhóm sử
dụng viên tỏi-folate và nhóm chứng đều không có ý nghĩa thống kê (-
0,01mmol/l và -0,11mmol/l, p>0,05) và (-0,01mmol/l và -0,02mmol/l, p>0,05).
Viên tỏi–folate có hiệu quả làm giảm 31,7% tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu
LDL_C; 28,2% theo chỉ tiêu cholesterol; 21,8% theo chỉ tiêu triglyceride và
4,5% theo chỉ tiêu HDL_C.
129
KHUYẾN NGHỊ
1. Kiểm soát tình trạng thừa cân, béo bụng, phần trăm mỡ cơ thể cao, tiêu thụ
acid béo no ở mức dưới 7% năng lượng khẩu phần, chất xơ ở mức từ
20g/ngày trở lên và bỏ thói quen hút thuốc lá, sẽ góp phần quan trọng để
phòng chống rối loạn chuyển hóa lipid máu, dự phòng nguy cơ đối với bệnh
tim mạch.
2. Bên cạnh các giải pháp phòng chống tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid
máu khác, sử dụng viên tỏi - folate được sản xuất trong nước, từ nguồn thực
phẩm sẵn có trong nước là giải pháp an toàn, khả thi, hiệu quả để cải thiện
tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu.
3. Cần tiến hành những nghiên cứu sâu hơn nhằm xác định thành phần của
những hợp chất sulfur trong chế phẩm tỏi sử dụng, tính ổn định của những
hợp chất hoạt tính theo thời gian và hoạt tính sinh học của các hợp chất hoạt
tính để thêm phần khẳng định hiệu quả của viên tỏi – folate lên tình trạng rối
loạn chuyển hóa lipid máu.
130
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Xuân Ninh, Nguyễn Đỗ Vân Anh, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thị
Lâm (2010), “Hiệu quả của sử dụng viên tỏi – folate trên đối tượng 30-60
tuổi có rối loạn lipid máu”, Tạp chí Y học Dự phòng, Tập XX, số 7 (115).
2. Nguyễn Đỗ Vân Anh, Nguyễn Xuân Ninh, Phùng Đắc Cam (2013), “Mối
liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid
máu ở người 30-69 tuổi tại Hà Nội ”, Tạp chí Y học Dự phòng, Tập XXIII,
số 7 (143).