1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG ----------- NGUYỄN ĐỖ VÂN ANH

MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ

VÀ HIỆU QUẢ CỦA VIÊN TỎI – FOLATE ĐỐI VỚI

TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID MÁU

TRÊN NGƯỜI 30-69 TUỔI TẠI HÀ NỘI

Chuyên ngành: Dinh Dưỡng Tiết Chế

Mã số: 62.72.73.10

LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC Người hướng dẫn khoa học

1. PGS.TS. Nguyễn Xuân Ninh

2. GS.TS. Phùng Đắc Cam

HÀ NỘI – 2014

2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG ----------- NGUYỄN ĐỖ VÂN ANH

MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ

VÀ HIỆU QUẢ CỦA VIÊN TỎI – FOLATE ĐỐI VỚI

TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID MÁU

TRÊN NGƯỜI 30-69 TUỔI TẠI HÀ NỘI

LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC HÀ NỘI – 2014

3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu

do chính tôi cùng với các đồng nghiệp thực hiện. Các

số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chưa

được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Đỗ Vân Anh

4

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới:

PGS.TS. Nguyễn Xuân Ninh, GS.TS. Phùng Đắc Cam, là những người thầy

đã đầu tư nhiều công sức và thời gian hướng dẫn tôi trong quá trình thực

hiện bản luận án này.

Viện Dinh Dưỡng – cơ quan chủ quản, khoa Dinh dưỡng Học đường và

Ngành nghề đã tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành bản luận án này.

Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Cở sở Đào tạo Sau Đại học Viện Vệ sinh

Dịch tễ Trung ương đã tổ chức học tập và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn

thành bản luận án này.

Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ Trung tâm Y tế của các phường Hàng

Bạc, Ngã Tư Sở, Điện Biên Phủ, Tương Mai và Trương Định cùng như toàn thể đối

tượng đã tham gia nghiên cứu này.

Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các anh chị kỹ thuật viên và xét nghiệm viên của công

ty Công nghệ và Xét nghiệm Y học Bệnh viện MEDLATEC đã giúp đỡ tôi rất nhiều

trong việc triển khai nghiên cứu tại cộng đồng và phân tích mẫu máu tại labo.

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp trong quá trình học

tập và nghiên cứu.

Tôi vô cùng biết ơn gia đình và bạn bè, những người đã hết lòng ủng hộ, động

viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập cũng như hoàn thành

bản luận án này.

5

MỤC LỤC

Trang

i Danh mục các chữ viết tắt…………….……………………………………….

iii Danh mục các bảng…..………………………………………………………..

iv Danh mục các hình vẽ.. …………………………………………………………

1 ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………………………

3 MỤC TIÊU ………………………………………………………………………

4 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ……………………………………………………

4 1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ LIPID……………………………………………………

4 1.1.1. Đặc tính của lipid……………………………………………………

5 1.1.2. Vai trò của lipid……………………………………………………..

6 1.1.3.Tiêu hóa và hấp thu …………………………………………………

6 1.1.4. Sử dụng, vận chuyển trong máu ……………………………………

7 1.1.5. Các typ lipoprotein …………………………………………………

7 1.1.6. Chức năng của lipoprotein ……………………………………….....

8 1.1.7. Dự trữ mỡ …………………………………………………………..

8 1.2. LIPID MÁU VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG……………………..

8 1.2.1. Sự điều hòa của nội tiết đối với chuyển hóa lipid…………………..

9 1.2.2. Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng đến chuyển hóa lipid…………..

13 1.2.3. Ảnh hưởng của một số thói quen sinh hoạt đến chuyển hóa

lipid…..

6

20 1.2.4. Thừa cân béo phì và chuyển hóa lipid ……………………………...

23 1.3. RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID MÁU………………………………...

23 1.3.1. Định nghĩa rối loạn chuyển hóa lipid máu …………………………

23 1.3.2. Phân loại rối loạn chuyển hóa lipid máu……………………………

25 1.3.3. Tình hình rối loạn chuyển hóa lipid máu……………………………

27 1.4. HIỂU BIẾT VỀ TỎI VÀ FOLATE………………………………………..

27 1.4.1. Thành phần hóa học của tỏi…………………………………………

30 1.4.2. Thực trạng nghiên cứu hiệu quả của tỏi đối với RLCHLPM .........

36 1.4.3. Hiểu biết về folate…………………………………………………..

39 CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU …………

39 2.1. GIAI ĐOẠN I………………………………………………………………..

39 2.1.1. Mục tiêu……………………………………………………………..

39 2.1.2. Thiết kế nghiên cứu ………………………………………………...

39 2.1.3. Đối tượng nghiên cứu………………….……………………………

40 2.1.4. Địa điểm nghiên cứu ……………………………………………….

40 2.1.5. Cỡ mẫu ……………………………………………………………..

42 2.1.6. Chọn mẫu …………………………………………………………...

43 2.1.7. Phương pháp thu thập, kỹ thuật thu thập các chỉ tiêu, biến số……

45 2.1.8. Chỉ tiêu đánh giá ……………………………………………………

47 2.2. GIAI ĐOẠN II………………………………………………………………

7

47 2.2.1. Mục tiêu …………………………………………………………….

47 2.2.2. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………...

54 2.2.3. Phân tích số liệu …………………………………………………….

54 2.3. ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU ………………………………………………...

55 2.4. KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ VÀ CÁCH KHẮC PHỤC …………………….

57 CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ…………………………………………………….......

57 3.1. Sự kết hợp giữa một số yếu tố nguy cơ và tình trạng RLCHLPM……...

57 3.1.1. Đặc điểm hai nhóm nghiên cứu …………………………………….

58 3.1.2. Rối loạn chuyển hóa lipid máu và một số yếu tố nguy cơ………….

62 3.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi – folate đối với tình trạng RLCHLPM

……

62 3.2.1. Đặc điểm hai nhóm nghiên cứu trước khi can thiệp ………………..

66 3.2.2. Sự chấp nhận can thiệp của các đối tượng nghiên cứu ……………..

69 3.2.3. Sự thay đổi các chỉ tiêu nhân trắc …………………………………..

70 3.2.4. Sự thay đổi các chỉ tiêu lipid máu ………………………………….

3.2.5. Khẩu phần ăn và thói quen luyện tập thể thao của hai nhóm đối

tượng tại thời điểm kết thúc nghiên cứu…………………………. 81

84 CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN……………………………………………………….

84 4.1. Sự kết hợp giữa một số yếu tố nguy cơ và tình trạng RLCHLPM……...

84 4.1.1. Mối nguy cơ thừa cân, béo bụng, % mỡ cơ thể và tình trạng

RLCHLPM………………………………………………………….

8

86 4.1.2. Sự kết hợp giữa một số thói quen sinh hoạt và tình trạng

RLCHLPM………………………………………………………….

94 4.1.3. Sự kết hợp giữa khẩu phần ăn và tình trạng RLCHLPM………..

99 4.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi – folate đối với tình trạng

RLCHLPM…….

99 4.2.1. Sự chấp nhận can thiệp ……………………………………………..

4.2.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi – folate đối với tình trạng

RLCHLPM…………………………………………………………. 101

115 KẾT LUẬN……………………………………………………….

115 5.1. Sự kết hợp giữa một số yếu tố nguy cơ và tình trạng RLCHLPM……...

116 5.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi –folate đới với tình trạng

RLCHLPM……..

117 KHUYẾN NGHỊ…………………………………………………

118 Những đóng góp mới của luận án…………... …………………………………

119 Danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu……………………..…

TÀI LIỆU THAM KHẢO

9

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AMS Allyl Methyl Sulfide

BMI Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể)

BTM Bệnh tim mạch

CM Chylomicron

CT Cholesterol toàn phần

FDA Food and Drug Administration (Cục quản lý thực phẩm và dược

phẩm Hoa Kỳ)

FFA Free Fat Acid (Acid béo tự do)

GRAS Genarally Recognized As Save (Được công nhân rộng rãi là an

toàn)

HATT Huyết áp tâm thu

HATTr Huyết áp tâm trương

HCCH Hội chứng chuyển hóa

HDL_C High Density Lipoprotein - Cholesterol (Lipoprotein tỷ trọng

cao)

IDF International Diabetes Federation (Hiệp hội đái đường thế giới)

LDL_C Low Density Lipoprotein - Cholesterol (Lipoprotein tỷ trọng

thấp)

LP Lipoprotein

MUFA Monounsaturated Fatty Acid (acid béo chưa no có một nối đôi)

NCEP ATP III National Cholesterol Education Program Adult Treatment Panel

10

III (Chương trình giáo dục cholesterol quốc gia Mỹ, kênh điều

trị cho người lớn)

NCD Non communicable disease (Bệnh mạn tính không lây)

PUFA Polyunsaturated Fatty Acid (Acid béo chưa no có nhiều nối đôi)

RLCH Rối loạn chuyển hóa

RLCHLPM Rối loạn Lipid máu

SFA Saturated Fatty Acid (Acid béo bão hòa hay acid béo no)

SAC S-allylcysteine

VE Vòng eo

VM Vòng mông

VLDL_C Very Low Desity Lipoprotein (Lipoprotein tỷ trọng rất thấp)

TBMMN Tai biến mạch máu não

TC-BP Thừa cân – Béo phì

tFA trans Fatty Acid (Acid béo thể trans)

TG Triglycerid

THA Tăng huyết áp

TLC Therapeutic Lifestyle Change a diet (Liệu pháp điều trị bằng

thay đổi chế độ ăn)

TTDD Tình trạng dinh dưỡng

TTLTTP Tiêu thụ lương thực thực phẩm

WHO World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế Giới)

XVĐM Xơ vữa động mạch

11

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng Nội dung Trang

3.1 Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 57

3.2 Mối nguy cơ của thừa cân, béo bụng, % mỡ cơ thể và RLCHLPM 58

3.3 Sự kết hợp giữa một số thói quen sinh hoạt và RLCHLPM 59

3.4 Sự kết hợp giữa khẩu phần ăn và RLCHLPM 60

3.5 RLCHLPM và một số yếu tố nguy cơ khác 61

3.6 Các chỉ số nhân trắc và huyết áp khi bắt đầu nghiên cứu 62

3.7 Các chỉ số lipid máu (mmol/l) khi bắt đầu nghiên cứu 63

3.8 Mức tiêu thụ lương thực thực phẩm ở hai nhóm nghiên cứu tại T0 64

3.9 Đặc điểm cân đối của khẩu phần ở hai nhóm nghiên cứu tại T0 65

3.10 Thói quen luyện tập thể thao ở hai nhóm nghiên cứu tại T0 66

3.11 Tình trạng vệ sinh an toàn của viên tỏi – folate dùng trong nghiên cứu 66

3.12 Các biểu hiện của đối tượng ở nhóm can thiệp trong thời gian nghiên cứu 68

3. 13 Số đối tượng bỏ cuộc 69

3. 14 Thay đổi các chỉ số nhân trắc và huyết áp ở hai nhóm nghiên cứu 69

3. 15 Sự thay đổi nồng độ các chỉ tiêu lipid máu ở hai nhóm nghiên cứu 70

3. 16 Hiệu quả của can thiệp theo các chỉ tiêu lipid máu 79

3. 17 Mức tiêu thụ lương thực thực phẩm ở hai nhóm nghiên cứu tại T3 81

3. 18 Đặc điểm cân đối của khẩu phần ở hai nhóm nghiên cứu tại T3 82

3. 19 Thói quen luyện tập thể thao ở hai nhóm nghiên cứu tại T3 83

12

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình Nội dung Trang

3.1 Tỷ lệ RLCHLPM theo các chỉ tiêu lipid máu ở thời điểm trước can thiệp 63

3.2 Sự khác biệt về nồng độ các chỉ tiêu lipid máu giữa hai nhóm nghiên cứu 71

3.3 Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ triglycerid và nồng độ triglycerid ban đầu 72

3.4 Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ cholesterol và nồng độ cholesterol ban đầu 73

3.5 Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ HDL_C và nồng độ HDL_C ban đầu 74

3.6 Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ LDL_C và nồng độ LDL_C ban đầu 75

3.7 Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu triglyceride huyết thanh 76

3.8 Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu cholesterol huyết thanh 77

3.9 Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu LDL_C huyết thanh 78

3.10 Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu HDL_C huyết thanh 79

13

ĐẶT VẤN ĐỀ

Rối loạn chuyển hóa lipid máu hiện nay là một trong những vấn đề đang được y

học thế giới quan tâm, nghiên cứu bởi mối liên quan chặt chẽ của nó với bệnh lý tim

mạch. Nghiên cứu rối loạn chuyển hóa lipid máu ngoài việc phục vụ cho điều trị, còn

mang một ý nghĩa dự phòng rất lớn đối với nguy cơ tim mạch. Bệnh lý tim mạch trong

tương lai quan hệ chặt chẽ với hàm lượng cholesterol toàn phần và những tiểu thành

phần của nó [35].

Rối loạn chuyển hóa lipid máu do nhiều nguyên nhân, có thể do di truyền hay

thứ phát do mắc một số bệnh trong cơ thể hoặc do thói quen ăn uống sinh hoạt… [30].

Nguy cơ bị bệnh động mạch vành và các bệnh lý tim mạch khác càng tăng cao hơn nếu

rối loạn chuyển hóa lipid máu đi kèm với các yếu tố nguy cơ khác như hút thuốc lá,

tăng huyết áp, đái đường, thói quen ít vận động và thừa cân, béo phì [124].

Điều trị rối loạn lipid máu sẽ giúp chúng ta tránh được các biến chứng tim mạch

nguy hiểm như đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, suy tim, tránh được các biến chứng

khác do bệnh xơ vữa động mạch gây ra như tai biến mạch máu não, tăng tuổi thọ và

chất lượng cuộc sống, giảm chi phí điều trị [124]. Hiện nay để điều trị rối loạn chuyển

hóa lipid máu, bên cạnh việc thay đổi chế độ ăn, chế độ luyện tập, một số thuốc thuộc

nhóm statin, những dẫn chất acid fibric, acid nicotinic…đã mang lại hiệu quả trong

điều trị, nhưng việc sử dụng thuốc kéo dài gây ra một số tác dụng phụ như rối loạn

chuyển hóa, rối loạn tiêu hóa, giảm bạch cầu... Mặt khác giá thành của thuốc còn cao,

chưa phù hợp với điều kiện kinh tế của đa số người bệnh [3].

Tỏi được cả thế giới coi như là thực phẩm có lợi cho sức khỏe [134]. Tỏi có tác

dụng chống nhiễm trùng và chống tắc nghẽn mạch máu, bảo vệ tế bào nội mạc, ức chế

quá trình ôxy hóa lipid, giảm các thành phần lipid máu. Như vậy có tác dụng bảo vệ hệ

thống tim mạch và chống đột quỵ [153]. Vai trò của tỏi trong điều trị bệnh đã được

14

chứng minh bằng rất nhiều nghiên cứu trên thế giới, tuy nhiên kết quả nghiên cứu ảnh

hưởng của tỏi lên các chỉ tiêu lipid máu vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ,

còn nhiều mâu thuẫn, thiếu tính thống nhất. Gần đây, vai trò của acid folic và nồng độ

homcysteine máu với bệnh tim mạch cũng được giới khoa học quan tâm. Nhiều nước

trên thế giới đã tiến hành tăng cường folate bắt buộc vào bột mỳ ngoài mục đích giảm

dị dạng ống thần kinh ở trẻ sinh ra, còn nhằm phòng chống các rối loạn có liên quan

đến bệnh tim mạch của cộng đồng [154,86,155].

Ở Việt Nam, tỏi là một thực phẩm gia vị, được trồng và sử dụng rất phổ biến,

công dụng của tỏi và liều dùng hầu như chỉ dựa trên kinh nghiệm dân gian. Gần đây,

một số chế phẩm được sản xuất từ tỏi dưới dạng viên nang, viên nén đã xuất hiện trên

thị trường trong nước, nhưng cho đến nay chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả

của sử dụng tỏi trên người bệnh có rối loạn chuyển hóa lipid máu. Do vậy, việc đánh

giá hiệu quả của sản phẩm tỏi sản xuất trong nước đối với sự cải thiện tình trạng rối

loạn lipid máu trên người trưởng thành là thực sự cần thiết.

15

MỤC TIÊU

1. Mục tiêu chung

Xác định sự kết hợp của một số yếu tố nguy cơ và đánh giá hiệu quả của sử

dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu trên người

30-69 tuổi.

2. Mục tiêu cụ thể:

2.1. Xác định sự kết hợp giữa một số thói quen sinh hoạt, tình trạng thừa cân,

phân bố mỡ trong cơ thể với tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu ở người

trưởng thành (30-69 tuổi) sống ở nội thành Hà Nội.

2.2. Đánh giá hiệu quả của sử dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng rối loạn

chuyển hóa lipid máu trên người 30-69 tuổi.

16

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ LIPID

1.1.1. Đặc tính của lipid

Lipid gồm nhiều loại khác nhau, nhưng vẫn có một số tính chất chung. Về tính

chất lý học, các lipid đều có tỷ trọng nhẹ hơn nước, không tan trong nước (có thể gây

tắc mạch nếu không kết hợp với protein), khi gắn với protein huyết tương để thành

lipoprotein, tùy tỷ lệ của protein tham gia phức hợp, tỷ trọng của LP có thể thay đổi (từ

0,9 đến 1,2) [9].

Về tính chất hoá học, các lipid đều có nhóm rượu (-OH) có thể thực hiện được

phản ứng ester hóa với các acid béo: là những acid hữa cơ có nhóm (-COOH) gắn vào

một chuỗi dài hydratcarbon với số nguyên tử carbon chẵn, gồm có các nhóm khác nhau

như acid béo no hay acid béo bão hòa (saturated fatty acid) acid béo chưa no có một

nối đôi (monounsaturated fatty acid) và acid béo chưa no có nhiều nối đôi

(polyunsaturated fatty acid), khi các phân tử carbon mang một số lượng tối đa nguyên

tử hydrogen thì chất béo được gọi là bão hòa (no), nếu thiếu nguyên tử hydrogen thì

chất béo được gọi là chưa bão hòa (chưa no), nếu chỉ thiếu một nguyên tử hydrogen thì

được gọi là chưa bão hòa dạng đơn, nếu thiếu nhiều nguyên tử hydrogen thì được gọi là

chưa bão hòa dạng đa [7].

Lipid trong cơ thể gồm 3 nhóm chính [27]

- Triglycerid (hay mỡ trung tính): cấu trúc gồm một phân tử glycerol

(rượu bậc 3) được ester hoá với 3 acid béo.

- Phospholipid: Trong cấu trúc có phospho, cũng kết hợp với acid béo

bằng phản ứng ester hóa

17

- Cholesterol: như tên gọi, thoạt đầu nó được phát hiện trong dịch mật

có nhóm rượu, do vậy có thể tồn tại dưới dạng ester hóa. Nhân sterol

của nó được cấu thành từ sản phẩm thoái hóa của acid béo.

Trong cơ thể lipid tồn tại dưới 3 dạng:

- Dạng cấu trúc: có trong tất cả các tổ chức bao gồm nhiều loại lipid

phức tạp, phổ biến là phospholipid.

- Dạng dự trữ: tạo nên lớp mỡ dưới da mà thành phần chủ yếu là TG.

- Dạng lưu hành: lipid được kết hợp với một loại protein gọi là apo-

protein để tạo thành lipoprotein (LP) vận chuyển trong máu và hệ

bạch huyết.

Ngày nay xét nghiệm lipid toàn phần ít được chỉ định, thay vào đó việc xét

nghiệm từng thành phần lipid máu có ý nghĩa hơn nhiều trong chẩn đoán, phòng và

điều trị bệnh [14].

1.1.2. Vai trò của lipid [30]

Lipid có vai trò rất quan trọng đối với cơ thể:

- Trước hết, nó là thành phần không thể thiếu được của các tế bào.

- Rất cần thiết cho sự hình thành tế bào mới trong cơ thể.

- Là một thành phần của bào tương và các màng sinh học như màng tế

bào, màng ti lạp thể.

- Là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể: 1g lipid khi bị đốt cháy

trong cơ thể cung cấp 9,3kcal.

- Ngoài ra lipid còn là nguồn cung cấp acid béo cho cơ thể.

18

- Nhiều loại vitamin cần thiết cho cơ thể như vitamin A,E,D,F,K…cơ

thể chỉ có thể hấp thu được dưới tác dụng của lipid.

1.1.3.Tiêu hóa và hấp thu

Cơ thể người có thể tổng hợp các loại lipid, nhưng nguồn lipid từ thức ăn vẫn rất

quan trọng vì cung cấp phần chủ yếu nhu cầu lipid hàng ngày, đồng thời là môi trường

hòa tan nhiều loại vitamin để cơ thể có thể hấp thu được. Nhu cầu lipid phụ thuộc và

tuổi, tính chất lao động, khí hậu…

Lipid được tiêu hóa ngay từ tá tràng: lipase của dịch tụy và ruột làm đứt toàn bộ

hay một phần số dây nối ester (tách acid béo thành dạng tự do) để hấp thu vào cơ thể

theo tĩnh mạch cửa (qua gan). Tuy nhiên, phần quan trọng nhất lipid được hấp thu nhờ

muối mật, có tác dụng biến lipid thành dạng nhũ tương hay còn gọi là chylomicron, có

thể hấp thu theo đường bạch mạch ruột vào tuần hoàn chung (không qua gan). Bữa ăn

nhiều lipid có thể làm huyết tương trở thành đục vì nhiều chylomycron.

1.1.4.Sử dụng, vận chuyển trong máu

Triglycerid được sử dụng trong cơ thể chủ yếu như nguồn năng lượng tương tự

vai trò của glucid còn phospholipid, cholesterol (và một số ít TG) chủ yếu sử dụng để

tạo ra cấu trúc tế bào và thực hiện một số chức năng. Cholesterol còn là nguyên vật liệu

ban đầu để tạo vitamin D, hormon sinh dục, thượng thận và muối mật…

Chylomicron bị cơ thể loại trừ ra khỏi máu khoảng 1 giờ bằng cách đưa qua

vách mao mạch để vào gan và mô mỡ.

Để được sử dụng như nguồn năng lượng cho cơ thể, việc đầu tiên TG trong mô

mỡ phải được thủy phân thành acid béo tự do (free fat acide = FFA), còn gọi là acid

béo không ester hóa, đưa ra máu gắn với albumin để tới nơi sử dụng (chủ yếu là tới

gan).

19

Không kể chylomicron chỉ tồn tại ngắn sau bữa ăn và FFA thì 95% lipid máu có

mặt và vận chuyển dưới dạng LP, kích thước nhỏ hơn chylomicron rất nhiều (không

làm đục huyết tương). Thành phần của LP gồm: protein, triglycerid, phospholipid và

cholesterol. Tuy nhiên, LP máu là một hỗn hợp gồm nhiều typ, mỗi typ có tỷ lệ khác

nhau cấu thành.

1.1.5.Các typ lipoprotein

Hầu hết lipoprotein được tạo thành ở gan, vì hầu như toàn bộ mỡ trong máu do

gan sản xuất, trừ TG của chylomicron là do hấp thu từ ruột. Gan cũng chính là nơi sản

xuất loại protein chuyển chở lipid, gọi là apo-protein.

Có các typ lipoprotein sau:

o Chylomicron: tỷ trọng 0,93, không di chuyển khi điện di, tồn tại ngắn hạn.

o LP tỷ trọng rất thấp (VLDL_CP): gồm 90% là lipid (50% là TG nội sinh),

protein chỉ chiếm 10%.

o LP tỷ trọng thấp (LDL_C): 75% lipid, chủ yếu là cholesterol và

phospholipid, rất ít TG.

o LP tỷ trọng trung gian (IDL) chứa chủ yếu TG nội sinh và cholesterol.

o LP tỷ trọng cao (HDL_C): được chia thành HDL_C2 và HDL_C3 (do tỷ

trọng) chứa 50% lipid, 50% protein.

1.1.6.Chức năng của lipoprotein

Chủ yếu là vận chuyển các loại lipid đi khắp cơ thể. Giúp cho lipid không bị vón

tụ lại làm giản nguy cơ tắc mạch. Triglycerid sau khi được sản xuất ở gan từ glucid và

ra khỏi gan dưới dạng VLDL_C để tới mô mỡ và sau khi trao đổi phần lớn TG cho mô

mỡ thì tỷ trọng tăng lên và biến thành IDL rồi LDL_C, gồm đa số là cholesterol,

phospholipid. Sau khi trao cholesterol cho các tế bào (theo nhu cầu), LDL_C biến

20

thành HDL_C là dạng vận chuyển cholesterol khỏi các mô ngoại vi để về lại gan (nếu

mô thừa chất này) do vậy typ HDL_C đóng vai trò quan trọng giảm nguy cơ vữa xơ

động mạch.

1.1.7. Dự trữ mỡ

Mô mỡ, gồm chủ yếu các tế bào mỡ là nơi dự trữ triglycerid của cơ thể

Tế bào mỡ: tạo thành mô mỡ có khả năng lưu giữ lipid chiếm 80-90% thể tích tế

bào. Ngoài khả năng thu nhận lipid hấp thu ở ruột, nó cũng có khả năng sản xuất một

lượng nhỏ acid béo và TG từ glucid, bổ sung không đáng kể cho sự tổng hợp tương tự

ở gan. Hầu hết lipid trong cơ thể chứa ở mô mỡ, gan và một số nơi khác. Chức năng là

cung cấp TG cho cơ thể như một nguồn năng lượng, ngoài ra còn có chức năng giữ

nhiệt.

Mô mỡ nhận được TG từ gan dưới dạng đã bị thủy phân, nhờ một số enzym

lipase, gọi là lipase mô phụ thuộc hormon (để phân biệt với lipase tụy, ruột, gan), mô

mỡ có thể đưa TG vào máu sau khi đã thủy phân nó. Quá trình này diễn ra thường

xuyên với tốc độ cao làm cho mô mỡ trong cơ thể hoàn toàn đổi mới sau 2-3 tuần.

Gan không phải kho lipid của cơ thể mà là nơi chủ yếu chuyển hóa chúng. Nhiệm

vụ của gan trong chuyển hóa lipid gồm: thoái hóa FFA thành các mảnh nhỏ sau đó tạo

thành thể cetonic là các dạng tế bào ưa sử dụng (tạo năng lượng), tổng hợp acid béo và

TG chủ yếu từ glucid và một phần nhỏ từ protid, tổng hợp các lipid (chủ yếu

cholesterol, phospholipid) từ mẩu 2C nguồn gốc từ TG. Tế bào gan ngoài chuyển hóa

TG còn chuyển hóa cholesterol, phospholipids do chính nó liên tục tổng hợp ra.

1.2. LIPID MÁU VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG

1.2.1.Sự điều hòa của nội tiết đối với chuyển hóa lipid

Hormon làm tăng thoái hóa lipid: tối thiểu có 7 hormôn làm tăng sử dụng lipid

trong cơ thể mạnh mẽ nhất là adrenalin, rồi đến noradrenalin (khi hưng phấn giao cảm,

21

vận cơ) vì tác dụng trực tiếp trên các lipase phụ thuộc hormon của mô mỡ tạo ra huy

động rất nhanh và rất mạnh mẽ. Các stress cũng có tác dụng tương tự chính là thông

qua hệ giao cảm như thế. Ngoài ra stress còn làm tăng tiết corticoid (ACTH) và sau đó

là glucocorticoid (chủ yếu cortisol) cả hai đều hoạt hóa enzym lipase phụ thuộc

hormon để giải phóng FFA khỏi mô mỡ, GH cũng gây huy động nhanh nhưng gián tiếp

qua sự tăng chuyển hóa ở mọi tế bào cơ thể để huy động FFA ở mức trung bình, cuối

cùng hormon giáp trạng cũng tác dụng gián tiếp qua sự sản xuất nhiệt ở các tế bào cơ

thể.

Hormon kích thích tổng hợp triglycerid:

o Insulin giúp glucid nhanh chóng vào tế bào và sử dụng, đẩy mạnh chu trình

pentose cung cấp NADPH2 làm tăng cao các mẩu actyl-CoA và hydro, là

những nguyên liệu chính tổng hợp acid béo. Isulin còn ức chế hoạt động

adenyl-cyclase, ức chế tổng hợp AMP vòng làm giảm hoạt động TG lipase,

giảm thoái hóa lipid.

o Prostaglandin E: PGE1 có tác dụng chống thoái hóa, tăng tổng hợp lipid

giống như insulin nhưng yếu hơn.

1.2.2. Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng đến chuyển hóa lipid

Những bằng chứng dịch tễ học cho thấy có mối liên quan dương tính giữa chế

độ ăn với nồng độ lipid máu cũng như tỷ lệ mắc bệnh tim mạch. Nghiên cứu thuần tập

trên 5.251 nam, nữ 40-69 tuổi ở Hàn quốc cho thấy chế độ ăn uống khỏe mạnh bao

gồm đa dạng thực phẩm, như cá, hải sản, rau, tảo biển, thức ăn chứa nhiều protein, trái

cây, sản phẩm từ sữa, có mối liên quan ngược với hội chứng chuyển hóa. Hiệu quả có

lợi xuất phát từ mối liên quan ngược với béo bụng, HDL_C thấp, glucose tăng cao.

Nghiên cứu chỉ ra việc đa dạng hóa thực phẩm nên được khuyến nghị để ngăn ngừa

HCCH [40]. Nghiên cứu thử nghiệm có đối chứng thông qua việc cung cấp tư vấn chế

độ ăn. Kết quả: tháng thứ 3, nhóm A (được tư vấn từ tháng thứ 1) giảm LDL_C. Tháng

22

thứ 6, LDL_C của nhóm A vẫn tốt hơn nhóm B (nhóm B bắt đầu được tư vấn tháng

thứ 3). Điểm chế độ ăn nhóm A cải thiện ở tháng thứ 3 và tiếp tục tăng vào tháng thứ 6,

nhóm B có sự cải thiện chế độ ăn nhiều nhất vào tháng thứ 6. Không có sự thay đổi có

ý nghĩa mức HDL_C ở cả hai nhóm [95].

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng thành phần chất béo và hàm lượng cholesterol của

khẩu phần ăn có tác dụng tới sự thay đổi cholesterol máu [6,54,96,151,161]. Vấn đề

không chỉ là do số lượng chất béo mà là tương quan giữa các thành phần chất béo trong

khẩu phần. Tổng chất béo không có vai trò quan trọng đến lipid máu bằng loại chất

béo, cụ thể là acid béo no và acid béo thể trans. Ảnh hưởng của các acid béo no lên

chuyển hóa cholesterol là không giống nhau. Acid stearic (18:0) và acid béo no dưới 12

nguyên tử carbon được cho là không làm tăng nồng độ cholesterol huyết thanh. Các

acid béo no Lauric C 12:0, myristic C 14:0 và palmitic C 16:0 được cho là làm tăng

cholesterol và LDL_C. Tuy nhiên 3 acid này có ảnh hưởng khác nhau lên nồng độ

cholesterol huyết thanh. Kết quả nghiên cứu thử nghiệm bằng việc kiểm soát chế độ ăn

cho thấy acid lauric ít ảnh hưởng hơn acid myristic và acid palmitic [113]. Các acid

béo chưa no có nhiều nối kép (từ 2 trở lên) có tác dụng làm hạ cholesterol còn các acid

béo chưa no có một nối kép có tác dụng làm giảm cholesterol tổng số và LDL_C [15].

Acid béo no có nguồn gốc từ mỡ động vật (thịt và các sản phẩm của thịt) cá biệt từ

một số loại thực vật như dầu dừa. Acid béo không no chứa trong đậu, lạc, vừng và các

dầu thực vật. Mỡ thực vật chứa rất ít cholesterol, nên ít gây hại cho hệ thống tim mạch.

Trong một số loài cá như cá hồi, cá thu, cá trích có chứa loại acid béo không no là acid

béo omega-3. Theo một số công trình nghiên cứu, nếu một tuần ăn 3 bữa loại cá này sẽ

giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh tim mạch.

Tóm lược các bài trình bày của những nghiên cứu gần đây nhất tại Hội nghị sinh

học thực nghiệm năm 2011 về mối liên quan giữa cholesterol khẩu phần và nguy cơ

bệnh tim mạch. Hơn 50 năm qua, rất nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy chất béo và

23

cholesterol khẩu phần có mối liên quan dương tính với bệnh tim mạch. Tuy nhiên,

trong những năm gần đây, có nhiều nghiên cứu dịch tễ học đã không ủng hộ cho mối

liên quan này. Hơn thế nữa, nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng cho thấy việc tiêu

thụ trứng trong thời gian dài đã không gây ảnh hưởng lên những dấu hiện khác nhau

của bệnh tim mạch. Số liệu cho thấy ảnh hưởng của khẩu phần ăn cholesterol thấp lên

mức LDL_C là rất ít so với khẩu phần khác và các thói quen sống. Cần quan tâm xem

xét phối hợp thực phẩm có lợi cho sức khỏe để đáp ứng nhu cầu cholesterol khuyến

nghị trong khẩu phần hiện nay [92].

Các nước Châu Âu, Úc, Canada, New Zealand, Hàn Quốc và Ấn Độ không đưa

ra giới hạn cao đối với cholesterol khẩu phần trong lời khuyên dinh dưỡng của họ. Mặc

dù nhiều nghiên cứu lâm sàng chỉ ra rằng sự thay đổi cholesterol khẩu phần có thể làm

tăng LDL_C huyết tương ở những người nhạy cảm với cholesterol khẩu phần (chiếm

khoảng ¼ dân số) HDL_C cũng tăng dẫn đến duy trì tỷ lệ LDL_C/HDL_C, yếu tố chỉ

điểm cho nguy cơ tim mạch. Những bằng chứng từ các nghiên cứu dịch tễ học và từ

những thử nghiệm lâm sàng sử dụng những loại cholesterol khác cho thấy những

khuyến cáo về việc giới hạn cholesterol khẩu phần nên được xem xét lại [62].

Chất xơ là phần dự trữ và thành phần tế bào poly saccharid của thực vật không

bị phân hủy bởi men tiêu hóa, bao gồm cellulose, hemicellulose, pectin và lignin, có

mặt trong các thực phẩm nguồn gốc thực vật gồm chất xơ từ rau quả và vỏ của các hạt

ngũ cốc. Cơ thể không thể tiêu hóa được chất xơ. Chất xơ phân thành 2 loại hòa tan và

không hòa tan, cả hai đều có lợi. Giảm LDL_C là một trong các lợi ích của việc khẩu

phần ăn có mặt chất xơ. Ăn cả hai loại chất xơ giúp tăng lượng chất xơ khẩu phần.

Chất xơ hòa tan trong hệ tiêu hóa giúp đào thải trực tiếp cholesterol theo phân. Tại ruột

non, chất xơ gắn kết các phân tử cholesterol thành khối do đó ngăn cản quá trình hấp

thu cholesterol vào máu và bám vào thành mạch. Chất xơ hòa tan hấp thu nước tạo

thành dạng gel làm tăng cảm giác no, điều này giúp giảm cân. Giảm cân cũng giúp

24

giảm cholesterol. Mặc dù chất xơ không hòa tan không có hiệu quả trực tiếp lên

cholesterol, nó giúp giảm cholesterol bằng cách tham gia kiểm soát cân nặng. Người

thừa cân, chất xơ không hòa tan giúp giảm cân bằng cách gây cảm giác no khi ăn khẩu

phần năng lượng thấp. Một số thực phẩm cung cấp chất xơ không hòa tan đó là: bánh

mỳ trắng, ngũ cốc, cám, lúa mạch đen, gạo, lúa mạch, cải bắp, củ cải, củ cải đường, cà

rốt, súp lơ, vỏ táo. Tiêu thụ chất xơ với lượng vừa phải rất quan trọng để giảm

cholesterol [106].

Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy vai trò của chất xơ trong chế độ ăn với nguy

cơ của bệnh tim mạch và mối liên quan giữa chất xơ với chuyển hóa lipid, chuyển hóa

glucose và các giá trị sinh học khác [96,151,161].

Protein thực vật đặc biệt là protein nguồn đậu đỗ có hiệu quả giảm nguy cơ tim

mạch. Đạm động vật lại có mối quan hệ có ý nghĩa với acid béo no và cholesterol là hai

yếu tố đặc biệt gây ra tăng cholesterol máu và xơ vữa động mạch. Vitamin, chất

khoáng và vi khoáng có liên quan chặt chẽ với bệnh mạn tính. Các nhà khoa học đã tìm

thấy vai trò quan trọng của các vitamin như vitamin C, E, beta-caroten như là những

chất chống oxy hóa tự nhiên mạnh nhất giúp cơ thể con người chống lại các tác nhân

oxy hóa có hại, nguyên nhân gây ra nhiều bệnh mạn tính nguy hiểm như bệnh tim

mạch, ung thư…[17].

Hành vi ăn uống của con người vừa đa dạng vừa khó đo lường một cách chính xác.

Kết quả thu được từ những nghiên cứu thực nghiệm trên động vật không phải lúc nào

cũng giống với người. Mặt khác thời gian của một nghiên cứu thử nghiệm thường

không đủ dài để có được kết luận đúng đắn. Tuy vậy, kết quả thu được cũng giúp cho

những chỉ dẫn bổ ích cho dinh dưỡng dự phòng. Liệu pháp điều trị bằng thay đổi chế

độ ăn (Therapeutic Life Style change a Diet) đã được Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ đưa

ra những hướng dẫn cụ thể giúp nâng cao sức khỏe tim mạch [34].

- Giới hạn acid béo no ở mức dưới 7% tổng năng lượng khẩu phần.

25

- Cholesterol khẩu phần dưới 200 mg/ngày.

- Tổng chất béo không vượt quá 30% tổng số năng lượng khẩu phần

- Acid béo chưa no có nhiều nối kép trong khẩu phần đạt mức 10% và acid béo

chưa no có một nối kép đạt mức 20% năng lượng khẩu phần.

- Khẩu phần cung cấp từ 10-20g chất xơ hòa tan/ngày.

1.2.3. Ảnh hưởng của một số thói quen sinh hoạt đến chuyển hóa lipid

Luyện tập thể thao:

Theo Arixtot: “Không có gì làm tổn thương và phá hủy con người bằng sự thiếu

vận động”. Hội nghị Tim mạch Việt Nam tổ chức vào tháng 12/1997 đã kết luận:

“Bệnh tim mạch đang gia tăng ở Việt Nam, không chỉ gặp ở người già mà còn gặp ở

người trẻ tuổi. Ngoài các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến bệnh lý tim mạch như di

truyền, giới tính, hút thuốc lá, rối loạn lipid máu, dinh dưỡng không hợp lý…còn có

nguyên nhân thiếu vận động”. Nhiều kết quả nghiên cứu trên thế giới cho thấy ít vận

động thể lực thường kèm theo tăng trọng lượng cơ thể và tăng cholesterol máu. Ở

những người lao động chân tay hoặc thường xuyên rèn luyện thể lực, cơ tim có khả

năng thích ứng tốt hơn khi gắng sức, làm giảm thiểu lượng LDL_C, đồng thời tăng

HDL_C, làm tiểu cầu ít bị kết dính nên ít có khả năng đông vón máu [30]. Tập lyện rèn

sức bền có tác dụng điều hòa lượng mỡ máu như giảm lượng cholesterol, TG và làm

tăng lượng HDL_C, giảm xơ vữa động mạch, giảm nguy cơ bị nhồi máu cơ tim. Trên

cơ sở theo dõi nhiều năm đối với bệnh nhân thiểu năng mạch vành, một số nhà khoa

học (Selvester, 1997; Gogchia, 1980, Cowan, 1983, K.Cooper,1987…) đã chứng minh

rằng có thể kìm hãm sự phát triển của XVĐM ở các bệnh nhân mạch vành khi tập

luyện thường xuyên các bài tập. Các bài tập này có tác dụng hoạt hóa sự trao đổi mỡ

trong cơ thể, giảm hàm lượng LDL_C và tăng HDL_C [2]. Một số cơ chế liên quan

giữa tập luyện và tình trạng cholesterol huyết thanh đó là, tập luyện kích thích các

26

enzyme giúp vận chuyển LDL_C từ máu và thành mạch về gan. Từ đó, cholesterol

được chuyển vào trong đường mật để tiêu hóa hoặc bài tiết ra ngoài. Tập luyện làm

tăng kích thước của các hạt lipoprotein. Trong đó, một số có kích thước nhỏ và dày

đặc, một số kích thước lớn hơn. Các lipoprotein có kích thước nhỏ dày đặc nguy hiểm

hơn kích thước lớn, do nó có thể dễ dàng chui vào lớp nội mạc của tim và thành mạch

máu [49].

Tập luyện thể dục thể thao mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe, để việc luyện tập

mang lại hiệu quả phòng chống bệnh tật, đặc biệt là bệnh tim mạch, việc thiết lập một

chương trình tập luyện là điều hết sức quan trọng [2]. Hiệu quả đối với bệnh tim mạch

của một chương trình luyện tập được quy định bởi một loạt các yếu tố như: loại bài tập,

cường độ và khối lượng vận động, tần số buổi tập và phương pháp luyện tập. Theo

Fábio, tổng số năng lượng tiêu hao trong quá trình tập luyện có thể điều chỉnh quá trình

chuyển hóa lipid ở gan [59]. Ferguson và cộng sự cho thấy năng lượng tiêu hao sau

mỗi bài tập có mối liên quan với tình trạng lipid máu. Số liệu cho thấy tập luyện ở

cường độ trung bình, năng lượng tiêu hao từ 1.100-1.500 kcal, ảnh hưởng nhiều đến

nồng độ lipid máu so với tập luyện với mức tiêu hao năng lượng thấp hơn. Do vậy,

cường độ tập có thể là yếu tố quan trọng giúp điều chỉnh tình trạng lipid máu [108].

Trong phân tích có hệ thống 31 nghiên cứu thử nghiệm trên 1.833 đối tượng

bình thường và RLCHLPM nhằm xác định hiệu quả của tập luyện (aerobic và bài tập

rèn luyện sức bền), chương trình tập luyện hiệu quả nhất với thời gian, cường độ, tần

số luyện tập để tối ưu hóa tình trạng lipid máu. Kết quả cho thấy, cường độ tập của các

chương trình aerobic khác nhau có ảnh hưởng không giống nhau lên các chỉ tiêu lipid

máu, nhưng việc tập luyện thường xuyên không mang lại hiệu quả cao hơn so với thời

gian tập luyện 3 lần/tuần. Bằng chứng về hiệu quả của các bài tập rèn luyện sức bền

vẫn chưa rõ ràng [94]. Tập Aerobic được cho là làm giảm nguy cơ tim mạch thông qua

việc tăng HDL_C huyết thanh. Một phân tích khác dựa trên 25 kết quả nghiên cứu cho

27

thấy hiệu quả thay đổi HDL_C. Để tăng HDL_C, việc tập luyện tiêu hao tối thiểu 900

kcal/tuần với 120 phút/tuần. Kết quả phân tích hồi quy cho thấy trong một lần tập cứ

kéo dài mỗi 10 phút thời gian luyện tập sẽ làm tăng khoảng 1,4mg/dl (0,036mmol/l)

HDL_C. Tác giả đưa ra kết luận, tập aerobic thường xuyên làm tăng đáng kể HDL_C.

Thời gian của mỗi lần tập là yếu tố quan trọng nhất khi xây dựng chương trình luyện

tập. Tập luyện mang lại hiệu quả hơn đối với những đối tượng có BMI thấp và CT cao

[94]. Bên cạnh thời gian của mỗi lần tập, tần xuất tập thì quãng thời gian tập hay việc

duy trì tập luyện hết sức quan trọng. Một số công trình nghiên cứu cho thấy trên 60%

số người lớn bắt đầu chương trình tập luyện đã bỏ tập ngay trong tháng đầu tiên khi mà

hiệu quả rèn luyện đạt chưa đáng kể [2].

Hoạt động thể lực với cường độ thấp (đứng và đi bộ) trong thời gian dài giúp

cải thiện insulin và lipid huyết tương hơn là tập luyện với cường độ trung bình và nặng

(đạp xe), khi mà tiêu hao năng lượng có thể so sánh được. Duvivier tiến hành nghiên

cứu trên 18 đối tượng khỏe mạnh, theo 3 chương trình tập luyện: chương trình (1) ngồi

14 tiếng/ngày; (2) ngồi 13 tiếng và 1 tiếng tập nặng; (3) ngồi 6 tiếng, 4 tiếng đi bộ, 2

tiếng đứng. TG, HDL_C, CT, apolipoprotein B huyết tương cải thiện đáng kể trong

nhóm có chương trình hoạt động thể lực với cường độ nhẹ, so với nhóm ngồi. Ông cho

rằng, tăng thời gian dành cho đứng và đi bộ hiệu quả hơn một tiếng luyện tập nặng, khi

mà tiêu hao năng lượng giữ ở mức hằng định [57].

Hoạt động thể lực có mối liên quan với bệnh lý tim mạch, tuy nhiên, khối lượng

tập là bao nhiên để mang lại hiệu quả?. Nghiên cứu thử nghiệm có đối chứng trên 111

đối tượng cả nam lẫn nữ thừa cân trong thời gian 8 tháng. Các chế độ luyện tập sử

dụng trong nghiên cứu là: (1) khối lượng và cường độ cao, năng lượng tiêu hao tương

đương với chạy bộ 20 dặm (32,0 km)/tuần, 65 đến 80% oxy tiêu thụ; (2) khối lượng

thấp và cường độ cao, năng lượng tiêu hao tương đương với chạy bộ 12 dặm (19,2

km)/tuần, 65 đến 80% oxy tiêu thụ (3) khối lượng thấp và cường độ trung bình, năng

28

lượng tiêu hao tương đương với chạy bộ 12 dặm (19,2 km)/tuần, 40 đến 55% oxy tiêu

thụ. Các đối tượng được khuyến khích duy trì cân nặng như ban đầu. Kết quả cho thấy,

tập luyện mang lại hiệu quả cho các chỉ tiêu lipid máu, rõ nét nhất là chế độ tập luyện

với khối lượng cao, chế độ luyện tập này mang lại kết quả tốt hơn so với chế độ luyện

tập khối lượng thấp. Tuy nhiên cả hai chế độ luyện tập với khối lượng thấp vẫn mang

lại lợi ích đối với tình trạng lipid máu hơn so với nhóm chứng. Vậy sự cải thiện lipid

máu liên quan đến khối lượng tập luyện, không liên quan đến cường độ tập hay sự cải

thiện cân nặng trong quá trình luyện tập [79].

Hiệu quả tập luyện còn được quy định bởi mức độ RLCHLPM. Couillard và

cộng sự cho rằng việc tập luyện thường xuyên kéo dài đặc biệt có lợi cho những đối

tượng nam giới có nồng độ HDL_C ban đầu thấp, TG cao và béo bụng khi tiến hành so

sánh đáp ứng của các chỉ tiêu lipid huyết thanh với chương trình tập luyện thường

xuyên kéo dài trong 20 tuần giữa các nhóm nam giới [51].

Hút thuốc lá:

Từ năm 1940, người ta đã tìm thấy có mối liên hệ giữa hút thuốc lá và nguy cơ

bị bệnh tim mạch. Dù hút một vài điếu thuốc trong ngày cũng làm tăng nguy cơ mắc

bệnh tim mạch. Mối liên quan chặt chẽ giữa hút thuốc lá và bệnh tim mạch không chỉ

thấy ở cả hai giới, trong lớp trẻ và người già mà còn thấy ở tất cả các chủng tộc. Hút

thuốc lá không những làm tăng nguy cơ mắc bệnh mà nó còn tương tác với các yếu tố

khác làm tăng nguy cơ lên gấp nhiều lần. Theo ước tính của Law M thì cứ 1% nồng độ

lipid máu tăng sẽ đi cùng với tăng 2,7% nguy cơ bệnh tim mạch [104].

Cơ chế thuốc lá làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch vẫn chưa rõ ràng. Các nghiên

cứu về sinh lý bệnh đã đưa ra cơ chế chung mà qua đó khói thuốc có thể gây nên bệnh

tim mạch. Những người hút thuốc có tăng nồng độ các sản phẩm oxy hóa bao gồm cả

cholesterol, LDL_C oxy hóa và làm giảm nồng độ HDL_C. Những yếu tố này cùng với

29

các ảnh hưởng trực tiếp của CO2 và nicotine gây tổn thương nội mạch. Tuy nhiên bằng

chứng từ những nghiên cứu để công nhận giả thuyết này vẫn chưa đầy đủ [90].

Năm 1993, nghiên cứu tại Nhật của Nagoya J trên 726 công nhân giao thông đô

thị để tìm mối liên quan giữa nồng độ HDL_C và cholesterol toàn phần. Kết quả cho

thấy, hút huốc lá không có mối liên quan với nồng độ cholesterol >230md/dl, nhưng

khi hút từ 1-20 điếu/ngày hoặc ≥21 điếu/ngày sẽ làm tăng nguy cơ HDL_C<40mg/dl

lên 1,9 lần (95% CI: 1,1-3,26) hoặc 2,27 lần (95% CI: 1,27- 4,05) so với những người

không hút thuốc [119].

Năm 1995, Jacobson BH với mục tiêu xác định mối liên quan độc lập giữa số

lượng thuốc hút và nồng độ TC, HDL_C ở phụ nữ trong nghiên cứu với 805 đối tượng

nữ cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa về nồng độ TC giữa nhóm hút thuốc ở mức độ

nặng với tất cả các nhóm còn lại (p<0,01), nồng độ HDL_C ở nhóm hút thuốc nặng và

trung bình thấp hơn hẳn so với nhóm không hút. Jacobson đi đến kết luận hút thuốc ở

mức trung bình và nặng là nguy cơ độc lập với TC cao và HDL_C thấp, ngừng hoặc bỏ

hút thuốc ở phụ nữ có mối liên quan với các chỉ tiêu lipid máu theo chiều hướng có lợi

[85].

Năm 2002, trong một nghiên cứu thuần tập tìm hiểu ảnh hưởng của thói quen

hút thuốc lên các chỉ tiêu CT, LDL_C, HDL_C và TG. Bốn trăm chín hai đối tượng

trong độ tuổi 26-66 bị RLCHLPM đươc đưa vào nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho

thấy, hút thuốc gây ảnh hưởng bất lợi đến nồng độ LDL_C, HDL_C và TG của cả nam

lẫn nữ, không phân biệt tuổi tác [139].

Năm 2006, nghiên cứu của O.A.Adedeji cho thấy nồng độ cholesterol toàn phần

trung bình của người hút thuốc cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với nồng độ

này ở những người không hút thuốc. Không tìm thấy sự khác biệt đối với các chỉ tiêu

lipid máu khác [125].

30

Năm 2012, trong một nghiên cứu tại Ấn Độ trên 100 đối tượng trong đó, 25 đối

tượng thuộc nhóm I – không hút thuốc lá và 75 đối tượng thuộc nhóm II - hút thuốc lá,

các đối tượng của nhóm II lại được phân loại theo thời gian và cường độ hút (mức nhẹ:

10-15 điếu/ngày trong từ 1 đến 5 năm; mức trung bình: 16-20 điếu/ngày trong 6-10

năm; mức nặng: trên 20 điếu/ngày trong thời gian trên 10 năm). Kết quả cho thấy,

nồng độ TC, TG, LDL_C và HDL_C trung bình ở nhóm hút thuốc ở các mức độ đều

cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê (p<0,001) so với nhóm không hút thuốc [56].

Uống bia rượu

Trong nhiều thập kỷ qua, tác động của ethanol lên quá trình tổng hợp, đào thải

và oxy hóa lipid đã được phát hiện. Gần đây nghiên cứu của Margaret Sozio cho thấy

vai trò của hệ miễn dịch tự nhiên trong gan và tác động của nó lên quá trình chuyển

hóa lipid, nghiên cứu cũng nhận ra nhiều yếu tố trong hệ tuần hoàn có thể ảnh hưởng

đến sự đáp ứng của gan đối với ethanol, đa tác động của ethanol lên gan cũng như các

bộ phận khác trong cơ thể [110].

Một số nghiên cứu dịch tễ học đã đưa ra những kết luận trái ngược về tác động

của tiêu thụ rượu lên bệnh tim mạch. Sự biến đổi giữa nguy cơ và lợi ích của rượu ở

mỗi cá nhân là không giống nhau và còn tùy thuộc vào số lần uống, lượng uống…

Các nghiên cứu thực nghiệm Đông Tây cũng nêu ra nhiều tác dụng tích cực của

rượu như kích thích khẩu vị, giảm cholesterol, ý kiến về ảnh hưởng của rượu lên các

loại chất béo vẫn chưa được hoàn toàn thống nhất. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy

bia có thể làm tăng mức HDL_C và giảm LDL_C, theo Peter Cremer của Đại học

Gottingen (Đức) rượu chỉ tốt với người có mức độ cholesterol thấp còn với những

người có mức cao >230mg/dl thì không có lợi; rượu làm giảm nguy cơ ung thư, theo

nghiên cứu của Nhật ăn thịt nướng có chất gây ung thư thuộc nhóm Has, nhưng khi

dùng chung với rượu cất bằng men chế từ cây hoa bia thì nguy cơ này giảm. Kết quả

nghiên cứu vào năm 2004 của đại học Albert Einstein - New York cho biết rằng nếu

31

uống dưới 45ml rượu mỗi ngày có thể giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Rượu có thể

mang lại tác dụng tích cực nếu được dùng vừa phải hạn chế, lạm dụng rượu bia sẽ

mang lại hậu quả tiêu cực như gây nghiện, theo American Cancer Society, người uống

trên 45ml rượu mạnh mỗi ngày có nhiều nguy cơ bị ung thư miệng, cuống

họng…Nghiên cứu tại University of Okalahoma cho thấy uống nhiều hơn 525 ml bia

mỗi ngày thì có nhiều nguy cơ bị ung thư trực tràng. Rượu làm tăng tế bào mỡ quanh

vùng bụng và tăng cholesterol máu [7].

Nghiên cứu của Van der Gaag MS năm 2001 cho thấy tiêu thụ rượu ở mức trung

bình (30g/ngày) làm tăng khoảng 4mg/dl nồng độ HDL_C và apoA-I 8,82 mg/dl, cùng

với việc làm giảm nguy cơ BTM ước tính vào khoảng 24,7% [139]. Hơn thế nữa rượu

làm giảm sự thoái hóa HDL_C, tác động lên quá trình chuyển hóa LDL_C ở gan theo

chiều hướng có lợi cho sức khỏe [150].

Số liệu điều tra của Reynolds K và cộng sự năm 2003 cho thấy, tỷ lệ đột quỵ do

xuất huyết não, nhồi máu não trên những người uống nhiều rượu cao hơn so với những

người không uống rượu [132]. Thêm vào đó, tỷ bệnh tật được cho là có liên quan đến

việc tiêu thụ rượu như đái tháo đường, cao huyết áp, bệnh tim mạch, tai biến mạch máu

não ngày càng tăng [63, 126].

Filmore và cộng sự đã mô tả ảnh hưởng của rượu đối với BTM trong phân tích

meta, những người tiêu thụ rượu ở mức độ nhẹ, trung bình và điều độ cho thấy nguy cơ

tử vong do bất cứ BTM nào là như nhau [63]. Gần đây, Chen và cộng sự cho thấy nồng

độ TG cao ở những người tiêu thụ rượu 10g/ngày. Tiêu thụ trên 50g/ngày làm giảm

đáng kể nguy cơ HDL_C giảm, nhưng nguy cơ nồng độ cholesterol toàn phần cao lại tăng lên [47] .

Ở Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lương Hạnh thì nguy cơ

RLCHLPM theo chỉ tiêu cholesterol sẽ tăng lên 1,22 lần ở những người lạm dụng rượu

bia [10]. Phạm Thị Dung khi đánh giá ảnh hưởng của lạm dụng rượu bia đối với

32

HCCH cho thấy, nam giới lạm dụng rượu bia có nguy cơ mắc HCCH cao hơn nhóm

không lạm dụng 4 lần [5].

Sự biến đổi giữa nguy cơ và lợi ích của rượu là không giống nhau đối với từng

người, việc sử dụng rượu như là một công cụ để bảo vệ tim mạch không nên khuyến

khích như là một giải pháp sức khỏe cộng đồng [53].

1.2.4. Thừa cân béo phì và chuyển hóa lipid

Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra định nghĩa thừa cân và béo phì như sau: “Thừa cân

là tình trạng cân nặng vượt quá cân nặng “nên có” so với chiều cao. Còn béo phì là tình

trạng tích lũy mỡ thái quá và không bình thường một cách cục bộ hay toàn thể tới mức

ảnh hưởng xấu đến sức khỏe” [16].

Tổ chức Y tế thế giới khuyên dùng “chỉ số khối cơ thể” (Body Mass Index -

BMI) để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người trưởng thành vì nó có tính khoa học

cao, dễ áp dụng, lại đơn giản và rẻ tiền [156].

Cân nặng (kg)

BMI = --------------------- Chiều cao 2 (m)

Gần đây, cơ quan khu vực Thái Bình Dương của WHO (WPRO) và hội nghiên

cứu béo phì quốc tế đã phối hợp với Viện nghiên cứu Bệnh đái tháo đường Quốc tế

(IDI), Trung tâm hợp tác dịch tễ học đái tháo đường và các bệnh không lây của WHO

đã đưa ra khuyến nghị về chỉ tiêu phân loại béo phì cho cộng đồng các nước Châu á

(IDI & WPRO, 2000) như sau [81]:

33

Đánh giá thừa cân và béo phì của WHO (1998) và của IDI &WPRO (2000)

Phân loại WHO, 1998 IDI & WPRO, 2000

BMI (kg/m2) BMI (kg/m2)

TTDD bình thường 18,5 - 24,9 18,5 - 22,9

Thừa cân  25,0  23,0

- Tiền béo phì 25,0- 29,9 23,0 - 24,9

- Béo phì độ I 30,0 - 34,9 25,0 - 29,9

- Béo phì độ II 35,0 - 39,9  30,0

- Béo phì độ III  40,0

Thừa cân và béo phì là một trong những yếu tố thúc đẩy phát sinh các bệnh lý

như đái tháo đường, tim mạch, ung thư. Hậu quả này là do sự tăng khối mỡ và tăng

kích thước các tế bào mỡ. Khi mô mỡ gia tăng nhanh chóng và không cân đối, nó sẽ

làm thay đổi các hoạt động bình thường của mô mỡ, từ đó dẫn đến rối loạn chuyển hóa

trong cơ thể. Hiện nay, theo một số tác giả khi phần trăm mỡ cơ thể >25% đối với nam

và >30% đối với nữ được coi là ngưỡng nguy cơ đe dọa sức khỏe [16].

Sự phân bố mỡ trong cơ thể cũng được quan tâm: Có 2 dạng phân bố, mà dựa

vào đó người ta phân loại béo phì, đó là béo phì trung tâm (béo phì dạng quá táo) và

béo phì ngoại biên (béo phì dạng quả lê). Trong béo phì trung tâm, mô mỡ ứ đọng ở

quanh bụng và nội tạng, trong khi đó béo phì ngọai biên là tình trạng ứ đọng mỡ ở

vùng mông và đùi. Đối với nhóm béo bụng, người ta nhân thấy có một mối liên quan

giữa ứ đọng mỡ bụng với rối loạn chuyển hóa mỡ trong cơ thể. Người béo phì trung

tâm thường mắc bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư nhiều hơn người béo phì

ngoại biên [70].

34

Tỷ số vòng eo/vòng mông (waist-hip ratio) và vòng eo (waist circumference)

được sử dụng để đánh giá sự phân bố mỡ trong cơ thể. Khi tỷ số này vượt quá 0,9 ở

nam giới và 0,8 ở nữ giới thì các nguy cơ tăng huyết áp, bệnh tim mạch, bệnh đái tháo

đường đều tăng lên rõ rệt. Người ta còn thấy vòng eo, thường không liên quan đến

chiều cao mà có liên quan chặt chẽ với chỉ số BMI và tỷ số vòng eo/vòng mông, do đó

thường được coi như là tiêu chí đơn giản để đánh giá khối lượng mỡ bụng và toàn cơ

thể. Hiện chưa có các “ngưỡng” quy ước đối với vòng eo. Người ta thấy các nguy cơ

tăng lên khi vòng eo  94cm đối với nam, 80cm đối với nữ và tăng lên rõ khi các trị

số tương ứng là 102cm và 88cm [14].

Nghiên cứu cắt ngang của Schröder H cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa giữa

BMI và nồng độ cholesterol toàn phần đối với nam giới và mối liên quan giữa nồng độ

HDL_C và BMI ở cả hai giới [138].

Brown mô tả và đánh giá mối liên quan giữa BMI với tình trạng cao huyết và

RLCHLPM trong một cuộc tổng điều tra trên người trưởng thành ở Mỹ. Kết quả cho

thấy tỷ lệ RLCHLPM và mức cholesterol trung bình ở những người BMI>25 cao hơn

so với những đối tượng có BMI<25. Tỷ lệ có HDL_C thấp tăng và mức HDL_C trung

bình giảm khi BMI tăng. Mối liên quan giữa BMI với tình trạng cao huyết áp và

RLCHLPM có ý nghĩa thống kê. OR cao nhất ở độ tuổi 20-39 [45].

Tầm quan trọng của phân bố mỡ ở trung tâm đã được biết đến từ những năm 50:

Morris đã mô tả tỷ lệ tử vong do tim mạch tăng ở những người lái xe buýt với kích cỡ

dây an toàn lớn [117]. Nghiên cứu theo chiều dọc đầu tiên ở Thụy Điển năm 1984 cho

thấy tỷ số vòng eo/vòng mông cao có mối liên quan với đột quỵ [97].

Kết quả nghiên cứu tình trạng RLCHLPM và một số yếu tố liên quan của

Nguyễn Lương Hạnh cho thấy tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu CT và TG và BMI có mối

quan hệ đồng biến [10].

35

Nghiên cứu của Phạm Thị Dung cho thấy BMI và phần trăm mỡ cơ thể có mối

liên quan chặt chẽ với tỷ lệ mắc HCCH [5].

1.3. RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID MÁU

1.3.1.Định nghĩa rối loạn chuyển hóa lipid máu

Rối loạn chuyển hóa lipid máu (RLCHLPM) là một thuật ngữ nhằm chỉ sự biến

đổi của các thành phần lipid máu cao hoặc thấp hơn chỉ số hóa sinh bình thường. Dùng

cụm từ “rối loạn” mà không dùng là tăng, cao hoặc dư là vì thực sự có nhiều loại lipid

trong máu, mà một số loại khi tăng là “xấu” đối với cơ thể, nhưng có loại lipid có vai

trò bảo vệ, chống bệnh tật nên càng cao lại càng tốt. Do đó thuật ngữ “rối loạn chuyển

hóa lipid máu” có ý nghĩa chính xác hơn [30].

Đánh giá RLCHLPM theo WHO (2000) [157]

- Cholesterol tổng số >5,2 mmol/l (200mg/dl), hoặc

- HDL_C < 0,9 mmmol/l (35mg/dl), hoặc

- LDL_C >3,38 mmol/l (130mg/dl), hoặc

- Triglycerid huyết thanh >2,26mmol/l (90mg/dl)

1.3.2. Phân loại rối loạn chuyển hóa lipid máu

Có nhiều cách phân loại

1.3.2.1.Phân loại dựa trên nguyên nhân phát sinh bệnh [30]

o RLCHLPM nguyên phát: đó là những trường hợp rối loạn có nguyên nhân di truyền

đã được xác nhận hoặc nguyên nhân bên ngoài nào đó mà cơ chế chưa rõ.

o RLCHLPM thứ phát: đó là trường hợp rối loạn mà cơ chế bệnh sinh của nó là do

bệnh nhân mắc các bệnh RLCH, bệnh của một số cơ quan trong cơ thể như thiểu

năng tuyến giáp, bệnh lý gan, thận, đái tháo đường, đang uống thuốc tránh thai,

36

thuốc điều trị ĐTĐ, nội tiết tố nam, corticoid…hoặc do thói quen ăn uống, cách

sống.

1.3.2.2.Phân loại dựa trên kết quả xét nghiệm Lipid và LP máu

- Phân loại của Fredrickson [11]: Sự phân loại này dựa trên cơ sở phân loại của tăng

LP, gồm 5 kiểu, sau này được phát triển và bổ sung thêm bằng cách phân tách kiểu

II thành 2 kiểu IIa và IIb và bổ sung thêm kiểu mới là giảm α LP huyết (hypo

Lipoproteinaemia). Cách phân loại này cho biết sự thay đổi các thành phần lipid

máu dễ gây XVĐM, nhưng không cho biết sự thay đổi thành phần của lipid máu có

tác dụng chống XVĐM.

- Phân loại của Chương trình giáo dục Quốc gia về cholesterol của Mỹ (NCEP)

[121], xác định đầy đủ các thông số lipoprotein sau ăn 9-12 giờ. Cách phân loại này

cho biết sự thay đổi các thành phần lipid máu dễ XVĐM và có tác dụng bảo vệ

chống VXĐM đồng thời nó cũng cho biết mức độ rối loạn của các thành phần trên.

Đây là cách phân loại mới nhất.

Loại Lipid mmol/l mg/dl Phân loại

<2,6 <100 Tối ưu

2,6-3,3 100-129 Gần tối ưu

3,4-4,1 130-159 Giới hạn cao LDL_C

4,2-4,9 160-189 Cao

Rất cao 4,9 190

<5,2 <200 Mong muốn

Cholesterol toàn 5,2-6,2 200-239 Giới hạn cao phần

Cao 6,2 240

37

<1,0 <40 Thấp

HDL_C >1,6 Cao 60

<5,2 <200 Bình thường

5,2-10,2 200-399 Giới hạn cao Triglycerid 10,3-26 400-1000 Cao

>26 >1000 Rất cao

- Phân loại của De Gennes theo các thành phần của lipid [6], ông cho rằng cách phân

loại này đơn giản, dễ sử dụng, nêu lên được tất cả những trường hợp rối loạn lipid

máu vào một khung ổn định:

o Tăng cholesterol đơn thuần: CT huyết thanh tăng (>5,2mmol/l), TG bình

thường hoặc tăng nhẹ, tỷ lệ CT/TG>2,5.

o Tăng TG: CT có thể tăng nhẹ, TG rất cao, khi TG>11,5mmol/l trong máu

luôn có chylomicron.

o Tăng lipid máu hỗn hợp: CT tăng vừa phải, TG tăng nhiều hơn, tỷ lệ

CT/TG<2,5.

1.3.3. Tình hình RLCHLPM trên thế giới và ở Việt Nam

Ngày nay trên thế giới cũng như Việt Nam, số người RLCHLPM ngày càng gia

tăng. Theo số liệu của Hội tim mạch Hoa Kỳ, tính đến năm 2000 nước Mỹ có khoảng

37 triệu người và Châu Âu có 47 triệu người có RLCHLPM ở mức cần điều trị [9].

Vào những năm cuối thể kỷ XX, tỷ lệ người RLCHLPM khác nhau ở từng Quốc gia:

Pháp 15%, Malaysia 22%, Thụy Điển 26%, Nhật Bản 17,6%, Mỹ 29,6%.

Ở Việt Nam, một số nghiên cứu trong bệnh viện cho thấy mối liên quan chặt chẽ

giữa rối loạn chuyển hóa lipid máu với bệnh đái tháo đường, tình trạng tăng huyết áp,

38

bệnh tim mạch [1,4,8,22,26]. Theo Phạm Gia Khải và cộng sự khi nghiên cứu ở Hà Nội

(2001), trên 263 đối tượng cho thấy tỷ lệ tăng LDL_C là 51,27%, tăng CT 54,7%, tăng

TG 41,9% và giảm HDL_C là 40,7%, tần xuất có ít nhất một chỉ tiêu lipid máu không

nằm trong giới hạn bình thường là 78,8% [13]. Nghiên cứu của Nguyễn Huy Ngọc cho

thấy tỷ lệ RLCHLPM trên bệnh nhân tai biến mạch máu não là 70,5% và 53,2% [20].

Theo Trần Đức Thọ và cộng sự (2000-2001) tỷ lệ RLCHLPM trên bệnh nhân giảm

dung nạp glucose là 84% [25]. Nghiên cứu mô tả trên 3.438 bệnh nhân đến khám bệnh

tại khoa khám bệnh viện Bạch Mai cho thấy: Cholesterol toàn phần trong máu cao

chiếm 58,28%, Triglycerid cao 48,57% và LDL_C cao 23,87%; thấp HDL_C- C

(28,08%) [28]. Rối loạn lipid máu ở bệnh nhân tai biến mạch máu não chiếm tới 70,5%

bệnh nhân bệnh viện Trung ương Huế [23].

Ở nước ta, các nghiên cứu về tình trạng rối loạn lipid máu trên người trưởng

thành thực hiện tại cộng đồng còn khá ít. Nghiên cứu của Phạm Thắng (2003) trên

1.305 đối tượng từ 60 tuổi trở lên cho thấy tỷ lệ rối loạn lipid máu chiếm 47,5% [24].

Nghiên cứu của Viện Tim mạch Việt Nam trong cuộc điều tra về bệnh tăng huyết áp

cũng đã thu thập một số chỉ tiêu lipid máu trên các đối tượng nghiên cứu cho thấy tình

trạng rối loạn lipid máu liên quan chặt chẽ với tăng huyết áp và bệnh tim mạch [12].

Gần đây, nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng (2004) ở người trưởng thành, tuổi từ 30-59

tuổi bị thừa cân, béo phì có choleserol toàn phần máu cao là 48,9%, triglycerid máu

cao: 65,33%, LDL_C cao: 8,23%, HDL_C thấp: 7,22% [19]. Nghiên cứu của Nguyễn

Minh Tuấn năm 2004-2005 trên 2014 người trưởng thành từ 20-59 tuổi là giảng viên

trường đại học Thái Nguyên, các cán bộ ngân hàng, công nhân tại các mỏ than và nhà

máy xi măng, tỷ lệ tăng cholesterol và triglycerid đơn thuần là 36,4% và 8,8%, tỷ lệ

tăng phối hợp cả cholesterol và triglyceride là 23,9% [29]. Năm 2008, kết quả nghiên

cứu của Nguyễn Lương Hạnh trên đối tượng người trưởng thành ở nội thành Hà Nội

cho thấy, tỷ lệ RLCHLPM là 59,8%, tỷ lệ tăng cholesterol đơn thuần chiếm 47,2%,

tăng triglyceride là 38,4%, tỷ lệ tăng phối hợp cholesterol và triglycerid là 25,4%, tình

39

trạng RLCHLPM có xu hướng tăng dần theo nhóm tuổi, nam giới có tỷ lệ cao hơn so

với nữ giới [10].

1.4. HIỂU BIẾT VỀ TỎI VÀ FOLATE

1.4.1. Thành phần hóa học của tỏi

Tỏi được cả thế giới coi như là thực phẩm có lợi cho sức khỏe. Tỏi đã được viết

cách đây 500 năm trong các tài liệu của người Hy Lạp và Ấn Độ. Theo bản dịch từ

tiếng Hy Lạp, Ai Cập, Ý, Trung Quốc, tỏi được kê đơn cho đa mục tiêu trong y học

bao gồm điều trị nhiễm trùng, tăng cường thể lực, chống độc [134,135].

Tỏi không chỉ đơn giản là gia vị, thảo dược hay là loại rau củ mà là tổng hòa của

cả ba. Thuộc họ hành do vậy tỏi có đặc tính tương tự với hành, tỏi tây và rau thơm

[134].

Một amino acid chứa lưu huỳnh được phân lập từ tỏi và đặt tên là alliin (S-allyl-

L-cysteine sulfoxide). Bản thân alliin không có hoạt tính kháng khuẩn và tương đối bền.

Alliin có hàm lượng từ 5 đến 14mg trong một gam tỏi tươi. Do có nhóm amin,

carboxyl, liên kết đôi, nên alliin có khả năng phản ứng hóa học rất cao. Trong các điều

kiện phản ứng khác nhau, alliin dễ dàng bị chuyển hoá để tạo ra các sản phẩm. Một

trong những phản ứng chuyển hoá cơ bản và quan trọng nhất là sự tạo thành allicin

(Diallyl thiosulfinate) dưới tác dụng của enzym allinase [52]. Sự chuyển hoá này xảy ra

rất nhanh ở nhiệt độ phòng chỉ trong vòng 10 giây. Allinase có mặt trong tỏi với lượng

lớn khác thường đối với một enzym, gồm ít nhất 10% tổng protein tép tỏi. Các tép tỏi

chứa các lượng alliinase và alliin xấp xỉ bằng nhau (10mg/g trọng lượng tươi). Điều

này có thể giải thích rõ tại sao alliin lại chuyển thành các thiosulfinate quá nhanh khi

tỏi được ép ra [80].

Nhiều quy trình được sử dụng để sản xuất các sản phẩm tỏi dùng làm thuốc. Các

quy trình đó cố gắng giữ lại chất đặc trưng alliin bằng cách tránh sự hoạt hoá của men

40

alliinase. Có nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng để làm mất hoặc giảm hoạt

tính men alliinase như dùng các dung môi chiết xuất [ví dụ methanol/nước (4/1),

methanol/acid formic 1% trong nước (1/2)] hoặc dung dịch chứa các chất ức chế

alliinase như amino-oxy acetat...Tuy nhiên, dịch chiết này hoặc bột thu được từ dịch

chiết này không chứa alliinase, một tác nhân để phân hủy alliin thành các hợp chất có

hoạt tính. Vì vậy, chế phẩm tỏi này cần được bổ sung một lượng nhất định bột tỏi có

chứa allinase đủ để chuyển hóa được hoàn toàn alliin. Ngoài ra, người ta còn sử dụng

quy trình ngâm giầm tỏi để chuyển hoá nhanh chóng alliin thành allicin và các hợp chất

chứa lưu huỳnh, rồi tiếp tục xử lý bằng hơi nước hoặc các dung môi khác [134].

Allicin là hoạt chất mạnh nhất và quan trọng nhất của tỏi, nó không hiện diện

trong tỏi, tuy nhiên, khi được cắt mỏng hoặc đập dập và dưới sự xúc tác của men

alliinase, chất alliin có sẵn trong tỏi biến thành allicin. Do đó, càng cắt nhỏ hoặc càng

đập nát hoạt tính càng cao. Một ký tỏi có thể cho ra từ 1 - 2g allicin. Allicin dễ biến

chất sau khi được sản xuất ra. Càng để lâu, càng mất bớt hoạt tính. Đun nấu sẽ đẩy

nhanh quá trình mất chất này. Đun qua lò vi sóng sẽ phá hủy hoàn toàn chất allicin.

Allicin là một chất kháng sinh tự nhiên rất mạnh, mạnh hơn cả penicillin. Nước tỏi pha

loãng 125.000 lần vẫn có dấu hiệu ức chế nhiều loại vi trùng gram âm và gram dương

như: staphylococcus, streptococcus, samonella, V. cholerae, B. dysenteriae,

mycobacterium tuberculosis. Tỏi cũng ức chế sự phát triển của nhiều loại siêu vi như:

bại liệt, cúm và một số loại nấm gây bệnh ở da hoặc bộ phận sinh dục nữ như candida

[116].

41

Cấu trúc của Alliin

Cấu trúc của Allicin

Allicin sẽ nhanh chóng bị phân hủy, đặc biệt đưới tác động khi bị đun nóng. Khi

bị phân hủy, nó sản sinh ra nhiều diallyl sulphides khác nhau, dạng phổ biến nhất là

diallyl dishulphide:

Cấu trúc của Diallyl Disulphide

42

Mặc dù diallyl sulphides hoạt tính không mạnh bằng allicin, nhưng nó vẫn mang

lại lợi ích trong y học đặc biệt là hệ tim mạch.

Hợp chất sulfur, chiếm khoảng 1% trọng lượng của tỏi. Trong khi carbohydrat

chiếm 33% trọng lượng của tỏi, có một phần đáng kể các oligosaccharides, chất này có

thể ảnh hưởng lên hệ sinh vật và chức năng đường ruột. Tỏi có chứa một lượng trung

bình protein, đó là nguồn amino acid arginine dồi dào. Những thuộc tính chống oxy

hóa phối hợp với hợp chất carbohydrate-arginine làm cho tỏi được xem như có lợi cho

sức khỏe. Sự có mặt của một số chất như selenium và flavonoid có thể ảnh hưởng lớn

đến đáp ứng với tỏi của cơ thể [84].

Hầu hết nghiên cứu về tỏi đều tập trung đến thành phần sulfur. Sulfur đầu tiên

chứa trong thành phần của củ tỏi đó là γ-glutamyl-(S)-alk(en)yl-L-cysteines và (S)-

alk(en)yl-L-cysteine sulfoxides. Lượng (S)-alk(en)yl-L-cysteine sulfoxides thay đổi

đáng kể, từ 0,53-1,3% trọng lượng tỏi tươi. Nồng độ alliin có thể tăng trong quá trình

bảo quản do sự biến đổi γ-glutamy-lcysteines [84].

Do allicin không bền vững một cách tương đối, phân hủy thành sulfides, ajoene

và dithiins. Mùi thơm của tỏi tăng lên do allicin và chuyển hóa tan được trong dầu của

nó. Tỏi bị đun nóng được liên quan với sự biến đổi allinase và sự giảm allyl mercaptan,

methyl mercaptan và allyl methyl sulfide. Nhìn chung, phương pháp sử dụng để chế

biến tỏi ảnh hưởng đáng kể đến hợp chất sulfur đó là hợp chất chiếm ưu thế và đáp ứng

sinh học của tỏi [84].

1.4.2. Thực trạng nghiên cứu hiệu quả của tỏi đối với tình trạng RLCHLPM

Trong sách codex Ebes (1550 năm trước công nguyên), người Ai cập cổ đại đã

mô tả tỏi là một vị thuốc rất tốt cho người lao động thể lực, cho các vận động viên

tham gia Olipic. Người Trung quốc sử dụng tỏi như phương thuốc giá trị chữa bệnh

đường hô hấp và tiêu hóa, bệnh tiêu chảy và bệnh giun sán [38,44]. Những năm gần

43

đây, nhờ tiến bộ của y học hiện đại, nhiều nghiên cứu trên thế giới về vai trò của tỏi

trong phòng chống các rối loạn lipid máu và các bệnh tim mạch được công bố [32, 46].

Cơ chế tỏi và chế phẩm làm giảm lipid huyết thanh vẫn chưa được nghiên cứu

một cách đầy đủ. Một số nghiên cứu trên động vật cho thấy bổ sung tỏi trong chế độ ăn

làm giảm hoạt động của các enzyme tham gia vào quá trình tổng hợp cholesterol như

enzyme malic, fatty acid synthase, glucose-6 phosphate dehydrogenase và 3-hydroxy-

3-methyl-glutaryl-CoA (HMG-CoA) reductase [128,129]. Ghi nhận trên cơ sở nghiên

cứu thực nghiệm trên chuột cho thấy tỏi làm giảm hấp thu cholesterol ở ruột [112]. Tổng hợp cholesterol được xác định bằng việc đo sự kết hợp của [2-14C] acetate với

cholesterol [162]. Những nghiên cứu trên gan chuột, nhiều loại dịch chiết tỏi được

kiểm tra, bao gồm dịch chiết trong nước, trong methanol và trong dầu từ tỏi tươi. Tỷ lệ [2-14C] acetate kết hợp với cholesterol giảm 44% đối với dạng dịch chiết trong

methanol, 56% với dịch chiết trong dầu và 64% với dịch chiết trong nước. Như vậy,

hợp chất tỏi tan trong nước có hiệu quả ngăn cản tổng hợp cholesterol hơn so với hợp

chất tan trong dầu. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Gebhardt [69].

Kyolic chứa hợp chất tan trong nước đặc biệt là S-allylcysteine (SAC) và một lượng

nhỏ hợp chất sulfide tan trong dầu. Nồng độ SAC trong Kyolic ở mức 0,4 mmol/l giảm

87% việc tổng hợp cholesterol. Khi nồng độ này ở mức 2,0mmol/l, việc tổng hợp

cholesterol chỉ giảm khoảng 25%. Khi so với nhóm chứng, kết quả nghiên cứu cho

thấy việc ngăn cản tổng hợp cholesterol không chỉ là hydrophilic hay hydrophobic tự

nhiên, đạt hiệu quả tối đa cần phải có sự kết hợp hoạt tính của nhiều hợp chất trong tỏi.

Quá trình oxy hóa lipid, đặc biệt LDL_C tham gia vào cơ chế bệnh sinh bệnh

tim mạch, làm tăng cường các mảng xơ vữa ở thành mạch máu, kết quả làm tăng nguy

cơ bệnh tim mạch và đột quỵ. Các hoạt tính chống oxy hoá của tỏi ức chế và làm thay

đổi quá trình oxy hóa LDL_C làm giảm lượng LDL_C và sản phẩm cholesterol trong

các đại thực bào, cơ trơn và thành mạch máu, kết quả là ức chế quá trình xơ vữa động

44

mạch. Sự oxy hóa LDL_C xảy ra khi tiếp xúc với gốc tự do giải phóng bởi các tế bào

ngoại vi như tế bào cơ trơn hay monocyte/macrophages, cả hai đều có thể bị ảnh hưởng

bởi việc sử dụng tỏi [98]. Cách đây một vài năm, Munday và cs cung cấp bằng chứng hạt LDL_C bị oxy hóa bởi Cu2+ giảm xuống trên những đối tượng được uống 2-4g tỏi

triết tách hàng ngày trong 7 ngày so với những người không được sử dụng. Đáp ứng

tương tự không được quan sát thấy khi đối tượng được cung cấp 6g tỏi thô, gợi ý rằng

không phải tất cả thuốc pha chế có thể so sánh được trong việc mang lại sự thay đổi vật

lý [118]. Gần đây nhất, Ou và cs so sánh khả năng của 4 hợp chất allyl sulfur (DAS,

DADS, (s)-ethylcystein, N-acetylcysteine) trong việc biến đổi sự oxy hóa LDL_C.

Trong khi tất cả cho thấy là có hiệu quả, nhưng có sự khác nhau đáng kể trong hiệu quả

giữa chúng [126].

Bên cạnh khả năng giúp chống oxy hóa, tỏi còn có thể giúp ngăn ngừa các huyết

khối hình thành bên trong các mạch máu. Tác dụng bảo vệ tim mạch này được xem gắn

liền với một chất disulfide đặc biệt trong tỏi có tên là ajoene. Chất này có thể giúp ngăn

ngừa ngưng kết tiểu cầu, giảm nồng độ fibrinogen trong máu do đó làm giảm nguy cơ

hình thành huyết khối. Hoạt chất của tỏi có tính chất gần giống như nội tiết tố

prostaglandin PGI2 có tác dụng nở mạch nên có tác dụng hạ huyết áp [111].

Cho đến nay, các kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của tỏi lên mức cholesterol vẫn

còn nhiều mâu thuẫn, chưa thống nhất. Nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng cho

thấy hiệu quả của tỏi lên các chỉ tiêu lipid. Kết quả từ hai phân tích meta tiến hành năm

1993 [152] và 1994 [141] cho thấy tỏi giảm có ý nghĩa TC (9-12%) so với nhóm

chứng. Sau đó kết quả một nghiên cứu thử nghiệm cho kết quả trái ngược [42,137].

Một nghiên cứu meta công bố năm 2000 cho thấy tỏi làm giảm 4-6% [144]. Một phân

tích meta gần đây hơn phân tích những nghiên cứu thử nghiệm có đối chứng sử dụng

bột tỏi khô cho thấy giảm đáng kể TC (19,2mg/dl), LDL_C giảm 6,7mg/dl và TG giảm

21,1g/dl ở tuần thứ 8 đến tuần thứ 12 [33].

45

Từ những năm 90, nghiên cứu trên quy mô lớn của Mader tiến hành trên 261 đối

tượng RLCHLPM ở nhiều trung tâm với TC ban đầu 5,2-7,7 mmol/l và/ hoặc TG 2,3-

3,4 mmol/l. Đối tượng được phân bổ ngẫu nhiên, mù kép vào 2 nhóm một nhóm uống

viên tỏi 200mg, 4 lần/ngày, tổng cộng 800mg/ngày, nhóm còn lại uống viên giả dược

với số lượng tương tự trong thời gian 16 tuần. Kết quả nghiên cứu tương tự một số

nghiên cứu thử nghiệm với quy mô nhỏ trước đó. Ở nhóm được uống viên tỏi, TC giảm

đáng kể (14%) trên đối tượng có TC ban đầu ở mức 6,5-7,7 mmol/l so với những đối

tượng có mức TC ban đầu thấp hơn (7%) [109].

Năm 1993, Jain và cs báo cáo kết quả nghiên cứu tại một trung tâm về hiệu quả

của tỏi trên 42 đối tượng RLCHLPM với TC≥4,6mmol/l và TG>4,6 mmol/l. Đối tượng

được phân bổ ngẫu nhiên để uống viên tỏi, 300mg, 3 lần/ngày, tổng cộng 900mg/ngày

và số viên giả dược tương tự cho những đối tượng ở nhóm chứng trong thời gian 12

tuần. Các đối tượng được khuyên là không nên thay đổi thói quen ăn uống và hoạt

động hàng ngày. Lấy máu vào tuần thứ 6 và 12. Không có sự khác biệt ở tuần thứ 6,

nhưng sang tuần thứ 12, TC giảm đáng kể ở nhóm can thiệp. LDL_C giảm đáng kể,

HDL_C giảm không có ý nghĩa thống kê [87].

Nghiên cứu của Simons và cộng sự năm 1995 trên 30 đối tượng RLCHLPM với

nồng độ TC và TG ban đầu là 6,0-7,8mmol/l và <3,0mmol/l, được sử dụng bột tỏi

900mg/ngày chia làm 3 lần, trong 30 tuần, cùng với tư vấn chế độ ăn ít chất béo (dưới

30% năng lượng khẩu phần), acid béo bão hòa dưới 10% năng lượng khẩu phần và

cholesterol dưới 300mg/ngày, chế độ ăn này được kiểm soát trong suốt thời gian

nghiên cứu bằng ghi nhật ký và sử dụng phần mềm thống kê tính toán thành phần dinh

dưỡng trong chế độ ăn của đối tượng. Không thấy hiệu quả của tỏi lên các chỉ tiêu lipid

máu [142].

Nghiên cứu của Neil và cộng sự vào năm 1996 trong thời gian 24 tuần, mù kép,

ngẫu nhiên có đối chứng, sử dụng tỏi khô 300mg/lần x 3 lần/ngày, trên 115 đối tượng

46

với nồng độ TC ban đầu là 6,0-8,5mmol/l và LDL_C≥3,5mmol/l. Các đối tượng được

yêu cầu tiêu thụ chất béo dưới 30% năng lượng khẩu phần, acid béo bão hòa dưới 10%

năng lượng khẩu phần, cholesterol dưới 300mg/ngày và tiêu thụ 35g chất xơ/ngày. Kết

quả nghiên cứu không thấy hiệu quả của bột tỏi lên các chỉ tiêu lipid máu [122].

Sử dụng hai trung tâm, 12 tuần, mù kép, ngẫu nhiên có đối chứng, Isaacsohn và

cộng sự năm 1998 đã nghiên cứu hiệu quả của 900mg bột tỏi/ngày, trên 50 đối tượng

RLCHLPM với nồng độ LDL_C ban đầu ≥4,1mmol/l và TG<4,0mmol/l kết hợp với

hạn chế chất béo trong khẩu phần ăn. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỏi không có hiệu

quả làm giảm cholesterol trên những bệnh nhân RLCHLPM ở mức độ nhẹ [83].

Gần đây, Superko và Kraus đã đưa ra kết luận tương tự cho một nghiên cứu

trong thời gian 12 tuần, mù kép, ngẫu nhiên có đối chứng trên 50 đối tượng

RLCHLPM với 5,2mmol/l>LDL_C>3,9mmol/l. Hỏi ghi khẩu phần 3 ngày được tiến

hành ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu. Đối tượng được uống viên bột tỏi 300mg, 3

lần/ngày. Không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức lipid máu giữa hai

nhóm [147].

Berthold và cộng sự cho thấy hiệu quả giảm lipid của dầu tỏi chưng cất trong

nghiên cứu mù đơn, ngẫu nhiên, có đối chứng trên 25 đối tượng RLCHLPM ở mức

trung bình, với nồng độ TC ban đầu là 6,2-9,0mmol/l và TG>3,0mmol/l. Các đối tượng

tham gia nghiên cứu được yêu cầu giữ chế độ ăn bình thường trong suốt thời gian

nghiên cứu [42].

Ilker và cộng sự năm 2004, tiến hành nghiên cứu hiệu quả của bổ sung dịch

chiết tỏi lên lipid máu và tình trạng oxy hóa trên người tình nguyện có cholesterol máu

cao. Hai ba đối tượng tình nguyện với nồng độ CT ban đầu >5,98mmol/l tham gia

nghiên cứu, trong đó 13 người cao huyết áp còn lại huyết áp hoàn toàn bình thường.

Phân tích các thông số lipid máu, test đánh giá chức năng gan, thận, đo lường các

thông số oxy hóa máu, khả năng chống oxy hóa được tiến hành ở thời điểm T0 và T4.

47

CT, LDL_C, VLDL_C, TG thấp hơn một cách có ý nghĩa thống kê, HDL_C tăng sau

thời gian sử dụng dịch chiết tỏi. Các thông số khác, sự khác biệt không có ý nghĩa

thống kê. Các thông số về tình trạng chống oxy hóa ở T4 tăng so với thời điểm T0.

Huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương ở nhóm cao huyết áp thấp hơn có ý nghĩa

thống kê ở nhóm cao huyết áp, nhóm không cao huyết áp, sự thay đổi không có ý

nghĩa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, bổ sung dịch chiết tỏi giúp cải thiện lipid máu,

củng cố khả năng chống oxy hóa thông qua việc giảm mức sản phẩm oxy hóa ở máu,

điều này có nghĩa là giảm phản ứng oxy hóa trong cơ thể, giảm huyết áp [82].

Năm 2005, nghiên cứu thực nghiệm trên chuột tại trường đại học tổng hợp

Kuwait, chuột được chia làm ba nhóm, một nhóm được nuôi bằng chế độ ăn nhiều

cholesterol không có tỏi, nhóm còn lại với chế độ ăn tương tự cùng với tỏi, nhóm đối

chứng được nuôi bằng chế độ ăn bình thường. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm

chuột có chế độ ăn nhiều cholesterol không có tỏi có mức cholesterol huyết thanh cao

hơn đáng kể so với nhóm chứng và nhóm có chế độ ăn nhiều cholesterol cùng với tỏi

không những cholesterol mà cả TG và huyết áp đều thấp hơn so với nhóm có chế độ ăn

tương tự nhưng không có tỏi [42].

Năm 2009, M.Koseoglu và cộng sự tiến hành nghiên cứu hiệu quả của tỏi lên

khả năng chống oxy hóa và các chỉ tiêu lipid máu trên 17 người tình nguyện khỏe

mạnh, tuổi trung bình 35,2 ± 6,7. Các đối tượng uống viên bột tỏi hàm lượng 66mg, 4

viên/ngày, chia 2 lần. Trong quá trình nghiên cứu, các đối tượng được lấy máu 4 lần tại

các thời điểm: ban đầu, 3 giờ ngay sau khi uống 4 viên tỏi đầu tiên, ngày thứ 15 và 30

của nghiên cứu để xét nghiệm các chỉ tiêu lipid máu và chỉ tiêu thể hiện khả năng

chống oxy hóa của cơ thể. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỏi có hiệu quả lên khả năng

chống oxy hóa của cơ thể, tổng hàm lượng chất chống oxy hóa huyết thanh tăng có ý

nghĩa ở thời điểm 30 ngày so với thời điểm bắt đầu nghiên cứu, sau 3 giờ và 15 ngày

48

(p<0,05). Các chỉ tiêu lipid máu thay đổi không có ý nghĩa thống kê giữa các thời điểm

ban đầu, sau 3 giờ, sau 15 và 30 ngày sử dụng liệu pháp can thiệp [115].

Gần đây nhất, năm 2009-2010, một nghiên cứu ngẫu nhiên mù kép, có đối

chứng của Fumiko, trên 55 người khỏe mạnh có nồng độ TG huyết thanh ban đầu là

120-200mg/dl, phân bổ ngẫu nhiên vào hai nhóm, một nhóm uống dịch chiết tỏi lên

men với Monascus pilosus 4 viên/ngày tổng cộng 900mg dịch chiết tỏi lên men với

Monascus pilosus. Nhóm còn lại uống viên giả dược, sau 12 tuần. Nhóm can thiệp TG

giảm có ý nghĩa ở tuần thứ 8 so với nhóm chứng (p<0,01), TC (p<0,01), LDL_C

(p<0,001), LDL_C/HDL_C (p<0,001) giảm đáng kể trong hiệu quả tương tác giữa thời

gian và điều trị bằng dich chiết tỏi lên men. Tuy nhiên, không có sự thay đổi phần trăm

mỡ cơ thể và vòng bụng [67].

Phòng chống bệnh tim mạch bằng cách thay đổi các yếu tố nguy cơ chính, bao

gồm cholesterol huyết thanh. Các kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của tỏi lên mức

cholesterol vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, còn nhiều mâu thuẫn, thiếu

tính thống nhất. Hơn nữa, nếu thấy được hiệu quả của tỏi trên người, cần làm sáng tỏ

thêm loại chế phẩm tỏi nào mang lại hiệu quả nhất. Tiếp tục tiến hành nghiên cứu để

đưa ra những kết luận đáng tin cậy về hiệu quả của tỏi với tình trạng RLCHLPM vẫn là

một việc làm hết sức cần thiết.

1.4.3. Hiểu biết về Folate

Folate, acid folic (hay viamin B9) là một chất đồng yếu tố rất quan trọng trong

cơ thể. Từ folate và acid folic thường được sử dụng thay thế lẫn nhau, nhưng có một

điểm khác nhau quan trọng giữa folate và acid folic. Folate là dạng vitamin tự nhiên,

acid folic là dạng vitamin tổng hợp, được sử dụng trong hầu hết các thực phẩm bổ

sung. Nói folate nghĩa là muốn đề cập đến folate ở dạng tự nhiên, có trong thiên nhiên

như trong rau quả. Folate thuộc nhóm vitamin tan trong nước, hoạt tính sinh học của

folate mất đi nhanh chóng trong quá trình thu hoạch, bảo quản, chế biến hay bào chế. ½

49

thậm chí ¾ hoạt tính sinh học ban đầu của folate bị mất trong quá trình này. Do vậy

nhu cầu folate rất khó đáp ứng nếu chỉ thông qua chế độ ăn uống thông thường [73].

Theo các điều tra ở Mỹ đa số mọi người không ăn đủ folate hàng ngày. Nhiều

quốc gia khác trên thế giới cũng gặp phải tình trạng thiếu hụt folate tương tự. Theo cơ

quan sức khỏe cộng đồng Canada, mỗi năm có khoảng 260 trẻ em được sinh ra bị

khiếm khuyết ống thần kinh mà nguyên nhân chính là do người mẹ không bổ sung đủ

folate trước và trong suốt quá trình mang thai. Ngoài ra, tình trạng thiếu hụt Folate

cũng ảnh hưởng đến khoảng 3.000 phụ nữ mang thai mỗi năm ở Hoa Kỳ [105]. Ở Việt

Nam, kết quả nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng năm 2005 tại Hà Nội và Hải Dương

cho thấy 63% phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có hàm lượng Folate trong máu dưới mức

tối ưu (905 nmol/l). Vì vậy, cần bổ sung folate bằng việc phối hợp thức ăn tự nhiên và

các sản phẩm có tăng cường [105]. Trái ngược với folate, tính bền vững của dạng tổng

hợp vitamin này đó là acid folic. Hoạt tính sinh học của acid folic bổ sung vào trong

thực phẩm hoàn toàn có thể bền vững trong nhiều tháng thậm chí hàng năm.

Folate và acid folic có vai trò như nhau trong cơ thể, trừ một điểm khác biệt đó

là dạng tổng hợp (acid folic) được cơ thể hấp thu tốt hơn dạng tự nhiên. Bổ sung

60mcg acid folic tương đương với 100 mcg thức ăn chứa folate. Theo FAO/WHO nhu

cầu acid folic khuyến nghị cho người trưởng thành là 400mcg/ngày [105].

Acid folic cần thiết để giúp cho sự phân chia tế bào, với vai trò đồng yếu tố

tham gia trực tiếp vào chu trình methyl, chu trình tổng hợp các Nucleotid của AND

trong cơ thể, hình thành, tạo nên tế bào mới. Là chất bắt buộc phải có để làm cho một

tế bào có thể phát triển được, nhất là tế bào máu cho nên có thể nói là một chất tạo

máu. Trong quá trình thực hiện vai trò của mình, một lượng đáng kể folate dị hóa và

một lượng nhỏ folate bài tiết qua da, nước tiểu và dịch mật. Do vậy rất cần thiết bổ

sung folate từ khẩu phần ăn. Khi chế độ ăn không cung cấp đủ folate, hoạt động của cả

50

hai chu trình methyl hóa và AND sẽ bị giảm sút, do đó giảm sinh tổng hợp AND và

quá trình phân chia tế bào giảm dẫn đến tăng nhạy cảm đối với bệnh nhiễm trùng, giảm

đông máu.

Biểu hiện rõ ràng khi giảm hoạt động chu trình methyl hóa dẫn đến tăng

homocysteine huyết tương. Homocystein là một amino axit có chứa sulfur trong cấu

trúc phân tử, được tạo thành từ quá trình khử methyl của methionine [21,130]. Hoạt

động chu trình methyl hóa giảm dẫn đến giảm tính sẵn có của nhóm methyl mới đó là

5-methyltetrahydrofolate, cần thiết cho quá trình tái methyl của homocysteine huyết

tương. Bên cạnh acid folic, sự chuyển hoá của homocystein máu còn liên quan đến

vitamin B12 hoặc vitamin B6. Vì vậy, khi cơ thể thiếu các chất này thì homocystein máu

sẽ tăng. Theo Selhub (2003), hai phần ba các trường hợp tăng homocystein máu có liên

quan đến tình trạng thiếu ít nhất một trong các vitamin này. Việc bổ sung acid folic,

vitamin B12 và vitamin B6 có thể đưa homocystein máu về mức bình thường [21,71].

Sự tăng homocysteine huyết tương là chỉ tiêu sinh hóa mang tinh chất chỉ điểm, tương

đối nhạy đối với tình trạng thiếu hụt folate trong cơ thể. Tai biến mạch máu não là

nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 3 sau ung thư và các bệnh tim mạch. Có nhiều

yếu tố nguy cơ gây tai biến mạch máu não, ngoài các yếu tố nguy cơ kinh điển như

tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim mạch, béo phì, hút thuốc lá, yếu tố nguy cơ

vừa mới lộ diện đó là homocystein máu [105].

51

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu được tiến hành theo hai giai đoạn

2.1. GIAI ĐOẠN I:

2.1.1. Mục tiêu:

Xác định sự kết hợp giữa một số thói quen sinh hoạt, tình trạng thừa cân, sự

phân bố mỡ trong cơ thể với tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu ở người

trưởng thành (30-69 tuổi) sống ở nội thành Hà Nội.

2.1.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu Bệnh- Chứng

2.1.3. Đối tượng nghiên cứu

Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng cho nhóm bệnh:

 Là những người trong độ tuổi 30-69 tuổi, sống ở nội thành Hà Nội.

 Tự nguyện tham gia nghiên cứu.

 Kết quả xét nghiệm lipid máu tại thời điểm nghiên cứu, có một hoặc

nhiều hơn một biểu hiện như sau:

o Cholesterol tổng số >5,2 mmol/l (200mg/dl), hoặc

o HDL_C < 0,9 mmmol/l (35mg/dl), hoặc

o LDL_C >3,38 mmol/l (130mg/dl), hoặc

o Triglycerid huyết thanh >2,26mmol/l (90mg/dl)

 Tại thời điểm điều tra không có thai hoặc cho con bú, không mắc các

bệnh cấp tính, không bị dị tật bẩm sinh.

52

Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng cho nhóm chứng:

 Là những người trong độ tuổi 30-69 tuổi, sống ở nội thành Hà Nội.

 Tự nguyện tham gia nghiên cứu.

 Kết quả xét nghiệm lipid máu tại thời điểm nghiên cứu như sau:

o Cholesterol tổng số 5,2 mmol/l (200mg/dl), và

o HDL_C  0,9 mmmol/l (35mg/dl), và

o LDL_C 3,38 mmol/l (130mg/dl), và

o Triglycerid huyết thanh 2,26mmol/l (90mg/dl)

 Từ trước đến nay chưa từng điều trị RLCHLPM bằng thuốc hay bất

kỳ liệu pháp điều trị nào khác.

 Tại thời điểm điều tra không có thai hoặc cho con bú, không mắc các

bệnh cấp tính, không bị dị tật bẩm sinh.

2.1.4. Địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành ở 5 phường nội thành Hà Nội.

2.1.5. Cỡ mẫu:

Với các dữ kiện như sau:

- Tỷ lệ Bệnh/Chứng : 1/1=1

- Tỷ xuất chênh OR mong đợi: 3

- Tỷ lệ (%) phơi nhiễm trong nhóm chứng: 15%

- Lực mẫu: 95%

- Độ tin cậy: 95%

53

Cỡ mẫu được tính theo công thức:

{1/[p1(1-p1)] + 1/[p0(1-p0)]}

1-α/2________________________

n = Z2

[ln(1- ε)]2

Trong đó:

(OR)p0

p1 = ----------------------

(OR)p0 + (1-p0)

- p1: Tỷ lệ các cá thể phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ được ước lượng

cho nhóm bệnh.

- p0: Tỷ lệ các cá thể phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ được ước lượng

cho nhóm chứng.

- ε : Mức độ chính xác mong muốn (chênh lệch cho phép giữa tỷ suất

chênh (OR) thực của quần thể OR thu được từ mẫu)

Sau khi thay các giá trị để tính toán, cỡ mẫu nghiên cứu là 268 (134 cho nhóm

chứng và 134 cho nhóm bệnh), cộng thêm 10% dự phòng bỏ cuộc, ta có cỡ mẫu nghiên

cần cho nghiên cứu là:

150 đối tượng - Nhóm Bệnh:

- Nhóm Chứng: 150 đối tượng

300 đối tượng - Tổng cộng:

54

2.1.6. Chọn mẫu

Tất cả các đối tượng tham gia nghiên cứu của cả hai nhóm bệnh, chứng đều

được chọn từ quần thể nghiên cứu. Việc chọn mẫu đã được tiến hành như sau:

 Theo kết quả của một số nghiên cứu trước [10], tỷ lệ RLCHLPM ở nội thành

Hà Nội vào khoảng 60%. Để có đủ cỡ mẫu cho nghiên cứu, chọn 5 phường

nội thành Hà Nội, dự kiến mỗi phường lấy khoảng 100 người trưởng thành

trong độ tuổi 30-69 tuổi để xét nghiệm 4 chỉ tiêu lipid máu. Trên thực tế, do

phối hợp cùng Công ty Công nghệ và Xét nghiệm Y học Bệnh viện

MEDLATEC, là đơn vị có rất nhiều kinh nghiệm và uy tín trong triển khai

việc khám sức khỏe định kỳ trên địa bàn Hà Nội đặc biệt là khu vực nội

thành, số đối tượng trên thực tế tự nguyện tham gia nghiên cứu mỗi phường

dao động từ 100-150 người, tổng cộng 5 phường có 686 đối tượng, căn cứ

kết quả xét nghiệm của 686 đối tượng, nhóm có RLCHLPM gồm 309 đối

tượng và 309 đối tượng này đều thỏa mãn tiêu chuẩn của nhóm bệnh. Nhóm

không có RLCHLPM gồm 377 đối tượng, trong đó có 368 đối tượng thỏa

mãn tiêu chuẩn lựa chọn nhóm chứng.

- Lập khung mẫu của những đối tượng RLCHLPM thỏa mãn các tiêu

chuẩn của nhóm Bệnh (309 đối tượng).

- Lập khung mẫu của những đối tượng không RLCHLPM thỏa mãn các

tiêu chuẩn của nhóm Chứng (368 đối tượng).

 Lấy ngẫu nhiên 150 đối tượng có RLCHLPM từ khung mẫu có RLCHLPM

dựa vào bảng số ngẫu nhiên trên chương trình EPI INFO.

55

 Lấy 150 đối tượng từ khung mẫu không có RLCHLPM theo nguyên tắc lấy

một đối tượng cùng nhóm tuổi, cùng phường và cùng giới với 1 đối tượng có

tình trạng RLCHLP được chọn ở trên.

2.1.7. Phương pháp, kỹ thuật thu thập các chỉ tiêu, biến số

 Thu thập các chỉ tiêu nhân trắc bằng phương pháp cân đo bao gồm:

o Cân nặng:

- Sử dụng cân Seca, đảm bảo chính xác đến 0,1kg. Cân được kiểm

tra và điều chỉnh chính xác trước khi cân.

- Cân đối tượng vào buổi sáng khi chưa ăn uống gì và đã đi đại tiểu

tiện.

- Đặt cân ở vị trí ổn định trên mặt phẳng, đối tượng chỉ mặc quần áo

mỏng, không đi dép guốc, không đội mũ, cầm hoặc mang vật gì

khác. Đối tượng đứng giữa bàn cân, không cử động, mắt nhìn

thẳng, trọng lượng phân bố đều cả hai chân.

- Kết quả được ghi theo kg với một số lẻ

o Đo chiều cao:

- Dùng thước đo bằng gỗ của UNICEF

- Đối tượng đứng thẳng, bỏ giầy dép, đứng quay lưng vào thước đo

sao cho hai gót chân, mông, vai và đầu theo một đường thẳng áp

sát vào tường, mắt nhìn thẳng theo một đường thẳng nằm ngang,

hai tay buông thõng theo thân mình. Kéo cái chặn đầu của thước

từ trên xuống, khi áp sát đến đỉnh đầu nhìn vào thước đọc kết quả.

- Kết quả được ghi theo cm với một số lẻ

o Đo vòng eo

56

- Đo bằng thước dây không co dãn, đo áp sát thước vào phần mềm,

không đo chặt quá.

- Đối tượng đứng thẳng, hai chân mở từ 25-30cm

- Vị trí đo ở mức ngang rốn, tương ứng với trung điểm của bờ dưới

xương sườn cuối với bờ trên mào chậu theo đường nách giữa.

o Đo vòng mông: Đo vòng lớn nhất đi qua mông, vòng đo ở mặt phẳng

ngang

 Đo tỷ lệ mỡ cơ thể: dựa trên nguyên lý đo điện trở sinh học của cơ thể. Khi hai

bàn tay của đối tượng được tiếp xúc với 4 điện cực của máy đo ở tư thế hai tay

giơ ra phía trước và vuông góc với thân người, máy sẽ tự động đo điện trở sinh

học của cơ thể. Sau khi nhập số liệu về cân nặng, chiều cao, tuổi và giới của đối

tượng vào máy, máy đo sẽ tính toán phần trăm mỡ cơ thể dựa vào những thông

số đó cùng với điện trở sinh học vừa đo được. Dụng cụ sử dụng là máy đo phần

trăm mỡ OMRON HBF 306 của Nhật, với độ chính xác 0,1%.

 Phỏng vấn trực tiếp: sử dụng mẫu phiếu thiết kế sẵn cho giai đoạn 1(đã được

hoàn chỉnh sau khi thử nghiệm), để thu thập các thông tin bao gồm:

o Thông tin chung của đối tượng tham gia nghiên cứu.

o Thói quen sinh hoạt.

o Tiền sử bệnh tật.

o Kiến thức về rối loạn chuyển hóa lipid máu.

 Khẩu phần ăn: Sử dụng phương pháp “hỏi ghi khẩu phần 24 giờ qua”, kết hợp

với cân đong, album các món ăn thông dụng của Viện Dinh dưỡng và một số

dụng cụ hỗ trợ khác để giúp đối tượng nhớ lại trả lời một cách chính xác nhất

57

lượng thức ăn mà đối tượng tiêu thụ trong giai đoạn 24 giờ kể từ lúc điều tra

viên bắt đầu phỏng vấn trở về trước.

 Xét nghiệm sinh hóa máu:

o Lấy 5ml máu tĩnh mạch vào buổi sáng, khi đói (đối tượng nhịn đói ít nhất là

10 tiếng đồng hồ, tốt nhất là qua một đêm, nhưng không quá 16 tiếng đồng

hồ) và được nghỉ ngơi ít nhất 10 phút trước khi lấy máu.

o Các đối tượng đang sốt, hoặc sợ hãi quá đều không lấy máu.

o Cho 5ml máu vào ống nghiệm có chứa sẵn các hạt nhựa chuyên để lấy huyết

thanh. Các mẫu máu sau khi ly tâm phân tách huyết thanh, được bảo quản ở -20oC cho đến khi phân tích.

o Các phương pháp phân tích như sau [72]:

- Định lượng cholesterol toàn phần huyết thanh theo phương pháp

CHOD-PAP, so màu dùng enzyme (enzymatic colorometric),

cholesterol oxidase phenazon amino peroxidase.

- Triglyxerid huyết thanh được định lượng theo theo phương pháp

GPO-PAP, so màu dùng enzyme (glycerol phosphate oxidase

phenazon amino oxidase).

- HDL_C huyết thanh được định theo phương pháp sự kết tủa của

LDL_C,VLDL_C, chylomicron.

2.1.8. Chỉ tiêu đánh giá

 Đánh giá TTDD dựa vào Chỉ số khối cơ thể (BMI) được tính theo công thức:

BMI = Cân nặng (kg)/Chiều cao2(m)

Đánh giá thừa cân của IDI &WPRO (2000): Thừa cân khi BMI 23

58

 Béo bụng khi tỷ số vòng eo/vòng mông (VE/VM) vượt quá 0,9 ở nam giới

và 0,8 ở nữ giới.

 Tỷ lệ mỡ cơ thể cao khi giá trị đo được >30% đối với nữ và >25% đối với

nam.

 Hút thuốc thường xuyên (được quy định trong nghiên cứu): Hút thuốc hàng

ngày.

 Thói quen uống rượu, bia (được quy định trong nghiên cứu này): uống ≥3

lần/tuần.

 Lạm dụng rượu bia: đánh gía dựa vào số đơn vị rượu sử dụng trung

bình/ngày:

- Một đơn vị rượu tính bằng 10g etanol, tương đương 285 ml bia, 30ml

rượu nặng, 60ml rượu khai vị, 120 ml rượu vang [158].

- Lạm dụng rượu bia khi tiêu thụ trên 3 đơn vị rượu/ngày đối với nam

và 2 đơn vị rượu/ngày đối với nữ.

 Mức độ hoạt động nghề nghiệp (được quy đinh trong nghiên cứu này):

- Nhẹ: Về hưu, thất nghiệp.

- Trung bình: Văn phòng, buôn bán, học sinh.

- Nặng: công nhân, nông dân, lao động phổ thông.

 Thói quen luyện tập thể thao (được quy định trong nghiên cứu này).

- Thường xuyên luyện tập thể thao: 3lần/tuần, mỗi lần từ 30 phút trở

lên.

- Không thường xuyên luyện tập thể thao: <3lần/tuần, hoặc 3 lần/tuần

nhưng <30phút/lần.

59

 Đánh giá kiến thức về RLCHLPM (được dùng trong nghiên cứu này):

- Có kiến thức: trả lời đúng 3/5 số câu hỏi

- Không có kiến thức: trả lời đúng <3/5 số câu hỏi

 Đánh giá RLCHLPM theo WHO (2000) [157]:

- Cholesterol tổng số >5,2 mmol/l (200mg/dl), hoặc

- HDL_C < 0,9 mmmol/l (35mg/dl), hoặc

- LDL_C >3,38 mmol/l (130mg/dl), hoặc

- Triglycerid huyết thanh >2,26mmol/l (90mg/dl)

2.2. GIAI ĐOẠN II

2.2.1. Mục tiêu:

Đánh giá hiệu quả của sử dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng rối

loạn chuyển hóa lipid máu trên người 30-69 tuổi.

2.2.2. Phuơng pháp nghiên cứu đánh giá hiệu quả của viên tỏi-folate

2.2.2.1.Đối tượng

Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng vào nghiên cứu

 Những đối tượng có RLCHLPM

 Tự nguyện tham gia nghiên cứu

 Chưa dùng thuốc hạ lipid máu bao giờ, hoặc đã ngừng dùng thuốc uống,

hoặc liệu pháp khác điều trị RLCHLPM  3 tháng.

Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng

 LDL_C 4,9mmol/l (190mg/dl), Triglycerid>26mmol/l.

60

 LDL_C4,2mmol/l(160mg/dl) ở đối tượng vừa kết thúc việc thực hiện

chế độ ăn bệnh lý trong thời gian từ 3 tháng trở lên. Tăng huyết áp độ II

(HATT160mmHg và/hoặc HATTr100mmHg) [165].

 Hiện đang sử dụng một số loại thuốc (điều trị RLCHLPM, nội tiết tố,

corticoid, thuốc tránh thai, lợi tiểu chẹn 1 giao cảm, chẹn  giao cảm)

 Mắc các bệnh lý nột tiết như: suy giáp, cường giáp, suy tuyến yên, hội

chứng Cushing, đái tháo đường, hội chứng thận hư

 Các đối tượng trong quá trình nghiên cứu áp dụng biện pháp điều trị

RLCHLPM khác, không tuân thủ liệu trình can thiệp, vì lý do nào đó

không có số liệu trong các lần điều tra ban đầu và điều tra kết thúc,

không lĩnh thuốc hoặc lĩnh thuốc nhưng số thuốc sử dụng dưới 85%.

2.2.2.2. Chế phẩm sử dụng trong nghiên cứu

o Hai loại chế phẩm phục vụ nghiên cứu (viên tỏi-folate và viên giả dược), có

hình dáng, kích cỡ, màu sắc giống hệt nhau, được đựng trong cùng một loại

lọ có nhãn mác như nhau, loại lọ đựng viên tỏi folate thật được bôi thêm một

vạch vàng trên nhãn mác. Chế phẩm được đóng lọ 100 viên, đủ dùng trong

25 ngày, kèm theo hướng dẫn sử dụng rõ ràng chi tiết.

o Viên nang tỏi –folate có hàm lượng bột tỏi 200mg, 0,1mg acid folic, 0,4mg

vitamin B6, 0,5mg vitamin B12 và 4mg Aerosil.

o Xây dựng công thức, quy trình sản xuất, hình thành sản phẩm, kiểm nghiệm,

phân tích đánh giá chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm của viên tỏi –folate

sau sản xuất và theo thời gian bảo quản, xây dựng hồ sơ công bố sản phẩm

về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đã được thực hiện và nghiệm thu

trong nội dung Đề tài nhánh cấp Nhà nước số KC.10.05/06-10 do Viện Dinh

dưỡng và Xí nghiệp Dược Hậu Giang phối hợp thực hiện.

61

2.2.2.3. Thiết kế nghiên cứu

Theo mô hình nghiên cứu “thử nghiệm can thiệp ngẫu nhiên có đối chứng”, áp

dụng kỹ thuật mù đơn.

2 (Zα +Z) 

N = 2 x

1 - 2

2.2.2.4. Cỡ mẫu:

Trong đó:

 Zα: Là phân vị chuẩn hóa ứng với hệ số tin cậy 95%, α=0,05 thì

Zα=1,96.

 Zβ: Phân vị chuẩn hóa ứng với độ mạnh của nghiên cứu 1-β = 90%,

β=0,1 thì Zβ = 1,28.

 δ: Là độ lệch chuẩn ước lượng dựa vào nghiên cứu trước.

 μ1- μ2: Chênh lệch trung bình mong muốn về nồng độ lipid máu giữa

hai nhóm nghiên cứu sau can thiệp.

Cỡ mẫu được tính dựa theo sự khác biệt mong đợi về nồng độ LDL_C huyết thanh

giữa hai nhóm sau khi can thiệp [72].

(1,96 + 1,28) 0,46 2

N = 2 = 14 0,57

Cỡ mẫu được tính dựa theo sự khác biệt mong đợi về nồng độ cholesterol toàn phần

huyết thanh giữa hai nhóm sau khi can thiệp [72].

(1,96 + 1,28) 0,64 2 N = 2 = 54 0,4

62

Cỡ mẫu được tính dựa theo sự khác biệt mong đợi về nồng độ triglyceride huyết

thanh giữa hai nhóm sau khi can thiệp [72].

(1,96 + 1,28) 0,6 2

N = 2 = 27

0,56

Cỡ mẫu được tính dựa theo sự khác biệt mong đợi về nồng độ HDL_C huyết thanh

giữa hai nhóm sau khi can thiệp [72].

(1,96 + 1,28) 0,2 2

N = 2 = 37

0,15

Vậy cỡ mẫu chung cần thiết để đánh giá hiệu quả của viên tỏi – folate đối với tình

trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu ở giai đoạn II là 54 đối tượng/nhóm, cộng thêm

10% dự phòng bỏ cuộc. Tổng số đối tượng cho hai nhóm nghiên cứu sẽ là:

60 đối tượng/nhóm x 2 nhóm = 120 đối tượng

2.2.2.5. Chọn mẫu:

Dựa trên kết quả xét nghiệm máu của giai đoạn I, lập khung mẫu các đối tượng các

đối tượng có đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu can thiệp, đánh số ngẫu nhiên 1,2

những đối tượng mang số 1 được chọn vào nhóm can thiệp, những đối tượng mang số

2 được chọn vào nhóm đối chứng cho đến khi đủ số đối tượng cho mỗi nhóm nghiên

cứu.

2.2.2.6. Thực hiện nghiên cứu

 Bước 1: Chuẩn bị đối tượng và chế phẩm sử dụng trong nghiên cứu

- Lập khung mẫu, phân bổ ngẫu nhiên đối tượng vào hai nhóm nghiên cứu.

63

- Sau khi phân bổ ngẫu nhiên các đối tượng vào hai nhóm nghiên cứu: mỗi

nhóm đối chứng và can thiệp gồm 60 đối tượng. Tổng cộng 120 đối tượng

được đưa vào nghiên cứu ở giai đoạn ban đầu (T0).

 Bước 2: Thu thập số liệu tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu

- Cân nặng, chiều cao, VE,VM, % mỡ cơ thể, các chỉ tiêu lipid máu và thói

quen luyện tập thể thao: sử dụng số liệu thu thập ở giai đoạn I

- Tiến hành phỏng vấn khẩu phần ăn 24 giờ qua trong 3 ngày (2 ngày liên tục

trong tuần và một ngày cuối tuần) của tất cả các đối tượng ở cả hai nhóm

nghiên cứu.

- Đo huyết áp:

o Dụng cụ sử dụng là máy huyết áp kế thủy ngân.

o Đối tượng được nghỉ ngơi trước khi đo 5 phút. Đo HA cánh tay,

lấy HA tay trái làm chuẩn, đo ở tư thế ngồi.

o Đối tượng không hoạt động mạnh, không uống cà phê, nước chè,

uống rượu, hút thuốc lá trước khi đo, không tra thuốc nhỏ mắt,

nhỏ mũi có hoạt chất kích thích giao cảm trước khi đo, phòng đo

yên tĩnh, ấm áp.

o Đối tượng được đo 2 lần, mỗi lần cách nhau ít nhất 2 phút, kết quả

HA là trung bình cộng của 2 lần đo. Nếu kết quả huyết áp giữa hai

lần đo chệnh lệch nhau >10mmHg thì phải đo lại lần thứ 3.

 Bước 3: Tiến hành liệu pháp can thiệp

- Sau khi thu thập số liệu, các đối tượng ở nhóm can thiệp gồm 60 đối tượng,

được uống viên nang tỏi –folate, 4viên/ngày, chia 2 lần/ngày, trong thời gian 12

tuần liên tục. Chế phẩm được đóng lọ 100 viên, đủ dùng trong 25 ngày, kèm

64

theo hướng dẫn sử dụng rõ ràng chi tiết. Mỗi tháng, đối tượng được phát 01 lọ, 3

lọ trong 3 tháng. Mỗi đối tượng uống 6 ngày/tuần.

- Các đối tượng ở nhóm đối chứng gồm 60 đối tượng, không dùng viên tỏi, chỉ

dùng viên giả dược trong 12 tuần liên tục. Chế phẩm được đóng lọ 100 viên, đủ

dùng trong 25 ngày, kèm theo hướng dẫn sử dụng rõ ràng chi tiết. Mỗi tháng,

đối tượng được phát 01 lọ, 3 lọ trong 3 tháng. Mỗi đối tượng uống 6 ngày/tuần.

- Do áp dụng kỹ thuật mù đơn nên các đối tượng nghiên cứu được giải thích là sử

dụng viên vi chất dinh dưỡng với những thành phần khác nhau, không có thành

phần nào có hại cho sức khỏe.

 Bước 4: Thu thập số liệu tại thời điểm kết thúc nghiên cứu

Sau 12 tuần sử dụng liệu pháp can thiệp, tất cả đối tượng ở cả hai nhóm nghiên cứu

đã được:

- Lấy máu lần 2 để đánh giá sự thay đổi về các chỉ số sinh hóa lipid máu sau

can thiệp.

- Phỏng vấn khẩu phần ăn, thói quen luyện tập thể thao lần 2.

- Thu thập các chỉ tiêu cân nặng, chiều cao, VE,VM, % mỡ cơ thể, HA lần 2.

2.2.2.7. Chỉ số hiệu quả và hiệu quả của can thiệp

Chỉ số hiệu quả và hiệu quả của can thiệp theo các chỉ tiêu lipid máu:

Chỉ số hiệu quả (CSHQ): H (%) = (B-A)/B x 100

(Trong đó: B là tỷ lệ RLCHLPM theo các chỉ tiêu lipid máu trước can thiệp;

A là tỷ lệ RLCHLPM theo các chỉ tiêu lipid máu sau can thiệp)

H1: Chỉ số hiệu quả của nhóm can thiệp H2: Chỉ số hiệu quả của nhóm chứng

Hiệu quả can thiệp (HQCT) = H1-H2

65

Đối tượng RLCHLPM

SƠ ĐỒ NGHIÊN CỨU

Thu thập số liệu:

Nhóm can thiệp (60 đối tượng)

Nhóm đối chứng (60 đối tượng)

Phân bổ ngẫu nhiên

- TT chung - Nhân trắc - KP, LTTT - HA - CT, TG, LDL_C, HDL_C

Nhóm đối chứng:

Nhóm can thiệp

- Uống viên tỏi-

T0

- Uống viên placebo 4v/ngày x 3 tháng

folate (200mg tỏi, 100mcg acid folic/v) 4v/ngày x 3 tháng

Thu thập số liệu:

Can thiÖp (3 tháng)

Nhóm can thiệp (55 đối tượng)

Nhóm đối chứng (56 đối tượng)

- Nhân trắc - KP, LTTT - HA - CT, TG, LDL_C, HDL_C

T3

So sánh

Hiệu quả

Hiệu quả của nhóm đối chứng

của nhóm can thiệp

Đánh giá kết quả

66

Công tác giám sát:

Giám sát việc sử dụng thuốc: hàng tuần nghiên cứu viên gửi và thu phiếu theo dõi,

ghi chép lại tình hình sức khỏe chung, tác dụng phụ, số viên thuốc sử dụng (theo mẫu

phiếu định sẵn). Nghiên cứu viên cũng gặp ngẫu nhiên và phỏng vấn trực tiếp việc sử

dụng thuốc của một số đối tượng.

2.2.3. Phân tích số liệu:

Chỉ những số liệu thu thập được từ những đối tượng sử dụng 85% số viên thuốc

được phát trở lên (tương đương 255 viên) và có đầy đủ số liệu tại hai thời điểm trước

và sau can thiệp mới được đưa vào tính toán đánh giá hiệu quả của can thiệp.

Số liệu thu thập bằng phương pháp “Hỏi ghi khẩu phần 24 giờ qua”, được làm sạch,

quy đổi, phân tích thành phần các chất dinh dưỡng bằng việc sử dụng “Bảng thành

phần thức ăn Việt Nam 2007”.

Toàn bộ số liệu được nạp vào phần mềm EPI data, sau đó số liệu được chuyển sang

SPSS 10.0 để xử lý. Số liệu nhân trắc được kiểm định phân bố chuẩn qua phần kiểm

định chạy trên phần mềm SPSS. Các phép tính trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn sẽ

được thực hiện. Các Test thống kê: t test, t ghép cặp được dùng để so sánh 2 biến liên

tục có phân bố chuẩn, của 2 nhóm trước và sau can thiệp. Mann-Whiney test và

Wilconxon Test được sử dụng để so sánh hai biến số liên tục không phân bố chuẩn của

hai nhóm hoặc một nhóm ở thời điểm trước và sau can thiệp. Test khi bình phương

hoặc Mc-Nemar test dùng để so sánh hai tỷ lệ của hai nhóm hoặc một nhóm vào các

thời điểm trước và sau can thiệp.

2.3. §¹O §øC NGHI£N CøU

Nghiên cứu tiến hành sau khi được Hội đồng khoa học và Hội đồng Y đức của Viện

Dinh dưỡng thông qua. Các đối tượng đều được thông báo và giải thích về mục đích và

những nội dung sẽ tiến hành trong nghiên cứu. Những đối tượng không đồng ý tham

67

gia nghiên cứu đều được chấp nhận. Đối tượng chấp nhận tham gia nghiên cứu được

mời ký vào bản cam kết.

Các số liệu về sức khỏe riêng của đối tượng được giữ bí mật. Khi công bố kết

quả về khoa học cũng không nêu tên cụ thể từng đối tượng.

Toàn bộ mẫu máu được thu thập và xét nghiệm bởi đội ngũ kỹ thuật viên và xét

nghiệm viên có trình độ chuyên môn sâu, giàu kinh nghiệm của Công ty Công nghệ và

Xét nghiệm Y học Bệnh viện MEDLATEC, cùng hệ thống máy móc trang thiết bị xét

nghiệm được công nhận đáp ứng yêu cầu về quy trình kỹ thuật và quản lý chất lượng

xét nghiệm y học ngoại kiểm hàng năm.

Trong thời gian tiến hành can thiệp, các đối tượng ở nhóm đối chứng đều được

theo dõi liên tục để phát hiện các thay đổi bất thường. Khi kết thúc nghiên cứu, toàn bộ

đối tượng của nhóm chứng được phát một cơ số viên tỏi-folate tương tự nhóm can

thiệp.

2.4. KHã KH¡N, H¹N CHÕ Vµ C¸CH KH¾C PHôC

 Do nhóm chứng trong giai đoạn I được chọn từ quần thể, do đó đòi hỏi chi phí tốn

kém hơn và mất nhiều thời gian hơn, khó tiếp cận hơn. Rất dễ gặp phải sai số chọn,

xảy ra trường hợp những đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu có thể khác với

những người không tham gia nghiên cứu về mức độ phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ

của RLCHLPM. Để khắc phục khó khăn này, nhóm nghiên cứu đã cố gắng tìm

kiếm kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau, chú trọng công tác vận động đối tượng

tham gia nghiên cứu thông qua mạng lưới cộng tác viên ở địa bàn nghiên cứu.

 Việc thu thập các thông tin như thói quen ăn uống, khẩu phần ăn, luyện tập thể

thao, thói quen sinh hoạt dùng trong nghiên cứu bằng hình thức phỏng vấn trực tiếp

đối tượng nghiên cứu, khó tránh khỏi sai số nhớ lại. Để khắc phục hạn chế này,

nhóm nghiên cứu đã chọn lựa, cử những cán bộ có kinh nghiệm, được tập huấn kỹ

68

năng khai thác thông tin, thử nghiệm, bàn bạc, chỉnh sửa bộ câu hỏi theo đúng trình

tự, áp dụng phương pháp hỏi ghi khẩu phần 24 giờ qua trong 3 ngày để hạn chế tối

đa sai số. Các chỉ số như HA hay dao động, đo nhiều lần để lấy giá trị trung bình.

 Hiệu quả của can thiệp hoàn toàn phụ thuộc vào việc tuân thủ can thiệp của đối

tượng nghiên cứu. Do vậy, trong suốt quá trình nghiên cứu ngay từ khâu lên kế

hoạch triển khai rồi tổ chức triển khai can thiệp, luôn được nhóm nghiên cứu viên

giàu kinh nghiệm xem xét cân nhắc kỹ càng từng chi tiết, sao cho đạt hiệu quả nhất.

Công tác huấn luyện các cộng tác viên tham gia vào nghiên cứu cũng như công tác

giám sát trong suốt thời gian tiến hành nghiên cứu đã luôn được chú trọng.

69

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ

3.1. Sự kết hợp giữa một số yếu tố nguy cơ và tình trạng RLCHLPM

3.1.1 Đặc điểm hai nhóm nghiên cứu

Bảng 3.1: Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu

( p, 2test)

Đặc điểm Nhóm bệnh Nhóm chứng Mức YN

(n=150 (n=150)

n % n %

Nhóm tuổi (năm) 30-39 15 10,0 15 10,0

40-49 35 23,3 35 23,3 >0,05

50-59 50 33,3 50 33,3

60-69 50 33,3 50 33,3

Giới Nam 49 32,7 49 32,7

Nữ 101 67,3 101 67,3 >0,05

Mức độ Nhẹ 93 62,0 87 58,0

43 28,7 57 hoạt động Trung bình 38,0 >0,05

nghề nghiệp Nặng 14 9,3 6 4,0

Trình độ học vấn Cấp 1 9 6,0 6 4,0

Cấp 2 47 31,3 25 16,7 <0,01

Cấp 3 65 43,3 71 47,3

TC/CĐ/ĐH 29 19,3 48 32,0

Bảng 3.1 cho thấy có sự tương đồng về tuổi, giới tính và nghề nghiệp giữa hai

nhóm. Trong từng nhóm số lượng nữ giới nhiều gấp đôi nam giới.

70

Bảng 3.1 còn cho thấy sự khác biệt về trình độ học vấn giữa nhóm chứng và

nhóm bệnh với p<0,01; trong đó số đối tượng có học vấn cao (trung cấp/cao đẳng/đại

học) ở nhóm chứng (32%) cao hơn so với nhóm bệnh (19,3%), ngược lại số đối tượng

tốt nghiệp cấp 2 ở nhóm bệnh (31,3%) cao hơn nhóm chứng (16,7%).

3.1.2. Rối loạn chuyển hóa lipid máu và một số yếu tố nguy cơ

Bảng 3.2: Mối nguy cơ của thừa cân, béo bụng, % mỡ cơ thể và RLCHLPM

Nhóm bệnh Nhóm chứng OR p

n (%) n (%) (CI.95%) (χ 2test)

Tình trạng thừa cân: Có 89 (59,3) 65 ( 43,3) 1,9(1,2-3,0) <0,01

Không 61 (40,7) 85 (56,7) -

Tình trạng béo bụng Có 98 (65,3) 34 (22,7) 6,4(3,9-10,7) <0,001

Không 52 (34,7) 116 (77,3) -

% mỡ cơ thể cao Có 85 (56,7 ) 51 (34,0) 2,5(1,6-4,1) <0,001

Không 65 (43,3) 99 (66,0 ) -

Bảng 3.2 cho thấy thừa cân, béo bụng, % mỡ cơ thể cao, là những yếu tố nguy

cơ liên quan với tình trạng RLCHLPM. Khi bị thừa cân, nguy cơ mắc RLCHLPM sẽ

tăng lên 1,9 lần (p<0,01), nguy cơ này tăng 6,4 lần (p<0,001) khi bị béo bụng và tăng

2,5 lần (p<0,001) khi có % mỡ cơ thể cao.

71

Bảng 3.3: Sự kết hợp giữa một số thói quen sinh hoạt và RLCHLPM

Nhóm bệnh Nhóm chứng OR p

( χ 2 test)

(CI.95%)

n (%) n (%)

Thói quen hút thuốc

- Hút thường xuyên 17 (11,3) 11 (7,3) 1,6 (0,7-3,6) >0,05

 <20điếu 2 (1,3) 6 (4,0) 0,4(0,7-1,8) >0,05

 ≥20 điếu 15 (10,0) 5 (3,3) 3,1 (1,2-8,9) <0,05

- Hút không thường xuyên 14 (9,3) 15 (10,0) 1 (0,5-2,1) >0,05

- Không hút 119 (79,3) 124 (82,7) -

Thói quen uống rượu bia

- Lạm dụng 3 (2,0) 4 (2,7) 0,7 (0,2-3,5) >0,05

- Uống >3 lần/tuần

 <1 đơn vị/ngày 10 (6,8) 16 (10,6) 0,6 (0,3-1,5) >0,05

11 (7,4) 10 (6,7) 1,1 (0,4-2,8) >0,05  1đơn vị /ngày

81 (54,7) 78 (52,0) 1,0 (0,6-1,7) >0,05 - Uống <3 lần/tuần

43 (29,1) 42 (28,0) - - Không uống

Thói quen luyện tập thể thao

- Không tập 45 (30,2) 38 (25,3) 1,3(0,8-2,2) >0,05

- Không thường xuyên 38 (25,5) 40 (26,7) 1(0,6-1,8) >0,05

- Thường xuyên 66 (44,3) 72 (48,0) -

72

Kết quả bảng 3.3 cho thấy việc hút thuốc lá thường xuyên trên 20 điếu/ngày sẽ

làm tăng nguy cơ RLCHLPM lên gấp 3,1 lần(p<0,05).

Bảng 3.4: Sự kết hợp giữa khẩu phần ăn và RLCHLPM

Nhóm bệnh Nhóm chứng OR p

n (%) n (%) (KTC_95%) (χ2 test)

Năng lượng từ lipid

 ≥ 20% 13 (8,7) 24 (16,0) 0,5(0,2-1,0) >0,05

Choleterol khẩu phần

 < 20% 137 (91,3) 126 (84,0) -

 ≥ 200mg 15 (10,0) 14 (9,3) 1,1(0,5-2,3) >0,05

 <200mg 135 (90,0) 136 (90,7) -

SFA

 ≥ 7% 35 (23,3) 15 (10,0) 2,7(1,4-5,3) <0,01

 < 7% 115 (76,7) 135 (91,0) -

MUFA

 <10% 146 (97,3) 143 (95,3) 1,8(0,5-6,2) >0,05

 ≥ 10% 4 (2,7) 7 (4,7) -

PUFA

 < 10% 147 (98,0) 143 (95,2) 2,4(0,6-9,5) >0,05

 ≥ 10% 3 (2,0) 7 (4,7) -

Chất xơ

 <20g 136 (80,3) 23 (82,0) 2,1(1,1-4,3) <0,05

 ≥ 20g 14 (9,3) 27(18,0) -

73

Bảng 3.4 cho thấy không có mối liên hệ giữa phần trăm năng lượng từ lipid

khẩu phần, hàm lượng cholesterol cũng như phần trăm năng lượng từ acid béo chưa no

một nối đơn (MUFA) và acid béo chưa no nhiều nối đôi trong khẩu phần với tình trạng

RLCHLPM. Nhưng khi phần trăm năng lượng từ acid béo no (SFA) khẩu phần ở mức

từ 7% trở lên thì nguy cơ mắc RLCHLPM tăng lên gấp 2,7 lần (p<0,01). Khẩu phần ăn

ít chất xơ (dưới 20g/ngày) làm tăng nguy cơ mắc RLCHLPM lên gấp 2,1 lần (p<0,05).

Bảng 3.5: Rối loạn chuyển hóa lipid máu và một số yếu tố nguy cơ khác

Nhóm bệnh Nhóm chứng OR p

n (%) n (%) (KTC_95%) (χ2 test)

Tiền sử gia đình

 Có 37 (24,7) 21 (14,0) 2(1,1-3,6) <0,05

113 (75,3) 129 (86,0) -  Không

Kiến thức RLCHLPM

 Không đạt 90 (60,0) 94 (63,5) 0,9(0,6-1,4) >0,05

60 (40,0) 56 (36,5) -  Đạt

Tình trạng mãn kinh

Mãn kinh 81 (81,0) 51 (50,5) 4,0(2,1-7,4) <0,001

20 (19,0) 50 (49,5) - Chưa mãn kinh

Tuy không thấy sự kết hợp giữa kiến thức và RLCHLPM, nhưng kết quả bảng

3.5 cho thấy, tiền sử gia đình và tình trạng mãn kinh ở phụ nữ làm tăng nguy cơ mắc

RLCHLPM lên gấp 2 và gấp 4 lần so với người không có yếu tố gia đình và so với

những phụ nữ chưa mãn kinh.

74

3.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng RLCHLPM.

3.2.1. Đặc điểm hai nhóm nghiên cứu trước khi can thiệp

Bảng 3.6: Các chỉ số nhân trắc và huyết áp khi bắt đầu nghiên cứu

Chỉ tiêu Đối chứng Can thiệp p

(n=56) (n=55) ( t test)

Tuổi (năm) 49,7±7,9 50,1±8,1 >0,05

Chiều cao (cm) 157,2±5,8 157,1±6,5 >0,05

Cân nặng (kg) 58,6±7,1 58,4±8,3 >0,05

BMI 23,8±1,9 23,6±2,3 >0,05

Tỷ lệ mỡ (%) 30,08±4,02 29,83±5,21 >0,05

Tỷ số vòng eo/mông 0,87±0,04 0,88±0,04 >0,05

HA-Tâm thu (mmHg) 120,1±15,4 121,4±15,8 >0,05

HA- Tâm trương (mmHg) 78,3±9,5 78,1±10,0 >0,05

Tuổi trung bình của nhóm chứng và nhóm can thiệp là 49,7 và 50,1 tuổi, không

có sự khác biệt về tuổi giữa hai nhóm nghiên cứu (p>0,05). Cân nặng, chiều cao trung

bình của hai nhóm nghiên cứu là tương đương nhau (p>0,05). Chỉ số khối cơ thể, tỷ lệ

phần trăm mỡ cơ thể, tỷ số vòng eo/vòng mông giữa hai nhóm khác nhau không có ý

nghĩa thống kê (p>0,05). Huyết áp tâm thu và tâm trương của các đối tượng ở hai

nhóm tại thời điểm trước khi bổ sung viên tỏi - folate sự khác biệt không có ý nghĩa

thống kê (p>0,05).

75

Bảng 3.7: Các chỉ số lipid máu (mmol/l) khi bắt đầu nghiên cứu

Chỉ tiêu Đối chứng Can thiệp p

(n=56) (n=55) ( t test)

Triglycerid 2,82±1,97 2,73±1,97 >0,05

Cholesterol_TP 5,75±0,71 5,79±0,82 >0,05

LDL_C 4,07±0,51 4,03±0,51 >0,05

HDL_C 1,22±0,26 1,22±0,27 >0,05

Kết quả phân tích cho thấy nồng độ triglyceride trung bình huyết thanh của các

đối tượng nghiên cứu là 2,82 và 2,73 mmol/l, không có sự khác biệt giữa hai nhóm

nghiên cứu (p>0,05). Tương tự đối với chỉ tiêu cholesterol toàn phần (p>0,05). Bảng

3.7 còn chỉ ra sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê về nồng độ LDL_C và HDL_C

trung bình giữa hai nhóm tại thời điểm ban đầu.

Hình 3.1: Tỷ lệ RLCHLPM theo các chỉ tiêu lipid máu ở thời điểm trước can thiệp

76

Tỷ lệ RLCHLPM chung tại thời điểm ban đầu của các đối tượng tham gia

nghiên cứu lần lượt theo các chỉ tiêu trglycerid, cholesterol toàn phần, LDL_C và

HDL_C là 54,8%; 80%, 88,3% và 7,8%. Không có sự khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu (χ 2 test, p>0,05).

Bảng 3.8: Mức tiêu thụ lượng thực thực phẩm ở hai nhóm nghiên cứu tại T0

Trung vị (g/người/ngày) Tên lương thực thực phẩm

Đối chứng Can thiệp

(n=56) (n=55)

Gạo 219 210 NS

Lương thực khác 69 60 NS

Đậu đỗ 5,5 6,0 NS

Đậu phụ 37 31 NS

Rau các loại 304 257 NS

Quả 153 148 NS

Đường 13 16 NS

Dầu/mỡ 8,5 7,8 NS

Thịt các loại 111 115 NS

Trứng/sữa 77 75 NS

(NS): p>0,05, so với nhóm chứng, Mann-Whiney Test

Cá, thủy sản 62 57 NS

77

Gạo là lương thực chính của các đối tượng nghiên cứu. Mức tiêu thụ lương thực

thực phẩm ở cả hai nhóm tương đối đồng đều, nhóm chứng tiêu thụ gạo, lương thực

khác, rau, quả, dầu mỡ, trứng sữa, cá thủy sản nhiều hơn nhóm can thiệp và ngược lại,

mức tiêu thụ đậu đỗ, đường và thịt ở nhóm can thiệp lại cao hơn so với nhóm chứng,

nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.9: Đặc điểm cân đối của khẩu phần ở hai nhóm nghiên cứu tại T0

Đối chứng Can thiệp

(n=56) (n=55)

Tổng số năng lượng (Kcal) 1609(1301-1755) 1569 (1247-1761)NS

Tỷ số Ca/P 0,45(0,39-0,46) 0,43( 0,36-0,46) NS

Fe (mg) 6,5(5,7-8,4) 7,1(6,0-8,7) NS

Vit. B1(mg)/1000kcal 0,63(0,61-0,65) 0,63(0,61-0,67) NS

Lipids ĐV/Lipid tổng số (%) 60(57-64) 57(46-63) NS

Năng lượng do Protid (%) 15(13-16) 13(12-15) NS

Năng lượng do Lipids(%) 13(11-15) 14(11-16) NS

(NS): p>0,05, so với nhóm chứng, Mann-Whiney Test

Năng lượng do Glucid(%) 72(70-74) 73(71-74) NS

Năng lượng khẩu phần của các đối tượng tham gia nghiên cứu đạt 60-70% nhu

cầu khuyến nghị, sự khác biệt giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Tỷ

lệ các chất sinh nhiệt của các đối tượng ở nhóm can thiệp là 13:14:73, tương đương với

tỷ lệ 15:13:72 ở nhóm chứng. Hàm lượng sắt, vitamin B1 trong khẩu phần là tương

đương nhau ở cả hai nhóm (p>0,05).

78

Bảng 3.10: Thói quen luyện tập thể thao ở hai nhóm nghiên cứu tại T0

Thói quen luyện tập thể thao Đối chứng Can thiệp p

n (%) n (%) ( χ 2 test)

- Không tập 21 (37,5) 14 (25,5) >0,05

- Không thường xuyên 9 (16,1) 16 (29,1) >0,05

- Thường xuyên 26 (46,4) 25 (45,4) >0,05

Kết quả bảng 3.10 cho thấy, tại thời điểm khi bắt đầu nghiên cứu không có sự

khác biệt về thói quen luyện tập thể thao giữa hai nhóm nghiên cứu (p>0,05).

3.2.2 . Sự chấp nhận can thiệp của các đối tượng nghiên cứu

Tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu: 120 đối tượng được chọn, 60 đối tượng cho

mỗi nhóm can thiệp và đối chứng.

Bảng 3.11 Tình trạng vệ sinh an toàn của viên tỏi – folate dùng trong nghiên cứu

Ngay sau

3 tháng sau

Kết quả Tiêu chuẩn cho

xuất xưởng

xuất xưởng

104khuẩn lạc/1g sản phẩm

Tổng số vi sinh vật hiếu khí TCVN 4886-89

Chỉ tiêu Phương pháp phép

10 vi khuẩn/1g sản phẩm

50 60

3 vi khuẩn/1g sản phẩm

Coliforms TCVN 4883-1993 0 0

10 vi khuẩn/1g sản phẩm

E.coli TCVN 5155-1990 0 0

10 vi khuẩn/1g sản phẩm

S.aureus TCVN 4830-1989 0 0

0 vi khuẩn/1g sản phẩm

Cl.perfringens TCVN 4991-1989 0 0

10 vi khuẩn/1g sản phẩm

Salmonella TCVN 4829-2001 0 0

B.cereus ISO 21871-2006 0 0

79

Tiêu chuẩn cho Kết quả

6 tháng sau

9 tháng sau

xuất xưởng

xuất xưởng

104khuẩn lạc/1g sản phẩm

Tổng số vi sinh vật hiếu khí TCVN 4886-89

phép Chỉ tiêu Phương pháp

10 vi khuẩn/1g sản phẩm

90 1x102

3 vi khuẩn/1g sản phẩm

Coliforms TCVN 4883-1993 0 0

10 vi khuẩn/1g sản phẩm

E.coli TCVN 5155-1990 0 0

10 vi khuẩn/1g sản phẩm

S.aureus TCVN 4830-1989 0 0

0 vi khuẩn/1g sản phẩm

Cl.perfringens TCVN 4991-1989 0 0

10 vi khuẩn/1g sản phẩm

Salmonella TCVN 4829-2001 0 0

B.cereus ISO 21871-2006 0 0

Bảng 3.11 cho thấy viên tỏi - folate dùng trong nghiên cứu đạt tiêu chuẩn an

toàn vệ sinh cho phép tại thời điểm ngay sau khi xuất xưởng. Sau 3, 6 và 9 tháng bảo quản tuy tổng số vi sinh vật hiếu khí tăng từ 60 lên 102 khuẩn lạc/1g sản phẩm nhưng

vẫn nằm trong giới hạn an toàn.

80

Bảng 3.12: Các biểu hiện của đối tượng ở nhóm can thiệp trong thời gian nghiên cứu

Nhóm can thiệp

(n=55) Biểu hiện

n %

Hơi thở, cơ thể có mùi tỏi 23 41,8

Ợ hơi, nóng bụng, đầy bụng 6 10,9

Buồn nôn, nôn 1 1,8

Đau bụng 0 0

Đi ngoài phân lỏng 0 0

Nổi ban 0 0

Khác 0 0

Không có biểu hiện 32 58,2

4 7,3 Uống <85% số thuốc

Hơi thở, cơ thể có mùi tỏi là biểu hiện hay gặp nhất chiếm tới 41,8% khi sử

dụng liệu pháp can thiệp, ít gặp hơn là các biểu hiện ở dạ dày như ợ hơi, nóng bụng,

đầy bụng chiếm 10,9%. Buồn nôn, nôn hiếm gặp, chỉ xuất hiện ở 1 đối tượng. Các biểu

hiện rối loạn tiêu hóa khác và dị ứng không thấy xuất hiện trong thời gian nghiên cứu.

Phần đông đối tượng tham gia nghiên cứu (58,2%) không gặp bất kỳ biểu hiện bất

thường nào trong thời gian 3 tháng sử dụng viên tỏi- folate.

81

Bảng 3.13: Số đối tượng bỏ cuộc

Lý do bỏ cuộc Nhóm đối chứng Nhóm can thiệp Tổng

4 Xét nghiệm dưới 2 lần 1 5

Số thuốc sử dụng dưới 85% 4 4

Tổng 4 5 9

Kết thúc nghiên cứu, 56 đối tượng ở nhóm chứng và 55 đối tượng ở nhóm can

thiệp đủ điều kiện đưa vào tính toán thống kê hiệu quả của can thiệp đó là những đối

tượng có đầy đủ kết quả của hai lần xét nghiệm tại thời điểm T0 và T3 và số thuốc sử

dụng từ 85% trở lên (tương đương 255 viên). Số đối tượng bị loại khỏi nghiên cứu,

không đưa vào tính toán thống kê gồm 9 đối tượng trong đó 5 đối tượng ở nhóm can

thiệp và 4 đối tượng ở nhóm chứng.

3.2.3. Sự thay đổi các chỉ tiêu nhân trắc

Bảng 3.14 : Thay đổi các chỉ số nhân trắc và huyết áp ở hai nhóm nghiên cứu

Đối chứng (n=56) Can thiệp (n=55) p ( t test)

Tăng cân (kg) 0,25±0,15NS 0,24±0,15 NS >0,05

BMI 0,01±0,45 NS 0,08±0,45 NS >0,05

Tăng % mỡ 0,15±0,14 NS 0,37±0,16 NS >0,05

Vòng eo (cm) 0,09±0,22 NS -0,20±0,26 NS >0,05

Vòng mông (cm) 0,18±0,13 NS 0,026±0,13 NS >0,05

Tỷ số eo/mông 0,001±0,015 NS 0,003±0,001 NS >0,05

HA-Tâm thu (mmHg) -1,54±1,09 NS 0,29±0,95 NS >0,05

(NS) p>0,05: so sánh giữa T0 và T3, cùng nhóm ( t ghép cặp)

HA_Tâm trương (mmHg) -0,45±0,82 NS -1,36±0,92 NS >0,05

82

Bảng 3.14 cho thấy hiệu số trung bình (giá trị khi kết thúc (T3) - giá trị khi bắt

đầu can thiệp (T0)) của các chỉ số nhân trắc, huyết áp trên các đối tượng nghiên cứu.

So với thời điểm trước khi tiến hành nghiên cứu, tại thời điểm kết thúc nghiên

cứu, các chỉ số cân nặng, BMI, % mỡ cơ thể, vòng mông và tỷ số vòng eo/vòng mông

của các đối tượng ở từng nhóm nghiên cứu đều có xu hướng gia tăng, nhưng sự tăng

này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Sau 3 tháng nghiên cứu, vòng eo và huyết áp tâm trương của các đối tượng ở

nhóm can thiệp giảm nhiều hơn so với nhóm chứng (-0,2cm; 0,09cm và -0,45mmHg;

-1,36mmHg), nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05). Cũng tại thời điểm T3,

khi đem so sánh sự thay đổi của các chỉ tiêu nhân trắc khác và huyết áp tâm thu giữa

nhóm can thiệp và nhóm chứng, không tìm thấy sự khác biệt (p>0,05).

3.2.4. Sự thay đổi các chỉ tiêu lipid máu

Bảng 3.15: Sự thay đổi nồng độ các chỉ tiêu lipid máu ở hai nhóm nghiên cứu

T0

2,82 ± 1,97

Triglycerid

T3

2,75 ± 1,66

(mmol/l)

2,73 ± 1,97 2,66 ± 1,85 NS -0,01 ± 0,09 NS

T3-T0

-0,11 ± 0,12

T0

5,75 ± 0,71

T3

5,75 ± 0,95

T3-T0

0,04 ± 0,09

5,79 ± 0,82 5,48 ± 0,92 a, * -0,31 ± 0,08 **

Cholesterol_TP (mmol/l)

T0

4,07 ± 0,51

LDL_Cholesterol

T3

4,17 ± 0,79

(mmol/l)

T3-T0

0,09 ± 0,08

4,03 ± 0,51 3,46 ± 0,71 b, ** -0,41 ± 0,05 **

T0

1,22 ± 0,26

HDL_Cholesterol

T3

1,19 ± 0,23

(mmol/l)

1,22 ± 0,27 1,22 ± 0,24 NS -0,01± 0,03 NS

T3-T0

-0,02 ± 0,03

(a); (b):p<0,05; p<0,01; so sánh giữa T0 và T3 cùng nhóm, (t ghép cặp).

(NS); (*); (**): p>0,05; p<0,05; p<0,01; so sánh với nhóm chứng( t test).

Đối chứng (n=56) Can thiệp (n=55) Chỉ tiêu lipid máu Thời điểm

83

So với thời điểm ban đầu, nồng độ triglyceride huyết thanh sau 3 tháng can

thiệp của cả hai nhóm đều có xu hướng giảm, tuy nhiên sự thay đổi này không có ý

nghĩa thống kê: 2,82-2,75mmol/l(p>0,05) ở nhóm chứng và 2,73-2,66 mmol/l(p>0,05)

ở nhóm can thiệp. Kết quả tương tự với chỉ tiêu HDL_C. Đối với chỉ tiêu cholesterol

toàn phần và LDL_C, tại thời điểm kết thúc nghiên cứu, ở nhóm can thiệp, so với thời

điểm bắt đầu nghiên cứu, sự thay đổi theo hướng có lợi cho sức khỏe: 5,79–5,48mmol/l

(p<0,05) và 4,03-3,46mmol/l (p<0,01).

Tại thời điểm T3, nồng độ cholesterol toàn phần và LDL_C của các đối tượng ở

nhóm nhận can thiệp đều giảm hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng

(p<0,05 và p<0,01).

Hình 3.2: Sự khác biệt về nồng độ các chỉ tiêu lipid máu giữa hai nhóm nghiên cứu

84

Khi đem so sánh với nhóm chứng, sự khác biệt trung bình thay đổi nồng độ

cholesterol toàn phần giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê (0,04 mmol/l ở nhóm chứng

và -0,31 ở nhóm can thiệp; p<0,01), với LDL_C sự thay đổi trung bình là (0,09mmol/l

ở nhóm chứng và -0,41 ở nhóm can thiệp; p<0,01). Không có sự khác biệt về thay đổi

Hình 3.3: Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ triglyceride và nồng độ triglycerid ban đầu

nồng độ triglyceride và HDL_C giữa hai nhóm nghiên cứu (p>0,05).

85

Hình 3.3 cho thấy có mối liên quan nghịch chiều giữa nồng độ triglyceride

huyết thanh ban đầu với sự cải thiện nồng độ triglyceride huyết thanh: nồng độ

triglyceride ban đầu càng cao thì sau can thiệp nồng độ này càng giảm. Mối liên quan

này có ý nghĩa thống kê (Pearson r = -0,44; p<0,001).

Hình 3.4: Liên quan giữa sự cải thiện cholesterol và nồng độ cholesterol ban đầu

Hình 3.4 cho thấy, mối liên quan giữa sự cải thiện nồng độ cholesterol huyết

thanh và nồng độ cholesterol tại thời điểm ban đầu thiên theo xu hướng nghịch chiều,

tuy nhiên mối tương quan này không có ý nghĩa thống kê (Pearson r = - 0,12; p>0,05).

86

Hình 3.5: Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ HDL_C và nồng độ HDL_C ban đầu

Không tìm thấy mối liên quan giữa nồng độ HDL_C huyết thanh ban đầu với sự

cải thiện nồng độ HDL_C sau can thiệp (Pearson r = -0,25; p>0,05).

87

Hình 3.6: Liên quan giữa sự cải thiện nồng độ LDL_C và nồng độ LDL_C ban đầu

Tương tự như đối với chỉ tiêu HDL_C, mối tương quan giữa nồng độ LDL_C

huyết thanh ban đầu với mức cải thiện tình trạng RLCHLPM theo chỉ tiêu LDL_C

cũng không có ý nghĩa thống kê (Pearson r = 0,02; p>0,05).

88

Hình 3.7: Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu triglyceride huyết thanh

So với thời điểm ban đầu, có sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu

triglyceride máu ở cả hai nhóm nghiên cứu từ 56,9% lên 65,5% ở nhóm chứng và từ

52,6% xuống 49,1% ở nhóm can thiệp, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa

thống kê với p>0,05. Với tỷ lệ 49,1% của nhóm nhận can thiệp ở thời điểm kết thúc

nghiên cứu so với tỷ lệ 65,5% của nhóm chứng, sự khác biệt cũng không có ý nghĩa

(p>0,05).

89

Hình 3.8: Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu cholesterol huyết thanh

Tại thời điểm T3, cả hai nhóm chứng và can thiệp, tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ

tiêu cholesterol toàn phần đều giảm so với thời điểm T0, nhưng chỉ có sự giảm tỷ lệ ở

nhóm can thiệp là có ý nghĩa thống kê với p<0,001.

Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu, ở nhóm đối chứng tỷ lệ đối tượng có

RLCHLPM theo chỉ tiêu cholesterol toàn phần là 74,1%, tỷ lệ này cao hơn đáng kể so

với tỷ lệ 52,6% của nhóm can thiệp (p<0,05).

90

Hình 3.9: Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu LDL_C huyết thanh

Trước khi tiến hành can thiệp, không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ

RCHLPM theo chỉ tiêu LDL_C giữa hai nhóm nghiên cứu (p>0,05). Kết thúc can

thiệp, nhóm can thiệp, với tỷ lệ 45,6% giảm đáng kể so với 87,3% tại thời điểm T0

(p<0,001) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001) so với nhóm chứng (79,3%).

91

Hình 3.10: Sự thay đổi tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu HDL_C huyết thanh

Hình 3.10 cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu

HDL_C huyết thanh giữa hai nhóm nghiên cứu tại hai thời điểm ban đầu và kết thúc

nghiên cứu (p>0,05).

Bảng 3.16: Hiệu quả của can thiệp theo các chỉ tiêu lipid máu

Chỉ tiêu lipid máu Thời điểm Đối chứng Can thiệp

(n=56) (n=55)

T0 56,9 52,6

T3 Triglycerid (%) 65,5 49,1 NS

(>2,26 mmol/l) Chỉ số hiệu quả -15,1 6,7

Hiệu quả của can thiệp 21,8

92

T0 79,3 80,7

T3 Cholesterol _TP (%) 74,1 52,6 a, (*)

(>5,2mmol/l) Chỉ số hiệu quả 6,6 34,8

Hiệu quả của can thiệp 28,2

T0 89,3 87,3

T3 LDL_Cholesterol (%) 7,.3 45,6 a, (**)

(>3,38 mmol/l) Chỉ số hiệu quả 20,7 54,4

Hiệu quả của can thiệp 31,7

T0 8,6 7,0

T3 HDL_Cholesterol (%) 6,9 5,3 NS

(<0,9mmol/l) Chỉ số hiệu quả 19,8 24,3

a: p<0,001; so sánh giữa T0 và T3 cùng nhóm, Mc Nemar test.

(NS); (*); (**): p>0,05; p<0,05; p<0,001; so sánh với nhóm chứng, χ 2 test.

Hiệu quả của can thiệp 4,5

Bảng 3.16 cho thấy hiệu quả can thiệp của viên tỏi - folate đều cao hơn so với

nhóm chứng, tuy nhiên chỉ số hiệu quả và hiệu quả can thiệp rõ nhất với chỉ số

LDL_Cholesterol (31,7%), Cholesterol toàn phần (28,2%), triglyceride (21,8%) và sau

cùng là HDL_C cholesterol (4,5%).

93

3.2.5. Khẩu phần ăn và thói quen luyện tập thể thao của hai nhóm đối tượng tại

thời điểm kết thúc nghiên cứu.

Bảng 3.17: Mức tiêu thụ lượng thực thực phẩm ở hai nhóm nghiên cứu tại T3

Trung vị (g/người/ngày) Tên lương thực thực phẩm

Đối chứng Can thiệp

(n=56) (n=55)

Gạo 207 207,5 NS

Lương thực khác 56 67 NS

Đậu đỗ 3,65 4,5 NS

Đậu phụ 24 26 NS

Rau các loại 239 345 NS

Quả 128,5 142 NS

Đường 14,5 12 NS

Dầu/mỡ 5,65 6 NS

Thịt các loại 106,5 105 NS

Trứng/sữa 58,5 67 NS

(NS): p>0,05, so với nhóm chứng, Mann-Whiney Test

Cá, thủy sản 52,5 50 NS

Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu, mức tiêu thụ lương thực thực phẩm ở nhóm

chứng có xu hướng giảm hơn so với thời điểm ban đầu, tuy nhiên sự giảm này không

94

có ý nghĩa thống kê. Không có sự khác biệt giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng về

mức tiêu thụ thực phẩm tại thời điểm kết thúc nghiên cứu (p>0,05).

Bảng 3.18: Đặc điểm cân đối của khẩu phẩu ở hai nhóm nghiên cứu tại T3

Đối chứng Can thiệp

(n=56) (n=55)

Tổng số năng lượng (Kcal) 1605NS 1535

Tỷ số Ca/P 0,43 NS 0,43

Fe (mg) 7,99 NS 7,61

Vit. B1(mg)/1000kcal 0,65NS 0,66

Lipids ĐV/Lipid tổng số (%) 58NS 62

Năng lượng do Protid (%) 15 NS 14

Năng lượng do Lipids(%) 13 NS 13

(NS): p>0,05, so với nhóm chứng, Mann-Whiney Test

Năng lượng do glucid(%) 72 NS 73

Số liệu về tính cân đối của khẩu phần thời điểm kết thúc nghiên cứu cho thấy

không có sự khác biệt giữa 2 nhóm nghiên cứu. Tuy nhiên xu thế chung là các đối

tượng của cả 2 nhóm vẫn tiêu thụ năng lượng ở mức thấp hơn nhu cầu, tỷ lệ

Ca/phospho chưa hợp lý, năng lượng do glicid cung cấp vẫn tương đối cao, dao động ở

mức 70%, xu thế ăn thịt và mỡ giảm đi và năng lượng do protid, lipid cung cấp vẫn

xung quanh 13% tổng năng lượng khẩu phần.

95

Bảng 3.19: Thói quen luyện tập thể thao ở hai nhóm nghiên cứu tại T3

Thói quen luyện tập thể thao Đối chứng Can thiệp Mức YN

n (%) n (%) (p, χ 2 test)

- Không tập 17 (30,3) 12 (21,8) >0,05

- Không thường xuyên 9 (16,1) 16 (29,1) >0,05

- Thường xuyên 30 (53,6) 27 (49,1) >0,05

Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu, số đối tượng luyện tập thể thao một cách

thường xuyên ở cả hai nhóm đều tăng hơn so với thời điểm ban đầu, tuy nhiên sự tăng

này không có ý nghĩa thống kê. So với nhóm chứng, thói quen luyện tập thể thao ở

nhóm can thiệp không có sự khác biệt (p>0,05).

96

CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN

4.1. Sự kết hợp giữa một số yếu tố nguy cơ và tình trạng RLCHLPM

4.1.1. Mối nguy cơ của thừa cân, béo bụng, % mỡ cơ thể và tình trạng RLCHLPM

Sự kết hợp dương tính giữa tình trạng thừa cân với rối loạn chuyển hóa lipid

máu (CI.95%: 1,9 (1,2-3,0); p<0,01) trong nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp

với kết quả của nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước, cho thấy mối liên quan chặt chẽ

giữa BMI với với tình trạng RLCHLPM:

 Schröder H tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa BMI và nồng độ

cholesterol toàn phần (p<0,05), LDL_C (p<0,05) đối với nam giới và mối

liên quan giữa nồng độ HDL_C và BMI ở cả hai giới (p<0,01) [138].

 Brown mô tả và đánh giá mối liên quan giữa BMI với tình trạng cao

huyết áp và RLCHLPM trong một cuộc tổng điều tra trên người trưởng

thành ở Mỹ. Kết quả cho thấy, mối liên quan giữa BMI với tình trạng cao

huyết áp và RLCHLPM có ý nghĩa thống kê. OR cao nhất ở độ tuổi 20-

39 [45].

 Kết quả nghiên cứu tình trạng RLCHLPM và một số yếu tố liên quan của

Nguyễn Lương Hạnh tại Hà Nội cho thấy béo phì độ I, nguy cơ

RLCHLPM theo chỉ tiêu TG tăng gấp 2,94 lần, nguy cơ này tăng 8,9 lần

khi bị béo phì độ II [10]. Nghiên cứu của Phạm Thị Dung cho thấy BMI

và phần trăm mỡ cơ thể có mối liên quan chặt chẽ với tỷ lệ mắc hội

chứng chuyển hóa [5]. Trong nghiên cứu của Trần Trung Thông (2009)

trên bệnh nhân béo phì cho thấy, bệnh nhân béo phì, RLCHLPM theo chỉ

tiêu cholesterol chiếm tỷ lệ 63%, 34% theo chỉ tiêu triglycerid máu và

27,3% bệnh nhân béo phì có RLCHLPM theo chỉ tiêu HDL_C [18].

97

Bên cạnh yếu tố nguy cơ đối với RLCHLPM là tình trạng thừa cân. Kết quả

bảng 3.2 cho thấy, sự phân bố mỡ trong cơ thể cụ thể là tình trạng béo bụng là yếu tố

nguy cơ cao, đáng quan tâm hơn cả đối với RLCHLPM, tình trạng béo bụng sẽ làm

tăng nguy cơ bị RLCHLPM lên gấp 6,4 lần (p<0,001):

 Để đánh giá mức độ thừa cân béo phì, người ta thường dùng chỉ số khối

cơ thể, tổ chức y tế thế giới khuyến cáo BMI là một chỉ tiêu đo lường

dịch tễ học về tình trạng béo phì hữu hiệu nhất trên cộng đồng. Tuy

nhiên BMI chỉ là một chỉ tiêu thô, không phản ánh sự phân bố mỡ trong

cơ thể. Tầm quan trọng của phân bố mỡ ở trung tâm đã được biết đến từ

những năm 50 khi Morris mô tả tỷ lệ tử vong do tim mạch tăng ở những

người lái xe buýt với kích cỡ dây an toàn lớn [117]. Nghiên cứu theo

chiều dọc đầu tiên ở Thụy Điển năm 1984 cho thấy tỷ số vòng eo/vòng

mông cao có mối liên quan với đột quỵ [97].

 Đánh giá các chỉ tiêu lâm sàng đo lường thừa cân béo phì để dự báo tử

vong do bệnh tim mạch và bệnh mạch vành. Bằng kỹ thuật thống kê hiện

đại phân tích số liệu thu thập được từ một nghiên cứu dọc với cỡ mẫu

đại diện gồm 9.206 đối tượng 20-69 tuổi tại các thành phố ở Úc đã cung

cấp sự so sánh các chỉ tiêu đo lường tình trạng béo phì có hệ thống đầu

tiên. Kết quả cho thấy, đo lường tỷ số vòng eo/vòng mông sử dụng kỹ

thuật đã được chuẩn hóa tốt hơn so với vòng eo và BMI trong việc xác

định nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch, bệnh mạch vành trong tương lai

và khẳng định tỷ số vòng eo/vòng mông là yếu tố chính của nguy cơ tử

vong do bệnh tim mạch, bệnh mạch vành liên quan đến tình trạng béo

phì. Việc nhận biết béo trung tâm rất quan trọng về mặt lâm sàng. Tỷ số

vòng eo/vòng mông là một chỉ tiêu đo lường chiếm ưu thế hơn để dự báo

98

bệnh tim mạch, áp dụng phổ biến hơn đối với từng cá nhân có cấu trúc

cơ thể khác nhau. Kết quả phân tích đa biến khẳng định tỷ số vòng

eo/vòng mông hoàn toàn độc lập với các nguy cơ tim mạch khác. Chỉ

tiêu vòng eo có thể phù hợp khi đánh giá đối tượng béo phì mức độ

nặng, những người này đo vòng mông rất khó và không chính xác. Dù

sao, tỷ số vòng eo/vòng mông vẫn có thể dự báo nguy cơ tim mạch, do

nó ít phụ thuộc vào kích cỡ cơ thể và chiều cao. Hơn thế nữa, vòng

mông là một chỉ số về khối cơ có thể phản ánh tình trạng tập luyện. Tỷ

số vòng eo/vòng mông là chỉ tiêu nguy cơ phù hợp và phổ biến hơn cho

các dân tộc khác nhau, tầm vóc khác nhau [148].

4.1.2. Sự kết hợp giữa một số thói quen sinh hoạt và tình trạng RLCHLPM.

4.1.2.1. Thói quen luyện tập thể thao và tình trạng RLCHLPM.

Trong nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm thấy sự kết hợp giữa thói quen luyện tập

thể thao thường xuyên (tập 3 lần/tuần, mỗi lần từ 30 phút trở lên) với tình trạng

RLCHLPM (bảng 3.3; p>0,05). Không giống với kết quả nghiên cứu của Phạm Thị

Dung cho thấy hoạt động thể lực có ảnh hưởng rõ ràng đến nguy cơ mắc hội chứng

chuyển hóa[5]. Trong nghiên cứu của Nguyễn Lương Hạnh, không hoạt động thể lực,

hoặc hoạt động thể lực ở mức thấp nguy cơ tăng TC và TG là 1,28 lần và 1,47 lần so

với hoạt động thể lực ở mức cao [10]. Lý do có thể dẫn đến sự khác biệt này là gì?.

Trong khuôn khổ nghiên cứu của chúng tôi chỉ khai thác chủ yếu vào tính thường

xuyên hay tần suất luyện tập, trong nghiên cứu của Nguyễn Lương Hạnh và Phạm Thị

Dung lại tập trung nhiều đến cường độ luyện tập. Mà hiệu quả đối với bệnh tim mạch

của một chương trình luyện tập được quy định bởi một loạt các yếu tố như: loại bài tập,

cường độ và khối lượng vận động, tần số buổi tập và phương pháp luyện tập. Yếu tố

nào là quan trọng nhất?. Các nghiên cứu trả lời câu hỏi này vẫn chưa thống nhất:

99

- Ferguson và cộng sự cho thấy năng lượng tiêu hao sau mỗi bài tập có mối liên

quan với tình trạng lipid máu. Số liệu cho thấy tập luyện ở cường độ trung bình,

năng lượng tiêu hao từ 1.100-1.500 kcal, ảnh hưởng nhiều đến nồng độ lipid

máu so với tập luyện với mức tiêu hao năng lượng thấp hơn. Do vậy, cường độ

tập có thể là yếu tố quan trọng giúp điều chỉnh tình trạng lipid máu [108].

- Trong phân tích có hệ thống 31 nghiên cứu thử nghiệm trên 1.833 đối tượng

bình thường và RLCHLPM nhằm xác định hiệu quả của tập luyện (aerobic và

bài tập rèn luyện sức bền), chương trình tập luyện hiệu quả nhất với thời gian,

cường độ, tần số luyện tập để tối ưu hóa tình trạng lipid máu. Kết quả cho thấy,

tập aerobic giảm nhẹ nhưng có ý nghĩa thống kê lần lượt lên các chỉ tiêu TC,

LDL_C,và TG là 0,10mmol/l (95% CI: 0,02-0,18); 0,10mmol/l (95% CI: 0,02-

0,19) và 0,08mmol/l (95% CI: 0,02-0,14), đồng thời tăng nồng độ HDL_C ở

mức 0,05mmol/l (95% CI: 0,02-0,08). Cường độ tập của các chương trình

aerobic khác nhau có ảnh hưởng không giống nhau lên các chỉ tiêu lipid máu,

việc tập luyện thường xuyên không mang lại hiệu quả cao hơn so với thời gian

tập luyện 3 lần/tuần [75].

- Trong một nghiên cứu khác, tác giả đưa ra kết luận, tập aerobic thường xuyên

làm tăng đáng kể HDL_C. Thời gian của mỗi lần tập là yếu tố quan trọng nhất

khi xây dựng chương trình luyện tập. Tập luyện mang lại hiệu quả hơn đối với

những đối tượng có BMI thấp và CT cao [94].

- Bên cạnh thời gian của mỗi lần tập, tần xuất tập thì quãng thời gian tập hay việc

duy trì tập luyện hết sức quan trọng. Một số công trình nghiên cứu cho thấy trên

60% số người lớn bắt đầu chương trình tập luyện đã bỏ tập ngay trong tháng đầu

tiên khi mà hiệu quả rèn luyện đạt chưa đáng kể [2]. Shegarfy nghiên cứu trên

21 đối tượng, được phân bổ vào ba nhóm, một nhóm tập aerobic, nhóm thứ hai

tập bài tập rèn luyện sức bền, còn lại thuộc nhóm chứng trong thời gian ngắn (8

100

tuần), 3 lần/tuần. Kết quả cho thấy, những bài tập không có hiệu quả lên các chỉ

tiêu lipid máu [107].

- Hoạt động thể lực với cường độ thấp (đứng và đi bộ) trong thời gian dài giúp cải

thiện insulin và lipid huyết thanh hơn là tập luyện với cường độ trung bình và

nặng (đạp xe), khi mà tiêu hao năng lượng có thể so sánh được. Duvivier tiến

hành nghiên cứu trên 18 đối tượng khỏe mạnh, tuổi trung bình 21±2, BMI 22,6

± 2,6 theo 3 chương trình tập luyện: chương trình (1) ngồi 14 tiếng/ngày; (2)

ngồi 13 tiếng và 1 tiếng tập nặng; (3) ngồi 6 tiếng, 4 tiếng đi bộ, 2 tiếng đứng.

TG, HDL_C, CT, apolipoprotein B huyết tương cải thiện đáng kể trong nhóm có

chương trình hoạt động thể lực với cường độ nhẹ, so với nhóm ngồi. Ông cho

rằng, tăng thời gian dành cho đứng và đi bộ hiệu quả hơn một tiếng luyện tập

nặng, khi mà tiêu hao năng lượng giữ ở mức hằng định [57].

- Hoạt động thể lực có mối liên quan với bệnh lý tim mạch, tuy nhiên, khối lượng

tập là bao nhiêu để mang lại hiệu quả?. Một nghiên cứu thử nghiệm có đối

chứng trên 111 đối tượng cả nam lẫn nữ thừa cân trong thời gian 8 tháng. Các

chế độ luyện tập sử dụng trong nghiên cứu là: (1) khối lượng và cường độ cao,

năng lượng tiêu hao tương đương với chạy bộ 20 dặm (32,0 km)/tuần, 65 đến

80% oxy tiêu thụ; (2) khối lượng thấp và cường độ cao, năng lượng tiêu hao

tương đương với chạy bộ 12 dặm (19,2 km)/tuần, 65 đến 80% oxy tiêu thụ (3)

khối lượng thấp và cường độ trung bình, năng lượng tiêu hao tương đương với

chạy bộ 12 dặm (19,2 km)/tuần, 40 đến 55% oxy tiêu thụ. Các đối tượng được

khuyến khích duy trì cân nặng như ban đầu. Kết quả cho thấy, tập luyện mang

lại hiệu quả cho các chỉ tiêu lipid máu, rõ nét nhất là chế độ tập luyện với khối

lượng cao, chế độ luyện tập này mang lại kết quả tốt hơn so với chế độ luyện tập

khối lượng thấp. Tuy nhiên cả hai chế độ luyện tập với khối lượng thấp vẫn

mang lại lợi ích đối với tình trạng lipid máu hơn so với nhóm chứng. Vậy sự cải

101

thiện lipid máu liên quan đến khối lượng tập luyện, không liên quan đến cường

độ tập hay sự cải thiện cân nặng trong quá trình luyện tập [79].

- Hiệu quả tập luyện còn được quy định bởi mức độ RLCHLPM. Couillard và

cộng sự cho rằng việc tập luyện thường xuyên kéo dài đặc biệt có lợi cho những

đối tượng nam giới có nồng độ HDL_C thấp, TG cao và béo bụng khi tiến hành

so sánh đáp ứng của các chỉ tiêu lipid huyết thanh với chương trình tập luyện

thường xuyên kéo dài trong 20 tuần giữa các nhóm nam giới. Hai trăm nam giới,

tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu được phân bổ vào 4 nhóm: nhóm (1) TG thấp

và HDL_C cao (không RLCHLPM), (2) TG thấp và HDL_C thấp, (3) TG cao và

HDL_C cao; nhóm (4) TG cao và HDL_C thấp. Ở thời điểm bắt đầu nghiên

cứu, đối tượng ở nhóm (4) có mỡ nội tạng cao hơn các đối tượng ở nhóm (1) và

(2). Chương trình luyện tập giảm 0,4% HDL_C (p>0,05) trên các đối tượng

thuộc nhóm (2). Ngược lại, đối tượng ở nhóm (4) HDL_C tăng một cách có ý

nghĩa thống kê (4,9%, p<0,01) và giảm TG đáng kể (-6,0%, p<0,01) ở thời điểm

kết thúc nghiên cứu. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy tập luyện đem lại sự

thay đổi lớp mỡ dưới da (10,6%, p<0,01) có liên quan với việc tăng nồng độ

HDL_C do kết quả của luyện tập ở nhóm TG cao/HDL_C thấp [51].

Mặt khác, một số cơ chế liên quan giữa tập luyện và tình trạng cholesterol huyết

thanh đó là, tập luyện kích thích các enzyme giúp vận chuyển LDL_C từ máu và thành

mạch về gan. Từ đó, cholesterol được chuyển vào trong đường mật để tiêu hóa hoặc

bài tiết ra ngoài. Tập luyện làm tăng kích thước của các hạt lipoprotein. Trong đó, một

số có kích thước nhỏ và dày đặc, một số kích thước lớn hơn. Các lipoprotein có kích

thước nhỏ dày đặc nguy hiểm hơn kích thước lớn, do nó có thể dễ dàng chui vào lớp

nội mạc của tim và thành mạch máu [49]. Do vậy, rất có thể thói quen thường xuyên

luyện tập thể thao (tập 3 lần/tuần, mỗi lần từ 30 phút trở lên) trong nghiên cứu này đã

102

mang lại hiệu quả đối với tình trạng lipid huyết thanh thông qua việc làm tăng kích

thước các hạt lipoprotein, điều mà trong nghiên cứu chúng tôi chưa đo lường được.

4.1.2.2. Thói quen uống rượu bia và tình trạng RLCHLPM

Trong nghiên cứu này, chưa tìm thấy sự kết hợp giữa việc tiêu thụ rượu và tình

trạng RLCHLPM. Khác với kết quả nghiên cứu của chúng tôi, trong nghiên cứu của

Nguyễn Lương Hạnh [10] và Phạm Thị Dung [5] cũng trên đối tượng người trưởng

thành sống tại Hà Nội cho thấy mối liên quan có ý nghĩa theo chiều hướng bất lợi cho

sức khỏe giữa lạm dụng rượu bia và tình trạng RLCHLPM cũng như hội chứng chuyển

hóa.

Tương tự nghiên cứu cắt ngang ở Đài Loan trên 2.358 nam giới. Sử dụng bộ câu

hỏi tự điền để thu thập thông tin về chế độ ăn và thói quen sống. Những người uống

rượu ít nhất một lần/tuần trong 6 tháng liên tiếp được coi là người hiện đang uống

rượu. Người hiện đang uống rượu có nguy cơ cao mắc béo bụng và TG cao, nhưng ít

nguy cơ HDL_C thấp. Nguy cơ mắc HCCH, TG cao phụ thuộc vào lượng rượu tiêu

thụ. Lượng rượu cần thiết để giảm nguy cơ nồng độ HDL_C thấp là ≥50 g/ngày. Tiêu

thụ nhiều loại rượu làm tăng nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa [47]. Reynolds K tiến

hành phân tích meta dựa trên số liệu của nhiều cuộc điều tra cho thấy, tỷ lệ đột quỵ do

xuất huyết não, nhồi máu não trên những người uống nhiều rượu cao hơn so với những

người không uống rượu [132]. Thêm vào đó, kết quả nghiên cứu của Foppa M năm

2001 và Rehm J năm 2010 đều nhận thấy, tỷ bệnh tật được cho là có liên quan đến việc

tiêu thụ rượu như đái tháo đường, cao huyết áp, bệnh tim mạch, tai biến mạch máu não

ngày càng tăng [66,131].

Bên cạnh mối liên quan giữa tiêu thụ rượu và tình trạng RLLPM theo chiều

hướng bất lợi cho sức khỏe, nghiên cứu của chúng tôi cũng không tìm thấy tác động có

lợi của rượu đối với nguy cơ bệnh tim mạch như trong nghiên cứu của Hendriks HF

năm 1994 cho thấy tiêu thụ rượu ở mức trung bình (30g/ngày) làm tăng khoảng 4mg/dl

103

nồng độ HDL_C và apoA-I 8,82 mg/dl [77], cùng với việc làm giảm nguy cơ bệnh tim

mạch ước tính vào khoảng 24,7% theo kết quả nghiên cứu sau này của De Oliveira

ESER [55]. Hơn thế nữa rượu làm giảm sự thoái hóa HDL_C, tác động lên quá trình

chuyển hóa LDL_C ở gan theo chiều hướng có lợi cho sức khỏe [150]. Palomäki H,

Kaste M đánh giá mối liên quan giữa tiêu thụ rượu và nguy cơ đột quỵ ở nam trẻ tuổi

và nam trung niên trong một nghiên cứu bệnh chứng bao gồm 156 đối tượng ở nhóm

bệnh và 153 đối tượng ở nhóm chứng. Kết quả cho thấy, uống rượu ở mức độ nặng làm

tăng nguy cơ đột quỵ (OR= 4,45; 95% CI: 1,09-18,1), nguy cơ có xu hướng giảm khi

uống rượu ở mức nhẹ và trung bình (OR = 0,54; 95% CI: 0,28-1,05). Uống rượu

thường xuyên mức độ nhẹ và trung bình làm giảm nguy cơ đột quỵ (OR = 0,12; 95%

CI: 0,02–0,65) [127].

Những lý do dẫn đến sự không thống nhất giữa kết quả nghiên cứu của chúng

tôi với kết quả của nghiên cứu trên có thể là:

 Số liệu thu thập được chưa phản ánh một cách đầy đủ lượng rượu thực tế đối

tượng tiêu thụ. Ảnh hưởng bởi sai số nhớ lại có lẽ chỉ chiếm phần nhỏ trong

nghiên cứu của chúng tôi do đã được khắc phục bằng cách hỏi ghi trực tiếp,

bởi những điều tra viên có kinh nghiệm được tập huấn kỹ càng. Ảnh hưởng

lớn nhất rất có thể bởi chính bản thân đối tượng, tính chân thực của họ khi

trả lời các thông tin liên quan đến lượng rượu tiêu thụ, người uống nhiều

rượu có thể không thích nói thật việc tiêu thụ rượu của họ, thường theo xu

hướng ít hơn so với thực tế. Số liệu bảng 3.3 cho thấy chỉ có tổng cộng 7

người (3 ở nhóm bệnh và 4 ở nhóm chứng) xếp vào tiêu thụ rượu ở mức lạm

dụng.

 Đơn vị đo lường, phương pháp đánh giá tiêu thụ rượu cũng khác nhau giữa

các nghiên cứu. Ví dụ nghiên cứu của Palomäki H, Kaste M [127] sử dụng

bộ câu hỏi tự điền, chỉ tiêu đánh giá: Uống rượu thường xuyên khi uống

104

rượu hàng ngày hoặc hầu hết các ngày, không thường xuyên khi uống ≤3

lần/tuần, trong khi nghiên cứu của chúng tôi chỉ tiêu đánh giá uống rượu

thường xuyên ≥3 lần tuần. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc so sánh

cũng như đánh giá các kết quả nghiên cứu với nhau.

 Một số nhận định sau khi phân tích meta các kết quả quan sát. Chất lượng

của phân tích phụ thuộc vào số liệu gốc được công bố rất có thể thừa hưởng

sai số và nhiễu tiềm tàng. Hơn nữa, một vài nghiên cứu từ rất sớm, các kỹ

thuật chẩn đoán hình ảnh chưa sẵn có, một số nghiên cứu chỉ dựa vào thông

tin được ghi lại trong hồ sơ tử vong, điều này ảnh hưởng đến mối liên quan

quan sát được.

4.1.2.3. Thói quen hút thuốc lá và tình trạng RLCHLPM

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sự kết hợp giữa thói quen hút thuốc

lá và tình trạng RLCHLPM:

 Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Jacobson BH, trên 805 đối tượng

nữ cho thấy hút thuốc lá là nguy cơ độc lập với TC cao và HDL_C thấp, ngừng

hoặc bỏ hút thuốc ở phụ nữ có mối liên quan với các chỉ tiêu lipid máu theo

chiều hướng có lợi [85].

 Thống nhất với kết luận hút thuốc gây ảnh hưởng bất lợi đến nồng độ LDL_C,

HDL_C và TG của cả nam lẫn nữ, không phân biệt tuổi tác từ kết quả nghiên

cứu thuần tập trên 492 đối tượng trong độ tuổi 26-66 bị RLCHLPM. Sự khác

biệt giữa hút thuốc và không hút thuốc đối với giá trị TC, LDL_C, HDL_C và

TG trung bình lần lượt là 2,2%; 5,5%; -8,1%, và 3,7% (p<0,05). Tỷ lệ

LDL_C>4,9mmol/l, TG >2,0mmol/l và HDL_C <0,9mmol/l ở nam, <1,2mmol/l

ở nữ lần lượt là 43% - 59%; 38% - 59% và 82% - 91% [139].

105

 Năm 2006, nghiên cứu của O.A.Adedeji cũng cho thấy nồng độ cholesterol toàn

phần trung bình của người hút thuốc cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê so

với nồng độ này ở những người không hút thuốc. Không tìm thấy sự khác biệt

này đối với các chỉ tiêu lipid máu khác [125].

Sự kết hợp giữa thói quen hút thuốc lá và tình trạng RLCHLPM được thể hiện

thông qua số điếu thuốc hút:

 Trong nghiên cứu của chúng tôi nguy cơ bị RLCHLPM sẽ tăng lên gấp 3,1 lần

(95% CI: 1,2-8,9) ở những người hàng ngày hút từ 20 điếu trở lên so với người

không hút thuốc lá, không tìm thấy mối liên hệ với tình trạng RLCHLPM ở

những người hút thuốc không thường xuyên và dưới 20 điếu/ngày.

 Khác với nghiên cứu của Nguyễn Lương Hạnh [10] và Phạm Thị Dung [5] cho

thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa hút thuốc với tình trạng RLCHLPM và

HCCH với lượng thuốc lá tiêu thụ thấp hơn ở mức 10 bao/năm.

 Kết quả nghiên cứu tại Nhật năm 1993 của Nagoya J, trên 726 công nhân giao

thông đô thị tại Nhật, đối tượng tham gia nghiên cứu được phân loại theo mức

độ hút thuốc lá dựa trên số điếu thuốc hút trong một ngày: (1) không hút; (2) từ

1-20 điếu; (3) từ 21 điếu/ngày trở lên cho thấy, khi hút từ 1-20 điếu/ngày hoặc

≥21 điếu/ngày sẽ làm tăng nguy cơ HDL_C < 40mg/dl lên 1,9 lần (95% CI:1,1 -

3,26) hoặc 2,27 lần (95% CI:1,27 - 4,05) so với những người không hút thuốc

[119].

 Năm 2012, trong một nghiên cứu tại Ấn Độ trên 100 đối tượng trong đó, 25 đối

tượng thuộc nhóm I – không hút thuốc lá và 75 đối tượng thuộc nhóm II - hút

thuốc lá, các đối tượng của nhóm II lại được phân loại theo thời gian và cường

độ hút (mức nhẹ: 10-15 điếu/ngày trong từ 1 đến 5 năm; mức trung bình: 16-20

điếu trong 6-10 năm; mức nặng: trên 20 điếu/ngày trong thời gian trên 10

106

năm). Kết quả cho thấy, nồng độ TC, TG, LDL_C và HDL_C trung bình ở

nhóm hút thuốc ở các mức độ đều cao hơn một cách có nghĩa (p<0,001) so với

nhóm không hút thuốc [56].

 Nghiên cứu của chúng tôi, cũng như các nghiên cứu nêu trên chỉ mới đề cập đến

số lượng điếu thuốc tiêu thụ còn loại thuốc hay lượng độc chất được cho là

nguyên nhân gây nên sự biến đổi các chỉ tiêu lipid máu mà đối tượng tiêu thụ

đều chưa được quan tâm nghiên cứu, rất có thể điều này là một trong các lý do

mang đến sự không thống nhất giữa các kết quả nghiên cứu.

4.1.3. Sự kết hợp giữa khẩu phần ăn và tình trạng RLCHLPM

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.4 cho thấy phần trăm năng lượng từ lipid khẩu

phần ở mức 20% tổng năng lượng ăn vào không làm thay đổi nguy cơ mắc RLCHLPM

(95% CI: 0,2-1; p>0,05).

 Không giống với kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Dung cho thấy mức

tiêu thụ lipid của nhóm mắc hội chứng chuyển hóa trên các đối tượng

sống ở ngoại thành Hà Nội cao hơn nhóm không mắc HCCH một cách có

ý nghĩa (p<0,05) [5]. Tương tự kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lương

Hạnh trên đối tượng người trưởng thành ở nội thành Hà Nội cho thấy có

mối liên quan giữa phần trăm năng lượng do lipid cung cấp với chỉ tiêu

triglyceride máu [10].

 Trong nghiên cứu của chúng tôi, phần trăm năng lượng từ lipid khẩu

phần trung bình của các đối tượng trong cả hai nhóm nghiên cứu trong

khoảng 13-14%, thấp hơn so với nhu cầu khuyến nghị và thấp hơn so với

kết quả của Nguyễn Lương Hạnh (16,3-17,5%) và Phạm Thị Dung (23,4

- 24,8%), điểm khác biệt này có thể do thiết kế nghiên cứu của chúng tôi

là nghiên cứu bệnh chứng, các đối tượng đưa vào nghiên cứu dựa trên

107

tiêu chí của nhóm bệnh và nhóm chứng để phục vụ cho mục tiêu chính là

xác định sự kết hợp của các yếu tố nguy cơ đối với tình trạng RLLPM,

khác với thiết kế nghiên cứu cắt ngang của Nguyễn Lương Hạnh và

Phạm Thị Dung, nên số liệu về mức tiêu thụ lipid trung bình có thể mang

tính đại diện hơn nhưng khi xác định sự kết hợp của các yếu tố nguy cơ

và tình trạng bệnh có thể sẽ gặp phải một số hạn chế nhất định.

"Chế độ ăn ít chất béo" là câu thần chú cho chế độ ăn lành mạnh trong nhiều

thập kỷ. Như là một cách để giảm cân và ngăn ngừa hoặc kiểm soát bệnh tim mạch và

các bệnh mãn tính không lây khác.

 Trong những năm của thập niên 60, phần trăm năng lượng trung bình từ

lipid khẩu phần trong chế độ ăn của người Mỹ vào khoảng 45% [149], tỷ

lệ béo phì là 13%, đái tháo đường typ II dưới 1% [43,64]. Những năm

gần đây, phần trăm năng lượng từ lipid khẩu phần đã giảm xuống còn

khoảng 33% [160], nhưng tỷ lệ béo phì lại gia tăng (34%), 11% bị đái

tháo đường [36, 65]. Vậy tại sao việc cắt giảm chất béo khẩu phần đã

không mang lại kết quả như mong đợi? Nghiên cứu thực hiện tại Đại học

Harvard cho thấy, tổng lượng chất béo trong chế độ ăn uống không thực

sự liên quan với trọng lượng cơ thể hay bệnh tật, chất béo xấu (acid béo

thể trans và acid béo bão hòa), làm tăng nguy cơ mắc một số bệnh. Chất

béo tốt (acid béo chưa bão hòa dạng đơn và dạng đa), làm điều ngược

lại, tốt cho tim và hầu hết các bộ phận khác trong cơ thể [78,120].

 Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ kết luận nên thay việc giảm acid béo bão hòa

(SFA) và acid béo thể trans (tFA) hơn giảm tổng chất béo khẩu phần.

Báo cáo sức khỏe Canada 2000 cho rằng cholesterol khẩu phần không

phải là yếu tố chính ảnh hưởng đến LDL_C và các mức lipoprotein khác.

Giảm 100mg cholesterol khẩu phần chỉ giảm 0,05mmol/l cholesterol

108

huyết tương. Chỉ những người được xác định cholesterol ở mức cao mới

cần hạn chế những thực phẩm giàu cholesterol. Báo cáo chỉ ra, giảm

SFA xuống dưới 7% năng lượng khẩu phần mang lại hiệu quả giảm

LDL_C hơn so với chế độ ăn SFA chiếm dưới 10% năng lượng khẩu

phần [76].

Phù hợp với nghiên cứu Keys và cộng sự trên 7 nước sau chiến tranh thế giới

lần thứ hai cho thấy mức cholesterol huyết thanh liên quan ít với tổng số chất béo mà

liên quan chặt chẽ với lượng các acid béo no. Qua 10 năm theo dõi nhận thấy tỷ lệ tử

vong do bệnh mạch vành tăng lên một cách có ý nghĩa theo mức tăng của các acid béo

no trong khẩu phần. Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả bảng 3.4 cho thấy khi

năng lượng từ acid béo no khẩu phần chiếm từ 7% trở lên sẽ làm tăng nguy cơ

RLCHLPM lên gấp 2,7 lần (95% CI: 1,4-5,3); p<0,01) và hàm lượng cholesterol khẩu

phần ở mức 200mg không ảnh hưởng đến các chỉ tiêu lipid máu (p>0,05). Trong

nghiên cứu của Johnson trên 10 nam vận động viên khỏe mạnh. Khi so sánh hai thực

đơn cho mỗi 4 tuần: thực đơn (1) chứa 600mg cholesterol/ngày; thực đơn (2) chứa

200mg cholesterol. Cả hai thực đơn 15% năng lượng từ protid, 55% từ glucid; 30% từ

lipid, tỷ lệ acid béo chưa no nhiều nối đôi/acid béo no là 1:5. Mức độ tập luyện không

thay đổi trên từng đối tượng. Kết quả cho thấy, thực đơn 600mg/ngày làm tăng LDL_C

và apolipoprotein B 10% và 13% có ý nghĩa so với thực đơn 200mg. TG, HDL_C và

apolipoprotein A-1 không thay đổi có ý nghĩa thống kê [89]. Vậy câu hỏi đặt ra, có

thực sự cholesterol khẩu phần không ảnh hưởng đến mức lipid huyết thanh hay ở mức

200mg chưa đủ để xác định sự kết hợp?.

Các nước Châu Âu, Úc, Canada, New Zealand, Hàn Quốc và Ấn Độ không đưa

ra giới hạn cao đối với cholesterol khẩu phần trong lời khuyên dinh dưỡng của họ. Hơn

thế nữa còn có những số liệu dịch tễ học cho thấy không có mối liên quan giữa

cholesterol khẩu phần và nguy cơ bệnh tim mạch. Mặc dù nhiều nghiên cứu lâm sàng

109

chỉ ra rằng sự thay đổi cholesterol khẩu phần có thể làm tăng LDL_C huyết tương ở

những người nhạy cảm với cholesterol khẩu phần (khoảng ¼ dân số), HDL_C cũng

tăng dẫn đến duy trì tỷ lệ LDL_C/HDL_C, yếu tố chỉ điểm cho nguy cơ tim mạch.

Những bằng chứng từ các nghiên cứu dịch tễ học và từ những can thiệp lâm sàng sử

dụng những mức cholesterol khác nhau ủng hộ cho các khuyến cáo về việc giới hạn

cholesterol khẩu phần nên được xem xét lại [62]. Tóm lược các bài trình bày của

những nghiên cứu gần đây nhất tại Hội nghị Sinh học thực nghiệm năm 2011 về mối

liên quan giữa cholesterol khẩu phần và nguy cơ BTM. Hơn 50 năm qua, rất nhiều

nghiên cứu khoa học cho thấy chất béo và cholesterol khẩu phần có mối liên quan

dương tính với BTM. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, có nhiều nghiên cứu dịch

tễ học đã không ủng hộ cho mối liên quan giữa cholesterol khẩu phần và bệnh tim

mạch. Hơn thế nữa, nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đã nghiên cứu hiệu quả của

việc tiêu thụ trứng trong thời gian dài cho thấy, không ảnh hưởng lên các dấu hiện khác

nhau của BTM. Nhiều số liệu cho thấy ảnh hưởng của khẩu phần ăn cholesterol thấp

lên mức LDL_C là rất ít so với khẩu phần khác và các thói quen sống, cần quan tâm

cách nào khác để xem thực phẩm có lợi cho sức khỏe có thể được phối hợp trong khẩu

phần để đáp ứng khuyến nghị cholesterol khẩu phần hiện nay [92].

Không giống với nghiên cứu tại Hà Lan khi phân tích 60 nghiên cứu thử nghiệm

về ảnh hưởng của carbohydrate và các loại chất béo khác nhau đối với các chỉ tiêu lipid

máu cho thấy, các chất béo tốt làm giảm nồng độ LDL_C và tăng HDL_C [114]. Gần

đây, trong một thử nghiệm ngẫu nhiên khi thay thế một chế độ ăn giàu carbohydrate

bằng chế độ ăn giàu chất béo chưa bão hòa, chủ yếu là dạng đơn đã làm giảm huyết áp,

cải thiện các chỉ tiêu lipid máu và làm giảm nguy cơ tim mạch ước tính [36]. Nghiên

cứu của chúng tôi chưa tìm thấy sự kết hợp giữa việc tiêu thụ acid béo chưa no có một

nối đôi (MUFA) (p>0,05) và acid béo chưa no nhiều nối đôi (PUFA) với các chỉ tiêu

lipid máu (p>0,05). Hành vi ăn uống của con người vốn dĩ vừa đa dạng vừa khó đo

lường một cách chính xác, mà nguồn cung cấp acid béo chưa no chủ yếu là từ dầu thực

110

vật, đây là một trong số những thực phẩm tiêu thụ, bằng kỹ thuật hỏi ghi 24 giờ qua,

việc thu thập con số đo lường chính xác gặp nhiều khó khăn nhất, do thực phẩm này

được sử dụng phần lớn trong khâu chế biến, số lượng dầu sử dụng thường bị che lấp ở

những thức ăn thành phẩm, có thể chính điều này đã ảnh hưởng đến việc đo lường mối

liên quan giữa MUFA và PUFA với tình trạng RLCHLPM trong nghiên cứu.

Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy vai trò của chất xơ trong chế độ ăn với nguy

cơ của bệnh tim mạch và mối liên quan giữa chất xơ với chuyển hóa lipid, chuyển hóa

glucose và các giá trị sinh học khác [96,151,161]. Theo kết quả nghiên cứu của chúng

tôi, tiêu thụ dưới 20g chất xơ/ngày, nguy cơ dẫn đến RLCHLPM sẽ tăng lên 2,1 lần

(bảng 3.4) so với việc tiêu thụ từ 20g chất xơ/ngày trở lên. Kết quả nghiên cứu của

Davidson, sử dụng cám hạt ngũ cốc là một phần của chế độ ăn giảm hàm lượng chất

béo, góp phần giảm nguy cơ của bệnh mạch vành [54]. Phân tích 67 nghiên cứu thử

nghiệm cho thấy, tiêu thụ 2-10g/ngày chất xơ hòa tan làm giảm nhẹ nhưng có ý nghĩa

thống kê cholesterol máu. Mức độ giảm cholesterol liên quan đến loại chất xơ hòa tan.

Hiệu quả tác động lên TC dao động từ −18% đến 0% đối với những thử nghiệm sử

dụng sản phẩm yến mạch, từ −17% đến 3% đối với psyllium, từ −16% đến −5% đối

với pectin [106].

Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ mới đưa ra nhận định về chất xơ nói chung

chưa phân định giữa chất xơ hòa tan và không hòa tan, tuy nhiên, cả hai loại chất xơ

đều có lợi. Ăn cả hai loại chất xơ giúp tăng lượng chất xơ khẩu phần. Chất xơ hòa tan

trong hệ tiêu hóa giúp đào thải trực tiếp cholesterol theo phân. Tại ruột non, chất xơ

gắn kết các phân tử cholesterol thành khối do đó ngăn cản quá trình hấp thu cholesterol

vào máu và bám vào thành mạch. Chất xơ hòa tan hấp thu nước tạo thành dạng gel làm

tăng cảm giác no, điều này giúp giảm cân. Giảm cân cũng giúp giảm cholesterol. Mặc

dù chất xơ không hòa tan không có hiệu quả trực tiếp lên cholesterol, nó giúp giảm

cholesterol bằng cách tham gia kiểm soát cân nặng [106].

111

4.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng RLCHLPM.

4.2.1. Sự chấp nhận can thiệp.

Tỏi là một phần trong khẩu phần ăn của chúng ta trong nhiều thế kỷ qua, như

một thực phẩm được sử dụng nói chung [145], tỏi nằm trong danh sách thực phẩm

được công nhận rộng rãi là an toàn (GRAS) do Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm

Hoa kỳ (FDA) phê duyệt. Các tiêu chuẩn để xét duyệt chứng nhận GRAS thông qua

các nghiên cứu khoa học, hay chất đó được chấp nhận sử dụng thông qua các kinh

nghiệm sử dụng thực phẩm phổ biến, đòi hỏi lịch sử sử dụng của một số lượng người

tiêu dùng và một lượng thực phẩm đủ thỏa đáng. Tuy vậy, để đảm bảo an toàn tuyệt

đối cho các đối tượng tham gia nghiên cứu này, viên tỏi sử dụng trong liệu pháp can

thiệp được kiểm nghiệm, phân tích đánh giá chất lượng vệ sinh an toàn và cung cấp

cho đối tượng sau khi có chứng nhận đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.

Tỏi được công nhận là an toàn và phạm vi liều rộng thông qua các nghiên cứu

thử nghiệm như nuôi chuột bằng tỏi với liều 2g/kg thể trọng trong 6 tháng không tìm

thấy bất kỳ tác dụng phụ nào, điều trị tỏi dài hạn với liều gấp 3 liều thông thường cùng

với dầu cá, không tìm thấy tác dụng phụ trên chuột [147]. Gần đây nhất trong kết quả

một phân tích meta dựa trên cơ sở số liệu của 39 nghiên cứu thử nghiệm hiệu quả của

chế phẩm tỏi lên các chỉ tiêu lipid máu cho thấy, chế phẩm tỏi được chấp nhận cao

trong tất cả các nghiên cứu với tác dụng phụ ở mức tối thiểu, có thể coi các chế phẩm

tỏi này như là một lựa chọn cho liệu pháp điều trị thay thế an toàn hơn so với những

thuốc hạ cholesterol thông thường trên những bệnh nhân có RLCHLPM ở mức độ nhẹ

[133]. Bên cạnh đó, một vài tác dụng phụ có liên quan đã được báo cáo trong các

nghiên cứu lâm sàng sử dụng tỏi và chế phẩm. Đa số báo cáo tác dụng phụ không rõ

ràng. Buồn nôn, khó chịu trong dạ dày ruột là những phàn nàn hay gặp [41]. Một điều

tra của Koch (1995) cho thấy phản ứng dị ứng khi sử dụng tỏi trong tổng số 39 công bố

trong các năm từ 1938 đến 1994. Đa số các trường hợp này liên quan dị ứng biểu hiện

112

trên da, có một số trường hợp nặng hơn, những người có nghề nghiệp tiếp xúc với tỏi

[93]. Đôi khi có một số báo cáo về viêm kết mạc dị ứng, viêm mũi dị ứng, viêm phế

quản dị ứng xảy ra khi ăn hay hít phải tỏi [58]. Báo cáo khác về tác dung phụ của tỏi

bao gồm phù, đau đầu, hoa mắt chóng mặt và vã mồ hôi [41].

Trong nghiên cứu của chúng tôi khi đánh giá khả năng chấp nhận can thiệp của

các đối tượng tham gia thông qua việc theo dõi tác dụng phụ của việc sử dụng viên tỏi

(bảng 3.12), không có trường hợp nào bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tác dụng phụ của

tỏi, hơi thở và cơ thể có mùi tỏi là thường gặp và chiếm đa số (23 đối tượng) chiếm

41,8%, thấp hơn so với tỷ lệ 57% ở nhóm sử dụng tỏi tươi trong nghiên cứu của

Christopher D. [50]. Trong cuốn hướng dẫn sử dụng thảo dược của Schulz V đã viết,

tác dụng phụ thường gặp nhất của sử dụng tỏi đó là hơi thở có mùi khó chịu. Thậm chí

50% người sử dụng cơ thể sản sinh ra “mùi hôi của tỏi”, tác dụng phụ khác hiếm gặp.

Mùi hăng này là do allyl methyl sulfide (AMS), là một hợp chất được hình thành trong

quá trình trao đổi chất của các hợp chất lưu huỳnh trong tỏi. Allyl methyl sulfide một

khi hấp thu vào máu sẽ đi đến phổi và gây ra những gì là phổ biến được biết đến như

hơi thở có mùi tỏi. Nó cũng được tiết ra từ các lỗ chân lông trên bề mặt da gây ra mùi

cơ thể hăng. Đây là tác dụng phụ không mong muốn và thường gặp nhất của việc sử

dụng tỏi [140].

Một số biểu hiện khó chịu ở dạ dày như ợ hơi, nóng bụng, đầy bụng là những

biểu hiện không mong muốn ít gặp hơn, chiếm 10,9% trong nghiên cứu này, xảy ra chủ

yếu vào 2 tuần đầu tiên của nghiên cứu nguyên nhân chính là do các đối tượng không

tuân thủ theo đúng hướng dẫn sử dụng chế phẩm, uống viên tỏi khi bụng đói, sau khi

phát hiện nguyên nhân và được tư vấn bởi nghiên cứu viên, uống viên tỏi sau khi ăn

theo đúng hướng dẫn sử dụng ban đầu, các biểu hiện này hầu như không xuất hiện

trong khoảng thời gian 2 tháng cuối của nghiên cứu. Tương tự với nghiên cứu của

Christopher D, biểu hiện rối loạn tiêu hóa khác như đau bụng, đi ngoài phân lỏng và dị

113

ứng không thấy xuất hiện trong nghiên cứu của chúng tôi [50]. Không hoàn toàn giống

với nghiên cứu theo dõi trên 1.997 người sử dụng tỏi hàng ngày trong thời gian 16 tuần

cho thấy 6% có cảm giác buồn nôn, 1,3% hoa mắt chóng mặt, 1,1% có phản ứng dị ứng

[140].

Mặc dù gặp phải một số tác dụng phụ không mong muốn, đặc biệt là hơi thở, cơ

thể có mùi tỏi tạo cảm giác không thực sự thoải mái cho người sử dụng cũng như

người xung quanh, nhưng có lẽ những tác dụng phụ này không phải là vấn đề nghiêm

trọng gây ảnh hưởng nhiều đến khả năng chấp nhận can thiệp của các đối tượng tham

gia nghiên cứu, vì kết quả thực tế cho thấy, sau 3 tháng can thiệp, chỉ có 4 đối tượng

không uống đủ 85% số thuốc, trong đó 2 đối tượng không uống đủ thuốc do quên,

không chấp nhận can thiệp do tác dụng phụ xảy ra trên 2 đối tượng (chiếm 3,6%). Kết

quả này rất đáng để quan tâm xem xét trong việc lựa chọn liệu pháp điều trị thay thế an

toàn hơn so với những thuốc hạ cholesterol thông thường hiện nay.

4.2.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng RLCHLPM.

Sau thời gian 3 tháng, với liệu pháp can thiệp sử dụng viên tỏi-folate. Ở nhóm

can thiệp, nồng độ cholesterol toàn phần giảm 0,31mmol/l (p<0,01) (bảng 3.15) so với

thời điểm khi bắt đầu nghiên cứu, so với mức giảm 0,04mmol/l ở nhóm chứng sự khác

biệt này mang ý nghĩa thống kê (p<0,01). Tương tự như vậy đối với chỉ tiêu LDL_C

giảm 0,41mmol/l (p<0,05) so với thời điểm ban đầu và so với mức giảm 0,09mmol/l ở

nhóm chứng sự khác biệt này cũng mang ý nghĩa thống kê (p<0,01). Sự thay đổi có ý

nghĩa các chỉ tiêu cholesterol toàn phần và LDL_C trong nghiên cứu có thể cho là

những minh chứng cho hiệu quả của viên tỏi-folate đối với tình trạng RLCHLPM vì

các lý do sau:

 Thứ nhất: Đây là một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối

chứng, là một phương pháp nghiên cứu dịch tễ đặc thù, là một công cụ tối ưu để

so sánh các liệu pháp điều trị.

114

 Thứ hai: Số lượng đối tượng hay cỡ mẫu nghiên cứu được tính toán dựa trên

công thức tính cỡ mẫu trong thử nghiệm lâm sàng với hệ số tin cậy 95%, độ

mạnh của nghiên cứu là 90% để phát hiện ra sự khác biệt giữa nhóm nhận liệu

pháp can thiệp và nhóm không nhận liệu pháp can thiệp, đảm bảo ý nghĩa về

mặt thống kê trong việc đưa ra kết luận cho các kết quả nghiên cứu.

 Thứ ba: Các đối tượng nghiên cứu và các điều kiện nghiên cứu được kiểm soát

chặt chẽ

- Tất cả đối tượng tham gia nghiên cứu được chọn tại cùng một thời điểm,

địa điểm với tiêu chí rõ ràng.

- Các đối tượng sau khi được tuyển chọn, phân bổ một cách ngẫu nhiên

vào nhóm nhận can thiệp và không nhận can thiệp.

- Trong suốt thời gian 3 tháng tiến hành nghiên cứu, tất cả các đối tượng

đều được theo dõi, đo lường kết quả và ghi chép lại như tình hình sức

khỏe nói chung, sự tuân thủ liệu pháp can thiệp (tác dụng phụ, số viên

thuốc sử dụng…) theo mẫu phiếu định sẵn hoặc gặp ngẫu nhiên và phỏng

vấn trực tiếp việc sử dụng thuốc của một số đối tượng.

 Thứ 4: Kết quả ở các bảng từ 3.6 đến bảng 3.10 và các bảng từ 3.17 đến 3.19

cho thấy, tại thời điểm trước khi tiến hành can thiệp và thời điểm kết thúc can

thiệp các đối tượng ở hai nhóm nghiên cứu là tương đồng về độ tuổi, cấu trúc cơ

thể, chế độ ăn uống và luyện tập.

 Thứ 5: Chỉ những số liệu thu thập được từ những đối tượng sử dụng 85% số

viên thuốc được phát trở lên và có đầy đủ kết quả xét nghiệm máu hai thời điểm

trước và sau nghiên cứu mới được đưa vào tính toán đánh giá hiệu quả của can

thiệp. Số liệu sau khi được thu thập sẽ được nạp vào phần mềm EPI data, sau đó

115

số liệu sẽ được chuyển sang SPSS 10.0 để xử lý bằng những kỹ thuật thống kê

thích hợp.

 Thứ 6: Viên tỏi sử dụng trong nghiên cứu, việc xây dựng công thức, quy trình

sản xuất, hình thành sản phẩm, kiểm nghiệm, phân tích đánh giá chất lượng vệ

sinh an toàn thực phẩm ngay sau sản xuất và theo thời gian bảo quản, xây dựng

hồ sơ công bố sản phẩm về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đã được thực

hiện và nghiệm thu trong nội dung Đề tài nhánh cấp Nhà nước số KC.10.05/06-

10 do Viện Dinh dưỡng và Xí nghiệp Dược Hậu Giang phối hợp thực hiện (phụ

lục).

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tương tự với kết quả nghiên cứu:

 Năm 1993 của Jain và cộng sự trên 42 đối tượng RLCHLPM, liệu pháp can

thiệp cũng là sử dụng viên bột tỏi trong thời gian 12 tuần nhưng với liều

900mg/ngày. Các đối tượng được lấy máu hai lần vào tuần thứ 6 và 12. Các

chỉ tiêu lipid máu không có sự khác biệt trong từng nhóm cũng như so sánh

giữa hai nhóm ở tuần thứ 6, nhưng sang tuần thứ 12, TC và LDL_C giảm

đáng kể ở nhóm can thiệp [87].

 Việc giảm có ý nghĩa thống kê nồng độ cholesterol và LDL_C sau can thiệp

trong nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn thống nhất với kết quả nghiên cứu

của Steiner năm 1996, khi cung cấp 7,2g/ngày dịch chiết tỏi cho 20 đối

tượng ở nhóm can thiệp trong thời gian 44 tuần [143].

Khi đem so sánh với nghiên cứu có quy mô lớn hơn của Mader vào những năm

1990 [109]:

 Trên 261 đối tượng RLCHLPM ở nhiều trung tâm với nồng độ TC ban đầu

là 5,2-7,7mmol/l và/hoặc TG 2,3-3,4 mmol/l. Đối tượng được phân bổ ngẫu

nhiên, mù kép vào 2 nhóm, một nhóm uống viên tỏi 200mg, 4 lần/ngày, tổng

116

cộng 800mg/ngày, nhóm còn lại uống viên giả dược với số lượng tương tự

trong thời gian 16 tuần. Ở nhóm được uống viên tỏi TC giảm đáng kể (14%)

trên đối tượng có TC ban đầu ở mức 6,5-7,7mmol/l so với những đối tượng

có mức TC ban đầu thấp hơn (7%).

 Tương tự như trong nghiên cứu của chúng tôi, liệu pháp can thiệp ở đây

cũng là bột tỏi với liều 800mg/ngày, nhưng lại được sử dụng trong thời gian

dài hơn (16 tuần), chỉ tiêu LDL_C không có sự cải thiện.

 Lý do lớn nhất có thể dẫn đến sự khác biệt này đó là do Mader tiến hành

nghiên cứu trên quy mô rộng tại nhiều trung tâm, việc phân tích mẫu được

tiến hành một cách cục bộ tại mỗi trung tâm theo cách riêng do vậy dẫn đến

sai số đo lường tiềm tàng là điều khó tránh.

Sự thay đổi nồng độ triglycerid và HDL_C trong nghiên cứu của chúng tôi không

có ý nghĩa thống kê. Khác với kết quả nghiên cứu ngẫu nhiên mù kép, có đối chứng

của Fumiko vào năm 2009 tại Nhật, trên 55 người khỏe mạnh có nồng độ TG huyết

thanh từ 120 đến 200mg/dl tại thời điểm ban đầu, phân bổ ngẫu nhiên vào hai nhóm

uống dịch chiết tỏi lên men với Monascus pilosus (MGFE), 4viên/ngày tổng cộng

900mg dịch chiết tỏi lên men với Monascus pilosus. Nhóm uống viên giả dược trong

12 tuần. TG, LDL_C được đánh giá sau mỗi 4 tuần. Kết quả cho thấy, ở tuần thứ 8 khi

đem so sánh với nhóm chứng, TG giảm có ý nghĩa thống kê (p<0,01), TC (p<0,01),

LDL_C (p<0,001), tỷ lệ LDL_C/HDL_C (p<0,001). TG ở nhóm can thiệp giảm 14,9%;

14,8% và 1,1% lần lượt ở các tuần 4; 8 và 12. Ngược lại,TG ở nhóm chứng lại có xu

hướng gia tăng 7,4%; 9,4% ở tuần 8;12. Nồng độ LDL_C ở nhóm can thiệp giảm

12,5%; 14,2% và 13,6% ở các tuần 4;8 và 12 [67]. Sự khác biệt này có thể do:

 Thứ nhất liệu pháp can thiệp Fumiko sử dụng ở đây là dịch chiết tỏi lên men

thay cho bột tỏi, đây rất có thể là một trong các lý do dẫn đến sự khác biệt về

kết quả nghiên cứu. Nhìn chung, phương pháp sử dụng để chế biến tỏi ảnh

117

hưởng đáng kể đến hợp chất sulfur, đó là hợp chất chiếm ưu thế và đáp ứng

sinh học của tỏi [84]. Ngoài ra tỷ lệ hợp chất sulfur này trong củ tỏi tươi phụ

thuộc vào trạng thái của tỏi, đất, điều kiện khí hậu, độ dài của khoảng thời gian

giữa việc thu hoạch, tiêu thụ tỏi cũng như phương pháp điều chế [128]. Từ

những năm 1990, Augusti KT đã tìm ra sự khác biệt về thành phần nguyên tố

sulfur trong một số chế phẩm tỏi, tỏi tươi chứa S-alkylcysteine sulfoxides (chủ

yếu là alliin), γ-glutamin-S-alkylcysteines, alkylalkane thiosulfinates (chủ yếu

là allicin), dịch chiết tỏi khô chứa S-alkylcysteine sulfoxides (chủ yếu là alliin),

γ-glutamin-S-alkylcysteines, alkylalkane thiosulfinates (chủ yếu là allicin), hợp

chất thiosulfinate transformation, dầu tỏi chưng cất bằng hơi chứa những hợp

chất biến đổi thiosulfinate: diallyl, allylmethyl, dimethyl sulfides, dịch chiết tỏi

già chứa γ-glutamin-S-alkylcysteines [37].

 Thứ hai: Trong nghiên cứu của Fumiko, các chỉ tiêu lipid máu được đánh giá

mỗi 12 tuần. Kết quả cho thấy có mối tương tác giữa hiệu quả và thời gian sử

dụng dich chiết tỏi lên men, trái ngược với nồng độ LDL_C (giảm 12,5%;

14,2%; 13,6% ở tuần 4;8;12), hiệu quả lên nồng độ TG huyết thanh của dịch

chiết tỏi lên men lại giảm theo thời gian (giảm 14,9%; 14,8% và 1,1% ở tuần

4;8;12). Quay lại với liệu pháp can thiêp bằng sử dụng bột tỏi trong nghiên cứu

của chúng tôi, rất có thể hiệu quả lên TG lại xuất hiện và tăng dần tại thời điểm

13 tuần hay lâu hơn nữa. Cần có nghiên cứu dài hơi hơn để đưa ra kết luận.

 Thứ ba: Đề cập đến mối liên quan giữa hiệu quả và mức độ tổn thương. Theo

kết quả nghiên cứu của Mader cho thấy ở nhóm can thiệp TC giảm đáng kể

(14%) trên đối tượng có TC ban đầu ở mức 6,5-7,7 mmol/l so với những đối

tượng có mức TC ban đầu thấp hơn (7%) [109]. Trong nghiên cứu của chúng

tôi, tại thời điểm trước khi can thiệp nồng độ TG trung bình của các đối tượng ở

nhóm can thiệp là 2,73±1,97mmol/l thấp hơn khá nhiều so với nồng độ TG

118

trung bình của các đối tượng trong nghiên cứu của Fumiko (3,2-5,3mmol/l).

Phải chăng, hiệu quả của tỏi sẽ nổi bật ở trên những đối tượng có chỉ tiêu lipid

huyết thanh cao hơn ở thời điểm ban đầu. Điều này hoàn toàn phù hợp với kết

quả thể hiện ở hình 3.3, cho thấy có mối liên quan nghịch chiều giữa nồng độ

triglyceride huyết thanh ban đầu với sự cải thiện nồng độ triglyceride huyết

thanh, nồng độ triglyceride ban đầu càng cao thì sau can thiệp nồng độ này

càng giảm.

 Thứ 4: Câu hỏi đặt ra, liệu bột tỏi hay dịch chiết tỏi có hiệu quả hơn đối với tình

trạng RLCHLPM, hay dịch chiết tỏi có hiệu quả hơn đối với chỉ tiêu TG?, Cần

có những nghiên cứu đủ độ tin cậy và phù hợp để trả lời câu hỏi này.

 Thứ 5: Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng như nghiên cứu của Fumiko việc

xác định hoạt tính sinh học của các hợp chất hoạt tính chưa được thực hiện do

phương pháp xác định hoạt tính chưa sẵn có ở Việt Nam. Theo Lawson LD

những thử nghiệm lâm sàng sử dụng viên bột tỏi để đánh giá bất kỳ hiệu quả

nào của tỏi mà có liên quan đến allicin, không thể được coi là có giá trị khi kết

quả thử nghiệm cho thấy hiệu quả âm tính, trừ phi ít nhất là việc giải phóng

allicin từ chế phẩm đã được xác định bằng phương pháp USP 724A [102]. Do

vậy tiến hành những nghiên cứu chuyên sâu hơn trong tương lai để đưa ra đánh

giá chính xác về hiệu quả của viên tỏi lên chỉ tiêu triglyceride huyết thanh là

việc nên làm.

Khác với những minh chứng về hiệu quả của tỏi lên các chỉ tiêu cholesterol toàn

phần và LDL_C mà kết quả của nghiên cứu chúng tôi mang lại:

 Nghiên cứu của Simons và cộng sự tiến hành năm 1995 cho kết quả hoàn

toàn trái ngược. Ba mươi đối tượng RLCHLPM với nồng độ TC ban đầu là

6,0-7,8mmol/l và TG <3,0mmol/l, được sử dụng bột tỏi 900mg/ngày chia

làm 3 lần, trong 30 tuần, cùng với tư vấn chế độ ăn ít chất béo (dưới 30%

119

năng lượng khẩu phần), acid béo bão hòa dưới 10% năng lượng khẩu phần

và cholesterol dưới 300mg/ngày, chế độ ăn này được kiểm soát trong suốt

thời gian nghiên cứu thông qua việc ghi nhật ký và sử dụng phần mềm

thống kê tính toán thành phần dinh dưỡng trong chế độ ăn của đối tượng.

Khác với nghiên cứu của Mader và Jain. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỏi

không có hiệu quả lên các chỉ tiêu lipid máu. Đây là một nghiên cứu thử

nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, nghiên cứu này đã khắc phục được một

số hạn chế của những nghiên cứu trước như kiểm soát được yếu tố liên

quan như khẩu phần ăn, thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của đối

tượng được tính toán bằng phần mềm thống kê, thời gian can thiệp dài hơn

(30 tuần) [142]. Tuy nhiên, không thấy cung cấp số liệu về việc tuân thủ

điều trị của các đối tượng, do vậy có thể chưa được phản ánh một cách

chính xác số viên tỏi đối tượng tiêu thụ. Mặt khác, với cỡ mẫu 30, liệu đã

đủ lớn để việc so sánh giữa các nhóm có ý nghĩa về mặt thống kê?.

 Neil và cộng sự, năm 1996, cũng bằng thiết kế nghiên cứu thử nghiệm, mù

kép, ngẫu nhiên có đối chứng trong thời gian 24 tuần, sử dụng bột tỏi khô

300mg/lần, 3 lần/ngày, trên 115 đối tượng với nồng độ TC ban đầu từ 6,0

đến 8,5mmol/l và LDL_C≥3,5mmol/l. Các đối tượng được yêu cầu tiêu thụ

chất béo dưới 30% năng lượng khẩu phần, acid béo bão hòa dưới 10% năng

lượng khẩu phần, cholesterol dưới 300mg/ngày và tiêu thụ 35g chất

xơ/ngày. Viên giả dược được bọc bên ngoài bằng bột tỏi để không thấy sự

khác biệt với viên tỏi thật. Việc tuân thủ điều trị được xác định bằng cách

đếm những viên còn lại. Mùi tỏi, tác dụng phụ và khả năng chấp nhận được

ghi lại, tất cả mẫu máu được phân tích tập trung vào thời điểm kết thúc

nghiên cứu. Số liệu thu thập được của những đối tượng tuân thủ từ 75%

liệu pháp can thiệp trở lên mới được đưa vào phân tích [122]. Giống như

nghiên cứu của Simons, không tìm thấy sự khác biệt về nồng độ lipid huyết

120

thanh giữa hai nhóm. Trong nghiên cứu này, mặc dù các đối tượng được

yêu cầu hạn chế chất béo khẩu phần, nhưng không thấy bất kỳ số liệu nào

cho thấy khẩu phần ăn của đối tượng nghiên cứu trong cả hai nhóm được

phân tích đánh giá, vậy liệu khẩu phần ăn có thể là nguy cơ nhiễu ảnh

hưởng đến kết quả nghiên cứu?.

 Trong thời gian 12 tuần, sử dụng hai trung tâm, bằng nghiên cứu thử

nghiệm ngẫu nhiên mù kép có đối chứng, Isaacsohn và cộng sự đã nghiên

cứu hiệu quả của việc bổ sung 900mg bột tỏi/ngày, trên 50 đối tượng

RLCHLPM với nồng độ LDL_C ban đầu ≥4,1mmol/l và TG <4,0mmol/l

kết hợp với hạn chế chất béo trong khẩu phần ăn. Việc tuân thủ liệu pháp

can thiệp của các đối tượng đạt tỷ lệ cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỏi

không có hiệu quả làm giảm cholesterol trên những bệnh nhân RLCHLPM

[83]. Trong nghiên cứu này, các đối tượng được yêu cầu hạn chế chất béo

khẩu phần, nhưng không thấy đề cập đến cách kiểm soát. Rất có thể kết quả

nghiên cứu bị ảnh hưởng bởi sự hợp tác của các đối tượng nghiên cứu, tính

trung thực và khả năng ước lượng mô tả chính xác khẩu phần ăn cũng như

cách chế biến. Việc làm cho khẩu phần ăn ổn định mới là điều cốt yếu để

xác định khả năng làm giảm lipid thực sự, những thiếu sót về phương pháp

có thể đi kèm với ước lượng không chính xác về hiệu quả.

 Gần đây, Superko và Kraus đã đưa ra kết luận tương tự cho một nghiên cứu

trong thời gian 12 tuần, mù kép, ngẫu nhiên có đối chứng trên 50 đối tượng

RLCHLPM với 5,2mmol/l>LDL_C>3,9mmol/l. Hỏi ghi khẩu phần 3 ngày

được tiến hành ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu. Đối tượng được uống viên

bột tỏi 300mg, 3 lần/ngày. Không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về

mức lipid máu giữa hai nhóm [147]. Khắc phục hạn chế của một số nghiên

cứu trước, Superko đã quan tâm đến việc kiểm soát yếu tố nguy cơ nhiễu.

121

Nhưng với cỡ mẫu 50 (25 đối tượng cho mỗi nhóm), thì độ mạnh của trắc

nghiệm liệu có đủ để phát hiện ra được sự khác biệt giữa các nhóm đem so

sánh, nếu quả thật sự khác biệt đó là có trong quần thể. Việc kiểm nghiệm,

phân tích đánh giá chất lượng, thành phần dinh dưỡng của viên tỏi ngay sau

khi xuất xưởng và theo thời gian bảo quản không được đề cập đến trong

nghiên cứu, câu hỏi đặt ra, liệu hàm lượng tỏi trong viên thuốc có luôn đạt

mức 300mg trong suốt thời gian nghiên cứu?. Quan trọng hơn nữa, yếu tố

thiết lập hiệu quả dược lý trong cơ thể của tỏi đó là hoạt tính sinh học của

allicin rất có thể đã gặp phải trở ngại?:

- Khi tỏi tươi bị nghiền nát, sự hình thành allicin được hoàn tất trong

thời gian khoảng 6 giây. Với những chế phẩm tỏi, cơ hội hình thành

allicin sẽ không xảy ra khi tỏi chưa được tiêu thụ, nói cách khác sự

hình thành allicin chỉ xảy ra sau khi tiêu thụ chế phẩm tỏi, khi viên tỏi

bị hòa tan. Tuy nhiên, do hoạt tính của alliinase bị ảnh hưởng rất lớn

bởi môi trường dạ dày ruột (acid dạ dày, các protease ruột), bởi quá

trình chế biến sản xuất các chế phẩm và lượng allicin được sản xuất

trong cơ thể từ các chế phẩm [99]. Ảnh hưởng của pH, sự trung hòa

sau khi acid hóa, thời gian và nhiệt độ lên sự giải phóng các allyl

thiosulfinates từ chế phẩm bột tỏi đã được xác định. Tất cả các allyl

thiosulfinates (allicin, 1-propenyl allyl và allyl 1-propenyl) được hình

thành trong điều kiên pH tối ưu từ 4,5 đến 5,0. Methyl propenyl

thiosulfinates (allyl methyl + methyl allyl và 1-propenyl methyl +

methyl 1-propenyl) và dimethyl thiosulfinate ở pH lần lượt 6,5-7,0 và

5,5. pH dưới 3,6 không có bất kỳ loại thiosulfinates nào được hình

thành. Dipropenyl thiosulfinates được hình thành trong 0,3 phút ở 370C, trong khi methyl thiosulfinates không được hình thành cho đến

122

tận 3,5 phút. Allyl 1-propenyl thiosulfinate được hình thành nhanh

nhất và lại không bền vững nhất. Sự ổn định của dipropenyl

thiosulfinates được cải thiện ở pH 4,5 hay thấp hơn. Sấy tỏi ở nhiệt độ 600C không gây ảnh hưởng đến alliin hay tỷ lệ hình thành dipropenyl

thiosulfinates, nhưng làm giảm trans-1-propenylcysteine sulfoxide

(isoalliin) và sự hình thành methyl thiosulfinates. Như vậy, lớp vỏ bao

chế phẩm giúp kháng acid dạ dày cần thiết cho việc giải phóng

thiosulfinate và khâu chế biến, sản xuất các chế phẩm là hai yếu tố

chính ảnh hưởng đến hoạt tính alliinase trong tỏi [99].

- Hầu hết chế phẩm tỏi bổ sung được chuẩn hóa dựa trên hoạt chất

allicin và là dạng viên bao tan trong ruột ngăn sự phá hủy acid dạ dày

bất hoạt enzyme hình thành allicin (alliinase). Trong một nghiên cứu

của Lawson LD vào năm 2001, Để xác định xem liệu những chế phẩm

này giải phóng lượng allicin theo yêu cầu trong điều kiên tương tự

trong dạ dày ruột hay không?, ông đã sử dụng phương pháp 724A

phân hủy USP, phương pháp 724A phân hủy USP được áp dụng cho

tất cả 24 loại chế phẩm dạng viên bao. Cho thấy, hầu hết các chế phẩm

việc bao viên có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đối với allicin. Tuy

nhiên, hầu hết các chế phẩm (trừ một loại), giải phóng allicin hòa tan

chậm, với 83% loại chế phẩm giải phóng allicin ít hơn 15% so với trữ

lượng. Việc giải phóng allicin thấp được tìm thấy là do sự suy giảm

hoạt tính của allinase , tốc độ phân hủy của chế phẩm cũng ảnh hưởng

đến hoạt tính allinase. Chỉ khi viên thuốc có hoạt tính allinase cao và

phân hủy nhanh thì mới cho thấy sự giải phóng allicin cao. Phương

pháp phân hủy USP 724A để ước tính lượng allicin giải phóng trong

cơ thể là phương pháp có giá trị, bằng việc theo dõi mức trao đổi

allicin, allyl methyl sulfide trong hơi thở. Lawson đã đưa ra kết luận,

123

chế phẩm bột tỏi bổ sung nên chuẩn hóa dựa trên sự giải phóng allicin

hòa tan hơn là chuẩn hóa dựa trên trữ lượng [101].

- Theo phân tích của Lawson về sự thất bại của 5 nghiên cứu thử

nghiệm lâm sàng sử dụng bột tỏi gần đây trong việc cho thấy sự giảm

có ý nghĩa nồng độ lipid huyết thanh trái ngược với nhiều kết quả

nghiên cứu trước đây khi sử dụng chế phẩm tỏi tương tự. Khả năng

giải phóng allicin của các loại chế phẩm sử dụng trong những nghiên

cứu thử nghiệm cho kết quả dương tính và âm tính từ năm 1989 đến

năm 1997 được xác định dưới điều kiện tương tự trong dạ dày ruột,

được xác định bằng phương pháp USP 724A. So với những chế phẩm

mới hơn, phương pháp này đã cho thấy những chế phẩm trước kia bền

vững hơn đối với sự phân hủy của acid (2,5 giờ so với 1,5 giờ,

p<0,001) và những chế phẩm này giải phóng allicin nhiều hơn gấp 3

lần (44% trữ lượng so với 15%, p<0,001). Do vậy, những đối tượng

trong những nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng cho kết quả âm tính gần

đây có thể được nhận một lượng allicin ít hơn đáng kể so với những so

với những đối tượng trong những nghiên cứu cho kết quả dương tính

trước kia, điều này dẫn đến sự không nhất quán giữa các kết quả

nghiên cứu [102].

- Năm 2005, Larry D tiến hành nghiên cứu xác định lượng allicin giải

phóng trong môi trường phân hủy tương tự dạ dày ruột của các chế

phẩm bột tỏi được sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu thử nghiệm

lâm sàng từ năm 1994 đến năm 2000 cho thấy lượng allicin giải phóng

dao động từ 14% đến 18%. Đánh giá tương tự 24 chế phẩm viên bao

bảo vệ khỏi acid dịch vị lượng allicin giải phóng từ 3-94% trữ lượng

trong chế phẩm, trung bình là 13%, cho thấy trở ngại trong việc hình

thành allicin từ các chế phẩm trong môi trường dạ dày ruột. Thực vậy,

124

hoạt tính sinh học sẵn có của allicin, được đo lường bằng allyl methyl

sulfide trong hơi thở, có thể lên tới >95% đối với những chế phẩm giải

phóng 94% allicin hòa tan, trong khi những chế phẩm có trữ lượng

alliin tương tự nhưng hoạt tính alliinase thấp chỉ đạt 5% [103].

- Tính đến thời điểm trước năm 2002, hầu hết các nghiên cứu thử

nghiệm lâm sàng được tiến hành với những chế phẩm tỏi chưa được

biết hoạt tính allicin, chỉ duy nhất một nghiên cứu thử nghiệm, sự giải

phóng allicin hòa tan được báo cáo, đó là nghiên cứu thử nghiệm của

Kannar D đánh giá hiệu quả của viên bao bột tỏi được chuẩn hóa dựa

trên khả năng giải phóng allicin (hàm lượng allicin được giải phóng là

9,6mg) trên 46 đối tượng có RLCHLPM mức nhẹ và trung bình. Sau

12 tuần, nhóm can thiệp (22 đối tượng) TC giảm có ý nghĩa thống kê

(-0,36 mmol/l; -4,2%) và LDL_C giảm (-0,44 mmol/l, -6,6%) trong

khi nhóm chứng (24 đối tượng) TC tang (0,13 mmol/l; 2,0%) và

LDL_C tăng (0,18 mmol/l; 3,7%). HDL_C và TG thay đổi không có ý

nghĩa thống kê [91].

Như vậy, những thử nghiệm lâm sàng sử dụng viên bột tỏi để đánh giá bất kỳ

hiệu quả nào của tỏi mà có liên quan đến allicin. Ngoài việc tập trung vào thiết kế một

phương pháp nghiên cứu đạt chất lượng cần xác định (1) thành phần của những hợp

chất sulfur trong chế phẩm tỏi sử dụng, (2) tính ổn định của những hợp chất hoạt tính

trong thời gian bảo quản và đặc biệt là dưới điều kiện sử dụng của nghiên cứu và (3)

hoạt tính sinh học của các hợp chất hoạt tính. Điều mà hầu hết các nghiên cứu từ trước

đến nay chưa thực hiện được. Nghiên cứu của chúng tôi, trong điều kiện phương pháp

xác định hoạt tính sinh học của các hợp chất hoạt tính trong chế phẩm sử dụng trong

can thiệp chưa sẵn có ở Việt Nam, đã mang lại những hạn chế nhất định. Nghiên cứu

không đạt được mức tối ưu như mong đợi để có thể ước lượng một cách chính xác nhất

125

về hiệu quả của viên tỏi sử dụng trong nghiên cứu lên các chỉ tiêu lipid máu. Tuy

nhiên, với kết quả thu được từ nghiên cứu này không những góp phần minh chứng cho

hiệu quả của tỏi lên tình trạng RLCHLPM, mà còn là cơ sở để phát triển các phương

pháp xác định chất lượng của viên tỏi, phục vụ cho những nghiên cứu sâu hơn trong

tương lai.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, chế phẩm sử dụng trong liệu pháp can thiệp là

viên tỏi – folate, thành phần chính trong chế phẩm là bột tỏi với hàm lượng 200mg,

ngoài ra còn bổ sung thêm acid folate với hàm lượng 0,1mg. Cơ sở để bổ sung thêm

folate vào chế phẩm đó là:

 Thứ nhất: Folate thuộc nhóm vitamin tan trong nước, hoạt tính sinh học của

folate mất đi nhanh chóng trong quá trình thu hoạch, bảo quản, chế biến hay

bào chế. ½ thậm chí ¾ hoạt tính sinh học ban đầu của folate bị mất trong quá

trình này. Do vậy nhu cầu folate rất khó đáp ứng nếu chỉ thông qua chế độ ăn

uống thông thường [73]. Theo các điều tra ở Mỹ đa số mọi người không ăn

đủ folate hàng ngày. Nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng gặp phải tình

trạng thiếu hụt Folate tương tự. Ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu của Viện

Dinh dưỡng năm 2005 tại Hà Nội và Hải Dương cho thấy 63% phụ nữ trong

độ tuổi sinh đẻ có hàm lượng folate trong máu dưới mức tối ưu (905

nmol/L). Vì vậy, FAO/WHO khuyến cáo cần bổ sung folate bằng việc phối

hợp thức ăn tự nhiên và các sản phẩm có tăng cường. Nhu cầu acid folic

khuyến nghị cho người trưởng thành là 400mcg/ngày [105].

 Thứ hai: Nồng độ homocysteine máu tăng được xem là yếu tố nguy cơ với

bệnh lý tim mạch có thể thay đổi được [154]. Folat khẩu phần là yếu tố quyết

định nồng homocysteine máu. Thiếu hụt folate dẫn đến giảm hoạt động chu

126

trình methyl, giảm hoạt động chu trình methyl dẫn đến tăng nồng độ

homocystein máu [130].

Các nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả giảm nồng độ homocystein máu của

việc bổ sung folate đã rõ ràng [21,71], việc cung cấp thêm bằng chứng là điều không

cần thiết. Chính vì vậy trong nghiên cứu này chúng tôi đã không tiến hành thu thập chỉ

tiêu homocystein huyết thanh hay không cung cấp bằng chứng liên quan đến hiệu quả

của folate.

127

KẾT LUẬN

5.1. Sự kết hợp giữa một số yếu tố nguy cơ và rối loạn chuyển hóa lipid máu

Từ kết quả nghiên cứu bệnh chứng trên 300 đối tượng 30-69 tuổi sống ở nội thành Hà

Nội năm 2009-2010, chúng tôi có một số kết luận sau:

- Tình trạng thừa cân, béo bụng, % mỡ cơ thể cao là yếu tố nguy cơ của RLCHLPM:

 Nguy cơ mắc RLCHLPM sẽ tăng lên 1,9 lần (p<0,01) khi bị thừa cân.

 Nguy cơ mắc RLCHLPM sẽ tăng lên 6,4 lần (p<0,001) khi bị béo bụng.

 Nguy cơ mắc RLCHLPM sẽ tăng lên 2,5 lần khi có % mỡ cơ thể cao

(p<0,001).

- Thói quen hút thuốc lá ≥20 điếu/ngày làm tăng nguy cơ mắc RLCHLPM lên gấp

3,1 lần so với không hút thuốc (p<0,05).

- Phần trăm năng lượng từ acid béo no(SFA) khẩu phần ở mức từ 7% trở lên thì nguy

cơ mắc RLCHLPM tăng lên gấp 2,7 lần (p<0,01).

- Khẩu phần ăn ít chất xơ (dưới 20g/ngày) làm tăng nguy cơ mắc RLCHLPM lên gấp

2,1 lần (p<0,05).

- Tiền sử gia đình, tình trạng mãn kinh làm tăng nguy cơ RLCHLPM lên gấp 2 và 4

lần.

- Không thấy sự kết hợp giữa lạm dụng rượu bia, thói quen luyện tập thể thao và kiến

thức về RLCHLPM với tình trạng RLCHLPM.

- Không thấy sự kết hợp giữa phần trăm năng lượng từ lipid khẩu phần, hàm lượng

cholesterol cũng như phần trăm năng lượng từ acid béo chưa no một nối đôi và acid

béo chưa no nhiều nối đôi trong khẩu phần với tình trạng RLCHLPM (p>0,05).

128

5.2. Hiệu quả của sử dụng viên tỏi - folate đối với tình trạng RLCHLPM.

Từ kết quả nghiên cứu can thiệp trên 111 đối tượng 30-69 tuổi có RLCHLPM sống ở

nội thành Hà Nội năm 2009-2010, chúng tôi có một số kết luận sau:

Sau 3 tháng nghiên cứu:

 Nhóm đối tượng sử dụng viên tỏi-folate, mức giảm nồng độ cholesterol toàn

phần nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (-0,31mmol/l và

0,04mmol/l, p<0,01).

 Nồng độ LDL_C huyết thanh ở nhóm nhận can thiệp giảm có ý nghĩa thống kê

so với nhóm chứng (-0,41mmol/l và 0,09mmol/l, p<0,01).

 Sự thay đổi nồng độ triglyceride và nồng độ HDL_C huyết thanh ở nhóm sử

dụng viên tỏi-folate và nhóm chứng đều không có ý nghĩa thống kê (-

0,01mmol/l và -0,11mmol/l, p>0,05) và (-0,01mmol/l và -0,02mmol/l, p>0,05).

 Viên tỏi–folate có hiệu quả làm giảm 31,7% tỷ lệ RLCHLPM theo chỉ tiêu

LDL_C; 28,2% theo chỉ tiêu cholesterol; 21,8% theo chỉ tiêu triglyceride và

4,5% theo chỉ tiêu HDL_C.

129

KHUYẾN NGHỊ

1. Kiểm soát tình trạng thừa cân, béo bụng, phần trăm mỡ cơ thể cao, tiêu thụ

acid béo no ở mức dưới 7% năng lượng khẩu phần, chất xơ ở mức từ

20g/ngày trở lên và bỏ thói quen hút thuốc lá, sẽ góp phần quan trọng để

phòng chống rối loạn chuyển hóa lipid máu, dự phòng nguy cơ đối với bệnh

tim mạch.

2. Bên cạnh các giải pháp phòng chống tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid

máu khác, sử dụng viên tỏi - folate được sản xuất trong nước, từ nguồn thực

phẩm sẵn có trong nước là giải pháp an toàn, khả thi, hiệu quả để cải thiện

tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu.

3. Cần tiến hành những nghiên cứu sâu hơn nhằm xác định thành phần của

những hợp chất sulfur trong chế phẩm tỏi sử dụng, tính ổn định của những

hợp chất hoạt tính theo thời gian và hoạt tính sinh học của các hợp chất hoạt

tính để thêm phần khẳng định hiệu quả của viên tỏi – folate lên tình trạng rối

loạn chuyển hóa lipid máu.

130

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Xuân Ninh, Nguyễn Đỗ Vân Anh, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thị

Lâm (2010), “Hiệu quả của sử dụng viên tỏi – folate trên đối tượng 30-60

tuổi có rối loạn lipid máu”, Tạp chí Y học Dự phòng, Tập XX, số 7 (115).

2. Nguyễn Đỗ Vân Anh, Nguyễn Xuân Ninh, Phùng Đắc Cam (2013), “Mối

liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ và tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid

máu ở người 30-69 tuổi tại Hà Nội ”, Tạp chí Y học Dự phòng, Tập XXIII,

số 7 (143).