BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN ĐĂNG KHANG
ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN TỘI PHẠM
TRÊN TRUYỀN HÌNH ĐỐI VỚI CÔNG CHÚNG Ở VIỆT NAM
(Khảo sát kênh VTV1, ANTV năm 2016, 2017)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
HÀ NỘI, 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN ĐĂNG KHANG
ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN TỘI PHẠM
TRÊN TRUYỀN HÌNH ĐỐI VỚI CÔNG CHÚNG Ở VIỆT NAM
(Khảo sát kênh VTV1, ANTV năm 2016, 2017)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
Chuyên ngành
: Báo chí học
Mã ngành
: 9 32 01 01
Người hướng dẫn khoa học
Hướng dẫn 1
Hướng dẫn 2
PGS, TS. Đinh Thị Thúy Hằng
PGS, TS. Đỗ Cảnh Thìn
HÀ NỘI, 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS, TS. Đinh Thị Thúy
Hằng; PGS, TS. Đỗ Cảnh Thìn. Các số liệu thống kê, kết quả
nghiên cứu, phát hiện mới của luận án là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học
nào trước đây. Luận án có sử dụng, phát triển, kế thừa một số
tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu từ các sách, giáo trình, tài liệu...
liên quan đến nội dung luận án.
Hà Nội, ngày.....tháng.....năm 2021
TÁC GIẢ
Nguyễn Đăng Khang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ANNM An ninh ngày mới
ANTQ An ninh tổ quốc
ANTT An ninh trật tự
ANTV Truyền hình Công an nhân dân
BC-TT Báo chí-Truyền thông
BTV Biên tập viên
CQBC Cơ quan báo chí
CTV Cộng tác viên
MXH Mạng xã hội
PT-TH Phát thanh-Truyền hình
PV Phóng viên
PVS Phỏng vấn sâu
TKBT Thư ký biên tập
TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh
TSAN Thời sự an ninh
TTĐC Truyền thông đại chúng
TTTP trên TH Thông tin tội phạm trên truyền hình
TTTP Thông tin tội phạm
VHXH Văn hóa xã hội
VTV Đài Truyền hình Việt Nam
VTV1 Kênh Thời sự chính trị tổng hợp
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Phân loại tội phạm ........................................................................ 47
Bảng 2.1: Cơ cấu mẫu khảo sát ..................................................................... 71
Bảng 2.2: Nghề nghiệp của người trả lời ...................................................... 71
Bảng 2.3: Trình độ học vấn của người trả lời ............................................... 72
Bảng 2.4: Mức sống của người tham gia khảo sát ........................................ 73
Bảng 2.5: Cơ cấu mẫu khảo sát thực nghiệm và thảo luận nhóm ................. 73
Bảng 2.6: Nghề nghiệp của người tham gia thực nghiệm và thảo luận nhóm .. 74
Bảng 2.7: Cơ cấu mẫu khảo sát tin, bài thông tin tội phạm ............................... 74
Bảng 2.8: Khác biệt về mức độ tiếp cận thông tin trên VTV1 và ANTV giữa
các tỉnh, thành phố, khu vực và độ tuổi ................................................ 89
Bảng 2.9: Tình hình theo dõi những vụ án nổi bật trong năm 2016-2017 của
công chúng ............................................................................................. 98
Bảng 2.10: Đánh giá của công chúng về những ưu điểm trong việc phản
ánh thông tin tội phạm trên VTV1 và ANTV ..................................... 104
Bảng 2.11: Tương quan giữa trình độ học vấn và ảnh hưởng của thông tin
tội phạm trên truyền hình đối với công chúng .................................... 121
Bảng 2.12: Đánh giá của công chúng về những hạn chế trong việc phản ánh
thông tin tội phạm trên VTV1 và ANTV ............................................ 129
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Thể loại và hình ảnh sử dụng trong tin, bài về thông tin tội phạm
giai đoạn 2016-2017 ..................................................................... 75
Biểu đồ 2.2: Số lượng tin, bài thông tin tội phạm trên các chương trình được
khảo sát của VTV1 và ANTV ....................................................... 76
Biểu đồ 2.3: Nguồn cung cấp tin, bài thông tin tội phạm trong giai đoạn 2016
- 2017 trên VTV1 và ANTV ......................................................... 78
Biểu đồ 2.4: Các loại tội phạm trong các chương trình khảo sát được phát sóng
trên VTV1 và ANTV .................................................................... 79
Biểu đồ 2.5: Giai đoạn phát sóng về vụ việc trong thông tin tội phạm trên VTV1
và ANTV trong giai đoạn 2016-2017.................................................80
Biểu đồ 2.6: Nội dung thông tin tội phạm được đề cập nhiều nhất trên VTV1
và ANTV giai đoạn 2016-2017 ..................................................... 81
Biểu đồ 2.7: Cách thể hiện thông tin liên quan đến người phạm tội/bị tình nghi
là tội phạm trong các tin bài của VTV1 và ANTV trong giai đoạn
2016-2017 .................................................................................... 83
Biểu đồ 2.8: Thực trạng tiếp cận thông tin tội phạm của công chúng qua các
kênh thông tin hiện nay ................................................................. 85
Biểu đồ 2.9: Mức độ tiếp cận thông tin tội phạm trên 02 kênh truyền hình
VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017 ........................................ 87
Biểu đồ 2.10: Mức độ tiếp cận thông tin tội phạm trong các chương trình của
VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017 ........................................ 90
Biểu đồ 2.11: Mức độ ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình đối
với công chúng ............................................................................. 94
Biểu đồ 2.12: Nhận định của công chúng về những loại tội phạm được đề cập
nhiều hơn trên VTV1 và ANTV ................................................... 96
Biểu đồ 2.13: Lí do công chúng quan tâm nhất đến vụ án .............................. 100
Biểu đồ 2.14: Đánh giá của công chúng về việc phản ánh thông tin về những
vụ án nổi bật trên VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017 ........... 101
Biểu đồ 2.15: Những ảnh hưởng tích cực của thông tin tội phạm trên truyền
hình đến bản thân người trả lời .................................................... 103
Biểu đồ 2.16: Đối tượng thường được công chúng trao đổi thông tin tội phạm
sau khi xem trên VTV1, ANTV .................................................. 106
Biểu đồ 2.17: Khác biệt trong ảnh hưởng tiêu cực: cảm thấy đạo đức xuống
cấp giữa những người tiếp cận thông tin tội phạm trên VTV1
và ANTV ................................................................................... 111
Biểu đồ 2.18: Đánh giá những ảnh hưởng tiêu cực đối với công chúng từ thông
tin tội phạm ................................................................................ 113
Biểu đồ 2.19: Ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên VTV1 và ANTV đối với
công chúng khu vực nông thôn và đô thị ..................................... 116
Biểu đồ 2.20: Ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên VTV1 và ANTV đối với
công chúng xét theo tỉnh/thành phố khảo sát ............................... 117
Biểu đồ 2.21: Khác biệt của người trả lời trong việc quan tâm đến công tác
phòng chống tội phạm ................................................................ 118
Biểu đồ 2.22: Khác biệt trong ảnh hưởng tích cực của thông tin tội phạm trên
truyền hình đến công chúng theo các nhóm tiếp cận thông tin trên
VTV1, ANTV ............................................................................ 123
Biểu đồ 2.23: Nội dung thông tin tội phạm phát sóng trên ANTV và VTV1 .. 125
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Các yếu tố tác động đến sự ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên
truyền hình đối với công chúng .................................................................... 126
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................................................. 14
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN TỘI
PHẠM TRÊN TRUYỀN HÌNH ĐỐI VỚI CÔNG CHÚNG .............. 37
1.1. Các khái niệm công cụ ...................................................................... 37
1.2. Phân loại thông tin tội phạm .............................................................. 46
1.3. Vai trò và ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình ........... 50
1.4. Tiêu chí và thang đo ảnh hưởng của thông tin tội phạm .................... 63
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN TỘI
PHẠM TRÊN TRUYỀN HÌNH ĐỐI VỚI CÔNG CHÚNG .............. 67
2.1. Thông tin tổng quan về khảo sát .............................................................. 67
2.2. Thực trạng cung cấp thông tin tội phạm trên truyền hình........................ 75
2.3. Những ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình ........................ 84
2.4. Thành công, hạn chế và nguyên nhân .................................................... 127
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC CỦA
THÔNG TIN TỘI PHẠM TRÊN TRUYỀN HÌNH ......................... 136
3.1. Một số vấn đề đặt ra hiện nay đối với sự ảnh hưởng của thông tin tội
phạm trên truyền hình ..................................................................... 136
3.2. Giải pháp nâng cao ảnh hưởng tích cực của thông tin tội phạm ....... 140
3.3. Đề xuất bộ quy tắc khi thông tin tội phạm ....................................... 153
KẾT LUẬN ................................................................................................... 162
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 166
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Tội phạm được xem xét như một nhân tố làm cản trở sự vận động và phát
triển của xã hội. Tuy nhiên, thông tin tội phạm (TTTP) trên báo chí lại là những
thông tin thu hút sự quan tâm, tạo ra những cảm xúc mạnh đối với công chúng
- bởi những thông tin bất thường, có tính xung đột trong xã hội được coi là
những tiêu chí của tin tức.
Từ nhiều năm nay, TTTP trên báo chí luôn chiếm tỷ lệ rất lớn và xuất hiện ở
hầu khắp các ấn phẩm, các loại hình báo chí. Với ưu thế về hình ảnh, âm thanh,
phương thức, hạ tầng truyền dẫn - phát sóng, thông tin tội phạm trên truyền hình
(TTTP trên TH) nói riêng và báo chí nói chung đã được tiếp cận, khai thác từ nhiều
góc độ, thể hiện tính dân chủ, công khai trong thông tin và thực hiện quyền tiếp cận
thông tin của người dân; ảnh hưởng tích cực đến dư luận, đời sống xã hội, đời sống
tinh thần của người dân.
Tuy nhiên, khi internet, công nghệ thông tin số, báo mạng điện tử, trang
tin điện tử phát triển mạnh cùng với số lượng rất lớn người dân tham gia mạng
xã hội cho thấy một thực tế: việc phản ánh một cách tràn lan, thiếu tính định
hướng TTTP trên báo chí nhất là báo mạng điện tử, trang tin điện tử của một
số cơ quan báo chí dẫn đến xuất hiện nhiều thông tin tiêu cực, thông tin một
chiều gây bức xúc dư luận. Một số cơ quan báo chí đưa tin không đúng sự thật,
thiếu nhạy cảm về chính trị, đăng tải quá nhiều thông tin về mặt trái của xã hội;
tình trạng kết án vụ việc, hiện tượng mà không cần xem xét tới quy định của
pháp luật; tình trạng “suy đoán có tội” phát triển trong báo chí gây thiệt hại lớn
đến uy tín, danh dự, tài sản các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp… Thêm vào đó,
nhiều TTTP, vụ việc được trích dẫn, phản ánh tràn lan, thiếu kiểm soát trên
mạng xã hội, công chúng sẽ gặp không ít khó khăn trong việc tiếp nhận, xử lý
thông tin. Những tồn tại, hạn chế này kéo dài sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến
2
nhận thức của đông đảo công chúng và đặc biệt ảnh hưởng nghiêm trọng đến
niềm tin của công chúng đối với nền báo chí cách mạng của đất nước.
Trước thực trạng trên, cơ quan chức năng cần tăng cường công tác quản lý nhà
nước về pháp luật đối với các cơ quan báo chí - truyền thông, đảm bảo hoạt động
đúng tôn chỉ, mục đích. Đối với thông tin tội phạm, báo chí - truyền thông có nhiệm
vụ đặc biệt quan trọng đó là: định hướng cho người dân có hiểu biết đúng hơn, cặn
kẽ hơn về phòng chống tội phạm, đồng thời giúp họ trong việc điều chỉnh hành vi,
tuân thủ pháp luật. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, cần thiết phải phát triển mạnh
các cơ quan báo chí chủ lực trong việc cung cấp TTTP chính thống, chân thực,
chính xác, đầy đủ, thường xuyên, liên tục để đảm bảo người dân “ứng phó” với
những tin đồn và những luồng thông tin sai trái.
Trong các loại hình báo chí, truyền hình vẫn là loại hình thế mạnh thu hút và
ảnh hưởng sâu rộng đối với công chúng ở Việt Nam hiện nay. TTTP được phát
sóng trên VTV1, Đài Truyền hình Việt Nam hay kênh truyền hình chuyên biệt
ANTV của Bộ Công an luôn là kênh thông tin được đông đảo công chúng tin cậy,
đón nhận. Sở dĩ hai kênh truyền hình này chiếm ưu thế vượt trội so với các kênh
truyền hình, cơ quan báo chí khác khi phản ánh TTTP do đây là 02 trong 07 kênh
truyền hình thiết yếu của quốc gia với bề dày uy tín cùng với ưu thế về thông tin khi
có mạng lưới cộng tác viên từ công an toàn quốc, đài truyền hình khu vực, đài PT-
TH địa phương nên TTTP luôn tin cậy, đa chiều, bao quát mà các kênh truyền hình
và nhiều cơ quan báo chí khác không có được.
Trong bối cảnh hiện nay, việc làm rõ lý luận và thực tiễn, cũng như ảnh
hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng ở Việt Nam là rất cần thiết. Trên
cơ sở đó, luận án đưa ra những giải pháp phù hợp, có tính khả thi nhằm nâng
cao ảnh hưởng tích cực thay đổi nhận thức, thái độ, và hành vi đối với công
chúng của TTTP trên báo chí nói chung, truyền hình nói riêng. Vì vậy, nghiên
cứu sinh lựa chọn đề tài: “Ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình
đối với công chúng ở Việt Nam” (Khảo sát kênh VTV1, ANTV năm 2016, 2017)
3
nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng ảnh hưởng và rút ra những thành công và
hạn chế trong việc phản ánh TTTP; làm cơ sở đề xuất những giải pháp nâng
cao sự ảnh hưởng tích cực của TTTP trên TH đối với công chúng trong thời
gian tới; đáp ứng được tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận về ảnh hưởng của TTTP
đối với công chúng; khảo sát, nghiên cứu thực trạng ảnh hưởng của TTTP trên TH
đối với công chúng; đề xuất các giải pháp nâng cao sự ảnh hưởng tích cực của TTTP
trên TH đối với công chúng ở Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước có liên quan đến
hiệu quả, ảnh hưởng của báo chí - truyền thông, ảnh hưởng của TTTP đối với công
chúng và rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
- Hệ thống hóa, phân tích, luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận liên quan
đến đề tài nghiên cứu; xây dựng, hình thành khung lý thuyết, công cụ khảo sát, đánh
giá sự ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng.
- Khảo sát, điều tra xã hội học về thực trạng ảnh hưởng của TTTP trên TH
đối với công chúng; Rút ra những thành công, hạn chế, nguyên nhân hạn chế của
TTTP trên TH đối với công chúng.
- Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, luận án xác định những vấn đề đặt ra
hiện nay đối với sự ảnh hưởng của TTTP trên TH, đề xuất các nhóm giải pháp nâng
cao sự ảnh hưởng tích cực của TTTP trên TH đối với công chúng.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự ảnh hưởng của TTTP trên kênh truyền hình VTV1 và ANTV đối với công
chúng ở Việt Nam.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án khảo sát TTTP trong các chương trình: Chuyển động 24h
(11h15), Thời sự (19h) trên kênh truyền hình VTV1; An ninh ngày mới (6h00),
113 Online (11h30), Thời sự an ninh (18h15) trên kênh truyền hình ANTV trong
2 năm 2016-2017.
- Luận án tập trung nghiên cứu, khảo sát đại diện công chúng tại 03 vùng địa
lý Bắc - Trung - Nam với 2 thành phố trực thuộc trung ương có tỷ lệ tội phạm diễn
ra nhiều nhất là Hà Nội và TPHCM. Tại khu vực miền Trung, tác giả lựa chọn Đắk
Lắk để khảo sát vì địa bàn này có số lượng dân di cư đông, tình hình ANTT phức
tạp, tỷ lệ tội phạm luôn ở mức cao so với các tỉnh, thành phố trong khu vực hoặc có
những đặc điểm tương đồng như: Lâm Đồng, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Ninh
Thuận, Bình Thuận…
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Hệ thống lý luận và phương pháp đánh giá phù hợp để xác định thực trạng
ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng?
- Truyền hình, trong đó VTV1, ANTV có được công chúng xác định là kênh
thông tin quan trọng, hàng đầu trong công tác tuyên truyền, đảm bảo an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội?
- Thực trạng ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng ở Việt Nam
hiện nay? Thông tin tội phạm trên truyền hình tạo được ảnh hưởng tích cực như thế
nào đến nhận thức, niềm tin và hành động của công chúng? Công chúng có bị ảnh
hưởng tiêu cực từ TTTP trên TH hay không?
- Những yếu tố nào tác động đến sự ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với
công chúng?
- Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của TTTP trên TH đối với công
chúng hiện nay xuất phát từ một hệ thống những nguyên nhân khách quan và chủ
quan, cần phải được làm rõ để từ đó có thể đề xuất những giải pháp khả thi nhằm
5
nâng cao ảnh hưởng tích cực của TTTP trên TH đối với công chúng ở Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay?.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở nhận thức luận những vấn đề lý luận Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí, truyền thông đại chúng với hai chức năng chính
là tuyên truyền, cổ vũ tinh thần của công chúng, hướng công chúng đến mục đích
chung là được cung cấp TTTP, pháp luật trên cơ sở đó thay đổi nhận thức, thái độ
và hành vi để xây dựng một xã hội thượng tôn pháp luật. Hệ thống lý luận này được
thể hiện cụ thể trong đường lối, chính sách về báo chí của Đảng và Nhà nước trong
giai đoạn hiện nay. Đây cũng chính là những căn cứ để luận án dựa vào nhằm đánh
giá ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng được nghiên
cứu dựa trên nền tảng kết hợp của các lý thuyết phổ biến trong lĩnh vực truyền thông
và truyền thông liên ngành sau:
- Lý thuyết “Sử dụng và hài lòng”: công chúng chủ động chọn “tiêu thụ”
những sản phẩm truyền thông một cách có ý thức nhằm thỏa mãn những nhu cầu
cụ thể của cá nhân; thông qua phân tích động cơ tiếp xúc với phương tiện truyền
thông của công chúng và sự tiếp xúc này đã thỏa mãn được những nhu cầu gì của
họ để khảo sát những lợi ích mà truyền thông đại chúng đem lại cho tâm lý và hành
vi của con người. [86].
Lý thuyết “Sử dụng và hài lòng” tạo cơ sở để tác giả phân tích các vấn đề:
công chúng có thường xuyên theo dõi truyền hình VTV1, ANTV hay không; nhu
cầu của công chúng khi tiếp cận với truyền hình và mức độ hài lòng của công chúng
đối với truyền thông xét theo một số tiêu chí về nội dung và hình thức cụ thể.
- Lý thuyết “Định hình chương trình nghị sự”: Theo lý thuyết này, truyền
thông đại chúng có thể không trực tiếp tạo ra dư luận xã hội, nhưng lại có khả năng
xác định chương trình nghị sự (agenda setting) cho dư luận xã hội [42]. Lý thuyết
6
định hình chương trình nghị sự được vận dụng phổ biến và có hiệu quả trong các
chiến dịch truyền thông thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi đối với những mục tiêu
và đối tượng xác định. Theo lý thuyết này, vấn đề nào được truyền thông định hình,
được làm nổi bật thì vấn đề đó được quan tâm, chú ý, bàn luận trong dư luận xã hội.
Lý thuyết “Định hình chương trình nghị sự” là cơ sở để tác giả luận án tìm
hiểu sự ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng; các yếu tố tác động đến
sự ảnh hưởng của TTTP đối với công chúng...
- Lý thuyết chức năng: Trong lý thuyết chức năng, nhà xã hội học Robert K.
Merton phân biệt giữa “chức năng” (function) và “loạn chức năng” (dysfunction).
Chức năng là cái làm cho một hệ thống duy trì được sự tồn tại của mình và tiếp tục
vận hành trôi chảy. Loạn chức năng là cái gây cản trở cho quá trình đó. Một hoạt
động có thể vừa có những chức năng lẫn những loạn chức năng. Trong nhiều trường
hợp, những thông tin loan truyền trên các phương tiện truyền thông thay vì đóng
vai trò cảnh báo đối với người dân, thì ngược lại, có thể gây ra hậu quả là làm gia
tăng nỗi âu lo và hoang mang đối với một số tầng lớp xã hội, nhất là khi phát sóng
dồn dập những tin cướp tài sản, giết người, hiếp dâm, lừa đảo...
Để hạn chế những tính chất “loạn chức năng” của thông tin đại chúng, người
ta luôn luôn nhấn mạnh đến trách nhiệm (xét về mặt xã hội học thì đây là chức năng)
hướng dẫn dư luận của các phương tiện truyền thông. Chức năng này được thực
hiện thông qua việc chọn lọc những tin tức để phát sóng, cùng với việc cung cấp
những giải thích và bình luận cần thiết kèm theo các tin tức cho bạn đọc, cho khán
thính giả [61, tr.255].
Lý thuyết này giúp tác giả phân tích sự ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực,
giải pháp nâng cao sự ảnh hưởng tích cực của TTTP trên TH đối với công chúng…
- Lý thuyết “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm”:
Những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, tư tưởng, chính trị, văn hóa, giáo dục… dẫn đến sự hình thành các
quan điểm cá nhân mang tính chống đối xã hội và từ quan điểm cá nhân này sẽ dẫn
7
đến hành vi phạm tội. Tội phạm học còn tìm ra các điều kiện, các hiện tượng có vai
trò ngăn ngừa sự ảnh hưởng của các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm và
khám phá ra cơ chế tác động qua lại giữa nguyên nhân và điều kiện với nhau dẫn
đến thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Lý thuyết “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm” giúp nghiên
cứu sinh đưa ra những chỉ báo nhằm nâng cao sự ảnh hưởng tích cực của TTTP trên
TH đối với công chúng, đó là từ nhận thức nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm, công chúng có thể thay đổi thái độ và hành vi, tự giác chấp hành pháp
luật trong thực tiễn cuộc sống.
- Lý thuyết “Phòng ngừa tội phạm và các hệ thống phòng ngừa tội phạm”:
Căn cứ vào tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm,
nhân thân người phạm tội, tội phạm học có thể đưa ra hệ thống các, biện pháp mang
tính nhà nước và xã hội để phòng ngừa tội phạm có hiệu quả; những phương hướng
cơ bản của hoạt động phòng ngừa. Qua đó tội phạm học cũng nghiên cứu xây dựng
hệ thống các chủ thể thực hiện công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và các
nguyên tắc về tổ chức công tác phòng ngừa, kế hoạch hoạt động phòng ngừa…
Lý thuyết này là cơ sở để tác giả luận án đưa ra một số giải pháp nâng cao sự
ảnh hưởng tích cực của TTTP trên TH đối với công chúng. Các phương tiện truyền
thông đại chúng chú trọng nêu bật công tác phòng ngừa tình hình tội phạm cũng là
một nội dung quan trọng trong việc nâng cao ảnh hưởng tích cực của TTTP trên TH
đối với công chúng [82].
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích nội dung,
lịch sử - logic, phỏng vấn, điều tra xã hội học... Cụ thể như sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được tiến hành thông
qua việc sưu tầm, tuyển chọn, nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu các công trình khoa
học, sách, bài báo khoa học, tác phẩm báo chí, quan điểm, đường lối của Đảng,
Nhà nước về nội dung liên quan đến báo chí, truyền hình, tội phạm, ảnh hưởng của
8
TTTP... Trên cơ sở đó, nghiên cứu sinh hệ thống hóa luận điểm, so sánh, minh họa
cùng các kết quả khảo sát của mình, từ đó đưa ra quan điểm của cá nhân để khẳng
định khung lý thuyết của vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích nội dung: Trên cơ sở phân tích hệ thống văn bản,
báo cáo tổng kết thực tiễn, các tác phẩm báo chí, ý kiến trưng cầu về sự ảnh hưởng
của TTTP trên TH đối với công chúng, luận án tổng hợp vấn đề, rút ra những kết
luận, nhận định về ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử-logic: dùng để tìm nguồn gốc phát sinh
(nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh nảy sinh), quá trình phát triển và biến hóa (điều kiện,
hoàn cảnh, không gian, thời gian… có ảnh hưởng) để phát hiện bản chất và quy
luật vận động của sự ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng.
Nghiên cứu lịch sử-logic vấn đề là cơ sở để phát hiện những thành tựu lý
thuyết đã có nhằm kế thừa, bổ sung và phát triển các lý thuyết đó, hoặc phát hiện
những thiếu sót, không hoàn chỉnh trong các tài liệu đã có… từ đó xác định vị trí đề
tài nghiên cứu của tác giả.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (Anket)
* Đối với công chúng: Phương pháp này được tiến hành thông qua việc lập
phiếu điều tra nhằm thu nhận các ý kiến, đánh giá của công chúng về đối tượng
nghiên cứu của đề tài.
Quy mô điều tra xã hội học thông qua phỏng vấn bằng bảng hỏi với 600 mẫu,
phân bổ theo 03 tỉnh, thành phố thuộc 3 vùng địa lý Bắc - Trung - Nam có tỷ lệ tội
phạm xảy ra cao nhất là Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đắk Lắk. Cụ thể:
+ Mỗi tỉnh/thành phố: 200 mẫu.
+ Mỗi tỉnh/thành phố chọn 2 quận/huyện/thành phố trực thuộc tỉnh, với cơ
cấu thành thị - nông thôn (100 mẫu/quận - huyện - thành phố trực thuộc tỉnh).
+ Mỗi quận/huyện/thành phố trực thuộc tỉnh chọn 2 phường/xã, với cơ cấu
ngành nghề khác nhau (50 mẫu/phường - xã).
+ Mỗi phường/xã chọn 2 khu/tổ/thôn dân cư để tiến hành điều tra.
9
+ Phương pháp chọn mẫu: Với số lượng dân cư tại 3 tỉnh, thành phố rất lớn,
do điều kiện nghiên cứu của cá nhân, nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp chọn
mẫu ngẫu nhiên. Các xã, phường, thôn, tổ dân phố, khu phố lựa chọn ngẫu nhiên
khi điều tra, tại các địa điểm này tiếp tục lựa chọn ngẫu nhiên cá nhân để khảo sát...
Cụ thể như sau:
+ TP Hà Nội: Cơ cấu đơn vị hành chính được lựa chọn gồm:
STT Quận/Huyện Đặc điểm Xã/Phường
Quận Tây Hồ là trung tâm dịch vụ
Quận Tây Hồ - du lịch, trung tâm văn hoá, là Phường Yên Phụ 1
vùng bảo vệ cảnh quan thiên nhiên
của Thủ đô Hà Nội.
Quận Bắc Từ Liêm được thành lập Phường Cổ Nhuế 2
năm 2013. Kinh tế phát triển mạnh (thành lập trên cơ sở
2 Quận Bắc Từ theo cơ cấu dịch vụ - công nghiệp sát nhập một phần xã
Liêm - nông nghiệp, trong đó nông Cổ Nhuế và một phần
nghiệp vẫn giữ tỷ trọng lớn. Văn thị trấn Cầu Diễn,
hóa làng xã vẫn còn phổ biến. huyện Từ Liêm)
+ TP Hồ Chí Minh: Cơ cấu đơn vị hành chính được lựa chọn gồm:
STT Quận/Huyện Đặc điểm Xã/Phường
Quận 7 là quận nội thành của TP Hồ Chí
Minh với cơ cấu kinh tế là thương mại - Phường
1 Quận 7 dịch vụ, công nghiệp - tiểu thủ công Phú Mỹ
nghiệp có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội và trình độ dân trí cao.
Nhà Bè là một huyện phía đông nam TP
2 Huyện Nhà Hồ Chí Minh. Nông nghiệp vẫn đóng vai Xã
Bè trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của Phước Kiển
huyện Nhà Bè
10
+ Đắk Lắk: Cơ cấu đơn vị hành chính được lựa chọn gồm:
STT TP/Huyện Đặc điểm Xã/Phường
Thành phố Buôn Ma Thuột là trung tâm
văn hóa, kinh tế, chính trị của tỉnh Đắk
1 TP Buôn Ma Lắk cũng như của vùng Tây Nguyên. Địa Phường
Thuột bàn thành phố có 40 dân tộc cùng sinh Tân Lợi
sống, trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng
85% và 15% còn lại là người dân tộc khác.
Huyện Cư M’gar có vị trí quan trọng, giàu
tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế xã
2 Huyện Cư hội. Dân số toàn huyện trên 162.000 Thị trấn
M’gar người, 25 dân tộc anh em với nhiều nền Quảng Phú
văn hóa phong phú, đa dạng sinh sống ở
17 xã, thị trấn.
* Đối với TTTP trên VTV1 và ANTV: Phương pháp này được tiến hành
thông qua việc lập bảng mã phân tích tin, bài về TTTP trong 5 chương trình: Chuyển
động 24h, Thời sự 19h (VTV1); An ninh ngày mới, 113 Online, Thời sự an ninh
(ANTV) trong 2 năm 2016-2017.
- Phương pháp thảo luận nhóm: Để có được kết quả khách quan, tác giả luận
án tiến hành tọa đàm, thảo luận nhóm công chúng... về các vấn đề chính liên quan
đến thực trạng ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng.
Quy mô thảo luận nhóm: mỗi phường/xã trong diện khảo sát tổ chức 03 cuộc
thảo luận (cán bộ viên chức phường xã; cán bộ khu phố/thôn; người dân), mỗi cuộc
thảo luận có từ 6-8 người. Nghiên cứu sinh và cộng sự đã thực hiện 18 cuộc thảo
luận với 133 người tham gia.
- Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm được tiến hành đối với công
chúng tham gia các cuộc thảo luận nhóm tại 3 tỉnh, thành phố khảo sát. Phương
pháp này thực hiện theo các bước sau:
11
+ Bước 1: Cung cấp thông tin tội phạm thông qua 06 tin, phóng sự do VTV1,
ANTV sản xuất.
+ Bước 2: Đánh giá nhanh ảnh hưởng của thông tin bằng phiếu thực nghiệm
tại thời điểm cung cấp.
+ Bước 3: Đánh giá ảnh hưởng của thông tin bằng điện thoại tại thời điểm
một tháng sau khi cung cấp.
Số lượng phiếu thực nghiệm phát ra là 133 phiếu, số lượng phiếu thu về là 133.
- Phỏng vấn sâu: Phương pháp này được tiến hành thông qua việc phỏng
vấn sâu những nhà quản lý, chuyên gia, nhà báo, người có uy tín liên quan đến đối
tượng nghiên cứu của luận án, nhằm đánh giá thực trạng ảnh hưởng của TTTP trên
TH đối với công chúng, chỉ ra những thế mạnh, hạn chế, đồng thời đưa ra những
giải pháp nhằm nâng cao sự ảnh hưởng tích cực của TTTP trên TH đối với công
chúng. Tổng số 15 phỏng vấn sâu với 10 nhà báo, 04 lãnh đạo quản lý báo chí, 01
mục sư Tin Lành.
* Kĩ thuật xử lý thông tin và số liệu điều tra:
Dữ kiện thu thập được từ việc điều tra bằng bảng hỏi, bảng mã phân tích,
thảo luận nhóm, phiếu thực nghiệm và phỏng vấn sâu được tổng hợp và phân tích
theo các hướng sau:
+ Đánh giá định lượng: Dữ liệu trả lời của công chúng được cộng sự mã
hoá, nhập liệu và xử lý với phần mềm SPSS 16.0. Dựa trên các số liệu có được,
nghiên cứu sinh mô tả và phân tích kết quả nghiên cứu dưới dạng tần suất và tỉ lệ
để thuận tiện cho việc đo lường, so sánh và khái quát hoá.
+ Phân tích định tính: Các câu hỏi mở (công chúng tự điền trong bảng hỏi)
và nội dung các cuộc thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu được ghi chép, phân tích theo
nhóm để thấy được những hướng nổi trội, đồng thời cùng được sử dụng làm ví dụ
để phân tích trong một số trường hợp cần viện dẫn.
Sau khi khảo sát và xử lý dữ liệu, nghiên cứu sinh căn cứ vào mục đích, nhiệm
vụ của luận án để đánh giá sự ảnh hưởng của TTTP trên kênh VTV1, ANTV trong
2 năm 2016-2017 đối với công chúng, kiểm định câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra.
12
6. Đóng góp khoa học của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần:
- Xây dựng những vấn đề lý luận liên quan đến TTTP, sự ảnh hưởng của
TTTP trên TH đối với công chúng, vai trò của truyền hình trong việc phổ biến,
tuyên truyền đấu tranh, phòng ngừa tội phạm...
- Kết quả khảo sát, phân tích, đánh giá về TTTP trên VTV1, ANTV, cùng
việc nghiên cứu lý thuyết khẳng định rõ thế mạnh, hạn chế của TTTP trên TH.
- Xác định thực trạng ảnh hưởng của truyền hình trong phản ánh TTTP hiện
nay. Trên cơ sở phân tích sự ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng, luận
án khẳng định lợi thế của truyền hình trong việc phát huy thế mạnh trong cuộc cạnh
tranh với các loại hình báo chí khác và truyền thông xã hội hiện nay.
- Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hóa lý thuyết về TTTP, ảnh hưởng của
TTTP trên TH đối với công chúng, khảo sát, đánh giá sự ảnh hưởng của TTTP trên
TH đối với công chúng, luận án là sự tổng hợp đầu tiên trong nghiên cứu về ảnh
hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng ở Việt Nam hiện nay.
- Thông qua các kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra các giải pháp nâng cao
sự ảnh hưởng tích cực của TTTP trên TH đối với công chúng.
- Những kết quả nghiên cứu mới của luận án góp phần định hướng TTTP
trên báo chí trong thực tiễn nhất là trong bối cảnh bùng nổ các loại hình thông tin
hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài “Ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình đối với công
chúng ở Việt Nam” (Khảo sát kênh VTV1, ANTV năm 2016, 2017) có những ý
nghĩa cụ thể sau:
- Ý nghĩa lý luận
+ Việc nghiên cứu đầy đủ, toàn diện, có hệ thống sự ảnh hưởng của TTTP
trên TH đối với công chúng, luận án sẽ đánh giá tổng thể tình hình, thực trạng ảnh
hưởng của TTTP, từ đó rút ra những đặc trưng, đặc điểm và thế mạnh của truyền
hình trong việc cung cấp TTTP; đưa ra những điểm thành công, hạn chế của TTTP
13
đối với công chúng, đề xuất giải pháp nâng cao ảnh hưởng tích cực của TTTP trong
tương lai; đề xuất bộ quy tắc khi nhà báo phản ánh thông tin tội phạm...
+ Luận án góp phần làm phong phú hơn về lý luận và thực tiễn ảnh hưởng
của TTTP trên báo chí nói chung, truyền hình nói riêng đối với công chúng trong
bối cảnh cạnh tranh thông tin nhất là truyền thông xã hội đang có xu thế lấn lướt,
lôi kéo công chúng.
- Ý nghĩa thực tiễn
+ Luận án là cơ sở tham khảo cho những nhà quản lý về lĩnh vực thông tin,
tuyên truyền kiến thức về phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm cũng như
góp phần nâng cao chất lượng, ảnh hưởng tích cực của TTTP trên TH cũng như các
loại hình báo chí khác.
+ Những kết quả của luận án là tài liệu tham khảo bổ ích, tin cậy đối với sinh
viên, học viên, nghiên cứu sinh khi nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến hoạt
động truyền thông về luật pháp, tội phạm ở Việt Nam hiện nay.
+ Có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà báo, phóng viên, biên
tập viên, những ai quan tâm đến chủ đề này.
+ Luận án có thể vận dụng, áp dụng vào việc giải quyết những vấn đề đang
đặt ra đối với công tác tuyên truyền phòng chống tội phạm trong bối cảnh hiện nay.
+ Đóng góp số liệu, thông tin cho hệ thống thư viện, phòng lưu trữ, nhà
văn hóa...
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận án gồm
có Tổng quan và 3 chương 11 tiết.
- Chương 1: Lý luận về ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình
đối với công chúng.
- Chương 2: Thực trạng ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình
đối với công chúng.
- Chương 3: Giải pháp nâng cao ảnh hưởng tích cực của thông tin tội phạm
trên truyền hình.
14
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng ở Việt Nam
là một đề tài mới, chưa có những công trình tương tự cả trong nước và trên thế giới.
Tuy nhiên xét trên phạm vi rộng, một số công trình nghiên cứu trong nước và ngoài
nước về hiệu ứng, hiệu quả, tác động của truyền thông và một số nghiên cứu về tác
động, ảnh hưởng của tin tức tội phạm trên báo chí đối với công chúng có thể gợi
mở một số vấn đề có liên quan đến đề tài. Những thống kê, so sánh, phân tích trong
phần tổng quan này mới dừng lại ở phạm vi hẹp, chưa thể bao quát và đầy đủ tất cả
các công trình có liên quan ở trong nước và trên thế giới.
1.1. Các nghiên cứu về hiệu ứng, hiệu quả, tác động của báo chí đối với
công chúng
1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Nhiều nước phương Tây quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực nghiên cứu hiệu ứng
của các phương tiện truyền thông đại chúng (media effects) từ giai đoạn Chiến tranh
Thế giới thứ II. Trong giai đoạn này, các nhà nghiên cứu quan tâm đến tầm quan
trọng và hiệu quả của truyền thông trong việc đưa tin đến công chúng về những vấn
đề của quốc gia trong giai đoạn chiến tranh như việc sử dụng thực phẩm và chất
đốt, thuyết phục người dân chi tiêu tiết kiệm, khuyến khích mua trái phiếu... Mục
tiêu của hầu hết các nghiên cứu truyền thông trong giai đoạn này là nhằm tìm hiểu
hiệu quả sự tác động của truyền thông đối với công chúng. Từ các cơ chế tác động
của truyền thông đại chúng lên công chúng, các nhà hoạt động truyền thông xác
định những cách thức truyền thông thông qua các phương tiện truyền thông đại
chúng để đạt hiệu quả mong muốn. Nhìn chung, truyền thông được xem là có hiệu
quả khi thông điệp truyền thông khiến cho công chúng thay đổi hành vi, nhận thức,
tình cảm đúng với ý đồ của chủ thể truyền thông.
Các tác giả Dom và South (1985) sau khi nghiên cứu hơn 400 bài báo, sách,
báo cáo có các hình ảnh và nội dung liên quan đến việc uống rượu đã đưa ra kết
15
luận rằng: không thể kết luận truyền thông có ảnh hưởng đến việc một số người
uống rượu bia nhiều hơn hay ít hơn [89, tr.232]. Còn nhà nghiên cứu Flay (1987)
sau khi đánh giá ảnh hưởng của 56 chiến dịch truyền thông đại chúng thông qua các
phương tiện báo chí về việc bỏ thuốc lá, ông nhận thấy rằng các chiến dịch này chưa
đạt hiệu quả cao trong việc thay đổi thói quen hút thuốc của người dân nhưng vẫn
có những tác động đến sự hiểu biết của công chúng rằng hút thuốc là có hại cho sức
khỏe [90, tr.233].
Cũng trong giai đoạn này, lịch sử truyền thông thế giới có cách nhìn mới của
hai nhà nghiên cứu nổi tiếng người Pháp là Philippe Breton và Serge Proulx. Trong
cuốn “'Bùng nổ truyền thông - Sự ra đời một ý thức hệ mới” [58], hai ông đã phân
tích và chỉ rõ ảnh hưởng sâu sắc của truyền thông đại chúng đối với công chúng,
đồng thời đặc biệt lưu tâm đến vấn đề “khảo sát khâu tiếp nhận” với những phân
tích về tính chủ động trong tiếp nhận truyền thông của công chúng.
Bên cạnh việc tiếp tục tìm hiểu hiệu quả của các nội dung truyền thông từ
góc độ mong muốn của chủ thể truyền thông, giới nghiên cứu lại có xu hướng quan
tâm đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “công chúng đã làm gì với truyền thông?”. Đây
là khi các trường phái nghiên cứu theo học thuyết “Sử dụng và hài lòng” (Blunder,
Katz, 1974), hoặc học thuyết “Mã hoá và giải mã” (Hall, 1996) phát triển mạnh.
Trong đó, các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh sự chủ động của công chúng trong
việc tiếp nhận truyền thông để từ đó thấy được tác động của truyền thông. Hiệu quả
truyền thông được đánh giá và phân tích thông qua những tác động này. [49].
Hai nhà nghiên cứu Derzon, J. Lipsey, M. (2002) đã tiến hành nghiên cứu có
tên gọi: “Một nghiên cứu tổng hợp về hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với
việc thay đổi kiến thức, thái độ và hành vi sử dụng chất gây nghiện” về hiệu quả
của chiến dịch truyền thông kéo dài trong 5 năm của Ủy ban Chính sách quản lý
chất gây nghiện của Mỹ. Theo hai tác giả này, việc nghiên cứu hiệu quả truyền
thông cần dựa trên các yếu tố đầu vào (kênh truyền thông, nội dung thông điệp,
người phổ biến thông điệp, cách thức đưa tin, những thông tin bổ sung) và các yếu
16
tố đầu ra (đối tượng được đánh giá). Hai tác giả sử dụng biện pháp đo lường trước
và sau khi truyền thông trên các phương tiện khác nhau (video, truyền hình, báo in,
radio) để xác định hiệu quả truyền thông. Kết luận của nghiên cứu này cho thấy
truyền thông có hiệu quả trong việc làm thay đổi kiến thức và thái độ của công
chúng với các loại chất kích thích, nhưng chưa có nhiều hiệu quả trong việc thay
đổi hành vi nhất là khi hành vi này đã là thói quen [88, tr.231].
Trong tài liệu chuyên khảo “Cơ sở lý luận báo chí” (tập 2) của tác giả
E.P.Prô-khô-rốp (NXB Thông tấn, Hà Nội, năm 2005), ông nhấn mạnh vai trò của
công chúng. Cụ thể, tác giả dành toàn bộ chương IV để bàn về hiệu lực và tính hiệu
quả của báo chí. Theo ông, tính kết quả của báo chí là “mức độ báo chí đạt đến các
mục tiêu đáp ứng những nhu cầu của xã hội về thông tin đại chúng có tính đến
những khả năng thực tế của những người sản xuất thông tin, cũng như của những
người sử dụng thông tin” [24, tr.212]. Người sử dụng thông tin ở đây gồm có đông
đảo công chúng và các thiết chế xã hội. Tính kết quả của sự tác động của thông tin
lên công chúng là hiệu quả, còn tính kết quả của các tác động của thông tin đối với
các thiết chế xã hội được xem là hiệu lực. Trong chương này, tác giả cũng bàn về
những giải pháp nâng cao hiệu quả và hiệu lực của báo chí, bao gồm việc hiểu công
chúng, tìm ra những phương pháp chuyển tải thông tin phù hợp với các nhu cầu và
đồng thời cũng làm xuất hiện ở công chúng sự quan tâm tích cực. Tài liệu tham
khảo này cung cấp cho tác giả nền tảng lý thuyết vững chắc để khảo sát ảnh hưởng
tích cực của báo chí và truyền thông trong thực tế.
Denis McQuail (2015) là nhà nghiên cứu có nhiều công trình nổi tiếng về
truyền thông, nhiều nghiên cứu độc lập có giá trị về lĩnh vực công chúng. Trong
công trình “Mass Communication Theory” (Lý thuyết truyền thông đại chúng),
(Cornwall, Great Britain), ông nhấn mạnh tầm quan trọng của phương tiện truyền
thông đại chúng và làm thế nào để nó ảnh hưởng đến công chúng hơn là tập trung
vào các định nghĩa, mô hình chung. Liên quan đến đề tài, nghiên cứu sinh nhận
thấy: McQuail thảo luận chi tiết về nội dung cập nhật các lý thuyết, nghiên cứu mới
17
về truyền thông như khái niệm đại chúng, văn hóa đại chúng, bốn mô hình truyền
thông (four models of communication), khán - thính giả, độc giả đại
chúng (audience) - công chúng truyền thông và sự tác động của truyền
thông (effects), những vấn đề cấu trúc công chúng (audience structure), các kiểu
loại công chúng (types of audience), quy mô công chúng truyền thông... McQuail
nghiên cứu và chỉ ra tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông đại chúng -
làm thế nào để nó có ảnh hưởng đến cá nhân và xã hội mà không tập trung vào các
định nghĩa của các mô hình chung chung. Những lý thuyết này, giúp nghiên cứu
sinh xây dựng và phát triển khung lý thuyết về sự ảnh hưởng, tác động của truyền
thông đối với công chúng [86].
Tác giả Mitchell Stephens (2015) trong cuốn “Hơn cả tin tức - tương
lai của báo chí” (NXB TP Hồ Chí Minh) đã có những nghiên cứu độc đáo, đôi
khi có tính phê phán về báo chí đương đại. Stephens nhấn mạnh vào tư duy và
nhu cầu tư duy lại về báo chí đã từng là và có thể trở thành công việc gì. Tác
giả đặt vấn đề: Tạm biệt công thức “ai - cái gì - khi nào - ở đâu?” trong tương
lai. Tác giả cũng đề xuất một tiêu chuẩn mới: “báo chí trí tuệ” (wisdom
journalism) - một hỗn hợp của các hình thức đưa tin - độc quyền, táo bạo, điều
tra - với việc nắm bắt sự kiện đương thời một cách am hiểu, sâu sắc, có tính
diễn giải, thậm chí có chủ kiến kiên định... Các cách đặt vấn đề của cuốn sách
là những kiến thức quan trọng giúp nghiên cứu sinh tổng hợp những cách thức
đưa thông tin tội phạm đến công chúng hiện đại và thuyết phục [53].
Tác giả Jeff Ansell, Jeffrey Leeson (2016) trong cuốn sách “Khi bạn trở
thành tâm điểm của truyền thông” (NXB Thông tấn, Hà Nội) nêu: trong xã hội
công nghệ số như hiện nay, truyền thông chính là “con dao hai lưỡi”: vừa là
phương tiện đưa một sản phẩm, một thương hiệu đến gần hơn với người tiêu
dùng, vừa là “liều thuốc độc” giết chết một doanh nghiệp, một thương hiệu. Ai
cũng biết không phải mọi thông tin trên các phương tiện đại chúng đều chính
xác và là sự thật, nhưng để hiểu một cách có chọn lọc, kiểm soát được nó thì
18
rất hiếm người có thể làm được. Trong bối cảnh hiện nay, làm thế nào để thông
tin không là “con dao hai lưỡi”? Làm thế nào để truyền đạt thông điệp có hiệu
quả? Đây là những nội dung hữu ích, nghiên cứu sinh có thể tham khảo xây
dựng và đề xuất bộ quy tắc khi thông tin tội phạm [43].
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Theo tìm hiểu của nghiên cứu sinh, một số công trình nghiên cứu trong nước
đã có lý giải, phân tích khác nhau về hiệu quả truyền thông đại chúng, hiệu quả báo
chí và hiệu quả tác động của báo chí. Cụ thể như sau:
1.1.2.1. Tiếp cận từ bình diện báo chí học
- Tác giả Tạ Ngọc Tấn (2001) trong cuốn “Truyền thông đại chúng” (NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội) [70] nhìn nhận về hiệu quả của truyền thông đại chúng
như sau: truyền thông đại chúng tạo ra hiệu quả xã hội khi đạt được mục đích ban
đầu của mình (hoạt động truyền thông luôn luôn có tính khuynh hướng chính trị, có
tính toán). Hiệu quả xã hội này có ba mức độ khác nhau:
+ Mức độ thứ nhất là hiệu quả tiếp nhận: Đánh giá về số lượng, cách thức
tiếp cận và chấp nhận nguồn thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng.
Đây là cấp độ thấp nhất nhưng là điều kiện ban đầu để dần tới những cấp độ sau.
+ Mức độ thứ hai là hiệu ứng xã hội: Những biểu hiện của xã hội hình thành
do tác động của truyền thông đại chúng (từ những phản ứng tâm lý, trạng thái tình
cảm, dư luận xã hội đến những xáo động trong sinh hoạt, sự thay đổi về cách ứng
xử, những hành vi cụ thể của cá nhân và cộng đồng).
+ Mức độ thứ ba (mức độ cao nhất) là hiệu quả thực tế với những thay đổi,
vận động thực tế của đời sống xã hội dưới tác động của truyền thông đại chúng.
Đây là hiệu quả gián tiếp trong mối quan hệ với các tiến trình, các lĩnh vực khác
nhau trong xã hội cùng tác động vào công chúng [70, tr.28-31].
Theo tác giả, quá trình tiếp nhận thông tin của công chúng gồm 5 bước: thứ
nhất, tiền đề nhận thức của công chúng xã hội; thứ hai, sự quan tâm của đối tượng
đối với nguồn thông tin; thứ ba, sự đánh giá của công chúng xã hội đối với nguồn
19
thông tin; thứ tư, bước thử nghiệm của đối tượng được thực hiện trên thực tế hay
thông qua thí nghiệm tưởng tượng; cuối cùng, công chúng chấp nhận và điều chỉnh
hành vi xã hội của mình phù hợp với quy mô, tính chất và khuynh hướng của nguồn
tin. Theo tác giả, “việc nghiên cứu, nắm rõ tính chất, đặc điểm, nhu cầu của đối tượng
tác động bao giờ cũng là một trong những yếu tố hàng đầu của TTĐC” [70, tr.27].
Những lý luận của tác giả được sử dụng làm khung lý thuyết cho nhiều
nghiên cứu về hiệu quả truyền thông và công chúng truyền thông trong nước. Riêng
với luận án này, vấn đề hiệu quả truyền thông được đánh giá chủ yếu theo mức độ
thứ nhất (hiệu quả tiếp nhận). Với mức độ thứ hai và thứ ba, kết quả nghiên cứu chỉ
mang tính khám phá ở bước khởi đầu do tính chất khó tiếp cận của cộng đồng đối
tượng khảo sát.
- Các tác giả Đinh Văn Hường, Dương Xuân Sơn, Trần Quang (2004) xuất
bản giáo trình “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông” (NXB Đại học Quốc gia, Hà
Nội) trong đó có bàn về vấn đề hiệu quả báo chí. Theo các tác giả, hiệu quả của lao
động báo chí có những biểu hiện nhất định như khả năng tác động vào nhận thức
cũng như hành vi ứng xử của con người, tác động vào tâm lý xã hội, tác động vào
hành động thực tiễn, góp phần hình thành dư luận xã hội, xây dựng hệ tư tưởng chủ
đạo của xã hội, biến nhận thức thành hành động theo chiều hướng tích cực để xây
dựng xã hội tốt đẹp hơn [67, tr.170].
- Tác giả Lê Thanh Bình (2008) trong cuốn “Truyền thông đại chúng và phát
triển xã hội” (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội), khẳng định truyền thông đại chúng
tác động vào ý thức xã hội để hình thành và củng cố một hệ thống tư tưởng chính
trị lãnh đạo đối với xã hội, nó có nhiệm vụ liên kết các thành viên trong xã hội thành
một khối đoàn kết, một chỉnh thể trên cơ sở lập trường, thái độ chính trị chung [4].
- Trong tài liệu chuyên khảo “Báo chí truyền thông hiện đại - Từ hàn lâm
đến đời thường” (NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, năm 2011), tác giả Nguyễn
Văn Dững phân tích cơ chế tác động của báo chí sẽ dẫn đến hiệu quả tác động của
báo chí đến công chúng và từ đó dẫn đến hiệu lực của báo chí. Theo tác giả, hiệu
20
quả tác động của báo chí có liên quan đến ý thức quần chúng, trong đó bao gồm
nhận thức (chính trị), hiểu biết tri thức tổng hợp từ đó dẫn đến những thay đổi về
thái độ và hành vi. Khi nghiên cứu đánh giá hiệu quả truyền thông, tác giả cho
rằng có thể tiếp cận vấn đề này theo các bình diện như: giao diện, tần suất và cường
độ giao tiếp của công chúng với các sản phẩm báo chí truyền thông; năng lực tác
động, khả năng chi phối của các ấn phẩm báo chí đối với cộng đồng; mối quan hệ
phản hồi của công chúng với các thông điệp truyền thông; vai trò của báo chí trong
việc xã hội hoá cá nhân, trong việc hình thành, thể hiện diện mạo văn hoá cộng
đồng cũng như góp phần hoàn thiện nhân cách mỗi người; khả năng thuyết phục,
tập hợp và tổ chức công chúng tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội đang
đặt ra [15, tr.99]. Những nội dung này là tài liệu giá trị để tác giả tham khảo xây
dựng khung lý luận đồng thời cũng là nền tảng để nghiên cứu sinh đánh giá sự ảnh
hưởng của TTTP đối với công chúng.
- Tác giả Đỗ Chí Nghĩa (2012) trong cuốn “Vai trò của báo chí trong định
hướng dư luận xã hội”, (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội) đã đề cập đến những nội
dung: Vai trò định hướng dư luận xã hội của báo chí; Thực trạng định hướng dư
luận xã hội của báo chí và những vấn đề đặt ra... Tác giả cũng nhấn mạnh đến việc
nghiên cứu công chúng trên bình diện tâm lý:“Báo chí tác động vào dư luận bằng
hai con đường: lý trí và tình cảm, trong đó tác động vào tình cảm là quan trọng và
tác động vào lý trí là cơ bản” [57, tr.66]. Nhận định này rất quan trọng đối với việc
nghiên cứu ảnh hưởng của TTTP đối với công chúng của luận án.
- Trong luận án “Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng Hà
Nội” của tác giả Trần Bá Dung, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, năm 2008, tác
giả đề cập đến hệ thống lý thuyết về nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công
chúng; mô tả thực trạng nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng Hà
Nội; các nhân tố ảnh hưởng tới mô thức tiếp nhận. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu,
luận án dự báo một số xu hướng vận động của nhu cầu và đưa ra giải pháp nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động của báo chí.
21
- Luận án “Xu hướng tiếp nhận sản phẩm báo chí của công chúng Việt Nam”
của tác giả Lê Thu Hà, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, năm 2015, tác giả phân
tích khá kỹ về hoạt động nghiên cứu và hoạt động thực tiễn của: xu hướng tiếp nhận
sản phẩm báo chí của công chúng Việt Nam; các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng
tiếp nhận. Đồng thời, tác giả đã đưa ra một số dự báo về xu hướng tiếp nhận sản
phẩm báo chí của công chúng Việt Nam và giải pháp đáp ứng nhu cầu của công
chúng báo chí [29].
- Trong luận án “Hiệu quả truyền thông báo mạng điện tử tiếng Anh của
Việt Nam với công chúng nước ngoài” của tác giả Triệu Thanh Lê, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, năm 2015, tác giả đã thiết lập hệ thống khái niệm cơ bản
liên quan đến vấn đề nghiên cứu; đánh giá hiệu quả truyền thông của báo mạng điện
tử tiếng Anh của Việt Nam với nhóm công chúng nước ngoài sống tại Việt Nam
thông qua việc phân tích những đặc điểm về cách thức tiếp nhận thông tin của công
chúng này… Qua luận án này, tác giả đã tham khảo, kế thừa một số nội dung liên
quan đến hiệu lực, hiệu quả của truyền thông, các thành tố của chu trình truyền
thông, thang đo hiệu quả…[49].
- Bên cạnh các tài liệu chuyên khảo về lý thuyết, các nghiên cứu thực tiễn về
hiệu quả truyền thông tại Việt Nam cũng được nhiều cơ quan báo chí, tổ chức xã
hội tiến hành ở nhiều cấp độ khác nhau. Trong số các nghiên cứu liên quan đến thực
tiễn sử dụng truyền thông của công chúng, công trình “'Chân dung công chúng
thành phố Hồ Chí Minh qua khảo sát xã hội học” của tác giả Trần Hữu Quang đưa
ra nền tảng lý thuyết vững chắc và các kết quả cụ thể để rút ra kết luận về hiệu quả
của truyền thông đại chúng: “hiệu quả thực tế của truyền thông đại chúng đối với
người dân thường là một hiệu quả không đồng đều giữa các tầng lớp dân cư” [59,
tr.261]. Nghiên cứu của tác giả dựa trên lý thuyết “sử dụng và hài lòng” kết hợp với
cách tiếp cận cấu trúc và tiếp cận văn hoá đối với nhóm công chúng tại TP.HCM.
22
1.1.2.2. Tiếp cận từ bình diện xã hội học - tâm lý học
- Tác giả Mai Quỳnh Nam đã công bố nhiều công trình liên quan đến công
chúng học - một chuyên ngành mới của xã hội học Việt Nam. Ông xem xét mối
quan hệ giữa TTĐC và dư luận xã hội [54], từ đó phân tích mối quan hệ giữa báo
chí và công chúng, sự tác động của TTĐC đối với vai trò là phương tiện tổ chức và
vận động công chúng đối với việc hình thành - thể hiện dư luận xã hội và những
yêu cầu đổi mới hoạt động báo chí. Tác giả coi sự xuất hiện các phương tiện TTĐC
là yếu tố dẫn đến hình thành nền văn hóa đại chúng khi xem xét mối quan hệ văn
hóa đại chúng và văn hóa gia đình [55]. Nghiên cứu công chúng truyền thông,
không thể tách rời vấn đề nghiên cứu hiệu quả TTĐC [56] và nghiên cứu xã hội học
TTĐC đã trở thành một chủ đề cơ bản của xã hội học hiện đại.
- Công trình “Xã hội học về truyền thông đại chúng” (Đại học Mở TP Hồ
Chí Minh, năm 2006) của tác giả Trần Hữu Quang là công trình nghiên cứu tương
đối toàn diện, có hệ thống, trực tiếp về lĩnh vực xã hội học báo chí ở nước ta [60].
Tác giả trình bày có hệ thống cách tiếp cận xã hội học đối với các quá trình truyền
thông, đối với nghề báo, những tác động xã hội của truyền thông đại chúng, những
quan điểm và phương pháp nghiên cứu xã hội học về công chúng và nội dung truyền
thông về ảnh hưởng xã hội của truyền thông đại chúng. Trong đó, đáng chú ý là
phần (bài 4) “Nghiên cứu về công chúng” đã chỉ ra xu hướng nghiên cứu công chúng
ngày càng được hoàn thiện bằng cách đặt nó vào diện nghiên cứu liên ngành.
- Cũng tác giả Trần Hữu Quang trong cuốn “Xã hội học báo chí” (NXB Đại
học Quốc gia TPHCM, năm 2015) đã nghiên cứu một cách hệ thống về truyền
thông, truyền thông đại chúng, công chúng. Trong đó, tác giả phân tích khá cụ thể
về những nội dung: những nhóm độc giả nào đọc báo để theo dõi tin tức, mở mang
kiến thức và nhóm nào chủ yếu để giải trí? Không gian công cộng của truyền thông
đại chúng mang đặc điểm gì? Phải chăng các phương tiện truyền thông là nguồn
gốc dẫn đến tình trạng bạo lực ngày càng tăng và “xã hội thông tin” do internet tạo
ra chỉ là một thứ huyền thoại…?
23
Những nghiên cứu của tác giả Trần Hữu Quang đóng góp đáng kể trong lĩnh
vực nghiên cứu báo chí, bởi vì trước nay, có rất ít các công trình nghiên cứu được
triển khai theo phương pháp này. Những cách nhìn của nhà xã hội học về quá trình
truyền thông, nghề báo và hoạt động của nhà báo, đặc điểm và ứng xử của công
chúng truyền thông, tác động xã hội của truyền thông đại chúng… sẽ giúp tác giả
phát hiện thêm những khía cạnh mới mẻ, vận dụng các lý thuyết đó vào việc phân
tích, luận giải các vấn đề do thực tế đặt ra trong luận án này [61].
- Ở một nhóm công chúng đặc thù, tác giả Đỗ Thị Thu Hằng (2000) nghiên
cứu “Tâm lý tiếp nhận sản phẩm báo chí của công chúng thanh niên sinh viên hiện
nay” (khảo sát một số trường ĐH, CĐ tại Hà Nội) [34], trong đó lý giải những đặc
điểm, những vấn đề có tính quy luật trong tâm lý tiếp nhận của thanh niên, sinh viên
Việt Nam với các sản phẩm báo chí; nêu những kiến nghị nhằm tăng cường hiệu
quả tiếp nhận của nhóm đối tượng này.
- Tác giả Đỗ Thị Thu Hằng trong cuốn “Tâm lý học ứng dụng trong nghề
báo” (NXB Thông tấn, Hà Nội, năm 2013) khẳng định rất rõ về cơ chế ảnh hưởng
của tâm lý xã hội đến công chúng báo chí truyền thông; khẳng định sự hình thành
và tác động tâm lý xã hội đến từng cá nhân trong xã hội và các nhóm công chúng
theo bốn cơ chế sau: bắt chước, đồng nhất, dạy bảo và hướng dẫn. Điều đó cho thấy
báo chí đã tác động một cách có ý thức vào các đối tượng xã hội theo những cơ chế
nhất định [36].
1.1.2.3. Tiếp cận từ bình diện đạo đức báo chí
Khi nghiên cứu về hiệu quả của thông tin đại chúng đối với công chúng,
nhiều nhà nghiên cứu báo chí đã chỉ ra vấn đề đạo đức báo chí có vai trò rất quan
trọng trong việc hình thành một sản phẩm báo chí chân thực, khách quan, ảnh hưởng
tích cực đến công chúng.
- Trong cuốn “Đạo đức nghề nghiệp nhà báo” của tác giả Nguyễn Thị
Trường Giang (NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội, năm 2011) [27]. Tác giả cuốn
sách đưa ra các nhận thức, yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp đối với nhà báo Việt
24
Nam hiện nay. Đạo đức nghề nghiệp trong các mối quan hệ của nhà báo. Cuốn sách
cũng chỉ ra những biểu hiện vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo như: chạy
theo thông tin tiêu cực, đưa tin sai sự thật, lợi dụng danh nghĩa nhà báo phục vụ các
mục đích cá nhân... Đưa ra các nguyên nhân vi phạm và đề ra các giải pháp để nâng
cao đạo đức nghề nghiệp nhà báo. Trong cuốn sách cũng nêu ra một số vấn đề, ví
dụ cụ thể liên quan đến việc xâm phạm quyền con người, vi phạm Luật Báo chí tại
Việt Nam hiện nay, là những kiến thức rất hữu ích đối với đề tài nghiên cứu sinh
đang thực hiện.
- Trong cuốn “100 bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới” (NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2018) [28], tác giả Nguyễn Thị Trường Giang đã khái
quát đặc điểm của 100 bản quy tắc đạo đức nghề báo của các quốc gia, vùng lãnh
thổ, các cơ quan báo chí, các tổ chức xã hội nghề nghiệp của các nhà báo được lưu
hành rộng rãi trên thế giới. Những kiến thức này sẽ góp phần giúp nghiên cứu sinh
đề xuất bộ quy tắc khi nhà báo phản ánh thông tin tội phạm.
1.2. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của thông tin tội phạm đối với công chúng
1.2.1. Các nghiên cứu ở ngoài nước
Thực tế, nhiều thập niên qua, trên thế giới có không ít công trình nghiên cứu
các vấn đề về tội phạm và truyền thông; tội phạm và báo chí; nạn nhân trong tin tức;
tội phạm, truyền thông và luật pháp… Quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh
đã cố gắng tìm hiểu một số sách, giáo trình, chuyên khảo nguyên gốc Tiếng Anh
cũng như tìm hiểu thông tin trên mạng Internet liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Những thống kê, phân tích dưới đây chưa thể bao quát và đầy đủ tất cả các công
trình có liên quan trên thế giới.
1.2.1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu có liên quan
Qua tìm hiểu một số công trình khoa học, nghiên cứu sinh nhận thấy lịch sử
nghiên cứu về những ảnh hưởng, tác động của tin tức tội phạm đối với công chúng
đã được đề cập từ đầu thế kỷ XX và phải đến những thập kỷ cuối của thế kỷ XX
mới được nghiên cứu sâu rộng. Tuy nhiên những nghiên cứu này chủ yếu tập trung
25
xoay quanh những câu hỏi: Tin tức tội phạm là gì? Một số loại tội phạm trong tin
tức? Sự ảnh hưởng của truyền thông đối với tội phạm? Sai lệch trong tin tức tội
phạm? Tin tức tội phạm có thật sự ảnh hưởng xấu đến công chúng hay không? Nạn
nhân của tội phạm ảnh hưởng như thế nào đến truyền thông? Bạo lực trong đời thực
có phải do truyền thông đại chúng đem lại?
- Trong cuốn “Crime and the American Press” (Tội phạm và báo chí Mỹ),
tác giả Roy Edward Lotz (1991) nhấn mạnh, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX,
rất nhiều người đọc báo nghĩ rằng tin tức tội phạm có lợi cho toàn xã hội. Họ cho
rằng tin tức về các cuộc truy bắt tội phạm của cảnh sát, các bản án có tác dụng cảnh
báo những người có ý định phạm tội về những gì có thể đến với họ nếu phạm tội.
Nhiều nhà nghiên cứu đã tán thành luận điểm này, nhà báo Joseph Pulitzer (1847-
1911) là người nổi tiếng nhất. Ông cho rằng “Không có tội ác, không có thủ đoạn,
không có người bịp bợm, không có kẻ gian nào sống mãi trong bí mật. Hãy khai
thác chúng, mô tả chúng, tấn công chúng, chế nhạo chúng trên báo chí và... dư luận
sẽ cuốn chúng đi” [97, tr.16].
Tác giả Roy Edward Lotz cho rằng: Tin tức tội phạm có thể tác động không
nhiều đến những người có ý định phạm tội, tuy nhiên chúng có thể ảnh hưởng đáng
kể đến các nạn nhân tiềm năng, đặc biệt là những người thường xuyên theo dõi tin
tức liên quan đến tội phạm, những tin tức này có thể khiến họ nâng cao tinh thần
cảnh giác. Quá trình phân tích, tác giả đã có nhiều đánh giá về lịch sử, triết học, lý
thuyết và thực tế để rút ra những điểm chung nhất của tin tức tội phạm trên báo chí
Mỹ đồng thời chỉ ra một số tác động của tin tức tội phạm đối với tâm lý cộng đồng
nhất là sự ảnh hưởng của những tin tức sai lệch đối với công chúng.
- Liên quan đến những tranh luận về sự ảnh hưởng của tin tức tội phạm đối
với công chúng, các tác giả David Kidd-Hewitt and Richard Osborne (1995), trong
cuốn “Crime and the Media-The post-modern spectacle” (Tội phạm và phương tiện
truyền thông-Cảnh tượng thời hậu hiện đại) [84]. cho rằng từ những năm 1970, giới
học thuật đã có nhiều tranh luận xoay quanh bốn vấn đề:
26
+ Các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là truyền hình, thông qua mô
tả tội phạm, bạo lực, án mạng có thể được chứng minh là nguyên nhân chính hoặc
yếu tố góp phần quan trọng tạo ra hành vi tội phạm hay không?
+ Liệu các phương tiện truyền thông đại chúng có xây dựng và phản ánh thực
tế xã hội sai lệch hoặc có định kiến, làm mất uy tín đối với các nhóm hoặc cá nhân
cụ thể. Và trong quá trình này, báo chí có can thiệp vào các tổ chức, cơ quan quyền
lực nhà nước hay không?
+ Liệu các phương tiện truyền thông đại chúng có gây ra “sự hoảng loạn về
đạo đức” và khiến mọi người sợ hãi bằng cách đưa tin quá nhiều về tội phạm và
bạo lực.
+ Liệu tội phạm “có thật” và tội phạm “hư cấu” có tác động đến công chúng
giống nhau hay không?
- Bài viết của nhà nghiên cứu Linda Heath (Loyola University Chicago)
có nhan đề “Mass Media and Fear of Crime“ (Truyền thông đại chúng và nỗi
sợ tội phạm) đăng trên Tạp chí American Behavioral Scientist công bố tháng 2
năm 1996 cho rằng: Vào những năm 1960, đã nổ ra nhiều cuộc tranh luận quy
mô về những ảnh hưởng của truyền hình, báo chí và phim ảnh trong nhận thức
của công chúng về tội phạm cũng như sự sợ hãi của họ đối với tội phạm. Sự
phát triển của phương tiện truyền thông đại chúng kéo theo sự gia tăng phổ biến
của các chương trình truyền hình tái hiện tội phạm [94, tr.380]. Tác giả nhấn
mạnh mối quan hệ giữa xem truyền hình và sự sợ hãi tội phạm là phức tạp. Các
yếu tố như chương trình (tin tức, phim truyền hình…), độ tin cậy của người
xem, công lý được thực thi cuối chương trình, sự lo sợ về tội phạm trước khi
xem đều dẫn đến các mô hình phức tạp thay vì các hiệu ứng sợ hãi đơn giản.
Trong phần kết luận tác giả cho rằng: “Các nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu mối
quan hệ giữa việc sử dụng phương tiện truyền thông và nỗi sợ tội phạm cần
phải chú ý đến các đặc điểm của thông điệp, của khán giả và các biện pháp
phụ thuộc khác” [94, tr.383].
27
- Sarah E.H. Moore (2014) trong cuốn “Crime and the Media” (Tội phạm
và Truyền thông) cho biết: Trong một nghiên cứu ban đầu và có sức ảnh hưởng
về tin tức tội phạm ở Hoa Kỳ, Graber (1980: 26) đã phát hiện ra rằng ít nhất
25% tin tức tập trung vào tội phạm. Số lượng tin tức dành cho tội phạm trên
báo chí đã tăng lên trong vòng 25 năm qua - ít nhất là trong các quốc gia phát
triển. Schlesinger và Tumber (1994) đã đưa ra một quan sát tương tự: nghiên
cứu của họ dựa trên các cuộc phỏng vấn với các nhà báo và biên tập viên ở Anh
và kết luận rằng, kể từ những năm 1970, tội phạm đã trở thành một chủ đề tin
tức phổ biến hơn bao giờ hết [98, tr.15].
Một xu hướng tương tự cũng xảy ra ở Hoa Kỳ. Robert McChesney (1999)
đã phát hiện sự gia tăng rõ rệt hơn trong việc phát sóng trên truyền hình của Hoa
Kỳ các tin tức về tội phạm: Ông cho biết từ năm 1990 đến năm 1996 số lượng tin
tức tội phạm trên các chương trình tin tức tăng gấp 3 lần. Trung tâm Truyền thông
và Các sự kiện cộng đồng (CMPA), một tổ chức thực hiện nghiên cứu về công tác
truyền thông ở Hoa Kỳ đã nhận thấy rằng trong thập niên 1990 tội phạm là “chủ đề
lớn nhất của thập kỷ” trong khi đó tin tức về kinh tế đứng ở vị trí thứ hai (CMPA
tháng 7/tháng 8 năm 1997) [98, tr.16].
- Trong bài báo “Violance, Media Effects, and Criminology” (Bạo lực, Hiệu
ứng truyền thông và Tội phạm học) của tác giả Nickie Phillips đăng tải trên Tạp chí
Oxford Research Encyclopedia, Criminology and Criminal Justice
(oxfordre.com/criminology) xuất bản tháng 7 năm 2017, tác giả cho biết: Việc tranh
luận xung quanh sự tác động của truyền thông về bạo lực và tội phạm đã nổ ra trong
nhiều thập kỷ và không có dấu hiệu giảm. Nhiều nhà nghiên cứu về tội phạm học
quan tâm đặc biệt đến mối quan hệ giữa bạo lực trên các phương tiện truyền thông
và bạo lực trong đời thực. Một câu hỏi luôn được đặt ra bạo lực trên truyền thông
có gây ra sự hiếu chiến hoặc bạo lực trong thực tế hay không? Dường như một số
nhà nghiên cứu đồng thuận rằng tiếp xúc với bạo lực trên các phương tiện truyền
thông sẽ tác động đến sự hiếu chiến, hung hãn. Nghiên cứu trong tương lai sẽ tiếp
28
tục khám phá những cách thay đổi công nghệ, bao gồm sử dụng phương tiện truyền
thông xã hội ngày càng tăng, sẽ tác động đến sự hiểu biết và nhận thức của chúng
ta đối với tội phạm cũng như hành vi phạm tội [95].
1.2.1.2. Một số nghiên cứu về sự ảnh hưởng của thông tin tội phạm
- Tác giả Dennis Howitt (1998) trong cuốn “Crime, the media and law” (Tội
phạm, truyền thông và pháp luật), cho rằng: Tất cả chúng ta đều biết rằng các
phương tiện truyền thông đại chúng bị đổ lỗi gây ra tội ác, bạo lực. Thực tế, các
phương tiện truyền thông đã tạo ra chương trình nghị sự về các vấn đề tội phạm và
giúp công chúng hình thành sự hiểu biết về tội phạm. Tác giả đã tập trung phân tích,
làm rõ sự liên kết giữa phương tiện truyền thông và tội phạm; đưa ra một số lý
thuyết về tội phạm và phương tiện truyền thông; cách thức xây dựng hình ảnh tội
phạm… Về giải pháp, qua nghiên cứu, tác giả cho rằng về hiệu ứng tội phạm có thể
có của truyền thông có thể được giải quyết bằng cách kiểm soát chặt chẽ các video,
phim và các nội dung khiêu dâm, bạo lực [87].
- Tác giả Yvonne Jewkes (2004) trong cuốn “Media&Crime” (Truyền thông
và Tội phạm) cho biết: Nghiên cứu các tác động của truyền thông đối với công
chúng được phát triển từ hai lý thuyết chính: lý thuyết xã hội đại chúng và chủ nghĩa
hành vi. Cho dù chúng ta đi theo lý thuyết “tác động” nào về ảnh hưởng của truyền
thông, quyền lực của truyền thông, chúng ta cũng phải kết luận rằng hình ảnh truyền
thông không phải là thực tế; chúng là một phiên bản của thực tế được xác định về
mặt văn hóa và phụ thuộc vào hai yếu tố liên quan. Đầu tiên, đó là bức tranh gián
tiếp về “thực tế” được định hình bởi các quy trình sản xuất của các cơ quan truyền
thông và các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc của quá trình tạo ra tin tức, bất kỳ hoặc
tất cả những điều trên đều có thể ảnh hưởng đến hình ảnh về tội ác, người phạm tội
và hệ thống tư pháp hình sự trong tâm trí của công chúng. Yếu tố định hình thứ hai
trong việc sản xuất tin tức đó là: cơ quan truyền thông sàng lọc và lựa chọn các tin
tức, ưu tiên một số tin tức trong đó chỉnh sửa từ ngữ, lựa chọn lối diễn đạt sẽ được
chấp nhận (một số câu chuyện sẽ được xử lý nghiêm túc, một số khác có thể được
29
xử lý một cách hài hước hoặc mỉa mai) và quyết định những hình ảnh sẽ đi kèm
cùng nội dung. Thông qua quá trình này - được gọi là thiết lập chương trình nghị sự
truyền thông (agenda setting) - các biên tập viên và nhà báo sẽ lựa chọn, sản xuất
và trình bày tin tức theo một loạt các tiêu chí chuyên môn được sử dụng để xác định
“tính đáng được đưa thành tin” của một tin tức. Nếu một câu chuyện không chứa
ít nhất một số đặc điểm được coi là đáng được đưa thành tin, nó sẽ không xuất hiện
trên chương trình tin tức [103].
- Bài viết của các tác giả Ken Dowler and Thomas Fleming (Wilfrid Laurier
University); Stephen L. Muzzatti (Ryerson University) có nhan đề “Constructing
Crime: Media, Crime, and Popular Culture” (Xây dựng tin tức tội phạm: Truyền
thông, tội phạm và và văn hóa đại chúng) đăng trên Tạp chí Canadian Journal of
Criminology and Criminal Justice tháng 10 năm 2006 khẳng định: Một số sách
nghiên cứu và bài giảng về truyền thông và tội phạm đều cho rằng nhận thức xã hội
về tội phạm được hình thành thông qua tiếp xúc với nhiều hình thức truyền thông
khác nhau bao gồm cả truyền hình, phim ảnh, video và dịch vụ internet. Việc tiếp
thu kiến thức của công chúng đã thay đổi đáng kể trong 200 năm qua, từ kiến thức
đầu tiên về tội phạm và sự lệch lạc trong cộng đồng nông thôn và đô thị nhỏ đến
một xã hội tràn ngập thông tin như hiện nay nên khó có thể đánh giá những tác động
cụ thể nào đến với mỗi người. Do đó, khi chúng ta nói về “kiến thức về tội phạm”,
chúng ta cũng phải cụ thể về loại thông tin nào chúng ta nhận được và hình thức mà
thông tin này được trình bày [93, tr.137]. Các tác giả cũng đặt ra câu hỏi: Sự xâm
nhập quá mức của tội phạm vào cuộc sống của chúng ta thông qua các phương tiện
truyền thông ngày càng đông đảo và phổ biến đã dẫn đến các cuộc tranh luận về
việc liệu tin tức tội phạm, phim truyền hình có liên quan trực tiếp đến tình hình tội
phạm hay bạo lực ngoài xã hội hay không ?
- Nghiên cứu về tác động của truyền thông đối với công chúng, trong chương
2, cuốn “Crime, Justice and the Media” (Tội phạm, công lý và truyền thông), tác giả
Ian Marsh Gaynor Melville (2014) xem xét các quan điểm lý thuyết chính về
30
phương tiện truyền thông và tác động của nó nhất là sự ảnh hưởng của thời kỳ hậu
hiện đại và tội phạm văn hóa để áp dụng những điều này vào việc thể hiện tin tức
tội phạm. Chương 3, tác giả tập trung phân tích sự “hoảng loạn đạo đức” do truyền
thông mô tả tội phạm và vai trò của phương tiện truyền thông trong việc thiết lập
và duy trì sự hoảng loạn đó [91].
- Nghiên cứu sự ảnh hưởng của tin tức tội phạm lên hệ thống cảm xúc của
con người, tác giả Sarah E.H. Moore (2014) trong cuốn “Crime and the Media” (Tội
phạm và phương tiện truyền thông), cho rằng: Nếu chúng ta phản ứng một cách đầy
cảm xúc khi đọc hoặc xem một tin tức về tội phạm, có thể nói rằng nó đã tác động
đến chúng ta ở mức độ cơ bản; nếu chúng ta có thể nhớ lại câu chuyện này, chúng
ta có thể phỏng đoán một cách hợp lý rằng nó đi vào ý thức của chúng ta một cách
xa hơn; sau đó, nếu chúng ta tuyên bố hoặc thể hiện niềm tin, thái độ, hay sợ hãi sự
lặp lại của nó, câu chuyện đó đã ảnh hưởng đến chúng ta ở một mức độ sâu hơn
nữa; nếu chúng ta thay đổi hành vi của mình như là kết quả của niềm tin, thái độ,
hoặc nỗi sợ hãi đó (bằng cách nói lại với người khác, có suy nghĩ cảnh giác hoặc
bắt chước tội ác đó) thì có thể nói rằng sự tiếp nhận tin tức đó đã ảnh hưởng rất lớn
đến chúng ta [98, tr.32].
- Về vai trò của truyền thông đại chúng khi đưa tin về tội phạm, tác giả
Surette, R. (2015) trong cuốn “Media, Crime, and Criminal Justice” (Truyền thông,
tội phạm và pháp luật hình sự) [101] cho rằng: Với vai trò ngày càng tăng của truyền
thông trong phản ánh những tin tức về tội phạm và định hình nó thành thông tin giải
trí và tầm quan trọng của sự tương tác giữa phương tiện truyền thông và hệ thống
tư pháp hình sự ngày nay lớn hơn bao giờ hết. Tác giả đã khảo sát toàn diện sự
tương tác này và thể hiện tác động của nó, nhấn mạnh rằng mọi người sử dụng kiến
thức do phương tiện truyền thông để xây dựng một bức tranh về thế giới và sau đó
hành động dựa trên thực tế được xây dựng này. Tác giả cũng cung cấp một cầu nối
giữa các kết quả nghiên cứu truyền thông đại chúng có liên quan và thực tiễn tư
31
pháp hình sự, đồng thời sửa chữa những quan niệm sai lầm phổ biến về tác động
của phương tiện truyền thông đại chúng đối với tội phạm và công lý.
- Về sự ảnh hưởng, cũng như tác động của TTTP đối với công chúng, trong
bài báo “The Media, Crime Prevention and Urban Safety: A Brief Discussion on
Media Influence and Areas for Further Exploration” (Truyền thông đại chúng,
phòng chống tội phạm và an toàn đô thị: Luận bàn về ảnh hưởng của truyền thông
và một số lĩnh vực có liên quan), tác giả Vivien Carli (2010), International Centre
for Prevention of Crime, Canada nhận định truyền thông về tội phạm có hai mặt:
tiêu cực đó là làm công chúng sợ tội phạm, sợ bạo lực thậm chí làm cản trở đến
những chính sách phòng ngừa tội phạm [102, tr.2].
Ở mặt tích cực, tác giả cho rằng khi các phương tiện truyền thông đại chúng
phản ánh tin tức tội phạm có thể giúp công chúng nhận thức rõ thủ đoạn của tội
phạm và có ý thức phòng ngừa tội phạm, chính quyền có thể đưa ra những chính
sách để kiềm chế, đấu tranh, phòng chống làm giảm tội phạm [102, tr.5].
1.2.2. Các nghiên cứu trong nước
Cho đến nay theo tìm hiểu của nghiên cứu sinh, tại Việt Nam chưa có một
đề tài khoa học nào nghiên cứu về ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên báo chí
nói chung và truyền hình nói riêng đối với công chúng. Dưới góc độ nghiên cứu về
tội phạm học có một số sách, đề tài khoa học, bài báo khoa học liên quan đến đề tài
nghiên cứu sinh đang thực hiện. Điển hình là:
- Tác giả Nguyễn Xuân Yêm (tổng chủ biên) (2013), “Tội phạm học Việt
Nam”, (NXB Công an nhân dân, Hà Nội) [82] có ba tập sách bàn về những thành
tựu nghiên cứu lý luận tội phạm học trên thế giới và ở Việt Nam, đặc điểm tội phạm
học của một số loại, nhóm và tội phạm cụ thể, các chương trình quốc gia phòng
chống tội phạm của chính phủ. Những kiến thức này rất có giá trị đối với nghiên
cứu sinh trong việc xây dựng khung lý thuyết cho luận án.
- Bài báo: Báo chí đưa tin tội phạm không khéo phạm tội - Những điểm đáng
chú ý khi đưa tin tội phạm (Tạp chí Người làm báo, số tháng 7-2015) tác giả Đinh
32
Thị Thúy Hằng cho rằng: Đưa tin về tội phạm là một trong những lĩnh vực được
báo chí quan tâm bởi công chúng thường muốn đọc, nghe, xem thông tin tội phạm
vì muốn được nghe giải thích vì sao tội phạm đó xảy ra? Luật pháp đã bị vi phạm
như thế nào? người vi phạm pháp luật đã bị bắt và bị trừng phạt như thế nào? [33].
- Bài báo: Một số biểu hiện vi phạm nguyên tắc “suy đoán vô tội” trên báo
chí hiện nay (Tạp chí Nội chính số tháng 2-2018) tác giả Nguyễn Thị Trường Giang
- Nguyễn Thy Lệ cho rằng: “suy đoán vô tội” là một trong những nguyên tắc cơ bản
của tố tụng hình sự, góp phần hết sức quan trọng đối với việc bảo vệ quyền con
người. Tuy nhiên, trong thực tiễn báo chí vừa qua có không ít các nhà báo và tờ báo
đã có biểu hiện vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc này [26].
- Liên quan đến đề tài đáng chú ý có hai luận văn thạc sĩ báo chí học: “Chất
lượng chương trình về phòng chống tội phạm trên kênh truyền hình Công an nhân
dân (ANTV) hiện nay” của tác giả Lương Thị Thủy (Bảo vệ thành công tại Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, năm 2014) [74]; “Đặc điểm chương trình Hành trình
phá án trên ANTV” của tác giả Lê Bá Trường (bảo vệ thành công tại Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, 2014) [78]. Cả 2 luận văn mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu đặc
trưng, đặc điểm và thế mạnh của truyền hình trong tuyên truyền đấu tranh phòng
chống tội phạm, đánh giá chất lượng chương trình về phòng chống tội phạm và đưa
ra những phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng thông tin phòng chống tội
phạm trong các chương trình trên kênh ANTV. Hai luận văn chưa đưa ra được lý
luận, thực tiễn về TTTP, thực trạng ảnh hưởng của thông tin tội phạm, nhằm chỉ ra
những bất cập, tồn tại cũng như hiệu quả, ảnh hưởng của việc phản ánh thông tin
tội phạm trên truyền hình để từ đó làm cơ sở cho những giải pháp thấu đáo, hợp lý
trong công tác tuyên truyền phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm đến đông
đảo công chúng trên truyền hình hiện nay và trong tương lai.
- Luận văn thạc sĩ báo chí học với chủ đề: “Tính nhân văn trong thông tin về
vụ án trên chuyên đề An ninh thế giới hiện nay” của tác giả Đặng Thị Huyền (bảo
vệ thành công tại Học viện Báo chí và Tuyên truyên, năm 2015) [41] đề cập đến
33
nguyên tắc tính nhân văn trong khi thông tin về vụ án và đề cập tới các giải pháp
nhằm đảm bảo và gia tăng hàm lượng văn hóa, tính nhân văn trong thông tin vụ án
trên chuyên đề An ninh thế giới nói riêng và báo chí nói chung.
Ngoài những nghiên cứu kể trên, trong những năm gần đây một số tạp chí
cũng có bài viết đề cập đến những khía cạnh khác nhau của thông tin liên quan đến
tội phạm, đánh giá công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, hiệu quả công tác
tuyên truyền phòng chống tội phạm… Tuy nhiên, về mặt học thuật các công trình
này chưa đề cập đến sự ảnh hưởng của TTTP trên báo chí nói chung, trên truyền
hình nói riêng đối với công chúng.
1.3. Giá trị, hạn chế của các công trình nghiên cứu liên quan đến luận
án và những vấn đề cần tiếp tục làm sáng tỏ
1.3.1. Giá trị, hạn chế của các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
1.3.1.1. Giá trị của các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
Với một khối lượng lớn tri thức từ nhiều công trình nghiên cứu công phu về
truyền thông đại chúng, hiệu ứng, hiệu quả, tác động của báo chí với công chúng,
tin tức tội phạm đối với công chúng đã cho thấy tính thời sự, sức hấp dẫn hay tính
chất đặc biệt quan trọng của hướng nghiên cứu ảnh hưởng của thông tin tội phạm
trên báo chí đối với công chúng nói chung và ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên
truyền hình đối với công chúng nói riêng. Giá trị khoa học của một số lượng lớn
những tài liệu, công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về báo chí học, xã hội học,
tâm lý học, tội phạm học, tội phạm và truyền thông đã giúp cho tác giả trong việc
thực hiện đề tài luận án.
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy các công trình khoa học trong và
ngoài nước đã có những đóng góp quan trọng cả về lý luận và thực tiễn bằng việc
luận giải một số vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, các công trình nêu trên từ nhiều cách tiếp cận và phương pháp luận
giải khác nhau, các tác giả đã phân tích, góp phần làm sáng tỏ về hiệu quả, hiệu ứng,
tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng đối với công chúng; cơ chế
34
tác động của truyền thông đại chúng lên công chúng; hiệu quả tác động của TTĐC;
đạo đức trong thông tin báo chí... Từ những nghiên cứu trên, tác giả kế thừa, xây
dựng khung lý thuyết về ảnh hưởng của TTTP đối với công chúng.
Hai là, ở các mức độ khác nhau, dựa trên các kết quả nghiên cứu, khảo sát
thực tiễn, một số công trình đã đề cập đến sự cần thiết phải nghiên cứu về công
chúng báo chí, truyền hình Việt Nam; xu hướng thay đổi của công chúng, những
vấn đề đặt ra và giải pháp tạo lập các điều kiện để phát triển và thỏa mãn nhu cầu
thông tin báo chí hiện nay.
Ba là, một số công trình đã đi sâu phân tích cơ chế và sự tác động tích cực,
tiêu cực của một số thể loại tin tức tội phạm đối với công chúng; định hình được
quá trình hình thành và giai đoạn phát triển cơ bản của bộ môn khoa học truyền
thông và tội phạm ở một số nước trên thế giới; đặc điểm của tin tức tội phạm; cách
phân loại tin tức tội phạm; vai trò của tin tức tội phạm trên báo chí, với báo hình
đây là cơ sở để tác giả tham khảo, phát triển, xây dựng khung lý thuyết cho luận án.
Bốn là, từ một số công trình nghiên cứu về truyền thông và tội phạm, các tác
giả đã làm rõ một số phương pháp, cách thức xây dựng, trình bày các tin tức về tội
phạm, một số yếu tố đạo đức cần phải áp dụng đối với cơ quan báo chí, người làm
báo khi phản ánh thông tin tội phạm.
Với những kết quả đạt được, các công trình khoa học đã đề cập trong phần
tổng quan luận án là những tài liệu tham khảo có giá trị cho nghiên cứu sinh trong
quá trình thực hiện luận án: Ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình đối
với công chúng ở Việt Nam.
1.3.1.2. Hạn chế của các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
Tuy đã đã đạt được một số kết quả có giá trị tham khảo như đã nêu ở trên,
các công trình nghiên cứu đó vẫn có một số hạn chế, cụ thể như sau:
Một là, hướng nghiên cứu liên ngành giữa báo chí học, tội phạm học, xã hội
học ở Việt Nam hiện nay còn ít.
35
Hai là, nghiên cứu, tham khảo một số công trình về lý luận và thực tiễn hoạt
động báo chí - truyền thông ở ngoài nước và ở Việt Nam, nghiên cứu sinh nhận
thấy chủ yếu trình bày về sự tác động, hiệu lực, hiệu quả của TTĐC với công chúng
ít thấy những nghiên cứu về sự ảnh hưởng của TTĐC đối với công chúng.
Ba là, thông qua việc tìm hiểu một số công trình khoa học nước ngoài liên
quan đến truyền thông về tội phạm, một số ảnh hưởng của tin tức tội phạm đối với
công chúng, tác giả thấy rằng tin tức về tội phạm và mối liên hệ giữa truyền thông
và tội phạm đã được nghiên cứu từ lâu trong đó các nhà nghiên cứu chủ yếu tập
trung lý giải về tin tức tội phạm, nạn nhân, đánh giá tác động, ảnh hưởng của một
số loại tin tức tội phạm trên các phương tiện truyền thông đối với xã hội mà chưa
có nghiên cứu, đánh giá một cách hệ thống, toàn diện về ảnh hưởng của TTTP trên
báo chí nói chung, trên truyền hình nói riêng đối với công chúng.
Bốn là, chưa đánh giá được các cách thức nâng cao ảnh hưởng tích cực của
thông tin tội phạm trên báo chí nói chung, truyền hình nói riêng đối với công chúng.
Năm là, chưa đưa ra được giải pháp, kiến nghị cụ thể, sát thực nhằm góp
phần nâng cao ảnh hưởng tích cực cũng như chất lượng TTTP trên TH.
1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục làm rõ
Nhìn chung, do cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau
nên kết quả nghiên cứu có liên quan đến sự ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên
truyền hình đối với công chúng của các công trình, tài liệu nói trên còn một số vấn
đề chưa được làm rõ. Trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ của luận án, tác giả kế thừa có
chọn lọc những thành tựu, kết quả nghiên cứu đã đạt được và cần phải tiếp tục giải
quyết một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, luận giải lý luận về ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công
chúng. Trong đó tập trung làm rõ hệ thống khái niệm liên quan đến sự ảnh hưởng
của TTTP trên TH đối với công chúng; phân loại thông tin tội phạm; vai trò và ảnh
hưởng của TTTP trên TH; tiêu chí và thang đo ảnh hưởng của thông tin tội phạm.
36
Thứ hai, chỉ ra được thực trạng cung cấp thông tin tội phạm trên truyền hình
đối với công chúng hiện nay; làm rõ thực trạng ảnh hưởng và rút ra tính chất, đặc
điểm sự tác động của các yếu tố, điều kiện chi phối sự ảnh hưởng của TTTP trên
TH đối với công chúng;
Thứ ba, tìm hiểu một số vấn đề đặt ra hiện nay đối với sự ảnh hưởng của
TTTP trên TH đối với công chúng; đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao sự ảnh
hưởng tích cực của TTTP trên TH đối với công chúng.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã có những đóng góp đáng
kể trong việc nghiên cứu một cách có trọng tâm, hướng tới vấn đề nghiên cứu là sự
ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên báo chí nói chung, trên truyền hình nói riêng
đối với công chúng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào bao quát hoặc đi sâu, làm rõ
sự ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình đối với công chúng ở Việt
Nam trước đây cũng như trong giai đoạn hiện nay.
Do vậy, từ khoảng trống khoa học đó, tác giả sẽ nghiên cứu hệ thống, chuyên
sâu trong đề tài “Ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình đối với công
chúng ở Việt Nam”, giúp các cơ quan báo chí, truyền hình nâng cao ảnh hưởng tích
cực của TTTP đối với công chúng.
37
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN
TỘI PHẠM TRÊN TRUYỀN HÌNH ĐỐI VỚI CÔNG CHÚNG
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Ảnh hưởng
Ảnh hưởng là một sự việc nào đó có thể tác động xấu hoặc tác động tốt đến
một hay nhiều người cũng như một sự việc hay nhiều sự việc. Gây ảnh hưởng có
thể được hiểu là khả năng thuyết phục đến một hay nhiều người suy nghĩ và hành
động theo cách mà chủ thể muốn.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (NXB Đà Nẵng, năm
2000), “ảnh hưởng” có nghĩa là: Tác động có thể để lại kết quả ở sự vật hoặc người
nào đó [80, tr.7].
Từ một cấp độ đơn giản nhất, gây ảnh hưởng là sự kết hợp hiệu quả của cả
ba yếu tố đó là: Người truyền đạt - là người muốn gây ảnh hưởng tới người khác.
Thông điệp - là nội dung người truyền đạt muốn người khác tin hoặc làm theo. Đối
tượng người nghe - là những người nhận được thông điệp kể cả đó chỉ là người duy
nhất. Người truyền đạt muốn thông điệp của họ sẽ được người nghe đồng ý và chấp
thuận. Cả ba yếu tố này khi kết hợp với nhau sẽ quyết định hiệu quả tổng thể của
một cố gắng nhằm gây ảnh hưởng đến ai đó.
Dưới góc độ lý luận báo chí, quá trình gây ảnh hưởng đến một người hay
một nhóm người hay cả cộng đồng đó là một quá trình truyền thông. Trong cuốn
“Cơ sở lý luận báo chí”, do tác giả Nguyễn Văn Dững (chủ biên), (NXB Lao động,
năm 2013) cho rằng: Truyền thông là một quá trình diễn ra theo trình tự thời gian
và trong một không gian nhất định - không gian xác định hoặc không gian mở, trong
đó bao gồm các yếu tố cơ bản cần có là: Nguồn - Thông điệp - Kênh truyền thông
- Công chúng. Trong quá trình truyền thông tùy vào nguồn phát, thông điệp, kênh
truyền thông và sự tiếp nhận của công chúng mà đạt được hiệu quả truyền thông.
Hiệu quả truyền thông hay nói cách khác là ảnh hưởng của truyền thông là mức độ
38
tạo ra những hiệu ứng xã hội phù hợp với mong đợi của chủ thể truyền thông - đó
là thay đổi được nhận thức, thái độ và hành vi của công chúng - nhóm đối tượng
truyền thông phù hợp với mục đích truyền thông [17].
Nhà nghiên cứu Denis M’Quail phân biệt giữa hiệu ứng và hiệu quả truyền
thông: hiệu ứng là kết quả từ sự tác động của truyền thông, dù tác động này có chủ
đích hay không. Hiệu quả truyền thông là cụm từ chỉ kết quả mà truyền thông đạt
được cho một mục tiêu đã đặt ra từ trước và luôn có hàm ý nói về hoạt động truyền
thông đã được lên kế hoạch [86, tr.423]. Nhận định này cũng có nét tương đồng với
quan điểm về hiệu quả truyền thông của nhà nghiên cứu người Nga E.P.Prô-khô-
nốp như tác giả đã đề cập trong phần Tổng quan nghiên cứu. Xét về mặt kết quả đạt
được, hoạt động truyền thông có thể dẫn đến những kết quả tích cực (tăng cường
hiểu biết, chia sẻ nhận thức), nhưng cũng có khi dẫn đến những kết quả tiêu cực
(mâu thuẫn, xung đột, căm ghét....).
Nhận diện hiệu quả tác động hay ảnh hưởng của báo chí, truyền thông là một
quá trình khó khăn và phức tạp, tùy thuộc vào quan điểm tiếp cận, phương pháp đo
lường. Tuy nhiên sự ảnh hưởng, hiệu ứng hay hiệu quả của báo chí thì mỗi người
và công chúng đều có thể cảm nhận được bằng trí tuệ và cảm xúc. Mặc dù, ảnh
hưởng của truyền thông thể hiện ở nhiều cấp độ và các dạng thức khác nhau, nhưng
có thể nói rằng, cuối cùng hội tụ và thể hiện ở thái độ và hành vi xã hội như mong
đợi của chủ thể truyền thông.
Từ các khái niệm khác nhau về “ảnh hưởng” nêu trên, có thể rút ra và thống
nhất sử dụng khái niệm mang tính phổ biến và phù hợp nhất đối với khuôn khổ của
luận án này đó là: Ảnh hưởng là sự tác động nhằm tạo ra những hiệu ứng xã hội
phù hợp với mong muốn của chủ thể là tạo ra sự thay đổi nhận thức, thái độ và
hành vi của một người, nhóm người hay cả cộng đồng.
1.1.2. Tội phạm
Tội phạm - đó là hành vi của con người có nhận thức. Theo quy định tại Bộ
luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người từ đủ 16 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng
39
chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tội phạm là khái niệm pháp lý và khái niệm khoa học. Khái niệm này dùng
để chỉ tất cả những hành vi được luật hình sự quốc gia hoặc quốc tế xác định mà
chủ thể thực hiện phải chịu các hình phạt của pháp luật. Khái niệm tội phạm là một
trong những vấn đề quan trọng nhất của luật hình sự. Chế định tội phạm là chế định
trung tâm thể hiện rõ nét bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị, xã hội cũng như
pháp lý của luật hình sự ở mỗi nước.
Điều 8 (Khái niệm tội phạm) Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp
nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế
độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền
con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định
của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [63, tr.21].
Như vậy, tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, nguy hiểm cho xã hội.
Nó có đặc trưng pháp luật vì các dấu hiệu của tội phạm và các biện pháp đấu tranh
với chúng được thể hiện trong các văn bản pháp luật. Tội phạm và các hành vi vi
phạm pháp luật có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của xã hội, kìm hãm sự phát
triển xã hội, sự hoàn thiện các quan hệ xã hội.
1.1.3. Thông tin
Khái niệm “thông tin” được bắt nguồn từ chữ La tinh Infometio, gốc của từ
tiếng Anh information. Theo các tác giả Philipppe Breton và Serge Proulx trong
cuốn sách “Bùng nổ thông tin và sự ra đời một ý thức hệ mới” (Nhà xuất bản Văn
40
hóa, năm 1996) giải thích, khái niệm này có hai hướng nghĩa: Thứ nhất là, nói về
một hành động cụ thể để tạo ra một hình thái (frome), thứ hai là, nói về sự truyền
đạt một ý tưởng, một khái niệm hay biểu tượng. Hai hướng nghĩa này cùng tồn tại,
thứ nhất nhằm vào sự tạo lập cụ thể, thứ hai nhằm vào sự tạo lập kiến thức và truyền
đạt. Nó thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vực kỹ thuật và kiến thức [58].
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (NXB Đà Nẵng, năm
2000), “thông tin” có nghĩa là truyền tin cho nhau để biết, điều được truyền đi cho
biết [80, tr.935].
Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”, do tác giả Tạ Ngọc Tấn (chủ biên),
(NXB Văn hóa - Thông tin, năm 1999), từ “thông tin” được sử dụng với những ý
nghĩa khác nhau trong các tình huống cụ thể:
Thông tin là một loại hình hoạt động để chuyển đi các nội dung
thông báo. Hoạt động thông tin không chỉ có trong xã hội loài người.
Ngay trong thiên nhiên cũng có những hoạt động thông tin phức tạp,
đa dạng của các loại động vật khác nhau; Thông tin được dùng để chỉ
chất lượng nội dung của thông báo nói chung. Trong trường hợp này,
người ta xem xét chất lượng nội dung thông báo bằng “lượng thông
tin” được chuyển đến đối tượng tiếp nhận [71, tr.23].
Như vậy, thông tin được hiểu đó chính là nội dung thông tin và phương tiện
thông báo, báo tin. Đó là đặc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức cao là
bộ óc con người. Thông tin là sản phẩm ý thức của con người phản ánh thực tại
khách quan, mang tính chất chọn lọc được diễn đạt trong thông báo và được sử
dụng trong đời sống xã hội.
Từ các khái niệm về thông tin nêu trên, tác giả rút ra khái niệm mang tính
phổ biến và phù hợp nhất đối với khuôn khổ của luận án này đó là: Thông tin là tin
tức, thông báo, đưa tin một sự vật hay một hiện tượng được chứa đựng trong các
hình thức nhất định, được tiếp nhận, lựa chọn và sử dụng qua các phương thức
thích hợp.
41
1.1.4. Truyền hình
Hiện nay có nhiều khái niệm, quan niệm về truyền hình của các nhà khoa
học, chuyên gia trong lĩnh vực báo chí - truyền thông:
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (NXB Đà Nẵng, năm
2000): “Truyền hình là truyền hình ảnh, thường đồng thời có cả âm thanh, đi xa
bằng radio hoặc bằng đường dây” [80, tr.1053].
Theo tác giả Tạ Ngọc Tấn (2001) trong cuốn “Truyền thông đại chúng”,
(NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội) thì: “Truyền hình là một loại hình phương tiện
truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin bằng hình ảnh động và âm thanh.
Nguyên nghĩa của thuật ngữ vô tuyến truyền hình (television) bắt đầu từ hai từ tele
có nghĩa là “ở xa” và vision là “thấy được”, tức là “thấy được ở xa” [70, tr.127].
Khi bàn về thế mạnh của truyền hình, tác giả Tạ Ngọc Tấn cho rằng, thông
tin truyền hình tái hiện cuộc sống hiện thực trong trạng thái sống. Nghĩa là, truyền
hình có thể là một phạm vi, một bộ phận nguyên dạng của những gì đang diễn ra
ngoài đời nhưng nó được cho là rõ hơn, đẹp hơn. Người xem truyền hình có cảm
giác như họ có mặt, trực tiếp chứng kiến hay đang tham gia vào những sự kiện
thực tế đó.
Tác giả Dương Xuân Sơn (2010), trong “Giáo trình báo chí truyền hình”
(NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội) nêu khái niệm: “Truyền hình là một loại hình
truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin bằng hình ảnh và âm thanh về một vật
thể hoặc một cảnh đi xa bằng sóng vô tuyến điện” [66, tr.13].
Bước sang thế kỉ XXI, khi internet phát triển mạnh mẽ, truyền thông thế giới
và ngành truyền hình đã chứng kiến một cuộc cách mạng toàn diện. Các thành tố của
mô hình truyền tải truyền thông này đã có sự thay đổi đáng kể, từ “truyền hình truyền
thống” đã phát triển thêm “truyền hình phi truyền thống” với sự thay đổi tổng thể về
công nghệ phát sóng đa nền tảng và phân phối đa hạ tầng, mô hình phát sóng dựa
trên nền tảng internet, có khả năng phân mảnh khán giả theo tiêu chí hành vi người
dùng, khung phát sóng linh hoạt về thời gian, công chúng có thể tương tác đa chiều…
42
Những mô tả cơ bản về sự thay đổi của truyền hình phi truyền thống so với
truyền hình truyền thống đã cho thấy sự thay đổi toàn diện của ngành truyền hình
thế giới khi dịch chuyển mạnh mẽ lên nền tảng internet. Một hệ sinh thái truyền
hình đang được tạo ra, là tổng thể của các hệ sinh thái, thành phần gồm: hệ sinh thái
nội dung, hệ sinh thái kênh truyền, hệ sinh thái người dùng. Trong đó đáng chú ý là
hệ sinh thái kênh truyền với các kênh bổ trợ (backchannel) thực hiện phân phối nội
dung song hành với kênh truyền hình (TV channel), giúp nội dung được phân phối
trên đa nền tảng (multi- platform), đa màn hình (multiscreen). Hệ sinh thái kênh
truyền gồm các kênh do đơn vị sản xuất thiết lập (web, wap, apps, social
media…)[23].
Trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và nền tảng số, Luật Báo chí
nước ta phải sửa đổi, bổ sung để phù hợp thực tiễn. Theo đó, khái niệm truyền hình
có sự thay đổi. Cụ thể, Khoản 4, Điều 3, Chương 1 của Luật Báo chí 2016 có nêu:
“Báo hình là loại hình báo chí sử dụng hình ảnh là chủ yếu, kết hợp tiếng nói, âm
thanh, chữ viết, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng
công nghệ khác nhau” [65].
Như vậy, dựa trên những điểm cốt lõi, chung nhất của các quan niệm về
truyền hình, nghiên cứu sinh đưa ra khái niệm về truyền hình: Truyền hình là một
loại hình truyền thông đại chúng chuyển tải hình ảnh, âm thanh được truyền dẫn,
phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ khác nhau để có thể nhìn
thấy và nghe được.
1.1.5. Thông tin tội phạm trên truyền hình
Có thể hiểu thông tin tội phạm theo các cách tiếp cận sau: Thông tin tội phạm
là một dạng thông tin, được hiểu là tin tức, là thông báo, là việc đăng tải thông tin
liên quan đến tội phạm qua những tin, bài được lựa chọn và sử dụng trong công tác
tuyên truyền, phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm đến đông đảo công chúng.
Tiếp cận theo khái niệm tội phạm được quy định trong điều 8 Bộ Luật Hình
sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Thông tin tội phạm là tin tức, thông báo về
43
những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo
quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
Đưa tin về tội phạm là đưa các tin tức về những hành vi vô ý hoặc cố ý gây
hại cho xã hội, xâm hại đến tính mạng, tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức, xâm
phạm tới các quy tắc quản lý của nhà nước và bị xử lý hình sự.
Thông tin tội phạm giúp cho công chúng nhận được những tin tức mới nhất
về tình hình an ninh trật tự, biết được các vụ việc phạm tội, các phương thức, thủ
đoạn để nâng cao cảnh giác có kiến thức tự bảo vệ chính mình và các quan hệ xã
hội khác được pháp luật hình sự bảo vệ trước mọi tình huống. Chính vì vậy khi
TTTP cần chú ý: tôn trọng sự thật, đảm bảo tính chính xác, trung thực - đây là một
trong các nguyên tắc quan trọng nhất mà tất cả các nhà báo đều phải tuân thủ khi
đưa tin trên tất cả mọi lĩnh vực và khi đưa tin về tội phạm thì nguyên tắc này càng
cần được thực hiện đầy đủ.
Căn cứ vào những nội dung trên trên, tác giả rút ra khái niệm: Thông tin tội
phạm trên truyền hình là những tin, bài phản ánh những hành vi nguy hiểm cho xã
hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại, thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình
sự bảo vệ, bị xử lý hình sự, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật
ứng dụng công nghệ khác nhau để có thể nhìn thấy và nghe được”.
1.1.6. Công chúng truyền hình
Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (NXB Đà Nẵng, năm 2000) giải
nghĩa: “Công chúng là đông đảo những người đọc, nghe, xem tác phẩm trong quan
hệ với tác giả, diễn viên” [80, tr.207]. Theo quan niệm này, “công chúng” được hiểu
44
là một bộ phận “công dân” của một đất nước, có điều kiện tiếp xúc với báo chí,
nghệ thuật.
Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”, tác giả Nguyễn Văn Dững, (NXB Lao
động, năm 2013) cho rằng: “Công chúng báo chí có thể được hiểu là quần thể dân
cư hay nhóm đối tượng mà báo chí gây ảnh hưởng hoặc hướng vào để gây ảnh
hưởng. Như vậy công chúng báo chí được xem xét trong mối quan hệ với sản phẩm
báo chí, với cơ quan báo chí và với nhà báo” [17, tr.137].
Nói một cách cụ thể thì công chúng báo chí là những người được các sản phẩm
truyền thông tác động hoặc hướng vào để tác động. Đó là độc giả của báo in, báo
mạng điện tử, thính giả của đài phát thanh, khán giả của đài truyền hình. Công chúng
đó là một cộng đồng người với giới hạn nhỏ bé như làng, xã đến những cộng đồng to
lớn trên phạm vi quốc tế. Đây là một hay nhiều tầng lớp xã hội, có một trình độ và
nhu cầu chung về thông tin dành cho họ. Công chúng báo chí có các dạng sau:
+ Công chúng tiềm năng và công chúng thực tế. Công chúng tiềm năng: là
nhóm lớn xã hội mà tác phẩm báo chí hướng vào nhằm tác động, lôi kéo, thuyết
phục. Nhưng trong thực tế, không phải tất cả công chúng đều tiếp nhận được thông
điệp. Chỉ một phần nhóm lớn xã hội mà các tác phẩm báo chí hướng vào tiếp nhận
được sự tác động. Bộ phận này gọi là công chúng thực tế.
+ Công chúng trực tiếp và công chúng gián tiếp. Công chúng trực tiếp là
những người trực tiếp tiếp nhận thông tin. Công chúng gián tiếp là những người
được công chúng trực tiếp kể lại, thông tin lại những điều mà họ tiếp nhận được.
Công chúng có vai trò quan trọng đối với kênh thông tin. Công chúng là
người nuôi dưỡng chương trình, đánh giá, thẩm định cuối cùng chất lượng của tác
phẩm báo chí. Họ là người thẩm định vai trò, vị thế xã hội của người làm báo, cơ
quan báo chí. Công chúng là nguồn đề tài vô tận của báo chí. Để truyền thông đạt
hiệu quả cao, nghĩa là lôi kéo, hấp dẫn, thuyết phục được công chúng đòi hỏi cơ
quan báo chí phải nghiên cứu, tìm hiểu công chúng sâu sắc, thường xuyên và
nghiêm túc [75].
45
Ngoài ra, nghiên cứu hiệu quả tác động của báo chí truyền thông là một trong
những hướng chính của báo chí-truyền thông hiện đại trong đó mối quan hệ tác
động phản hồi - quan hệ ngược (feedback) của công chúng đối với các ấn phẩm báo
chí cũng như thông điệp truyền thông. Dòng thông tin phản hồi càng mạnh mẽ,
thường xuyên, chứng tỏ năng lực và hiệu quả tác động của báo chí càng lớn, thể
hiện sự gắn bó giữa cơ quan báo chí với công chúng - nhóm đối tượng.
Nghiên cứu dưới góc độ báo chí - truyền thông, công chúng được xem xét
qua khung tham chiếu: người phát tin - người nhận tin, có nghĩa là công chúng bao
gồm nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội có điều kiện tiếp xúc với báo chí - truyền
thông; giữa họ có thể không có mối liên hệ nào, hoặc có mối liên hệ là thành viên
của một diễn đàn, một câu lạc bộ, hoặc là những người có cùng sở thích; tuy nhiên,
họ vẫn là những cá thể độc lập, có nhu cầu và sở thích riêng, được báo chí - truyền
thông hướng tới như một “khách hàng mục tiêu” [73, tr.3-5].
Dựa vào những nghiên cứu trên, tác giả đưa ra khái niệm về công chúng
truyền hình như sau: Công chúng truyền hình là những bộ phận dân cư khác nhau
trong xã hội có điều kiện tiếp xúc với báo chí truyền hình, được báo chí truyền
hình hướng tới tác động hoặc chịu ảnh hưởng của báo chí truyền hình, có quyền
phản hồi thông tin, giám sát và quyết định hiệu quả hoạt động của cơ quan báo
chí truyền hình.
1.1.7. Ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình đối với công chúng
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu thông tin của người dân nói chung và
khán giả của truyền hình nói riêng về những vấn đề pháp luật, đặc biệt là những
phương thức, thủ đoạn của tội phạm ngày càng cao. Chính vì vậy, nội dung TTTP
trên báo chí cần đề cập đến việc trang bị kiến thức về pháp luật cũng như nâng cao
tinh thần cảnh giác, đấu tranh phòng chống tội phạm trong nhân dân, kịp thời cung
cấp thông tin cho công chúng, nêu rõ những hành vi phạm tội để công chúng không
trở thành nạn nhân của tội phạm. Đây chính là mục tiêu hướng tới của báo chí khi
đưa tin về tội phạm nhất là đối với báo hình - một thể loại báo chí với thế mạnh là
hình ảnh và âm thanh chân thực, kịp thời.
46
Dưới góc độ lý thuyết truyền thông đại chúng thì sự ảnh hưởng của TTTP
trên TH đối với công chúng xuất phát từ những vụ việc liên quan đến tình hình
ANTT, tình hình tội phạm, người phạm tội, từ nhu cầu, nguyện vọng của công
chúng và mục đích truyền thông - tức là xuất phát từ việc nhận thức sâu sắc thực
trạng và xu hướng trong công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hội cũng như mong đợi
của công chúng, chủ thể truyền thông lựa chọn vụ việc và vấn đề để thiết kế thông
điệp. Sự kiện và vấn đề được nhìn nhận, khai thác ở các góc độ, được thể hiện qua
nghệ thuật tổ chức, liên kết các chi tiết và hình thành thông điệp, sản phẩm truyền
thông. Thông điệp và sản phẩm truyền thông được mã hoá, chuyển tải qua các kênh
truyền hình, tác động vào ý thức quần chúng, công chúng xã hội. Qua mô tả đối
tượng tác động của truyền thông đại chúng trên đây, thông điệp qua các kênh truyền
thông tác động vào dư luận xã hội, tạo ra hiệu ứng xã hội; trên cơ sở đó góp phần
nâng cao nhận thức, mở rộng hiểu biết, thay đổi thái độ và hành vi theo chiều hướng
tích cực đối với công chúng.
Từ những quan niệm về ảnh hưởng, thông tin tội phạm trên truyền hình và
công chúng truyền hình đã phân tích ở những phần trên, có thể rút ra khái niệm ảnh
hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình đối với công chúng phù hợp với luận
án như sau: Ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình đối với công chúng
là sự tác động của những tin, bài trên truyền hình phản ánh về những hành vi nguy
hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương
mại xâm hại đến các quan hệ xã hội, được pháp luật hình sự bảo vệ, bị xử lý hình
sự, làm cho những bộ phận dân cư khác nhau trong xã hội thay đổi nhận thức, thái
độ và hành vi.
1.2. Phân loại thông tin tội phạm
Các tiêu chí về tính đáng được đưa thành tin sẽ thay đổi giữa các quốc gia và
nền văn hóa khác nhau. Truyền thông Anh cho rằng trong sản phẩm của hầu hết các
cơ quan truyền thông hiện nay có 12 đặc điểm và có ý nghĩa đặc biệt khi nghiên
cứu việc đưa tin tội phạm. Đó là: ngưỡng giới hạn; tính có thể đoán trước; sự đơn
giản hóa; chủ nghĩa cá nhân; rủi ro; tình dục; người nổi tiếng hoặc người có địa vị
47
cao; tính gần gũi; tính bạo lực; cảnh tượng hoặc hình ảnh sinh động; trẻ em; tư tưởng
bảo thủ và chuyển hướng chính trị [103, tr.39]. Tuy nhiên, đối chiếu với thực tế báo
chí Việt Nam cho thấy chỉ có một vài đặc điểm có sự tương đồng, do vậy không thể
coi các đặc điểm trên là căn cứ để phân loại TTTP.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) phân chia tội
phạm thành 04 loại sau: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm
rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Bảng 1.1: Phân loại tội phạm
Mức cao nhất của Loại tội phạm Tính chất, mức độ nguy hiểm khung hình phạt
Tội phạm ít Là tội phạm có tính chất và mức độ Phạt đến 03 năm tù.
nghiêm trọng gây nguy hiểm cho xã hội không lớn.
Tội phạm Là tội phạm có tính chất và mức độ Phạt đến 07 năm tù.
nghiêm trọng gây nguy hiểm cho xã hội lớn.
Tội phạm rất Là tội phạm có tính chất và mức độ Phạt đến 15 năm tù.
nghiêm trọng gây nguy hiểm cho xã hội rất lớn.
Tội phạm đặc Là tội phạm có tính chất và mức độ Phạt từ trên 15 năm tù
biệt nghiêm gây nguy hiểm cho xã hội đặc biệc đến 20 năm tù, tù chung
trọng. lớn. thân hoặc tử hình.
Nguồn: Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Đối chiếu bảng phân loại tội phạm này với thực tiễn báo chí Việt Nam cho
thấy, một số cơ quan báo chí có phản ánh TTTP theo tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm. Cụ thể, đối với một số vụ việc tội phạm mang tính
chất nhỏ lẻ, ít nghiêm trọng thì đưa tin. Ví dụ như tai nạn giao thông, trộm cắp, lừa
đảo, gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích... Những vụ việc tội phạm có
tính chất nghiêm trọng trở lên, vấn đề mới, lạ, dư luận xã hội quan tâm thì nhiều cơ
quan báo chí đưa sâu, đưa kĩ.
48
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
để phân loại TTTP theo nghiên cứu sinh là chưa hợp lý, không khả thi bởi trong
thực tế nhiều vụ việc, loại tội phạm ít nghiêm trọng như tội trốn thuế, tội cho vay
lãi nặng trong giao dịch dân sự quy định tại điều 200 và 201 Bộ luật Hình sự lại
được nhiều cơ quan báo chí quan tâm đưa sâu, đưa kỹ với lý do tội trốn thuế gây
thất thu lớn cho ngân sách nhà nước còn tội cho vay lãi nặng lại gây hậu quả rất lớn
cho xã hội bởi nó kéo theo hoạt động “tín dụng đen” và tiềm ẩn phát sinh những
tội phạm khác như: cố ý gây thương tích, hủy hoại tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản... Các tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng không
phải tội nào cũng xảy ra trong thực tế thêm vào đó nhiều loại tội phạm diễn ra bột
phát, nhỏ lẻ, không theo quy luật nên báo chí ít thậm chí không phản ánh. Ngoài ra
rất nhiều tội danh trong Bộ luật Hình sự lại có nhiều khung hình phạt khác nhau.
Chính vì sự phức tạp như trên nên nghiên cứu sinh không căn cứ vào tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội để phân loại TTTP.
Qua nghiên cứu nội dung TTTP trên báo chí hiện nay, nghiên cứu sinh nhận
thấy, nội dung TTTP chủ yếu phản ánh một số tội danh được quy định trong
Chương XIV - Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
con người; Chương XVI - Các tội xâm phạm sở hữu; Chương XVIII - Các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế; Chương XIX - Các tội phạm về môi trường; Chương
XX - Các tội phạm về ma túy; Chương XXI - Các tội xâm phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng; Chương XXII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính;
Chương XXIII - Các tội phạm về chức vụ; Chương XXIV - Các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp của Bộ luật Hình sự.
Các loại tội phạm khác được quy định trong các chương: Chương XIII - Các
tội xâm phạm an ninh quốc gia; Chương XV - Các tội xâm phạm quyền tự do của
con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; Chương XVII - Các tội xâm phạm
chế độ hôn nhân và gia đình; Chương XXV - Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến
đấu, phục vụ chiến đấu; Chương XXVI - Các tội phá hoại hòa bình, chống loài
người và tội phạm chiến tranh của Bộ luật Hình sự ít được đề cập trong TTTP.
49
Căn cứ vào TTTP trong thực tiễn, trên cơ sở Bộ luật Hình sự, nghiên cứu
sinh phân loại TTTP theo những nhóm tội danh sau:
- Nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người; xâm phạm quyền tự do của con người bao gồm các tội: giết người; đe dọa
giết người; cố ý gây thương tích; hành hạ người khác; hiếp dâm; mua bán người;
làm nhục người khác; bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật...
- Nhóm tội xâm phạm sở hữu bao gồm các tội: cướp tài sản; bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản; cưỡng đoạt tài sản; cướp giật tài sản; công nhiên chiếm đoạt tài
sản; trộm cắp tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản; hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản...
- Nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế - tội phạm về môi trường bao
gồm các tội: buôn lậu; vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới; sản
xuất, buôn bán hàng giả; trốn thuế; làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả; gây
ô nhiễm môi trường; hủy hoại rừng...
- Nhóm tội phạm về ma túy bao gồm các tội: trồng cây thuốc phiện, cây côca,
cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy; tàng trữ trái phép chất ma
túy; vận chuyển trái phép chất ma túy; mua bán trái phép chất ma túy; tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy...
- Nhóm tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng - xâm
phạm trật tự quản lý hành chính bao gồm các tội: vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ; chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; chế tạo, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; vi phạm quy
định về phòng cháy, chữa cháy; gây rối trật tự công cộng; xâm phạm thi thể, mồ
mả, hài cốt; đánh bạc; tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có; môi giới mại dâm; chống người thi hành công vụ;
làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ
quan, tổ chức...
50
- Nhóm tội phạm về chức vụ và xâm phạm hoạt động tư pháp bao gồm các
tội: tham ô tài sản; nhận hối lộ; thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; dùng
nhục hình; che giấu tội phạm; không tố giác tội phạm...
1.3. Vai trò và ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình
1.3.1. Vai trò của thông tin tội phạm trên truyền hình đối với công chúng
1.3.1.1. Cung cấp thông tin về tình hình an ninh, trật tự xã hội
Chức năng đầu tiên và cũng là chức năng cơ bản của báo chí nói chung truyền
hình nói riêng, đó là thông tin. Hàng ngày, báo chí Việt Nam chuyển tải một lượng
thông tin khổng lồ đến với hàng chục triệu người dân trên khắp đất nước. Trong đó,
TTTP luôn chiếm vị trí quan trọng, mật độ cao trên tất cả các loại hình báo chí, đáp
ứng các mức độ nhu cầu khác nhau của công chúng về thông tin liên quan đến tình
hình ANTT.
Trong báo chí hiện đại, nhu cầu thông tin và nhận thức bản chất sự kiện và
vấn đề thời sự của công chúng được ưu tiên hàng đầu. Mặt khác, nhà báo lại còn
phải căn cứ vào ý đồ thông tin của chủ thể cơ quan báo chí. Ý đồ ấy được hình thành
từ tình hình cụ thể, trên quan điểm nhất định. Như vậy, ở đây không chỉ cần sự hiểu
biết, lập trường xã hội mà còn là sự tinh tế, nhạy cảm cũng như thách thức văn hoá
ứng xử và cách xử lý thông tin của nhà báo. Do đó, có thể nói tới ba tiêu chí cho
một tác phẩm báo chí hay, hấp dẫn công chúng: thứ nhất, tác phẩm đề cập được sự
kiện, vấn đề bức xúc, nóng hổi, nổi cộm trong dư luận xã hội đang được công chúng
đón đợi, muốn biết và cần được giải thích giải đáp; thứ hai là tác phẩm được cấu
thành, được xây dựng từ những chi tiết sống động bằng mắt thấy tai nghe và trực
tiếp đối thoại, những số liệu xác thực, tin cậy và được chọn lọc kỹ càng trong sự so
sánh và phân tích; thứ ba là cách thức diễn đạt, trình bày ngắn gọn, sáng rõ, cuốn
hút, giọng điệu thuyết phục. Tuy nhiên, tính hấp dẫn cũng như cơ chế tiếp nhận của
tác phẩm báo in, báo phát thanh, truyền hình và báo mạng Internet có những đặc
tính khác nhau.
Có một thực tế không thể phủ nhận rằng truyền hình từ lâu đã góp hỗ trợ
51
việc thực thi pháp luật, là một trong những nguồn cung cấp thông tin chính xác,
đáng tin cậy của lực lượng chuyên ngành trong việc phòng, chống tội phạm. Theo
PGS.TS Nguyễn Văn Dững “nhà báo là nhà bảo vệ - bảo vệ chân lý lẽ phải, bảo
vệ giá trị đạo lý, đạo đức cộng đồng, bảo vệ pháp luật” [16, tr.303]. Theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự thì TTTP trên báo chí còn là một trong sáu căn cứ để
khởi tố vụ án hình sự. Các hành vi phạm pháp luôn được các nhà báo đưa thông
tin, phản ánh kịp thời trên các phương tiện truyền thông [64]. Điển hình như việc
thực hiện những phóng sự điều tra về gian lận xăng dầu, sản xuất chất cấm trong
chăn nuôi, phá hoại tài nguyên môi trường... gây xôn xao dư luận.
Tuy nhiên, sự phát triển của xã hội thông tin cũng như các công cụ công nghệ
mới đã làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin của công chúng. Công chúng hiện
nay chủ yếu xem thông tin qua các thiết bị di động và thường thích các tin ngắn cô
đọng, súc tích, nhiều hình ảnh, video sinh động. Họ không có nhiều thời gian để
xem các tác phẩm truyền hình dài trừ khi đó thực sự là một vấn đề đáng quan tâm.
Trong khi đó, có không ít thông tin tội phạm trên truyền hình thường khô khan,
nghèo nàn về hình thức, kém hấp dẫn với người xem. Vì vậy, công chúng đang dần
bị hút về phía các kênh MXH với nội dung gần gũi, phong phú và đặc sắc hơn.
Công chúng hiện nay cũng thường xuyên có thói quen tương tác và tiếp nhận
thông tin mới trên các kênh MXH, thông qua các chức năng đăng bài, bình luận,
nhắn tin, chia sẻ... Điều này giúp cho các kênh MXH nhanh chóng “hiểu” khách
hàng của mình hơn và bằng những thuật toán thông minh hiểu được khách hàng
của mình cần gì, thích gì để đưa ra những khuyến nghị phù hợp.
Ngược lại, báo chí chính thống chưa thực sự tiếp cận tốt với đối tượng của
mình. So với báo in, phát thanh và truyền hình, thì báo mạng điện tử là loại hình
báo chí có điều kiện tương tác cao nhất với độc giả nhờ hoạt động trên môi trường
mạng. Tuy nhiên, các cơ chế tương tác trên báo mạng điện tử đến nay vẫn còn hạn
chế. Bản thân các cơ quan báo chí cũng đang phải tận dụng chính ưu thế của truyền
thông xã hội như lập các Fanpage, kênh Zalo để chuyển tải nội dung thông tin bài
52
viết và tiếp nhận thông tin phản hồi của độc giả trên môi trường đó. Nhưng báo chí
vẫn đang thua kém MXH về khả năng “hiểu” công chúng của mình vì chưa ứng
dụng các công nghệ thông minh như MXH.
Bên cạnh đó, nhiều tác phẩm truyền hình chưa thực sự truyền tải được nội
dung và tác động sâu sắc đến công chúng do năng lực tiếp nhận thông tin của người
dân có sự khác nhau giữa các vùng miền, địa phương, chưa kể trình độ văn hóa, tri
thức của mỗi người cũng khác nhau. Điều này làm giảm hiệu lực và hiệu quả tác
động của báo chí chính thống.
Có thể thấy những thách thức từ sự “phẳng hóa” thông tin cùng thói quen
tiếp nhận thông tin của độc giả xuất phát từ chính quá trình chuyển đổi số đang diễn
ra mạnh mẽ, với sự ra đời, phát triển và ứng dụng của nhiều công nghệ mới. Để giải
quyết những khó khăn, thách thức nói trên, các CQBC đã và đang có sự vận động,
thay đổi theo hướng tìm đến và ứng dụng công nghệ mới nhằm đáp ứng kịp thời
với môi trường truyền dẫn thông tin hiện đại nhằm cung cấp TTTP tin cậy, chính
xác đến đông đảo công chúng.
1.3.1.2. Cảnh báo, định hướng dư luận xã hội
Các phương tiện truyền thông đại chúng trong đó có truyền hình và các
phương tiện truyền thông mới đang phát triển thông tin nhanh chóng đến các đối
tượng công chúng, kể cả công chúng ở vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo. TTTP trên
TH mang đến cho công chúng sự đa dạng, phong phú, cập nhật, phù hợp nhu cầu
và mang tính khách quan. Thông tin tội phạm không chỉ đáp ứng quyền được thông
tin và nhu cầu tinh thần, văn hóa lành mạnh của nhân dân, mà còn góp phần cảnh
báo, tạo lập, định hướng dư luận xã hội tích cực, thúc đẩy phong trào đấu tranh
phòng chống tội phạm, đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, các thông tin
sai lệch, xuyên tạc và cải chính, bác bỏ các tin đồn nhảm, kích động do các phần tử
cơ hội, thoái hóa, biến chất, các thế lực thù địch gieo rắc, tán phát.
Thông qua TTTP trên TH, người dân được thông tin chi tiết và sát thực nhất
về phương thức, thủ đoạn phạm tội của tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, môi trường,
53
ma túy, trộm cắp tài sản, sử dụng công nghệ cao... với mỗi một loại tội phạm khác
nhau có những phương thức và thủ đoạn khác nhau. TTTP trên TH cũng giúp các
cơ quan chức năng phòng, chống tội phạm đưa ra những khuyến cáo, biện pháp
ngăn chặn và cách thức xử lý hành vi phạm pháp. Nhờ vậy, các tổ chức, cá nhân
có thể chủ động hơn trong việc phòng, chống các loại tội phạm.
Ngoài việc đưa những thông tin về diễn biến vụ án, quá trình điều tra, TTTP
còn là thông tin về những bản án nghiêm khắc của luật pháp dành cho các đối tượng
phạm tội. Việc đưa thông tin xét xử, bản án dành cho người phạm tội không chỉ
giúp người dân nâng cao hiểu biết về pháp luật mà còn là bài học để mỗi người dân
tránh mắc phải những hành vi vi phạm pháp luật một cách vô ý hoặc cố ý. Mặt khác,
bản án nghiêm khắc cho những hành vi sai trái cũng là lời răn đe, cảnh báo đối với
những đối tượng có lối sống buông thả, đang âm mưu những ý đồ bất chính đồng
thời những TTTP có tính răn đe góp phần làm giảm tỉ lệ tội phạm.
Để có thể có những tác phẩm báo chí mang tính cảnh báo, định hướng dư
luận xã hội phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của nhà báo, trước hết là năng lực nhận
thức và phản ánh thực tiễn. Muốn phản ánh thực tiễn đúng với bản chất của quá
trình vận động, nhà báo cần phải nhận thức được bản chất tình hình, xu hướng và
tiến trình vận động của cuộc sống, mà cụ thể là phân biệt được cũ - mới, mới - lạ,
đúng - sai, tốt - xấu, hay - dở... trong xu hướng phát triển của nó. Mọi khái niệm
đều chỉ là tương đối, có tính lịch sử. Nhưng thông thường, trong lĩnh vực báo chí -
truyền thông, việc phân biệt mới - lạ, đúng - sai, hay - dở, tốt - xấu... có thể căn cứ
vào các hệ quy chiếu. Một là căn cứ vào quan điểm chính trị và các văn bản quy
phạm pháp luật; thứ hai là căn cứ vào hệ thống quan niệm giá trị đạo đức, đạo lý
của dân tộc, quan hệ của cộng đồng và thứ ba là căn cứ vào lợi ích. Giá trị luật pháp
và đạo đức đều có tính lịch sử, đều trong xu thế vận động và phát triển. Do đó, người
làm báo phải am hiểu môi trường pháp lý (hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật và thiết chế phân chia quyền lực), am tường truyền thống văn hoá, đạo lý dân
tộc cũng như hệ thống giá trị đạo đức trong các mối quan hệ thực tế của nó. Quan
54
điểm chính trị là hệ quy chiếu phức tạp hơn cả vì quan điểm chính trị tiến bộ sẽ góp
phần giúp nhà báo nhìn bản chất hiện thực đang vận động, quan điểm chính trị lạc
hậu sẽ làm cho nhà báo nhìn nhận cuộc sống bị thiên lệch, thậm chí quay lưng lại
với hiện thực.
Trong điều kiện bùng nổ thông tin, sự phát triển mạnh mẽ của các phương
tiện truyền thông mới và mạng xã hội, công chúng tiếp xúc với nhiều luồng TTTP
đa dạng, đa chiều. Trong đó, có những thông tin trái chiều, thất thiệt, khiến một bộ
phận công chúng chưa đủ sáng suốt để đánh giá sự đúng - sai, thật - giả trong các
luồng thông tin đó. Vì vậy, các nhà báo, cơ quan báo chí phải thực hiện tốt nhiệm
vụ định hướng dư luận xã hội, cung cấp TTTP đầy đủ, khách quan và quan trọng
hơn là phải phân tích rõ các mối quan hệ về lợi ích để trên cơ sở đó hạn chế, chấn
chỉnh các nhận thức sai lệch nhằm xác định phương hướng đúng để thúc đẩy sự
hình thành dư luận xã hội tích cực, có tính tư tưởng cao, có tác dụng giáo dục, phù
hợp với sự tiến bộ xã hội.
1.3.1.3. Tuyên truyền phổ biến pháp luật
Với đặc tính cơ bản của báo chí là tính phổ cập, nhanh chóng, kịp thời và
rộng khắp, trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, báo chí đóng
vai trò quan trọng, là công cụ, phương tiện hữu hiệu đưa pháp luật đến với cán bộ,
nhân dân, giúp đông đảo cán bộ, nhân dân dễ dàng tiếp thu, nắm bắt, tìm hiểu, nâng
cao nhận thức, ý thức pháp luật.
Trong công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật, báo chí nói chung, truyền
hình nói riêng góp phần phản ánh thực tiễn thi hành pháp luật và hướng dẫn dư luận
xã hội ủng hộ, biểu dương người tốt - việc tốt trong chấp hành pháp luật, lên án, phê
phán những biểu hiện tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội, tạo
niềm tin vào pháp luật, vào công lý trong mọi tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, ngày nay
với sự phát triển đa dạng của các loại hình báo chí và việc phát triển mạnh mẽ của
khoa học - công nghệ đã góp phần nâng cao hiệu quả và ảnh hưởng tích cực của
TTTP, pháp luật.
55
So với các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác thì loại hình phổ biến,
giáo dục pháp luật trên truyền hình có lợi thế là có đông đảo công chúng. Hiện nay,
với sự phát triển vượt bậc của khoa học - công nghệ, các loại hình báo chí đều có
đặc tính là truyền tin nhanh, đặc biệt là báo mạng điện tử. Vì vậy, việc tuyên truyền
pháp luật trên truyền hình thông qua TTTP luôn được thực hiện nhanh chóng, kịp
thời để đáp ứng nhu cầu được thông tin, tìm hiểu về pháp luật của người dân. Với
diện phủ sóng rộng, sự kết nối mạng internet toàn cầu, việc tuyên truyền TTTP trên
TH được thực hiện trên diện rộng, ít có loại hình nào ưu việt hơn.
Có thể nói, trên mặt trận văn hóa - tư tưởng nói chung và công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói riêng, truyền hình đóng vai trò là lực lượng
xung kích. Khi nêu TTTP là các vụ việc cụ thể truyền hình cũng lồng ghép việc
phân tích, phổ biến, giáo dục pháp luật có liên quan, tỏ thái độ định hướng dư luận
xã hội để tạo ra sức mạnh chung lên án, đấu tranh với những vi phạm pháp luật, tội
phạm, bảo vệ công lý. Việc lồng ghép này khiến nội dung tuyên truyền hấp dẫn hơn
đồng thời còn tạo áp lực cho người thực thi pháp luật một cách khách quan, công
tâm. Tuy nhiên, khi thực hiện nội dung này, tác phẩm truyền hình không được làm
thay công việc của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, kết luận vụ việc đúng sai,
mà chỉ bày tỏ quan điểm của mình bằng cách đưa ra các bằng chứng, lý lẽ, lập luận
mang tính tham khảo để các cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định. Các tác
phẩm báo chí cũng không nên đi sâu vào miêu tả, khai thác chi tiết hành vi, thủ đoạn
phạm tội, đưa ra những tình tiết “giật gân”, “câu khách”… dẫn đến phản tác dụng,
ảnh hưởng tiêu cực đến công chúng.
Trong những năm qua, báo chí nói chung, Đài Truyền hình Việt Nam,
Truyền hình CAND nói riêng luôn giữ vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền
các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự chỉ
đạo, lãnh đạo của các bộ, ban, ngành. Việc thường xuyên được phổ biến các kiến
thức về pháp luật cũng giúp người dân nắm vững luật pháp trong nước và quốc tế
để phục vụ cho công việc, cuộc sống nhờ đó công tác phòng ngừa tội phạm có thể
phát huy hiệu quả một cách tối đa và có chiều sâu.
56
1.3.2. Ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình đối với công chúng
1.3.2.1. Ưu thế của truyền hình trong việc phản ánh thông tin tội phạm
Từ một số thử nghiệm tiền nhiệm những năm 1920 cho đến những năm 1950
của thế kỷ trước, truyền hình thế giới chính thức ra đời và đã trở thành một kênh
truyền thông có tác động lớn đến công chúng. Truyền hình đem đến cho khán giả
cùng lúc hai tín hiệu cơ bản là hình ảnh và âm thanh, qua các cuộc nghiên cứu người
ta thấy 70% lượng thông tin con người thu được là qua thị giác và 20% qua thính
giác [100]. Tại thời điểm mà ranh giới giữa các phương tiện truyền thông đại chúng
khác tách biệt các hướng tác động tới công chúng (báo in và tạp chí truyền thông
qua thị giác, phát thanh truyền thông qua thính giác) thì với đặc điểm là sự kết hợp
bằng hình ảnh, âm thanh (cả thị giác, thính giác) - truyền hình đã đem lại độ tin cậy,
thông tin cao cho công chúng, có khả năng tác động mạnh mẽ vào nhận thức của
con người. Truyền hình có khả năng truyền tải một cách chân thực hình ảnh của sự
kiện đi xa nên đáp ứng yêu cầu chứng kiến tận mắt của công chúng. “Trăm nghe
không bằng mắt thấy”, chính truyền hình đã cung cấp những hình ảnh về sự kiện
thỏa mãn nhu cầu “thấy” của người xem. Đây là lợi thế lớn của truyền hình so với
các loại hình báo in và phát thanh.
Một trong những loại tin tức thu hút được sự chú ý của đông đảo công chúng
nhất đó là tin tức về tội phạm và hành vi phạm tội vì tâm lý con người nói chung
đều tò mò trước những sự vật, hiện tượng, hành vi trái với quy luật phát triển của tự
nhiên, trái với cách hành xử chuẩn mực, đạo đức, trái pháp luật. Với ưu thế về hình
ảnh và âm thanh, nhiều năm nay thông tin tội phạm trên truyền hình tự thân nó đã
hấp dẫn vì thông tin về mặt trái của xã hội, tự nó tạo ra hiệu ứng tâm lý của con
người nên loại thông tin này có nhóm khán giả, khán giả mục tiêu ở biên độ rộng,
đủ lứa tuổi và có tính đại chúng cao. Thông tin tội phạm và các hành vi vi phạm
pháp luật đến mọi người không chỉ là thông tin khách quan mà nó còn có tác dụng
định hướng tích cực cả về hành động và tư tưởng cho khán giả.
57
Do những ưu thế về hình ảnh và âm thanh, thông tin tội phạm trên truyền hình
có khả năng thu hút hàng tỉ người xem cùng một lúc. Cùng với sự phát triển của
khoa học và công nghệ truyền hình ngày càng mở rộng phạm vi phủ sóng phục vụ
được nhiều đối tượng người xem ở vùng sâu, vùng xa. Tính quảng bá của truyền
hình còn thể hiện ở chỗ một sự kiện xảy ra ở bất kì đâu được đưa lên vệ tinh sẽ
truyền đi khắp cả thế giới, được hàng tỉ người biết đến.
Bước sang thế kỉ XXI, nền tảng internet đã giúp cho việc trải nghiệm truyền
hình ngày càng trở nên sinh động hơn. Ngành truyền hình đang chính thức thiết lập
một xã hội truyền hình trên nền tảng internet mà ở đó nhà sản xuất (source) đang
đóng vai trò là trung tâm điều hành đa nền tảng (multi- platform operator) một hệ
sinh thái truyền hình. Trong bối cảnh cạnh tranh thông tin như hiện nay, thông tin
nói chung, TTTP trên TH nói riêng đang bị báo mạng điện tử, mạng xã hội tranh
chấp về ưu thế vì hai loại hình này cũng có thể chuyển tải tới khán giả cả hình ảnh
và âm thanh. Tuy nhiên, các cơ quan báo chí truyền hình đã và đang thay đổi công
nghệ, ứng dụng nền tảng số để công chúng có thể dễ dàng tiếp cận. Ngoài ra, với
công nghệ truyền hình hiện nay thì khán giả có thể theo dõi trực tiếp thông tin cập
nhật liên tục (breaking news); thưởng thức những hình ảnh đẹp, chân thực, độ phân
giải cao (HD, FullHD, 2K, 4K) riêng điều này thì báo mạng điện tử và mạng xã hội
chưa thể theo kịp. Yếu tố nội dung cũng đang được các đài, kênh truyền hình quan
tâm hàng đầu với phương châm đa dạng và đánh trúng nhu cầu của công chúng,
dưới nhiều dạng thức, gồm: video, audio, văn bản, phát trực tiếp liên tục 24/7 trên
nhiều nền tảng nhằm tạo ra ảnh hưởng lớn nhất và rộng rãi nhất.
1.3.2.2. Ảnh hưởng tích cực về ý thức phòng chống tội phạm
Nghiên cứu ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng được đặt trong
mối quan hệ trực tiếp với vấn đề hiệu quả báo chí, tức là ảnh hưởng tích cực của
TTTP đối với công chúng, hướng dẫn nhận thức để họ có hành động đúng đắn. Ảnh
hưởng tích cực của TTTP khi được phát huy sẽ trở thành một sức mạnh to lớn, góp
phần hình thành dư luận xã hội, xây dựng hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội, biến nhận
58
thức thành hành động theo chiều hướng tích cực để góp phần cải tạo và xây dựng
một xã hội chấp hành pháp luật.
Thực tế cạnh tranh báo chí khốc liệt đang buộc các nhà báo và nhà quản lý
báo chí phải đối mặt với những câu hỏi như: công chúng sẽ bị hấp dẫn bởi tác động
gì từ TTTP trên TH? Quá trình tiếp nhận của công chúng với các TTTP diễn ra theo
quy luật nào? Những kiến thức và kỹ năng nào là cần thiết trong quá trình sáng tạo
tác phẩm truyền hình về TTTP để tiếp cận tốt với công chúng? Trả lời được những
câu hỏi này là cơ sở cho việc xác định cách thức tác động, thuyết phục, gây ảnh
hưởng tích cực đối với công chúng.
Thông tin tội phạm có ảnh hưởng tích cực vì nó tác động trực tiếp đến nhận
thức, thói quen của công chúng. Bước đầu, họ sẽ biết lý do tội phạm đó xảy ra. Sau
khi tiếp nhận, tâm lý và hành vi của họ sẽ có sự thay đổi trên cơ sở những câu hỏi
được đặt ra: Loại tội phạm đó có thể xảy ra đối với họ không? Biện pháp ngăn ngừa
tội phạm đó thế nào? Một số người cũng muốn nghe câu chuyện xem các loại tội
phạm đã lập kế hoạch ra sao, gây án thế nào?… Thứ hai, công chúng muốn biết luật
pháp đã bị vi phạm như thế nào? Người có hành vi phạm tội đã bị bắt và bị trừng
phạt như thế nào? Thông tin tội phạm nêu bật, lý giải nguyên nhân gây án, động cơ
gây án, sự sám hối vẫn sẽ là những thông tin có ý nghĩa cảnh báo, giáo dục có giá
trị với công chúng. Công chúng sẽ tìm thấy trong những TTTP những điều hữu ích
rút ra cho chính mình.
Vấn đề đặt ra là, sau khi tác động đến công chúng, tạo ra được hiệu lực hay
nói cách khác là tạo ra được những ảnh hưởng tích cực, tùy theo tính chất, quy mô
và phạm vi tác động của sự kiện thông tin, các tác phẩm báo chí có đạt hiệu quả
kinh tế - xã hội hay không và mối quan hệ giữa hiệu quả diễn ra như thế nào. Về
mặt từ ngữ, ảnh hưởng tích cực có thể được hiểu là “kết quả như yêu cầu của việc
làm mang lại”. Trong thực tế, kết quả có thể “như” hoặc không “như”, trái ngược
hoặc vượt quá yêu cầu của chủ thể. Mặt khác, kết quả của hoạt động là hiệu ứng có
thể nhận biết ngay. Tuy nhiên hiệu quả, ảnh hưởng tích cực thường cần có thời gian
59
và thể hiện qua nhiều tầng nấc, nhiều dạng thức, nhất là hiệu quả hoạt động xã hội,
nó thể hiện qua nhận thức, thái độ và hành vi của công chúng, của nhân dân nói
chung về những vấn đề cơ bản, bức xúc, thiết thực của tiến trình phát triển kinh tế -
xã hội cũng như việc hình thành nhân cách và diện mạo văn hoá của mỗi cá nhân,
và cuối cùng là sự chấp hành pháp luật...[77].
Nghiên cứu ảnh hưởng của báo chí - truyền thông là một trong những hướng
chính của báo chí - truyền thông hiện đại. Những nội dung và cấp độ của việc nghiên
cứu ảnh hưởng có thể xem xét trên những mặt sau:
Một là, giao diện, tần suất và cường độ tiếp xúc, giao tiếp của công chúng
với các sản phẩm báo chí - truyền thông, tức là tăng cường thông tin tiềm năng và
trên cơ sở ấy tăng cường thông tin thực tế và thông tin hữu ích.
Hai là, năng lực tác động, khả năng chi phối của các ấn phẩm báo chí đối với
cộng đồng thông qua việc khơi nguồn, phản ánh, định hướng và điều hoà dư luận
xã hội.
Ba là, mối quan hệ tác động phản hồi (feedback) của công chúng đối với các
ấn phẩm báo chí cũng như thông điệp truyền thông. Dòng thông tin phản hồi càng
mạnh mẽ, thường xuyên, chứng tỏ năng lực và ảnh hưởng của báo chí càng lớn, thể
hiện sự gắn bó giữa cơ quan báo chí và công chúng
Bốn là, vai trò của báo chí - truyền thông trong việc xã hội hoá cá nhân và
các giá trị phổ biến, trong việc hình thành, thể hiện diện mạo văn hoá cộng đồng
cũng như góp phần hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức cũng như nhân cách mỗi con
người. Mức độ tiếp nhận thông tin báo chí, tần suất và phạm vi giao tiếp xã hội của
cá nhân có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành diện mạo văn hóa của mỗi người.
Báo chí truyền thông là kênh thông tin giao tiếp đại chúng, hàng ngày tạo cơ hội
cho mỗi người, mỗi nhóm xã hội tiếp nhận thông tin và giao tiếp xã hội.
Năm là, khả năng thuyết phục, tập hợp và tổ chức cộng đồng tham gia giải
quyết các vấn đề kinh tế - xã hội đã và đang đặt ra. Mục đích của thông tin giao tiếp
xã hội qua báo chí truyền thông là nhằm cung cấp thông tin, kiến thức, chia sẻ kỹ
60
năng và kinh nghiệm, góp phần gia tăng những tương đồng, giảm dần sự khác biệt
trong nhận thức, thái độ và hành vi giữa các cá nhân, các nhóm công chúng và giữ
công chúng với bộ máy công quyền vì sự phát triển bền vững [77].
Do đó, để tạo những ảnh hưởng tích cực từ TTTP trước hết phải làm cho
công chúng tin cậy vào cơ quan báo chí thông qua việc cung cấp thông tin kịp thời,
chân thực. Trên cơ sở nhận thức, niềm tin và ý chí, thái độ và hành vi được điều
chỉnh phù hợp với yêu cầu của chủ thể truyền thông. Những chuyển biến về nhận
thức, thái độ và hành vi của công chúng và đông đảo nhân dân phù hợp với mục
đích, yêu cầu của báo chí là tập hợp những kết quả và hiệu ứng xã hội cụ thể thể
hiện hiệu quả tác động, ảnh hưởng tích cực của báo chí.
Trong xã hội hiện nay, khán giả dễ dàng tiếp cận bất cứ thông tin nào mà họ
cần và cũng có rất nhiều nguồn thông tin về vấn đề ANTT đến với khán giả. Nhưng
chính vì quá nhiều thông tin về lĩnh vực này cũng dễ làm người dân hoang mang về
tình hình ANTT trong xã hội. Báo chí giúp người dân định hướng được các thông tin
về lĩnh vực này, có hiểu biết đúng hơn, cặn kẽ hơn về những gì đang diễn ra xung
quanh họ; cảnh báo cho họ về các vấn đề trong mặt trái của cuộc sống hiện đại. Thông
tin tội phạm không chỉ giúp khán giả có thêm kiến thức, hiểu biết mà còn thực sự góp
phần không nhỏ vào việc điều chỉnh hành vi của họ trong cuộc sống xã hội, tạo nên
thế trận an ninh vững chắc trong quần chúng nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội của đất nước.
1.3.2.3. Ảnh hưởng tiêu cực khi đưa tin thiếu trách nhiệm xã hội
Một trong những cuộc tranh luận dai dẳng nhất trong một số chuyên ngành
không thuộc chuyên ngành truyền thông đại chúng đó là ở mức độ nào thì truyền
thông có thể là yếu tố tác động gây ra hành vi chống đối xã hội, hành vi sai lệch
hoặc hành vi phạm tội. Nói cách khác, ở mức độ nào thì truyền thông đem lại những
tác động tiêu cực đến công chúng? Nghiên cứu học thuật về vấn đề này - được biết
đến là “nghiên cứu các tác động” - được phát triển từ hai lý thuyết chính: lý thuyết
xã hội đại chúng và chủ nghĩa hành vi. Mặc dù có nguồn gốc từ các ngành khác
61
nhau - lần lượt là từ xã hội học và tâm lý học - nhưng hai phương pháp tiếp cận này
lại có tính tương thích và cùng cho rằng bản chất con người là không ổn định và dễ
bị ảnh hưởng bởi các tác động bên ngoài.
Nhà nghiên cứu tội phạm người Anh Yvonne Jewkes trong cuốn
“Media&Crime” (Truyền thông và Tội phạm) nhận định: Người ta thường cho rằng
có một thực tế không thể bác bỏ đó là xã hội đã trở nên bạo lực hơn kể từ khi xuất
hiện ngành truyền thông hiện đại. Sự xuất hiện và phát triển của phim ảnh, truyền
hình, và sau đó là công nghệ máy tính, đã làm gia tăng thêm những nỗi lo trong
công chúng, tuy nhiên có thực tế là rất ít loại hình tội phạm trở thành hiện tượng
phổ biến cho dù giới truyền thông có phản ánh nhiều hay liên tục [103, tr.5].
Hiện nay, internet phát triển mạnh đã kích thích sự quan tâm của công chúng
về tất cả mọi thứ liên quan đến tội phạm, nó còn cung cấp cả diễn đàn cho những
người muốn trao đổi các quan điểm về tội phạm và góp phần tạo điều kiện cho
những phương thức phạm tội mới. Trong khi đó, lịch phát sóng của rất nhiều kênh
truyền hình tràn ngập những chương trình về cảnh sát, tội phạm, người bị phạt tù
và tòa án. Làm thế nào chúng ta có thể giải thích cho sự phổ biến của chúng? Tại
sao công chúng lại bị thu hút bởi thông tin tội phạm và các hành vi vi phạm pháp
luật?. Việc báo chí phản ánh TTTP có mục đích tốt đẹp là đưa ra những cái xấu
trong xã hội để mọi người biết, đấu tranh, ngăn ngừa tội phạm. Tuy nhiên, nếu thông
tin không khách quan, không chân thực, không mang tính định hướng, giáo dục thì
sẽ dẫn đến hệ quả ngược là bào mòn các giá trị, giảm sút niềm tin, gây hoang mang
cho quần chúng. Có một sự thật ít được nhận biết, đó là khi phổ biến TTTP có thể
góp phần làm gia tăng nguy cơ phạm tội. Bởi lẽ:
Thứ nhất, khi thông tin tội phạm, mô tả tội phạm, đồng nghĩa với phổ biến
hành vi, thủ đoạn phạm tội, phổ biến tâm lý tội phạm. Trong thực tế, tội phạm chỉ
xảy ra trong một phạm vi hẹp. Nhưng khi được phổ biến, nhiều tầng lớp quần chúng
với nhận thức, tâm lý khác nhau sẽ biết về sự việc phạm tội, người chưa biết cũng
được phổ biến cho biết. Khi có hiểu biết về tội phạm, một bộ phận người dân có thể
62
lên án, cảnh giác, một bộ phận người dân khác có thể làm theo, hoặc có kiến thức
để đối phó với cơ quan pháp luật.
Thứ hai, thông tin tội phạm có khả năng ảnh hưởng xấu tới nhận thức và
nhân cách con người đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên. Một số TTTP thiếu chính
xác, phiến diện, một chiều, không đầy đủ, thậm chí sai lệch, thiếu kiểm chứng, bôi
nhọ, xúc phạm danh dự... khiến cho thông tin đến với công chúng bị sai lệch, gây
hiểu lầm, hoặc đánh giá không đúng về vụ việc, gây nên những bức xúc, nghi ngờ
trong nhân dân. Trong thực tế có những thông tin về nội dung vụ án được đưa quá
sớm, có vụ việc còn lồng ghép thêm nhận xét chủ quan, làm lộ lọt thông tin, lộ bí
mật vụ án, thậm chí có thông tin công bố biện pháp nghiệp vụ, khiến cho đối tượng
phạm tội có thêm thời gian, biện pháp để chống đối hoặc tìm cách can thiệp...
Thứ ba, liều lượng và tần suất TTTP cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nhận
thức và hành vi của một bộ phận công chúng nhất là đối với những TTTP sai lệch,
thiếu kiểm chứng, mang nặng tính mô tả phương thức, thủ đoạn, hành vi phạm tội.
Thực tiễn hoạt động báo chí đặt ra một vấn đề đó là: TTTP tác động xấu đến
xã hội, đến nhận thức công chúng và tốt nhất là không thông tin về tội phạm, vụ án.
Nếu như vậy báo chí sẽ toàn màu hồng và điều này khiến nó thiếu đi tính chân thực
khi mà thực tiễn cuộc sống điều tốt, điều xấu vẫn diễn ra hàng ngày. Trong bối cảnh
báo chí chính thống đang phải cạnh tranh gay gắt với mạng xã hội, nhà báo chuyên
nghiệp đang bị thách thức với “nhà báo nhân dân”, “nhà báo công dân”. Vấn đề
đáng bàn ở đây là việc đáp ứng nhu cầu của công chúng như thế nào? nhiều khi do
“tối đa hóa” yêu cầu thông tin báo chí đã chuyển đến công chúng quá nhiều những
tin tức mang tính giật gân, câu khách, méo mó, xô lệch với đủ dạng thức từ giật tít
đến hình ảnh, âm thanh.
Việc báo chí nói chung, truyền hình nói riêng tập trung khai thác, đưa tin,
phân tích TTTP là điều dễ hiểu và nên làm. Nhưng vấn đề là làm như thế nào để
phản ánh về TTTP đúng định hướng, chân thực nhất, khách quan nhất, gây ảnh
hưởng sâu rộng và tích cực lại là một vấn đề đang được đặt ra một cách cấp thiết?
63
1.4. Tiêu chí và thang đo ảnh hưởng của thông tin tội phạm
Theo tác giả Tạ Ngọc Tấn, quá trình tiếp nhận thông tin của công chúng gồm
5 bước: thứ nhất, tiền đề nhận thức của công chúng xã hội; thứ hai, sự quan tâm của
đối tượng đối với nguồn thông tin; thứ ba, sự đánh giá của công chúng xã hội đối
với nguồn thông tin; thứ tư, bước thử nghiệm của đối tượng được thực hiện trên
thực tế hay thông qua thí nghiệm tưởng tượng; Cuối cùng, công chúng chấp nhận
và điều chỉnh hành vi xã hội của mình phù hợp với quy mô, tính chất và khuynh
hướng của nguồn tin [70, tr.27 - 28].
Trong tài liệu chuyên khảo “Báo chí truyền thông hiện đại - Từ hàn lâm
đến đời thường” (2011), tác giả Nguyễn Văn Dững phân tích cơ chế tác động của
báo chí sẽ dẫn đến hiệu quả tác động của báo chí đến công chúng và từ đó dẫn đến
hiệu lực của báo chí. Theo tác giả, hiệu quả tác động của báo chí có liên quan đến
ý thức quần chúng, trong đó bao gồm nhận thức (chính trị), hiểu biết tri thức tổng
hợp từ đó dẫn đến những thay đổi về thái độ và hành vi [15, tr.99]. Tác giả Nguyễn
Văn Dững trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí” (NXB Lao động, Hà Nội, năm
2013), cũng cho rằng hiệu quả của báo chí có một số cấp độ biểu hiện cụ thể, trong
đó, cấp độ đầu tiên là công chúng có đọc, xem, nghe sản phẩm của toà soạn hay
không? [17, tr.149].
Dựa trên việc phân tích các tài liệu về lý luận báo chí, truyền thông cho thấy
các mục tiêu của báo chí nói chung truyền hình nói riêng khi phản ánh TTTP gồm
có: cung cấp thông tin cho công chúng, nâng cao hiểu biết, nhận thức, thay đổi hành
vi của công chúng về TTTP; trở thành kênh thông tin thân thiết, hữu ích, đáng tin
cậy, có sức thuyết phục và ảnh hưởng với các nhóm công chúng khác nhau. Kết quả
của hoạt động truyền thông của truyền hình có đạt được những mục tiêu nêu trên
hay không chính là thể hiện sự ảnh hưởng tích cực đối với công chúng.
Từ những phân tích trên, nghiên cứu sinh xác lập các tiêu chí đánh giá ảnh
hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng như sau:
64
+ Thứ nhất, sự tiếp cận của công chúng với thông tin tội phạm trên truyền
hình: Đây là tiêu chí đánh giá cơ bản nhất cho biết TTTP trên TH có đạt hiệu quả
trong việc được công chúng biết đến và theo dõi hay không. Trên thực tế, mục tiêu
của bất cứ cơ quan truyền thông nào cũng là nội dung thông điệp hoặc sản phẩm
truyền thông của mình có độ phủ (reach) đến công chúng trên diện rộng, hoặc nói
cách khác là càng nhiều càng tốt. Điều này tỉ lệ thuận với việc nâng cao khả năng
ảnh hưởng của truyền thông. Thông tin tội phạm trên truyền hình có ảnh hưởng đến
công chúng hay không trước hết công chúng phải xem được sản phẩm.
+ Thứ hai, mức độ hài lòng của công chúng với các yếu tố về nội dung và
hình thức của thông tin tội phạm trên truyền hình: Các yếu tố được đánh giá về nội
dung bao gồm: tính thời sự, mức độ liên quan của thông tin đến cuộc sống và những
mối quan tâm của công chúng, tính tin cậy, tính chính xác, tính khách quan, mức
độ dễ hiểu. Các yếu tố được đánh giá về hình thức gồm: khung giờ, tần suất, số
lượng, thể loại.
+ Thứ ba, mức độ giới thiệu để chương trình, kênh truyền hình được tiếp cận
rộng rãi hơn: Sau khi xem xong, công chúng có chia sẻ TTTP, chương trình, kênh
truyền hình phản ánh cho người khác hay không. Điều này làm tăng khả năng tiếp
cận của kênh truyền hình, gia tăng sự ảnh hưởng của TTTP đối với công chúng.
+ Thứ tư, nhu cầu của công chúng khi tiếp cận thông tin tội phạm trên truyền
hình: Theo các nhà nghiên cứu, động lực để công chúng tiếp cận truyền thông có
thể được lý giải theo học thuyết “Sử dụng và hài lòng”. Việc tiếp cận TTTP trên TH
của công chúng là để thỏa mãn các nhu cầu như: nhu cầu thông tin, nhu cầu cần
được cảnh báo. Ảnh hưởng truyền thông của TTTP trên TH có thể được xác định
thông qua việc tìm hiểu việc công chúng tiếp nhận và sử dụng truyền thông cho
những nhu cầu gì. Nếu TTTP trên TH được công chúng tiếp cận để đáp ứng nhiều
nhu cầu trong cuộc sống và được công chúng đánh giá tích cực thì khả năng họ gắn
bó với truyền hình sẽ cao. Khi đó truyền hình có nhiều cơ hội truyền thông điệp,
thuyết phục và gây ảnh hưởng tích cực đến công chúng hơn.
65
+ Thứ năm, sự lý giải thông tin của công chúng: Thông điệp truyền thông
mang tính đa nghĩa, chủ thể truyền thông khi sản xuất thông điệp đã lồng trong
thông điệp một ý nghĩa định sẵn. Công chúng khi tiếp nhận thông điệp sẽ tiến hành
lý giải dựa trên các đặc điểm của cá nhân mình. Sự lý giải thông tin của công chúng
là một bước không thể thiếu để có một chu trình truyền thông hoàn chỉnh.
Căn cứ vào những lý thuyết về hiệu quả của truyền thông đại chúng, quá
trình tiếp nhận thông tin đã được trình bày trong phần tổng quan, phần lý luận, tiêu
chí đánh giá ảnh hưởng của TTTP trên TH, nghiên cứu sinh đưa ra thang đo về sự
ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng như sau:
+ Mức 1: Chưa hiểu biết gì về TTTP. Đây là mức độ cơ bản đầu tiên, các
TTTP trên TH đóng vai trò là phương tiện, công cụ để cung cấp kiến thức về tội
phạm đến với mỗi cá nhân.
+ Mức 2: Nắm được các TTTP thông qua truyền hình. Công chúng đã có
hiểu biết nhưng chưa đầy đủ về tội phạm, các loại hình tội phạm, vẫn thiếu kinh
nghiệm đánh giá, phân loại tội phạm.
+ Mức 3: Đã thấy lợi ích khi tìm hiểu thông tin về tội phạm, sự cần thiết phải
hiểu biết về tội phạm, các loại hình tội phạm. Sẵn sàng tiếp nhận các thông tin về
tội phạm trên truyền hình.
+ Mức 4: Công chúng tin tưởng và tìm hiểu TTTP trên TH. TTTP trên TH
giúp công chúng tin tưởng về chính sách phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm.
+ Mức 5: TTTP trên TH giúp công chúng điều chỉnh hành vi xã hội của mình
phù hợp với quy mô, tính chất và khuynh hướng của nguồn tin. Công chúng cũng
nâng cao ý thức cảnh giác, sẵn sàng tiếp cận và tuyên truyền thông tin được cung
cấp, chủ động đấu tranh có hiệu quả với tội phạm.
Để đánh giá các mức độ ảnh hưởng của thang đo nêu trên, nghiên cứu sinh
sử dụng kết hợp phương pháp đo lường định lượng dựa trên khảo sát bằng bảng hỏi
và phân tích định tính các câu trả lời có được từ các cuộc thảo luận nhóm và phỏng
vấn sâu.
66
Tiểu kết
Trong chương 1, ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng được xác
định là sự tác động của những tin, bài trên truyền hình phản ánh về những hành vi
nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại xâm hại đến các quan hệ xã hội, được pháp luật hình sự bảo vệ, bị xử
lý hình sự, làm cho những bộ phận dân cư khác nhau trong xã hội thay đổi nhận
thức, thái độ và hành vi.
Nhận diện ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng là một quá trình
khó khăn và phức tạp, tùy thuộc vào quan điểm tiếp cận, phương pháp đo lường.
Mặc dù, ảnh hưởng của TTTP thể hiện ở nhiều cấp độ và các dạng thức khác nhau,
nhưng có thể nói rằng, cuối cùng hội tụ và thể hiện ở thái độ và hành vi xã hội như
mong đợi. Trong bối cảnh cạnh tranh thông tin như hiện nay, TTTP trên TH nói
riêng đang bị báo mạng điện tử, mạng xã hội tranh chấp về ưu thế, tuy nhiên truyền
hình vẫn là cơ quan báo chí đáng tin cậy với đại đa số công chúng quan tâm, theo
dõi. Thêm vào đó, các cơ quan báo chí truyền hình đã và đang thay đổi công nghệ,
ứng dụng nền tảng số để công chúng có thể dễ dàng tiếp cận.
Chương 1 của luận án đã xây dựng khung lý luận liên quan đến TTTP, phân
loại TTTP, sự ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng, vai trò của truyền
hình trong việc thông tin, cảnh báo, định hướng dư luận; tuyên truyền phổ biến pháp
luật... Kết quả ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng đạt được từ hoạt
động truyền thông của truyền hình với công chúng xét trong mối tương quan với
các mục tiêu truyền thông đã đặt ra ban đầu đó là những ảnh hưởng tích cực khiến
công chúng thay đổi nhận thức và hành vi. Từ quan điểm này, tác giả đã xác lập các
tiêu chí và thang đo để đánh giá: quá trình tìm hiểu và tiếp cận của công chúng với
TTTP trên TH, mức độ ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng, tỉ lệ chia
sẻ thông tin, sự thay đổi trong niềm tin và hành động của công chúng.
67
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN
TỘI PHẠM TRÊN TRUYỀN HÌNH ĐỐI VỚI CÔNG CHÚNG
2.1. Thông tin tổng quan về khảo sát
2.1.1. Thông tin về hai kênh truyền hình trong diện khảo sát
2.1.1.1. Kênh VTV1, Đài Truyền hình Việt Nam
VTVl là kênh truyền hình thông tin thời sự tổng hợp với nội dung thông tin
về mọi mặt đời sống như chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Theo Nghị định số
6/2016/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ phát thanh - truyền hình, kênh
VTV1 là 01 trong 07 kênh truyền hình thiết yếu quốc gia. Theo báo cáo của hệ
thống đo lường khán giả truyền hình VIETNAM-TAM trong “Sách Trắng” của
Bộ Thông tin và Truyền thông 2017 về các chỉ số khán giả của một số kênh truyền
hình thiết yếu quốc gia trong năm 2016, kênh VTV1 có chỉ số khán giả cao nhất
(Hà Nội: 18,7; TP.Hồ Chí Minh:3,1) [8]. Năm 2017 kênh VTV1 duy trì ở vị trí số
1 (Hà Nội: 22; TP.Hồ Chí Minh:3,4)[9].
Trong khuôn khổ của đề tài, nghiên cứu sinh khảo sát hai chương trình
“Chuyển động 24h”, “Thời sự 19h”. Cụ thể:
- Chương trình “Chuyển động 24h”: Nhằm đáp ứng nhu cầu tin tức của
khán giả cả nước, Đài Truyền hình Việt Nam đã xây dựng Trung tâm tin tức
VTV24 với chương trình trọng điểm là “Chuyển động 24h” phát sóng hàng ngày
từ 10/10/2014 với 2 buổi trưa và chiều. Nghiên cứu sinh khảo sát chương trình
“Chuyển động 24h” (trưa) phát sóng trực tiếp hàng ngày, từ 11h15-12h trên
VTV1. Lý do: chương trình “Chuyển động 24h” (chiều) từ 18h30 đến 19h, có
nhiều thông tin phát lại của “Chuyển động 24h” (trưa) đồng thời sát với chương
trình Thời sự 19h (bản tin được lựa chọn khảo sát trong luận án này) nên nghiên
cứu sinh không lựa chọn “Chuyển động 24h” (chiều).
68
Nội dung chương trình “Chuyển động 24h” cung cấp thông tin “nóng”, cập
nhật về mọi mặt của đời sống xã hội như: kinh tế, văn hóa, an ninh, xã hội, thể thao,
giải trí trong và ngoài nước. Tiêu chí trọng tâm, chi phối quá trình làm tin của
chương trình chính là “góc nhìn” dưới con mắt của đông đảo người dân, khiến
chương trình gần gũi với người xem và tạo ra sự khác biệt với các chương trình tin
tức khác của VTV.
- Chương trình “Thời sự 19h”: “Thời sự 19h” được coi là chương trình quan
trọng nhất trong ngày của kênh VTV1. Chương trình được tiếp sóng trên toàn quốc
bởi các kênh truyền hình thiết yếu quốc gia khác và hệ thống các đài phát thanh
truyền hình tỉnh, thành phố. Chính vì vậy, “Thời sự 19h” VTV1 là chương trình
truyền hình có lượng khán giả đông nhất. Hiện chương trình “Thời sự 19h” có thời
lượng 45 phút.
Nội dung trong chương trình “Thời sự 19h” tương đối phong phú, đa dạng,
được chọn lọc kĩ từ nhiều nguồn thông tin trên mọi miền tổ quốc. Ngoài các tin tức
phản ánh về hoạt động của lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, chương trình “Thời sự
19h” giờ luôn có các phóng sự phản ánh, phóng sự điều tra với sự phân tích, lý giải
tường minh được dư luận xã hội quan tâm. Cùng với đó, nhiều sự việc, hiện tượng,
TTTP diễn ra trong cuộc sống; những cách làm sáng tạo, gương người tốt, việc tốt
cũng được phản ánh kịp thời... Thông tin trực tiếp, cập nhật, đa dạng từ chương
trình gây ảnh hưởng đặc biệt lớn, góp phần quan trọng giúp nhân dân nhận thức và
chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật
của Nhà nước.
2.1.1.2. Kênh truyền hình Công an nhân dân (ANTV), Bộ Công an
Kênh truyền hình ANTV hiện nay thuộc Cục Truyền thông CAND, Bộ Công
an. Theo Quyết định số 4372/QĐ-BCA ngày 29/10/2010 của Bộ trưởng Bộ Công an,
Truyền hình Công an nhân dân (ANTV) là cơ quan tuyên truyền, giáo dục chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của Đảng
ủy Công an Trung ương và Bộ trưởng Bộ Công an về công tác bảo vệ an ninh quốc
69
gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng CAND, hoạt động theo Luật
Báo chí, tôn chỉ, mục đích, quy định của Nhà nước và của Bộ Công an.
Theo Nghị định số 6/2016/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ
phát thanh - truyền hình, kênh ANTV là 01 trong 07 kênh truyền hình thiết yếu quốc
gia. Theo báo cáo của hệ thống đo lường khán giả truyền hình VIETNAM-TAM
trong “Sách Trắng” của Bộ Thông tin và Truyền thông 2017 về các chỉ số khán giả
của một số kênh truyền hình thiết yếu quốc gia trong năm 2016: kênh ANTV có chỉ
số khán giả đứng thứ hai (Hà Nội: 2,7; TP.Hồ Chí Minh: 1,9) xếp sau kênh VTV1
[8]. Năm 2017, kênh ANTV cũng xếp thứ 2 (Hà Nội: 2,3; TP.Hồ Chí Minh: 1,7)
sau kênh VTV1 [9].
Trong khuôn khổ của đề tài, nghiên cứu sinh tiến hành nghiên cứu 3 chương
trình “An ninh ngày mới”, “113 Online”, “Thời sự an ninh” vì lý do: ba chương
trình này đều được phát sóng trực tiếp, bắt đầu của ba mốc giờ: sáng (6h00), trưa
(11h30), tối (18h15). Những mốc giờ này giúp biên tập viên xây dựng vỏ phát sóng
có thể bao quát lượng thông tin diễn ra trong ngày, cũng như số lượng tin bài do
phóng viên, cộng tác viên sản xuất trên cơ sở đó tính toán lượng thông tin trong mỗi
chương trình. Cụ thể:
Chương trình “An ninh ngày mới”, phát sóng 6h, thời lượng 45 phút. Cập
nhật những thông tin mới nhất, những diễn biến quan trọng nhất trong nước và thế
giới diễn ra trong đêm. Ngoài ra, trong chương trình còn có các tiểu mục mang tính
chuyên biệt theo nội dung của kênh như: “An toàn giao thông”, “Điểm báo”, “Lệnh
truy nã”...
Chương trình “113 Online”, phát sóng 11h30, thời lượng 15 phút. Đây là bản
tin chuyên biệt duy nhất của ANTV dành toàn bộ thời lượng để đưa các thông tin
về vấn đề an ninh trật tự trong nước. Chương trình thường xuyên sử dụng các hình
thức cập nhật thông tin thông qua việc kết nối trực tiếp (breaking news, điện thoại)
từ trường quay đến phóng viên có mặt tại hiện trường để tăng tính chân thực, sống
động trong bản tin.
70
Chương trình “Thời sự an ninh”, phát sóng 18h15, thời lượng 45 phút.
Chương trình tổng hợp những sự kiện quan trọng diễn ra trong ngày, những vấn đề,
sự kiện thời sự trong nước và quốc tế. Những vấn đề về kinh tế, văn hóa, xã hội,
giáo dục... đều được đề cập dưới góc độ an ninh trật tự.
2.1.2. Thông tin mẫu nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu, khảo sát đại diện công chúng tại ba tỉnh, thành
phố: Hà Nội, TPHCM, Đắk Lắk do các địa phương này tình hình ANTT phức tạp,
tỷ lệ tội phạm luôn ở mức cao. Cụ thể:
+ Năm 2016, chỉ tính số vụ phạm pháp hình sự, toàn quốc xảy ra 54.561 vụ,
trong đó: Hà Nội xảy ra 5087 vụ (chiếm 9,3%); TP Hồ Chí Minh xảy ra 5205 vụ
(chiếm 9,5%); Đắk Lắk xảy ra 1415 vụ (chiếm 2,6%) (Số vụ phạm pháp hình sự
xảy ra tại Đắk Lắk luôn ở mức cao so với một số tỉnh, thành phố khu vực miền
Trung như: Lâm Đồng 563 vụ (1,03%); Gia Lai 649 (1,18%); Bình Thuận 566 vụ
(1,03%)…) [6, 10,11,12].
+ Năm 2017: toàn quốc xảy ra 52.000 vụ phạm pháp hình sự, trong đó Hà
Nội xảy ra 4800 vụ (9,2%), TP Hồ Chí Minh xảy ra 4809 vụ (9,2%), Đắk Lắk xảy
ra 1457 vụ (2,8%) (Số vụ phạm pháp hình sự xảy ra tại Lâm Đồng, Gia Lai, Bình
Thuận... vẫn thấp hơn rất nhiều so với Đắk Lắk) [6, 10,11,12].
Trên đây là thống kê về số vụ phạm pháp pháp hình sự xảy ra trên phạm vi
toàn quốc và 3 địa bàn khảo sát trong 2 năm 2016-2017, những năm tiếp theo tỷ lệ
số vụ phạm pháp pháp hình sự tăng, giảm với biên độ 5-8% trên tổng số vụ đối với
địa bàn tỉnh, thành phố trong diện khảo sát và 3 địa bàn này tỷ lệ số vụ phạm pháp
pháp hình sự luôn ở mức cao so với các tỉnh, thành phố trong toàn quốc [6,
10,11,12].
2.1.2.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu trong phiếu khảo sát công chúng
Số lượng phiếu phát ra là 600 phiếu, số lượng phiếu thu về là 579 trong đó
có 511 phiếu đầy đủ thông tin hợp lệ và được phân bổ về số lượng, tỷ lệ như ở bảng
dưới đây.
71
Bảng 2.1: Cơ cấu mẫu khảo sát
Phân chia theo khu vực Chung
Địa bàn Đô thị Nông thôn
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
lượng lượng lượng (%) (%) (%)
Hà Nội 49,4 50,6 33,7 172 87 85
Đắk Lắk 43,7 56,3 34,1 174 98 76
TP. Hồ Chí Minh 42,4 57,6 32,2 165 95 70
Tổng 45,2 54,8 100,0 511 280 231
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Về các đặc trưng nhân khẩu học - xã hội của công chúng truyền hình trong
mẫu khảo sát:
Giới tính: 58,7% là nam giới, 41,3% là nữ giới.
Độ tuổi: Độ tuổi nhỏ nhất của người trả lời là 14 tuổi, lớn nhất là 84 tuổi, độ
tuổi trung bình là 40,47 tuổi.
Phân bố về độ tuổi của người trả lời cụ thể như sau: <= 30 tuổi (35,7%); từ
31 – 45 tuổi (31,2%); từ 46 tuổi trở lên (33,1%).
Nghề nghiệp: 26,2% cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; 17,1% cán bộ
hưu trí; 13,9% lao động tự do; 13,5% buôn bán, dịch vụ. Các ngành nghề khác chiếm
tỷ lệ không nhiều là: sinh viên, nông dân, công nhân nhà máy, thợ thủ công. Ngoài
ra, có 5,5% số người làm nội trợ hoặc không làm việc và 2,2% làm nghề khác.
Bảng 2.2: Nghề nghiệp của người trả lời
Nghề nghiệp Tỷ lệ (%)
1. Cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước 26,2
2. Buôn bán, dịch vụ 13,5
3. Lao động tự do 13,9
4. Công nhân nhà máy 3,7
72
Nghề nghiệp Tỷ lệ (%)
5. Cán bộ hưu trí 17,1
6. Sinh viên 8,8
7. Thợ thủ công 1,8
8. Nông dân 7,3
9. Nội trợ, không làm việc 5,5
10. Khác 2,2
Tổng 100,0
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Trình độ học vấn: 43,5% cao đẳng đại học; 25,9% phổ thông trung học;
14,7% trung học cơ sở. Số còn lại có trình độ học vấn ở các bậc khác, trong đó có:
4,9% sau đại học; 6,1% trung cấp/THCN; 3,3% trình độ tiểu học; 1,6% người có
trình độ học vấn khác.
Bảng 2.3: Trình độ học vấn của người trả lời
Trình độ học vấn Tỷ lệ (%)
Tiểu học 3,3
Trung học cơ sở 14,7
Phổ thông trung học 25,9
Trung cấp/ THCN 6,1
Cao đẳng, đại học 43,5
Sau đại học 4,9
Khác 1,6
Tổng 100,0
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Tình trạng hôn nhân: 71,9% người trả lời đã có vợ/chồng; 24,2% chưa kết
hôn và 4,0% li thân, li hôn, góa hoặc sống chung không kết hôn.
73
Mức sống tự đánh giá của người trả lời: 81,8% có mức sống trung bình;
11,0% chọn mức khá giả; 0,4% chọn mức giàu có và 6,7% chọn mức sống thấp.
Bảng 2.4: Mức sống của người tham gia khảo sát
Mức sống Tỷ lệ (%)
Giàu có 0,4
Khá giả 11,0
Trung bình 81,8
Thấp 6,8
Tổng 100
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
2.1.2.2. Đặc điểm mẫu nghiên cứu thực nghiệm và thảo luận nhóm
Nghiên cứu sinh tiến hành thực nghiệm và thảo luận nhóm để đánh giá ảnh
hưởng của TTTP đối với công chúng. Thực nghiệm và thảo luận nhóm được tiến
hành đối với công chúng ở ba tỉnh/thành phố là Hà Nội, Đắk Lắk và TP. Hồ Chí
Minh. Mỗi phường/xã tổ chức 03 cuộc thảo luận (cán bộ viên chức phường xã; cán
bộ khu phố/thôn; người dân), mỗi cuộc thảo luận 6-8 người. Tổng số 18 cuộc thảo
luận với 133 người tham gia. Số lượng phiếu thực nghiệm phát ra là 133 phiếu, số
lượng phiếu thu về là 133, được phân bổ về số lượng và tỷ lệ như ở bảng dưới đây:
Bảng 2.5: Cơ cấu mẫu khảo sát thực nghiệm và thảo luận nhóm
Phân theo khu vực Chung
Địa điểm Đô thị Nông thôn
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
lượng lượng lượng (%) (%) (%)
47,7 52,3 33,1 44 23 Hà Nội 21
51,2 48,8 32,3 43 21 Đắk Lắk 22
52,2 47,8 34,6 46 22 TP. Hồ Chí Minh 24
50,4 49,6 133 100,0 66 Tổng 67
Nguồn: Kết quả thực nghiệm công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
74
Về các đặc trưng nhân khẩu học - xã hội của người dân tham gia thảo luận
nhóm và thực nghiệm trong mẫu khảo sát:
Giới tính: 78,2% nam giới, 21,8% nữ giới.
Độ tuổi: độ tuổi nhỏ nhất là 29 tuổi, lớn nhất là 74 tuổi, độ tuổi trung bình là
52,2 tuổi. Phân bố về độ tuổi của người trả lời cụ thể như sau: <= 30 tuổi (4,5%); từ
31 - 45 tuổi (27,1%); từ 46 tuổi trở lên (68,4%).
Bảng 2.6: Nghề nghiệp của người tham gia thực nghiệm và thảo luận nhóm
Nghề chính
1. Cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước
2. Lao động tự do
3. Cán bộ hưu trí
4. Nông dân
Tổng Tỷ lệ (%)
22,6
6,8
6
64,6
100,0
Nguồn: Kết quả thực nghiệm công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
2.1.2.3. Đặc điểm mẫu nghiên cứu tin, bài thông tin tội phạm trong giai đoạn
2016 - 2017
Để đánh giá thực trạng cung cấp TTTP trong giai đoạn 2016 - 2017 trên
VTV1 và ANTV của 05 chương trình: Chuyển động 24h, Thời sự 19h, An ninh
ngày mới, 113 Online, Thời sự an ninh. Các tin, bài về TTTP được phát sóng trong
thời gian từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2017 được lấy toàn bộ để đưa vào
đánh giá. Tổng số tin, bài trong giai đoạn 2016 - 2017 được khảo sát là 6.449 tin
bài. Tỷ lệ cụ thể như ở dưới bảng đây:
Bảng 2.7: Cơ cấu mẫu khảo sát tin, bài thông tin tội phạm
trong giai đoạn 2016 - 2017
Kênh Chương trình Số lượng Tỷ lệ (%) Tổng (%)
1. Chuyển động 24h 232 63,7 3,6
VTV1 2. Thời sự 19h 132 36,3 2,0
Tổng 364 100,0 5,6
75
Kênh Chương trình Số lượng Tỷ lệ (%) Tổng (%)
3. An ninh ngày mới 1799 29,6 27,9
ANTV 4. 113 Online 2888 47,5 44,8
5. Thời sự an ninh 1398 23,0 21,7
Tổng 6085 100,0 94,4
Tổng cộng 6449 100,0 100,0
Nguồn: Kết quả khảo sát TTTP phát sóng trên VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017
Thể loại: Các tin, bài về TTTP được phát sóng trong giai đoạn 2016-2017
chủ yếu là thể loại tin (87%) và thể loại bài phản ánh/phóng sự (13%). Trong đó
hình ảnh được sử dụng chính trong các tin bài là dạng video (91,4%), ảnh tĩnh
(8,4%) và một số ít tin, bài sử dụng các loại hình khác (0,2%).
Biểu đồ 2.1: Thể loại và hình ảnh sử dụng tin, bài
Tính theo tỷ lệ %
về thông tin tội phạm trong giai đoạn 2016 – 2017
Nguồn: Kết quả khảo sát TTTP phát sóng trên VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017
2.2. Thực trạng cung cấp thông tin tội phạm trên truyền hình
2.2.1. Số lượng tin, bài thông tin tội phạm phát sóng trên VTV1 và ANTV
Theo khảo sát trong giai đoạn 2016-2017, số tin, bài TTTP được phát sóng
trong “113 Online” chiếm nhiều nhất 44,8%; tiếp đến là “An ninh ngày mới” với
số tin, bài chiếm 27,9%; “Thời sự an ninh” có số tin, bài chiếm 21,7%; “Chuyển
động 24h” chiếm 3,6% và “Thời sự 19h” chiếm 2%.
76
Biểu đồ 2.2: Số lượng tin, bài thông tin tội phạm trên các chương trình được
Chuyển động 24
3.60%
Thời sự 19h
2.00%
An ninh ngày mới
27.90%
113 online
44.80%
Thời sự An ninh
21.70%
0.00% 5.00% 10.00% 15.00% 20.00% 25.00% 30.00% 35.00% 40.00% 45.00% 50.00%
khảo sát của VTV1 và ANTV
Nguồn: Kết quả khảo sát TTTP phát sóng trên VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017
Xét về tỷ lệ tin, bài liên quan đến TTTP phát sóng trong một ngày cho thấy,
“113 Online” có số tin, bài đăng trong ngày cao nhất trong số 05 chương trình được
khảo sát với 4 tin bài/ngày. Tỷ lệ này ở chương trình “An ninh ngày mới” là 2,5 tin,
bài/ngày và của “Thời sự an ninh” là 1,9 tin bài/ngày. Số tin, bài về TTTP trên các
chương trình của VTV1 thấp hơn rất nhiều so với các chương trình của ANTV.
Trung bình cứ khoảng 3 ngày sẽ có 01 tin, bài về TTTP trong chương trình “Chuyển
động 24h” và khoảng 5 ngày sẽ có 01 tin, bài về TTTP được đề cập trong chương
trình “Thời sự 19h”.
Có thể thấy, những tin, bài về TTTP cần tăng về tần suất và số lượng tin, bài.
Đặc biệt đối với các chương trình của VTV1, số lượng tin, bài chưa cao có thể dẫn
đến tình trạng tỷ lệ người dân tiếp cận được các thông tin thấp, đồng thời hiệu quả
tuyên truyền cung cấp thông tin không lớn. Nhiều người dân tham gia khảo sát cũng
đề xuất tăng tần suất tin, bài về TTTP để số lượng người tiếp cận nhiều hơn…
77
Theo tôi cần tăng cường hơn nữa về tần suất và số lượng tin bài liên
quan đến TTTP. Thông tin phải nhắm trúng đối tượng quan tâm, hiện nay
chủ yếu là người già xem VTV1 và ANTV mới biết được thông tin, còn
người trẻ thì ít xem qua tivi.
[Nam, 50 tuổi, người dân phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội].
Nên tăng thêm các tin về tội phạm trên truyền hình, đặc biệt là vào
chương trình thời sự, nếu không thì cũng phải vào khoảng thời gian gần đó,
bởi vì đó là thời gian các gia đình ăn cơm. Hầu hết các gia đình đều có thói
quen vừa ăn cơm vừa xem tivi cập nhật tin tức thời sự.
[Nữ, 29 tuổi, người dân phường Tân Lợi, TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk].
2.2.2. Hình thức phát sóng thông tin tội phạm trên VTV1 và ANTV
Theo kết quả khảo sát, TTTP trong giai đoạn 2016-2017 được phát sóng theo
2 dạng chính là tin (chiếm 87%) và bài phản ánh/phóng sự (chiếm 13%). Trong đó,
các tin, bài đều sử dụng video được sản xuất bởi đội ngũ phóng viên/biên tập viên
hoặc cộng tác viên là chủ yếu (91,4% các tin bài sử dụng hình ảnh bằng video). Có
8,4% các tin, bài về tội phạm trong giai đoạn 2016-2017 sử dụng hình ảnh tĩnh khi
truyền tải thông tin. Một số rất nhỏ các tin bài sử dụng các loại hình khác khi truyền
tải thông tin (chiếm 0,2%). Việc sử dụng video là chính trong các tin, bài về TTTP
thể hiện đặc trưng của truyền hình bởi điểm khác biệt của truyền hình với các
phương tiện truyền thông khác chính là sử dụng hình ảnh động để truyền tải thông
tin (xem biểu đồ 2.1).
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, nguồn tin được sử dụng trong các tin, bài về
TTTP trong giai đoạn 2016 - 2017 chủ yếu được cung cấp từ các cộng tác viên
(chiếm 75,5%) và thông tin thu thập được từ phóng viên/biên tập viên (chiếm
22,3%). VTV1 và ANTV rất ít khi sử dụng các thông tin thứ cấp được lấy từ các
phương tiện thông tin đại chúng khác hay từ những nguồn khác.
78
Biểu đồ 2.3: Nguồn cung cấp tin, bài thông tin tội phạm trong
75.5
80.0
Tính theo: Tỷ lệ %
70.0
60.0
50.0
40.0
30.0
22.3
20.0
10.0
2.0
0.2
0.0
2. Cộng tác viên
4. Từ nguồn khác (ghi rõ)
1. Phóng viên/Biên tập
viên
3. Từ phương tiện thông
tin đại chúng khác
giai đoạn 2016 - 2017 trên VTV1 và ANTV
Nguồn: Kết quả khảo sát TTTP phát sóng trên VTV1 và ANTV
trong năm 2016-2017
Có thể thấy, với truyền hình nguồn thông tin được kiểm chứng rất quan trọng,
vì vậy những thông tin khi phát sóng đều phải được xác minh thông qua đội ngũ
PV, BTV, CTV. Điều này giúp cho chất lượng thông tin được khẳng định và cũng
tạo được nét đặc trưng riêng biệt của từng kênh truyền hình nhằm cạnh tranh có
hiệu quả với các loại hình truyền thông khác. Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu
thông tin của người dân, hàng ngày VTV1 và ANTV đều phải phân loại và chắt lọc
thông tin từ rất nhiều nguồn khác nhau, qua nhiều khâu, sau đó mới đến công đoạn
cuối cùng là phát sóng. Đây thực sự là khối lượng công việc rất lớn và đòi hỏi sự
nghiêm túc, tập trung cao độ, nhạy bén và có kỹ năng tốt trong quá trình làm việc
của đội ngũ PV, BTV, CTV của 02 kênh.
2.2.3. Nội dung thông tin tội phạm đã được phát sóng trên VTV1 và ANTV
Trong giai đoạn 2016-2017, các tin, bài được phát sóng phần nhiều liên quan
đến các nhóm tội xâm phạm sở hữu; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự con người và các tội phạm về ma túy. Cụ thể: Các tin, bài liên quan đến tội
phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người chiếm 20,8%
(bao gồm một số tội: giết người; đe dọa giết người; cố ý gây thương tích; hành hạ
79
người khác; hiếp dâm; mua bán người; làm nhục người khác và tội bắt, giữ hoặc
giam người trái pháp luật).
29,5% các tin, bài có nội dung đề cập đến các tội xâm phạm sở hữu (bao gồm
các tội: cướp tài sản; bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; cưỡng đoạt tài sản; cướp
giật tài sản; công nhiên chiếm đoạt tài sản; trộm cắp tài sản; lừa đảo chiếm đoạt
tài sản; lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản). Nhóm tội danh này được đề cập trong TTTP nhiều nhất và cũng được đông
đảo công chúng quan tâm nhất nguyên nhân là do hành vi phạm tội xâm phạm trực
tiếp đến tài sản của con người.
18,1% thông tin liên quan đến các tội phạm về ma túy (tội trồng cây thuốc
phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy; tội tàng
trữ trái phép chất ma túy; tội vận chuyển trái phép chất ma túy; tội mua bán trái
phép chất ma túy; tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy). Các loại tội phạm
khác cũng được đề cập trong giai đoạn 2016-2017 nhưng tỷ lệ thấp hơn đặc biệt là
các tội phạm liên quan đến xâm phạm an ninh quốc gia; tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp.
Biểu đồ 2.4: Các loại tội phạm trong các chương trình khảo sát được phát sóng
trên VTV1 và ANTV trong giai đoạn 2016-2017
Nguồn: Kết quả khảo sát TTTP phát sóng trên VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017
80
Các tin, bài về tội phạm được phát sóng trên truyền hình chủ yếu là thông tin
về vụ việc, loại tội phạm (chiếm 97,9% trên tổng số các tin, bài). 25,5% các tin bài
đề cập đến phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm và 18,5% các tin bài có
nội dung về biện pháp phòng ngừa tội phạm. Trong những vụ việc được phát sóng
thì phần lớn đều trong giai đoạn bắt giữ nghi can (chiếm 43% tin, bài), giai đoạn
điều tra (28,9% tin, bài), giai đoạn hành vi phạm tội được phát giác (20,9% tin, bài).
Những thông tin về vụ việc trong thời điểm mới xác định được nghi can và xét xử
vụ án cũng được phát sóng nhưng số lượng tin, bài rất nhỏ (5,3% các vụ việc được
phát sóng vào thời điểm xét xử và có 1,7% vụ việc được phát sóng vào thời điểm đã
xác định được nghi can).
Biểu đồ 2.5: Giai đoạn phát sóng về vụ việc trong thông tin tội phạm
trên VTV1 và ANTV trong giai đoạn 2016-2017
Nguồn: Kết quả khảo sát TTTP phát sóng trên VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017
Với đặc thù là những kênh thông tin chính thống của nhà nước nên những
nội dung truyền tải đòi hỏi có độ chính xác cao vì vậy thời điểm phát sóng là rất
quan trọng. Nếu những thông tin trên truyền hình được phát sóng tập trung vào thời
điểm mới xác định được nghi can hay đơn thuần là thông tin xảy ra vụ việc sẽ rất
dễ xảy ra tình trạng gây xôn xao dư luận hay dẫn đến những đánh giá sai lầm của
người dân khi xem. Vì vậy, để đảm bảo thông tin chính xác và độ tin cậy cao thì
thời điểm phát sóng tập trung vào giai đoạn bắt giữ nghi can và điều tra là rất hợp
lý. Tuy nhiên, để tăng cường cung cấp thông tin về xử lý vụ việc thì giai đoạn xét
xử vụ án cũng cần được chú trọng hơn...
81
TTTP trên TH phải hết sức thận trọng, không đưa những hình ảnh
ghê rợn. Tôi nhận thấy trên báo chí hiện nay nhiều đơn vị đưa tin rất tỉ
mỉ, bóp cổ như thế nào, chặt tay, chém ra sao... nói chung rất phản cảm
về cả ngôn ngữ và hình ảnh. Chính vì vậy, điều đáng lưu tâm nhất khi
đưa tin về tội phạm trên báo chí hiện nay là cần thận trọng về mặt hình
ảnh bởi vì nó tác động rất ghê gớm về mặt tâm lý.
[PVS, Mã 13, Nam, Chủ tịch Hội Nhà báo TPHCM].
Nội dung được đề cập nhiều nhất trong các tin, bài đã được phát sóng ở giai
đoạn 2016-2017 là về loại tội phạm, người phạm tội/bị tình nghi là tội phạm và nơi
diễn ra hành vi phạm tội. Cụ thể, có 62,1% tin, bài đề cập đến loại tội phạm, 53,6%
tin, bài đề cập về người phạm tội/bị tình nghi là tội phạm và 48,1% đề cập đến nơi
diễn ra hành vi phạm tội. Nội dung về mức phạt, hình thức phạt được đề cập ít hơn
trong các tin, bài trên cả VTV1 và ANTV.
Biểu đồ 2.6: Nội dung thông tin tội phạm được đề cập nhiều nhất trên VTV1 và
ANTV giai đoạn 2016-2017
Nguồn: Kết quả khảo sát TTTP phát sóng trên VTV1 và ANTV
Mức phạt, hình thức phạt
5.5%
Nạn nhân (nếu có)
11.8%
Nơi diễn ra hành vi phạm tội
48.1%
Người phạm tội/bị tình nghi là tội phạm
53.6%
Loại tội phạm
62.1%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
trong năm 2016-2017
So sánh cơ cấu nội dung đề cập trong các tin, bài cho thấy, các tin bài của
VTV1 thường tập trung đề cập về nơi diễn ra hành vi phạm tội (chiếm 61,4% các tin,
82
bài), người phạm tội/bị tình nghi là tội phạm (chiếm 27,2% các tin, bài). Trong khi
đó, nội dung các tin, bài của ANTV thường đề cập đến loại tội phạm (chiếm 65,3%
các tin, bài), người phạm tội/bị tình nghi là tội phạm (chiếm 54,6% các tin, bài), nơi
diễn ra hành vi phạm tội (chiếm 47,3% các tin, bài). Những số liệu trên cho thấy sự
khác biệt tương đối rõ giữa kênh chuyên biệt ANTV và VTV1 trong nội dung phát
sóng về TTTP. Thời lượng và số lượng tin, bài của VTV1 về TTTP là thấp hơn so
với ANTV do VTV1 chỉ phát sóng vụ việc nổi bật. Trong khi ANTV chú trọng tuyên
truyền phổ biến kiến thức về các loại hình tội phạm, cập nhật tình hình tội phạm trên
cả nước nên các nội dung này cũng được chú ý hơn so với VTV1…
Truyền hình nên khai thác theo hướng xã hội quan tâm. Bởi vì
những TTTP đó có thể người ta đã biết qua mạng xã hội, trên báo
điện tử. Vấn đề là làm thế nào để cảnh báo cho người xem, pháp luật
sẽ xử lý thế nào? Bài học cho bản thân là gì như vậy khán giả sẽ tiếp
cận nhiều hơn. Truyền hình phải đi sâu hơn, ví dụ một vụ đánh ghen
trên phố thì thì không thể đưa lên sóng đài truyền hình quốc gia nhưng
có thể phản ánh dưới góc độ: làm thế nào để phòng tránh, vi phạm
điều luật nào, phân tích khía cạnh đạo đức… Những góc độ như vậy
sẽ hiệu quả hơn là chỉ liệt kê vụ việc.
[PVS, Mã 03, Nam, Phó Trưởng phòng VHXH, Trung tâm Tin tức 24].
Hiện nay, TTTP phần lớn là phản ánh vụ việc, giật gân, câu
view nhất là trên báo mạng điện tử. Những thông tin chuyên sâu như
phòng ngừa tội phạm, đưa ra những bài học, đề cao tính cảnh giác và
đưa ra những thủ đoạn của tội phạm để giúp người dân nâng cao cảnh
giác mật độ chưa nhiều, chiếm một tỷ lệ nhỏ so với các vụ việc mà
báo chí phản ánh. Đây là điểm cần được chúng ta tập trung khai thác
trong thời gian tới.
[PVS, Mã 10, Nam, Trưởng ban Thời sự, Báo CAND].
83
Trong mỗi vụ việc phải có cách viết đúng định hướng, thứ nhất
là cảnh báo cho xã hội, thứ hai là lên án những hành động đó. Quan
trọng nhất là trên tổng thể, một bản tin truyền hình hay một trang báo
phải cân đối các loại tin tức, không thể chỉ đưa về một vấn đề. Để tránh
những TTTP giật gân thì phải từ người đưa tin. Phóng viên, biên tập
viên cần có cái gốc, phải tự ý thức được và lựa chọn những gì cần thiết
đối với xã hội.
[PVS, Mã 13, Nam, Chủ tịch Hội Nhà báo TPHCM].
Bên cạnh đó, trong các nội dung phát sóng về TTTP thì chủ thể của vụ việc là
một nội dung quan trọng được đề cập. Đánh giá về cách phát sóng thông tin về người
phạm tội/bị tình nghi là tội phạm cho thấy, phần lớn những tin, bài được phát sóng
đều chỉ rõ giới tính của người phạm tội/bị tình nghi là tội phạm. Trong đó phần lớn
các vụ việc đều do nam giới là đối tượng phạm tội/bị tình nghi là tội phạm (83.1%).
Những người phạm tội/bị tình nghi là tội phạm là nữ chỉ chiếm 5,4%.
Biểu đồ 2.7: Cách thể hiện thông tin liên quan đến người phạm tội/bị tình nghi
là tội phạm trong các tin bài của VTV1 và ANTV trong giai đoạn 2016-2017
Cách đề cập đến giới tính Cách nêu danh của người phạm tội
Nguồn: Kết quả khảo sát TTTP phát sóng trên VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017
84
Cách nêu danh người phạm tội trong các tin, bài phần lớn là gọi đầy đủ họ
tên (46.8% các tin, bài). 34,7% các tin, bài sử dụng cách xưng danh khác (ví dụ ca
sĩ, hoa hậu...) khi nêu danh người phạm tội. Khi so sánh giữa ANTV và VTV1 cho
thấy điểm khác biệt giữa 2 kênh trong cách nêu danh của người phạm tội. Cụ thể, ở
kênh VTV1 cách nêu danh theo hình thức xưng danh khác (ví dụ: ca sĩ, hoa hậu…)
được sử dụng nhiều nhất (chiếm 65,4% trong các tin bài) tiếp theo là gọi họ tên đầy
đủ (chiếm 27,7% trong các tin bài). Đối với ANTV, cách nêu danh được sử dụng
nhiều nhất là gọi họ tên đầy đủ của người phạm tội (chiếm 47,9% các tin bài) kế
đến mới là sử dụng hình thức xưng danh khác (ví dụ: ca sĩ, hoa hậu…) với 32,9%.
Đáng chú ý, trên 2 kênh VTV1 và ANTV vẫn có những tin, bài sử dụng những từ
ngữ mang tính miệt thị như y, thị, hắn, tên, kẻ, hung thủ, thủ phạm (chiếm 6,7%).
2.3. Những ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình
2.3.1. Ảnh hưởng đến quá trình tìm hiểu và tiếp cận thông tin tội phạm
của công chúng
Tiếp cận TTTP là một trong những quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người
dân được quy định trong Hiến pháp 2013 và Luật Tiếp cận thông tin 2016. Theo
quy định trong Hiến pháp và Luật Tiếp cận thông tin 2016, mọi công dân đều bình
đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Việc
cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; đúng trình tự,
thủ tục theo quy định của pháp luật; phù hợp với tính chất của thông tin được yêu
cầu cung cấp và khả năng của cơ quan, đơn vị. Có thể nói, cung cấp TTTP qua
truyền hình đến với người dân cả nước giúp đảm bảo quyền lợi chính đáng, hợp
pháp cho người dân. Những thông tin được cung cấp cũng tạo những ảnh hưởng cụ
thể đến nhận thức và hành vi của người dân. Dưới đây là các kết quả khảo sát,
nghiên cứu về ảnh hưởng của TTTP trên TH đến quá trình tìm hiểu và tiếp cận
TTTP đối với công chúng:
2.3.1.1. Truyền hình là kênh chủ yếu nơi công chúng tiếp cận thông tin tội phạm
Như đã đề cập ở Chương 1, sự tiếp cận của công chúng với TTTP trên TH
là tiêu chí đánh giá cơ bản nhất để cho biết TTTP trên TH có đạt hiệu quả hay
85
không. Từ những kết quả khảo sát cho thấy, TTTP được người dân tiếp cận rất dễ
dàng, thông qua các kênh thông tin khác nhau (truyền hình, phát thanh, báo điện
tử, mạng xã hội,báo in, hệ thống truyền thanh cơ sở, truyền miệng, cán bộ địa
phương…). Trong các kênh thông tin trên, truyền hình là kênh thông tin về tội
phạm được nhiều người biết đến nhất với 81,8% người tham gia khảo sát lựa chọn.
Tiếp theo đó là báo mạng điện tử với 57,1% và truyền thông/mạng xã hội
(Youtube, Facebook,…) là 56,8%. Có 16,8% người tham gia khảo sát cho biết họ
tiếp cận thông tin về tội phạm qua đài phát thanh và tỷ lệ tiếp cận qua báo in là
13,3%. Các kênh giao tiếp mang tính truyền miệng như bạn bè, hàng xóm, đồng
nghiệp và người thân, họ hàng cũng được nhiều người tham gia khảo sát tiếp cận
nhưng tỷ lệ không cao.
Biểu đồ 2.8: Thực trạng tiếp cận thông tin tội phạm của công chúng
qua các kênh thông tin hiện nay
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Truyền hình cũng là kênh phản ánh TTTP được nhiều người tham gia thảo
luận nhóm tiếp cận nhiều nhất và đánh giá hiệu quả tuyên truyền cao nhất so với
các kênh khác. Nguyên nhân được đưa ra do truyền hình phổ biến hơn, dễ tiếp cận
86
hơn, ở độ tuổi nào cũng có thể xem được không giống như các kênh thông tin khác
như báo mạng, mạng xã hội, truyền miệng... Với truyền hình, họ không phải chủ
động thao tác, tìm kiếm, đồng thời TTTP luôn gắn với thông tin thời sự nên dễ nhớ
thời điểm phát sóng, tiếp cận. Đây là lợi thế lớn nhất của truyền hình đối với công
chúng khi cập nhật TTTP. Có thể nói, với tiêu chí công chúng tiếp cận được thông
tin tội phạm thì truyền hình đã thành công trong việc tạo độ phủ thông tin và trở
thành kênh tiếp cận thông tin tội phạm phổ biến nhất của họ. Bên cạnh đó, một số
công chúng được phỏng vấn cũng cho rằng báo mạng điện tử, MXH đang dần trở
thành một kênh thông tin chính và hiệu quả tương đối chính xác đối với họ…
Đối với đồng bào dân tộc chỉ có truyền hình là phổ biến nhất,
hiệu quả nhất bởi vì phần lớn gia đình nào cũng có tivi, báo in thì khó
vì nhiều bà con chưa biết đọc. Truyền hình mặc dù phần lớn là tiếng
Kinh nhưng bà con vẫn nghe được, cho dù nghe lõm bõm thì cũng
biết hơn, rõ hơn.
[PVS, Mã 05, Nam, Chủ tịch Hội Nhà báo Đắk Lắk].
Kênh VTV1 là kênh quốc gia nên có độ tin cậy, chính xác,
khách quan, toàn diện... Kênh ANTV ra đời sau, là một kênh mới
nhưng cũng tính chính xác rất cao. Các tiêu chí của kênh lập ra làm
cho người ta có niềm tin mà khi có niềm tin thì người ta lan tỏa, rỉ tai
và bảo nhau xem nhiều hơn.
[PVS, Mã 14, Nam, Phó Trưởng phòng ANTV Đắk Lắk].
Tôi là công an nên việc theo dõi TTTP vừa là nhiệm vụ vừa là
sở thích. Tôi theo dõi TTTP chủ yếu là qua ANTV vì đây là kênh
chuyên biệt tuy nhiên thời gian xem chủ yếu là sáng sớm và buổi tối.
[Nam, 37 tuổi, Công an phường Yên Phụ, Tây Hồ, Hà Nội].
Kết quả khảo sát cho thấy, trong số 511 người tham gia trả lời bảng hỏi khảo
sát công chúng thì chỉ có 3 người là không xem tin tức trên cả VTV1 và ANTV, 10
người chỉ xem một trong hai kênh VTV1 và ANTV. Các kênh VTV1 và ANTV
87
được người tham gia khảo sát tiếp cận phần lớn là ở mức độ hàng ngày và vài
lần/tuần. Kênh VTV1 có mức độ tiếp cận hằng ngày là 45,6%, kênh ANTV là
31,8%, tỷ lệ tiếp cận ở mức vài lần/tuần của kênh VTV1 là 32,1% và ANTV là
33,5%. Số còn lại tiếp cận thông tin trên hai kênh truyền hình này với tần suất thưa
hơn, chủ yếu tập trung ở mức vài lần/tháng, còn những người tiếp cận vài lần/năm
hoặc lâu hơn chiếm tỷ lệ nhỏ. Hiện nay, nhu cầu thông tin của công chúng rất lớn,
nguồn thông tin hiện nay cũng rất đa dạng nhưng VTV1 và ANTV vẫn có lượng
khán giả đông đảo thường xuyên theo dõi đã cho thấy nội dung của 2 kênh thông
tin có sức hút và được công chúng tin tưởng. Qua đó đã hình thành thói quen cập
nhật thông tin trên VTV1 và ANTV.
Biểu đồ 2.9: Mức độ tiếp cận thông tin tội phạm trên 02 kênh truyền hình
VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017
Nguồn: Kết quả khảo sát TTTP phát sóng trên VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017 và
kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Theo kết quả khảo sát, khi xem VTV1 và ANTV những thông tin được công
chúng chú ý thường là thông tin thời sự, chính trị trong nước, TTTP và các thông
tin thời tiết, giải trí khác (ca nhạc, thể thao, người nổi tiếng…). Trong đó, 92,2%
người tham gia khảo sát cho rằng thông tin về tội phạm là một trong những thông
tin được ưu tiên hàng đầu của người dân khi xem VTV1 và ANTV. Với họ những
88
thông tin về tội phạm trên VTV1 và ANTV là nguồn tin quan trọng và thường xuyên
theo dõi. Bên cạnh đó, theo đánh giá của công chúng, số tin bài về TTTP trên VTV1
là ít và chưa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu của họ như ANTV. TTTP trên VTV1
thường là thông tin về những vụ án lớn, gây ảnh hưởng lớn đến xã hội. Thực tế khảo
sát số lượng TTTP trong giai đoạn 2016-2017 cũng cho kết quả tương tự, chỉ có
5,6% tin, bài tội phạm phát sóng trên VTV1 còn 94,4% số tin, bài về tội phạm là
trên ANTV. Theo các chuyên gia trong ngành truyền hình và truyền thông được
phỏng vấn, sự chênh lệch này giữa ANTV là do đặc thù của hai kênh, ANTV là
kênh truyền hình chuyên biệt trong khi VTV1 cần phải chọn lọc rất kĩ trong rất
nhiều thông tin quan trọng từ mọi miền tổ quốc. TTTP trên VTV1 sẽ thiên nhiều về
các vụ án được dư luận quan tâm, xây dựng các phóng sự phân tích, lý giải và cập
nhật thông tin cảnh báo chung về tình hình tội phạm...
Tôi chủ yếu xem thông tin qua tivi, nhất là kênh của VTV, từ
ngày có thêm kênh ANTV thì tôi lại có thêm các chương trình của
ANTV. Tôi thích xem các chương trình như An ninh ngày mới, 113
online và chương trình hồ sơ vụ án... rất là nhiều thông tin bổ ích.
[Nam, 52 tuổi, Người dân phường Cổ Nhuế 2, Bắc Từ Liêm, Hà Nội].
Tôi ít khi có thời gian xem tivi, chủ yếu là xem qua báo mạng,
mạng xã hội. Tivi chủ yếu chỉ xem thời sự của VTV và xem bản tin
nhanh của ANTV sau khi xem xong thời sự VTV1.
[Nữ, 34 tuổi, người dân thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M’gar, Đắk Lắk].
Với VTV và các kênh truyền hình khác TTTP chỉ phát sóng
một thời điểm nhất định, do bị hạn chế về thời lượng phát sóng, thời
gian phát sóng. Theo tôi hiểu, các đài truyền hình, kênh truyền hình
còn phải cân bằng với nhiều loại thông tin khác nên họ không chú
trọng sâu lắm. Đối với kênh ANTV là kênh của ngành công an nên
phản ánh TTTP rất tốt, tạo được sự tin cậy đối với người dân.
[PVS, Mã 12, Nam, Phó Tổng biên tập phụ trách Báo Công an TPHCM].
89
Bảng 2.8: Khác biệt về mức độ tiếp cận thông tin trên VTV1 và ANTV
giữa các tỉnh, thành phố, khu vực và độ tuổi
VTV1 ANTV
Hàng Vài Vài lần/ Hàng Vài lần/ Vài lần/
ngày lần/ tháng hoặc ngày tuần tháng hoặc
(%) tuần ít hơn (%) (%) (%) ít hơn (%)
(%)
Tỉnh, thành phố
17,4 59,9 22,7 Hà Nội 39,8 28,9 31,3
13,9 47,4 38,7 Đắk Lắk 35,1 36,3 28,7
34,6 TP. Hồ Chí Minh 29,6 35,8 22,2 38 39,9
Khu vực
18,9 53 28,1 Đô thị 37,4 32,3 30,3
26,3 34,2 39,5 Nông thôn 24,3 37,8 37,8
Độ tuổi
38,7 22,5 38,7 <= 30 tuổi 20,4 31,7 47,9
16,6 Từ 31-45 tuổi 42,4 41,1 26,8 39,6 33,6
9,3 Từ 46 tuổi trở lên 74,4 16,0 51,9 31,6 16,5
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Kết quả khảo sát công chúng cũng cho thấy, những người thường xuyên tiếp
cận TTTP trên VTV1 và ANTV ở khu vực đô thị cao hơn ở khu vực nông thôn. So
sánh giữa các thành phố thì tại Hà Nội và Đắk Lắk tiếp cận cao hơn khu vực TP.
Hồ Chí Minh. Xét theo nhóm tuổi thì phần lớn người tiếp cận TTTP trên VTV1 và
ANTV là nhóm tuổi từ 46 tuổi trở lên. Tỷ lệ tiếp cận thường xuyên ở nhóm tuổi
khác thấp hơn nhiều, điều này cho thấy đối tượng tác động chính của cả 02 kênh
truyền hình là những người trung niên và người cao tuổi.
90
Biểu đồ 2.10: Mức độ tiếp cận thông tin tội phạm trong các chương trình của
Tính theo tỷ lệ %
VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017
Nguồn: Kết quả khảo sát TTTP phát sóng trên VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017 và
phiếu khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Với 5 chương trình được khảo sát, chương trình được tiếp cận nhiều nhất là
“Thời sự 19h”, “Chuyển động 24h” của VTV1. Tỷ lệ xem chương trình “Thời sự
19h” ở mức hàng ngày là 50,6% và 26,7% người xem vài lần/tuần. Đối với chương
trình “Chuyển động 24h” thì tỷ lệ xem hàng ngày là 34,1% và vài lần/tuần là 36,8%.
Trong khi đó, các chương trình của ANTV thì chương trình “Thời sự an ninh” có tỷ
lệ xem hàng ngày cao nhất với 27,6% sau đó là “113 Online” với 19,9% và “An ninh
ngày mới” là 14%. Tuy nhiên, số lượng TTTP trên VTV1 thấp hơn rất nhiều so với
ANTV nên tỷ lệ TTTP trong giai đoạn 2016-2017 của các chương trình trên VTV1
cũng thấp hơn rất nhiều. Trong 05 chương trình được khảo sát, chương trình có nhiều
TTTP nhất là “113 Online” với 44,8%. Chương trình có TTTP thấp nhất là “Thời sự
19h” trên kênh VTV1 (2% trên tổng số TTTP trong giai đoạn 2016-2017).
91
2.3.1.2. Công chúng tin cậy vào các thông tin tội phạm được phát sóng
trên truyền hình.
Tiêu chí thứ hai mà tác giả đưa ra để đánh giá hiệu quả TTTP trên TH là
mức độ hài lòng của công chúng với các yếu tố nội dung và hình thức của TTTP
trên truyền hình. Kết quả khảo sát cho thấy, nội dung và hình thức của TTTP
trên truyền hình (cụ thể là trên VTV1 và ANTV) đều được người dân đánh giá
cao. Đặc biệt, với nhiều người thì TTTP trên TH là nguồn thông tin ưu tiên
hàng đầu, kênh chính thống để tìm hiểu và kiểm chứng lại các nguồn thông tin
khác (mạng xã hội, báo mạng, truyền miệng….) (42,1% người lựa chọn). 31%
người được hỏi cho biết nguồn tin ưu tiên của họ là thông tin qua các kênh
truyền thông xã hội/mạng xã hội. Tỷ lệ này của các trang báo mạng điện tử là
23,4%. Chỉ có 4,4% người được hỏi lựa chọn nguồn ưu tiên nhất là các kênh
đài phát thanh, báo in, người thân, họ hàng và bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp.
Qua chia sẻ trong các cuộc thảo luận nhóm, nhiều người cũng khẳng định có
tâm lý hoang mang, nghi ngờ khi đọc các nội dung, thông tin trên mạng xã hội,
trang thông tin không chính thống. Nhưng với các thông tin trên truyền hình thì
họ có niềm tin nhiều hơn vào nội dung và ít khi thấy nghi ngờ, hoang mang.
Nhiều người dân cũng chia sẻ, với họ thông tin trên truyền hình (VTV1, ANTV)
là nguồn thông tin đáng tin cậy, họ đã và đang sử dụng như nguồn chính để đối
chiếu, kiểm chứng lại các nguồn khác…
Tôi xem thông tin trên mạng để biết chứ không thể tin tưởng
như xem tivi. Tivi là kênh chính thống, nhiều khi tôi xem trên mạng
nhưng sau khi xem tivi mới biết là trên mạng nói không đúng.
[Nam, 38 tuổi, Cán bộ phường Phú Mỹ, quận 7, TP HCM].
Tôi thấy thông tin về một số vụ việc (cướp tài sản, giết người,
ma túy...) thường được cập nhật rất sớm trên mạng xã hội, báo mạng,
đến tối mới thấy thông báo trên thời sự của VTV, ANTV. Để lựa
92
chọn sự tin tưởng thì tôi vẫn tin thông tin trên thời sự VTV, ANTV
hơn.
[Nữ, 30 tuổi, cán bộ phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội].
Nhiều khi sáng ra tôi đã thấy một số TTTP được đưa trên mạng
xã hội, mọi người bàn tán nhiều, nhưng tính tôi cẩn thận và để chắc
chắn hơn thì tối về tôi xem thời sự của kênh ANTV. Thực tế, nhiều
vụ việc mạng xã hội đăng không đúng, thế nên mới có nhiều tin giả,
tin thất thiệt. Xem tivi bao giờ cũng là đúng nhất, có thể tin được.
[Nam, 32 tuổi, người dân phường Cổ Nhuế 2, Bắc Từ Liêm, Hà Nội].
Có thể nói, thông qua các nội dung đã được phát sóng với độ tin cậy cao,
được công chúng đánh giá khách quan và dễ hiểu đã giúp cho truyền hình trở
thành kênh phản ánh TTTP tác động đến nhận thức của người dân lớn nhất.
Bên cạnh đó, TTTP được cung cấp qua các kênh truyền thông khác cũng góp
phần nâng cao nhận thức của người dân về tội phạm. Theo những người tham
gia thảo luận nhóm, thông tin trên truyền hình giúp họ nhận thức rõ hơn về các
loại hình tội phạm, có cái nhìn khái quát về tình hình tội phạm trên cả nước.
Nhiều người cũng cho rằng, việc tiếp cận TTTP là rất quan trọng và cần phải
thường xuyên được cập nhật qua truyền hình hoặc các kênh thông tin khác.
Sau khi tiếp cận các TTTP trên TH, nhiều người dân cũng cho biết họ
cảnh giác hơn trong đời sống. Đã có những gia đình thay đổi cách nhìn nhận và
phòng chống tội phạm bằng hành động cụ thể. Ví dụ: tham gia tuyên truyền
TTTP, tích cực cập nhật TTTP cho bản thân và gia đình, làm theo các biện pháp
phòng, chống một số loại hình tội phạm thường gặp như trộm cắp, lừa đảo…
Nội dung đưa lên chương trình rất là thiết thực, rất có hiệu
quả, đặc biệt về tội phạm và vi phạm an ninh, bà con nghe, xem là
hiểu. Trước đây nhiều người nghe theo Fulro tham gia những cuộc
biểu tình, bạo loạn. Xem VTV, ANTV nhiều, bà con hiểu được
thủ đoạn lừa bịp của bọn phản động lưu vong. Tôi thấy có nhiều
93
TTTP có nội dung tích cực, cách thể hiện làm người xem thấy
được vấn đề, rút ra bài học kinh nghiệm.
[PVS, Mã 05, Nam, Chủ tịch Hội Nhà báo Đắk Lắk].
Dựa trên 5 nấc thang đánh giá mức độ ảnh hưởng của TTTP, tác giả tiến
hành thực nghiệm với 133 người dân theo các bước sau:
Bước 1: Cung cấp thông tin về tội phạm thông qua các tin bài do VTV1,
ANTV sản xuất gồm 6 tin, bài theo các chủ đề sau:
- Tin về tội phạm cho vay lãi nặng
- Tin về tội phạm giết người
- Tin về tội phạm xúc phạm quốc kỳ
- Phóng sự về tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội
- Phóng sự về tội phạm trộm cắp tài sản
- Phóng sự về nguy cơ tiềm ẩn của bạo lực gia đình
Bước 2: Tiến hành đánh giá nhanh ảnh hưởng của thông tin bằng phiếu
thực nghiệm tại thời điểm cung cấp thông tin.
Bước 3: Tiến hành đánh giá ảnh hưởng của thông tin bằng điện thoại tại
thời điểm một tháng sau khi cung cấp.
Kết quả thực nghiệm cho thấy, 89,5% người dân đã có kiến thức về các
loại hình tội phạm được cung cấp từ trước thời điểm tiến hành thực nghiệm.
97% người dân cho biết hoàn toàn tin tưởng vào các thông tin được cung cấp
trong thực nghiệm, 3% lựa chọn phương án tin tưởng ít. Sau một tháng tiến
hành thực nghiệm, tỷ lệ người dân lựa chọn phương án tin tưởng vào các thông
tin được cung cấp trong thực nghiệm vẫn duy trì ở mức cao (94% người lựa
chọn). Đáng chú ý, tại thời điểm tiến hành thực nghiệm 100% những người
tham gia cho biết sẽ chia sẻ lại thông tin. Tuy nhiên, sau một tháng số người
thực sự chia sẻ lại thông tin chỉ có 48,1%. Đối tượng mà những người tham gia
thực nghiệm chia sẻ thông tin chủ yếu là gia đình và bạn bè.
94
Biểu đồ 2.11: Mức độ ảnh hưởng của thông tin tội phạm
trên truyền hình đối với công chúng
Mức 3
Chấp nhận và
thấy được lợi
ích khi tìm
hiểu thông tin
Mức 4
Tin tưởng
chính quyền,
có hành động
phòng chống
tội phạm và
tìm hiểu thêm
thông tin Mức 2
Quan tâm Mức 1
Nhận biết Mức 5
Duy trì việc
tuân thủ pháp
luật, hành
động tìm hiểu
thông tin,
tuyên truyền
cho người
xung quanh
và chủ đông
phòng chống
tội phạm
Nguồn: Kết quả thực nghiệm về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Đánh giá chung sau một tháng thực nghiệm, mức độ ảnh hưởng của TTTP
được cung cấp đến người dân tham gia khảo sát đang ở mức độ 3 trong 5 nấc thang
đánh giá. Tức là với TTTP trên TH hiện nay, người dân thường tin tưởng và đã thấy
được những lợi ích khi tìm hiểu thông tin về tội phạm. Tuy nhiên, để chia sẻ lại
thông tin và tuyên truyền các thông tin trên thì vẫn cần có thêm các yếu tố khác tác
động (tăng tần suất, thời lượng tiếp cận). Có thể thấy, mức độ 3 trong 5 nấc thang
đánh giá là các mức độ dễ đạt được vì người dân vốn được tiếp cận nhiều kênh
thông tin khác nhau về tội phạm. Quá trình tiếp nhận của người tham gia cũng đã
diễn ra trong nhiều năm trước đó vì vậy khá dễ hiểu khi nhiều người dân đã có nhận
thức về tội phạm, các loại hình tội phạm và hành vi phạm tội...
Các thông tin cung cấp là hoàn toàn đúng và tôi tin tưởng vào
thông tin trong các đoạn clip. Tuy nhiên, sau khi xem xong cũng bận
nhiều việc và các thông tin đó tôi thấy cũng không mới nên cũng chưa
chia sẻ với ai.
[Nam, 41 tuổi, người dân phường Cổ Nhuế 2, Bắc Từ Liêm, Hà Nội].
95
Sau khi xem xong thì về nhà tôi cũng có kể lại với gia đình,
cũng nói chuyện với các cháu chuyện mình đi gặp các anh hôm đó.
Tôi cũng căn dặn các cháu là phải tuân thủ pháp luật, bây giờ nhiều
hình thức lừa đảo, trộm cắp thì mình cũng phải cẩn thận.
[Nam, 60 tuổi, người dân xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh].
2.3.1.3. Công chúng được nâng cao nhận thức về thông tin tội phạm qua các
chương trình thời sự trên truyền hình
Những người dân tham gia thảo luận nhóm cho biết những kiến thức về các
loại hình tội phạm được đưa trong thảo luận nhóm đều là thông tin họ đã biết từ
trước (89,4% người dân khẳng định đã có kiến thức từ trước). Theo họ, việc dễ
dàng nhận biết các loại hình tội phạm trên là do các loại hình tội phạm này thường
xuyên được đề cập bởi các chương trình tin tức của VTV1 và ANTV và cả các
nguồn thông tin khác (báo in, mạng xã hội, cán bộ tuyên truyền). Theo đánh giá của
những người tham gia khảo sát, loại tội phạm thuộc nhóm mua bán, sử dụng, vận
chuyển ma túy được VTV1 và ANTV đề cập nhiều nhất và thường xuyên nhất.
Tiếp đó là tội phạm về chức vụ; xâm phạm nhân thân; xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế; tiếp đến là tội phạm xâm phạm sở hữu và tội phạm môi trường. Các loại tội
phạm khác cũng được nhắc đến nhưng tỷ lệ lựa chọn thấp hơn...
Bây giờ là thời đại 4.0 rồi, việc truy cập hay tiếp cận thông tin
không còn khó khăn như ngày xưa nữa. Chỉ cần điện thoại, máy tính
kết nối mạng là có thể dễ dàng tìm kiếm thông tin ngay. TTTP tôi biết
qua rất nhiều nguồn, tự xem trên mạng cũng có, xem tivi cũng có, bạn
bè trao đổi cũng có… Vì vậy, những TTTP vừa được xem thì tôi và
mọi người ở đây đều đã biết.
[Nam, 41 tuổi, người dân phường Cổ Nhuế 2, Bắc Từ Liêm, Hà Nội].
Các loại tội phạm nhóm khảo sát vừa đưa ra thì bản thân tôi đã
biết hầu hết rồi, có một loại hình là tội phạm xúc phạm quốc kỳ thì tôi
mới nghe, mới xem. Thông tin giờ trên báo, đài, rồi cán bộ thôn, xã
96
tuyên truyền suốt, tôi cơ bản nắm được. Nói chung, TTTP có từ nhiều
nguồn và truyền hình là nguồn thông tin chính.
[Nam, 52 tuổi, người dân thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M'gar, Đắk Lắk].
Tôi là công an nên các loại hình tội phạm mà các anh đưa ra
không có gì mới, còn về tình tiết các vụ án thì mỗi vụ một khác, tôi
xem truyền hình để cập nhật tình tiết vụ việc. Xem truyền hình nhằm
củng cố kiến thức thực tế về tội phạm và lấy ví dụ để tuyên truyền cho
quần chúng nhân dân.
[Nam, 37 tuổi, cán bộ CA phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội].
Biểu đồ 2.12: Nhận định của công chúng về những loại tội phạm được
Tính theo tỷ lệ %
Xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
0
0
Phá hoại hòa bình, chống loài người và tội …
0.8
1.4
Xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
Xâm phạm hoạt động tư pháp
Xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự …
3.4
3.4
5.2
3.6
4.2
5.9
12.2
Xâm phạm an ninh quốc gia
18.3
15.9
Xâm phạm trật tự quản lý hành chính
18.3
29.3
Xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
26.2
69.5
Xâm phạm sở hữu
43.6
41
Tội phạm về môi trường
48.9
43.8
Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
52.9
89.4
Xâm phạm nhân thân
58.6
51.8
Tội phạm về chức vụ
62.7
86.3
Mua bán, sử dụng, vận chuyển ma túy
72.2
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90 100
ANTV
VTV1
đề cập nhiều hơn trên VTV1 và ANTV
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
97
Kết quả khảo sát cho thấy, 88,9% công chúng cho biết đã nắm được thông
tin về các loại hình tội phạm. Theo những người dân được hỏi, họ dễ dàng nhận biết
và sắp xếp các hành vi tội phạm vào các loại hình tội phạm phù hợp đối với các tội
như: mua bán, sử dụng, vận chuyển ma túy; xâm phạm an ninh quốc gia; xâm phạm
nhân thân; xâm phạm sở hữu; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế…
Nguyên nhân công chúng dễ dàng nhận biết các loại hình tội phạm là do các
loại hình tội phạm này thường xuyên được đề cập trong các chương trình tin tức
của VTV1 và ANTV. Theo đánh giá của công chúng trong các phiếu khảo sát, loại
tội phạm thuộc nhóm mua bán, sử dụng, vận chuyển ma túy được đề cập nhiều nhất
và thường xuyên nhất. Tiếp đó là tội phạm về chức vụ; xâm phạm nhân thân; xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế; tiếp đến là tội phạm môi trường và xâm phạm sở hữu.
Các loại tội phạm khác cũng được nhắc đến nhưng với tỷ lệ lựa chọn thấp hơn. (xem
biểu đồ 2.12).
Có thể thấy, việc công chúng tiếp nhận thông tin, ghi nhớ và hình thành nên
các khái niệm về loại hình tội phạm trên chính là sự lý giải thông tin của công chúng,
đây là tiêu chí thứ năm - một tiêu chí quan trọng trong đánh giá ảnh hưởng của
TTTP trên TH (xem thêm chương 1). Ở đây, công chúng đã dựa trên những thông
tin có sẵn tiếp thu từ nhiều nguồn (báo in, mạng xã hội, cán bộ tuyên truyền) kết
hợp với các thông tin trên truyền hình để hình thành nên những hiểu biết cơ bản cơ
bản về các loại hình tội phạm. Vì vậy, khi được hỏi về phân biệt các loại hình tội
phạm hay được nhắc đến trên truyền hình, họ có thể phân chia tương đối đầy đủ về
các loại hình tội phạm. Ngoài việc hình thành nên những hiểu biết khái quát về loại
hình tội phạm, công chúng cũng có sự lý giải quan điểm cá nhân về những vụ việc
cụ thể được phát sóng (tham khảo tiểu tiết 2.3.1.4).
2.3.1.4. Công chúng quan tâm hơn đến thông tin tội phạm qua theo dõi các
chương trình thời sự truyền hình
Tiêu chí thứ tư đánh giá ảnh hưởng của TTTP trên TH đến công chúng là
nhu cầu của công chúng khi tiếp cận TTTP trên truyền hình. Để đánh giá được điều
98
đó, tác giả đã tiến hành khảo sát công chúng về thông tin các vụ án nổi bật được
đưa tin trên truyền hình trong năm 2016-2017. Theo kết quả khảo sát, công chúng
đều ghi nhớ và có theo dõi thông tin về các vụ án được đề cập trong bảng hỏi khảo
sát. 13/18 vụ án được công chúng cho biết có nhớ và theo dõi thông tin ở mức trên
35%. Trong số 18 vụ án được liệt kê thì những vụ án sau có tỷ lệ người theo dõi cao
nhất, đó là: vụ ông Đinh La Thăng bị bắt tạm giam, truy tố vì cố ý làm trái (82,4%
người theo dõi); Vụ án Trịnh Xuân Thanh tham ô hơn 18 tỉ đồng, bỏ trốn ra nước
ngoài (70,8% người theo dõi); Khởi tố, truy nã Vũ “Nhôm”, đại gia bất động sản
tại Đà Nẵng (64,4% người theo dõi); Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Yên Bái
bị bắn chết (60,5% người theo dõi); Vụ nhập thuốc ung thư giả của VN PHARMAR
(48,9% theo dõi).
Bảng 2.9: Tình hình theo dõi những vụ án nổi bật trong năm
2016-2017 của công chúng
Tên các vụ án Tỉ lệ lựa
chọn (%)
1. Ông Đinh La Thăng bị bắt tạm giam, truy tố 82,4
2. Vụ án Trịnh Xuân Thanh tham ô hơn 18 tỉ đồng, bỏ trốn ra nước ngoài 70,8
3. Khởi tố, truy nã Vũ “Nhôm”, đại gia bất động sản tại Đà Nẵng 64,4
4. Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Yên Bái bị bắn chết 60,5
5. Vụ nhập thuốc ung thư giả của VN PHARMAR 48,9
6. Sát hại chồng, phân nhỏ thi thể bỏ thùng rác tại Bình Dương 45,4
7. Vụ án 4 bà cháu bị sát hại ở Quảng Ninh 39,9
8. Vụ án 4 người trong một gia đình ở Lào Cai bị sát hại 39,9
9. Bà nội sát hại cháu 23 ngày tuổi tại Thanh Hóa 38,4
10. Xét xử đại án Ngân hàng Xây dựng (Phạm Công Danh và 35 37,2
bị cáo khác)
99
Tên các vụ án Tỉ lệ lựa
chọn (%)
35,4 11. Đại án thất thoát 2.000 tỷ đồng tại OCEANBANK
36,2 12. Vụ án sát hại 4 người ở Hà Giang
38,0 13. Hoa hậu Phương Nga bị cáo buộc lừa đại gia Cao Toàn Mỹ 16,5 tỷ
23,9 14. Hai nữ sinh bị tạt axít ở TP.Hồ Chí Minh
27,4 15. Ông Hàn Đức Long (tử tù) được trả tự do sau 11 năm bị giam
27,4 16. Hai tử tù Lê Văn Thọ và Nguyễn Văn Tình vượt ngục
26,4 17. Hiếp dâm và giết hai cháu bé, chôn xác trong vườn nhà ở Phú Yên
16,4 18. Kỹ sư điện dùng súng cướp ngân hàng tại Trà Vinh
2,9 19. Vụ án khác
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Khi được hỏi về vụ án quan tâm nhất trong những vụ án nổi bật trong năm
2016-2017: vụ án ông Đinh La Thăng bị bắt tạm giam, truy tố được nhiều người
quan tâm nhất với tỷ lệ 29,2%. Ngoài ra, các vụ án cũng có tỷ lệ quan tâm rất lớn
là: Trịnh Xuân Thanh tham ô hơn 18 tỉ đồng, bỏ trốn ra nước ngoài; Khởi tố, truy
nã Vũ “nhôm”, đại gia bất động sản tại Đà Nẵng (với tỷ lệ người dân lựa chọn là
vụ án họ quan tâm nhất đều là 11,5%). Vụ án nhập thuốc ung thư giả của VN
PHARMAR (có 10,3% quan tâm nhất). Các vụ án khác như: Sát hại chồng, phân
nhỏ thi thể bỏ thùng rác tại Bình Dương có 7,3% người dân quan tâm nhất và vụ án
Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND Yên Bái bị bắn chết có 6,9% người quan tâm nhất.
Theo kết quả khảo sát, mức độ nghiêm trọng của vụ án và vụ án có liên quan đến
những người có chức vụ cao là hai yếu tố công chúng quan tâm nhất khi theo dõi
các vụ án. Cụ thể, khi được hỏi về nguyên nhân chính để lựa chọn quan tâm theo
dõi các vụ án, 67% người tham gia khảo sát cho biết lý do là mức độ nghiêm trọng
của vụ án và có 52% người cho biết lý do là liên quan đến những người có chức vụ
cao. Ngoài ra cũng có các lý do khác như: diễn biến phức tạp của vụ án; để phòng
ngừa, cảnh giác; hay vụ án được đưa tin nhiều nhất.
100
67
Tính theo tỷ lệ %
70
52
60
50
35.8
40
30
20
19.4
20
1.6
10
0
Lí do khác
Diễn biến
phức tạp của
vụ án
Để phòng
ngừa, cảnh
giác
Vụ án được
đưa tin nhiều
nhất
Mức độ
nghiêm
trọng của vụ
án
Liên quan
đến những
người có
chức vụ cao
Biểu đồ 2.13: Lí do công chúng quan tâm nhất đến vụ án
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Theo những người dân tham gia thảo luận nhóm, những vụ án nghiêm trọng
và liên quan đến người có chức vụ cao thường sẽ tạo ra những ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến chính họ vì vậy sẽ được quan tâm hơn. Bên cạnh đó, những người
tham gia thảo luận nhóm cũng chỉ ra rằng, các vụ án được đưa trên truyền hình sẽ
được họ quan tâm, theo dõi hơn các vụ án đưa trên các phương tiện truyền thông
khác vì theo họ đa phần những vụ án trên truyền hình đều là vụ án lớn, có ảnh hưởng
nhất định đến đời sống, kinh tế, xã hội…
Với mỗi vụ án tôi biết được thì điều quan tâm nhất là mức độ
nghiêm trọng của vụ việc, ảnh hưởng đến xã hội, đến mình ra sao.
Sau đó tôi sẽ để ý đến diễn biến và từ đó đưa ra biện pháp phòng
ngừa phù hợp.
[Nữ, 31 tuổi, người dân phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội].
Tôi thường xuyên theo dõi tivi, theo tôi những năm gần đây xuất
hiện ngày càng nhiều các vụ án nghiêm trọng và các vụ án liên quan
đến cán bộ cấp cao. Điều tôi quan tâm nhất khi theo dõi các vụ án này
là tại sao bây giờ lại xảy ra nhiều vụ án tham ô, tham nhũng như vậy và
101
hơn nữa là càng liên quan đến cán bộ cấp cao thì số tiền thiệt hại càng
lớn… Các vụ án này tôi phải theo dõi và xem là cách xử lý ra sao, làm
thế nào để thu hồi lại tài sản cho nhà nước và nhân dân.
[Nam, 70 tuổi, người dân phường Phú Mỹ, Quận 7, TPHCM].
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, điểm chung trong các tin bài về vụ án nổi
bật trong 2 năm 2016-2017 trên VTV1 và ANTV: có từ 55% trở lên người dân lựa
chọn từng phương án gồm: Thông tin đầy đủ, đa dạng; dễ theo dõi, dễ hiểu; có tính
giáo dục, răn đe; cập nhật kịp thời. Đây cũng là 04 phương án được người dân lựa
chọn cao nhất đối với các chương trình của ANTV; trong đó, so với VTV1 thì tỷ lệ
lựa chọn ANTV là cao hơn: từ 59,3% người lựa chọn phương án cập nhật kịp thời
đến cao nhất là có tính giáo dục, răn đe 66,9%.
Biểu đồ 2.14: Đánh giá của công chúng về việc phản ánh thông tin về những
Tính theo tỷ lệ %
vụ án nổi bật trên VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
So sánh với VTV1, thông tin về các vụ án nổi bật trên ANTV được đánh
giá cao hơn ở hầu hết các phương án. Nguyên nhân được công chúng đưa ra là
do tần suất ANTV phát sóng thường nhiều hơn, thời lượng lớn hơn nên sau khi
xem để lại ấn tượng nhiều hơn. Bên cạnh đó, công chúng cũng cho rằng do
ANTV có nhiều thông tin tham khảo thể hiện qua ý kiến của chuyên gia trong
nhiều vụ việc.
102
Tóm lược, TTTP được đề cập trên truyền hình (VTV1, ANTV) đã hoàn
thành tốt nhiệm vụ cung cấp thông tin, đáp ứng được nhu cầu của người dân về
tiếp nhận thông tin. Nội dung TTTP trên TH cũng đã thể hiện được các đặc
điểm của các tiêu chí đánh giá ảnh hưởng của TTTP trên TH đến công chúng.
Công chúng cũng đã ghi nhớ được nội dung TTTP, những vụ án và loại hình
tội phạm thường gặp. Có thể thấy, TTTP trên TH đã tạo được ảnh hưởng đối
với việc thay đổi nhận thức của công chúng về tình hình tội phạm nói chung và
đặc điểm của các loại tội phạm, cách thức để phát hiện, phòng ngừa, tố giác tội
phạm… Trong 5 mức thang ảnh hưởng của TTTP đến công chúng, thông tin
trên truyền hình đã đóng vai trò quan trọng giúp nhận thức của phần lớn công
chúng đạt mức độ 3 - đã thấy lợi ích khi tìm hiểu thông tin về tội phạm, sự cần
thiết phải hiểu biết về tội phạm, các loại hình tội phạm, sẵn sàng tiếp nhận các
thông tin về tội phạm trên truyền hình. Bên cạnh đó, nhiều công chúng cũng có
những mức độ ảnh hưởng cao hơn, thay đổi hành vi và nhận thức tốt hơn.
2.3.2. Ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên truyền hình đến niềm
tin và hành động của công chúng
2.3.2.1. Thông tin tội phạm trên VTV1 và ANTV có ảnh hưởng tích cực
đến niềm tin và hành động của công chúng sau khi xem
TTTP trên các kênh truyền hình (VTV1, ANTV) được công chúng rất tin
tưởng và coi đây là kênh thông tin chính. Các thông tin được cung cấp qua
VTV1 và ANTV một mặt đáp ứng nhu cầu thông tin cho công chúng, mặt khác
giúp nhận thức đầy đủ, kịp thời về các loại tội phạm, cách thức để phát hiện,
phòng ngừa, tố giác tội phạm… Theo kết quả khảo sát công chúng, 100% người
dân trong mẫu khảo sát đều cho rằng những TTTP trong các chương trình trên
kênh VTV1 và ANTV năm 2016-2017 có ảnh hưởng tích cực đến họ theo nhiều
hình thức khác nhau (củng cố niềm tin, thay đổi hành động). Tác động lớn nhất
là giúp họ nhận thức đầy đủ hơn về các loại tội phạm (84,8% người lựa chọn).
56,9% công chúng cho biết TTTP giúp họ quan tâm hơn đến việc phòng, chống
tội phạm và giúp họ có kỹ năng để ngăn ngừa, phòng chống tội phạm (52,6%).
103
Những ảnh hưởng tích cực khác nhận được lựa chọn của trên 40% người trả lời
gồm: giúp bản thân người trả lời có trách nhiệm hơn trong việc ngăn ngừa, tố
giác tội phạm; hiểu biết hơn về các khung hình phạt đối với các vụ phạm tội,
khiến người trả lời tham gia tích cực hơn trong việc tuyên truyền phòng, chống
tội phạm. 33,3% người dân cho biết thông tin về tội phạm trên truyền hình
khiến họ tin tưởng hơn vào bộ máy công quyền....
Biểu đồ 2.15: Những ảnh hưởng tích cực của thông tin tội phạm trên
truyền hình đến bản thân người trả lời
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Dựa trên các tiêu chí đánh giá ảnh hưởng của TTTP trên TH mà tác giả đưa ra
trong Chương 1 có thể thấy, nội dung thông tin đưa ra đã đáp ứng được nhu cầu của
công chúng và giúp họ nâng cao kiến thức, kỹ năng về ngăn ngừa, phòng chống tội
phạm, ảnh hưởng tích cực đến thái độ và hành vi của công chúng.
Cá nhân tôi nhận thấy VTV1 có cách đưa thông tin rất hay. Ví
dụ như vụ tai nạn xảy ra họ dùng đồ họa minh họa hiện trường, nguyên
nhân xảy ra, nhìn thấy là hiểu. Trong khi đó, nếu chỉ đưa hình ảnh vụ
104
tai nạn thì tôi sẽ khó có thể hiểu hết vụ việc. Cái này là điểm mà tôi
rất thích khi xem VTV1 gần đây.
[Nam, 35 tuổi, cán bộ phường Yên Phụ, Tây Hồ, Hà Nội].
Từ khi có kênh ANTV, thông tin rất nhanh, cập nhật nên tôi biết
nhiều TTTP hơn. Với tôi, việc cập nhật TTTP là rất cần thiết để người
dân biết, nâng cao cảnh giác.
[Nam, 42 tuổi, cán bộ phường Tân Lợi, TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk].
Chúng tôi cho rằng VTV1, ANTV là kênh thông tin chủ lực
của Đảng, Nhà nước, của ngành công an nên có nhiều cách làm hay,
hấp dẫn. TTTP có giá trị định hướng, xử lý một cách khách quan, bởi
vậy nó rất khác biệt với các thông tin của mạng xã hội.
[PVS, Mã 15, Nam, Phó Trưởng phòng ANTV Hà Nam].
Có thể thấy, TTTP trên VTV1 và ANTV đã tạo được những thay đổi tích
cực trong nhận thức, niềm tin và hành động của công chúng. Những thay đổi trong
hành động có thể kể đến như: tham gia tích cực hơn trong việc tuyên truyền phòng,
chống tội phạm; có trách nhiệm hơn trong việc ngăn ngừa, tố giác tội phạm; có kỹ
năng để ngăn ngừa, phòng chống tội phạm.
Bảng 2.10: Đánh giá của công chúng về những ưu điểm trong việc
phản ánh thông tin tội phạm trên VTV1 và ANTV
Nội dung ưu điểm VTV1 (%) ANTV (%)
1. Cập nhập 49,3 50,9
2. Dễ hiểu 60,4 67,9
3. Khách quan, chân thực 37,8 41,5
4. Đầy đủ, bao quát 35,2 43,9
5. Thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật 59,8 74,3
1,4 1,8 6. Khác
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
105
Qua khảo sát, công chúng đã có nhiều đánh giá tích cực về nội dung TTTP
trong các chương trình thuộc diện khảo sát. Với các chương trình tin tức trên VTV1,
những ưu điểm có tỷ lệ cao nhất người dân lựa chọn là: dễ hiểu (60,4% người lựa
chọn); thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật (59,8%); tiếp đến là cập nhật; khách
quan, chân thực; đầy đủ, bao quát. Trong khi đó, sự lựa chọn của công chúng đối với
các chương trình của ANTV lại có khác biệt thể hiện ở 74,3% người được hỏi lựa
chọn phương án thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, tiếp đến mới là dễ hiểu với
67,9% người lựa chọn; sau đó là cập nhật đầy đủ, bao quát và khách quan, chân thực.
2.3.2.2. Công chúng tin tưởng vào hệ thống công quyền và tuyên truyền, trao
đổi thông tin tội phạm sau khi xem
Dựa trên 5 mức thang đánh giá ảnh hưởng của TTTP trên TH đến công
chúng có thể thấy: tin tưởng vào hệ thống công quyền và tham gia tích cực hơn
trong việc tuyên truyền phòng, chống tội phạm là hai phương án thuộc mức độ
ảnh hưởng cấp 4. Mặc dù tỷ lệ công chúng lựa chọn hai phương án này chưa cao
(33,3% lựa chọn tin tưởng vào hệ thống công quyền và 40,6% lựa chọn tham gia
tích cực hơn trong việc tuyên truyền, phòng chống tội phạm) tuy nhiên đây có thể
ghi nhận là một trong những thành tựu của VTV1 và ANTV trong việc thúc đẩy
thay đổi niềm tin và hành động sau khi xem các tin bài liên quan đến tội phạm
trong giai đoạn 2016-2017. Theo kết quả thảo luận nhóm, công chúng tại một số
địa bàn khảo sát đã cụ thể hóa các thông tin phòng chống tội phạm được cung cấp
thành các hành động. Tại địa bàn phường Cổ Nhuế 2 (quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội),
người được hỏi cho biết nhờ các thông tin cung cấp trên truyền hình mà họ đã thay
đổi cách lắp camera an ninh để giám sát cơ sở kinh doanh của họ. Một số trường
hợp khác tại thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M’gar, Đắk Lắk cho biết đã có kiến
thức phòng ngừa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài khoản ngân hàng, tài khoản trên
mạng xã hội. Tại phường Phú Mỹ, quận 7, TP Hồ Chí Minh, một số người dân
cũng chia sẻ kinh nghiệm sau khi xem xong phóng sự cảnh báo về tình trạng cho
vay lãi nặng trên kênh ANTV đã chủ động ngăn cản người thân không vay lãi
nặng của một số đối tượng và chủ động trình báo cơ quan công an...
106
Xem nhiều TTTP, tôi thấy lực lượng công an Việt Nam rất giỏi, nhiều
vụ án tưởng chừng như không có đầu mối thế mà chỉ sau một thời gian đã
tìm ra đối tượng gây án. Chính vì vậy, tôi hoàn toàn tin tưởng vào lực lượng
công an.
[Nữ, 29 tuổi, người dân thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M’gar, Đắk Lắk].
Tôi xem các chương trình trên kênh ANTV thấy rất bổ ích, có nhiều
thông tin mình quan tâm. Tôi thường xuyên chia sẻ với bà con nên phải dùng
thông tin chính thống. Trong nhiều cuộc họp ở thôn, xã đề cập đến tình hình
tội phạm tại địa phương, tôi đều lấy dẫn chứng từ các vụ việc tôi đã xem trên
truyền hình.
[Nam, 65 tuổi, cán bộ thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M'gar, Đắk Lắk].
Kết quả khảo sát công chúng cũng cho thấy, tỷ lệ người dân cho biết đã trao
đổi thông tin với người khác sau khi tiếp nhận TTTP trên TH là 99,6%. Trong đó,
56,3% người trả lời thường xuyên trao đổi thông tin này, 36,9% thỉnh thoảng trao
đổi, còn lại 6,5% hiếm khi trao đổi.
Đối tượng được người dân trao đổi chủ yếu thường là người thân trong gia
đình (có 75,2% người trả lời lựa chọn phương án này). 52,5% người trao đổi TTTP
với bạn bè.
Biểu đồ 2.16: Đối tượng thường được công chúng trao đổi thông tin
tội phạm sau khi xem trên VTV1, ANTV
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
107
Ngoài ra, công chúng trong mẫu khảo sát cũng trao đổi những thông tin họ
tiếp nhận được về tội phạm trên truyền hình với hàng xóm, đồng nghiệp, họ hàng
và những người khác. Theo chia sẻ của người dân, việc trao đổi TTTP với người
thân trong gia đình thường dễ dàng hơn vì thói quen cùng xem tivi vào buổi tối. Bên
cạnh đó, họ có thời gian tiếp xúc với nhau nhiều hơn so với các đối tượng khác...
Mỗi khi xem xong nếu thông tin nào tôi thấy hay, thấy có khả năng
ảnh hưởng tới bản thân thì tôi sẽ chia sẻ với những người xung quanh, để
mọi người cảnh giác. Như những thông tin về tội phạm lừa đảo sử dụng công
nghệ cao chẳng hạn, trước nay chưa nghe nói nhưng biết rồi thì phải nói cho
bạn bè.
[Nữ, 31 tuổi, người dân phường Tân Lợi, TP. Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk].
Tôi vẫn thường xuyên gặp bạn bè, có TTTP gì hay, mình bức xúc thì
mình chia sẻ với họ. TTTP cũng là câu chuyện để mình giao lưu với nhau,
anh biết thì anh nói, còn tôi chưa biết thì tôi nghe.
[Nam, 57 tuổi, người dân xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh].
Việc chia sẻ TTTP trên TH giữa những người dân với nhau cho thấy, TTTP
đã tác động đến nhận thức của công chúng, từ nhận thức sẽ tác động đến hành động
và ứng xử của công chúng. Khi mà một ứng xử của công chúng được lặp đi lặp lại
sẽ thành nề nếp, tập quán cuối cùng trở thành những chuẩn mực xã hội được xã hội
chấp nhận là lan truyền nhanh. Cụ thể, TTTP đã tạo lập niềm tin đối với công chúng
vào hệ thống công quyền, từ đó công chúng đã tuyên truyền, trao đổi với nhau về
TTTP trên cơ sở đó cũng đúc rút ra những bài học thực tiễn và nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật. Việc người dân tiếp cận thông tin và chia sẻ lại thông tin cũng chính
là một trong những tiêu chí giúp nâng cao ảnh hưởng của các TTTP trên truyền hình
đến công chúng, qua đó kênh truyền hình VTV1 và ANTV cũng tăng được khả
năng tiếp cận đối với công chúng hơn. Nội dung này đã đáp ứng tiêu chí thứ ba về
đánh giá ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng.
108
2.3.2.3. Thông tin tội phạm trên truyền hình góp phần làm giảm tình hình tội
phạm tại các địa bàn khảo sát
Kết quả khảo sát cho thấy 82,7% công chúng cho rằng các TTTP trên VTV1
và ANTV có tác dụng răn đe, giáo dục, góp phần làm giảm tình hình tội phạm tại
địa bàn của họ. Trong khi đó, có 10,3% công chúng cho rằng nó không ảnh hưởng
gì đến tình hình tội phạm và 6,2% người cho rằng thông tin và cách thức đưa thông
tin về tội phạm như vậy có thể dẫn đến số vụ phạm tội tăng lên do bắt chước. Theo
người dân tham gia khảo sát, tình hình phạm tội trên địa bàn họ sinh sống giảm là
do những TTTP trên VTV1 và ANTV đã góp phần cảnh báo, răn đe khiến nhiều
đối tượng xấu không dám manh động. Ý thức cảnh giác của công chúng cũng đã
được nâng cao vì vậy giảm thiểu được tình trạng bị kẻ xấu lợi dụng. Bên cạnh đó,
đội ngũ cán bộ cơ quan công quyền hoạt động cũng rất hiệu quả, các vụ việc đều
nhanh chóng được đưa ra ánh sáng...
Tôi thấy việc phát sóng TTTP như hiện nay là rất tốt nhưng bên
cạnh đó cần phải có sự phối hợp tuyên truyền của các đơn vị cơ sở, các
gia đình, bởi vì TTTP có thể ảnh hưởng đến tầng lớp thanh thiếu niên.
[Nam, 36 tuổi, cán bộ phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội].
Đưa tin về tội phạm như con dao hai lưỡi, vừa có tính răn đe vừa
tạo hiệu ứng bắt chước đối với một bộ phận người dân nhận thức hạn
chế. Cần đưa những thông tin có tính giáo dục, răn đe để ngăn chặn các
hành vi bắt chước và nhất là các cháu nhỏ vị thành niên học theo do chưa
đủ nhận thức.
[Nam, người dân phường Cổ Nhuế, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội].
Theo đánh giá của cán bộ cấp xã, phường tại các địa bàn khảo sát, TTTP khi
được phát sóng sẽ tác động trực tiếp đến tình hình tội phạm và góp phần giảm thiểu
các loại tội phạm xảy ra trên địa bàn. Đặc biệt đối với những thông tin cụ thể về các
loại hình tội phạm được VTV1 và ANTV đưa tin là “có xuất hiện trên địa bàn”. Tiêu
biểu là các loại hình tội phạm liên quan đến lừa đảo bán hàng đa cấp, các hành vi lừa
đảo qua điện thoại, cướp giật, trộm cắp hay tội phạm hoạt động theo băng nhóm...
109
Sau khi thông tin được đưa trên VTV1, ANTV các loại hình tội phạm trên thường
giảm rõ rệt và thường phải sau vài tháng mới có dấu hiệu tăng hay hoạt động trở lại...
Thông tin và cách thức đưa TTTP trên VTV1 và ANTV làm cho
một số đối tượng đang có những ý định phạm tội sẽ không dám phạm tội
vì sự nghiêm minh của pháp luật. Tội phạm nào trước sau cũng bị phơi
bày ra ánh sáng khiến cho các đối tượng có ý định phạm tội sẽ không
thực hiện hành vi phạm tội nữa.
[Nam, 60 tuổi, người dân phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội].
Tôi thấy tình hình tội phạm giảm là do các cơ quan chức năng đã
vào cuộc một cách đồng bộ và mạnh mẽ, qua đó đã phát hiện và xử lý
được nhiều vụ án nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Những đối
tượng xấu cũng thấy đó mà làm gương không dám có ý định thực hiện
nữa hoặc có thì chỉ ở quy mô nhỏ lẻ.
[Nam, người dân thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M'gar, Đắk Lắk].
Xã hội luôn phát triển và ở mỗi thời điểm lại có thể phát sinh loại hình tội
phạm mới nên theo người dân tham gia khảo sát, việc phát sóng cũng cần kịp thời
để người dân nhận biết được các loại hình tội phạm. Những TTTP phát sóng cần
chú ý nêu bật hình thức xử lý của pháp luật góp phần ngăn chặn những đối tượng
xấu không học tập, làm theo.
2.3.2.4. Thông tin tội phạm trên truyền hình là nguồn tham khảo tin cậy của
cán bộ địa phương
Bên cạnh những thông tin được cung cấp theo ngành dọc của các cơ quan, ban
ngành, địa phương thì TTTP trên VTV1 và ANTV cũng được cán bộ địa phương sử
dụng để tuyên truyền cho người dân. Đặc biệt, nhiều trường hợp văn bản đi theo
ngành dọc phải tốn nhiều thời hơn việc tự cập nhật thông tin trên truyền hình. Các
cán bộ đoàn thể (Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên…) cũng cho biết
việc cập nhật TTTP trên TH được họ coi là một phần trong nhiệm vụ tuyên truyền
phòng chống tội phạm của đoàn thể mình. Đối với cán bộ công an tại các địa phương
110
thì cho rằng việc cập nhật TTTP là cần thiết và cán bộ trong ngành cần chú trọng cập
nhật và sử dụng như một kênh thông tin để tham khảo, củng cố kiến thức.
Thông tin theo ngành dọc thường sẽ phải trải qua nhiều khâu nên
đến được cấp cơ sở rất chậm không thể nhanh bằng truyền hình được.
Tôi là công an nhưng vẫn hay sử dụng thông tin trên truyền hình vì thông
tin nhanh, dễ hiểu, sẵn có không dài và phức tạp như tài liệu tuyên truyền
của ngành. Vì thế mỗi khi lấy ví dụ là tôi hay sử dụng TTTP trên TH.
[Nam, 30 tuổi, cán bộ công an phường Phú Mỹ, quận 7, TP Hồ Chí Minh].
Bên Mặt trận Tổ quốc thì có hẳn một Nghị quyết chuyên đề về
tuyên truyền phòng chống tệ nạn trộm cắp, có sự phối hợp của cả công
an xã để tuyên truyền cho người dân. Vì vậy những thông tin trên truyền
hình tôi sử dụng rất nhiều, vừa là nhiệm vụ vừa là cập nhật thông tin cho
bản thân.
[Nam, 39 tuổi, cán bộ phường Tân Lợi, TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk].
Thông tin trên địa bàn tôi luôn nắm chắc, xem thêm truyền hình và
các báo để biết tình hình các địa phương khác qua đó điều chỉnh hoạt
động, công tác tuyên truyền tại địa phương mình cho phù hợp.
[Nam, 36 tuổi, cán bộ phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội].
Nếu chúng ta chỉ chú trọng TTTP trên truyền hình mà không có
những động tác khác nữa để kết nối với truyền thông và kể cả dùng các
biện pháp hành chính nữa thì hiệu quả thông tin không được nhiều. Mục
đích của truyền thông là phải làm chuyển đổi hành vi, nhận thức của cá
nhân và tổ chức, đặc biệt là bộ máy công quyền để vận hành tốt xã hội.
[PVS, Mã 14, Nam, Phó Trưởng phòng ANTV Đắk Lắk].
Thực tiễn khảo sát cho thấy, việc sử dụng TTTP trên TH để tuyên truyền phổ
biến pháp luật, phòng chống tội phạm qua đội ngũ cán bộ cơ sở đã đem lại hiệu quả
rõ nét, bởi họ là lực lượng nòng cốt gắn bó trực tiếp với đời sống nhân dân, nắm rõ
nhất tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Có được kết quả này là do các cấp, các
ngành đã chú trọng những cách làm, mô hình thu hút được nhiều người dân tham
111
gia, lấy người dân làm trung tâm, kết hợp giữa tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật với cam kết, phát huy vai trò của người dân. Phương pháp tuyên truyền đơn
giản, dễ hiểu, trọng tâm, gắn với những tình huống phát sinh trong đời sống hàng
ngày, phù hợp với tập quán, văn hóa của người dân, trong đó chú trọng hình thức
tuyên truyền miệng trực tiếp bằng hình thức sân khấu hóa, tăng cường tổ chức các
hội nghị tập huấn, phổ biến ngay tại địa bàn xã, thôn bản để thu hút đông đảo người
dân tham gia.
2.3.2.5. Một số ảnh hưởng tiêu cực phổ biến nhất đối với người dân sau khi
xem thông tin tội phạm trên truyền hình
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực đến nhận thức, niềm tin và hành động
của người dân thì khó có thể tránh những ảnh hưởng tiêu cực sau khi tiếp cận một
số TTTP trên VTV1 và ANTV.
Biểu đồ 2.17: Khác biệt trong ảnh hưởng tiêu cực: cảm thấy đạo đức xuống cấp
Tính theo tỷ lệ %
giữa những người tiếp cận thông tin tội phạm trên VTV1 và ANTV
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Cụ thể, 55,7% công chúng cảm thấy đạo đức xuống cấp khi theo dõi các
TTTP trên các chương trình truyền hình trong diện khảo sát. 40% công chúng cảm
112
thấy những TTTP đó gây cho họ hoang mang, lo lắng hoặc cảm thấy không an toàn.
Ngoài ra, có 18,5% công chúng trong mẫu khảo sát không tin tưởng hoặc giảm lòng
tin đối với con người, 15,7% không tin hoặc giảm lòng tin vào bộ máy công quyền
và 10% người cho biết TTTP đã có ảnh hưởng tiêu cực khác đến họ. Mặc dù tỷ lệ
công chúng tại đô thị cảm thấy đạo đức xuống cấp cao hơn 7,1% so với khu vực
nông thôn nhưng họ không cảm thấy bị hoang mang, lo lắng hay không thấy an
toàn như nhóm tại nông thôn.
So sánh giữa 3 tỉnh, thành phố thì tác động suy giảm niềm tin vào bộ máy
công quyền đến công chúng ở Đắk Lắk là lớn hơn so với hai thành phố TP Hồ Chí
Minh và Hà Nội (Đắk Lắk là 19%; TP Hồ Chí Minh là 15,4% và Hà Nội là 12,8%).
Đắk Lắk cũng là tỉnh có tỷ lệ cao nhất cho rằng các TTTP đó gây hoang mang, lo
lắng hoặc làm cho họ cảm thấy không an toàn (với 46,6% người lựa chọn phương
án này). Trong khi tỷ lệ lựa chọn phương án này đối với nhóm công chúng ở TP
Hồ Chí Minh là 39,5% và thấp nhất là Hà Nội với 33,7%. Khảo sát cũng cho thấy,
không có sự khác biệt giữa các độ tuổi và trình độ học vấn khi so sánh về ảnh hưởng
tiêu cực mang lại đối với công chúng (cảm thấy đạo đức xuống cấp, gây hoang
mang, lo lắng hoặc cảm thấy không an toàn)...
Thực ra xem một số TTTP, bản thân tôi cũng thấy lo sợ, hoang
mang và mất lòng tin nhất là khi xem TTTP về tham nhũng. Nhưng thực
sự là cái đó là thứ yếu thôi, truyền hình vẫn phải đưa nhiều hơn để người
dân thấy pháp luật nghiêm minh.
[Nam, 57 tuổi, người dân phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội].
Có tình trạng suy giảm niềm tin cũng là bình thường, nên chấp
nhận nhưng phải thấy được đó không phải là tác động chính. Thông tin
đưa ra đều mang tính tích cực thì toàn màu hồng, không thể để người dân
ảo tưởng về thực tế được, phải cho họ thấy thực tế hiện nay để có những
thay đổi. Quan trọng là thông tin phải chính xác, tin cậy để bà con hiểu
và làm theo.
[Nam, 60 tuổi, cán bộ phường Tân Lợi, TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk].
113
Đưa vụ án mà đi vào từng chi tiết thì không tốt, nó sẽ tác động lên
tâm lý ưa bạo lực của người dân và nhất là đối với những người có ý định
phạm tội. Một nguồn tin sẽ được đón nhận khách quan và không có hiệu
ứng tiêu cực khi mà người ta được giáo dục tốt, còn nếu người ta không
được giáo dục tốt không đủ suy nghĩ để phân định cái tốt và cái xấu thì
dĩ nhiên là có thể học theo nhất là lớp trẻ.
[PVS, Mã 06, Nam, Mục sư Tin Lành, Đắk Lắk].
Biểu đồ 2.18: Đánh giá những ảnh hưởng tiêu cực đối với công chúng
Tính theo tỷ lệ %
từ thông tin tội phạm
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Theo kết quả khảo sát, tiếp cận nhiều TTTP sẽ khiến cho ảnh hưởng tiêu cực
đến người tiếp cận tăng lên. Cụ thể, có 70,8% những người xem VTV1 hàng ngày
cho biết cảm thấy đạo đức xuống cấp, trong khi tỷ lệ này ở nhóm xem vài lần/tuần là
55,9%, và những người xem vài lần/tháng hoặc ít hơn là 51,5%. Tương tự, có 75,2%
trong số những người xem ANTV ở mức hàng ngày lựa chọn ảnh hưởng tiêu cực là
cảm thấy đạo đức xuống cấp, trong khi tỷ lệ lựa chọn ở hai nhóm có mức độ tiếp cận
ANTV ít hơn là vài lần/tuần thì giảm xuống còn 58,4% và vài lần/tháng hoặc ít hơn
thì còn 53,0%. Tuy nhiên, những ảnh hưởng tiêu cực đem lại chủ yếu là cảm xúc nhất
thời, ảnh hưởng không đáng kể đến hành động và niềm tin của người dân.
114
Điểm thành công của TTTP trên VTV1 và ANTV là rất ít người cảm thấy bị
suy giảm niềm tin hay có những hành động tiêu cực sau khi theo dõi. Như đã đề cập
ở các phần trước, các tác động tích cực vẫn là ảnh hưởng chính của TTTP đối với
công chúng. Kết quả thảo luận nhóm cũng cho thấy, ảnh hưởng tiêu cực chủ yếu là
cảm xúc nhất thời, với công chúng ảnh hưởng lâu dài nhất vẫn là các yếu tố tích
cực. Vấn đề khiến họ dễ cảm thấy suy giảm niềm tin vào bộ máy công quyền là các
vụ án có liên quan đến hành vi phạm tội của quan chức cấp cao, những vụ án mà
theo họ mức án chưa phù hợp với hành vi phạm tội...
Theo tôi thấy thì hầu như không có tác động tiêu cực nào sau khi
xem TTTP. Những tác động tiêu cực chỉ là đối với những người có ý đồ
xấu, còn người xem bình thường thì cùng lắm chỉ cảm thấy lo lắng, hoang
mang một chút.
[Nam, 42 tuổi, cán bộ phường Tân Lợi, Tp Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk].
Cái gì cũng có 2 mặt, thông tin có tác động tích cực thì cũng có thể
có tác động tiêu cực. Nhưng theo tôi, tác động tiêu cực là không lớn, chỉ
có ảnh hưởng một chút đến tâm lý người dân sau khi xem nhiều.
[Nam, 32 tuổi, người dân phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội].
Tôi nghĩ rằng, chúng ta đưa thông tin tiêu cực thì chúng ta cũng phải
nên có những gương sáng của người dân. Mảng sáng của người dân về
ANTT cho người ta biết để người ta học theo, làm theo để xã hội tốt đẹp
hơn. Sẽ tốt hơn khi trong bản tin, các anh cân bằng giữa thông tin tốt và
thông tin xấu.
[PVS, Mã 06, Nam, Mục sư Tin Lành, Đắk Lắk].
Không thể cho rằng, cứ phát sóng TTTP là có hại cho độc giả. Vấn
đề quan trọng nhất là thông tin vụ án được xử lý như thế nào qua bàn tay
của nhà báo, của những người quản lý cơ quan báo chí. TTTP đưa như
thế nào? Có phản ánh qua góc nhìn nhân văn không?
[PVS, Mã 07, Nam, Nguyên Giám đốc Kênh ANTV].
115
Tóm lược, các ảnh hưởng của TTTP trên hai kênh VTV1 và ANTV được
đánh giá là tích cực đối với công chúng. Phần lớn công chúng sau khi tiếp cận thông
tin đều đã có sự thay đổi không chỉ về nhận thức mà còn cả về niềm tin và hành
động. Tuy nhiên, những ảnh hưởng tiêu cực được đánh giá chủ yếu là đến cảm xúc
nhất thời của công chúng không ảnh hưởng đến hành động cụ thể. TTTP cũng tạo
được những thay đổi tích cực đến tình hình chung tại các địa bàn khảo sát. Các cán
bộ địa phương cũng cho biết thường xuyên sử dụng TTTP trên VTV1 và ANTV để
làm thông tin tham khảo trong các cuộc tuyên truyền, vận động tại địa phương. Bên
cạnh những ảnh hưởng tích cực thì khó tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực khi
tiếp cận các TTTP trên VTV1 và ANTV, tuy nhiên một số ảnh hưởng tiêu cực chỉ
là nhất thời, ảnh hưởng lâu dài nhất vẫn là các ảnh hưởng tích cực.
2.3.3. Các yếu tố tác động đến sự ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên
truyền hình tới công chúng
Đặc điểm nhân khẩu học của công chúng trong diện khảo sát đều có sự khác
biệt, vì vậy với mỗi người dân có nhóm tuổi, trình độ học vấn và địa bàn sinh sống
khác nhau sẽ có những ảnh hưởng khác nhau bởi TTTP trên VTV1 và ANTV khi
tiếp cận. Bên cạnh đó, các yếu tố nội dung, tần suất tiếp cận TTTP trên VTV1 và
ANTV cũng tác động trực tiếp đến sự ảnh hưởng của TTTP tới công chúng.
2.3.3.1. Yếu tố địa bàn sinh sống
Yếu tố địa bàn sinh sống có nhiều tác động đến những thay đổi trong niềm
tin và hành động cụ thể sau khi tiếp cận TTTP trên VTV1 và ANTV. Cụ thể, 61,8%
công chúng ở khu vực nông thôn cho biết sau khi tiếp cận TTTP trên TH (VTV1 và
ANTV) khiến họ quan tâm hơn đến việc phòng, chống tội phạm. Tỷ lệ này cao hơn
7,9% so với ảnh hưởng của TTTP trên TH (VTV1 và ANTV) ở khu vực đô thị. Kết
quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng niềm tin vào bộ máy công quyền sau khi tiếp nhận
TTTP của công chúng khu vực ở đô thị cao hơn ở khu vực nông thôn (37,5% người
dân ở đô thị, khu vực nông thôn là 26,2%, thấp hơn 11,3%). Điều này cũng hoàn
toàn trùng khớp với kết quả thảo luận nhóm, nhiều công chúng khu vực nông thôn
116
thường có các hành động cụ thể trong công tác phòng chống tội phạm hơn khu vực
đô thị. Họ thể hiện sự quan tâm của mình bằng hành động cụ thể như tham gia tuyên
truyền phòng chống tội phạm, chia sẻ lại các TTTP được cung cấp, thay đổi cách
phòng chống tội phạm (lắp camera chống trộm, khóa cửa trước khi đi ngủ…).
Trong khi đó, một số công chúng ở đô thị thì cho rằng hệ thống camera an ninh của
gia đình họ đã đáp ứng được nhu cầu hiện có còn tình hình ANTT nơi họ sinh sống
đã có chính quyền, công an chịu trách nhiệm vì vậy họ ít có sự thay đổi...
Biểu đồ 2.19: Ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên VTV1 và ANTV
2.6%
Khác
0.3%
49.2%
44.2%
55.0%
51.1%
Có trách nhiệm hơn trong việc ngăn ngừa, tố
giác tội phạm
Có kỹ năng để ngăn ngừa, phòng chống tội
phạm
26.2%
Tin tưởng hơn vào bộ máy công quyền
37.5%
38.2%
42.0%
61.8%
53.9%
Tham gia tích cực hơn trong việc tuyên
truyền phòng, chống tội phạm
Quan tâm hơn đến việc phòng, chống tội
phạm
45.5%
43.8%
Hiểu biết hơn về các khung hình phạt đối với
các hành vi phạm tội
84.8%
Nhận thức đầy đủ hơn về các loại tội phạm
84.9%
Nông thôn
Đô thị
0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90%
đối với công chúng khu vực nông thôn và đô thị.
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Trước khi xem được cái đoạn clip do nhóm khảo sát chiếu thì nhà
tôi đã có camera chống trộm, tuy nhiên xem nhiều TTTP thì thấy cảnh
giác hơn. Tối nào trước khi đi ngủ tôi cũng phải kiểm tra lại cửa sổ, lên
tầng thượng xem đã đóng cửa chưa, rồi quan sát xung quanh nhà có biểu
hiện gì không. Thường thì ở nhà có chồng thì yên tâm hơn nhưng vẫn
phải kiểm tra cho an toàn vì nhà tôi kinh doanh.
[Nữ, 45 tuổi, người dân phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội].
117
Mỗi lần tôi xem TTTP thì tinh thần cảnh giác được nâng cao hơn.
Khi biết được thông tin các vụ trộm cắp, vụ án giết người thì trước tiên
tôi chú ý xem lại gia đình mình có đang gặp những sơ hở đó không để
tìm giải pháp khắc phục.
[Nam, 38 tuổi, cán bộ phường Phú Mỹ, quận 7, TP Hồ Chí Minh].
Biểu đồ 2.20: Ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên VTV1 và ANTV
Khác
1.1%
1.9%
0.6%
54.0%
Có trách nhiệm hơn trong việc ngăn ngừa, tố
giác tội phạm
41.4%
42.4%
59.2%
Có kỹ năng để ngăn ngừa, phòng chống tội
phạm
50.0%
48.3%
Tin tưởng hơn vào bộ máy công quyền
31.6%
24.7%
43.0%
55.2%
22.8%
Tham gia tích cực hơn trong việc tuyên truyền
phòng, chống tội phạm
42.4%
Quan tâm hơn đến việc phòng, chống tội phạm
56.9%
55.6%
58.1%
46.6%
45.1%
Hiểu biết hơn về các khung hình phạt đối với
các hành vi phạm tội
41.9%
Nhận thức đầy đủ hơn về các loại tội phạm
91.4%
75.9%
86.6%
0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100%
TP. HCM
Đắk Lắk
Hà Nội
đối với công chúng xét theo tỉnh/thành phố khảo sát
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Khi so sánh giữa 3 tỉnh, thành phố cho thấy, tỷ lệ công chúng ở Đắk Lắk có
những ảnh hưởng tích cực sau khi xem TTTP trên TH là lớn hơn so với người dân
tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Cụ thể, 91,4% công chúng ở Đắk Lắk cho biết họ
có nhận thức đầy đủ hơn về các loại tội phạm sau khi xem xong TTTP trên TH
(VTV1, ANTV); tỷ lệ này ở Hà Nội là 86,6% và TP. Hồ Chí Minh là 75,9%. Ảnh
118
hưởng của TTTP trên TH giúp cho công chúng tham gia tích cực hơn trong việc
tuyên truyền phòng, chống tội phạm ở Đắk Lắk cũng cao nhất với với 55,2%; tỷ lệ
này của người dân ở Hà Nội là 42,4% và ở thành phố Hồ Chí Minh là 22,8%. Với
ảnh hưởng giúp người dân tin tưởng hơn vào bộ máy công quyền thì tỷ lệ lựa chọn
tại Hà Nội là cao nhất với 43%, tiếp đến là Đắk Lắk với 31,6% và thấp nhất là TP.
Hồ Chí Minh với 24,7%.
2.3.3.2. Yếu tố độ tuổi
Nhóm tuổi trung niên và thanh niên có những khác biệt rõ rệt trong mức độ
ảnh hưởng bởi TTTP trên VTV1 và ANTV. So với nhóm tuổi trung niên (trên 46
tuổi) thì nhóm thanh niên (dưới 30 tuổi) thường chịu ảnh hưởng ít hơn và ít quan
tâm đến các TTTP hơn. Cụ thể, có 49,7% người ở nhóm <=30 tuổi cho biết họ quan
tâm đến các TTTP sau khi xem truyền hình, tỷ lệ này tăng lên 56,6% với nhóm từ
31-45 tuổi và cao nhất là 66,7% với nhóm từ 46 tuổi trở lên. Tương tự, ở nhóm tuổi
càng cao thì người dân cho biết họ tham gia rất tích cực trong công tác tuyên truyền
phòng, chống tội phạm.
Biểu đồ 2.21: Khác biệt của người trả lời trong việc quan tâm đến công
tác phòng chống tội phạm
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
119
Thực tế này cũng trùng khớp với ý kiến của người dân tham gia thảo luận
nhóm. Theo đó, nhiều người dân khẳng định thực tế tại địa bàn họ sinh sống, những
người lớn tuổi thường tham gia tích cực hơn trong công tác tuyên truyền phòng
chống tội phạm. Họ cũng thường xuyên trao đổi thông tin nói chung, TTTP trên TH
nói riêng sau khi tiếp nhận. Với nội dung các tin, phóng sự được cung cấp khi thực
nghiệm, sau một tháng khảo sát phần lớn người có độ tuổi trên 46 tuổi đều khẳng
định đã có trao đổi với người xung quanh và ghi nhớ các nội dung trong tin, phóng
sự để vận dụng vào thực tiễn. Các nhóm tuổi còn lại, tỷ lệ này thấp hơn, họ thường
trao đổi ngay thời điểm đó nhưng khoảng thời gian sau đó ít khi có sự duy trì việc
tìm kiếm, trao đổi thông tin.
Theo chia sẻ của họ, nguyên nhân chủ yếu do bản thân họ cảm thấy những
thông tin này cũng đã được nhiều người biết nên không cần phải trao đổi thêm. Bên
cạnh đó, nhóm trẻ tuổi cũng thừa nhận do đặc thù công việc ít khi có thời gian gặp
gỡ trao đổi với mọi người nên họ chỉ trao đổi trong gia đình ngay sau khi biết được
các thông tin và thường không ghi nhớ quá lâu những thông tin đó...
Tôi cao tuổi nên có thời gian xem tivi, gặp gỡ bạn bè rồi tham
gia nhiều hoạt động xã hội còn bọn trẻ thì đi làm tối ngày nên không
có thời gian xem tivi. Sáng sớm đã đi làm rồi đến khuya mới về nhà
tắm gội, cho bọn trẻ ăn uống xong là cũng hết thời gian rồi.
[Nam, 62 tuổi, người dân phường Phú Mỹ, quận 7, TP Hồ Chí Minh].
Tôi làm hành chính, công việc cũng gọi là có chút thời gian
nhưng thực sự là không có nhiều thời gian để tham gia các hoạt động
bên ngoài. Tôi xem xong thời sự của VTV1 hay trên ANTV mà thấy
thông tin nào bức xúc thì chia sẻ trên mạng xã hội facebook để bạn bè
đọc được.
[Nữ, 29 tuổi, người dân phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội].
Không có khác biệt giữa các nhóm tuổi trong việc trao đổi TTTP với người thân
trong gia đình, họ hàng. Tuy nhiên, việc trao đổi thông tin với hàng xóm lại rơi
120
nhiều hơn vào những người lớn tuổi. Nếu như chỉ có 16,8% số người trong nhóm
tuổi <= 30 tuổi trao đổi thông tin với hàng xóm thì tỷ lệ này tăng lên ở nhóm tuổi
từ 31 - 45 tuổi là 29,6% và nhóm > 46 tuổi là 40,1%. Trong khi đó, những người
trao đổi thông tin với bạn bè thì nhóm <= 30 tuổi lại cao hơn hai nhóm tuổi còn lại.
Cụ thể, tỷ lệ trao đổi TTTP của nhóm <= 30 tuổi là 60,7%; tỷ lệ này ở nhóm 31 -
45 tuổi là 51% và thấp nhất là nhóm > 46 tuổi với 45,1%. Với hoạt động trao đổi
TTTP với đồng nghiệp thì nhóm 31 - 45 tuổi có tỷ lệ cao nhất với 30,5%, nhóm
<=30 tuổi là 23,7% và nhóm > 46 tuổi là 12,3%... [Nguồn: Kết quả khảo sát công
chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH]
Sau khi xem TTTP, trước tiên tôi trao đổi với người trong gia
đình, bàn luận với vợ và các con về vụ việc. Sau đó là với bạn bè, hàng
xóm, đi đánh cờ thì hỏi xem họ có biết không để trao đổi, bàn luận.
[Nam, 65 tuổi, người dân phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội].
Nguyên nhân do đặc điểm nhóm tuổi, với nhóm tuổi dưới 30 tuổi, việc giao
tiếp của họ thường tập trung nhiều vào bạn bè, gia đình. Nhóm từ 30 - 45 tuổi thì
bên cạnh việc giao lưu, trao đổi với gia đình họ cũng có nhiều thời gian với đồng
nghiệp và bạn bè hơn nên có nhiều cơ hội để trao đổi thông tin. Riêng nhóm trên 46
tuổi, nhiều người đã về hưu nên các mối quan hệ của họ tập trung vào gia đình, hàng
xóm, bạn bè và họ hàng nhiều hơn. Việc trao đổi thông tin vì thế mà cũng tập trung
hơn vào các nhóm đối tượng giao tiếp nhiều nhất của mỗi nhóm tuổi...
2.3.3.3. Yếu tố trình độ học vấn
Trình độ học vấn là yếu tố quan trọng làm thay đổi ảnh hưởng của TTTP trên
TH đến công chúng. Người có trình độ học vấn càng cao thì dễ chấp nhận và tin
tưởng vào TTTP được cung cấp trên VTV1 và ANTV hơn. Theo kết quả khảo sát,
nhóm có trình độ học vấn cao hơn thì thay đổi nhận thức tốt hơn. Sau khi tiếp cận
TTTP họ có những thay đổi trong tư tưởng và hành động tốt hơn nhóm có học vấn
ở mức tiểu học và trung học cơ sở.
121
Bảng 2.11: Tương quan giữa trình độ học vấn và ảnh hưởng của thông tin tội
phạm trên truyền hình đối với công chúng
Trình độ học vấn cao nhất
của người trả lời
NỘI DUNG Tiểu THPT & CĐ,
học & Trung ĐH &
THCS cấp/THCN SĐH
Nhận thức đầy đủ hơn về các loại tội phạm 18.9% 25.2% 55.9%
Hiểu biết hơn về các khung hình phạt đối với 19.9% 33.3% 46.8%
các hành vi phạm tội
Quan tâm hơn đến việc phòng, chống tội phạm 20.9% 28.9% 50.2%
Tham gia tích cực hơn trong việc tuyên truyền 22% 23.5% 54.5%
phòng chống tội phạm
Tin tưởng hơn vào bộ máy công quyền 17.1% 24.4% 58.5%
Có kỹ năng để ngăn ngừa, phòng chống tội 19.3% 25.6% 55.1%
phạm
Có trách nhiệm hơn trong việc ngăn ngừa, tố 21.2% 27.4% 51.3%
giác tội phạm
Khác 16.7% 50% 33.3%
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Thảo luận nhóm cũng cho biết những người có học vấn cao ghi nhớ thông
tin được cung cấp tốt hơn các nhóm khác. Cùng xem một tin bài về TTTP nhưng
sau một tháng phần lớn người ở nhóm có trình độ học vấn THPT trở xuống cho
biết chỉ nhớ được khoảng 20-30% nội dung trong khi đó nhóm có trình độ học vấn
cao (cao đẳng, đại học trở lên) nhớ được khoảng 50% nội dung thông tin. Bên
cạnh đó, những người có học vấn cao cũng dễ dàng thay đổi sau khi tiếp nhận
thông tin hơn do họ có nhiều nguồn để tiếp cận (báo in, báo mạng, mạng xã hội,
trao đổi với đồng nghiệp…)...
122
Người có trình độ học vấn cao đương nhiên điều kiện của họ
cũng tốt hơn những người có học vấn thấp hơn. Họ có trình độ và
tiếp cận nhiều thông tin nên khả năng nhớ và vận dụng thông tin sẽ
tốt hơn những nhóm khác.
[Nam, 65 tuổi, người dân thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M'gar, Đắk Lắk].
Tôi chỉ nhớ được khoảng 20-30% các thông tin hôm trước
xem, tôi bận đi làm nên không có thời gian nhớ nhiều.
[Nữ, 25 tuổi, người dân phường Phú Mỹ, quận 7, TP Hồ Chí Minh].
Những thông tin tôi xem hôm trước chỉ nhớ được khoảng 60-
70% thôi. Các thông tin trên không phải là mới với tôi nên xem qua
một lần là nhớ ngay.
[Nam, 36 tuổi, cán bộ phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội].
2.3.3.4. Yếu tố tần suất tiếp cận thông tin.
Kết quả khảo sát cho thấy, tần suất tiếp cận tác động trực tiếp đến ảnh
hưởng của TTTP trên VTV1 và ANTV đối với công chúng. Những người xem
thông tin trên VTV1 và ANTV hàng ngày sẽ có ảnh hưởng tích cực nhiều hơn so
với các nhóm xem vài lần/tuần hay vài lần/tháng. Trong số những người tiếp cận
thông tin trên VTV1 ở mức độ hàng ngày thì có đến 89,7% cho biết nhận thức về
các loại tội phạm của họ đã đầy đủ hơn; tỷ lệ này ở nhóm xem vài lần/tuần giảm
xuống còn 82,9% và đến nhóm xem vài lần/tháng hoặc ít hơn là 77,3%. Tương tự,
những người thường xuyên xem ANTV sẽ có sự thay đổi trong việc tham gia
tuyên truyền phòng, chống tội phạm cao hơn các nhóm khác. Nếu như chỉ có 28%
những người xem ở mức vài lần/tháng hoặc ít hơn có sự thay đổi trong việc tuyên
truyền phòng, chống tội phạm, thì đến nhóm xem vài lần/tuần tỷ lệ này tăng lên là
39,4% và lên đến mức 54,7% ở nhóm xem hàng ngày. Xu hướng ảnh hưởng cũng
tương tự khi đánh giá tác động của mức độ tiếp cận đến các ảnh hưởng khác của
TTTP trên VTV1 và ANTV đến công chúng...
123
Biểu đồ 2.22: Khác biệt trong ảnh hưởng tích cực của thông tin tội phạm trên
Hàng ngày
Vài lần/ tháng
Vài lần/ tuần
Khác
1.2%
1.2%
1.2%
35.4%
44.7%
58.4%
Có trách nhiệm hơn trong việc ngăn ngừa, tố giác tội
phạm
46.3%
47.6%
Có kỹ năng để ngăn ngừa, phòng chống tội phạm
65.8%
21.3%
35.9%
Tin tưởng hơn vào bộ máy công quyền
truyền hình đến công chúng theo các nhóm tiếp cận thông tin trên VTV1, ANTV
V
T
N
A
42.2%
28.0%
39.4%
Tham gia tích cực hơn trong tuyên truyền phòng
chống tội phạm
54.7%
56.7%
52.9%
Quan tâm hơn đến việc phòng, chống tội phạm
60.2%
37.2%
45.9%
Hiểu biết hơn các khung hình phạt đối với hành vi
phạm tội
49.7%
78.7%
Nhận thức đầy đủ hơn về các loại tội phạm
87.6%
88.2%
Khác
0.9%
1.8%
0.9%
35.5%
47.0%
Có trách nhiệm hơn trong việc ngăn ngừa, tố giác tội
phạm
50.2%
51.8%
54.9%
Có kỹ năng để ngăn ngừa, phòng chống tội phạm
51.5%
19.1%
33.5%
Tin tưởng hơn vào bộ máy công quyền
39.9%
1
V
T
V
23.6%
36.6%
51.1%
Tham gia tích cực hơn trong tuyên truyền phòng
chống tội phạm
58.2%
58.5%
Quan tâm hơn đến việc phòng, chống tội phạm
54.9%
37.3%
43.9%
Hiểu biết hơn các khung hình phạt đối với hành vi
phạm tội
48.5%
77.3%
82.9%
Nhận thức đầy đủ hơn về các loại tội phạm
89.7%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Khi so sánh ảnh hưởng giữa mức độ tiếp cận và mức độ ảnh hưởng của TTTP
trên VTV1 và ANTV nghiên cứu rút ra rằng, những người thường xuyên xem
ANTV sẽ có những ảnh hưởng tích cực nhiều hơn đến hành động và tư tưởng so
với việc xem VTV1. Đối với nhóm xem tin tức hàng ngày, tỷ lệ người dân cho biết
sự ảnh hưởng tích cực của TTTP đến hành động của họ từ ANTV cao hơn VTV1,
các nhóm hành động cụ thể như: tham gia tích cực hơn trong việc tuyên truyền,
124
phòng chống tội phạm; có kỹ năng để ngăn ngừa, phòng chống tội phạm, có trách
nhiệm hơn trong việc ngăn ngừa, tố giác tội phạm và quan tâm hơn đến việc phòng,
chống tội phạm. Tỷ lệ người dân cho biết họ tin tưởng hơn vào bộ máy công quyền
sau khi xem ANTV cũng cao hơn rõ rệt so với nhóm xem VTV1. Điều này cho
thấy, nội dung truyền tải thông tin trên ANTV đã tạo được ấn tượng tốt hơn, ảnh
hưởng rõ hơn và giúp chuyển biến từ việc tiếp cận thông tin đến thay đổi hành động,
tư tưởng cao hơn so với các nội dung trên VTV1.
2.3.3.5. Yếu tố nội dung thông tin
Nội dung thông tin trong các tin, bài là yếu tố quan trọng bậc nhất và ảnh
hưởng trực tiếp đến quan điểm và thái độ của công chúng đến TTTP được cung
cấp. Như đã đề cập trong các phần trước, ANTV và VTV1 có sự chênh lệch rất
lớn trong số lượng tin bài về TTTP (94,4% tin bài về TTTP thuộc kênh ANTV và
5,6% thuộc VTV1). Cơ cấu nội dung thông tin về tội phạm được phát sóng trên
ANTV và VTV1 có sự chênh lệch tương đối rõ. VTV1 có tỷ lệ tin, bài về TTTP
thấp nhưng cơ cấu thành phần các tin, bài có nội dung về phương thức thủ đoạn
và biện pháp phòng ngừa tội phạm lại cao hơn so với ANTV. Tuy vậy, theo đánh
giá của công chúng nội dung các tin, bài về TTTP trên ANTV được đánh giá nhỉnh
hơn so với VTV1.
Cụ thể, nội dung TTTP trong các tin bài của ANTV đầy đủ, đa dạng hơn, dễ
theo dõi, dễ hiểu hơn bên cạnh đó cũng có nhiều nội dung về các biện pháp, khuyến
cáo phòng ngừa tội phạm, chia sẻ, đánh giá của chuyên gia (cán bộ công an, luật
sư, cán bộ chính quyền các cấp…). Trong khi TTTP trên VTV1 phần lớn thời lượng
ngắn nên việc đi sâu giải thích các vụ việc thường hạn chế hơn, thông thường nội
dung được VTV1 phát sóng chủ yếu là thông báo vụ việc, phương thức, thủ đoạn
hoạt động của tội phạm, riêng nội dung về biện pháp phòng ngừa tội phạm chiếm
tỷ lệ không lớn trong tổng số tin bài về TTTP (60.4% các tin, bài trên VTV1 đề cập
đến phương thức thủ đoạn hoạt động của tội phạm trong khi số tin bài có đề cập
đến biện pháp phòng ngừa tội phạm là 23,4%). Đối với ANTV, hầu như những tin,
125
bài có nội dung về phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm (chiếm 23,3% số
tin bài của ANTV) đều đi liền với biện pháp phòng ngừa tội phạm (chiếm 18,2% số
tin bài trên ANTV).
Biểu đồ 2.23: Nội dung thông tin tội phạm phát sóng trên ANTV và VTV1
Nguồn: Kết quả khảo sát TTTP phát sóng trên VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017
Qua đó có thể thấy, cả ANTV và VTV1 đều có những ưu nhược điểm cần
học tập lẫn nhau. Đối với ANTV cần tăng cường tỷ lệ các tin, bài có nội dung về
phương thức thủ đoạn hoạt động của tội phạm và các biện phạm phòng ngừa đi kèm
với việc phát sóng các thông tin vụ việc như hiện nay. Đối với VTV1, cần cân đối
hơn tỷ lệ các tin bài có nội dung về biện pháp phòng ngừa tội phạm với số tin bài
về phương thức thủ đoạn hoạt động của tội phạm, có như vậy TTTP mới ảnh hưởng
tích cực sâu rộng đối với công chúng.
Có thể khẳng định, yếu tố nội dung thông tin là yếu tố quan tâm hàng đầu
của công chúng, đặc biệt với công chúng có trình độ ngày càng cao như hiện nay.
Chính vì vậy, yếu tố này tác động rất lớn đến sự ảnh hưởng của TTTP trên TH đối
với công chúng. Đồng thời, nó có thể đóng vai trò nào đó trong việc phát triển khả
năng nhận diện của người xem. Nội dung phù hợp sẽ đáp ứng được nhu cầu và đem
lại sự thỏa mãn cho công chúng.
126
Sơ đồ 2.1: Các yếu tố tác động đến sự ảnh hưởng của thông tin tội phạm
trên truyền hình đối với công chúng
Tóm lược, dựa trên các thang đo về ảnh hưởng của TTTP trên TH đến công
chúng có thể thấy, các yếu tố chính tác động đến ảnh hưởng của TTTP trên TH
đối với công chúng là tần suất tiếp cận thông tin và nội dung thông tin truyền tải.
Tần suất tiếp cận thông tin càng nhiều thì các ảnh hưởng đến tâm lý và hành động
của công chúng càng lớn. Với nội dung tin, bài được phát sóng trong giai đoạn
2016-2017 thì ảnh hưởng mang tính tích cực nhiều hơn các ảnh hưởng tiêu cực.
Ảnh hưởng của TTTP đến công chúng sẽ có sự khác nhau giữa các nhóm tuổi,
trình độ học vấn khác biệt và địa bàn sinh sống. Công chúng khu vực nông thôn
sẽ có những hành động cụ thể hơn người dân ở đô thị sau khi tiếp cận TTTP.
Nhóm có học vấn cao hơn cũng tiếp cận và có thay đổi tốt hơn so với các nhóm
còn lại. Đặc biệt những người cao tuổi sẽ có những thay đổi trong hành động và
tư tưởng cao hơn so với nhóm tuổi khác.
127
2.4. Thành công, hạn chế và nguyên nhân
2.4.1. Thành công
- Thông tin tội phạm trên VTV1 và ANTV đã tạo được ảnh hưởng lớn đến
nhận thức và thói quen của công chúng. Như nghiên cứu sinh đã đề cập trong mục
2.3.1 chương 2 và đối chiếu với bộ tiêu chí đã đặt ra trong chương 1, TTTP đã góp
phần giúp công chúng nâng cao nhận thức và hình thành thói quen theo dõi thông
tin trên hai kênh khảo sát. Nhiều người dân tham gia khảo sát cho biết, họ đã coi
VTV1 và ANTV là hai nguồn thông tin về tội phạm quan trọng và thường xuyên
theo dõi hằng ngày. Bên cạnh đó, các thông tin trên VTV1 và ANTV là nguồn thông
tin giúp họ phân biệt thật giả, đối chiếu với các nguồn khác (báo mạng, mạng xã
hội, tin đồn truyền miệng...). Nhận thức của công chúng về các loại hình tội phạm
cũng được nâng cao thông qua các thông tin được cung cấp trên truyền hình. Có thể
thấy đây là thành công lớn của truyền hình và của hai kênh VTV1, ANTV trong
việc tiếp cận và tạo ảnh hưởng tích cực đến nhận thức và thói quen của công chúng.
- Nội dung TTTP luôn thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng
và ảnh hưởng sâu sắc đến kiến thức, quan điểm về tội phạm của họ. Theo kết quả
khảo sát, đối với TTTP, công chúng luôn quan tâm đến các chủ đề chính như: giải
thích vì sao tội phạm đó xảy ra? liệu có xảy ra đối với họ hay không? làm thế nào
để ngăn ngừa. Một số người cũng muốn nghe câu chuyện xem các loại tội phạm đã
lập kế hoạch ra sao, gây án thế nào… Thực tế công chúng đều đánh giá VTV1 và
ANTV đã làm tốt nhiệm vụ của mình, cung cấp đúng và đa dạng so với nhu cầu
của người dân. Việc cung cấp đầy đủ thông tin cũng góp phần giúp họ nhận thức
tốt hơn, đầy đủ hơn về các loại hình tội phạm, hướng xử lý khi gặp phải.
- Thông tin tội phạm trên VTV1 và ANTV ảnh hưởng tích cực đến hành vi
của công chúng khi họ xem thường xuyên. Mục 2.3.3 chương 2 của luận án đã đề
cập đến ảnh hưởng của việc công chúng thường xuyên tiếp cận các thông tin tội
phạm. Theo đó, những người thường xuyên tiếp xúc với TTTP trên VTV1 và
ANTV sẽ tham gia tích cực hơn vào các hoạt động tuyên truyền, phòng chống tội
128
phạm, tham gia ngăn ngừa và tố giác tội phạm. Họ cũng thường xuyên quan tâm
đến tình hình ANTT và tin tưởng vào bộ máy công quyền, chia sẻ thông tin để kênh
truyền hình được tiếp cận rộng rãi với công chúng hơn. Trong truyền thông, việc
người tiếp nhận thông tin, chuyển hóa các thông tin được tiếp nhận thành hành động
chứng tỏ thông tin đã đạt được mục đích truyền thông. Trong trường hợp này, có
thể nói TTTP trên VTV1 và ANTV đã đạt được mục đích tuyên truyền khi công
chúng đã có những hành động mang tính tích cực sau khi tiếp nhận thông tin.
- Thông tin tội phạm đã tạo ảnh hưởng tích cực góp phần làm giảm tình
hình tội phạm tại địa bàn khảo sát. Kết quả khảo sát đã cho thấy phần lớn công
chúng đều cho rằng các TTTP trên VTV1 và ANTV đều có tính răn đe và giáo
dục cao, góp phần làm giảm tình hình tội phạm. Tiêu biểu là các loại hình tội
phạm liên quan đến lừa đảo bán hàng đa cấp, các hành vi lừa đảo qua điện thoại,
cướp giật, trộm cắp hay tội phạm hoạt động theo băng nhóm... Ghi nhận của đội
ngũ cán bộ phường, xã, công an tại các khu vực khảo sát, các thông tin cảnh báo
qua truyền hình đem lại hiệu quả trên diện rộng, kết hợp với công tác tuyên
truyền trực tiếp tại cơ sở là nguyên nhân chính góp phần giảm thiểu tình hình tội
phạm trên địa bàn.
2.4.2. Hạn chế, thiếu sót
Bên cạnh những ưu điểm được ghi nhận như ở trên thì vẫn còn những hạn
chế trong quá trình TTTP trên các chương trình thời sự VTV1 và ANTV. Theo
kết quả khảo sát, gần 50% người dân được hỏi cho biết, theo họ hạn chế lớn nhất
của TTTP trong các chương trình trên VTV1 và ANTV đó là còn né tránh một số
vụ việc, một số vụ việc vẫn chưa được thông tin hoặc thông tin chưa đầy đủ đến
người dân. Ngoài ra, vẫn có một số TTTP mang tính “giật gân”, “câu view” hay
có định kiến với một số nhóm người, thông tin đôi lúc dàn trải thiếu định hướng.
Dễ nhận thấy các hạn chế trên đều có nguy cơ sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả tuyên
truyền của TTTP. Người dân sẽ ít tin tưởng hơn với các thông tin được cung cấp
nếu như không có sự điều chỉnh, giải thích kịp thời...
129
Bảng 2.12: Đánh giá của công chúng về những hạn chế trong việc
phản ánh thông tin tội phạm trên VTV1 và ANTV
VTV1 ANTV
Hạn chế Có Có Không Có Có một Không
nhiều một số có nhiều số có
(%) (%) (%) (%) (%) (%)
1. Mang tính giật gân, câu 5,7 13,5 80,8 5,2 10,6 84,2
view
2. Phóng đại, thổi phồng 1,7 10,5 87,8 2,9 7,1 90,0
3. Định kiến với một số nhóm 4,7 13,0 82,3 2,3 13,8 83,9
người
4. Đưa những hình ảnh phản 1,6 5,6 92,8 1,0 4,8 94,2
cảm
5. Thông tin chưa kiểm chứng 1,9 9,5 88,6 2,3 8,2 89,5
6. Còn né tránh một số vụ việc 8,6 39,6 51,8 7,9 37,8 54,3
7. Thiếu tính định hướng 3,1 13,0 84,0 2,3 11,8 85,9
1,9 6,7 91,4 4,3 4,3 91,3 8. Khác
Nguồn: Kết quả khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
Mặt khác, dựa trên các nội dung và cách thức truyền tải TTTP hiện nay, khó
có thể tránh được các sai sót, hạn chế, đặc biệt là các chương trình trong diện khảo
sát đều phát sóng trực tiếp. Dựa trên những đánh giá tin bài, chương trình trong
khuôn khổ nghiên cứu, tác giả đưa ra một số hạn chế tiêu biểu của việc cung cấp
TTTP trên TH (VTV1 và ANTV), những hạn chế này có thể làm suy giảm sự ảnh
hưởng tích cực của TTTP đối với công chúng. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, TTTP trên VTV1 hiện nay chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu
cung cấp thông tin của công chúng. Đặc biệt, trong “khung giờ vàng” thông tin về
tình hình ANTT vẫn còn rất mỏng, cần bổ sung để đáp ứng nhu cầu thông tin của
130
họ. Trong khi đó, nhu cầu của công chúng luôn thay đổi và yêu cầu về nội dung,
chất lượng thông tin phải ngày càng nâng cao. Vì vậy, TTTP cần được cập nhật liên
tục. Có một thực tế, với những vấn đề nóng báo mạng điện tử, mạng xã hội cập nhật
từng phút, từng giờ... nhưng với kênh VTV1, ANTV thì thông tin cần được kiểm
chứng một cách chính xác và xử lý theo quy trình nên không thể chạy đua với những
thông tin trên mạng. Sự chậm, muộn của một số TTTP khiến không ít công chúng
hoài nghi, hoang mang và như vậy sự ảnh hưởng tích cực của báo chí chính thống
như VTV1, ANTV đối với công chúng sẽ có phần suy giảm.
Thứ hai, cả VTV1 và ANTV đều có một hạn chế trong cách truyền tải TTTP
đó là tính đa dạng chưa cao, thiếu cách minh họa, trình bày sáng tạo. Không ít
TTTP trong các chương trình thời sự hiện nay có hình ảnh đơn điệu như: dẫn giải
tội phạm, hiện trường vụ án, xét hỏi tội phạm... dẫn đến sự nhàm chán đối với công
chúng. Nhiều tin bài, phóng sự đề cập TTTP sơ sài mới dừng lại ở góc độ phản ánh,
chưa đi sâu vào công tác phòng ngừa hoặc phân tích nguyên nhân dẫn đến hành vi
phạm tội. Sự phản ánh chưa toàn diện này là thiếu sót, dở dang trong việc định
hướng, định hình cho tâm lý quần chúng trong công tác phòng ngừa tội phạm, nâng
cao tính thượng tôn pháp luật, bảo vệ công lý.
Thứ ba, nhiều người dân tham gia khảo sát cho biết: TTTP trên VTV1, ANTV
hiện nay vẫn thiếu tính hệ thống. Công chúng khi theo dõi thường khó có thể tập
trung và nhớ được những thông tin nào đã được cung cấp và thông tin nào chưa.
Rất nhiều vụ việc liên quan đến tội phạm khi mới xảy ra, TTTP được đưa dồn dập,
thời điểm sau đó các thông tin liên quan đến vụ việc ít được nhắc đến hoặc nhắc
đến nhưng người dân khó nắm bắt được. Tính hệ thống của TTTP sẽ ảnh hưởng
tích cực đến công chúng, giúp hình dung dễ dàng vụ việc, thủ đoạn phạm tội, hậu
quả pháp lý từ đó cũng nắm được các biện pháp phòng ngừa trong thực tiễn.
Thứ tư, kênh VTV1, ANTV chưa tận dụng tối đa nền tảng số, kênh thông
tin phụ trợ trên các trang mạng xã hội (Facebook, Instagram, Youtube…) đang
phát triển vô cùng nhanh chóng và dần trở thành đối thủ với các kênh thông tin
131
truyền thống. Đứng trước yêu cầu này, truyền hình cần có sự thay đổi phù hợp
để bắt kịp và tận dụng những lợi thế của nền tảng số giúp nâng cao hiệu quả
truyền tải thông tin.
Thứ năm, khảo sát cho thấy nhu cầu TTTP của giới trẻ là rất lớn, tuy nhiên
việc cung cấp TTTP trên truyền hình gặp trở ngại về khung giờ và nội dung phát
sóng. Thực tế, TTTP đến với giới trẻ/người trẻ hiện nay phần lớn không phải từ
truyền hình truyền thống mà từ truyền hình Internet, báo mạng điện tử, ứng dụng
số trong đó MXH chiếm thế áp đảo. Đây là vấn đề các kênh truyền hình cần nghiên
cứu thay đổi, xây dựng các chương trình phù hợp với thị hiếu và nhu cầu của các
đối tượng, đặc biệt là giới trẻ, giúp họ hình thành ý thức chấp hành pháp luật từ sự
tiếp nhận TTTP trên truyền hình.
Thứ sáu, ngôn ngữ báo chí ở một số TTTP vẫn lặp đi lặp lại những cụm từ
quen thuộc. Bên cạnh đó, nhiều lời bình chưa đi sâu phân tích, lý giải mà chỉ là sự
mô tả lại những gì hình ảnh đã nói. Nhiều tin bài luôn có câu: hiện vụ việc đang
được cơ quan công an đang tiếp tục điều tra, làm rõ, điều tra mở rộng... hay những
từ như trước đó, theo đó… Một số ít tin bài vẫn sử dụng từ ngữ chưa chuẩn xác,
chưa tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội, vẫn có hình ảnh, lời bình miêu tả tội ác,
phản cảm, vẫn sử dụng những từ mang tính miệt thị như: y, thị, hắn, tên, kẻ, hung
thủ, thủ phạm…
2.4.3. Nguyên nhân thành công và hạn chế
2.4.3.1. Nguyên nhân thành công
Nguyên nhân thành công do phần lớn TTTP trên hai kênh VTV1 và ANTV
đảm bảo được độ tin cậy, tính chân thực và sự đa dạng thông tin, cách truyền tải
đến với công chúng, từ truyền hình truyền thống đến nay công chúng có thể tiếp
cận TTTP của VTV1, ANTV qua nền tảng số, ứng dụng số.
Cụ thể, đối với kênh VTV1, các chương trình được khảo sát là “Thời sự
19h”, “Chuyển động 24h”, thông tin thời sự, chính trị và an ninh trật tự luôn được
ưu tiên hàng đầu, trong đó TTTP phản ánh về vụ án, tiến trình điều tra vụ án được
132
đông đảo công chúng quan tâm, theo dõi, đón nhận. Đến thời điểm hiện tại, chương
trình “Thời sự 19h”, “Chuyển động 24h” vẫn được chú trọng về nội dung và hình
thức thể hiện, cơ bản đáp ứng chức năng thông tin, tuyên truyền, định hướng dư
luận... đối với công chúng Việt Nam hiện nay.
Đối với kênh truyền hình chuyên biệt ANTV, các chương trình thường xuyên
thay đổi fomat, góc nhìn giúp công chúng hiểu sâu và rõ hơn về TTTP. Công chúng
tham gia khảo sát đều đánh giá TTTP trên ANTV khách quan, chân thực, tạo được
điểm nhấn riêng trong các chương trình thời sự phát sóng liên tục trong ngày. Bên
cạnh đó, công chúng cũng hiểu rõ hơn về tình hình tội phạm, các cách phòng chống
tội phạm; răn đe, ngăn ngừa tội phạm; tuyên truyền pháp luật, từ đó nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của họ.
Nhìn chung, rất nhiều công chúng khẳng định TTTP trên kênh VTV1,
ANTV đã thể hiện được vai trò chủ lực trong tuyên truyền an ninh trật tự hiện nay.
Việc cung cấp TTTP trong các chương trình thời sự không chỉ giúp khán giả có
thêm hiểu biết mà còn góp phần không nhỏ vào việc thay đổi nhận thức và điều
chỉnh hành vi tích cực của họ trong đời sống xã hội.
2.4.3.2. Nguyên nhân hạn chế
Thứ nhất, tiến trình toàn cầu hóa phương tiện thông tin đại chúng diễn ra
mạnh mẽ, tạo ra sự cạnh tranh lớn giữa các loại hình sản phẩm truyền thông, đặc
biệt là các sản phẩm truyền thông mới. Báo chí nói chung, truyền hình nói riêng
không còn là phương tiện truyền thông độc quyền, bị nhiều phương tiện truyền
thông khác cạnh tranh gay gắt. Việc chậm đón bắt xu thế phát triển của truyền thông
sẽ là nguyên nhân suy giảm ảnh hưởng tích cực của truyền hình đối với công chúng.
Thứ hai, kênh VTV1, ANTV chưa thực sự quan tâm, coi trọng TTTP là
thông tin góp phần điều chỉnh hành vi của công chúng nhằm xây dựng một xã
hội tuân thủ pháp luật. Theo khảo sát trong năm 2016-2017, số lượng TTTP
trên VTV1 là rất ít, chỉ tập trung vào những vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng,
dư luận đặc biệt quan tâm. Trong khi đó, TTTP trên ANTV chiếm số lượng
133
vượt trội so với VTV1 nhưng phần lớn mang tính thông báo vụ việc, thông tin
mang giá trị cảnh báo, phổ biến pháp luật chưa nhiều. Thực trạng trên có thể
dẫn đến tình trạng tỷ lệ người dân tiếp cận TTTP trên truyền hình chưa cao,
đồng thời sự ảnh hưởng tích cực nhằm giúp công chúng thay đổi nhận thức và
điều chỉnh hành vi không lớn.
Thứ ba, TTTP trên VTV1, ANTV là một dạng thông tin chuyên biệt tuy
nhiên trong thực tiễn, trình độ nguồn nhân lực sản xuất chưa đồng đều. Phần lớn
BTV, PV, CTV mảng pháp luật của VTV1, kênh chuyên biệt ANTV kiến thức pháp
luật, nghiệp vụ còn hạn chế, thậm chí có người chưa được đào tạo nghiệp vụ báo
chí, pháp luật. Thực trạng này dẫn đến việc sản xuất, tổ chức phát sóng nhiều TTTP
thiếu chiều sâu, hiệu quả không cao. Thêm vào đó, nhiều cơ quan báo chí, người
làm báo chạy theo số lượng tin bài, dư luận mà sao nhãng những yếu tố tích cực,
nhân văn trong mỗi tác phẩm báo chí.
Thứ tư, hiện nay, nhiều cơ quan báo chí, người làm báo phản ánh TTTP theo
quán tính, cảm tính mà chưa có một bộ quy tắc hướng dẫn cụ thể...
Thứ năm, việc điều tra xã hội học nhu cầu của công chúng đối với thông tin
nói chung và TTTP trên TH nói riêng chưa thực sự được VTV, ANTV quan tâm,
chú trọng. Trong khi đó, việc xác định nhu cầu công chúng lại là yếu tố quan trọng
để xây dựng, định hướng, lôi kéo khán giả, tạo sự ảnh hưởng tích cực của mỗi kênh
truyền hình.
Thứ sáu, năng lực đầu tư cho truyền hình còn thiếu và yếu. Hiện nay ngoài
kinh phí đầu tư cho công nghệ truyền hình, hạ tầng phát sóng, VTV1, ANTV đang
tập trung kinh phí để phát triển các kênh thông tin phụ trợ, phát triển truyền hình
trên nền tảng số. Tuy nhiên với VTV là một đơn vị tự chủ kinh phí, trong bối cảnh
nguồn thu eo hẹp nên việc ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng, công nghệ còn hạn chế. Đối
với ANTV, kinh phí hoạt động vẫn do Bộ Công an cấp tuy nhiên nguồn kinh phí
này chủ yếu chi trả lương và chi phí sản xuất, nguồn tài chính dành cho đầu tư hiện
đại hóa công nghệ, phát triển truyền hình trên nền tảng số rất hạn hẹp.
134
Tiểu kết
Từ kết quả đánh giá thực trạng cung cấp TTTP trong giai đoạn 2016 - 2017,
tác giả tiến hành khảo sát sự tiếp cận của công chúng và ảnh hưởng của TTTP trên
VTV1 và ANTV đến họ. Với những tiêu chí đánh giá và thang đo tác giả đưa ra kết
hợp với những dữ liệu khách quan, nghiên cứu sinh thu được một số điểm quan
trọng sau đây về thực trạng ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng:
Một là, truyền hình được công chúng đánh giá là kênh phản ánh TTTP được
nhiều người biết đến nhất. Trong đó hai kênh được tiến hành khảo sát là VTV1 và
ANTV được công chúng tiếp cận thường xuyên. TTTP là một trong những thông
tin được công chúng ưu tiên hàng đầu khi xem VTV1 và ANTV.
Hai là, VTV1 và ANTV được công chúng coi là nguồn thông tin ưu tiên
hàng đầu, kênh chính thống để tìm hiểu và kiểm chứng lại các nguồn TTTP khác
(mạng xã hội, báo mạng, truyền miệng…).
Ba là, quá trình khảo sát cũng chỉ ra phần lớn công chúng đã nắm được thông
tin về các loại tội phạm, họ dễ dàng nhận biết và sắp xếp các hành vi phạm tội vào
các loại hình tội phạm phù hợp. Công chúng cũng quan tâm nhiều hơn đến những
vụ án có mức độ từ nghiêm trọng trở lên và liên quan đến người có chức vụ cao.
Bốn là, để đánh giá cụ thể thay đổi của công chúng sau khi cập nhật thông
tin trên truyền hình tác giả đã tiến hành thực nghiệm với một số nhóm công chúng
và kết quả thu về cho thấy mức độ ảnh hưởng của TTTP đến công chúng đang ở
mức độ 3 trong 5 nấc thang đánh giá được sử dụng. Đó là công chúng đã thấy lợi
ích khi tìm hiểu thông tin về tội phạm, sự cần thiết phải hiểu biết về tội phạm, các
loại hình tội phạm và sẵn sàng tiếp nhận các thông tin về tội phạm trên truyền hình.
Năm là, TTTP được phát sóng đã tạo được ảnh hưởng tích cực đến nhận
thức, niềm tin và hành động của công chúng. Ảnh hưởng lớn nhất với công chúng
là TTTP đã giúp họ nhận thức đầy đủ hơn về các loại tội phạm, quan tâm hơn đến
việc phòng, chống tội phạm, có kỹ năng ngăn ngừa, phòng chống tội phạm.
135
Sáu là, TTTP trên VTV1 và ANTV giúp công chúng gia tăng niềm tin vào
bộ máy công quyền, tham gia tích cực hơn trong việc tuyên truyền, phòng chống
tội phạm. Có thể nói, các ảnh hưởng trên là một trong những thành tựu quan trọng
của TTTP trên VTV1 và ANTV trong việc thúc đẩy thay đổi niềm tin và hành động
của công chúng. Kết quả khảo sát công chúng cũng cho thấy, ngay sau khi tiếp cận
TTTP, công chúng thường có xu hướng chia sẻ, trao đổi lại các thông tin nhận được
và đối tượng mà họ hướng đến thường là gia đình và bạn bè.
Bảy là, mặc dù những ảnh hưởng tích cực là rất lớn nhưng vẫn tồn tại các
ảnh hưởng tiêu cực khi công chúng tiếp cận TTTP trên VTV1 và ANTV. Đạo đức
xuống cấp và cảm giác hoang mang, lo lắng, cảm thấy không an toàn là những cảm
xúc tiêu cực phổ biến của không ít người dân sau khi tiếp cận một số TTTP. Tuy
nhiên, những ảnh hưởng tiêu cực đem lại chủ yếu là cảm xúc nhất thời; vì thế, dù
tiếp cận nhiều TTTP nhưng ảnh hưởng đến hành động và niềm tin của công chúng
cũng không nhiều.
Tám là, kết quả khảo sát cho thấy, các yếu tố tác động đến ảnh hưởng của
TTTP trên TH tới người dân là: nội dung thông tin, tần suất tiếp cận, địa bàn sinh
sống, độ tuổi và trình độ học vấn. Sự khác biệt trong mức độ ảnh hưởng của các
yếu tố trên chủ yếu xảy ra ở các tác động tích cực từ TTTP trong giai đoạn 2016-
2017. Cụ thể, những người có học vấn cao hơn khi tiếp cận thông tin sẽ có những
thay đổi lớn hơn so với các nhóm còn lại. Người dân khu vực nông thôn sẽ có những
hành động cụ thể hơn người dân ở đô thị. Đặc biệt những người cao tuổi sẽ có những
thay đổi trong hành động và tư tưởng cao hơn so với nhóm khác.
Các kết quả khảo sát trên là mới cho đến thời điểm hiện tại. Kết quả và những
phân tích trên sẽ được tổng kết và rút ra những vấn đề đặt ra và giải pháp quan trọng
tại chương 3 của luận án.
136
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC
CỦA THÔNG TIN TỘI PHẠM TRÊN TRUYỀN HÌNH
3.1. Một số vấn đề đặt ra hiện nay đối với sự ảnh hưởng của thông tin
tội phạm trên truyền hình
Báo chí hiện nay đang vận động cùng với quá trình chuyển đổi số. Sự ra đời
của các công nghệ mới cùng các nền tảng MXH đã chi phối và làm thay đổi căn
bản cách thức sản xuất và tiếp cận nội dung của cơ quan báo chí. Xã hội thông tin
đang ngày càng “phẳng hóa”. Nếu như trước kia thông tin đến với công chúng chỉ
từ nguồn là các CQBC chính thống thì hiện nay người dân có thể tiếp nhận thông
tin từ vô số nguồn khác nhau. Điều này khiến tầm ảnh hưởng của thông tin từ các
CQBC tới người dân có thể bị suy giảm. Theo đó, sự ảnh hưởng của truyền hình
nói chung, sự ảnh hưởng của TTTP trên TH nói riêng đối với công chúng hiện nay
đang đối mặt nhiều thách thức với hàng loạt các yếu tố tác động, ảnh hưởng.
3.1.1. Tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật vẫn diễn biến phức tạp
Chỉ tính riêng phạm pháp hình sự, từ năm 2016 đến năm 2019, mỗi năm toàn
quốc xảy ra hàng chục nghìn vụ việc. Đáng lưu ý, tội phạm giết người tiếp tục có
xu hướng gia tăng, nhất là giết người thân; với tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu
quả nghiêm trọng hơn. Tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm
liên quan đến hoạt động “tín dụng đen” tiếp tục được kiềm chế và kiểm soát; tuy
nhiên, tại một số địa phương có thời điểm còn có dấu hiệu buông lỏng; công tác chỉ
đạo, đấu tranh triệt phá chưa quyết liệt dẫn đến một số băng nhóm hoạt động trong
một thời gian dài nhưng chưa được phát hiện, triệt phá.
Bên cạnh đó, nguy cơ xuất hiện tội phạm kinh tế, tham nhũng có tổ chức,
xuyên quốc gia, một số hành vi phạm tội kinh tế, tham nhũng được thực hiện
bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Tội phạm buôn lậu, gian lận thương mại, sản
xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm diễn ra phức tạp. Đáng chú ý, cuộc cách
mạng 4.0 tác động mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội,
137
đặt ra cho Việt Nam những vấn đề phức tạp về trật tự an toàn xã hội, trong đó
có vấn đề ninh mạng, an ninh thông tin, các loại tội phạm sử dụng công nghệ
cao, tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ, đặc biệt là khi các loại tội phạm này
hoạt động có tổ chức, xuyên quốc gia.
Báo chí có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong tuyên truyền công tác phòng
ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ.
Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực rất rộng thêm vào đó tình hình tội phạm diễn biến
phức tạp, phương thức, thủ đoạn phạm tội liên tục thay đổi, các cơ quan báo chí,
người làm báo sẽ gặp không ít khó khăn khi phản ánh TTTP. Từ tình hình trên, đặt
ra yêu cấp cấp thiết đối với các cơ quan báo chí nói chung, truyền hình nói riêng
phải phản ánh kịp thời TTTP trên các lĩnh vực, trên cơ sở đó nâng cao những ảnh
hưởng tích cực, mở rộng nhận thức, ý thức cảnh giác, tích cực phòng ngừa, đấu
tranh với các loại tội phạm cũng như ý thức tuân thủ pháp luật của công chúng.
3.1.2. Biểu hiện thương mại hóa
Trong bối cảnh kinh tế báo chí còn nhiều khó khăn, không ít cơ quan báo chí
chạy theo xu hướng thương mại hóa báo chí dẫn đến bỏ qua hoặc coi nhẹ nguyên
tắc tính nhân văn, tính định hướng, giáo dục của báo chí. Nhiều cơ quan báo chí
chạy theo các tin, bài mang tính giật gân, câu khách, đưa nội dung các tin, bài về đề
tài “cướp - giết - hiếp” với liều lượng đậm đặc, thái quá; chú trọng đến việc miêu
tả và đưa nhiều hình ảnh rùng rợn, ly kỳ, khêu gợi, dung tục... Xu hướng thương
mại hóa báo chí đã tạo ra một môi trường cạnh tranh không lành mạnh. Chính vì
vậy, nhiều TTTP không mang tính định hướng, mô tả, phản ánh chi tiết về hành vi
phạm tội, tội ác vẫn còn diễn ra.
3.1.3. Tốc độ đưa tin thua kém MXH
Trên “mặt phẳng” thông tin, mỗi người dân đều có thể được coi là một “nhà
báo công dân”. Các trang MXH hiện nay phần lớn cho phép người dùng chia sẻ
câu chuyện, bài viết, ý tưởng cá nhân, đăng ảnh, video, đồng thời thông báo về hoạt
động, sự kiện trên mạng hoặc trong thế giới thực.
138
Người dân lúc này không chỉ là đối tượng tiếp nhận TTTP mà còn là nguồn
phát hiện vấn đề và sáng tạo nội dung. Họ có thể ngay lập tức phát hiện, đăng tải
TTTP đang diễn ra xung quanh họ trong khi đó CQBC với nguồn nhân lực hạn chế
khó có thể phát hiện ra. Vì vậy, các CQBC cũng đang dần mất đi vai trò tiên phong
trong việc phản ánh TTTP.
Một trong những điểm nổi bật của MXH là tính kết nối và chia sẻ rất mạnh
mẽ, dẫn tới khả năng lan truyền thông tin nhanh chóng và khó kiểm soát. Số lượng
người dùng lớn, thông tin đa dạng đã đang dần thu hút công chúng tìm đến MXH
hơn là xem truyền hình hay truy cập vào các trang báo mạng điện tử chính thống.
Điều này có thể khiến truyền hình mất dần khán giả của mình, đặc biệt là khán giả
trẻ tuổi - những người quan tâm và có cơ hội tiếp xúc với các công nghệ hiện đại.
3.1.4. Vấn nạn tin giả
Do có quá nhiều nguồn tin khác nhau nên thông tin trên mạng thường đan
xen tin giả, tin thật. Vì phải chạy đua theo thời gian để cập nhật nhanh chóng thông
tin, không ít PV, BTV, CTV khai thác nguồn tin trên MXH mà không kiểm chứng,
góp phần tán phát tin giả, làm giảm uy tín của báo chí chính thống và làm sụt giảm
niềm tin của công chúng.
Bản thân tin tức giả thường là những câu chuyện gây sốc, hấp dẫn đánh mạnh
vào trí tưởng tượng, tò mò của công chúng. Trong khi tỷ lệ công chúng “thông hiểu
truyền thông” chưa cao, hiếu kỳ, cả tin nên có thể tin vào những tin tức mà họ tiếp
nhận được. Vì vậy, tin tức giả dễ lan truyền và được một bộ phận đông đảo công
chúng đón nhận và tiếp tục tán phát.
Thực tế những tin giả kiểu xuyên tạc có ở tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh... được thể hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau như văn bản, hình ảnh, video, clip nhưng được chỉnh sửa hoặc cắt ghép không
đúng sự thật và thường được phát sóng trên các trang thông tin không chính thống,
qua các nền tảng mạng xã hội và các ứng dụng tin nhắn hay các công cụ tìm kiếm
trên Internet.
139
Lượng tin giả đang có xu hướng ngày càng gia tăng, tác động lớn đến tâm lý
chung của công chúng, khiến các cơ quan chức năng, nhất là cơ quan báo chí lúng
túng trong xử lý thông tin. Do vậy, rất cần những luồng thông tin chính xác, đặc
biệt là sự vào cuộc kịp thời của các cơ quan báo chí, định hướng dư luận xã hội,
"nắn dòng" thông tin sai lệch từ đó có thể chiếm lĩnh được “không gian ảo” trên
môi trường truyền thông đa dạng và phức tạp hiện nay.
3.1.5. Thách thức từ thói quen tiếp nhận thông tin và tương tác của
công chúng
Sự phát triển của xã hội thông tin cũng như các công cụ công nghệ mới đã
làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin của công chúng. Rất nhiều công chúng
hiện nay theo dõi thông tin qua các thiết bị di động và thường thích các tin ngắn cô
đọng, súc tích, nhiều hình ảnh, video sinh động. Họ không có nhiều thời gian để
xem các thông tin dài trừ khi đó thực sự là một vấn đề đáng quan tâm. Trong khi
đó, không ít thông tin trên báo chí khô khan, nghèo nàn về hình thức, kém hấp dẫn
với người đọc. Vì vậy mà công chúng đang dần bị hút về phía các kênh MXH với
nội dung gần gũi, phong phú và đặc sắc hơn.
Công chúng hiện nay thường xuyên có thói quen tương tác và tiếp nhận thông
tin mới trên các kênh MXH, thông qua các chức năng đăng bài, bình luận, nhắn tin,
chia sẻ... Qua những thuật toán thông minh, trí tuệ nhân tạo (AI), MXH sẽ biết được
khách hàng của mình cần gì, thích gì để đưa ra những khuyến nghị phù hợp.
Ngược lại, báo chí chính thống chưa thực sự tiếp cận tốt với độc giả của
mình. So với báo in, phát thanh và truyền hình, thì báo mạng điện tử là loại hình
báo chí có điều kiện tương tác cao nhất với độc giả nhờ hoạt động trên môi trường
mạng. Tuy nhiên, các cơ chế tương tác trên báo mạng điện tử đến nay vẫn còn hạn
chế. Bản thân các cơ quan báo chí cũng đang phải tận dụng chính ưu thế của MXH
như lập các Fanpage, kênh Zalo để chuyển tải nội dung thông tin bài viết và tiếp
nhận thông tin phản hồi của độc giả trên môi trường đó. Nhưng báo chí vẫn đang
thua kém MXH về khả năng “hiểu” công chúng của mình vì chưa ứng dụng các
công nghệ thông minh như MXH.
140
Bên cạnh đó, nhiều tác phẩm báo chí chưa thực sự truyền tải được nội dung
và tác động sâu sắc đến công chúng do năng lực tiếp nhận thông tin của người dân
có sự khác nhau giữa các vùng miền, địa phương, chưa kể trình độ văn hóa, tri thức
của mỗi người cũng khác nhau. Điều này có thể làm giảm ảnh hưởng tích cực của
báo chí chính thống.
3.1.6. Các công nghệ mới được ứng dụng trong báo chí
Nghiên cứu hoạt động và định hướng của các CQBC trong và ngoài
nước cho thấy các CQBC đều đang hướng tới ứng dụng các công nghệ mới để nâng
cao hiệu quả hoạt động báo chí. Một số CQBC trên thế giới đã sử dụng công nghệ
trí tuệ nhân tạo (AI) để theo dõi sự kiện, trích xuất thông tin và xác định xu hướng.
Cụ thể, các thuật toán học máy (ML) có thể hỗ trợ các nhà báo trong việc sàng lọc,
khám phá nội dung từ các nguồn thông tin khác nhau; công cụ xử lý ngôn ngữ tự
nhiên (NLP) giúp phân tích thái độ, cảm xúc của người dùng, các công nghệ nhận
dạng hình ảnh giúp phân tích giới tính, tuổi, trạng thái của nhân vật... Nhằm tăng
tính hấp dẫn của tin bài, một số CQBC trên thế giới đã ứng dụng các công nghệ
thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR). Các công nghệ này, với khả năng mô
phỏng thông tin thông qua không gian 3 chiều, giúp thông tin sinh động, dễ hiểu
hơn và tăng cường trải nghiệm cho công chúng [1].
TTTP trên TH là một dạng thông tin chuyên biệt rất cần ứng dụng công nghệ
trong việc xác định xu hướng, nhu cầu công chúng; mô tả phương thức, thủ đoạn,
hành vi phạm tội nhằm hạn chế những hình ảnh vi phạm quyền con người hay
những hình ảnh phản cảm. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc ứng dụng công nghệ AI,
VR, AR ở các CQBC mới chỉ có một vài thử nghiệm mang tính thăm dò do một số
rào cản về kinh phí, nhân lực và kỹ thuật.
3.2. Giải pháp nâng cao ảnh hưởng tích cực của thông tin tội phạm
Thời gian qua, hoạt động báo chí có sự lộn xộn, một số thông tin báo chí
thiếu sự định hướng, thiếu kỷ cương và nghiêm trọng nhất là có biểu hiện vụ lợi khi
làm nghề, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Đặc biệt, những sai
141
phạm diễn ra nhiều nhất trên báo điện tử gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường thông tin, niềm tin của công chúng.
Trước tình trạng trên, Chính phủ đã có quy hoạch phát triển và quản lý báo
chí toàn quốc đến năm 2025, trong đó chú trọng phát triển một số cơ quan báo chí
trọng điểm, xác định phát triển báo chí đi đôi với quản lý tốt, theo hướng cách mạng,
chuyên nghiệp, hiện đại, chất lượng, hiệu quả đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân
dân, tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đoàn
kết tập hợp quần chúng, tạo đồng thuận trong xã hội, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực,
định hướng tư tưởng và thẩm mỹ, góp phần nâng cao dân trí, phát triển văn hóa và
con người Việt Nam.
Trên cơ sở thực hiện tốt những quy định của pháp luật, bám sát tôn chỉ, mục
đích, phản ánh thông tin nhất là TTTP đúng định hướng, nâng cao hiệu quả, sự ảnh
hưởng tích cực lan toả sâu rộng đến công chúng, với vai trò là 02 trong 07 kênh
truyền hình thiết yếu quốc gia, VTV1 và ANTV cần thực hiện tốt những nhóm giải
pháp sau:
3.2.1. Các giải pháp chung
3.2.1.1. Chủ động trong việc lập kế hoạch và tổ chức sản xuất chương trình
Thực tiễn khảo sát thực trạng ảnh hưởng của TTTP trên VTV1, ANTV đối
với công chúng, một số TTTP trong các chương trình trong diện khảo sát chưa đi
sâu vào mục đích tuyên truyền, định hướng chính trị, đề cao giá trị nhân văn, mà
chỉ chú ý những thông tin ban đầu của vụ việc. Chính vì vậy, VTV1, ANTV cần
lắng nghe những ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để tìm ra những vấn đề, đề tài
mới và khai thác ở nhiều khía cạnh, cung cấp thông tin một cách kịp thời tới khán
giả để nâng cao sự ảnh hưởng tích cực. Để làm được những điều đó việc lập kế
hoạch và tổ chức sản xuất là yếu tố quan trọng hàng đầu nhằm bảo đảm chất lượng
và ảnh hưởng tích cực của TTTP trong các chương trình thời sự.
Ngoài ra để nâng cao chất lượng, ảnh hưởng tích cực của TTTP cần tăng
cường tính kế hoạch dài hạn trong tổ chức sản xuất những dạng phóng sự chuyên
sâu hoặc phóng sự làm theo vệt, đòi hỏi các phòng nội dung và bản thân các phóng
142
viên phải có kế hoạch sớm và chi tiết (kế hoạch quý, tháng, kế hoạch 2 tuần, thay
vì chỉ có kế hoạch theo từng tuần hoặc kế hoạch theo từng ngày như hiện nay).
Công tác lập kế hoạch và tổ chức sản xuất là yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo
đảm chất lượng các chương trình thời sự, chất lượng TTTP. Công tác lập kế hoạch
và tổ chức sản xuất phải bảo đảm được tính hệ thống cho các chương trình thời sự,
chú ý công tác tuyên truyền “diện và điểm” tức là chiều rộng và chiều sâu. Bên
cạnh đó cũng rất cần có sự cân đối các vùng miền để tránh tình trạng phản ánh cục
bộ, thiếu bao quát thực trạng xã hội.
Một số TTTP nhạy cảm hoặc gây tranh cãi, để bảo đảm tính đúng đắn trong
cách thông tin, phân tích, kênh VTV1, ANTV cần có bộ phận tư vấn về pháp luật.
Như vậy vừa có thể nâng cao được tính chính xác của thông tin và trách nhiệm
chung của Ban cố vấn vừa giúp đội ngũ phóng viên nâng cao được kiến thức và
năng lực chính trị cũng như khả năng phân tích pháp luật của mình trong quá trình
tác nghiệp. Nếu VTV1, ANTV làm tốt điều này chắc chắn TTTP cũng như tổng thể
các chương trình thời sự sẽ hay và hấp dẫn hơn rất nhiều với sự chủ động khai thác
của biên tập viên, phóng viên.
Trên thực tiễn, việc hình thành các nhóm phóng viên chuyên sâu đã phát huy
hiệu quả. Thời gian gần đây những phóng sự mang tính phát hiện, tính dự báo, thể
hiện được quan điểm của kênh đã xuất hiện thường xuyên hơn trước và nhiều phóng
sự đã có tác động tích cực tới đời sống xã hội. VTV, ANTV cần tiếp tục đẩy mạnh
cách làm này theo hướng đầu tư tuyên truyền thành vệt và có chiều sâu về những
vấn đề được công chúng quan tâm, những vấn đề cần có sự định hướng dư luận.
3.2.1.2. Nâng cao chất lượng, trình độ nguồn nhân lực sản xuất chương trình
Để nâng cao chất lượng, ảnh hưởng tích cực của TTTP thì mỗi cán bộ quản
lý, BTV, PV, CTV phải trau dồi phẩm chất và bản lĩnh chính trị, kiến thức pháp luật
và nghiệp vụ để đảm bảo chất lượng thông tin theo hướng trung thực, khách quan
và đúng định hướng.
Yếu tố thành công trong mọi hoạt động là nguồn nhân lực; vì vậy, muốn
TTTP có chất lượng, tạo được ảnh hưởng tích cực đến công chúng, yếu tố đầu tiên
143
cần quan tâm đó là con người. Con người ở đây chính là đội ngũ PV, BTV, CTV
trực tiếp tham gia vào quá trình tác nghiệp và sáng tạo ra sản phẩm truyền hình nói
chung và TTTP trong các bản tin thời sự nói riêng. Bản chất chính trị vững vàng là
một yêu cầu không thể thiếu được đối với người làm báo hiện nay. Đây là cơ sở cần
thiết nhất của người làm báo để có thể thực hiện tốt các nguyên tắc khác của báo
chí cách mạng trong đó có tính khách quan, chân thực và tính nhân văn của TTTP.
Cần phải tạo điều kiện cho các nhà báo, PV, BTV, CTV giàu kinh nghiệm, có năng
lực chuyên môn tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng xử lý tốt những tình
huống thông tin và biết dự liệu những vấn đề có cơ hội tác nghiệp để thể hiện vai
trò của mình và đồng thời khuyến khích họ truyền đạt, hướng dẫn lại những thế hệ
kế cận trong quá trình tác nghiệp.
Để nâng cao chất lượng và ảnh hưởng của thông tin nói chung, TTTP nói
riêng, Trung tâm Tin tức VTV24, VTV1, ANTV cần thường xuyên tổ chức các
buổi giao lưu, các chương trình tập huấn, đào tạo kỹ năng nghiệp vụ trong nội bộ
cơ quan đồng thời tạo điều kiện để đội ngũ PV, BTV và đặc biệt là đội ngũ CTV
được tiếp xúc, giao lưu, học hỏi kinh nghiệm với các đơn vị báo đài khác. Khuyến
khích các cá nhân tự học tập và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như
trình độ chính trị và tư cách đạo đức của mình. Mỗi PV, BTV, CTV phải tự trang
bị cho mình những kiến thức cơ bản về mọi lĩnh vực nhất là nghiệp vụ công an và
hiểu biết về kiến thức pháp luật, trình độ tin học, ngoại ngữ cho đến việc sử dụng
thành thạo những phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm áp dụng vào quá
trình tác nghiệp một cách chuyên nghiệp…
3.2.1.3. Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
Kỹ năng báo chí, trình độ nghiệp vụ còn hạn chế, nhận thức chưa toàn diện,
đầy đủ về nguyên tắc khách quan, chân thật, tính nhân văn trong thông tin báo chí
trong đó có thông tin tội phạm của một bộ phận PV, BTV, CTV cũng là một yếu tố
dẫn đến chất lượng và ảnh hưởng của TTTP. Thông tin tội phạm đòi hỏi sự nhanh
nhạy nhưng vẫn phải đảm bảo tính chính xác, tính khoa học, tính nhân văn, có trách
nhiệm cao với xã hội, thể hiện được bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn và đạo
144
đức nghề nghiệp vẫn là yêu cầu cốt lõi đối với phóng viên, nhà báo trong bất kỳ
thời đại nào.
Trách nhiệm xã hội của người làm báo là một nguyên tắc được rất nhiều
bản quy tắc đạo đức nhà báo trên thế giới đề cập. Không thể có được sự chân
thật, khách quan nếu nhà báo không có trách nhiệm xã hội. Trách nhiệm xã hội
của nhà báo là khi thực hiện một tác phẩm báo chí, họ phải nghĩ đến công
chúng, nghĩ đến lợi ích chung của cả cộng đồng xã hội chứ không phải lợi ích
riêng của một nhóm nào đấy. Không giống như một số nghề nghiệp khác, trong
nghề báo, nhà báo phải chịu trách nhiệm đến cùng đối với sản phẩm do mình
sáng tạo ra, bắt đầu từ khâu đầu tiên đến khâu kết thúc của quá trình sáng tạo
tác phẩm. Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà báo cũng chính là nâng cao
trình độ tư duy, phẩm chất chính trị và nghiệp vụ của người làm báo.
3.2.1.4. Đầu tư, phát triển truyền hình trên nền tảng số, kênh thông tin phụ
trợ MXH nhằm thích ứng với nhu cầu công chúng
Quá trình khảo sát cho thấy, nhiều khán giả theo dõi TTTP trên báo mạng
điện tử và mạng xã hội. Chính vì vậy Trung tâm Tin tức 24h, VTV1, ANTV cần
tập trung phát triển theo hướng hội tụ truyền thông, tích hợp truyền hình trên
internet, ứng dụng số, mạng xã hội. Đáng chú ý, việc sử dụng MXH có thể giúp gia
tăng sự theo dõi của khán giả đối với kênh truyền hình. Đồng thời, MXH là công
cụ hỗ trợ và thúc đẩy khán giả xem truyền hình nhiều hơn. Khi khán giả thích các
chương trình, nội dung của một kênh truyền hình trên MXH, thì sự ghi nhớ của
khán giả về kênh truyền hình đó sẽ tăng lên thông qua việc họ muốn chia sẻ những
gì họ xem được với bạn bè và người thân của mình.
Hiện VTV đang tập trung khai thác ứng dụng số, mạng xã hội Youtube,
Facebook. Tuy nhiên với mạng xã hội Instagram, Tik Tok và đặc biệt các mạng
xã hội nội địa Việt Nam có số lượng người dùng lớn như: Zalo (khoảng 60 triệu
người dùng), Mocha (12 triệu thành viên) và các diễn đàn mạng như Tinhte (16
triệu lượt truy cập/tháng), Voz (11 triệu lượt truy cập/tháng), Webtretho (7 triệu
lượt truy cập/tháng) hay Otofun (2 triệu lượt truy cập/tháng) [22]… VTV chưa
145
thực sự chú trọng. Việc đầu tư, khai thác nền tảng MXH nội địa Việt Nam là việc
làm cần thiết đối với VTV hiện nay vì các MXH nội địa kiểm soát được cơ sở dữ
liệu và hoàn toàn không bị phụ thuộc vào các nền tảng của nhà cung cấp nước
ngoài, không phải mua dữ liệu của các doanh nghiệp nước ngoài. Sự phát triển
của các MXH trong nước sẽ giải được bài toán về sự phụ thuộc của VTV đối với
các nền tảng của nhà cung cấp nước ngoài.
Trong khi VTV nỗ lực phát triển và đã bước đầu khai thác hiệu quả thông tin
trên nền tảng số thì ANTV vẫn đang loay hoay với bài toán đổi mới, nâng cao chất
lượng, ảnh hưởng của truyền hình truyền thống đối với công chúng. Để nâng cao
sự ảnh hưởng của kênh nói chung, TTTP nói riêng, hiện ANTV đang có dự án đầu
tư xây dựng ứng dụng số ANTVGo và nghiên cứu thành lập bộ phận chuyên trách
nội dung số. Tuy nhiên, những dự án đầu tư này hiện đang khó khăn về tài chính,
nhân lực nên trước mắt việc khai thác nội dung số vẫn chỉ hoạt động cầm chừng,
chưa thực sự hiệu quả.
Việc đầu tư thông tin trên nền tảng số giữa kênh VTV1 và ANTV đang có
sự chênh lệch rất lớn, tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, việc đưa TTTP lên nền
tảng này vẫn là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Để sử dụng công cụ ứng dụng số,
mạng xã hội một cách hiệu quả, VTV1, ANTV không nên chỉ dựa vào việc tăng số
lượng khán giả kết nối với ứng dụng số, MXH, mà phải có chiến lược xây dựng
phát triển nội dung tốt. Nếu công chúng không thích xem tin tức hay các chương
trình thời sự trên kênh ANTV, VTV1, công chúng chắc chắn sẽ không bao giờ vào
ứng dụng số, trang MXH của kênh truyền hình đó để theo dõi thông tin.
3.2.2. Một số giải pháp cụ thể
3.2.2.1. Ổn định khung giờ, tăng cường số lượng, tần suất thông tin tội phạm
trên truyền hình
Qua đánh giá chung về nội dung TTTP trên TH, VTV1 và ANTV đã thiết
lập một khung giờ tương đối ổn định theo từng múi giờ trong ngày đối với các
chương trình, bản tin thời sự. Cụ thể: Đối với kênh ANTV là một kênh truyền hình
chuyên biệt về ANTT nên khung giờ tương đối ổn định với 07 chương trình thời sự
146
tổng hợp, chuyên biệt về ANTT. Đối với kênh VTV1 là kênh thời sự tổng hợp nên
các chương trình, bản tin thời sự được bố trí gần như theo từng múi giờ trong ngày.
Theo thống kê, một ngày VTV1 có 17 chương trình, bản tin phản ánh thông tin thời
sự. Khác với ANTV, các chương trình, bản tin thời sự VTV luôn là thông tin tổng
hợp, TTTP chiếm thời lượng rất nhỏ. Từ năm 2017, VTV đã hợp tác với ANTV
xây dựng bản tin “Thông tin An ninh an toàn” với thời lượng 5 phút phát sóng lúc
12h25 mỗi ngày nội dung đề cập phần lớn là thông tin ANTT, tội phạm. Tuy nhiên
khung giờ phát sóng theo đánh giá hiện nay là chưa phù hợp. Thời lượng phát sóng
còn ít chưa tạo được hiệu quả cung cấp thông tin như mong muốn. Chính vì vậy,
các chương trình thời sự: “Chuyển động 24h”, “Thời sự 19h” cần thiết phải gia tăng
thời lượng TTTP trong từng chương trình có như vậy TTTP mới có thể lan tỏa, ảnh
hưởng tích cực tới đông đảo công chúng.
Phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm là nhiệm vụ hết sức quan trọng mà các
cơ quan báo chí nói chung, VTV1, ANTV nói riêng cần truyền thông rộng rãi đến
công chúng thông qua các chương trình của mình. Để nâng cao ảnh hưởng tích cực
của thông tin tội phạm, VTV1, ANTV cần chú trọng gia tăng tần suất, số lượng các
tin bài TTTP xuất hiện nhiều và phủ sóng rộng rãi đến đông đảo công chúng. Ngoài
ra, TTTP phải đa dạng trong thể loại và cách thể hiện để tránh sự nhàm chán.
3.2.2.2. Thường xuyên đổi mới nội dung thông tin tội phạm, xây dựng các
chương trình thời sự tổng hợp, tóm tắt theo khung giờ phù hợp với các nhóm đối
tượng từ đó nâng cao số người tiếp cận
Nội dung TTTP là yếu tố quan tâm hàng đầu của công chúng, đặc biệt với
công chúng có trình độ ngày càng cao như hiện nay. Chất lượng TTTP không chỉ
phụ thuộc vào nội dung mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: tin tức phải
mang tính thời sự, nóng hổi, vấn đề phản ánh phải mới mà nhiều người chưa biết;
vấn đề sự kiện phải gần gũi với công chúng, thiết thực với đời sống xã hội; những
vấn đề sự kiện bất thường, thông tin về những sự kiện, vụ việc chưa kết thúc còn
tiếp tục tiếp diễn được nhiều người quan tâm... Chính vì vậy, TTTP trong các
chương trình thời sự cần có cách trình bày hấp dẫn, sinh động bởi khán giả không
147
chỉ dừng lại ở tiếp nhận thông tin một cách đơn thuần mà còn có nhu cầu tiếp nhận
thông tin sinh động, hấp dẫn, thỏa mãn nhu cầu thưởng thức của công chúng.
Về góc độ hình thức của chương trình, bản tin có một số tiêu chí để đánh
giá về chất lượng bao gồm: cách kết cấu, cách lựa chọn và sử dụng hình ảnh, âm
thanh... để chuyển tải nội dung. Việc kết cấu một chương trình, bản tin thời sự
phải rõ ràng, liền mạch, khoa học, dễ hiểu và có sức ảnh hưởng, hiệu quả đối với
người tiếp nhận thông tin. Để xây dựng các chương trình phù hợp thị hiếu, lãnh
đạo Trung tâm tin tức VTV24, Ban Thời sự VTV1, ANTV đã không ngừng đổi
mới. Cứ sau một thời gian theo dõi và đánh giá các chương trình từ cả hai phía
chuyên môn và khán giả qua hệ thống đo rating thì VTV1, ANTV lại tiến hành
sàng lọc và đổi mới các fomat chương trình thời sự cũng như cách thể hiện sao
cho phù hợp và hấp dẫn với công chúng.
Nội dung TTTP khi đưa lên ứng dụng số và MXH cần chú trọng thông tin
phải mới, gắn với thực tiễn đời sống xã hội, được nhiều người quan tâm thì mới có
giá trị và lôi cuốn đông đảo người truy cập, tương tác và chia sẻ. Thông tin mới
nhưng phải được diễn đạt một cách khoa học, độc đáo, hấp dẫn, tác động trực tiếp
tới cộng đồng xã hội; thông điệp truyền thông ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ thể hiện
và dễ lan tỏa bằng truyền thông đa phương tiện trên nền tảng của văn bản, hình ảnh,
video, âm nhạc, đồ họa... Đặc biệt, cần kết hợp tương tác để tạo nên tác phẩm đa
phương tiện (multimedia newspackage) hấp dẫn, mới mẻ về hình thức lẫn nội dung
như video, bài hát, thông tin đồ họa (infographic), tin theo dòng sự kiện (timeline),
kể chuyện (megastory), câu hỏi trắc nghiệm cung cấp thông tin...
3.2.2.3. Bổ sung thêm các hình thức minh họa thông tin tội phạm bằng hình
ảnh đồ họa nhằm tăng hiệu quả truyền tải
Thực tế cho thấy sử dụng thông tin đồ họa đạt hiệu quả cao trong việc truyền
tải thông tin, cách diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu dễ nhớ. Đối với các thông tin có liên
quan đến số liệu, so sánh, các chỉ số, trình tự vụ việc... thông tin đồ họa thể hiện rõ
tính năng của mình.
148
Hiện nay, nhiều TTTP trên kênh truyền hình nổi tiếng thế giới như NHK
(Nhật Bản), CNN (Mỹ), KBS, Arirang (Hàn Quốc)... thường xuyên sử dụng thông
tin đồ họa để biểu đạt thông tin. Cụ thể là: sử dụng hình ảnh 2D, 3D để mô tả địa
điểm, hiện trường xảy ra vụ án, hành vi, thủ đoạn gây án… Việc sử dụng thông tin
đồ họa sẽ tránh được sự mô tả chi tiết cảnh bắn giết, mô tả hành vi gây án một cách
tương đối chính xác… Tuy nhiên, đối với truyền hình trong nước, mà cụ thể là
TTTP trong các chương trình thời sự của VTV1, ANTV việc sử dụng thông tin đồ
họa lại vô cùng hạn chế và ít ỏi, đồng thời chất lượng của các thông tin đồ họa cũng
chưa được cao, hình ảnh còn nghèo nàn, đơn giản. TTTP phần lớn vẫn là những
hình ảnh nghi can, hiện trường vụ án, cảnh xét hỏi, nạn nhân… gây ra sự nhàm chán
đối với công chúng. Chính vì vậy, việc sử dụng thông tin đồ họa cho TTTP là rất
cần thiết đối với VTV1, ANTV trong giai đoạn hiện nay và sau này. Giải pháp này
cũng góp phần làm cho TTTP hướng tới giá trị nhân văn, đề cao những giá trị tốt
đẹp của con người, hạn chế những hình ảnh phản cảm của nghi can, của nạn nhân
và thậm chí cả những người liên đới với nạn nhân.
Ngoài ra, việc tích hợp ứng dụng của các công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), công
nghệ thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR) trong sản xuất các tác phẩm truyền
hình là cần thiết. Hiện nay, việc ứng dụng các công nghệ mới trong các CQBC ở
nước ta còn khá khiêm tốn và chưa mang tính hệ thống. Sự hạn chế này là do khó
khăn về nguồn nhân lực và tài chính của các CQBC. Chính vì vậy cần xây dựng một
nền tảng công nghệ dùng chung cho các CQBC. Việc trang bị một nền tảng chung
tích hợp các công nghệ có thể giúp giải quyết khó khăn về nguồn lực cho các CQBC.
Nền tảng công nghệ này, với sự đầu tư và giám sát của cơ quan quản lý báo chí, sẽ
giúp kết nối giữa các cơ quan báo chí và các công ty công nghệ, đồng thời cũng là
nền tảng chung cho các CQBC có thể hợp tác, chia sẻ nội dung với nhau.
3.2.2.4. Xây dựng hệ thống/phần mềm quản lý thông tin phát sóng theo
từng vụ việc để đảm bảo thông tin các vụ việc được phát sóng đầy đủ, người
dân dễ dàng theo dõi
149
Quá trình khảo sát, thảo luận nhóm, công chúng được hỏi cho biết nhiều vụ
việc chỉ thấy phát sóng thông tin lúc xảy ra nhưng không phát sóng kết quả điều tra,
xử lý, xét xử. Điều này gây cản trở đến quá trình theo dõi thông tin của công chúng
và dễ gây tâm lý hoang mang, ảnh hưởng không tốt đến tư tưởng của họ. Nguyên
do, báo chí chạy theo vụ việc thời sự, chỉ có những vụ việc, TTTP đặc biệt nghiêm
trọng, ảnh hưởng lớn đến dư luận báo chí mới quan tâm, đưa tin trong khi đó có
nhiều vụ việc, TTTP ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân thì báo chí
lại thiếu sự quan tâm, phát sóng theo tiến trình từ khi xảy ra, quá trình xử lý, các
giai đoạn tố tụng, xét xử. Chính vì vậy cần thiết xây dựng hệ thống/phần mềm quản
lý thông tin phát sóng theo từng vụ việc nhất là đối với TTTP.
Xây dựng hệ thống/phần mềm quản lý TTTP trên phạm vi quốc gia là một
việc làm không dễ dàng nhưng trước mắt với VTV1, ANTV là kênh thiết yếu quốc
gia, kênh thông tin tin cậy của công chúng hiện nay thì đây là việc làm cần thiết.
Khi phản ánh đầy đủ TTTP theo một quá trình từ khi vụ việc xảy ra, quá trình điều
tra, xử lý, xét xử, công chúng sẽ có cái nhìn đầy đủ về vụ việc để từ đó rút ra bài
học thực tiễn, có kinh nghiệm trong đấu tranh, phòng ngừa, tố giác tội phạm.
Xây dựng hệ thống/phần mềm quản lý TTTP, đặc biệt lưu ý đến thông tin xử
lý tội phạm, thông tin xét xử của Tòa án là việc làm cần thiết. Bởi lẽ thông tin về vụ
việc xảy ra ban đầu là chưa đầy đủ, cần phản ánh hoạt động xử lý, xét xử vì ngoài
mục tiêu xét xử, giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật, hoạt động xét xử
của Tòa án còn có một mục đích khác, đó là thông qua hoạt động xét xử để tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Do đó, TTTP phản ánh quá trình xét xử, bản
án của tòa án giúp cho mục đích tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đạt hiệu
quả, ảnh hưởng sâu rộng đến công chúng.
3.2.2.5. Tăng cường các thông tin liên quan đến phương thức, thủ đoạn phạm
tội và biện pháp phòng ngừa các loại hình tội phạm trong nhiều vụ việc phát sóng
Khi thông tin về tội phạm thì cũng cần thông tin về phương thức, thủ đoạn
hoạt động, biện pháp phòng ngừa… Thực tế cho thấy, báo chí chỉ làm tốt việc đưa
tin về vụ án và quá trình truy bắt thủ phạm, những thông tin về phương thức, thủ
150
đoạn, biện pháp phòng ngừa, bài học rút ra sau mỗi vụ án chỉ được quan tâm hời
hợt. Sự phản ánh không toàn diện này của báo chí là thiếu sót, dở dang trong việc
định hướng, định hình cho tâm lý quần chúng trong việc phòng ngừa tội phạm, nâng
cao tính thượng tôn pháp luật, bảo vệ công lý.
Trong thời gian qua, nhiều vụ án hình sự lớn như: vụ án đánh bạc ngàn tỉ
qua mạng internet, vụ OceanBank, vụ Vũ “Nhôm”, Út “Trọc”, Trịnh Xuân
Thanh… là những điểm nóng quan tâm của báo chí. Không ít báo, đài dành nhiều
thời gian, công sức tổng kết các vụ án trên để phân tích nguyên nhân và đặc biệt
là các bài học rút ra. Các tác phẩm báo chí này có tác dụng rất lớn trong giáo dục,
cảnh báo những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền và góp phần bồi dưỡng nâng
cao năng lực và quyết tâm của các tổ chức, cơ quan đơn vị trong công cuộc phòng
chống tham nhũng.
Với các chương trình trong diện khảo sát trên kênh ANTV, khi phản ánh
thông tin những vụ án rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, những vụ án gây
xôn xao dư luận, các PV, BTV đã chú ý khai thác, nêu bật phương thức, thủ đoạn,
biện pháp phòng ngừa, bài học rút ra... để công chúng hiểu và có những kinh nghiệm
thực tiễn trong công tác phòng ngừa, tố giác và đấu tranh với tội phạm. Tuy nhiên
với các chương trình thời sự trên VTV1, TTTP liên quan đến phương thức, thủ
đoạn, biện pháp phòng ngừa còn thiếu vắng. Lý do của hạn chế này là kênh VTV1
là kênh thời sự tổng hợp nên phải điều tiết, hài hòa thông tin trên mọi mặt của đời
sống xã hội. Tuy nhiên, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là một
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, do vậy các chương trình thời sự trong diện khảo sát
cần tăng cường nhiều TTTP phản ánh phương thức thủ đoạn phạm tội từ đó rút ra
các biện pháp phòng ngừa thì sự ảnh hưởng tích cực của TTTP sẽ rộng khắp. Là 02
trong 07 kênh truyền hình thiết yếu quốc gia, tỷ lệ người xem đông đảo, khi các
chương trình thời sự trên VTV1, ANTV thông tin về tội phạm, về vụ án, về người
phạm tội… trong đó nêu bật, lý giải nguyên nhân gây án, động cơ gây án, phương
thức, thủ đoạn, sự sám hối, bài học rút ra vẫn sẽ là những thông tin có ý nghĩa cảnh
báo, giáo dục có ảnh hưởng tích cực rất lớn đối với công chúng.
151
3.2.2.6. Thường xuyên nghiên cứu nhu cầu của công chúng, mở rộng đối
tượng công chúng
Ngoài việc đổi mới nội dung, cách thức tổ chức, thực hiện chương trình,
bản tin thời sự nhằm thu hút được sự quan tâm của công chúng thì VTV1 và
ANTV cần nghiên cứu nhu cầu của công chúng để xây dựng nội dung TTTP phù
hợp, có ảnh hưởng sâu rộng. Hiện nay, đối với chương trình trong diện khảo sát
việc điều tra công chúng thường theo hai cách. Cách thứ nhất: điều tra công chúng
dựa vào số liệu đo rating. Cách thứ hai: dựa trên số liệu điều tra xã hội học thông
qua các bảng hỏi anket, phỏng vấn sâu bằng hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến.
Tuy nhiên, trên thực tế việc tiến hành khảo sát công chúng đối với các
chương trình trong diện khảo sát là rất hạn chế. Hầu hết các chương trình thời sự
đều dựa vào cách khảo sát thứ nhất (đo chỉ số rating) làm căn cứ để thay đổi. Tuy
nhiên, với cách khảo sát này thường mang tính chủ quan và chưa toàn diện. Các
chỉ số này chưa thực sự đánh giá được ảnh hưởng thực tế, hiệu quả xã hội, hiệu
quả kinh tế mà các chương trình, bản tin thời sự này mang lại. Vì vậy, theo tác giả
cần phải đầu tư, tiến hành song song khảo sát công chúng theo hình thức thứ hai.
Mặc dù cách này đòi hỏi chi phí cũng như quy mô tổ chức nhưng lại có thể đánh
giá được toàn diện, khách quan về hiệu quả của chương trình cũng như trong quá
trình khảo sát, công chúng sẽ đưa ra những ý kiến đóng góp thiết thực, những ý
tưởng sáng tạo. Việc khai thác thành công những ý tưởng ấy sẽ tạo hiệu quả lớn
trong việc tổ chức tuyên truyền TTTP cũng như nâng cao ảnh hưởng tích cực của
TTTP trên TH đối với công chúng.
Ngoài ra, sự phát triển của MXH đã kết nối thế giới đến từng cá nhân, làm
cho việc tiếp cận thông tin nói chung và TTTP nói riêng không còn độc quyền như
trước. Tất cả mọi người sử dụng MXH đều có thể tham gia vào quá trình tương
tác, cung cấp, chia sẻ TTTP như những “nhà báo” độc lập, tạo ra môi trường
thông tin đa chiều với nội dung thông tin phong phú, đa dạng. Trong đó, tư tưởng,
thái độ, nhu cầu của người dân cũng quyết định đến nội dung và phương thức
tuyên truyền trên MXH. Chính vì thế, tuyên truyền trên MXH cần chủ động tương
152
tác, điều tra, nắm bắt tâm trạng xã hội của nhân dân để kịp thời cung cấp TTTP đa
chiều, thông tin mới có chọn lọc, có chất lượng, gắn với thực tiễn đời sống xã hội
được dư luận quan tâm.
3.2.2.7. Thông tin tội phạm phù hợp với đặc điểm, thị hiếu của giới trẻ
Quá trình khảo sát công chúng, thảo luận nhóm, phỏng vấn chuyên gia để
đánh giá ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng, nghiên cứu sinh nhận
thấy, đối tượng theo dõi các chương trình, bản tin thời sự trong diện khảo sát trên
kênh VTV1, ANTV phần lớn có độ tuổi trên 40. Những người thuộc độ tuổi này
phần lớn đều đã có gia đình, con cháu, mức độ ảnh hưởng tích cực của TTTP đối
với họ là rất lớn. Từ nhận thức rõ, nhiều người đã thay đổi hành vi và quan trọng
nhất là nhóm đối tượng này sẽ truyền đạt nội dung mà họ bị ảnh hưởng đến con
cháu của họ (hay nói cách khác là giới trẻ/người trẻ), trên cơ sở đó con cháu của
họ tiếp nhận sự ảnh hưởng của TTTP. Tuy nhiên, sự tiếp nhận TTTP của giới trẻ
theo hình thức này sẽ không đầy đủ, mức độ ảnh hưởng của TTTP luôn thấp.
Tiếp nhận tin tức thời sự, TTTP của giới trẻ/người trẻ hiện nay phần lớn
không phải từ truyền hình truyền thống mà từ truyền hình Internet, báo điện tử,
ứng dụng số trong đó MXH chiếm thế áp đảo. Tại Việt Nam, thời gian giới trẻ
sử dụng internet hiện gấp nhiều lần thời gian xem tivi. Với giới trẻ, MXH mới là
kênh quan trọng nhất để cung cấp thông tin đầu tiên và nhanh nhạy nhất. Đây là
vấn đề rất lớn đặt ra cho VTV và ANTV: Làm sao để có thể tiếp cận với những
khán giả trẻ?
Tuy nhiên, phản ánh TTTP trên mạng xã hội như thế nào để hiệu quả nhất,
cần căn cứ vào đặc điểm tâm lý giới trẻ - thành phần nòng cốt trong “cư dân
mạng”. Đa phần giới trẻ thích tin ngắn, phóng sự ngắn bằng hình ảnh, chứa đựng
cảm xúc, họ không quan tâm nhiều đến những vấn đề lý luận, khô khan. Vì vậy,
phản ánh TTTP trên MXH nên thông qua những sự kiện, sự việc có thật, đang
diễn ra được nhiều người quan tâm, thuyết phục “cư dân mạng” không chỉ bằng
việc nêu rõ phương thức, thủ đoạn, bài học rút ra khô cứng mà còn bằng suy nghĩ
đời thường, có lý và có tình.
153
3.3. Đề xuất bộ quy tắc khi thông tin tội phạm
3.3.1. Sự cần thiết xây dựng bộ quy tắc khi thông tin tội phạm
Quy tắc là các quy định, chuẩn mực hoặc các công thức, kết luận tổng quát
buộc mọi người phải tuân theo trong một hoạt động chung hoặc một công việc
nào đó. Dưới phương diện pháp lí, quy tắc là những chuẩn mực trong xử sự
hoặc là những quy định về các công việc, quy trình, thủ tục bắt buộc phải thực
hiện trong một hoạt động chung, được thể hiện dưới hình thức quy phạm pháp
luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Trong xã hội, nghề báo mang tính đặc thù, mỗi thông tin trên báo chí đều có
ảnh hưởng nhất định tới dư luận xã hội. Nếu thông tin không chính xác có thể ảnh
hưởng đến lợi ích quốc gia, đến một nhóm cộng đồng hoặc cá nhân. Vì vậy, trách
nhiệm của báo chí là phải trung thực, độc lập và công bằng. Đạo đức chính là trách
nhiệm, do đó nhà báo Việt Nam nói riêng và nhà báo trên thế giới nói chung đều
phải có trách nhiệm bảo đảm tính chân thật, khách quan của các thông tin phát sóng
trên báo chí với mục đích xây dựng xã hội tốt đẹp hơn.
Để hướng tới mục đích chung là phục vụ công chúng mang lại cho công
chúng những tin tức trung thực nhất, các tổ chức, quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới đã xây dựng những quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Các bản quy tắc đạo đức
nghề báo không phải áp dụng được trong mọi tình huống mà nó có ý nghĩa như sự
hướng dẫn hoặc khuyến khích nhà báo tìm tòi để có hành động đúng đắn, công
bằng, trung thực và nhân đạo, ảnh hưởng tích cực đến xã hội.
Qua nghiên cứu cuốn sách “100 bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới”
của tác giả Nguyễn Thị Trường Giang (sưa tầm và biên soạn), nghiên cứu sinh nhận
thấy trong các bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới, có những nguyên tắc,
tiêu chuẩn chung có thể áp dụng hiệu quả khi TTTP trên báo chí Việt Nam hiện
nay. Đó là các nguyên tắc, tiêu chuẩn: tôn trọng sự thật, bảo đảm tính chính xác,
trung thực; trách nhiệm xã hội của nhà báo trong việc truyền tải những vấn đề ảnh
hưởng tích cực đến công chúng và môi trường xung quanh họ; bảo vệ quyền của
154
trẻ em/vị thành niên và những người bị tổn thương; tôn trọng sự riêng tư và phẩm
giá con người. Đáng chú ý có đến 49 bản quy tắc trong đó có những quy định đạo
đức nghề nghiệp khi đưa tin về vụ án, tội phạm…
Các bản quy tắc đạo đức nghề báo của Anh, Campuchia, Hy Lạp,
Philíppin, Ấn Độ, Tây Ban Nha, Inđônêxia, Ba Lan, Bồ Đào Nha,
Catalan, Séc, Síp, Bănglađét, Xri Lanca, Látvia, Trung Á, Arập, Bôxnia
và Hécdegôvina, Bốtxoana, Đức, Extônia, Pháp, Anbani, Ănggôla,
Xlôvenia, Tandania, Thổ Nhĩ Kỳ, Dimbabuê, Bungari, Đan Mạch, Đức,
Grudia, Alien, Manta, Mônđôva, Môntênêgrô, Hoa Kỳ, Na Uy, Nga,
Phần Lan, Rumani... yêu cầu, trong khi tường thuật, thông tin về tội phạm
trong các vụ án hình sự, nhà báo phải thận trọng và dành sự quan tâm
đặc biệt đến những người dễ bị tổn thương, phụ nữ, trẻ em, nhân chứng
hoặc nạn nhân của tội ác [28, tr.37].
Tại Việt Nam, khi phản ánh thông tin nói chung, thông tin tội phạm nói riêng
người làm báo phải chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân
sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Báo chí, Luật Tiếp cận thông tin, Luật trẻ
em và nhiều quy định pháp luật khác có liên quan. Tuy nhiên, với hệ thống pháp
luật chưa thực sự đồng bộ, tính thống nhất chưa cao, vẫn còn cồng kềnh với nhiều
hình thức văn bản, do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành, một số nội dung còn
có sự mâu thuẫn… nên để nắm bắt, hiểu, thực hiện được tất cả những văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan đối với không ít người làm báo là rất khó khăn. Chính
vì vậy, dựa trên một số văn bản quy phạm pháp luật ở trên, nghiên cứu sinh đã tổng
hợp và đề xuất trong một số nội dung trong bộ quy tắc khi thông tin tội phạm góp
phần giúp người làm báo có thể dễ dàng tham khảo, thực hiện.
Ngoài ra, về mặt nghề nghiệp các nhà báo, phóng viên phải chấp hành “Quy
định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam”. Quy định này có 10 điều
chung nhất, các nhà báo có thể áp dụng trong nhiều môi trường, hoàn cảnh, sự
việc… Ví dụ trong điều 4, Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt
155
Nam quy định: “Nêu cao tinh thần nhân văn, tôn trọng quyền con người. Không
xâm phạm đời tư, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm, lợi ích hợp pháp của tổ chức
và cá nhân”, điều này có thể áp dụng khi người làm báo phản ánh thông tin tội
phạm. Hiện báo chí Việt Nam đang phản ánh mọi mặt thông tin của đời sống xã
hội, trên cơ sở 10 điều quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam,
từng cơ quan báo chí nên có những quy định, quy tắc nội bộ nhằm cụ thể hóa, tạo
sự thống nhất về cách hiểu, cách thực hiện những quy định đạo đức nghề nghiệp
của Hội Nhà báo Việt Nam.
Liên quan đến thông tin tội phạm, trong “Quy tắc tác nghiệp của Đài Truyền
hình Việt Nam” được ban hành từ năm 2012 có nội dung tác nghiệp khi thông tin
về vụ án, tội phạm:
Chúng ta không sử dụng những từ mang tính chất kết tội nghi
phạm như “hung thủ”, “tên tội phạm”, “kẻ thủ ác”... trước khi tòa án xét
xử và đưa ra phán quyết chính thức và có hiệu lực. Không đưa ra phỏng
đoán chủ quan về vụ án và hung thủ nếu không có những căn cứ thực sự
chính xác, tránh làm nhiễu thông tin điều tra của cơ quan công an…
Không đưa hình ảnh và nêu danh tính của gia đình, người thân
người phạm tội lên truyền hình nếu chưa được sự đồng ý của họ.
Về hiện trường vụ án:
Không mô tả quá chi tiết về hiện trường vụ án, các kỹ năng
gây án, tránh gây ảnh hưởng xấu tới người xem - nếu không có lý do
chính đáng.
Không quay cận cảnh nạn nhân, tránh những cảnh quá chi tiết tại
hiện trường như vết máu, hung khí, xác chết tại hiện trường vụ án, trừ
khi có lý do hợp lý” [28, tr.152].
Theo tìm hiểu của nghiên cứu sinh, VTV là đơn vị duy nhất trong lĩnh vực
báo chí truyền hình có một số quy định, hướng dẫn cụ thể khi tác nghiệp, phản ánh
về TTTP. Ngay cả đối với ANTV, một kênh truyền hình chuyên biệt về ANTT
156
nhưng đến nay cũng chưa có quy định cụ thể khi TTTP. Đây là một khoảng trống
cần thiết để các cơ quan báo chí nói chung, cơ quan báo chí thuộc khối hành pháp,
tư pháp nghiên cứu thực tiễn để xây dựng nên những quy tắc, nội dung khi thông
tin tội phạm.
Thực tế hiện nay, nhiều TTTP phản cảm, thiếu nhân văn, sa đà vào việc mô
tả tỉ mỉ, vô cảm hành vi phạm tội, chạy theo lợi ích của một số cơ quan báo chí
không vì mục tiêu phòng, chống tội phạm khiến cho không ít công chúng có những
nhận thức tiêu cực, sai lệch về thực tế đời sống xã hội. Chính vì vậy, đưa ra một bộ
quy tắc khi thông tin tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật là điều cần thiết.
Trên cơ sở bộ quy tắc này, những người làm báo lấy đó làm căn cứ khi phản ánh
TTTP nhằm nâng cao sự ảnh hưởng của TTTP trên báo chí đối với công chúng...
Tôi nghĩ việc xây dựng một bộ quy tắc khi TTTP trên báo chí là
cần thiết để các cơ quan báo chí tham khảo, làm theo. Lâu nay chúng ta
chỉ đưa ra quy ước mang tính tự phát kiểu như: nạn nhân trẻ em phải che
mặt, người phạm tội phải che mặt… Có đài truyền hình bắt buộc phải
che, có đài thì tùy phóng viên… Tôi nghĩ tự phát như vậy là không được.
[PVS, Mã 13, Nam, Chủ tịch Hội Nhà báo TPHCM].
Trước đây theo chỉ đạo của lãnh đạo Trung tâm, khi tòa chưa tuyên
án thì họ chưa có tội nên những trường hợp đấy phải che mặt. Tuy nhiên,
việc này cũng tạo ra một luồng dư luận: rõ ràng cơ quan điều tra đã chứng
minh được tội phạm, bắt quả tang, tại sao lại phải che mặt, trong khi
những cán bộ điều tra lại để lộ mặt. Chính vì vậy cần có bộ quy tắc cụ
thể để anh em biết và thực hiện. Ngoài ra, bộ quy tắc cũng giúp bộ phận
giám sát hình ảnh, bộ phận thư kí hiểu và thực hiện.
[PVS, Mã 03, Nam, Phó Trưởng phòng VHXH, Trung tâm Tin tức 24].
Không thể phủ nhận những tác dụng của tuyên truyền phòng
chống tội phạm nhưng bên cạnh đó có những thông tin nếu đưa không
tính toán có thể ảnh hưởng đến quốc gia, đến thông tin cá nhân, đến trẻ
157
vị thành niên… nên cần thiết có chế tài để đưa TTTP hiệu quả nhất. Bộ
quy tắc sẽ cụ thể hóa hoạt động của phóng viên khi đưa TTTP nhằm đem
lại những hiệu quả tích cực cho xã hội.
[PVS, Mã 08, Nam, Phóng viên Truyền hình ATV, Báo ANTĐ].
Từ thực tiễn báo chí Việt Nam hiện nay, qua nghiên cứu một số văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan trong nước, một số bản quy tắc đạo đức nghề báo trên
thế giới, tham khảo ý kiến chuyên gia, một số lãnh đạo cơ quan báo chí, nhà báo có
uy tín, nghiên cứu sinh đề xuất đưa ra bộ quy tắc khi báo chí thông tin tội phạm. Sở
dĩ nghiên cứu sinh đưa ra bộ quy tắc đối với báo chí nói chung vì bộ quy tắc này có
thể áp dụng phù hợp cho các loại hình báo chí vậy nên không cần thiết xây dựng
một bộ quy tắc riêng cho truyền hình. Bộ quy tắc này có giá trị đối với các cơ quan
báo chí, người làm báo tham khảo, đối chiếu nhằm mang lại những ảnh hưởng tích
cực của TTTP đến đông đảo công chúng.
3.3.2. Dự thảo Bộ quy tắc khi báo chí thông tin tội phạm
Nhà báo, phóng viên (gọi chung là nhà báo) khi phản ánh thông tin tội phạm
trên báo chí phải chấp hành mọi quy định của pháp luật; đảm bảo quyền con người,
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự được
quy định trong Hiến pháp; thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, nội quy, quy chế của
cơ quan báo chí nơi công tác và phải tuân thủ các quy tắc và nội dung sau:
1. Khách quan, trung thực, không định kiến
Nhà báo phải đưa tin khách quan, trung thực; ưu tiên sử dụng hình ảnh, âm
thanh chân thực tại hiện trường, nhằm bảo đảm độ chính xác của thông tin; không
được có thái độ căm ghét, thành kiến và phân biệt đối xử cũng như truyền bá sự phỉ
báng, kích động, xúi giục hận thù, bất bình đằng hoặc cố ý hủy hoại danh tiếng của
bất kỳ cá nhân, tổ chức nào.
Nhà báo chỉ được phép gọi người khác là thủ phạm nếu người đó bị bắt
quả tang khi đang thực hiện hành vi phạm tội; khi bản thân người đó thú nhận
và có những chứng cứ quan trọng xác định hành vi phạm tội của họ hoặc đại
158
diện cơ quan điều tra, viện kiểm sát cung cấp thông tin về vụ việc cũng như
hành vi phạm tội của người đó.
2. Nguyên tắc suy đoán vô tội
Nhà báo không được coi bất kỳ người nào là có tội cho đến khi hành vi phạm
tội đó được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của tòa án đã có
hiệu lực pháp luật. Nhà báo không đưa ra ý kiến, quan điểm về một trường hợp nào
đó vẫn đang trong quá trình điều tra hoặc tòa án chưa đưa ra phán xét; không được
dự đoán kết quả hoặc tìm cách gây ảnh hưởng đến kết quả của vụ án đó.
3. Tôn trọng tính nhân văn
Không đưa những thông tin mang tính tàn ác hoặc bạo lực về thể xác và tình
dục; Cân nhắc cẩn thận quyền được biết thông tin của công chúng với quyền của
nạn nhân và những người có liên quan.
Cân nhắc khi phỏng vấn những người đã gây ra tội ác, bạo lực trừ khi điều
đó là cần thiết để công chúng nhìn nhận vấn đề đúng đắn và khách quan.
Khi thông tin những hành vi phạm tội tránh mô tả chi tiết về hiện trường vụ
án, cách thức thực hiện có thể khiến người khác bắt chước.
Khi đưa tin các tội ác (đặc biệt là các tội ác mang tính bạo lực hay xâm hại
tình dục) liên quan đến sự mất mát, đau thương hoặc gây nên những chấn động về
tâm lý thì phải chú ý đến nỗi đau của nạn nhân và cảm xúc người thân của họ.
4. Đưa tin về nghi phạm
Nhà báo không tiết lộ thông tin những người bị tình nghi khi họ chưa bị kết
tội hay bị bắt. Không sử dụng những từ mang tính chất kết tội nghi phạm như “hung
thủ” “tên tội phạm”, “kẻ thủ ác”... trước khi tòa án xét xử và đưa ra phán quyết
chính thức và có hiệu lực. Không đưa ra phỏng đoán chủ quan về vụ án và nghi
phạm nếu không có những căn cứ thực sự chính xác, tránh làm ảnh hưởng đến quá
trình điều tra của cơ quan công an.
Không phát sóng trực diện hình ảnh nghi phạm và đưa tên tuổi, địa chỉ của
họ trong quá trình vụ án đang được điều tra. Không đề cập đến tiền án, tiền sự của
những người bị tình nghi, người bị bắt, bị can, bị cáo hoặc những người bị kết án
159
nếu những thông tin đó không liên quan đến tội mà người đó bị tình nghi, buộc tội
hoặc kết án.
5. Đưa tin về quá trình điều tra
Nhà báo có quyền thông tin cho công chúng về việc cơ quan công an bắt giữ
các nghi phạm. Tuy nhiên, báo chí không nên công bố danh tính nghi phạm cho đến
khi cơ quan điều tra khởi tố hoặc chính thức cung cấp thông tin về hành vi phạm tội
của nghi phạm hoặc chỉ làm việc này nếu vì lợi ích của công chúng.
Có ý thức giữ bí mật hình ảnh của các điều tra viên, tránh làm lộ danh tính
và hình ảnh của họ.
6. Đưa tin về phiên tòa
Nhà báo được phép thông tin cho công chúng về việc xét xử những người
bị cáo buộc phạm tội. Quá trình đưa tin, nhà báo cần trình bày quan điểm của hai
bên, quan điểm của luật sư đối với bên nguyên và bên bị trong các vụ án hình sự
một cách công bằng. Nhà báo phải tôn trọng và duy trì nguyên tắc giả định vô tội,
không dự đoán các phán quyết của tòa án cho đến khi có bằng chứng và phán
quyết rõ ràng.
7. Nạn nhân của tội phạm
Nhà báo phải thận trọng và dành sự quan tâm đặc biệt đến nhân chứng
hoặc nạn nhân của tội phạm. Dù trực tiếp hoặc gián tiếp, không được tiết lộ danh
tính của nạn nhân trong các vụ án cũng như công bố các tư liệu có thể xác định
danh tính của họ, đặc biệt nếu nạn nhân là trẻ em/vị thành niên, phụ nữ hoặc nạn
nhân trong các vụ án tình dục (trừ khi nạn nhân đồng ý hoặc pháp luật cho phép
làm điều đó).
Trong trường hợp thu thập tin tức có liên quan đến nỗi đau buồn hoặc sự
tổn thương nạn nhân, các câu hỏi và phương pháp tiếp cận phải được thực hiện
với sự cảm thông, thận trọng, việc công bố cần được xử lý một cách tinh tế.
Báo chí không nên phát sóng hồi ức của người phạm tội vì có thể làm nạn
nhân bị tổn thương nghiêm trọng và việc miêu tả chi tiết lại tội ác có thể làm
công chúng bị kích động.
160
8. Thân nhân của người phạm tội
Nhà báo không được nêu tên người thân và bạn bè của người bị tình nghi,
người bị bắt, bị can, bị cáo hoặc những người bị kết án nếu không có sự đồng ý của
họ, trừ khi họ liên quan đến vụ án hoặc đây là những dữ liệu cần thiết để thông tin
được toàn diện và công bằng.
9. Đưa tin về trẻ em
Khi đưa tin liên quan đến trẻ em, nhà báo phải cẩn thận và có trách nhiệm
bảo vệ nhân quyền của trẻ em/vị thành niên bao gồm việc tránh tiết lộ và công bố
danh tính, hình ảnh của trẻ em (cho dù là nạn nhân, nhân chứng hay bị can, bị cáo)
có liên quan đến các hành vi phạm tội. Cân nhắc sử dụng các biện pháp kỹ thuật để
xóa mờ hình ảnh trẻ em trong các sản phẩm báo chí khi phát sóng, phát sóng.
10. Tiếp tục theo dõi diễn biến vụ việc
Nếu báo chí đã đưa tin về một vụ phạm tội nào đó, thì nên tiếp tục theo dõi
để đưa tin về các diễn biến của vụ việc ở các giai đoạn tiếp theo và công bố phán
quyết cuối cùng của toà án về vụ việc.
Tiểu kết
Trong chương 3, tác giả luận án đã đề cập một số vấn đề đặt ra hiện nay đối
với sự ảnh hưởng của TTTP trên TH, đó là: Tình hình tội phạm và vi phạm pháp
luật vẫn diễn biến phức tạp; biểu hiện thương mại hóa; tốc độ đưa tin thua kém
MXH; vấn nạn tin giả; thách thức từ thói quen tiếp nhận thông tin và tương tác của
công chúng; các công nghệ mới được ứng dụng trong báo chí…
Đồng thời, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao sự ảnh hưởng tích
cực của TTTP trên VTV1, ANTV đối với công chúng, gồm:
Nhóm các giải pháp chung
Giải pháp chủ động trong việc lập kế hoạch và tổ chức sản xuất chương trình là
yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo đảm chất lượng cho từng chương trình thời sự nói
chung, mỗi tin, bài về TTTP nói riêng. Ngoài ra, các cơ quan báo chí cần chú ý các giải
pháp: Nâng cao chất lượng, trình độ nguồn nhân lực sản xuất chương trình; Tăng
161
cường đạo đức nghề nghiệp của người làm báo; Đầu tư, phát triển truyền hình trên nền
tảng số, kênh thông tin phụ trợ MXH nhằm thích ứng với nhu cầu công chúng.
Một số giải pháp cụ thể
Căn cứ vào thực tiễn khảo sát công chúng, nội dung TTTP trong các chương
trình thời sự trong diện khảo sát trên VTV1, ANTV, trong chương 2 tác giả rút ra
một số hạn chế, nguyên nhân hạn chế trong việc cung cấp TTTP trên TH dẫn đến
sự suy giảm ảnh hưởng tích cực của TTTP đến công chúng. Từ những hạn chế
này, tác giả đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao ảnh hưởng tích cực của
TTTP như sau: ổn định khung giờ, tăng cường số lượng, tần suất TTTP trên TH;
thường xuyên đổi mới nội dung TTTP, xây dựng các bản tin tổng hợp, tóm tắt
theo khung giờ phù hợp với các nhóm đối tượng; thường xuyên nghiên cứu nhu
cầu của công chúng, mở rộng đối tượng công chúng; Đây là ba giải pháp cụ thể
quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao sự ảnh hưởng tích cực của TTTP trên
TH đối với công chúng.
Ngoài ra còn có những giải pháp quan trọng khác góp phần gia tăng sự ảnh
hưởng tích cực của TTTP, cụ thể là: Bổ sung thêm các hình thức minh họa TTTP
bằng hình ảnh đồ họa nhằm tăng hiệu quả truyền tải; xây dựng hệ thống/phần mềm
quản lý thông tin phát sóng theo từng vụ việc để đảm bảo thông tin các vụ việc được
phát sóng đầy đủ, người dân dễ dàng theo dõi; tăng cường các thông tin liên quan
đến thủ đoạn, phương thức hoạt động và biện pháp phòng tránh các loại hình tội
phạm trong từng vụ việc phát sóng; TTTP phù hợp với đặc điểm, thị hiếu của giới
trẻ... Những nội dung này hiện tại VTV1, ANTV đều đang rất hạn chế.
Trong chương 3, tác giả đã cố gắng nghiên cứu tài liệu, tổng hợp từ thực tiễn
để đề xuất Bộ quy tắc khi báo chí thông tin tội phạm. Tác giả mong muốn bộ quy
tắc này được các cơ quan báo chí, nhà báo, phóng viên tham khảo, đối chiếu nhằm
mang lại những ảnh hưởng tích cực của TTTP đến đông đảo công chúng nhằm xây
dựng một xã hội chấp hành pháp luật, giảm thiểu tội phạm; đảm bảo công tác tuyên
truyền, giáo dục, định hướng xã hội, cổ vũ và phát huy nhân tố mới trong công tác
đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
162
KẾT LUẬN
1. Các đài truyền hình, kênh truyền hình hôm nay khác với các đài truyền
hình, kênh truyền hình của thế kỷ XX và chắc chắn sẽ thay đổi rất nhiều trong tương
lai, thậm chí là tương lai gần. Sự phát triển của công nghệ internet, số hóa đã thay
đổi công chúng truyền hình. Đứng trước các xu thế phát triển không ngừng của báo
chí hiện đại, truyền hình buộc phải thay đổi để đến gần công chúng hơn. Đến thời
điểm hiện tại, VTV1, ANTV vẫn đang có thế mạnh nhất định vì hai kênh này được
Chính phủ xếp là 02 trong 07 kênh truyền hình thiết yếu của quốc gia, đông đảo
công chúng vẫn đón nhận, theo dõi vì độ tin cậy của thông tin trong đó có TTTP.
2. Hiện nay, cả thế giới đều thừa nhận vai trò của MXH, đặc biệt trong việc
cập nhật thông tin, tường thuật trực tiếp sự kiện phá vỡ các rào cản của thông tin
truyền thống. Sự lấn lướt của MXH trong cập nhật TTTP cũng chính là cơ hội để
truyền hình VTV1, ANTV phát huy sức mạnh chính thống của mình. Truyền hình
VTV1 với lợi thế kênh truyền hình quốc gia, ANTV với lợi thế là kênh chuyên biệt,
thông tin chính thức của Bộ Công an hiện đã đáp ứng được các yếu tố tin cậy, khách
quan và nhân văn và là lựa chọn hàng đầu của công chúng khi cần tiếp cận, muốn
kiểm chứng TTTP. Với nền tảng số đã được VTV, ANTV đầu tư thì công chúng
có thể tiếp cận, kiểm chứng phần lớn TTTP. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, VTV1
và ANTV được người dân coi là nguồn thông tin ưu tiên hàng đầu, kênh chính thống
để tìm hiểu và kiểm chứng lại các nguồn thông tin về tội phạm khác (mạng xã hội,
báo mạng, truyền miệng….).
3. Ảnh hưởng của TTTP trên TH đối với công chúng được tác giả luận án
đánh giá thông qua dữ liệu nghiên cứu ý kiến của công chúng nhiều tỉnh, thành phố.
Những phân tích và lý giải sự ảnh hưởng của TTTP trên TH được dựa trên nền tảng
các lý thuyết chủ chốt trong lĩnh vực truyền thông về mức độ tiếp cận, hiệu quả, sự
ảnh hưởng và cơ chế lý giải thông điệp truyền thông của công chúng. Kết quả phân
163
tích cho thấy truyền hình được công chúng đánh giá là kênh thông tin về tội phạm
được nhiều người biết đến nhất. Trong đó hai kênh được tiến hành khảo sát là VTV1
và ANTV được công chúng tiếp cận thường xuyên, TTTP là một trong những thông
tin ưu tiên hàng đầu với họ khi xem VTV1 và ANTV.
Ảnh hưởng lớn nhất với công chúng là TTTP đã giúp họ nhận thức đầy đủ
hơn về các loại tội phạm; quan tâm hơn đến việc phòng, chống tội phạm và giúp họ
có kỹ năng để ngăn ngừa, phòng chống tội phạm, gia tăng niềm tin vào bộ máy
công quyền. Có thể nói, các ảnh hưởng trên là một trong những thành tựu quan
trọng của TTTP trên VTV1 và ANTV trong việc thúc đẩy thay đổi niềm tin và hành
động của công chúng.
Mặc dù những ảnh hưởng tích cực là rất lớn nhưng vẫn tồn tại một số ảnh
hưởng tiêu cực khi công chúng tiếp cận TTTP trên VTV1 và ANTV. Đạo đức
xuống cấp và cảm giác hoang mang, lo lắng cảm thấy không an toàn là những cảm
xúc tiêu cực phổ biến của công chúng thường xuất hiện sau khi tiếp cận một số
TTTP. Tuy nhiên, những ảnh hưởng tiêu cực đem lại chủ yếu là cảm xúc nhất thời
vì thế dù tiếp cận nhiều thông tin về tội phạm nhưng ảnh hưởng đến hành động và
niềm tin của công chúng không nhiều.
4. Trên lý thuyết, VTV1, ANTV có khả năng thực hiện vai trò cung cấp thông
tin thời sự chủ lực về TTTP, định hướng sự quan tâm và luận bàn của công chúng, từ
đó nâng cao sự ảnh hưởng của TTTP đến đông đảo công chúng. Tuy nhiên, trên thực
tế, để thực hiện được chức năng này, đồng thời cũng nhằm đạt được mục tiêu tuyên
truyền nâng cao ý thức đấu tranh, phòng ngừa, giảm thiểu tội phạm, VTV1, ANTV
cần xác định những kế hoạch truyền thông hiện đại hơn, hướng đến đại chúng nhiều
hơn bằng việc mở rộng trên nền tảng số đặc biệt trên nền tảng MXH trong nước; nâng
cao chất lượng nội dung chú trọng tin bài mang tính phòng ngừa; mở rộng hình thức
thể hiện, gia tăng tần suất, tăng cường sự tương tác; đầu tư khảo sát nhu cầu của đối
164
tượng truyền thông, công chúng. VTV1, ANTV cần tiếp tục đào tạo nâng cao chất
lượng nhân lực, trang thiết bị phục vụ truyền hình trực tiếp từ hiện trường…
5. Trong xã hội, nghề báo mang tính đặc thù, mỗi thông tin trên báo chí đều
có ảnh hưởng nhất định tới dư luận xã hội. Thực tế hiện nay, nhiều TTTP phản cảm,
thiếu nhân văn không phục vụ mục tiêu phòng, chống tội phạm khiến cho không ít
công chúng có những nhận thức tiêu cực, sai lệch về thực tế đời sống xã hội. Chính
vì vậy, trong luận án nghiên cứu sinh đã đề xuất một bộ quy tắc khi báo chí thông
tin tội phạm. Trên cơ sở bộ quy tắc này, những người làm báo có thể tham khảo
hoặc sử dụng khi phản ánh TTTP nhằm nâng cao sự ảnh hưởng tích cực của TTTP
trên báo chí đối với công chúng.
6. Luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả trong một thời gian dài, là sự nối
tiếp của nghiên cứu do chính tác giả thực hiện trước đó về TTTP trên kênh ANTV.
Về mặt lý thuyết, luận án đã hệ thống hoá, khái quát hoá và phân tích vai trò của
TTTP; xây dựng các khái niệm và phương pháp đánh giá sự ảnh hưởng của TTTP
trên TH đối với công chúng. Từ góc độ thực tiễn, luận án đã có những tiếp cận thực
tế với công chúng để thống kê, phân tích các đặc điểm tiếp nhận thông tin, sự ảnh
hưởng, các yếu tố chi phối sự ảnh hưởng. Trên cơ sở này, tác giả luận án đã đưa ra
những nhận định về sự ảnh hưởng của TTTP và một số giải pháp mang tính khả thi
nhằm nâng cao chất lượng, sự ảnh hưởng tích cực của TTTP trên TH đối với công
chúng ở Việt Nam hiện nay.
Trong tương lai, một số hướng nghiên cứu có thể thực hiện liên quan đến đề
tài như: mở rộng loại hình báo chí; phân chia nhóm công chúng theo đặc điểm tiếp
nhận thông tin để nâng cao sự ảnh hưởng tích cực cho từng nhóm; các đặc điểm nội
dung chi phối chất lượng thông tin và sự ảnh hưởng; xây dựng hệ thống TTTP trên
báo chí phục vụ mục đích tuyên truyền phòng chống tội phạm…
Quá trình thực hiện luận án, tác giả đã rất cố gắng, tuy nhiên do điều kiện
khách quan, đề tài nghiên cứu mới, phạm vi khảo sát còn hạn hẹp, điều này khiến cho
165
kết quả nghiên cứu tính phổ quát chưa rộng. Mặc dù vậy, trong quá trình thực hiện,
tác giả đã công bố một số nghiên cứu liên quan đến đề tài trong từng giai đoạn. Những
nghiên cứu này cũng đã được không ít cơ quan báo chí, nhà báo và bản thân tác giả
áp dụng có hiệu quả vào thực tiễn. Đây là một sự khích lệ, động viên to lớn đối với
người nghiên cứu. Tác giả luận án trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, các nhà báo,
cơ quan báo chí, cơ quan công an đã quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ cho công trình nghiên
cứu này. Do trình độ của tác giả còn hạn chế, thời gian nghiên cứu có lúc chưa được
tập trung tối đa, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều, luận án chắc chắn còn
có một số thiếu sót, sơ suất cần khắc phục. Tác giả mong nhận được thêm nhiều ý
kiến đóng góp để luận án được hoàn chỉnh với mục tiêu cuối cùng là giúp báo chí nói
chung, truyền hình VTV, ANTV nói riêng tiếp tục nâng cao sự ảnh hưởng tích cực
của TTTP đối với đông đảo công chúng ở Việt Nam hiện nay./.
166
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bùi Thị Vân Anh, Hà Đình Dũng (2021), Vai trò của công nghệ đối với báo chí
- truyền thông trong kỷ nguyên chuyển đổi số, Tạp chí Thông tin & Truyền
thông, số 1 tháng 1/2021, Hà Nội.
2. Quỳnh Anh (2018) Sử dụng mạng xã hội để xây dựng và quản lý thương hiệu
truyền hình, Tạp chí Người làm báo, tháng 5/2018, Hà Nội.
3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011) Chỉ thị số 09-CT/TW về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc trong
tình hình mới, Hà Nội.
4. Lê Thanh Bình (2008), Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2015), Chỉ thị số 46 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới, Hà Nội.
6. Bộ Công an (2016), (2017), (2018), (2019), Báo cáo Tổng kết phong trào thi
đua “Vì An ninh Tổ quốc”, Hà Nội.
7. Bộ Công an (2011), Đề án xây dựng và phát triển Kênh truyền hình Công an
nhân dân, Hà Nội.
8. Bộ Thông tin và Truyền thông (2017), Sách trắng công nghệ thông tin và truyền
thông Việt Nam 2016, NXB Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
9. Bộ Thông tin và Truyền thông (2018), Sách trắng công nghệ thông tin và truyền
thông Việt Nam 2017, NXB Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
10. Công an TP Hà Nội (2016), (2017), (2018), (2019), Báo cáo Tổng kết phong
trào thi đua “Vì An ninh Tổ quốc”, Hà Nội.
11. Công an TP Hồ Chí Minh (2016), (2017), (2018), (2019), Báo cáo Tổng kết
phong trào thi đua “Vì An ninh Tổ quốc”, TP Hồ Chí Minh.
12. Công an tỉnh Đắk Lắk (2016), (2017), (2018), (2019), Báo cáo Tổng kết phong
trào thi đua “Vì An ninh Tổ quốc năm”, Tỉnh Đắk Lắk.
167
13. Hoàng Đình Cúc - Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí hiện đại, NXB
Lý luận chính trị, Hà Nội.
14. Đỗ Quý Doãn (2014), Quản lý và phát triển thông tin báo chí ở Việt Nam, NXB
Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
15. Nguyễn Văn Dững (2010), Báo chí truyền thông hiện đại - Từ hàn lâm đến đời
thường, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, NXB Lao động, Hà Nội.
17. Nguyễn Văn Dững (2013), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Lao động, Hà Nội.
18. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) - Đỗ Thị Thu Hằng (2012), Truyền thông - lý
thuyết và kỹ năng cơ bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Văn Dững (chủ biên), (2015), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Thông tin
và truyền thông, Hà Nội.
20. Trần Bá Dung (2008), Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng Hà
Nội, Luận án Tiến sĩ báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
21. Đài Truyền hình Việt Nam (2016, 2017), Báo cáo kết quả công tác năm 2016,
2017, Hà Nội.
22. Trọng Đạt (2020), Mạng xã hội Việt Nam đang ở đâu so với Facebook, Google?
(https://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe/ung-dung/mang-xa-hoi-viet-nam-chung-
ta-dang-o-dau-so-voi-facebook-google-688437.html)
23. Lê Vũ Điệp (2018), “Ngành Truyền hình - Một sự thay đổi toàn cảnh"
(https://lhthtq.vtv.vn/cac-ky-lien-hoan-truoc/hoi-thao-mang-xa-hoi-va-truyen-
hinh-bai-thuyet-trinh-nganh-truyen-hinh-mot-su-thay-doi-toan-canh-
20181221155834706.htm)
24. E.P. Prôkhôrốp (2005), Cơ sở lý luận của báo chí (tập 2), NXB Thông tấn,
Hà Nội.
25. G.V. Ladutina (2003), Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo,
NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
168
26. Nguyễn Thị Trường Giang - Nguyễn Thy Lệ (2018), Một số biểu hiện vi
phạm nguyên tắc “suy đoán vô tội” trên báo chí hiện nay, Tạp chí Nội chính
(tháng 2-2018).
27. Nguyễn Thị Trường Giang (2011), Đạo đức nghề nghiệp nhà báo, NXB Chính
trị - Hành chính, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Trường Giang (2018), 100 bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế
giới, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
29. Lê Thu Hà (2015), Xu hướng tiếp nhận sản phẩm báo chí của công chúng Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
30. Phạm Sơn Hà (2015), Phòng ngừa tội phạm đánh bạc sử dụng mạng Internet,
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử theo chức năng của lực
lượng Cảnh sát hình sự, Luận án Tiến sĩ Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm,
Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
31. Ngô Thị Hồng Hạnh (2019) Vai trò định hướng của báo chí với tin tức giả trên
mạng xã hội, Tạp chí Tuyên giáo, tháng 8/2019, Hà Nội.
32. Đinh Thị Thúy Hằng (2008), Báo chí thế giới và xu hướng phát triển, NXB
Thông tấn, Hà Nội.
33. Đinh Thị Thúy Hằng (2015), Báo chí đưa tin tội phạm không khéo phạm tội -
Những điểm đáng chú ý khi đưa tin tội phạm, Tạp chí Người làm báo, (tháng
7-2015), Hà Nội.
34. Đỗ Thị Thu Hằng (2000), Tâm lý tiếp nhận sản phẩm báo chí của công chúng
thanh niên sinh viên hiện nay (khảo sát một số trường ĐH, CĐ tại Hà Nội), Đề
tài khoa học cấp cơ sở, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
35. Đỗ Thị Thu Hằng (2013), Giáo trình Tâm lý báo chí, NXB Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
36. Đỗ Thị Thu Hằng (2013), Tâm lý học ứng dụng trong nghề báo, NXB Thông
tấn, Hà Nội.
169
37. Lương Khắc Hiếu (2020), Giải pháp nâng cao hiệu quả định hướng dư luận xã
hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Mặt trận, tháng 10/2020, Hà--Nội.
38. Vũ Quang Hào (2012), Ngôn ngữ báo chí, NXB Thông tấn, Hà Nội.
39. Howard Gardner (2012), Năm tư duy cho tương lai, NXB Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
40. Hội nhà Báo Việt Nam (2016), Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo
Việt Nam, tháng 12/2016, Hà Nội.
41. Đặng Thị Huyền (2015), Tính nhân văn trong thông tin về vụ án trên chuyên đề
An ninh thế giới hiện nay, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
42. Lê Ngọc Hùng (2019), Vận dụng lý thuyết truyền thông và cơ chế hình thành
dư luận xã hội (https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/van-dung-ly-thuyet-
truyen-thong-va-co-che-hinh-thanh-du-luan-xa-hoi-527395.html)
43. Jeff Ansell, Jeffrey Leeson (2016), Khi bạn trở thành tâm điểm của truyền
thông; NXB Thông tấn, Hà Nội.
44. Kênh truyền hình ANTV (2015), Báo cáo thành tích và kỷ niệm 4 năm chính
thức phát sóng, Hà Nội.
45. Trần Bảo Khánh (2003), Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình, NXB
Lý luận chính trị, Hà Nội.
46. Trần Bảo Khánh (2012), Công chúng truyền hình Việt Nam, NXB Thông tấn,
Hà Nội.
47. Nguyễn Thế Kỷ (chủ biên) (2012), Công tác lãnh đạo, quản lý báo chí trong
25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Nguyễn Thế Kỷ (2019), Báo chí, phát thanh, truyền hình trong kỷ nguyên số đa
nền tảng, Tạp chí Người làm báo, (tháng 8-2019), Hà Nội.
49. Triệu Thanh Lê (2015), Hiệu quả truyền thông báo mạng điện tử Tiếng Anh
của Việt Nam với công chúng nước ngoài, Luận án Tiến sĩ báo chí học, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
170
50. Nguyễn Thành Lợi (2014), Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền thông
hiện đại, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
51. Nguyễn Thành Lợi (2016), Báo chí truyền thông hiện đại nhìn từ lý thuyết “Sử
dụng và hài lòng”, Tạp chí Người làm báo, (tháng 7-2016).
52. Luật An ninh quốc gia được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004.
53. Mitchell Stephens (2015), Hơn cả tin tức - tương lai của báo chí, NXB Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
54. Mai Quỳnh Nam (1996), Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội. Tạp chí Xã
hội học, số 1 (53)/1996, Hà Nội.
55. Mai Quỳnh Nam (2001), Văn hóa đại chúng và văn hóa gia đình, Báo chí -
những điểm nhìn từ thực tiễn, Tập 2, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền. NXB
Văn hóa thông tin, Hà Nội
56. Mai Quỳnh Nam (2001), Về vấn để nghiên cứu hiệu quả truyền thông đại
chúng, Tạp chí Xã hội học, số 4/2001, Hà Nội.
57. Đỗ Chí Nghĩa (2012), Vai trò của báo chí trong định hướng dư luận xã hội,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Philip Breton và Serge Proulx (1996), Bùng nổ truyền thông - Sự ra đời một ý
thức hệ mới, NXB Văn hóa, Hà Nội.
59. Trần Hữu Quang (2001), Chân dung công chúng truyền thông - Qua khảo sát
xã hội học tại TP.HCM. NXB Thành phố Hồ Chí Minh, TP HCM.
60. Trần Hữu Quang (2006), Xã hội học về truyền thông đại chúng, Đại học Mở
TP Hồ Chí Minh, TP HCM.
61. Trần Hữu Quang (2015), Xã hội học báo chí, NXB Đại học Quốc gia TPHCM,
TP Hồ Chí Minh.
62. Quốc hội (2013), Hiến pháp 2013, Quốc hội, Việt Nam
63. Quốc hội, (2015), Bộ luật Hình sự (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2018), Quốc hội, Việt Nam
171
64. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, Quốc hội, Việt Nam
65. Quốc hội (2016), Luật Báo chí, Quốc hội, Việt Nam
66. Dương Xuân Sơn (2010), Giáo trình báo chí truyền hình, NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội
67. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), Cơ sở lý luận báo chí
truyền thông, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
68. Đỗ Đình Tấn (2014), Một nền báo chí phẳng, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
69. Đỗ Đình Tấn (2016), Báo chí lương tâm, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh
70. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (1999), Cơ sở lý luận báo chí, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, NXB Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
72. The Missouri Group (2014), Nhà báo hiện đại, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh
73. Nguyễn Thị Thoa (2012), Công chúng báo chí công đoàn và những tác động
của báo chí công đoàn đến công nhân lao động, Đề tài khoa học cấp Bộ, Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam.
74. Lương Thị Thủy (2014), Chất lượng chương trình về phòng chống tội phạm
trên kênh truyền hình Công an nhân dân (ANTV) hiện nay, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền.
75. Phạm Thị Thanh Tịnh (2013), Công chúng báo chí, NXB Chính trị - Hành
chính, Hà Nội.
76. Bùi Chí Trung, Đinh Thị Xuân Hòa (đồng chủ biên) (2015), Truyền hình hiện
đại những lát cắt 2015-2016, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
77. Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử (UBTVQH-Ban công tác đại biểu): Một
số vấn đề cơ bản về cơ chế tác động của báo chí
http://tailieu.ttbd.gov.vn:8080/index.php/tai-lieu/chuyen-de-chuyen-
sau/item/1207-m-t-s-v-n-d-co-b-n-v-co-ch-tac-d-ng-c-a-bao-chi
172
78. Lê Bá Trường (2014), Đặc điểm chương trình Hành trình phá án trên ANTV,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
79. Viện Ngôn ngữ học (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
80. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
81. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
82. Nguyễn Xuân Yêm (tổng chủ biên) (2013), Tội phạm học Việt Nam, NXB Công
an nhân dân, Hà Nội.
83. Nguyễn Thị Bích Yến (2017), Chiến lược và giải pháp phát triển công chúng
thị trường báo Wiener Zeitung (Cộng hòa Áo), Luận án Tiến sĩ báo chí học,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
Tiếng Anh
84. David Kidd-Hewitt and Richard Osborne (1995); Crime and the Media-The
post-modern spectacle, Pluto Press, London.
85. Denis McQuail (1997), Audience Analysis, SAGE Publication, London
86. Denis McQuail (2005), Mass Communication Theory, Cornwall, Great Britain.
87. Dennis Howitt (1998), Crime, the media and law, John Wiley & Sons Ltd,
England.
88. Derzon, J. Lipsey, M. (2002), A meta-analysis of the effectiveness of mass
communication for changing substance-use knowledge, attitudes and behavior,
in trong cuốn: William D. Crano (2002), Mass Media and Drug Prevention:
classic and temporary theories and research. Lawrence F. arlbaum Associates.
New Jersey.
89. Dom. N, South. N. (1985), Message in a bottle: Theoretical overview’ and
annotated bibliography on rhe mass media and alcohol, Algershot, UK, Gower.
90. Flay. B.R. (1987a), Selling the smokeless society: Fifty-six evaluated mass
media programs and campaigns worldwide. Washington DC: American Public
Health Association.
173
91. Ian Marsh Gaynor Melville (2014), Crime, Justice and the Media, Routledge, USA.
92. Jennifer George – Palilonis (2013), A Practical Guide to graphics reporting
information graphics for Print, Web & Broadcast, USA.
93. Ken Dowler and Thomas Fleming (Wilfrid Laurier University); Stephen L.
Muzzatti (Ryerson University) (2006), “Constructing Crime: Media, Crime,
and Popular Culture”, Canadian Journal of Criminology and Criminal Justice
(10/2006).
94. Linda Heath (Loyola University Chicago) (1996), “Mass Media and Fear of
Crime”, American Behavioral Scientist (2/1996).
95. Nickie Phillips (2017), “Violance, Media Effects, and Criminology”, Oxford
Research Encyclopedia, Criminology and Criminal Justice
(oxfordre.com/criminology) (7/2017).
96. Robert L. Bing III (2010), Race, Crime, and the Media, Mc Graw Hill, US
97. Roy Edward Lotz (1991), Crime and the American Press, Praeger Publishers, USA.
98. Sarah E.H. Moore (2014), Crime and the Media, Palgrave Macmillan, London.
99. Steven M.Chermak (1995), Victims in the News, Oxford, US.
100. Stephen Few (2006), Information Dashboard Design: The Effective Visual
Communication of Data, O’Reilly Media, Inc, USA.
101. Surette, R. (2015), Media, Crime, and Criminal Justice, Stanford,
Connecticut Cengage Learning.
102. Vivien Carli (2008), “The Media, Crime Prevention and Urban Safety: A
Brief Discussion on Media Influence and Areas for Further Exploration”,
International Centre for Prevention of Crime, Canada.
103. Yvonne Jewkes (2004), Media & Crime, Cromwell Press Ltd, Trowbridge,
Wiltshire, Great Britain.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN
1. Nguyễn Đăng Khang (2016), Thông tin tội phạm trong các bản tin thời sự trên
kênh ANTV, Tạp chí Người làm báo, số 391, tháng 9-2016, (ISSN 0886-7691).
2. Nguyễn Đăng Khang (2016), Đặc điểm thông tin tội phạm trên báo chí và
một số lưu ý khi báo chí thông tin về tội phạm, Tạp chí Kiểm sát, số 13 năm
2016, (ISSN 0866-7357).
3. Nguyễn Đăng Khang (2017), Tin nóng (Breaking News)-yêu cầu cấp thiết
đối với các bản tin thời sự trên kênh ANTV, Kỷ yếu Hội thảo Tầm nhìn và
Chiến lược phát triển kênh ANTV đến năm 2022, tháng 8-2017.
4. Nguyễn Đăng Khang (2017), Thông tin tội phạm trong các bản tin thời sự
trên kênh ANTV, Kỷ yếu Hội thảo Tầm nhìn và Chiến lược phát triển kênh
ANTV đến năm 2022, tháng 8-2017.
5. Nguyễn Đăng Khang (2018), Ảnh hưởng của thông tin tội phạm trên báo chí
đối với công chúng trong cách mạng công nghiệp 4.0, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học quốc gia “Quản lý truyền thông trong bối cảnh cách mạng công nghiệp
lần thứ 4 thực trạng và những vấn đề đặt ra”, tháng 6-2018.
6. Nguyễn Đăng Khang (2019), Thông tin tội phạm: Từ quốc tế đến trong nước,
Tạp chí Người làm báo, số 427, tháng 9-2019. (ISSN 0886-7691)
7. Nguyễn Đăng Khang (2020), Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của
thông tin tội phạm trên truyền hình, Tạp chí Lý luận chính trị & Truyền
thông, Chuyên đề số 1-2020. (ISSN 1859-1485)
8. Đăng Khang - Thanh Huế (2020), Thông tin về tội phạm trên báo chí: Cần
hướng tới bảo vệ quyền con người, Tạp chí Nhân quyền, số 6-2020. (ISSN
1859-4743).
9. Nguyễn Đăng Khang (2021), Phác thảo bộ quy tắc thông tin về tội phạm trên
báo chí, Tạp chí Người làm báo, số 449, tháng 7-2021. (ISSN 0886-7691)
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Mẫu điều tra xã hội học
+ Phiếu khảo sát (dành cho công chúng)
+ Bảng mã phân tích thông tin về tội phạm trên truyền hình (VTV1 và ANTV)
+ Phiếu thực nghiệm sự ảnh hưởng của TTTP
Phụ lục 2: Bảng kết quả điều tra xã hội học
Phụ lục 3: Biên bản câu hỏi phỏng vấn sâu
Phụ lục 4: Nội dung thảo luận nhóm
Phụ lục 1: MẪU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
PHIẾU KHẢO SÁT
(DÀNH CHO CÔNG CHÚNG)
Khảo sát là một phần của nghiên cứu Luận án Tiến sĩ: Ảnh hưởng của TTTP trên
TH đối với công chúng ở Việt Nam do học viên Nguyễn Đăng Khang, NCS Báo chí K22,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền thực hiện.
Mục tiêu của khảo sát nhằm tìm hiểu:
- Thứ nhất, việc tiếp cận các thông tin về tội phạm của người dân trên kênh VTV1
và ANTV.
- Thứ hai, nhận xét, đánh giá của công chúng về việc đưa TTTP trên các kênh trên.
- Thứ ba, đánh giá ảnh hưởng của TTTP đó đối với công chúng ở Việt Nam.
Xin ông/bà hãy dành một ít phút để trả lời các câu hỏi dưới đây. Để trả lời, ông/bà
đọc kỹ câu hỏi và đưa ra câu trả lời bằng cách ghi thông tin vào những chỗ có dấu
“……………………” hoặc khoanh tròn vào số mã hóa được ghi trước mỗi phương án
trả lời hoặc theo hướng dẫn cụ thể của câu hỏi.
Tất cả những thông tin mà ông/bà cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu
khoa học và được đảm bảo tính khuyết danh khi công bố kết quả.
Trân trọng cảm ơn và mong ông/bà dành thời gian để trả lời phiếu khảo sát này.
2. TP. Hồ Chí Minh
3. Đắk Lắk
3. Khác
2. Nữ
(ghi theo năm dương lịch, ví dụ 1975) ..................
………/………/………….
Ngày khảo sát:
1. Hà Nội
Tỉnh/Thành phố:
……………………………….
Quận/huyện:
……………………………….
Xã/Phường:
Thôn/Khu dân cư: ……………………………….
PHẦN A: THÔNG TIN CHUNG
A1. Giới tính: 1. Nam
A2. Năm sinh:
A3. Xin ông/bà cho biết nghề nghiệp chính của ông/bà là gì? (nghề ông/bà dành nhiều
thời gian nhất)
1. Cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước 6. Sinh viên
2. Buôn bán, dịch vụ
3. Lao động tự do
4. Công nhân nhà máy
5. Cán bộ hưu trí
7. Thợ thủ công
8. Nông dân
9.Nội trợ, không làm việc
10. Khác (ghi rõ) ………
A4. Trình độ học vấn cao nhất của ông/bà là gì?
4. Cao đẳng, đại học
5. Sau đại học
6. Khác (ghi rõ) …………………
1. Tiểu học
2. Trung học cơ sở
3. Phổ thông trung học
4. Trung học chuyên nghiệp
A5. Tình trạng hôn nhân của ông/bà?
5. Khác (ghi rõ) …...…..
3. Li thân/Li hôn
4. Góa
1. Chưa kết hôn
2. Đã có vợ/chồng
3. Trung bình
2. Khá giả
1. Giàu có
A6. Ông/bà tự đánh giá mức sống của ông/bà ở mức nào?
4. Thấp
PHẦN B: THỰC TRẠNG TIẾP CẬN TTTP TRÊN KÊNH VTV1 VÀ ANTV
B1. Mức độ ông/bà tiếp cận thông tin trên kênh truyền hình VTV1 và ANTV trong
năm 2016-2017?
Kênh
Vài lần/
tuần
2
2
Vài lần/
tháng
3
3
Vài lần/
năm
4
4
Hiếm khi Không
bao giờ
9
9
5
5
Hàng
ngày
1
1
1. VTV1
2. ANTV
B2. Mức độ ông/bà tiếp cận thông tin trên các chương trình sau của VTV1 và ANTV
trong năm 2016-2017?
Chương trình
Hàng
ngày
1
Vài lần/
tuần
2
Vài lần/
tháng
3
Vài lần/
năm
4
Hiếm
khi
5
Không
bao giờ
9
1
1
2
2
3
3
4
4
5
5
9
9
2
1
3
4
5
9
2
1
3
4
5
9
1. Chuyển động 24h
(VTV1)
2. Thời sự 19h (VTV1)
3. An ninh ngày mới
(06h00) (ANTV)
4. 113 online (11h30)
(ANTV)
5. Thời sự an ninh (18h15)
(ANTV)
B3. Mức độ quan tâm của ông/bà đến những thông tin về tội phạm như thế nào?
1. Rất quan tâm
3. Ít quan tâm
2. Khá quan tâm
B4. Ông/bà theo dõi thông tin về tội phạm từ nguồn thông tin nào là chủ yếu? (chọn tối
đa 03 phương án, sắp xếp theo trật tự ưu tiên 1, 2, 3)
4. Truyền thông xã hội/mạng xã hội (Youtube,
1. Đài phát thanh
Facebook…)
2. Báo in
3. Truyền hình
4. Báo mạng điện tử
5. Người thân, họ hàng
6. Bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp
7. Nguồn khác (ghi rõ) …………………………….
B5. Trong số những loại tội phạm dưới đây, theo ông/bà những loại tội phạm nào được
đề cập nhiều hơn trong các chương trình tin tức của VTV1 và ANTV? (Có thể chọn tối
đa 5 phương án)
Lưu ý: Xem phụ lục giải thích cụ thể các loại tội phạm ở phần cuối Phiếu khảo sát
ANTV
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
VTV1
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
12
13
14
15
Loại tội phạm
1. Xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người
2. Xâm phạm sở hữu
3. Tội phạm về ma túy
4. Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
5. Tội phạm về môi trường
6. Xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
7. Xâm phạm trật tự quản lý hành chính
8. Tội phạm về chức vụ
9. Xâm phạm hoạt động tư pháp
10. Xâm phạm an ninh quốc gia
11. Xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ
của công dân
12. Xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
13. Xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
14. Phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh
15. Tội phạm khác (ghi rõ): ………………………………...
……………………………………………………………….
B6. Ông/bà có theo dõi những vụ án sau trong năm 2016-2017?
1. Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch HĐND tỉnh Yên Bái bị bắn chết
2. Ông Hàn Đức Long (tử tù) được trả tự do sau 11 năm bị thi hành án phạt tù.
3. Vụ án 4 bà cháu bị sát hại ở Quảng Ninh
4. Vụ án 4 người trong một gia đình ở Lào Cai bị sát hại.
5. Hai nữ sinh bị tạt axit ở TP. Hồ Chí Minh
6. Xét xử đại án Ngân hàng Xây dựng (Phạm Công Danh và 35 bị cáo khác)
7. Cưỡng dâm và giết hai cháu bé, chôn xác trong vườn nhà ở Phú Yên
8. Vụ án giết 4 người ở Hà Giang
9. Ông Đinh La Thăng bị bắt tạm giam, truy tố vì tội cố ý làm trái
10. Vụ án Trịnh Xuân Thanh tham ô hơn 18 tỉ đồng, bỏ trốn ra nước ngoài
11. Khởi tố, truy nã Vũ “Nhôm”, đại gia bất động sản tại Đà Nẵng
12. Kỹ sư điện dùng súng cướp ngân hàng tại Trà Vinh
13. Hoa hậu Phương Nga bị cáo buộc lừa đại gia Cao Toàn Mỹ 16,5 tỷ
14. Vụ nhập thuốc ung thư giả của VN PHARMAR
15. Đại án thất thoát 2.000 tỷ đồng tại Ngân hàng OCEANBANK
16. Hai tử tù Lê Văn Thọ và Nguyễn Văn Tình vượt ngục
17. Bà nội sát hại cháu 23 ngày tuổi tại Thanh Hóa
18. Sát hại chồng, phân nhỏ thi thể bỏ thùng rác tại Bình Dương
19. Vụ án khác (ghi rõ) …………………………………………………………
B7. Trong số những vụ án trên, ông/bà quan tâm nhất đến vụ án nào? (ghi rõ 1 vụ án
quan tâm nhất)
Tên vụ án: ………………………………………………………………………
5. Liên quan đến những người có chức vụ cao
6. Lí do khác (ghi rõ) ………………
B8. Lí do ông/bà quan tâm đến vụ án đó là gì? (có thể chọn nhiều phương án)
1. Mức độ nghiêm trọng của vụ án 4. Diễn biến phức tạp của vụ án
2. Để phòng ngừa, cảnh giác
3. Vụ án được đưa tin nhiều nhất
B9. Thông tin gì ông/bà muốn biết từ vụ án đó mà theo ông/bà các chương trình tin
tức trên VTV1 và ANTV không đề cập?
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
B10. Theo ông/bà, lí do mà VTV1 và ANTV không đề cập đến thông tin đó là gì?
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………………………..
B11. Ông/bà đánh giá như thế nào về việc đưa thông tin về vụ án trên trong các chương
trình tin tức của VTV1 và ANTV?
Đánh giá
1. Thông tin đầy đủ, đa dạng
2. Cập nhật kịp thời
3. Hình ảnh chân thực
4. Cách thức đưa tin hiệu quả
5. Dễ theo dõi, dễ hiểu
6. Có tính giáo dục, răn đe
7. Ý kiến khác (ghi rõ) ……………………………...
VTV1
1
2
3
4
5
6
7
ANTV
1
2
3
4
5
6
7
B12. Ông/bà đánh giá những ưu điểm trong việc thông tin về tội phạm trong các chương
trình của VTV1 và ANTV như thế nào? (có thể chọn nhiều phương án)
Ưu điểm
1. Cập nhập
2. Dễ hiểu
3. Khách quan, chân thực
4. Đầy đủ, bao quát
5. Thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật
6. Khác (ghi rõ) …………………….
VTV1
1
2
3
4
5
6
ANTV
1
2
3
4
5
6
B13. Theo ông/bà, những hạn chế trong việc đưa thông tin về tội phạm trong các
chương trình của VTV1 và ANTV là gì?
Hạn chế
Có
nhiều
Không
có
Có
nhiều
Không
có
VTV1
Có
một
số
2
2
2
2
2
2
2
2
ANTV
Có
một
số
2
2
2
2
2
2
2
2
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
3
3
3
3
3
3
3
3
3
3
3
3
3
3
3
3
1. Mang tính giật gân, câu khách
2. Phóng đại, thổi phồng
3. Đưa tin một chiều
4. Đưa những hình ảnh phản cảm
5. Thông tin chưa chính xác
6. Còn né tránh một số vụ việc
7. Thiếu tính định hướng
8. Khác (ghi rõ) …………………….
………………………………………
B14. Theo ông/bà, tình hình tội phạm trong khu vực ông/bà đang sinh sống diễn ra
trong năm 2016-2017 như thế nào?
9. Không biết
3. Ít
4. Không có
1 Rất nhiều
2. Nhiều
1. Nhận thức đầy đủ hơn về các loại tội phạm
2. Hiểu biết hơn về các khung hình phạt đối với các vụ phạm tội
3. Khiến tôi quan tâm hơn đến việc phòng, chống tội phạm
4. Tham gia tích cực hơn trong việc tuyên truyền phòng, chống tội phạm
5. Tin tưởng hơn vào bộ máy công quyền
6. Có kỹ năng để ngăn ngừa, phòng chống tội phạm
7. Có trách nhiệm hơn trong việc ngăn ngừa, tố giác tội phạm
8. Khác (ghi rõ) ……………………………………………………….
9. Không có ảnh hưởng tích cực nào
PHẦN C: ẢNH HƯỞNG CỦA TTTP TRÊN TH ĐỐI VỚI CÔNG CHÚNG
C1. Những thông tin về tội phạm trong các chương trình trên kênh VTV1 và ANTV
năm 2016-2017 ảnh hưởng tích cực như thế nào đến ông/bà? (có thể chọn nhiều phương
án)
C2. Những thông tin về tội phạm trong các chương trình trên kênh VTV1 và ANTV năm
2016-2017 ảnh hưởng tiêu cực như thế nào đến ông/bà? (có thể chọn nhiều phương án)
1. Gây hoang mang, lo lắng hoặc cảm thấy không an toàn
2. Không tin, hoặc giảm lòng tin vào bộ máy công quyền
3. Không tin tưởng hoặc giảm lòng tin đối với con người
4. Cảm thấy đạo đức xuống cấp
5. Khác (ghi rõ) ……………………………………………………….
9. Không có ảnh hưởng tiêu cực nào
C3. Thông tin và cách thức đưa thông tin về tội phạm trên VTV1 và ANTV theo ông/bà
ảnh hưởng đến tình hình phạm tội như thế nào?
1. Có tác dụng răn đe, giáo dục làm giảm tình hình phạm tội
2. Không ảnh hưởng gì đến tình hình phạm tội
3. Có thể dẫn đến số vụ phạm tội tăng lên do bắt chước
4. Ý kiến khác (ghi rõ) ………………………………………………………
C4. Lí do ông/bà đưa ra nhận định trên là gì?…………………………………………
C5. Sau khi ông/bà tiếp nhận thông tin về tội phạm trên VTV1 và ANTV, ông/bà có
thường trao đổi thông tin đó với ai khác không (thành viên gia đình, người thân, hàng
xóm…)?
1. Có, thường xuyên
2. Có, thỉnh thoảng
3. Hiếm khi
4. Không bao giờ
4. Bạn bè
5. Đồng nghiệp
6. Người khác (ghi rõ) ………………
9. Không trao đổi với ai
1. Người thân trong gia đình
2. Họ hàng
3. Hàng xóm
C6. Người mà ông/bà thường trao đổi tin tức về tội phạm là ai? (Chọn tối đa 2 phương
án trao đổi nhiều nhất)
C7. Ông/bà có đề xuất gì để thông tin về tội phạm trên kênh VTV1 và ANTV đạt hiệu
quả hơn?
Đề xuất
VTV1
1
2
3
4
ANTV
1
2
3
4
1. Tăng thời lượng đưa tin về tội phạm
2. Tăng chương trình chuyên đề về tội phạm
3. Đổi mới cách đưa thông tin về tội phạm
4. Tăng cường phổ biến, tuyên truyền pháp luật, quy
định liên quan đến phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm
5. Ý kiến khác (ghi rõ) ………………………………...
5
5
C8. Ông/bà, có thể giải thích rõ hơn về đề xuất trên của ông/bà?……………….………
………………………………………………………………………….……………………
Xin trân trọng cảm ơn ông/bà đã tham gia trả lời./.
2. ANTV
3. An ninh ngày mới (06h00)
4. 113 Online (11h30)
5. Thời sự an ninh (18h15)
BẢNG MÃ PHÂN TÍCH THÔNG TIN VỀ TỘI PHẠM TRÊN TRUYỀN HÌNH
(VTV1 và ANTV)
Người mã hóa: ………………………….
Người giám sát:…………………………
A. VỀ HÌNH THỨC THÔNG TIN VÀ HÌNH THỨC THỂ HIỆN CỦA KÊNH THÔNG
TIN
A1. Tên kênh:
1.VTV1
A2. Tên chương trình:
1. Chuyển động 24h (11h15)
2. Thời sự 19h
A3. Nguồn tin:
1. Phóng viên/Biên tập viên
2. Cộng tác viên
3. Từ phương tiện thông tin đại chúng khác
4. Từ nguồn khác (ghi rõ)…………………………………………………..
A4. Ngày đưa tin: Ngày: ……Tháng: …….Năm: ……….
A5. Thể loại:
1. Tin
2. Bài phản ánh/Phóng sự
1. Ảnh tĩnh
2. Video
3. Biểu đồ
4. Sơ đồ
5. Đồ họa tĩnh
6. Đồ họa động/tương tác
8. Bảng
9. Khác (ghi rõ) ………………
A6. Hình ảnh minh họa trong tin bài là? (có thể chọn nhiều phương án)
B. HÌNH THỨC THỂ HIỆN VÀ NỘI DUNG CỦA TIN VỀ TỘI PHẠM
B1. Nội dung tin đề cập đến hoạt động nào liên quan đến tội phạm?
1. Thông tin về vụ việc, loại tội phạm
2. Thông tin về phương thức, thủ đoạn hoạt động
3. Thông tin về biện pháp phòng ngừa tội phạm
3. Khác (ghi rõ) ……………………………………………..
CÂU HỎI VỀ BỘ LUẬT HÌNH SỰ (Nếu tin không đề cập thì bỏ qua phần này, chuyển
đến B3)
B2. Nếu là thông tin về Bộ Luật hình sự, tin đề cập đến khía cạnh nào:
1. Thông tin về quá trình soạn thảo, xây dựng Bộ Luật
2. Thông tin về việc ban hành Bộ luật
3. Thông tin về việc sửa đổi nội dung trong Bộ Luật
4. Những ý kiến tranh luận, đề xuất nhằm điều chỉnh nội dung trong Bộ Luật
5. Khác (ghi rõ) ……………………………………….
CÂU HỎI VỀ MỘT VỤ PHẠM TỘI (Nếu tin không đề cập thì kết thúc)
B3. Tin, phóng sự đề cập đến vụ án nào sau đây?
1. Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch HĐND tỉnh Yên Bái bị bắn chết
2. Ông Hàn Đức Long (tử tù) được trả tự do sau 11 năm bị thi hành án phạt tù.
3. Vụ án 4 bà cháu bị sát hại ở Quảng Ninh
4. Vụ án 4 người trong một gia đình ở Lào Cai bị sát hại.
5. Hai nữ sinh bị tạt axit ở TP. Hồ Chí Minh
6. Xét xử đại án Ngân hàng Xây dựng (Phạm Công Danh và 35 bị cáo khác)
7. Cưỡng dâm và giết hai cháu bé, chôn xác trong vườn nhà ở Phú Yên
8. Vụ án giết 4 người ở Hà Giang
9. Ông Đinh La Thăng bị bắt tạm giam, truy tố vì tội cố ý làm trái
10. Vụ án Trịnh Xuân Thanh tham ô hơn 18 tỉ đồng, bỏ trốn ra nước ngoài
11. Khởi tố, truy nã Vũ “Nhôm”, đại gia bất động sản tại Đà Nẵng
12. Kỹ sư điện dùng súng cướp ngân hàng tại Trà Vinh
13. Hoa hậu Phương Nga bị cáo buộc lừa đại gia Cao Toàn Mỹ 16,5 tỷ
14. Vụ nhập thuốc ung thư giả của VN PHARMAR
15. Đại án thất thoát 2.000 tỷ đồng tại Ngân hàng OCEANBANK
16. Hai tử tù Lê Văn Thọ và Nguyễn Văn Tình vượt ngục
17. Bà nội sát hại cháu 23 ngày tuổi tại Thanh Hóa
18. Sát hại chồng, phân nhỏ thi thể bỏ thùng rác tại Bình Dương
19. Vụ án khác (ghi rõ) …………………………………………………………
B4. Nếu là thông tin về vụ phạm tội, tin bài đề cập đến tội phạm trong lĩnh vực nào sau
đây?
1. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia: Phản bội Tổ quốc; Hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân, Gián điệp; Bạo loạn; Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; Tuyên
truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam; Phá rối an ninh…
2. Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người: Giết người; Cố
ý gây thương tích; Hành hạ người khác; Hiếp dâm; Hiếp dâm trẻ em; Dâm ô đối với trẻ em;
Mua bán người;…
3. Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân: Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp
luật;…
4. Các tội xâm phạm sở hữu: Cướp tài sản; Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; Cưỡng đoạt tài
sản; Cướp giật tài sản; Công nhiên chiếm đoạt tài sản; trộm cắp tài sản; Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản; Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản…
5. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế: Buôn lậu; Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn
bán hàng cấm (pháo nổ); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả; Cho vay lãi nặng; Tội cố ý làm
trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng;…
6. Các tội phạm về môi trường: Gây ô nhiễm môi trường; Tội hủy hoại rừng…
7. Các tội phạm về ma túy: Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy; tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy;…
8. Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng: Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ (gây tai nạn chết người hoặc bị thương); Tội tổ chức đua xe trái phép;
5. Xét xử vụ án
6. Khác (ghi rõ) ……………………
Tội đua xe trái phép; Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; Vi phạm quy định về phòng
cháy, chữa cháy; Vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm; Gây rối trật tự công cộng;
Chứa mại dâm; Môi giới mại dâm…
9. Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính: Chống người thi hành công vụ; Làm giả con
dấu; Tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép; Xúc
phạm Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca…
10. Các tội phạm về chức vụ: Tham ô tài sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; Đưa hối lộ…
11. Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp: Dùng nhục hình; Bức cung; Thiếu trách nhiệm để
người bị giam, giữ trốn; Trốn khỏi nơi giam giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét
xử; Che giấu tội phạm; Không tố giác tội phạm…
11. Lĩnh vực khác (ghi rõ): …………………………………..
B5. Tin bài đề cập vụ việc đang ở giai đoạn nào?
1. Hành vi phạm tội được phát giác 4. Giai đoạn điều tra
2. Đã xác định được nghi can
3. Bắt giữ nghi can
B6. Thông tin đề cập đến những nội dung gì liên quan đến tội phạm?
1. Người phạm tội/bị tình nghi là tội phạm 5. Mức phạt, hình thức phạt
2. Nạn nhân (nếu có)
3. Nơi diễn ra hành vi phạm tội
4. Loại tội phạm
6. Khác (ghi rõ) ……………
1. Có
2. Không
2. Không
1. Có
B7. Trong tin, phóng sự có hình ảnh bạo lực hay không?
B8. Nếu có, nạn nhân bị bạo lực có được che mờ khuôn mặt?
B9. Tin, phóng sự có đề cập đến vụ phạm tội đó diễn ra ở đâu?
1. Tỉnh/thành phố: …………………………………..
2. Khu vực: 1. Nông thôn
2. Thành thị
3. Không xác định
1. Nam
2. Nữ
4. Không đề cập
3. Khác
B10. Giới tính của người phạm tội?
B11. Cách nêu danh người phạm tội trong tin là như thế nào?
1. Hắn
2. Tên này/tên đó (ví dụ tên Hùng, tên Nga….)
3. Chỉ đọc/viết tên (ví dụ: Hùng, Nga…..)
4. Họ tên đầy đủ (ví dụ: Lý Quảng Hùng, Lò Thị Nga…)
5. Xưng danh khác (ghi rõ, ví dụ ca sĩ, hoa hậu) ……………………………
PHIẾU THỰC NGHIỆM SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN TỘI PHẠM
Địa điểm thực hiện:…………………………………………
Tuổi: ...................................... ……………………………………………………………….
Giới tính: ............................... ……………………………………………………………….
Nghề nghiệp:………………………………………………………………………………..
HKTT: ................................... ……………………………………………………………….
1. Ông/Bà hiểu nội dung TTTP vừa xem như thế nào?
Hoàn toàn □
Vừa phải □
Còn ít □
Không hiểu □
2. Ông/Bà có tin tưởng nội dung TTTP vừa xem không?
Hoàn toàn □
Vừa phải □
Còn ít □
Không tin
□
□
Chưa biết
□
Không thay đổi □
Hoàn toàn □
Vừa phải □
Rất ít □
3. Ông/bà đã biết từ trước đó về những TTTP trên chưa?
Đã biết
4. ông/bà hãy đánh giá về mức độ thay đổi nhận thức về loại tội phạm đó so với trước đây?
5. Những TTTP trên có ảnh hưởng tiêu cực đến ông/bà không?
Có □
Không □
5.1. Nếu có, ông/bà hãy đánh giá về tác động tiêu cực mà thông tin trên mang lại?
Rất lớn □
Vừa phải □
Rất ít □
Không thay đổi □
6. Ông/Bà có rút ra được bài học từ các TTTP vừa xem?
Nhiều □
Rất ít □
Không □
Vừa phải □
7. Ông/bà có định tìm hiểu thêm thông tin về các kiến thức trên không?
Có □
Không □
8. Ông/bà có định chia sẻ thông tin trên, và áp dụng kiến thức mới có này vào thực tế
không?
Có □
Không □
9. Ông/bà định chia sẻ thông tin trên với ai?
Gia đình □
Bạn bè □
Chia sẻ trong cuộc họp □
PHỤ LỤC 2: BẢNG KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
Phụ lục 2.1. Kết quả phiếu khảo sát công chúng về ảnh hưởng của TTTP trên TH
(Trích lược)
Tỉnh, TP
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
33.7
65.9
100.0
Hà Nội
TP. HCM
Đắk Lắk
Total
33.7
32.3
34.1
100.0
33.7
32.3
34.1
100.0
172
165
174
511
Quận, huyện
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
17.0
36.2
54.8
68.5
85.1
100.0
Bắc Từ Liêm
Cư M’Ga
Nhà Bè
Quận 7
Tây Hồ
TP Buôn Ma Thuột
Total
17.0
19.2
18.6
13.7
16.6
14.9
100.0
17.0
19.2
18.6
13.7
16.6
14.9
100.0
87
98
95
70
85
76
511
Xã, phường
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
17.0
30.7
49.3
68.3
68.5
83.4
100.0
Cổ Nhuế 2
Phú Mỹ
Phước Kiển
Quảng Phú
Quảng Tiến
Tân Lợi
Yên Phụ
Total
17.0
13.7
18.6
19.0
0.2
14.9
16.6
100.0
87
70
95
97
1
76
85
511
17.0
13.7
18.6
19.0
0.2
14.9
16.6
100.0
Thôn, khu dân cư
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
0.6
1.2
12.1
31.3
41.7
47.7
57.9
66.3
66.5
67.1
76.7
84.3
90.6
98.6
100.0
1
2
3
45
8
Ấp 1
Ấp 4
KDC
Khối 7
TDP 2
TDP 4
TDP 6
TDP 6A
TDP 7
Total
0.6
0.6
11.0
19.2
10.4
6.1
10.2
8.4
0.2
0.6
9.6
7.6
6.3
8.0
1.4
100.0
0.6
0.6
11.0
19.2
10.4
6.1
10.2
8.4
0.2
0.6
9.6
7.6
6.3
8.0
1.4
100.0
3
3
56
98
53
31
52
43
1
3
49
39
32
41
7
511
Khu vực
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
45.2
100.0
Đô thị
Nông thôn
Total
231
280
511
45.2
54.8
100.0
45.2
54.8
100.0
A1. Giới tính
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
58.7
100.0
Nam
Nữ
Total
Missing System
Total
56.8
39.9
96.7
3.3
100.0
58.7
41.3
100.0
290
204
494
17
511
A2. Tuổi
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
35.7
66.9
100.0
<= 30 tuổi
31-45 tuổi
46 tuổi trở lên
Total
Missing System
Total
35.7
31.2
33.1
100.0
175
153
162
490
21
511
34.2
29.9
31.7
95.9
4.1
100.0
A3. Nghề nghiệp chính của người trả lời
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
26.3
134
26.2
26.3
Valid
39.8
53.7
57.5
74.5
83.3
85.1
92.4
97.8
100.0
Cán bộ, công chức, viên
chức Nhà nước
Buôn bán, dịch vụ
Lao động tự do
Công nhân nhà máy
Cán bộ hưu trí
Sinh viên
Thợ thủ công
Nông dân
Nội trợ, không làm việc
Khác
Total
Missing System
Total
13.5
13.9
3.7
17.1
8.8
1.8
7.3
5.5
2.2
100.0
69
71
19
87
45
9
37
28
11
510
1
511
13.5
13.9
3.7
17.0
8.8
1.8
7.2
5.5
2.2
99.8
0.2
100.0
A4. Trình độ học vấn cao nhất của người trả lời
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
3.3
18.0
43.9
Valid
73.9
96.3
100.0
Tiểu học
Trung học cơ sở
Phổ thông trung học
THCN
Cao đẳng, đại học
Sau đại học
Khác
Total
Missing System
Total
3.3
14.7
25.9
6.1
43.5
4.9
1.6
100.0
17
75
132
31
222
25
8
510
1
511
3.3
14.7
25.8
6.1
43.4
4.9
1.6
99.9
0.1
100.0
A5. Tình trạng hôn nhân của người trả lời
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
24.2
96.0
97.4
99.8
100.0
Chưa kết hôn
Đã có vợ/chồng
Li thân/Li hôn
Góa
Khác
Total
Missing System
Total
121
360
7
12
1
501
10
511
23.7
70.5
1.4
2.3
0.2
98.0
2.0
100.0
24.2
71.9
1.4
2.4
0.2
100.0
A6. Tự đánh giá mức sống của người trả lời
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
0.4
11.4
93.3
100.0
Giàu có
Khá giả
Trung bình
Thấp
Total
Missing System
Total
2
54
401
33
490
21
511
0.4
10.6
78.5
6.5
95.9
4.1
100.0
0.4
11.0
81.8
6.7
100.0
B1. Mức độ tiếp cận thông tin trên kênh truyền hình VTV1 trong năm 2016-2017
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
45.6
77.7
93.7
96.1
99.2
100.0
Hàng ngày
Vài lần/ tuần
Vài lần/ tháng
Vài lần/ năm
Hiếm khi
Không bao giờ
Total
233
164
82
12
16
4
511
45.6
32.1
16.0
2.3
3.1
0.8
100.0
45.6
32.1
16.0
2.3
3.1
0.8
100.0
B2. Mức độ tiếp cận thông tin trên kênh truyền hình ANTV trong năm 2016-2017
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
31.8
65.3
88.0
91.1
97.6
100.0
Hàng ngày
Vài lần/ tuần
Vài lần/ tháng
Vài lần/ năm
Hiếm khi
Không bao giờ
Total
Missing System
Total
161
170
115
16
33
12
507
4
511
31.5
33.3
22.5
3.1
6.5
2.3
99.2
0.8
100.0
31.8
33.5
22.7
3.2
6.5
2.4
100.0
Chuyển động 24h
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
Hàng ngày
Vài lần/ tuần
Vài lần/ tháng
Vài lần/ năm
Hiếm khi
172
186
101
19
18
33.7
36.4
19.8
3.7
3.5
34.3
37.1
20.1
3.8
3.6
34.3
71.3
91.4
95.2
98.8
100.0
Không bao giờ
Total
System
Total
6
502
9
511
1.2
98.2
1.8
100.0
1.2
100.0
Thời sự 19h
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
50.9
77.7
93.1
97.0
99.4
100.0
Hàng ngày
Vài lần/ tuần
Vài lần/ tháng
Vài lần/ năm
Hiếm khi
Không bao giờ
Total
Missing System
Total
258
136
78
20
12
3
507
4
511
50.5
26.6
15.3
3.9
2.3
0.6
99.2
.8
100.0
50.9
26.8
15.4
3.9
2.4
0.6
100.0
An ninh ngày mới
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
14.1
52.1
79.1
85.3
94.8
100.0
Hàng ngày
Vài lần/ tuần
Vài lần/ tháng
Vài lần/ năm
Hiếm khi
Không bao giờ
Total
Missing System
Total
13.9
37.4
26.6
6.1
9.4
5.1
98.4
1.6
100.0
14.1
38.0
27.0
6.2
9.5
5.2
100.0
71
191
136
31
48
26
503
8
511
113 online
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
20.0
53.4
76.0
84.5
95.6
100.0
Hàng ngày
Vài lần/ tuần
Vài lần/ tháng
Vài lần/ năm
Hiếm khi
Không bao giờ
Total
20.0
33.3
22.6
8.5
11.1
4.4
100.0
101
168
114
43
56
22
504
7
511
19.8
32.9
22.3
8.4
11.0
4.3
98.6
1.4
100.0
Missing System
Total
Thời sự an ninh
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
27.8
61.1
81.9
89.1
96.8
100.0
Hàng ngày
Vài lần/ tuần
Vài lần/ tháng
Vài lần/ năm
Hiếm khi
Không bao giờ
Total
Missing System
Total
27.8
33.3
20.8
7.1
7.7
3.2
100.0
140
168
105
36
39
16
504
7
511
27.4
32.9
20.5
7.0
7.6
3.1
98.6
1.4
100.0
B3. Mức độ quan tâm của người trả lời đến những thông tin về tội phạm
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
41.2
92.5
100.0
Rất quan tâm
Khá quan tâm
Ít quan tâm
Total
Missing System
Total
204
254
37
495
16
511
39.9
49.7
7.2
96.9
3.1
100.0
41.2
51.3
7.5
100.0
B4. Báo in
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
13.4
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
68
440
508
3
511
13.3
86.1
99.4
.6
100.0
13.4
86.6
100.0
Truyền hình
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
82.1
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
81.6
17.8
99.4
.6
100.0
82.1
17.9
100.0
417
91
508
3
511
Báo mạng điện tử
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
57.1
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
290
218
508
3
511
56.8
42.7
99.4
.6
100.0
57.1
42.9
100.0
Truyền thông xã hội/mạng xã hội
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
56.7
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
288
220
508
3
511
56.4
43.1
99.4
.6
100.0
56.7
43.3
100.0
Valid
Người thân, họ hàng
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
9.3
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
47
461
508
3
511
9.2
90.2
99.4
.6
100.0
9.3
90.7
100.0
B5. Xâm phạm nhân thân
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
58.7
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
297
209
506
5
511
58.1
40.9
99.0
1.0
100.0
58.7
41.3
100.0
Xâm phạm sở hữu
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
43.7
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
221
285
506
5
511
43.2
55.8
99.0
1.0
100.0
43.7
56.3
100.0
Mua bán, sử dụng, vận chuyển ma túy
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
72.1
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
71.4
27.6
99.0
1.0
100.0
72.1
27.9
100.0
365
141
506
5
511
Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
53.0
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
52.4
46.6
99.0
1.0
100.0
53.0
47.0
100.0
268
238
506
5
511
Tội phạm về môi trường
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
49.0
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
248
258
506
5
511
48.5
50.5
99.0
1.0
100.0
49.0
51.0
100.0
Xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
26.3
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
133
373
506
5
511
26.0
73.0
99.0
1.0
100.0
26.3
73.7
100.0
Xâm phạm trật tự quản lý hành chính
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
18.4
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
18.2
80.8
99.0
1.0
100.0
18.4
81.6
100.0
93
413
506
5
511
B6. Bí thư - Chủ tịch HĐND Yên Bái bị bắn
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
60.8
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
60.8
39.2
100.0
60.5
38.9
99.4
0.6
100.0
309
199
508
3
511
Ông Hàn Đức Long (tử tù) được trả tự do sau 11 năm bị giam cầm
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
27.6
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
140
368
508
3
511
27.4
72.0
99.4
0.6
100.0
27.6
72.4
100.0
Vụ án 4 bà cháu bị sát hại ở Quảng Ninh
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
40.2
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
40.2
59.8
100.0
39.9
59.5
99.4
0.6
100.0
204
304
508
3
511
Vụ án 4 người trong một gia đình ở Lào Cai bị sát hại
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
40.2
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
204
304
508
3
511
39.9
59.5
99.4
0.6
100.0
40.2
59.8
100.0
Hai nữ sinh bị tạt axit ở TP Hồ Chí Minh
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
24.0
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
122
386
508
3
511
23.9
75.5
99.4
0.6
100.0
24.0
76.0
100.0
Xét xử đại án Ngân hàng xây dựng (Phạm Công Danh và 35 bị cáo khác)
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
37.4
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
190
318
508
3
511
37.2
62.2
99.4
0.6
100.0
37.4
62.6
100.0
Cưỡng dâm và giết hai cháu bé, chôn xác trong vườn nhà ở Phú Yên
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
26.4
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
26.4
73.6
100.0
26.2
73.2
99.4
0.6
100.0
134
374
508
3
511
Ông Đinh La Thăng bị bắt tạm giam, truy tố vì cố ý làm trái
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
82.7
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
82.7
17.3
100.0
82.2
17.2
99.4
0.6
100.0
420
88
508
3
511
Vụ án Trịnh Xuân Thanh tham ô hơn 18 tỉ đồng, bỏ trốn ra nước ngoài
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
70.9
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
70.9
29.1
100.0
70.5
29.0
99.4
0.6
100.0
360
148
508
3
511
Khởi tố, truy nã Vũ “Nhôm”, đại gia bất động sản tại Đà Nẵng
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
64.6
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
328
180
508
3
511
64.2
35.2
99.4
0.6
100.0
64.6
35.4
100.0
Hoa hậu Phương Nga bị cáo buộc lừa đại gia Cao Toàn Mỹ 16,5 tỷ
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
38.2
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
194
314
508
3
511
38.0
61.4
99.4
0.6
100.0
38.2
61.8
100.0
Vụ nhập thuốc ung thư giả của VN PHARMAR
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
49.0
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
48.7
50.7
99.4
0.6
100.0
49.0
51.0
100.0
249
259
508
3
511
Đại án thất thoát 2000 tỷ đồng tại OCEANBANK
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
35.6
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
181
327
508
3
511
35.4
64.0
99.4
0.6
100.0
35.6
64.4
100.0
Hai tử tù Lê Văn Thọ và Nguyễn Văn Tình vượt ngục
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
27.6
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
140
368
508
3
511
27.4
72.0
99.4
0.6
100.0
27.6
72.4
100.0
B7. Vụ án người trả lời quan tâm nhất
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
7.0
7.4
9.3
11.7
13.3
14.1
16.7
19.3
48.5
59.8
71.4
71.6
74.2
84.5
87.7
88.3
92.2
99.6
100.0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
Total
Missing System
Total
35
2
10
12
8
4
13
13
147
57
58
1
13
52
16
3
20
37
2
503
8
511
6.8
.4
2.0
2.3
1.6
0.8
2.5
2.5
28.8
11.2
11.4
0.2
2.5
10.2
3.1
0.6
3.9
7.2
0.4
98.4
1.6
100.0
7.0
.4
2.0
2.4
1.6
0.8
2.6
2.6
29.2
11.3
11.5
0.2
2.6
10.3
3.2
0.6
4.0
7.4
0.4
100.0
B11. Thông tin đầy đủ, đa dạng
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
56.9
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
286
217
503
8
511
56.0
42.5
98.4
1.6
100.0
56.9
43.1
100.0
Cập nhật kịp thời
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
55.3
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
278
225
503
8
511
54.4
44.0
98.4
1.6
100.0
55.3
44.7
100.0
Valid
Hình ảnh chân thực
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
27.6
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
27.2
71.2
98.4
1.6
100.0
27.6
72.4
100.0
139
364
503
8
511
Cách thức đưa tin hiệu quả
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
41.6
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
209
294
503
8
511
40.9
57.5
98.4
1.6
100.0
41.6
58.4
100.0
Valid
Dễ theo dõi, dễ hiểu
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
56.3
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
283
220
503
8
511
55.4
43.1
98.4
1.6
100.0
56.3
43.7
100.0
Valid
Có tính giáo dục, răn đe
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
56.1
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
282
221
503
8
511
55.2
43.2
98.4
1.6
100.0
56.1
43.9
100.0
Ý kiến khác
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
1.2
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
6
497
503
8
511
1.2
97.3
98.4
1.6
100.0
1.2
98.8
100.0
Thông tin đầy đủ, đa dạng
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
60.2
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
299
198
497
14
511
58.5
38.7
97.3
2.7
100.0
60.2
39.8
100.0
Cập nhật kịp thời
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
59.6
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
296
201
497
14
511
59.6
40.4
100.0
Valid
57.9
39.3
97.3
2.7
100.0
Hình ảnh chân thực
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
32.8
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
163
334
497
14
511
31.9
65.4
97.3
2.7
100.0
32.8
67.2
100.0
Cách thức đưa tin hiệu quả
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
40.8
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
203
294
497
14
511
39.7
57.5
97.3
2.7
100.0
40.8
59.2
100.0
Valid
Dễ theo dõi, dễ hiểu
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
62.8
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
312
185
497
14
511
61.1
36.2
97.3
2.7
100.0
62.8
37.2
100.0
Valid
Có tính giáo dục, răn đe
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
67.0
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
67.0
33.0
100.0
65.2
32.1
97.3
2.7
100.0
333
164
497
14
511
Ý kiến khác
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
2.4
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
2.4
97.6
100.0
2.3
94.9
97.3
2.7
100.0
12
485
497
14
511
B12. Cập nhật
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
49.5
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
49.5
50.5
100.0
48.7
49.7
98.4
1.6
100.0
249
254
503
8
511
Dễ hiểu
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
60.6
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
60.6
39.4
100.0
59.7
38.7
98.4
1.6
100.0
305
198
503
8
511
Valid
Khách quan, chân thực
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
38.0
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
38.0
62.0
100.0
37.4
61.1
98.4
1.6
100.0
191
312
503
8
511
Đầy đủ, bao quát
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
35.4
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
35.4
64.6
100.0
34.8
63.6
98.4
1.6
100.0
178
325
503
8
511
Thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
59.8
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
58.9
39.5
98.4
1.6
100.0
59.8
40.2
100.0
301
202
503
8
511
Cập nhật
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
51.1
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
254
243
497
14
511
49.7
47.6
97.3
2.7
100.0
51.1
48.9
100.0
Dễ hiểu
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
68.2
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
68.2
31.8
100.0
66.3
339
30.9
158
97.3
497
2.7
14
511
100.0
Khách quan, chân thực
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
41.6
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
207
290
497
14
511
40.5
56.8
97.3
2.7
100.0
41.6
58.4
100.0
Đầy đủ, bao quát
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
44.1
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
219
278
497
14
511
42.9
54.4
97.3
2.7
100.0
44.1
55.9
100.0
Thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
74.4
100.0
Có
Không
Total
Missing System
Total
370
127
497
14
511
72.4
24.9
97.3
2.7
100.0
74.4
25.6
100.0
B14. Tình hình tội phạm trong khu vực người trả lời đang sinh sống diễn ra trong năm
2016-2017
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
6.3
22.4
89.3
93.5
100.0
Rất nhiều
Nhiều
ít
Không có
Không biết
Total
Missing System
Total
6.3
16.0
66.9
4.2
6.5
100.0
32
81
338
21
33
505
6
511
6.3
15.9
66.1
4.1
6.5
98.8
1.2
100.0
C1. Nhận thức đầy đủ hơn về các loại tội phạm
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
100.0
100.0
Valid
431
84.3
Nhận thức đầy đủ hơn
về các loại tội phạm
Missing System
Total
80
511
15.7
100.0
Hiểu biết hơn về các khung hình phạt đối với các hành vi phạm tội
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
44.2
100.0
100.0
226
Hiểu biết hơn về các
khung hình phạt đối với
các hành vi phạm tội
Missing System
Total
285
511
55.8
100.0
Khiến tôi quan tâm hơn đến việc phòng, chống tội phạm
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
289
56.6
100.0
100.0
Khiến tôi quan tâm hơn
đến việc phòng, chống
tội phạm
Missing System
Total
222
511
43.4
100.0
Tham gia tích cực hơn trong việc tuyên truyền phòng, chống tội phạm
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
40.3
100.0
100.0
206
Tham gia tích cực hơn
trong việc tuyên truyền
phòng, chống tội phạm
Missing System
Total
305
511
59.7
100.0
Tin tưởng hơn vào bộ máy công quyền
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
100.0
100.0
169
33.1
Tin tưởng hơn vào bộ
máy công quyền
Missing System
Total
342
511
66.9
100.0
Có kỹ năng để ngăn ngừa, phòng chống tội phạm
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
52.3
100.0
100.0
267
Có kỹ năng để ngăn
ngừa, phòng chống tội
phạm
Missing System
Total
244
511
47.7
100.0
Có trách nhiệm hơn trong việc ngăn ngừa, tố giác tội phạm
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
45.8
100.0
100.0
234
Có trách nhiệm hơn
trong việc ngăn ngừa, tố
giác tội phạm
Missing System
Total
277
511
54.2
100.0
C2. Gây hoang mang, lo lắng hoặc cảm thấy không an toàn
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
39.7
100.0
100.0
203
Gây hoang mang, lo
lắng hoặc cảm thấy
không an toàn
Missing System
Total
308
511
60.3
100.0
Không tin, hoặc giảm lòng tin vào bộ máy công quyền
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
80
15.7
100.0
100.0
Không tin, hoặc giảm
lòng tin vào bộ máy
công quyền
Missing System
Total
431
511
84.3
100.0
Không tin tưởng hoặc giảm lòng tin đối với con người
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
94
18.4
100.0
100.0
Không tin tưởng hoặc
giảm lòng tin đối với
con người
Missing System
Total
417
511
81.6
100.0
Cảm thấy đạo đức xuống cấp
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
100.0
100.0
283
55.4
Cảm thấy đạo đức
xuống cấp
Missing System
Total
228
511
44.6
100.0
Không có ảnh hưởng tiêu cực nào
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
100.0
100.0
51
10.0
Không có ảnh hưởng
tiêu cực nào
Missing System
Total
460
511
90.0
100.0
C3. Ảnh hưởng đến tình hình phạm tội
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
82.7
416
81.4
82.7
93.0
52
10.2
10.3
Valid
99.2
31
6.1
6.2
100.0
Có tác dụng răn đe, giáo
dục làm giảm tình trạng
phạm tội
Không ảnh hưởng gì
đến tình trạng phạm tội
Có thể dẫn đến số vụ
phạm tội tăng lên do bắt
chước
Ý kiến khác
Total
Missing System
Total
4
503
8
511
.8
98.4
1.6
100.0
.8
100.0
C5. Mức độ người trả lời trao đổi thông tin về tội phạm với người khác
Valid
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
56.4
93.5
99.8
100.0
Có, thường xuyên
Có, thỉnh thoảng
Hiếm khi
Không bao giờ
Total
286
188
32
1
507
4
511
56.0
36.8
6.3
.2
99.2
.8
100.0
56.4
37.1
6.3
.2
100.0
Missing System
Total
C6. Người thân trong gia đình
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
100.0
100.0
Người thân trong gia
đình
382
129
511
74.8
25.2
100.0
Valid
Missing System
Total
Họ hàng
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
100.0
100.0
11.9
88.1
100.0
Họ hàng
Valid
Missing System
Total
61
450
511
Hàng xóm
Hàng xóm
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
100.0
143
368
28.0
72.0
100.0
100.0
511
Valid
Missing System
Total
Bạn bè
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
100.0
100.0
264
247
511
51.7
48.3
100.0
Valid
Bạn bè
Missing System
Total
Đồng nghiệp
Đồng nghiệp
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
100.0
100.0
113
398
511
22.1
77.9
100.0
Valid
Missing System
Total
Phụ lục 2.2: Kết quả khảo sát tin bài phát sóng trên VTV1 và ANTV trong năm 2016-2017
A1. Tên kênh
Valid
VTV1
ANTV
Total
Frequency
364
6085
6449
Percent Valid Percent Cumulative Percent
5.6
5.6
94.4
100.0
100.0
5.6
94.4
100.0
A2. Tên chương trình
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
232
3.6
3.6
3.6
Valid
132
1799
2888
2.0
27.9
44.8
2.0
27.9
44.8
5.6
33.5
78.3
1398
21.7
21.7
100.0
1. Chuyển động 24h
(11h15)
2. Thời sự 19h
3. ANNM (06h00)
4.113 online (11h30)
5. Thời sự an ninh
(18h15)
Total
100.0
100.0
6449
A3. Nguồn tin
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
1437
22.3
22.3
22.3
4866
75.5
75.5
97.7
Valid
14
0.2
0.2
98.0
132
2.0
2.0
100.0
1. Phóng viên/Biên
tập viên
2. Cộng tác viên
3. Từ phương tiện
thông tin đại chúng
khác
4. Từ nguồn khác (ghi
rõ)
Total
100.0
100.0
6449
A5. Thể loại
Frequency
5611
Percent Valid Percent Cumulative Percent
87.0
87.0
87.0
838
13.0
13.0
Valid
100.0
6449
100.0
100.0
1. Tin
2. Bài phản
ánh/Phóng sự
Total
A6. Hình ảnh minh họa trong tin bài
Frequency
541
5895
2
3
Percent Valid Percent Cumulative Percent
8.4
8.4
99.8
91.4
99.8
.0
99.9
.0
8.4
91.4
.0
.0
Valid
2
.0
.0
99.9
100.0
6
6449
0.1
100.0
1. Ảnh tĩnh
2. Video
3. Biểu đồ
5. Đồ họa tĩnh
6. Đồ họa
động/tương tác
8. Khác (ghi rõ) …
Total
0.1
100.0
B1. Nội dung tin đề cập đến hoạt động nào liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
100.0
100.0
6312
97.9
Valid
1. Thông tin về vụ
việc, loại tội phạm
System
137
6449
2.1
100.0
Missing
Total
B1. Nội dung tin đề cập đến hoạt động nào liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
1636
25.5
100.0
100.0
2. Thông tin về
phương thức, thủ
đoạn hoạt động
System
Missing
Total
4813
6449
74.5
100.0
B1. Nội dung tin đề cập đến hoạt động nào liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
1193
18.5
100.0
100.0
3. Thông tin về
biện pháp phòng
ngừa tội phạm
System
Missing
Total
5256
6449
81.5
6449
100.0
B1. Nội dung tin đề cập đến hoạt động nào liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
3
.0
100.0
100.0
4. Khác (ghi rõ)
…………
System
Missing
Total
6446
6449
100.0
100.0
B4. Nếu là thông tin về vụ phạm tội, tin bài đề cập đến tội phạm trong lĩnh vực nào sau đây?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
47
0.7
0.7
0.7
1341
20.8
20.8
21.5
49
0.8
0.8
22.3
1903
29.5
29.5
51.8
626
9.7
9.7
61.5
Valid
160
2.5
2.5
64.0
1168
18.1
18.1
82.1
857
13.3
13.3
95.4
180
2.8
2.8
98.2
106
1.6
1.6
99.9
1. Các tội xâm phạm
an ninh quốc gia
2. Các tội xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự
con người
3. Các tội xâm phạm
quyền tự do, dân chủ
của công dân
4. Các tội xâm phạm
sở hữu
5. Các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế
6. Các tội phạm về
môi trường
7. Các tội phạm về
ma túy
8. Các tội xâm phạm
an toàn công cộng,
trật tự công cộng
9. Các tội xâm phạm
trật tự quản lý hành
chính
10. Các tội phạm về
chức vụ
100.0
8
0.1
0.1
11. Các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp
Total
Missing System
Total
6445
4
6449
99.9
0.1
100.0
100.0
B5. Tin bài đề cập vụ việc đang ở giai đoạn nào?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
20.9
1069
16.6
20.9
22.6
85
1.3
1.7
Valid
65.7
94.6
99.9
100.0
1. Hành vi phạm tội
được phát giác
2. Đã xác định được
nghi can
3. Bắt giữ nghi can
4. Giai đoạn điều tra
5. Xét xử vụ án
6. Khác (ghi rõ) …
Total
2197
1477
269
7
5104
1345
6449
34.1
22.9
4.2
0.1
79.1
20.9
100.0
43.0
28.9
5.3
0.1
100.0
Missing System
Total
B6. Thông tin đề cập đến những nội dung gì liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
100.0
100.0
761
11.8
2. Nạn nhân (nếu
có)
System
Missing
Total
5688
6449
88.2
100.0
B6. Thông tin đề cập đến những nội dung gì liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
100.0
100.0
3094
48.0
3. Nơi diễn ra
hành vi phạm tội
System
Missing
Total
3355
6449
52.0
100.0
B6. Thông tin đề cập đến những nội dung gì liên quan đến tội phạm?
Percent Valid Percent Cumulative Percent
100.0
100.0
4. Loại tội phạm
System
Valid
Missing
Total
Frequency
3993
2456
6449
61.9
38.1
100.0
B6. Thông tin đề cập đến những nội dung gì liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
100.0
100.0
353
5.5
7. Mức phạt, hình
thức phạt
System
Missing
Total
6096
6449
94.5
100.0
B6. Thông tin đề cập đến những nội dung gì liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
100.0
100.0
1
.0
8. Khác (ghi rõ)
:...
System
Missing
Total
6448
6449
100.0
100.0
B4. Trong tin, phóng sự có hình ảnh bạo lực hay không?
Valid
1. Có
2. Không
Total
Frequency
20
6429
6449
Percent Valid Percent Cumulative Percent
0.3
0.3
99.7
100.0
100.0
0.3
99.7
100.0
B5. Nếu có, nạn nhân bị bạo lực có được che mờ khuôn mặt?
Valid
1. Có
2. Không
Total
System
Missing
Total
Frequency
13
7
20
6429
6449
Percent Valid Percent Cumulative Percent
65.0
65.0
35.0
100.0
100.0
0.2
0.1
0.3
99.7
100.0
B6. Thông tin đề cập đến những nội dung gì liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
100.0
100.0
Valid
3449
53.5
1. Người phạm tội/bị
tình nghi là tội phạm
Missing System
Total
3000
6449
46.5
100.0
B6. Thông tin đề cập đến những nội dung gì liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
3449
53.5
100.0
100.0
1. Người phạm
tội/bị tình nghi là
tội phạm
System
Missing
Total
3000
6449
46.5
100.0
B6. Thông tin đề cập đến những nội dung gì liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
100.0
100.0
761
11.8
2. Nạn nhân (nếu
có)
System
Missing
Total
5688
6449
88.2
100.0
B6. Thông tin đề cập đến những nội dung gì liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
100.0
100.0
3094
48.0
3. Nơi diễn ra
hành vi phạm tội
System
Missing
Total
3355
6449
52.0
100.0
B6. Thông tin đề cập đến những nội dung gì liên quan đến tội phạm?
Percent Valid Percent Cumulative Percent
100.0
100.0
4. Loại tội phạm
System
Valid
Missing
Total
Frequency
3993
2456
6449
61.9
38.1
100.0
B6. Thông tin đề cập đến những nội dung gì liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
353
5.5
100.0
100.0
7. Mức phạt, hình
thức phạt
System
Missing
Total
6096
6449
94.5
100.0
B6. Thông tin đề cập đến những nội dung gì liên quan đến tội phạm?
Frequency
Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid
100.0
100.0
1
0.0
8. Khác (ghi rõ)
:...
System
Missing
Total
6448
6449
100.0
100.0
B7.Tin, phóng sự có đề cập đến vụ phạm tội đó diễn ra ở đâu?
Valid
1. Nông thôn
2. Thành thị
3. Không xác định
Total
Frequency
4214
1697
538
6449
Percent Valid Percent Cumulative Percent
65.3
65.3
91.7
26.3
100.0
8.3
100.0
65.3
26.3
8.3
100.0
B8 Giới tính của người phạm tội?
Valid
1. Nam
2. Nữ
3. Cả nam và nữ
4. Không đề cập
Total
Frequency
5361
348
210
530
6449
Percent Valid Percent Cumulative Percent
83.1
83.1
88.5
5.4
91.8
3.3
100.0
8.2
100.0
83.1
5.4
3.3
8.2
100.0
B9. Cách nêu danh người phạm tội trong tin là như thế nào?
Frequency
252
179
732
3016
Percent Valid Percent Cumulative Percent
3.9
3.9
6.7
2.8
18.0
11.4
64.8
46.8
3.9
2.8
11.4
46.8
Valid
2237
34.7
34.7
99.5
100.0
1. Hắn
2. Tên này/tên đó
3. Chỉ đọc/viết tên
4. Họ tên đầy đủ
5. Xưng danh khác
(ghi rõ, ví dụ ca sĩ,
hoa hậu)
Không đề cập
Total
33
6449
0.5
100.0
0.5
100.0
Phụ lục 2.3: Kết quả khảo sát phiếu nghiên cứu thực nghiệm
Valid
Đắk Lắk
Hà Nội
TP HCM
Total
Frequency
43
44
46
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
32.3
32.3
65.4
33.1
34.6
100.0
100.0
32.3
33.1
34.6
100.0
Huyện
Valid
Bắc Từ Liêm
Cư M’gar
Nhà Bè
Quận 7
Tây Hồ
TP Buôn Ma Thuột
Total
Frequency
21
22
24
22
23
21
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
15.8
15.8
32.3
16.5
50.4
18.0
66.9
16.5
84.2
17.3
100.0
15.8
100.0
15.8
16.5
18.0
16.5
17.3
15.8
100.0
Xã
Valid
Cổ Nhuế 2
Phú Mỹ
Phước Kiển
Quảng Phú
Tân Lợi
Yên Phụ
Total
Frequency
21
22
24
22
21
23
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
15.8
15.8
32.3
16.5
50.4
18.0
66.9
16.5
82.7
15.8
17.3
100.0
100.0
15.8
16.5
18.0
16.5
15.8
17.3
100.0
Khu vực
Valid
Nông thôn
Đô thị
Total
Frequency
67
66
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
50.4
50.4
49.6
100.0
100.0
50.4
49.6
100.0
Thôn
Valid
1
2
3
45
8
Ấp 1
Ấp 4
TDP 2
TDP 4
TDP 6
TDP 6A
Total
Percent Valid Percent Cumulative Percent
23.3
23.3
30.1
6.8
42.1
12.0
48.1
6.0
54.1
6.0
61.7
7.5
68.4
6.8
75.2
6.8
82.0
6.8
88.0
6.0
94.0
6.0
6.0
100.0
100.0
23.3
6.8
12.0
6.0
6.0
7.5
6.8
6.8
6.8
6.0
6.0
6.0
100.0
Frequency
31
9
16
8
8
10
9
9
9
8
8
8
133
Giới tính
Valid
Nam
Nữ
Total
Percent Valid Percent Cumulative Percent
78.2
78.2
100.0
21.8
100.0
78.2
21.8
100.0
Frequency
104
29
133
Nhóm tuổi
Valid
Dưới 30 tuổi
từ 31-45 tuổi
Từ 46 tuổi trở lên
Total
Percent Valid Percent Cumulative Percent
4.5
4.5
31.6
27.1
68.4
100.0
100.0
4.5
27.1
68.4
100.0
Frequency
6
36
91
133
Nghề nghiệp
Valid
Cán bộ
Làm ruộng
nghỉ hưu
tự do
Total
Frequency
30
86
8
9
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
22.6
22.6
87.2
64.7
93.2
6.0
6.8
100.0
100.0
22.6
64.7
6.0
6.8
100.0
1. Hiểu nội dung tội phạm vừa xem như thế nào
Valid
Hoàn toàn
Vừa phải
Còn ít
Total
Frequency
76
49
8
133
57.1
36.8
6.0
100.0
Percent Valid Percent Cumulative Percent
57.1
57.1
94.0
36.8
6.0
100.0
100.0
2. Tin tưởng vào nội dung thông tin vừa xem không
Valid
Hoàn toàn
Vừa phải
Còn ít
Total
Frequency
119
10
4
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
89.5
89.5
97.0
7.5
3.0
100.0
100.0
89.5
7.5
3.0
100.0
3. Đã biết về TTTP trên chưa
Valid
Đã biết
Chưa biết
Total
Frequency
119
14
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
89.5
89.5
10.5
100.0
100.0
89.5
10.5
100.0
4. Đánh giá mức độ thay đổi nhận thức về loại tội phạm đó so với trước khi xem
Valid
Hoàn toàn
Vừa phải
Rất ít
Không thay đổi
Total
Frequency
63
54
4
12
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
47.4
47.4
88.0
40.6
91.0
3.0
9.0
100.0
100.0
47.4
40.6
3.0
9.0
100.0
5. Những thông tin trên có ảnh hưởng tiêu cực không
Valid
Có
Không
Total
Frequency
60
73
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
45.1
45.1
54.9
100.0
100.0
45.1
54.9
100.0
5.1. Đánh giá tác động tiêu cực mang lại
Valid
Rất lớn
Vừa phải
Rất ít
Total
System
Missing
Total
Frequency
12
10
38
60
73
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
20.0
20.0
36.7
16.7
63.3
100.0
100.0
9.0
7.5
28.6
45.1
54.9
100.0
6. Bài học rút ra sau khi xem
Valid
Nhiều
Vừa phải
Total
Frequency
119
14
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
89.5
89.5
10.5
100.0
100.0
89.5
10.5
100.0
7. Có ý định tìm hiểu thêm thông tin
Valid
Có
Không
Total
Frequency
129
4
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
97.0
97.0
3.0
100.0
100.0
97.0
3.0
100.0
8. Định chia sẻ lại thông tin trên không
Valid
Có
Frequency
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
100.0
100.0
100.0
Valid
Gia đình
Bạn bè
Chia sẻ trong cuộc họp
Total
9.1. Định chia sẻ lại với ai
Frequency
116
9
8
133
Percent Valid Percent Cumulative Percent
87.2
87.2
94.0
6.8
6.0
100.0
100.0
87.2
6.8
6.0
100.0
Percent Valid Percent Cumulative Percent
100.0
100.0
Bạn bè
System
Valid
Missing
Total
9.2. Định chia sẻ lại với ai
Frequency
89
44
133
66.9
33.1
100.0
PHỤ LỤC 3: BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
(Trích lược)
Phụ lục 3.1
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: 28 tháng 3 năm 2017
: Vào hồi 14h
: Tại số 1 Lê Đức Thọ, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội,
Ngày phỏng vấn
Thời gian
Địa điểm
Người phỏng vấn : Nguyễn Đăng Khang
Người trả lời phỏng vấn: Nam; Trưởng phòng Thư ký biên tập ANTV; Mã 01
1. Ông có thể đánh giá một cách khái quát nhất về TTTP trên báo chí hiện nay?
Thời gian qua, một số mạng xã hội cùng một số tờ báo đưa tin quá đậm, tới mức dày
đặc về các vụ án giết người. Đọc các bài báo thường thấy tội ác được mô tả chi tiết, rùng rợn,
kết hợp với một số kết luận có tính suy diễn, quy chụp làm méo mó bản chất sự việc, rồi đưa
ra các thông tin có tính chất xâm hại đời tư... Thông tin báo chí về các vụ án đang bộc lộ rất
nhiều vấn đề đáng lo ngại. Viết về pháp luật nhưng nhiều phóng viên lại vi phạm nguyên tắc
tối thượng của pháp luật là “suy đoán vô tội”. Khâu xử lý biên tập cũng không kỹ càng nên
những lỗi sơ đẳng vẫn gặp hàng ngày trên mặt báo. Phổ biến nhất là tự ý kết tội hoặc theo
hướng “suy đoán…có tội” đối với nghi phạm, bị can, bị cáo. Chẳng hạn miệt thị gọi họ là y,
thị, hắn, kẻ, hung thủ, thủ phạm, tên giết người…Và tình trạng trầm trọng đến mức đã tới lúc
các cơ quan chức năng cần có biện pháp ngăn chặn và xử lý kịp thời, quyết liệt.
2. Có ý kiến cho rằng, báo chí muốn đứng đắn, nghiêm túc thì không nên đưa TTTP
giật gân, câu khách. Quan điểm của Ông thì sao?
Không phải cứ đưa tin về tội phạm là báo chí không đứng đắn, nghiêm túc. Vấn đề
là cách đưa dẫn thông tin thế nào. Trong bối cảnh cạnh tranh báo chí như hiện nay, khi đưa
TTTP các báo thường tìm cách đặt tít giật gân để hút khách là điều dễ hiểu. Để tạo ra sự giật
gân câu khách nhiều người viết còn cố tình bóp méo, làm sai lệch bản chất thông tin-đây là
điều đáng lên án. Đã từ lâu, mấy từ “giật gân, câu khách” luôn tạo một ấn tượng không tốt
trong cách nhìn nhận của những độc giả chân chính.
3. Theo Ông, trong TTTP, nếu người viết chỉ mô tả tội ác đơn thuần mà không lý giải
nguyên nhân gây án, không rút ra bài học ứng xử, bài học đạo đức cho công chúng thì tác
phẩm báo chí đó có tác động tích cực với công chúng hay không?
Trong một xã hội như hiện nay xảy ra bất kỳ một vụ án nào là điều cả xã hội không
mong muốn. Là người cầm bút chân chính, chắc không ai muốn vụ án xảy ra để mình có tin
bài. Bởi vậy ngoài ý nghĩa đáp ứng thông tin đơn thuần, việc đưa TTTP còn có ý nghĩa cảnh
tỉnh công chúng, giúp họ rút ra bài học để tránh lặp lại vụ việc tương tự trong cuộc sống.
Việc đưa tin về tội phạm rồi bỏ mặc quần chúng xử lý thông tin không khác gì một người
bày bừa ra nhiều thứ để người khác đi dọn dẹp. Việc phổ biến TTTP cũng giống như hắt xô
nước bẩn ra vườn, một việc làm vô thức nhưng vẫn khiến cho cỏ dại mọc lên.
Nhiều phóng sự đề cập TTTP sơ sài, chưa đi sâu vào công tác phòng ngừa hoặc phân
tích nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của phạm nhân. Chính vì vậy mà TTTP mới
dừng lại ở góc độ phản ánh, chưa có nhiều phân tích, đánh giá chuyên sâu về nguyên nhân
cũng như định hướng cho khán giả
Thực tế cũng có những thông tin tự thân nó đã là một bài học cảnh tỉnh, song đa
phần cũng cần sự phân tích, đánh giá một cách căn kẽ của người viết. Điều này giải thích tại
sao có hiện tượng: Cùng phản ánh về một vụ việc, có tin bài độc giả thấy thương cảm muốn
chia sẻ với gia đình nạn nhân, trong khi đó có tin bài khán giả xem xong thấy rùng mình,
ghê sợ.
4. Với một tác phẩm báo chí thì tính hấp dẫn là một trong những yếu tố quan trọng.
Trong TTTP, theo Ông/Bà, làm thế nào để TTTP vừa đảm bảo tính hấp dẫn mà không bị sa
vào rẻ tiền, giật gân, câu khách?
Báo chí khi đưa TTTP, để vừa đảm bảo tính hấp dẫn mà không bị sa vào rẻ tiền, giật
gân, câu khách đòi hỏi người viết phải cất công tìm hiểu kỹ vụ việc. Không thể chỉ nhìn bề
nổi của sự việc rồi mặc sức đưa ra lời phán xét. Hiện nay, người đọc dường như đã đến thời
kỳ bội thực thông tin, kể cả thông tin về tội phạm. Những thông tin theo kiểu giật gân, câu
khách cũng sẽ đến lúc không còn dễ dàng thu hút độc giả. Những cách làm ăn xổi, chụp giựt
sẽ dần bị đào thải, nhường chỗ cho cách làm việc mang tính chiều sâu.
5. Theo Ông, để TTTP trong những sản phẩm báo chí không khách quan chân thực
lên sóng, ngoài phóng viên thì còn trách nhiệm của những ai trong quá trình lao động sáng
tạo tác phẩm báo chí?
Trách nhiệm trước nhất thuộc về Tổng biên tập bởi Tổng biên tập là người đứng mũi,
chịu sào, định hướng hướng phát triển nội dung của cơ quan báo chí đó. Nếu Tổng biên tập
nghiêm khắc, không khuyến khích lối viết dạng theo hướng giật gân, câu khách một cách rẻ
tiền thì làm sao có những tin bài liên quan đến tội phạm không khách quan, thiếu nhân văn
xuất hiện. Thứ hai là vai trò của Biên tập viên, đây là “bà đỡ” với tin bài của phóng viên, là
người nắm bắt cụ thể nhất nội dung và là rào chắn đầu tiên của cơ quan báo chí để ngăn ngừa
những tin bài có nội dung phản cảm nói trên.
6. Để đảm bảo TTTP đúng định hướng, theo Ông cần phải làm gì?
Yếu tố thành công trong mọi hoạt động là nguồn nhân lực vì vậy muốn chương trình
thành công yếu tố đầu tiên cần quan tâm đó là con người. Con người ở đây chính là đội ngũ
phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên trực tiếp tham gia vào quá trình tác ngiệp và sáng tạo ra
sản phẩm truyền hình nói chung và TTTP trong các bản tin thời sự nói riêng.
7. Theo Ông, nội dung TTTP cần chú ý những điểm gì?
Việc phản ánh TTTP tiếp tục bám sát tôn chỉ mục đích, bám sát nhiệm vụ chính trị,
đối tượng phục vụ, không chạy theo lợi nhuận đơn thuần và thị hiếu tầm thường của một số
ít công chúng; Cân nhắc về mức độ, liều lượng khi thông tin về vụ án, tránh thông tin phi
nhân tính, phản cảm, trái luân thường đạo lý.
TTTP phải cung cấp thông tin, đưa tin công bằng, khách quan về các vụ việc, nắm
bắt phương thức, thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm, đặc biệt là các loại tội phạm mới
để tuyên truyền giúp công chúng cập nhật thông tin và có các biện pháp tự bảo vệ, phòng
ngừa.
8. Hiện nay, TTTP trong các bản tin thời sự trên kênh ANTV chủ yếu tập trung ở hai
thể loại tin, phóng sự. Theo Ông cần phải có thêm thể loại gì?
Hai thể loại này là cơ bản trong các bản tin thời sự trên kênh ANTV. Theo tôi ANTV
cần tập trung phát huy thế mạnh hai thể loại này là ổn. và theo tôi cần chú ý phát triển tiểu
mục “Tiêu điểm thời sự” với những TTTP chuyên sâu để khán giả có một cái nhìn tổng thể,
khái quát về vấn đề được nêu.
Cuộc trao đổi kết thúc hồi 16h cùng ngày.
Phụ lục 3.2
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: Ngày 23 tháng 8 năm 2017
: Vào hồi 9h
: Phòng VHXH, Trung tâm Tin tức 24, Đài THVN
Ngày phỏng vấn
Thời gian
Địa điểm
Người phỏng vấn : Nguyễn Đăng Khang
Phỏng vấn: Nhà báo, Nam, Phó Trưởng phòng VHXH, Trung tâm Tin tức 24, Mã 03
1. Thưa anh, với TTTP ngoài việc phóng viên sản xuất thì mình còn tiếp cận nguồn
thông tin ở đâu?
Riêng về mảng hotline, đường dây nóng của trung tâm này cũng khá nhiều, nguồn
tin của phóng viên, rồi nguồn tin từ các cộng tác viên và từ cơ quan đã từng phối hợp như
cơ quan công an, kiểm sát, tòa án, quản lý thị trường, cảnh sát biển, các lực lượng khi có
thông tin khi có những vụ việc có đều thông tin lại.
2. Khi thay đổi mô hình mới thì việc tổ chức sản xuất có thống nhất, độc lập hay là
mình sẽ phải kết nối với các kênh khác?
Trước đây một cuộc họp chỉ thuần túy là cho các bản tin của hệ thống truyền hình
nhưng bây giờ tham gia có cả các thành phần nội dung số rồi cả báo điện tử hằng ngày.--Nội
dung triển khai trong ngày thì các bạn nội dung số, báo điện tử sẽ trực tiếp đặt hàng của bộ
phận truyền hình. Ngoài việc sản xuất cho bản tin Chuyển động 24 trưa thì có những bạn
phóng viên kiêm luôn cả nhiệm vụ livestream luôn cả nội dung này, chuyển cho các bạn ở
nhà phát trên fanpage, trên nền tảng số. Có nghĩa là phóng viên bây giờ làm nhiều việc cùng
một nội dung. Đối với các vấn đề nóng, những vấn đề phát sóng theo một cái lịch chúng tôi
thường quảng cáo những tuyến bài này trên fanpage.
3. Anh cho biết mô hình hoạt động?
8 giờ có một cuộc họp của Hội đồng Tin tức VTV bao gồm các VTV. Trên cơ sở
quyết định của Hội đồng Tin tức, các bộ phận sẽ tổ chức sản xuất. Ví dụ VTV9 đã có chất
liệu về vấn đề nào đó thì các bộ phận khác có thể khai, thác đặt hàng.
4. Hội đồng có thể đồng ý về vấn đề này có thể không?
Sẽ tránh được sự trùng lặp. Khi có vấn đề, sự kiện chỉ để một nơi đi, nơi nào làm
chuyên sâu hơn thì cử đi hoặc nơi nào đến trước rồi thì thôi.
5. Việc thực hiện thống nhất theo kiểu như hình chóp như này đã được một năm?
Trước đây thì cũng có thể có sự chồng chéo, nhưng sau này khi thành lập Hội đồng
tin tức điều phối đã không còn sự chồng chéo lẫn nhau. Ví dụ bản tin cuộc sống thường ngày
phát trước bản tin chuyển động 24, bản tin chuyển động phát trước Chương trình thời sự khó
có thể tránh trường hợp trùng lắp cùng một vấn đề. Hiện giờ bản tin trước phát phóng sự,
bản tin sau chỉ đưa tin hoặc là thôi.
6. TTTP được ưu tiên như thế nào?
TTTP cũng rất được quan tâm. Tuy nhiên, VTV là đài quốc gia nên phải có tổng thể
chung, phản ánh mặt tích cực xen lẫn tiêu cực. Không thể để một bản tin tối thui chỉ có bắt
bớ, vụ nọ vụ kia, vẫn phải có những gam màu sáng trong bản tin. Ví dụ bản tin trước đấy
người ta đã khai thác thì Chuyển động 24 chỉ đưa một tin off hoặc triển khai phóng sự sâu,
khai thác mở rộng, hệ quả hệ lụy của như thế nào.
7. Hiện tại TTTP trên TH đang chậm hơn so với báo điện tử, theo anh truyền hình
nên đi theo hướng như thế nào để thông tin nhanh hơn, có hiệu quả, linh hoạt, có ảnh hưởng
lớn?
Nếu mà nói là chậm hơn thì cũng chưa hẳn, bởi vì VTV còn khai tháccác nền tảng.
Mình đưa trước trên báo điện tử, hệ thống truyền hình triển khai một dạng khác. Ví dụ báo
điện tử chỉ đưa cái nóng, cái mới nhưng trong phóng sự truyền hình có thể khai thác chi tiết.
Buổi trưa là chỉ đưa tin hiện trường, đến chiều thì có thể phóng sự sâu về nguyên nhân vì
sao, như thế nào, tiến độ giải quyết hiện còn khúc mắc vấn đề gì, cơ quan điều tra sẽ làm gì,
vấn đề gì cần phải lưu ý.
8. Báo điện tử thì họ cũng có thể triển khai dạng truyền hình. Tuy nhiên như anh em
mình biết, hầu hết thì nó chỉ là một dạng video clip?
Báo điện tử hiện nay hiện các video clip ở dạng rất đơn giản, lời thoại bình hết sức
bình thường. Truyền hình khai thác cả âm thanh, tiếng động, kết hợp như thế thì nó là sản
phẩm hoàn chỉnh của truyền hình.
9. Với kênh ANTV đánh giá một cách khách quan, anh có nhận xét gì?
Minh ít xem, thỉnh thoảng xem. Những thông tin đấy bao giờ cũng hút người xem cụ
thể là các vụ án, như bản 113 Online. Tuy nhiên, tin tức của ANTV ảnh hưởng quá nhiều
nghiệp vụ điều tra, thông tin vụ việc dày đặc, dùng quá nhiều thuật ngữ nghiệp vụ. Cần phải
làm thế nào chuyển tải cho mềm hóa, sáng tạo hơn. Hiện TTTP trên ANTV chủ yếu mang
tính liệt kê ra, đều đều, người ta không thấy đâu là trọng tâm.
10. Theo anh, có cần thiết phải xây dựng bộ quy tắc khi TTTP không?
Có chứ. Cần phải có những quy tắc đối với anh em, kể cả trong việc đưa tin, mặc dù
cơ quan điều tra đã bắt quả tang. Trước đây theo chỉ đạo của lãnh đạo Trung tâm, khi tòa chưa
tuyên án thì họ chưa có tội nên những trường hợp đấy phải che mặt. Tuy nhiên, việc này cũng
tạo ra một luồng dư luận là: rõ ràng cơ quan điều tra đã chứng minh được tội phạm, bắt quả
tang, tại sao lại phải che mặt, trong khi những cán bộ điều tra lại để lộ mặt. Nước ngoài họ
cũng áp dụng nguyên tắc che mặt, chỉ có tội khi bản án có hiệu lực. Còn bây giờ cứ gọi là nghi
phạm là vẫn che mặt. Trong một số phóng sự điều tra khi phát sóng cũng phải che mặt đối
tượng để bảo vệ cho họ. Chính vì vậy cần có bộ quy tắc cụ thể để anh em biết và thực hiện.
Ngoài ra, bộ quy tắc cũng giúp bộ phận giám sát hình ảnh, bộ phận thư kí hiểu và thực hiện.
11. Khi TTTP, các anh thường hay lưu tâm vấn đề gì để không vi phạm quyền con
người, tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội?
Chúng tôi thường sử dụng phương pháp phản biện nhóm. Ai, tại sao như thế nào?
chứng cứ, tài liệu đâu, ai nói về điều này, cơ quan chức năng trả lời sao? Kể cả trong những
phóng sự mang tính chất xâu chuỗi, liệt kê từng phần của câu chuyện. Cái này nó khác với
các phóng sự lẻ, phóng sự lẻ thì phải đáp ứng được các tiêu chí có câu chuyện, người trong
cuộc nói gì, bị hại, nạn nhân nói gì, cơ quan chức năng nói gì? Bao giờ có đầy đủ các bên
liên quan, đảm bảo tính khách quan thì mới phát sóng. Với những phóng sự theo vệt thì các
phóng sự lẻ vẫn phải nằm trong tổng thể cả tuyến bài ấy, nó phải mang tính khách quan,
không được quy chụp.
12. TTTP trên chuyển động 24h hiện nay thì liều lượng thông tin như vậy đã tương
đối phù hợp hay chưa, còn ít hay nhiều?.
Đài quốc gia nên không thể đưa hết TTTP xảy ra hàng ngày nhằm câu view. Chỉ
những tin tức ảnh hưởng đến đời sống xã hội, đến dân sinh mà nhiều người quan tâm thì mới
đưa tin. Tiêu chí của chương trình Chuyển động 24 gồm: vấn đề xã hội, giáo dục, các vấn
đề liên quan nên TTTP cũng là một phần nhỏ không thể nào vượt quá trong tổng thể một
bản tin hay chương trình tin tức. Những vấn đề, sự vụ nào nóng thì có thể đưa lên đầu nhưng
thời lượng chỉ chiếm một phần chứ không thể nào mà chiếm khoảng 2, 3 phần là không ổn.
Bởi vì một Chương trình Chuyển động 24 đã chia ra các cụm trong nước, quốc tế, các chuyên
mục. Tất cả những mục đó đã định danh, định khung nên phải cân đối làm sao giữa mặt sáng,
mặt tối, trong nước, ngoài nước.
13. Dưới góc độ của một người làm truyền hình nhiều năm, phải làm sao để xây dựng
những tin bài liên quan đến TTTP trên TH được hiệu quả, có ảnh hưởng đối với công chúng?
Theo tôi, truyền hình nên khai thác chuyển theo hướng xã hội quan tâm. Bởi vì những
TTTP đó có thể người ta đã biết qua mạng xã hội, trên báo điện tử. Vấn đề là làm thế nào để
cảnh báo cho người xem, pháp luật sẽ xử lý thế nào? Bài học cho bản thân là gì như vậy khán
giả sẽ tiếp cận nhiều hơn. Truyền hình phải có đi sâu hơn, ví dụ một vụ đánh ghen trên phố thì
thì không thể đưa lên sóng đài truyền hình quốc gia nhưng có thể phản ánh dưới góc độ: làm thế
nào để phòng tránh, vi phạm điều luật nào, phân tích khía cạnh đạo đức…Những góc độ như thế
để mà truyền đạt, diễn tả nhằm cảnh báo khán giả sẽ quan tâm nhiều hơn là chỉ liệt kê vụ việc.
Cuộc trao đổi kết thúc hồi 10h00 cùng ngày.
Phụ lục 3.3.
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: Ngày 23 tháng 8 năm 2017
: Vào hồi 10h10
: Phòng TKBT, Ban Thời sự (VTV1), Đài THVN
Ngày phỏng vấn
Thời gian
Địa điểm
Người phỏng vấn : Nguyễn Đăng Khang
Phỏng vấn: Nam, Trưởng phòng TKBT, Ban Thời sự (VTV1), Đài truyền hình Việt
Nam, Mã 04.
1. Hỏi: Xin anh cho biết mô hình tổ chức sản xuất Chương trình Thời sự 19h?
Ban Thời sự đang hoạt động theo mô hình Hội đồng biên tập. Trưởng ban là người
chịu trách nhiệm chung toàn bộ tất cả bản tin, các Phó ban giúp việc, trực sản xuất các bản
tin. Các phòng: Chính trị, Các vấn đề thời sự xã hội, Chào buổi sáng, Quốc tế, Văn hóa đều
tham gia sản xuất. Một ngày có mấy cuộc họp tổ chức sản xuất. Với Chương trình Thời sự
19h sẽ có 2 cuộc họp: một cuộc họp lúc 8h sáng sẽ là tình hình chung để tổ chức sản xuất
cho 19h; Cuộc họp thứ 2 là lúc 16h là cuộc họp quyết định là sẽ lấy cái gì và sắp xếp Chương
trình 19h như thế nào? Tất cả mọi người đều có quyền tham gia đóng góp ý kiến về những
nội dung mình sẽ dự định phát, cách thức thể hiện như thế nào, kết cấu chương trình ra sao?
2. Việc tổ chức sản xuất Chương trình Thời sự 19h có liên quan gì đến Hội đồng tin
tức của của VTV?
Hội đồng Tin tức của của VTV rất có giá trị để nắm được luồng thông tin của khối
tin tức trong ngày, sản xuất những gì và như thế nào quan điểm chung của VTV là gì?. Từ
quan điểm chung như thế thì sẽ phân nhiệm vụ cho Ban Thời sự hoặc là VTV24, VTV4,
VTV5 các VTV khu vực. Có như vậy việc sản xuất tin, bài sẽ theo đúng định hướng. Cũng
có thể một đề tài mà cả 3, 4 đơn vị cùng làm. Lúc này, Hội đồng Tin tức sẽ điều tiết với từng
đơn vị sẽ sản xuất ở góc độ nào. Việc sản xuất như thế này đã thành nếp và đồng thời thì nó
cũng có tính hiệu quả, không bị chồng chéo, mỗi một đơn vị có một chức năng riêng, thành
ra góc nhìn của họ cũng sẽ khác.
3. Tức là Hội đồng tin tức gần như là sẽ điều tiết được các chương trình trong ngày.
Như vậy thì các anh phải đăng ký đề tài này phải trước thời điểm họp?
Sẽ có cuộc họp và đăng ký đề tài với Hội đồng vào lúc 16h30 chiều ngày hôm trước.
Với những đề tài đột xuất thì cũng phải thông báo cho Hội đồng biết mà điều tiết. Tránh
trường hợp như tôi nói lúc nãy là có một đề tài 3, 4 đơn vị cùng làm. Tuy nhiên, nếu một số
đề tài nó tốt với từng đơn vị, với những góc khác nhau thì Hội đồng có thể quyết định cho
nhiều đơn vị cùng sản xuất. Tuy nhiên, có những đề tài không đáng thì chỉ có một đơn vị sản
xuất xong về phát trên 3,4 kênh.
4. Hiện tại với Chương trình Thời sự 19 giờ, các anh chú trọng đến TTTP như thế
nào?
Mảng thông tin này rất quan trọng, mọi người cũng đang rất là quan tâm, chú trọng
đến mảng thông tin này. Tuy nhiên khi đưa tin thì mình phải chú trọng tính chất mở để làm
sao đưa tin lên mọi người sẽ rút ra được những bài học gì và rút ra được những kinh nghiệm
gì cho chính bản thân, thực tế cuộc sống. Nếu không nó sẽ thành 2 mặt của một vấn đề, đưa
nhiều quá thì thành “lợi bất cập hại” có thể dẫn tới bắt chước, học theo. Thành ra tin tức về
pháp luật phải hết sức cẩn trọng. Hiện nay VTV cũng có một bản tin mang tính chất chuyên
đề về vấn đề này và đã hợp tác rất tốt với ANTV. Bản tin thời lượng 5 phút trong khung 12h
nội dung là thông tin an ninh, an toàn có tính cảnh báo rất là tốt. Rõ ràng là mình đưa cái gì
hay không đưa cái gì trên sóng thì cũng sẽ thành một quan điểm của VTV. Bởi vậy khi đưa
TTTP, pháp luật phải đưa để cho mọi người hiểu về luật, đồng thời cũng cảnh báo về phương
thức, thủ đoạn, bài học cảnh giác đảm bảo cho xã hội tốt đẹp hơn. VTV không đưa tin theo
kiểu a dua theo một vấn đề hoặc là câu view, câu like.
5. Theo quan điểm của các anh thì liều lượng thông tin liên quan tới tội phạm trên
Bản tin 19h VTV1 như vậy đã hợp lý chưa?
Cái đó rất khó. Tuy nhiên thì những vụ việc mang tính chất điển hình thì không thể
nào được phép bỏ qua, bởi vì nó rất quan trọng và mức độ ảnh hưởng lớn, chỉ đưa khi vụ
việc được giải quyết tương đối rõ ràng.
6. Nếu vậy thì quá trình biên tập những nội dung tin, bài liên quan đến TTTP, các
anh lưu ý những điểm gì để tạo sự ảnh hưởng và hiệu quả với công chúng?
Trước hết mình phải tìm hiểu về thông tin đó và điều cực kỳ quan trọng đó chính là
việc thẩm định thông tin. Trước vụ việc như vậy mình phải nhìn ở góc độ nhiều chiều, từ cơ
quan chức năng, đồng nghiệp bên ANTV, thông tin nào nên khai thác, thông tin nào để cơ
quan điều tra mở rộng. Tất cả những thứ đấy có quy định rất rõ ràng.
7. Dưới con mắt người làm nghề thì chắc anh cũng có lúc xem những bản tin của của
ANTV, để đánh giá một cách khách quan thì anh thấy như thế nào?
Mỗi một kênh truyền hình có đối tượng khán giả khác nhau. Khi chuyển kênh xem
ANTV thì mình sẽ nhìn ở góc độ là nó đang đáp ứng về đối tượng của các bạn như thế nào.
Rõ ràng là ANTV các bạn đang làm rất tốt việc đấy, thậm chí có những hồ sơ vụ án rất sâu,
tư liệu và đồ họa sinh động. Có những thông tin mà VTV chỉ đưa được sự kiện, ANTV có
cả những hồ sơ thâu tóm lại toàn bộ để người ta bao quát được sự việc thì cũng tốt.
8. Trong giai đoạn hiện nay, hình ảnh, nội dung TTTP chủ yếu phản ánh vụ việc,
hình ảnh lặp đi, lặp lại mô típ cũ rõ ràng nó sẽ tạo ra sự nhàm chán?
Nó cũng rất nhàm chán. Tuy nhiên cần thiết sử dụng đồ họa để cho khán giả người
ta nhớ rằng là sự việc nó xảy ra như thế nào, hình dung được vấn đề. Tôi nghĩ rằng những
điều này cũng khó tránh khỏi nhưng nên loại hình ảnh mang tính chất bạo lực. Quá trình
biên tập mình cũng phải có phương án để cho tin tức đó lên sóng. Những hình ảnh mà gây
chấn động quá thì cũng chưa chắc đã là tốt.
9. Hiện tại em vẫn cho rằng TTTP ANTV đang sử dụng của cộng tác viên nhiều quá.
Đấy cũng là một nhược điểm?
Nhiều cộng tác viên mang tính chất chuyên môn sâu thì theo tôi cũng tốt. Theo tôi
thì cần có những thông tin gợi mở nhằm thu hút khán giả. Có thể hôm nay đăng nửa câu
chuyện, có một phần để ngày mai hoặc chiều tối, ngày giờ nào thì nên khai thác thêm nữa.
Khán giả sẽ hình dung ra rằng cơ quan chức năng đã làm như thế nào để phát hiện vụ án
hoặc phá vụ án đấy. Tôi nghĩ cách thể hiện này nên tận dụng mạng lưới cộng tác viên.
10. Như vậy nó có phù hợp với những bản tin thời sự không?
Hợp chứ. Bạn cứ tưởng tượng là một vụ án như thế mình đưa theo cách thời sự. Đưa
một tin sau đó nối thẳng sang phỏng vấn đại diện cơ quan cảnh sát điều tra chứ không cần
thiết phải có sự xuất hiện của phóng viên. Tức là phát thanh viên vẫn đọc sau đó giới thiệu
sang phỏng vấn cơ quan điều tr. Ví dụ như trước đây với những cái tin hội nghị với hình ảnh
đã quá nhàm chán, chúng ta phải chuyển hướng sang dạng tin hiện trường, phóng viên dẫn
dắt cũng sẽ chuyển tải được vấn đề, tránh hình ảnh trùng lặp.
11. Thưa anh đối với TTTP trên các chương trình, bản tin thời sự, có cần xây dựng
bộ quy tắc khi TTTP không?
Cái đó có nguyên tắc của nó rồi, tôi nghĩ là cần thiết. Đương nhiên với nạn nhân là
mình phải che mờ. Có những nhân chứng phải quay giấu mặt, bóp méo tiếng, không thể là
cái gì mình cũng tung hết lên như thế vì nó ảnh hưởng đến uy tín, an toàn cho họ. Với những
TTTP. pháp luật, đầu tiên là mình sẽ phải tìm hiểu tính chính xác, hai chiều, phải đảm bảo
an toàn cho chính những nạn nhân khi chưa có kết luận gì. Hiện nay khối tin tức nói chung
và thời sự nói riêng của VTV thì các bộ quy tắc, quy chế cũng đang hoàn thiện, mình vẫn
vừa làm, vừa xây dựng và vừa thực hiện nó. Mục tiêu cuối cùng với khối tin tức pháp luật
này là vẫn phải đảm bảo cho tất cả mọi người được bình đẳng trước pháp luật.
12. Có một câu hỏi của em muốn hỏi anh đối với truyền hình hiện nay VTV thì có rất
nhiều nền tảng để mà hỗ trợ cho kênh truyền hình. Thế nhưng với những kênh truyền hình
khác không hẳn là ANTV thì việc đưa những TTTP phải làm như thế nào để cạnh tranh với
báo mạng điện tử?
Hiện nay VTV cũng đang đầu tư nhiều cho việc đó. Cũng có trang web đang khai
thác rất là tốt, bởi vì mọi người cũng có cả phóng viên đi cùng với phóng viên điều tra, có
những cuộc là như thế, sau này về mỗi người mỗi đơn vị sẽ khai thác ở góc độ thế mạnh
riêng. Hiện nay trang web, các trang fanpage lượng khán giả, độc giả rất là nhiều. Thông
thường, những sự vụ xảy ra gây chú ý của dư luận nền tảng số sẽ khai thác đầu tiên sau đó
mới mảng thời sự truyền thống.
13. Hiện tại thì ngoài việc xác định số lượng người xem bằng rating. Ban thời sự có
chú trọng biện pháp điều tra xã hội học về nhu cầu của công chúng không?
VTV có bộ phận chuyên làm công tác đánh giá nhu cầu công chúng. Hàng tuần, hàng
tháng đều có báo cáo, chỉ số rõ ràng. Trên cơ sở đó, các bộ phận liên quan sẽ tiếp tục phát
triển, chú ý nội dung gì và cái gì nên dừng lại. Tức là mình đã đi đúng hướng chưa và tin tức
của mình đã được mọi người quan tâm như thế nào, nó có giá trị khoản như thế nào?. Từ đó,
Hội đồng Tin tức sẽ điều tiết công việc tiếp theo.
Cuộc trao đổi kết thúc hồi 11h30 cùng ngày.
Phụ lục 3.4
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: Ngày 16 tháng 6 năm 2017
: Vào hồi 9h
: Thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk
: Nam; Chủ tịch Hội Nhà báo Đắk Lắk; Mã 05
Ngày phỏng vấn
Thời gian
Địa điểm
Người phỏng vấn : Nguyễn Đăng Khang
Phỏng vấn
Câu hỏi: Hiện tại ông có thể phân tích rõ hơn những phản ánh về các vụ việc
trên báo chí, về những tình hình đó hiện nay trên báo chí địa phương, hay trên báo
mạng, trên báo chí nói chung thực trạng nó có gây ra hậu quả hoặc là tích cực, tiêu
cực gì không?
Trả lời: Báo chí phải phản ánh hai mặt. Mặt tiêu cực cũng nêu mặt tích cực
phải được đưa lên, càng nhiều càng tốt. Tôi là người quản lý báo chí nên đã phê bình
nhiều. Tại sao không đưa những cái tích cực để khỏa lấp cái xấu, các anh ấy đưa toàn
màu đen, còn những tích cực của chúng ta thì lại ít quá. Phải nói là sự hơi bị lệch giữa
phản ánh những tiêu cực với phản ánh tích cực. Một chuyện tiêu cực xảy ra rồi thì
phải nói cái tích cực nó như thế nào.
Hỏi: Rõ ràng là báo chí khi thông tin về các vụ án cũng như tiêu cực của xã
hội khi cần phải đi kèm với những yếu tố như thế nào để có thể giáo dục, định hướng
cho người dân từ rút ra bài học từ vụ việc?
Trả lời: Sự việc đôi khi nêu nhưng lại không tìm hiểu sâu, cặn kẽ vấn đề, sự
việc xảy ra làm sao? ảnh hưởng như thế nào? Báo chí của mình hay có hiện tượng
một anh làm thì các anh khác làm theo. Đôi khi chả biết mô tê gì chỉ nghe cũng đưa
lên, cứ ra rả hết lúc này đến lúc khác. Xã hội nhìn nhận cái gì đó nó đen tối, xã hội
toàn tội phạm. Nhiều lúc các cơ quan quản lý báo chí nhắc nhở anh em cũng nên hạn
chế, đưa vừa đủ thôi. Một là đưa vừa đủ, hai là đừng có đưa chi tiết quá, ghê rợn quá
nhưng báo chí vẫn đăng để tăng tính hấp dẫn lên, thu hút khách, đặc biệt là những
trang mạng.
Hỏi: Dưới góc độ là cơ quan quản lý các hội viên Hội nhà báo, ông có nhắc
nhở gì đối với phóng viên, biên tập viên hoặc các cơ quan báo chí về việc đưa TTTP
như thế nào ?
Trả lời: Chúng tôi thường xuyên nhắc nhở, định hướng tuyên truyền. Chúng
tôi thường xuyên có những cuộc giao ban báo chí rồi UBND tỉnh có họp báo, đặc biệt
là trong giao ban báo chí chúng tôi đi sâu hơn bởi những mặt hạn chế của báo chí,
những mặt được của báo chí cần phát huy, không được thì nhắc nhở. Sự phối hợp
giữa chúng tôi với cơ quan quản lý nhà nước về mặt báo chí cũng tăng cường phối
hợp với nhau tất cả cho nên chặt chẽ lắm.
Hỏi: Thưa ông, hiện tại ở Việt Nam có một kênh truyền hình chuyên biệt về
ANTT là ANTV, ông có đánh giá gì?
Trả lời: Nội dung đưa lên chương trình rất là thiết thực, rất có hiệu quả, đặc
biệt về tội phạm và vi phạm an ninh, bà con nghe, xem là hiểu. Trước đây nhiêu người
nghe theo Fulro tham gia những cuộc biểu tình bạo loạn nhưng sau nghiên cứu--thông
tin của mình người ta hiểu được, biết không có lao động mà có cái ăn đâu, đó là sự
lừa bịp thôi. Riêng chương trình ANTT của mình trên đài nội dung tích cực nhiều, tất
nhiên là mình nêu ra những tiêu cực nhưng cách viết, cách thể hiện làm người xem
thấy được vấn đề, rút ra bài học kinh nghiệm.
Hỏi: Hết ngày này qua ngày khác nhất là tin tức về vụ án rồi đâm chém, cướp,
giết hiếp, liệu chăng nó có ảnh hưởng tiêu cực đến công chúng?
Trả lời: Trước hết phải nói thẳng như thế này, các vụ đâm chém, giết hiếp, bạo
lực mà đưa liên tục như thế đương nhiên theo tôi không đúng nếu mà nghĩ ra xã hội
người ta nhìn vào người ta cũng không chấp nhận được cái đó đâu. Nên nói vừa phải,
nói nhiều quá không nên, nó phản tác dụng. Phản ánh làm sao để tạo sự nhận thức được
vấn đề, tại sao anh phạm tội? nguyên nhân từ đâu? Nhưng nói nhiều quá gây nên sự dàn
trải. Ví dụ như vụ án giết nhiều người ở Bình Dương đưa ra rả như thế là không nên.
Hỏi: Thưa ông rõ ràng TTTP có ưu điểm, có hạn chế nhưng--phần ưu điểm nó
nhiều hơn. Tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk thì theo ông, truyền hình ANTV, truyền hình VTV
phải như thế nào để đồng bào dễ hiểu, dễ tiếp cận TTTP?
Trả lời: Không phải là dài dòng gì đâu nhưng chúng ta viết thế nào để đồng
bào hiểu, thấy được vấn đề. Ví dụ nói về tín dụng đen. Đến bây giờ bà con mới hiểu
về tín dụng đen. Báo chí tuyên truyền nhiều, đến khi hiểu được thì nhiều người mất
nhà, mất việc, bị đe dọa mà còn không dám lên tiếng. Nguyên nhân một phần là bà
con còn nhiều người chưa biết tiếng Kinh nên việc tuyên truyền cái này cũng rất hạn
chế. Giá mà báo chí nhạy bén, làm sớm hơn từ trước, vụ này báo chí cũng phát hiện
đầu tiên nhưng hơi chậm, tuyên truyền ngay từ đầu có lẽ nạn tín dụng đen nó không
hoành hoành ở Đắk Lắk như vừa rồi.
Hỏi: Rõ ràng ở đây có một câu chuyện là khi mà thông tin tới bà con, đặc biệt là
bà con đồng bào đồng bào dân tộc thì làm sao để cho bà con hiểu một cách nhanh nhất?
Trả lời: Để mà hiểu một cách nhanh nhất chỉ có truyền hình là phổ biến nhất,
bà con theo tập quán là thích tivi thôi, phương tiện này là hiệu quả nhất. Qua đó giải
thích cho bà con thấy được tín dụng đen là lừa đảo để bà con mình rút kinh nghiệm.
Qua phương tiện truyền hình dễ hơn vì nhà nào bây giờ đều có tivi rồi, báo in thì khó
vì nhiều bà con chưa biết đọc. Truyền hình là tiếng Kinh nhưng bà con nghe được,
nghe lõm bõm thì cũng biết hơn, rõ hơn. Đấy người ta đang nói đến tín dụng đen đấy,
dân mình bị lừa nhiều rồi đấy, bà con tự hiểu.
Hỏi: Hiện tại báo mạng điện tử có ưu thế thông tin nhanh. Truyền hình không
thể nhanh bằng báo mạng. Đã có thời kỳ truyền hình là ưu thế, là thế mạnh vậy VTV
1, ANTV phải làm gì để cạnh tranh, để chiếm ưu thế?
Trả lời: Mạng xã hội dễ thực hiện hơn, không ai kiểm duyệt. Họ viết vô tội vạ,
nhiều khi viết sai còn VTV, ANTV không thể làm không đúng nên mình mất ưu thế
với mạng là vậy. Cũng may là bà con đồng bào dân tộc chỉ có lớp thanh niên chỉ thích
nghe nhạc, xem phim chính vì vậy truyền hình vẫn được bà con quan tâm nhiều. Tuy
nhiên, cần tăng trang mạng chính thống của mình lên để hạn chế thông tin xấu độc.
Mà báo chí của mình cũng khai thác trên mạng nhiều chứ, nhưng phải có chọn lọc và
sử dụng mạng xã hội đúng quy tắc người làm báo. Các nhà truyền hình, chuyên môn
nên nghiên cứu xem mình không hơn được mạng nhưng mình phải nhanh hơn nó,
chính xác hơn nó và chính thống để đập lại nó.
Hỏi: Nhà báo, cơ quan báo chí cần phải làm gì để có thông tin đúng định
hướng nhưng phải hấp dẫn?
Trả lời: Để thông tin ANTT đúng định hướng mà còn hấp dẫn nữa thì đầu tiên
phải sát cơ sở, sát thực tiễn, nắm bắt vấn đề, nhà báo phải phát hiện đầu tiên vấn đề.
Cần tăng cường thêm năng lực và kỹ năng cho anh em viết về vấn đề tiêu cực hay tội
phạm. Anh em phóng viên phải nhạy bén đi đôi với thận trọng, kiểm soát mình cao
hơn. Để cạnh tranh với báo điện tử, mạng xã hội, thì anh em phóng viên truyền hình
cần khai thác những hạn chế của họ, họ chưa thể viết sâu được, chưa chính xác được,
họ chỉ viết phản ánh. Mình giờ tận dụng thế mạnh của mình đó là đảm bảo tính chân
thực, tính chính xác và tính chuyên sâu của mình, từ thông tin của mình người dân
hiểu được vấn đề hơn.
Hỏi: Với kênh VTV1, ANTV ông có đề xuất gì để TTTP có hiệu quả?
Trả lời: Vấn đề ANTT nó mang tính rất rộng, nó không phải cho một cá nhân,
tổ chức gì mà toàn xã hội, cả một vùng miền, đặc biệt là với đồng bào dân tộc. Cũng
nên tăng cường tiếp âm, tiếp trực tiếp chương trình truyền hình của đài trung ương
nếu chương trình đó nói về an ninh. Cũng nên tăng cường đưa thông tin đó đến bà
con. Thời sự đôi khi đưa đến cho bà con chả ai quan tâm đâu nhưng ANTT bà con
rất là chú ý theo dõi, ngay cả tại đài địa phương hoặc TW cũng phải tăng cường lên.
Đưa cách nào đó, vào thời điểm đó để bà con theo dõi, bà con cũng rất thích, người
ta cần tuyên truyền về ANTT, người ta quan tâm lắm.
Cuộc trao đổi kết thúc hồi 11h00 cùng ngày.
Phụ lục 3.5
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: Ngày 16 tháng 6 năm 2017
: Vào hồi 14h
: Thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk
: Nam; Linh mục Tin lành; Mã 06
Ngày phỏng vấn
Thời gian
Địa điểm
Người phỏng vấn : Nguyễn Đăng Khang
Phỏng vấn
Hỏi: Hiện tại linh mục theo dõi trên các bản tin thời sự của VTV, ANTV thì linh mục
thấy những TTTP có tác dụng gì đối với xã hội?
Trả lời: Tôi nghĩ tác động của các kênh truyền hình lên nhận thức của người dân để
họ hiểu biết về luật pháp rồi thứ hai là để họ cảnh giác thì những điều đó là tốt.
Hỏi: Hiện tại xã hội nhiều người vẫn cho rằng chúng ta đưa quá nhiều thông tin về vụ
án đặc biệt là các vụ án có tính chất: giết người dã man, đặc biệt như các báo điện tử người ta
hay miêu tả án. Theo ông ở đây tích cực ai cũng nhận ra những tiêu cực ở đây là gì?
Trả lời: Bất kỳ cái gì được đưa ra đều có mặt tích cực và mặt tiêu cực, tùy nhận thức
và quan điểm của mỗi cá nhân. Cái đó là chắc chắn rồi, dù là tin tốt nhưng người xấu họ
nghe thì cũng ra xấu thôi. Đài nhà nước thì tôi tin là sẽ thông tin có chủ đích đã được thẩm
định trước tác dụng của các nguồn tin đó đến với người dân như thế nào. Đây là nói về các
đài của nhà nước còn trên truyền thông, các mạng xã hội thì tôi thấy nhiều người rất là vô
tâm, họ chỉ câu like và vì thế không nên đưa những thông tin không được kiểm chứng như
vậy. Đưa vụ án mà đi vào từng chi tiết thì không tốt, nó cũng là một cách tác động lên tâm
lý ưa bạo lực của người dân và nhất là đối với kẻ xấu nếu không phân định. Tôi thấy là ở
trên mạng xã hội như facebook, yuotube mở ra là thấy liền thì cái đó rất là tai hại. Tôi tin
rằng các bản tin của các đài VTV, HTV, hay ANTV thì chắc chắn cái đó các anh đã thẩm
định trước, và khẳng định sự trung thực của nguồn tin là thứ nhất, và thứ hai là hệ quả của
nó, tác động của nó lên người xem các anh đã tính toán kỹ rồi. Việc quan trong nhất là hiện
nay là chú trọng giáo dục đạo đức, giáo dục sự phân định cho lớp trẻ và cho người dân, nếu
không thì họ không biết phân định đâu là xấu đâu là tốt. Một nguồn tin sẽ được đón nhận
một cách rất là khách quan và không có hiệu ứng tiêu cực khi mà người ta được giáo dục tốt,
còn nếu người ta không được giáo dục tốt không đủ óc phân định cái tốt và cái xấu thì dĩ
nhiên là nhất là lớp trẻ, thiếu nhi và thanh niên nó có thể học theo.
Hỏi: Thưa linh mục trong quá trình theo dõi TTTP trên TH, hình mục có đánh giá gì
về chất lượng thông tin.
Trả lời: Tôi cho rằng thông tin phải trung thực, nếu thông tin đó không trung thực sẽ
gây một hiệu ứng tiêu cực. Về mặt đạo đức nghề nghiệp, phóng viên phải có đạo đức nghề
nghiệp chứ không có đạo đức nghề nghiệp chỉ vì tiền thì rất nguy hiểm bởi thực sự có những
phóng viên chỉ làm tiền, viết báo đi làm tiền, lấy tin cũng là làm tiền.
Hỏi: Đứng ở góc độ một người chăn dắt giáo dân, thì linh mục thấy các đài báo phải
làm gì, tập trung vào những điểm gì là quan trọng nhất trong việc đưa tin về tội phạm?
Trả lời: Chủ đích của các anh chị là vì an ninh của tổ quốc, an ninh của đồng bào, rồi
sự an toàn của người dân còn về phía chúng tôi thì khi phân tích, chúng tôi phân tích về mặt
đạo đức, về mặt lương tâm rồi về mặt đạo giáo, giáo lý. Chúng tôi cũng lấy ví dụ từ một số
vụ việc các anh đưa để khuyên bảo giáo dân làm theo,--tránh một điều xấu nào đó, việc của
chúng tôi là giáo dục để giáo dân không được làm những việc trái đạo đức và trái lương tâm.
Hỏi: Thông thường với lĩnh vực an ninh trật tự trong những buổi sinh hoạt giảng đạo
thì linh mục lưu tâm nhất giáo dân vì điều gì?
Trả lời: Các lĩnh vực đời sống của con người đều cần phải quan tâm cả. Ví dụ về hình
sự thì phải quan tâm để nhắc các em không thể xâm phạm đến sự sống hay là gian dối trong
nhiệm vụ, cách làm ăn...Kể cả với tình yêu cũng phải lưu ý, tình cảm đôi lứa bao nhiêu vụ
tự tử vì tình cảm đó, hay là giết nhau về tình cảm rồi những vụ án giết nhau vì lòng tham về
của cải tiền bạc, của cải, đất đai thì những cái đó chúng tôi phải lấy những ví dụ như vậy
chúng tôi đem vào những bài giảng để hướng dẫn cho đạo đức cho giáo dân.
Hỏi: Câu hỏi cuối với linh mục, thưa ông hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng đưa
nhiều thông tin về tội phạm quá thì sẽ làm cho xã hội phức tạp hơn?
Trả lời: tôi nghĩ rằng trên VTV, ANTV các anh cũng đưa nhiều loại tin khác nhau
trong đó có các loại tin về hình sự, tội phạm thì đó là chủ đích của bên đài. Đặc biệt là đối
với ANTV thì phải đưa những tin tức về an ninh, những thông tin đó có mục đích tốt vì để
đảm bảo sự sống, sự an toàn cho người dân và giúp cho người dân cảnh giác hơn. Chúng ta
đưa những hình ảnh tiêu cực của dân thì chúng ta cũng phải nên có những gương sáng của
dân chứ không nên có nguyên mảng xấu, mảng tối. Mảng sáng của người dân về ANTT cho
người ta biết để người ta học theo, làm theo để xã hội tốt đẹp hơn. Sẽ tốt hơn khi trong bản
tin, các anh cân bằng giữa thông tin tốt và thông tin xấu.
Cuộc trao đổi kết thúc hồi 15h00 cùng ngày.
Phụ lục 3.6
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: Ngày 12 tháng 7 năm 2017
: Vào hồi 9h
: số 1 Lê Đức Thọ, Mai Dịch, Cầu Giấy,
Ngày phỏng vấn
Thời gian
Địa điểm
Người phỏng vấn : Nguyễn Đăng Khang
Phỏng vấn
: Nam; Nguyên Giám đốc, Nguyên Phó Tổng Biên tập thường
trực ANTV (Mã 07)
1. Ông có thể đánh giá một cách khái quát nhất về TTTP trên báo chí hiện nay?
Tình trạng báo mạng và trang mạng xã hội sa đà vào vụ thảm sát, công khai những
bức ảnh chụp hiện trường đầy máu me, hoặc đưa ra các thông tin thiếu sự kiểm chứng nhằm
thu hút sự chú ý của độc giả là việc làm trái với đạo đức nghề báo, có bài báo còn trực tiếp
xâm hại đến quyền nhân thân của nạn nhân. Thậm chí nạn nhân của một vụ hiếp dâm còn
đang ở tuổi vị thành niên còn tiếp tục bị một số tờ báo khai thác viết bài và vô tư chụp ảnh
phát sóng công khai trên báo. Sự xuất hiện với mật độ dày đặc loại tin, bài đầy tính bạo lực
quanh các vụ cướp - giết - hiếp trên một số ấn phẩm báo chí đã tác động tiêu cực tới tâm lý,
gây nên nỗi lo âu trong người đọc. Đây là hiện tượng rất bất bình thường, thiếu lành mạnh,
và nếu không kịp thời chấn chỉnh thì hậu quả thật khó lường.
2. Có ý kiến cho rằng, báo chí muốn đứng đắn, nghiêm túc thì không nên đưa TTTP
giật gân, câu khách. Quan điểm của Ông thì sao?
Không thể cho rằng, cứ phát sóng, phát sóng TTTP là có hại cho độc giả. Vấn đề
quan trọng nhất là thông tin vụ án được xử lý như thế nào qua bàn tay của nhà báo, của
những người quản lý cơ quan báo chí. TTTP đưa như thế nào? Có phản ánh qua góc nhìn
nhân văn không? TTTP đưa như thế nào, liều lượng ra sao để không sa vào giật gân, câu
khách, không tổn hại cho công chúng?--
3. Theo Ông, trong TTTP, nếu người viết chỉ mô tả tội ác đơn thuần mà không lý giải
nguyên nhân gây án, không rút ra bài học ứng xử, bài học đạo đức cho công chúng thì tác
phẩm báo chí đó có tác động tích cực với công chúng hay không?
TTTP là một loại thông tin công chúng cần tiếp cận để phòng ngừa tội phạm, để qua
đó rút ra những bài học giáo dục cho mỗi cá nhân và bởi thế nó góp phần làm giảm thiểu tội
phạm. Khi nhà báo thông tin về tội phạm, về vụ án, về người phạm tội…trong đó nêu bật, lý
giải nguyên nhân gây án, động cơ gây án, sự sám hối vẫn sẽ là những thông tin có ý nghĩa
cảnh báo, giáo dục có giá trị với công chúng. Công chúng sẽ tìm thấy trong những TTTP
những điều hữu ích rút ra cho chính mình.
4. Với một tác phẩm báo chí thì tính hấp dẫn là một trong những yếu tố quan trọng. Trong
TTTP, theo Ông, làm thế nào để TTTP vừa đảm bảo tính hấp dẫn mà không bị sa vào rẻ tiền, giật
gân, câu khách?
TTTP tự thân nó đã hấp dẫn vì thông tin về mặt trái của xã hội, tự nó tạo ra hiệu ứng
tâm lý của con người. Và TTTP đến mọi người không chỉ là thông tin khách quan mà cả
định hướng hành động, định hướng cả tư tưởng cho khán giả.
Như vậy phóng viên ANTV cần tác nghiệp đúng quy định của Luật Báo chí; phản
ánh khách quan, công khai sự thật, tránh suy diễn một chiều; đưa quá sự thật tạo nghi ngờ,
bức xúc trong dư luận; các cơ quan báo chí cần có quan điểm rõ ràng, đúng đắn trong phản
ánh thông tin, tránh những thông tin gây hiểu lầm, tạo dư luận xấu trong xã hội.
5. Theo Ông, để TTTP trong những sản phẩm báo chí không khách quan chân thực
lên sóng, ngoài phóng viên thì còn trách nhiệm của những ai trong quá trình lao động sáng
tạo tác phẩm báo chí (Giám đốc, trưởng ban biên tập, biên tập viên…)
Trách nhiệm trước nhất thuộc về Tổng biên tập bởi Tổng biên tập là người đứng mũi,
chịu sào, định hướng hướng phát triển nội dung của cơ quan báo chí đó. Nếu Tổng biên tập
nghiêm khắc, không khuyến khích lối viết dạng theo hướng giật gân, câu khách một cách rẻ
tiền thì làm sao có những tin bài liên quan đến tội phạm không khách quan, thiếu nhân văn
xuất hiện. Thứ hai là vai trò của Biên tập viên, đây là “bà đỡ” với tin bài của phóng viên, là
người nắm bắt cụ thể nhất nội dung và là rào chắn đầu tiên của cơ quan báo chí để ngăn ngừa
những tin bài có nội dung phản cảm nói trên.
6. Để đảm bảo TTTP có hiệu quả, ảnh hưởng tích cực đến xã hội, theo Ông cần phải
làm gì để ?
Trước tiên cần nâng cao sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo với đội ngũ thực hiện
bản tin nhất là các cộng tác viên thuộc Công an, Đài PT-TH các tỉnh, thành phố cả nước. Có thể
nói trong bất cứ lĩnh vực nào, sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo luôn khiến công việc đó
được thuận lợi và hoàn thành một cách nhanh chóng. TTTP trong các bản tin thời sự của Truyền
hình ANTV tiếp tục được sự quan tâm và đầu tư hơn nữa chắc chắn kết quả công việc tuyên
truyền an ninh và trật tự an toàn xã hội sẽ đạt được hiệu quả hơn nữa.
Ví dụ như khi có một số sự kiện, vấn đề được dư luận và quần chúng nhân dân hết
sức quan tâm như công tác phòng chống tham nhũng, điều tra phá án, những vụ việc chống
người thi hành công vụ…có thể nói khá khó khăn để người phóng viên thực hiện công tác
tuyên truyền vì tâm lý e ngại, sợ đụng chạm, có mối quan hệ sợ ảnh hưởng. Với những
trường hợp như vậy cần có sự quyết tâm của các cấp lãnh đạo và sự quan tâm sâu sắc để
người phóng viên có thể thực hiện tốt những đề tài nhạy cảm đó.
7. Theo Ông, nội dung TTTP cần chú ý những điểm gì?
Có rất nhiều điểm cần chú ý đó là tính khách quan, hấp dẫn và quan trọng là TTTP
phải đảm bảo tính nhân văn thể hiện ở cách thức người đưa tin lựa chọn những chi tiết thông
tin về sự kiện và vấn đề trong tác phẩm, không nên tập trung lựa chọn chi tiết để khoét sâu
thêm nỗi bất hạnh của nhân vật và không nên tra tấn công chúng bằng những chi tiết giật
gân câu khách. Chính vì vậy liều lượng TTTP trong các bản tin thời sự vừa phải, không thái
quá, không chạy theo thị hiếu thấp kém, tầm thường, miêu tả rùng rợn, ly kỳ… Nội dung
thông tin không “thương mại hóa”, “tầm thường hóa”, “lá cải hóa” mà tiếp tục nâng cao chất
lượng chính trị, văn hóa, khoa học của báo chí, quan tâm đến tính giáo dục, đề cao nguyên
tắc tính nhân văn trong từng nội dung tin bài.
TTTP nhất thiết phải đảm bảo quyền con người được quy định trong Hiếp pháp.
Những quy định của Hiến pháp nhằm ngăn ngừa sự vi phạm quyền con người, quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của công dân từ phía
các cơ quan, cán bộ nhà nước. Chính vì vậy TTTP phải triệt để bảo vệ các quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh và giàu mạnh.
Cuộc trao đổi kết thúc hồi 11h cùng ngày.
Phụ lục 3.7
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: Ngày 23 tháng 11 năm 2017
: Vào hồi 9h
: số 82 Lý Thường Kiệt, Hà Nội
Ngày phỏng vấn
Thời gian
Địa điểm
Người phỏng vấn : Nguyễn Đăng Khang
Phỏng vấn nhóm
: 2 Nam; (01 Trung tá, 01 Đại úy) Phóng viên Truyền hình
ATV, Báo An ninh Thủ đô, Mã 08
Nếu để đánh giá về TTTP trên báo chí hiện nay thì 2 ông cho biết TTTP hiện nay trên
báo chí như thế nào?
Trung tá: Nhiều cơ quan báo chí đưa quá nhiều TTTP và thậm chí có thể là vì mục
đích câu view tăng view nên họ khai thác, đa chiều, thậm chí là những nghiệp vụ của ngành
công an cũng có thể bị lộ lọt. Bên cạnh đó, nó có tác động đến công chúng, người xem đặc
biệt là giới trẻ có thể bắt chước đối phó công an.
Đại úy: Phản ánh thông tin về tình hình an ninh trật tự qua báo chí đầu tiên là tuyên
truyền nhưng thời điểm hiện tại thì nhiều cơ quan báo chí khai thác quá sâu về đối tượng, về
nhân thân, về các cách thức hoạt động dễ để tội phạm lợi dụng, tính cảnh báo thì rất ít. Tội
phạm có thể học thủ đoạn qua phương tiện thông tin đại chúng. Tôi có nhớ rằng một đối
tượng nam học được cách đột nhập bằng dây từ nhà nọ sang nhà kia để trộm cắp. Vì vậy,
công tác tuyên truyền phải tiết chế, không lộ nghiệp vụ điều tra của lực lượng công an, không
vẽ đường cho hươu chạy.
Làm sao để tuyên truyền có hiệu quả?
Trung tá: Việc đưa TTTP trong đó chú trọng biện pháp phòng ngừa thì hiệu quả
phòng chống tội phạm rất rõ. Người dân nâng cao ý thức cảnh giác, giả dụ như là tuyên
truyền về một vụ việc ông A bị sơ hở bị mất xe máy hoặc bị trộm cắp tài sản trong nhà. Khi
mà tiếp nhận thông tin người ta cũng rút kinh nghiệm và sẽ phải khóa cửa nhà--chặt hơn và
phải tìm các biện pháp bảo vệ an toàn cho phương tiện.
Đại úy: Khi cung cấp thông tin,cơ quan công an phải chắt lọc, không quá chi tiết.
Đặc biệt phóng viên phải có cái tâm khi viết bài, mang tính chất xây dựng, tuyên truyền để
người dân phòng ngừa, răn đe hành vi phạm tội.
Phân loại tội phạm thế nào?
Trung tá: Đương nhiên là phân loại theo hướng tội phạm, ví dụ về ma túy, môi
trường...phân loại gần như theo Bộ luật hình sự, theo từng nhóm tội danh.
Liều lượng TTTP như thế nào là hợp lý?
Trung tá: Liều lượng để xác định nó cụ thể thì rất khó, nhưng mà cái đấy nó lại do
tình hình thực tế khu vực, địa phương, địa bàn, do cơ quan chủ quản của từng cơ quan báo
chí. Thông tin an ninh trật tự phải hài hòa với các thông tin khác tránh hiện tượng xã hội trở
thành màu tối.
Để đánh giá TTTP hiệu quả thì cần làm gì?
Đại úy: Tôi nghĩ cần điều tra xã hội học đây là một cơ sở khoa học để đánh giá nhưng
rất ít cơ quan thực hiện. Chỉ có một số cơ quan báo chí điện tử là người ta có đánh giá bằng
bảng hỏi trực tuyến. Tôi thấy VTV và ANTV cần có điều tra xã hội học cụ thể để đánh giá
mức độ phản ánh thông tin liều lượng TTTP như thế nào cho phù hợp với xu thế đồng thời
để điều tiết lại các luồng thông tin.
VTV là kênh truyền hình quốc gia thông thường liều lượng TTTP rất là ngắn, hạn
chế. Bên truyền hình ANTV thì có khác biệt, thông tin có chiều sâu hơn.
Trung tá: Với ANTV tính thời sự không được nhanh nhạy hoặc cách khai thác nặng
về nghiệp vụ, khuôn mẫu và chuyên biệt nên nhiều khi người xem thích cách khai thác của
VTV hơn. Bởi vì VTV quay ngược lại hiện trường, hoặc cuộc sống của nạn nhân, người xem
sẽ đón nhận khác hơn.
Cạnh tranh báo điện tử là bài toán khó. Để có thể cạnh tranh thì truyền hình phải có
cách làm hình ảnh phải bắt mắt và dễ xem, sinh động, dễ hiểu.--Báo điện tử cũng có hình
ảnh nhưng không phải đặc trưng nhưng chắc chắn không bằng được truyền hình, mặc dù
nhanh hơn, đáp ứng được nhu cầu về thời gian trước mắt, đáp ứng được cho 1 bộ phận khán
giả. Truyền hình vẫn có không gian xem và lượng khán giả, vẫn có lợi thế về hình ảnh, cách
sắp đặt, dẫn dắt.
Hiện nay trên thế giới truyền hình trực tuyến rất nhiều, sản xuất chính bằng điện
thoại, phóng viên tự làm. Để làm được điều này đòi hỏi các nhà quản lý phải xây dựng được
kế hoạch đào tạo được cơ sở hạ tầng, con người.
Theo các ông có cần thiết để xây dựng một bộ quy tắc khi TTTP trên báo chí?
Trung tá: Theo tôi là cần thiết, không thể phủ nhận những tác dụng của tuyên truyền
phòng chống tội phạm nhưng bên cạnh đó có những thông tin nếu đưa không tính toán có
thể ảnh hưởng đến quốc gia, đến thông tin cá nhân, đến trẻ vị thành niên… nên cần thiết có
chế tài để đưa TTTP hiệu quả nhất. Bộ quy tắc sẽ cụ thể hóa hoạt động của phóng viên khi
đưa TTTP nhằm đem lại những hiệu quả tích cực cho xã hội.
Đại úy: nếu mà để xây dựng Bộ quy tắc thực ra theo tôi thì thấy nó rất cần thiết. Nếu
không quy định cụ thể thì có những người bị bắt nhưng sau này điều tra họ không phạm tội
thì rất ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Chúng ta rất cần một bộ quy tắc để đưa TTTP làm
sao cho nhân văn, ảnh hưởng tích cực đối với xã hội..
Cuộc trao đổi kết thúc hồi 11h cùng ngày.
Phụ lục 3.8
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: Ngày 21 tháng 9 năm 2017
: Vào hồi 9h
: số 1 Lê Đức Thọ, Mai Dịch, Cầu Giấy,
: Nam, Nhà báo, Phó Giám đốc ANTV (Mã 09)
Ngày phỏng vấn
Thời gian
Địa điểm
Người phỏng vấn : Nguyễn Đăng Khang
Phỏng vấn
1. Ông có thể đánh giá một cách khái quát nhất về TTTP trên báo chí hiện nay?
Thời gian qua, một số mạng xã hội cùng một số tờ báo đưa tin quá đậm, tới mức
dày đặc về các vụ án giết người. Đọc các bài báo thường thấy tội ác được mô tả chi tiết,
rùng rợn, kết hợp với một số kết luận có tính suy diễn, quy chụp làm méo mó bản chất sự
việc, rồi đưa ra các thông tin có tính chất xâm hại đời tư... Thông tin báo chí về các vụ án
đang bộc lộ rất nhiều vấn đề đáng lo ngại. Viết về pháp luật nhưng nhiều phóng viên lại vi
phạm nguyên tắc tối thượng của pháp luật là “suy đoán vô tội”. Khâu xử lý biên tập cũng
không kỹ càng nên những lỗi sơ đẳng vẫn gặp hàng ngày trên mặt báo. Phổ biến nhất là tự
ý kết tội hoặc theo hướng “suy đoán…có tội” đối với nghi phạm, bị can, bị cáo. Chẳng hạn
miệt thị gọi họ là y, thị, hắn, kẻ, hung thủ, thủ phạm, tên giết người…Và tình trạng trầm
trọng đến mức đã tới lúc các cơ quan chức năng cần có biện pháp ngăn chặn và xử lý kịp
thời, quyết liệt.
2. Có ý kiến cho rằng, báo chí muốn đứng đắn, nghiêm túc thì không nên đưa TTTP
giật gân, câu khách. Quan điểm của Ông thì sao?
Không phải cứ đưa tin về tội phạm là báo chí không đứng đắn, nghiêm túc. Vấn đề
là cách đưa dẫn thông tin thế nào. Trong bối cảnh cạnh tranh báo chí như hiện nay, khi đưa
TTTP các báo thường tìm cách đặt tít giật gân để hút khách là điều dễ hiểu. Để tạo ra sự giật
gân câu khách nhiều người viết còn cố tình bóp méo, làm sai lệch bản chất thông tin đây là
điều đáng lên án. Đã từ lâu, mấy từ “giật gân, câu khách” luôn tạo một ấn tượng không tốt
trong cách nhìn nhận của những độc giả chân chính.
3. Theo Ông, trong TTTP, nếu người viết chỉ mô tả tội ác đơn thuần mà không lý giải
nguyên nhân gây án, không rút ra bài học ứng xử, bài học đạo đức cho công chúng thì tác
phẩm báo chí đó có tác động tích cực với công chúng hay không?
Trong một xã hội như hiện nay xảy ra bất kỳ một vụ án nào là điều cả xã hội không
mong muốn. Là người cầm bút chân chính, chắc không ai muốn vụ án xảy ra để mình có tin
bài. Bởi vậy ngoài ý nghĩa đáp ứng thông tin đơn thuần, việc đưa TTTP còn có ý nghĩa cảnh
tỉnh công chúng, giúp họ rút ra bài học để tránh lặp lại vụ việc tương tự trong cuộc sống.
Việc đưa tin về tội phạm rồi bỏ mặc quần chúng xử lý thông tin không khác gì một người
bày bừa ra nhiều thứ để người khác đi dọn dẹp. Việc phổ biến TTTP cũng giống như hắt xô
nước bẩn ra vườn, một việc làm vô thức nhưng vẫn khiến cho cỏ dại mọc lên.
Nhiều phóng sự đề cập TTTP sơ sài, chưa đi sâu vào công tác phòng ngừa hoặc phân
tích nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của phạm nhân. Chính vì vậy mà TTTP mới
dừng lại ở góc độ phản ánh, chưa có nhiều phân tích, đánh giá chuyên sâu về nguyên nhân
cũng như định hướng cho khán giả
Thực tế cũng có những thông tin tự thân nó đã là một bài học cảnh tỉnh, song đa
phần cũng cần sự phân tích, đánh giá một cách căn kẽ của người viết. Điều này giải thích tại
sao có hiện tượng: Cùng phản ánh về một vụ việc, có tin bài độc giả thấy thương cảm muốn
chia sẻ với gia đình nạn nhân, trong khi đó có tin bài khán giả xem xong thấy rùng mình,
ghê sợ.
4. Với một tác phẩm báo chí thì tính hấp dẫn là một trong những yếu tố quan trọng.
Trong TTTP, theo Ông/Bà, làm thế nào để TTTP vừa đảm bảo tính hấp dẫn mà không bị sa
vào rẻ tiền, giật gân, câu khách?
Báo chí khi đưa TTTP, để vừa đảm bảo tính hấp dẫn mà không bị sa vào rẻ tiền, giật
gân, câu khách đòi hỏi người viết phải cất công tìm hiểu kỹ vụ việc. Không thể chỉ nhìn bề
nổi của sự việc rồi mặc sức đưa ra lời phán xét. Hiện nay, người đọc dường như đã đến thời
kỳ bội thực thông tin, kể cả thông tin về tội phạm. Những thông tin theo kiểu giật gân, câu
khách cũng sẽ đến lúc không còn dễ dàng thu hút độc giả. Những cách làm ăn xổi, chụp giựt
sẽ dần bị đào thải, nhường chỗ cho cách làm việc mang tính chiều sâu.
5. Theo Ông, để TTTP trong những sản phẩm báo chí không khách quan chân thực
lên sóng, ngoài phóng viên thì còn trách nhiệm của những ai trong quá trình lao động sáng
tạo tác phẩm báo chí?
Trách nhiệm trước nhất thuộc về Tổng biên tập bởi Tổng biên tập là người đứng mũi,
chịu sào, định hướng hướng phát triển nội dung của cơ quan báo chí đó. Nếu Tổng biên tập
nghiêm khắc, không khuyến khích lối viết dạng theo hướng giật gân, câu khách một cách rẻ
tiền thì làm sao có những tin bài liên quan đến tội phạm không khách quan, thiếu nhân văn
xuất hiện. Thứ hai là vai trò của Biên tập viên, đây là “bà đỡ” với tin bài của phóng viên, là
người nắm bắt cụ thể nhất nội dung và là rào chắn đầu tiên của cơ quan báo chí để ngăn ngừa
những tin bài có nội dung phản cảm nói trên.
6. Để đảm bảo TTTP đúng định hướng, theo ông cần phải làm gì?
Yếu tố thành công trong mọi hoạt động là nguồn nhân lực vì vậy muốn chương trình
thành công yếu tố đầu tiên cần quan tâm đó là con người. Con người ở đây chính là đội ngũ
phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên trực tiếp tham gia vào quá trình tác ngiệp và sáng tạo ra
sản phẩm truyền hình nói chung và TTTP trong các bản tin thời sự nói riêng.
Thêm vào đó việc đổi mới nội dung phù hợp với nhu cầu của khán giả là một giải pháp
quan trọng cần được áp dụng triệt để. Khán giả chính là mục tiêu của kênh, vì vậy đáp ứng
trúng và đúng nhu cầu của họ một cách phù hợp, có định hướng sẽ là thành công của bất cứ
cơ quan báo chí tuyên truyền nào.
7. Theo Ông, nội dung TTTP cần chú ý những điểm gì?
Việc phản ánh TTTP tiếp tục bám sát tôn chỉ mục đích, bám sát nhiệm vụ chính trị,
đối tượng phục vụ, không chạy theo lợi nhuận đơn thuần và thị hiếu tầm thường của một số
ít công chúng; Cân nhắc về mức độ, liều lượng khi thông tin về vụ án, tránh thông tin phi
nhân tính, phản cảm, trái luân thường đạo lý.
TTTP phải cung cấp thông tin, đưa tin công bằng, khách quan về các vụ việc, nắm bắt
phương thức, thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm, đặc biệt là các loại tội phạm mới để
tuyên truyền giúp công chúng cập nhật thông tin và có các biện pháp tự bảo vệ, phòng ngừa.
8. Hiện nay, TTTP trong các bản tin thời sự trên kênh ANTV chủ yếu tập trung ở hai
thể loại tin, phóng sự. Theo Ông cần phải có thêm thể loại gì?
Hai thể loại này là cơ bản trong các bản tin thời sự trên kênh ANTV. Theo tôi ANTV
cần tập trung phát huy thế mạnh hai thể loại này là ổn. và theo tôi cần chú ý phát triển tiểu
mục “Tiêu điểm thời sự” với những TTTP chuyên sâu để khán giả có một cái nhìn tổng thể,
khái quát về vấn đề được nêu.
Cuộc trao đổi kết thúc hồi 11h cùng ngày.
Phụ lục 3.9
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: Ngày 28 tháng 10 năm 2017
: Vào hồi 14h
: 44 Nguyễn Du, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Ngày phỏng vấn
Thời gian
Địa điểm
Người phỏng vấn : Nguyễn Đăng Khang
Phỏng vấn
: Nam, Trung tá, Trưởng Ban Thời sự Báo CAND, Bộ Công an
Mã 10
1. Ông có thể đánh giá một cách khái quát nhất về TTTP trên báo chí hiện nay?
Tôi thấy TTTP trên báo chí hiện nay chiếm tỷ lệ rất lớn và có mặt ở hầu khắp các thể
loại báo chí đặc biệt đối với báo điện tử. Cho dù là tôn chỉ, mục đích của các cơ quan báo
chí là khác nhau nhưng thông tin về tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật trên các ấn phẩm
báo điện tử chiếm phần lớn và ở các vị trí nổi bật, cập nhật thường xuyên, liên tục trong
ngày. Còn các thể loại khác như báo hình, báo in, báo nói thì cũng chiếm tỷ lệ lớn nhưng
không nhiều bằng báo điện tử. Tôi cho rằng đây là một thực tế, bởi vì nó có nguyên nhân :
- Trước hết là các cơ quan báo chí bắt kịp xu hướng tâm lý của người đọc, người
nghe, người xem đó là tâm lý tò mò đối với những thông tin mới, những thông tin liên quan
pháp luật bao gồm: kinh tế, tham nhũng, hình sự, ma túy, thông tin nội bộ, thông tin của cơ
quan điều tra, kiểm tra các loại từ Trung ương đến địa phương. Xuất phát từ tâm lý như vậy,
các cơ quan báo chí cũng đi theo hướng đấy để đáp ứng nhu cầu của người đọc.
- Cái thứ hai là bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống thì những vấn đề vi phạm pháp luật
về tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp, diễn ra rất nhiều nơi và với các thủ đoạn rộng
khắp và mỗi vụ có một đặc trưng, đặc điểm khác nhau nên gây ra sự tò mò và sự kích thích
tìm hiểu tâm lý của người đọc, người xem, người nghe. Còn về truyền hình chúng tôi thấy
hiện nay trên các kênh của VTV, VTC, VOV, ANTV về pháp luật cũng tương đối phong
phú, bao gồm như trong VTV thì có Chuyển động 24 với chuyên mục là điểm tin thường
ngày, ANTV là kênh chuyên biệt của lực lượng thì chúng ta đã có nhiều chuyên mục, trong
đó VOV và VTC cũng với thì mức độ và liều lượng ít hơn và chia ra các khung giờ, múi giờ.
Nếu so sánh với báo điện tử thì rõ ràng là báo điện tử có sự vượt trội hơn.
2. Ông cho biết ảnh hưởng của TTTP đến nhận thức, thái độ và hành vi của công
chúng (tích cực, tiêu cực)?
Khi chúng ta thông tin các vụ việc tiêu cực về tình hình tội phạm trên báo chí, dụng
ý của các cơ quan, của người làm báo một là để phản ánh thông tin đó. Thứ hai là để cảnh
báo, phòng ngừa, răn đe tội phạm đồng thời nêu ra những thủ đoạn để giúp người dân hiểu
và cảnh giác, đồng thời cũng nêu hình thức xử lý tội phạm để cảnh báo, ngăn ngừa. Chúng
tôi cho rằng với thông tin rất phong phú trên mạng, trên các loại hình báo chí hiện nay thì
người đọc tiếp cận ở nhiều góc độ trong khi đó báo chí hiện nay đang chạy đua với thông tin
luôn đòi hỏi thông tin nóng, mới lạ, hấp dẫn, giật gân. Thông tin được dẫn dắt bởi ý thức chủ
quan của người viết bài theo một logic mà họ đang hướng đến đó là sự độc đáo hay là sự dị
biệt trong vụ án xảy ra chẳng hạn nhằm mục đích là cảnh báo, phòng ngừa.
Hiện nay TTTP trên báo chí chủ yếu là thông tin vụ việc và giật gân, câu view đặc
biệt trên báo mạng điện tử là nhiều, còn những bài viết chuyên sâu nhất là phòng ngừa tội
phạm, đưa ra những bài học, đề cao tính cảnh giác và đưa ra những thủ đoạn của tội phạm
để giúp người dân nâng cao cảnh giác thì có--nhưng mật độ chưa nhiều và cũng chỉ chiếm
một tỷ lệ nhỏ so với các vụ việc mà thông tin báo chí phản ánh.
Điểm thứ hai, với góc độ người đọc, người nghe, người xem thì khi người ta tiếp cận
TTTP thì mục đích của họ là gì, để phòng ngừa hay là chỉ để biết thông tin ấy, hay là ghi lại
để học theo. Theo tôi phổ quát nhất vẫn là để biết thông tin, còn từ vụ việc đó đúc rút ra kinh
nghiệm cho bản thân, cho chính họ thì cũng có nhưng mà là tỷ lệ chưa nhiều.
Lấy ví dụ vừa qua các ngân hàng thường xuyên cảnh báo rủi ro về các đối tượng mạo
danh để lừa đảo chuyển tiền. Tôi biết rất nhiều người có đọc, nghe, xem nhiều lần nhưng
vẫn có nhiều cán bộ, công nhân, viên chức vẫn bị lừa. Như vậy chứng tỏ là thông tin đó mặc
dù được đưa nhiều nhưng tính cảnh báo chưa được sâu rộng.
Thứ ba, tội phạm cũng là một đối tượng độc giả. Khi đưa lên như vậy mặc dù là cảnh
báo nhưng có không ít thông tin miêu tả phương thức, thủ đoạn mà tội phạm có thể học theo.
3. Theo ông những yếu tố nào dẫn đến sự ảnh hưởng của TTTP đối với công chúng (độ
tuổi, giới, trình độ, nhận thức, điều kiện, mục đích tiếp nhận thông tin)?
Thực tế chúng ta thấy khi đưa thông tin thì chúng ta cũng không khoanh vùng được
độc giả, chúng ta sẽ hướng đến người đọc là ai ví dụ miền núi, vùng sâu, vùng xa hay là tầng
lớp thanh thiếu niên hay cán bộ, công nhân viên chức? Tôi cho rằng nếu mỗi loại hình báo
chí chúng ta xây dựng được tôn chỉ, mục đích, đưa theo đúng hướng thì mới chuyên sâu
được.
Ngày nay báo chí đang chạy theo thông tin nhanh, mới, nóng. Ví dụ với những những
tạp chí, báo phản ánh về nông thôn thì đối tượng của họ đó là người nông dân. Như vậy họ
phải có những tác phẩm chuyên sâu cảnh báo tội phạm ở vùng thôn quê, đó là những loại tội
phạm nào, những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm từng vùng như đồng bằng Bắc Bộ,
Tây Bắc có đi sâu như vậy thì sẽ tìm ra được đặc điểm, đặc thù và sẽ có phân tích kỹ hơn và
đưa ra bài học phòng ngừa cụ thể hơn.
Hiện nay những bài viết như vậy thì vẫn có nhưng chưa phổ quát chưa đạt được yêu
cầu, hầu như hiện nay chúng ta đang chạy theo sức ép là thông tin nhanh, mới.
Một TTTP khi đưa ra nếu là cán bộ, đảng viên ở đồng bằng thì góc độ hiểu biết khác
với một người ở vùng sâu, vùng nông thôn hay đối tượng là học sinh, sinh viên, các bạn trẻ
thì cách tiếp cận và nhận thức từ vụ việc đó nó đã là khác nhau. Do vậy chúng ta cần những
tác phẩm chuyên sâu để làm sao những người đọc bình thường vẫn hiểu được, vẫn nắm được,
như vậy thì đòi hỏi từng vụ việc diễn biến con người và hành vi đó rất cụ thể. Nếu mà mang
tính phổ quát chung thì tôi nghĩ khó có thể đưa ra được một diện để tất cả mọi người đều
nắm được như nhau.
Ví dụ bây giờ những thông tin về các vụ việc tham nhũng, thường báo chí chỉ đưa
thông tin ban đầu trong khi đó trên mạng xã hội lại có nhiều phân tích, suy diễn. Người đọc
thiếu góc nhìn khách quan, đa chiều dễ bị cuốn hút vào những bài viết thông tin là thật giả
lẫn lộn này. Tôi nghĩ vấn đề này khá phổ biến trên báo chí và mạng xã hội hiện nay.
4. Căn cứ vào thực tế TTTP trên báo chí hiện nay, ông có thể phân loại TTTP theo
những dạng thức nào?
Có nhiều cách phân loại nhưng mà có thể kể đến phân loại từ tính chất của tội phạm.
Đối với những vụ việc mà nó diễn ra tính chất nhỏ lẻ, không nghiêm trọng thì đưa tin. Ví dụ
như va quệt giao thông, đâm chém, giết người do mâu thuẫn nhất thời. Còn những vụ việc
tính chất nghiêm trọng hay vấn đề mà dư luận xã hội quan tâm, cơ quan điều tra đang điều
tra và đang mở rộng ra nhiều lĩnh vực thì đưa sâu đưa kĩ. Đặc biệt đối với các loại tội phạm
đang gia tăng và đang còn gây hệ lụy trong xã hội đòi hỏi phải có sự tổng kết, sơ kết để đúc,
rút ra bài học kinh nghiệm để giúp người dân phòng ngừa cảnh giác thì có thể làm theo
chuyên đề.
Tôi lấy ví dụ như là tội phạm tín dụng đen thì đây là vấn đề lớn diễn ra trong một
thời gian dài ở nhiều địa phương. Nguyên nhân là người dân vì thiếu tiền cần phải vay nóng,
không trả được nợ thì dẫn đến những hệ lụy rất nghiêm trọng. Bộ cũng đã có chỉ đạo công
an các đơn vị, địa phương trấp áp, tăng cường công tác nắm tình hình, kiểm tra, rà soát các
đối tượng cho vay lãi nặng, tín dụng đen để đấu tranh trấn áp, xử lý nghiêm. Tôi thấy đối
với những lĩnh vực như vậy phải làm chuyên sâu và mục đích hướng đến đó là chỉ ra được
loại tội phạm, những thủ đoạn mà các đối tượng đang sử dụng. Và thứ hai đó là đúc rút ra
bài học kinh nghiệm để người dân cần phải nâng cao cảnh giác, phòng ngừa. Để thông tin
về loại tội phạm này có hiệu quả cần chú ý:
- Một là những TTTP chúng ta đưa cần đơn giản, ngắn gọn.
-Thứ hai là những nhiều vụ việc cần đưa sâu, đưa kỹ và đưa phải thường xuyên.
-Thứ ba là tổng kết và đánh giá một cách kỹ lưỡng để đảm bảo việc tuyên truyền có
hiệu quả và chuyên sâu
Thực ra đối với các cơ quan lập pháp và cơ quan tiến hành tố tụng thì người ta phải
phân loại như vậy. Bởi vì tính chất của các loại tội phạm là khác nhau: xâm phạm về sở hữu,
xâm phạm nhân thân, xâm phạm an ninh thì tính chất là khác nhau. Đối với thông tin về báo
chí trên mặt báo hiện nay chúng tôi cũng không có điều kiện để phân ra nhiều loại, chúng
tôi phân theo từng chuyên mục, thông thường có thể là có thể chia ra 2 loại thôi, đó là tội
phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Những tội
phạm xâm phạm an ninh quốc gia, các đối tượng chống phá nhà nước, chống phá Đảng,
chính quyền, phải viết sâu và kỹ. Thứ hai, về tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội thì
mình thông tin thường hàng ngày, tùy vào diễn biến vụ việc cụ thể để xem thông tin nào cần
sâu, cái nào cần kỹ, cái nào cần đưa bình thường.
5. Theo ông tần suất, số lượng có ảnh hưởng không?
Theo tôi tần suất và số lượng chắc chắn có sự ảnh hưởng. Theo tôi trong một thời
điểm, một ngày, vài ngày liên tục chúng ta đưa quá nhiều thông tin về tội phạm, vi phạm
pháp luật chắc chắn thông tin đó nó sẽ bị giãn ra, người đọc sẽ bị phân tán. Ví dụ cùng một
thời điểm, một vụ việc tham nhũng bị phanh phui thì công chúng sẽ tập trung vào vụ đó,
nhưng nếu có 3- 4 vụ xảy ra giống nhau mà cơ quan báo chí nào cũng đưa tin chắc chắn là
công chúng sẽ phân tán. Người đọc sẽ không còn lưu tâm đến vụ việc cụ thể cho dù tần suất
và số lượng dày đặc. Chính vì thế tôi cho rằng phải xác định thông tin nào là thông tin chủ
đạo trong ngày đó, còn những thông tin khác thì chỉ đưa tin vắn. Ví dụ trong một ngày, một
vụ việc nào đó, cái gì dư luận đang cần quan tâm, nhìn nhận thì chúng ta đưa ra sâu và đưa
lên làm chủ đạo. Còn những tin khác thì mình có thể chỉ đưa tin đơn giản thậm chí có nhiều
vụ việc khác không cần đưa tin.
6. Hiện nay báo mạng điện tử, mạng xã hội với ưu thế thông tin nhanh, công chúng
dễ dàng tiếp cận nhất là với những thông tin liên quan đến tội phạm, vậy truyền hình VTV1
và ANTV cần phải làm gì để nâng cao sự ảnh hưởng của TTTP?
Có lẽ chúng ta nói đây là yếu tố đa nền tảng. Bên trong báo điện tử tích hợp báo hình,
các chuyên mục lồng ghép vào. Chúng tôi cho rằng đây là một xu thế, cũng là khách quan,
là xu thế tất yếu để đảm bảo là người xem truyền hình có thể xem được nhiều nơi, tiếp cận
ở nhiều góc độ, điều kiện. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng người xem truyền hình trên
điện thoại có thể xem trong lúc ngồi nghe nhạc, trên ô tô, trong phòng khách đó chỉ là để
đáp ứng nhu cầu thông tin theo xu hướng hiện nay. Dù công nghệ thông tin có phát triển thế
nào thì xem truyền hình qua tivi truyền thống vẫn là vẫn là hàng đầu, mới đưa lại hiệu quả
lớn nhất cho chúng ta.
7. Theo ông, có cần thiết đưa ra bộ quy tắc khi thông tin về tội phạm
Tôi cho rằng cần thiết phải có bộ quy tắc đó trong đó chia nhỏ ra từng lĩnh vực để dễ
hiểu và vận dụng trong từng giai đoạn cụ thể và từng vụ việc, vụ án cụ thể. Hiện nay các vụ
việc phạm tội về kinh tế, tham nhũng thì cơ quan điều tra làm rất chặt chẽ và thông tin cũng
rất chặt chẽ. Phần lớn báo chí chỉ được cơ quan chức năng cung cấp những thông tin ban
đầu, cơ quan báo chí nào khai thác thêm thì phải chịu trách nhiệm. Yếu tố này mâu thuẫn
với cái tâm lý của người đọc, tức là khi vụ việc xảy ra người ta muốn có thông tin ngay, cụ
thể là như thế nào. Tuy nhiên, tôi cho rằng không thể vì tâm lý tò mò của công chúng mà
chúng ta làm không đúng. Chính vụ vậy, cần phải có bộ quy tắc làm quy chuẩn./.
Cuộc trao đổi kết thúc hồi 16h cùng ngày.
Phụ lục 3.10
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: Ngày 29 tháng 11 năm 2017
: Vào hồi 9h
: TP Quảng Ngãi, Quảng Ngãi
Ngày phỏng vấn
Thời gian
Địa điểm
Người phỏng vấn : Nguyễn Đăng Khang
Phỏng vấn
: Nam, Phóng viên, Đội trưởng Tuyên truyền, ANTV Quảng
Ngãi, Mã 11
Anh đánh giá thế nào về TTTP trên báo chí hiện nay, trong đó lưu tâm truyền hình
và báo điện tử?
TTTP trên báo chí hiện nay rất đa dạng. Khi mà những cơ quan báo chí, truyền hình
đưa đúng sự thật về TTTP sẽ giúp hạn chế việc các trang báo lá cải tung ra những TTTP
không đúng sự thật, nói quá lên hoặc giật tít, câu like. Tuy nhiên, một bộ phận báo chính
thống để tranh giành lượng khán giả, họ cũng giật tít câu like, đi sâu vào các tình tiết, loại
tội phạm đó. Trên mạng xã hội, một số cá nhân đi sâu bới móc, đưa tình tiết rõ quá. Cộng
hưởng lại sẽ thành vẽ đường cho hươu chạy. Mặt trái của nó sẽ làm cho người dân bất an,
hoang mang, lo sợ. Thứ nữa là bọn tội phạm sẽ biết trước tình tiết, vấn đề, biết cách đối phó
với các cơ quan chức năng.
Nếu đánh giá TTTP trên TH thôi, chưa bàn đến truyền hình ANTV, ví dụ như VTV1,
anh hay theo dõi bản tin thời sự 19h cũng như bản tin chuyển động 24h, thì cách thức đưa
TTTP của họ có đặc thù và khác biệt gì không?
Cách thể hiện TTTP trên VTV1 hoặc Chuyển động 24h thì rất đa dạng và phong phú,
lôi kéo người xem và nó làm khác cách đưa tin với các đài khác. Nó lôi cuốn người xem,
TTTP không đi sâu quá như những tờ báo mạng các kênh truyền hình khác đang khai thác.
Anh vẫn thường xuyên gửi tin bài cho Kênh ANTV, nếu mà để đánh giá một cách
khách quan nhất, các bản tin, đặc biệt là bản tin 113 online, Thời sự An ninh thì cách đưa
tin có vấn đề gì bất cập không?
Đối với kênh truyền hình ANTV thì bản tin 113 Online, Thời sự An ninh so với các
bản tin của các kênh truyền hình khác thì mảng TTTP có lợi thế lớn nhất. Cách thể hiện về
cơ bản đã đánh đúng vào tâm lý khán giả, mang lại hiệu quả rất tích cực, đưa thông tin chính
xác, định hướng đúng cho khán giả xem truyền hình.
Nhưng cách thức đưa tin vẫn theo lối mòn, bản thân anh là người thực hiện và cũng
là khán giả thì anh thấy như thế nào?
Có thể là do tôi thường xuyên xem nhiều nên đã quen với cách thể hiện, nhưng trong
thời gian gần đây thì cách thể hiện của kênh ANTV chưa có nhiều đổi mới. Tôi mong các
bản tin sẽ mang tính tương tác, sinh động hơn nữa, làm sao để khi tác phẩm sau khi lên sóng
có sự tương tác với khán giả, cách thể hiện phong phú, thông tin đa dạng.
Một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu đối với một sản phẩm báo chí đó là
tính hấp dẫn, tuy nhiên, để TTTP vừa đảm bảo tính hấp dẫn lại không bị sa vào giật gân câu
khách, thì với bản thân anh, anh làm truyền hình, anh thấy phải làm sao để hấp dẫn nhưng
lại không đi vào lối mòn?
Trước tiên thông tin đi phải đảm bảo chính xác, thế nhưng để hấp dẫn, cách thể hiện
của phóng viên làm sao phải không đi theo lối mòn, phải là thông tin khách quan hai chiều,
có sự tương tác giữa khán giả và người thực hiện. Bên cạnh đó, thông tin phải do chính khán
giả cảm nhận, họ được nói ra cái thông tin đó, họ chia sẻ một cách gần gũi và TTTP đó sẽ
được người dân đón nhận với tính chất là thông tin cảnh giác, phòng ngừa, không giật gân,
câu khách.
Để đánh giá TTTP trên ANTV, nếu để suy nghĩ một cách thấu đáo nhất để nói ảnh
hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực, theo anh nó có ảnh hưởng như thế nào?
Đối với kênh truyền hình ANTV cũng như kênh VTV1 thì TTTP luôn chính thống,
mang tính tích cực, hiệu quả đối với người xem. VTV thì họ có thuận lợi hơn là sóng quốc
gia, tuy nhiên VTV là tổng hợp các thông tin, khán giả xem truyền hình vẫn đón đợi TTTP
từ ANTV hơn.
Để nói về yếu tố tiêu cực thì liệu TTTP có thể gây ảnh hưởng đến sự gia tăng của
tình hình tội phạm hay không (chỉ nhấn mạnh ANTV và VTV)
Theo tôi vẫn có mặt trái của nó, có nghĩa là khi chúng ta đưa thủ đoạn ra sao, cách
phòng ngừa, thì vô hình chung bọn tội phạm cũng xem, nó biết rằng các thủ đoạn đã đưa ra
hết rồi thì chúng sẽ làm tìm cách đối phó bằng các phương án khác để trốn tránh các cơ quan
chức năng. Mặt trái thứ hai là những vụ việc đưa hàng ngày, ví dụ ANTV đưa tin tội phạm
giết cha mẹ, gia đình... thì mặt trái là sự hoang mang, lo lắng bất an cho xã hội. Cái thứ ba
là thanh thiếu niên khi xem TTTP sẽ phần nào bị ảnh hưởng bởi cách hành xử, hành động,
dẫn đến đua đòi bắt chước để chứng tỏ bản thân.
Tại Quảng Ngãi, anh có thể cho một ví dụ khi đưa một TTTP nó có ảnh hưởng tích
cực, tức là người dân có thể thay đổi nhận thức?
Những TTTP trên ANTV hay truyền hình Quảng Ngãi là rất hữu ích, người dân sẽ
biết được những thủ đoạn mới của các loại tội phạm để biết cách phòng ngừa, để người dân
nâng cao nhận thức, phòng chống. Ví dụ như thủ đoạn cho số đề trúng thưởng, nạn nhân là
những người có tuổi khi chúng giả danh Công an, chúng gọi điện tới thì ban đầu tỉ lệ rất cao
người dân không biết, cứ nghe nó hù dọa thì chuyển khoản cho nó. Nhưng khi cơ quan chức
năng bắt đầu tuyên truyền thủ đoạn đó trên truyền hình Công an thì người dân họ hiểu hơn,
có biện pháp phòng ngừa kịp thời. Chính những thông tin đó sẽ giúp người dân nâng cao
cảnh giác, ví dụ như người dân ra chợ sẽ bàn tán, nói chuyện với nhau về các thủ đoạn của
tội phạm mà truyền hình đưa tin, từ đó họ sẽ cảnh giác cao hơn.
Hiện nay, mạng xã hội, báo điện tử gần như chiếm dần vị trí của truyền hình, trong
giai đoạn hiện nay, anh cũng là người làm truyền hình, thì theo anh, truyền hình cần phải
làm gì trong thời buổi cạnh tranh như thế này, đặc biệt là cạnh tranh với báo điện tử và
mạng xã hội?
Tôi thấy trước tiên, công nghệ của truyền hình phải làm sao đáp ứng được tính nhanh
nhạy, làm sao để xem thông tin truyền hình ngay trên điện thoại, tức là thông tin chuyển tải
tới khán giả một cách kịp thời, tiện lợi mọi lúc, mọi nơi. Thứ hai là cách thể hiện của truyền
hình phải gần gũi, không nên cứng nhắc đến giờ giấc này đưa bản tin này, làm sao mà phù
hợp với mọi lứa tuổi. Ngoài ra, cách giật tít cần mới lạ, ngắn gọn, dễ hiểu nhưng không đi
quá đà, các thông tin phải liên kết với mạng xã hội như zalo, facebook để công chúng có thể
truy cập dễ dàng.
Anh có đề xuất gì để TTTP trên ANTV và VTV được hiệu quả hơn, nhất là trong thời
điểm hiện tại? (về cách thức tổ chức, đào tạo phóng viên...)
TTTP hiện nay thì hình ảnh hiện trường vẫn còn hạn chế. Cần chú ý sử dụng cộng
tác viên tại nơi xảy ra vụ việc, thông tin cần nhanh chóng kịp thời, chứ không đơn thuần là
khai thác từ tội phạm trong phòng giam...
Cuộc trao đổi kết thúc hồi 11h cùng ngày.
Phụ lục 3.11
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: Ngày 03 tháng 1 năm 2017
: Vào hồi 8h
: TP Hồ Chí Minh
: Nam; Phó Tổng biên tập phụ trách Báo Công an TPHCM, Mã 12
Ngày phỏng vấn
Thời gian
Địa điểm
Người phỏng vấn : Nguyễn Đăng Khang
Phỏng vấn
Hỏi : Báo giấy một vài năm tới như anh chia sẻ nó không tươi sáng, tuy nhiên với
đài truyền hình thì sao?
Bây giờ mạng xã hội facebook phủ sóng toàn cầu đến tận hang cùng ngõ hẻm. Thậm
chí hang động ở Quảng Bình vẫn có thể vào, lúc này mình không độc quyền thông tin nữa.
Hôm qua Bộ Thông tin và Truyền thông họp với Thành ủy TPHCM, Bí thư Nguyễn Thiện
Nhân tiếp, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông có đề xuất, thay thế facebook, ước mơ
như Trung Quốc, nay mới chỉ có Trung Quốc làm được. Chưa có nước nào làm được, Nga
chưa làm được. Nước ta chưa đủ trình độ, chưa đủ tiền bạc, năng lực phương tiện để có thể
làm được điều đó.
Sống trong thời buổi bây giờ, địch ta lẫn lộn, lề trái liên tục xuất hiện thông tin.
Truyền thông của mình không phải cái gì cũng nói được cũng công khai được, tuy nhiên
trong chừng mực nào đó cần công khai. Mình phải chủ động thông tin, những thông tin công
khai được càng nhanh càng tốt.
Đối với báo chí Hàn Quốc không sợ mạng xã hội, bởi mạng xã hội chỉ là những tin
giải trí…bên đó không có gì cấm đoán cả. nếu đưa tin sai sẽ xử phạt. Ở mình thì khác, mạng-
-xã hội mình sống được, phải nói một sự thật đau lòng, báo chí chính thống không được nói,
biết cũng không được, cứ phải chờ chỉ đạo.
Ví dụ Báo CAND, bán mấy chục ngàn bản…nhưng có bán được cho dân đâu. Anh
đừng ru ngủ chính mình. Chỉ mong các nhà quản lý, có gì nói được hãy nói nhanh lên. Một
trong những cái báo chính thống không nói được, những vấn đề tiêu cực áo chính thống
không nói được nhưng mạng xã hội nói được…để giái quyết rất khó.
Hỏi : Theo ông, ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của thông tin TTTP của truyền hình
quốc gia VTV1 và truyền hình chuyên biệt ANTV đối với công chúng như thế nào?
Thực ra anh nhớ rằng lúc mà mình chưa ra được kênh ANTV, thì VTV có mấy
chương trình chuyên về ANTT đó rồi. Bây giờ mình cũng ra kênh ANTV thì rõ ràng và bộ,
ngành có lợi hơn. Bởi vì mấy chương trình kia nó chỉ trong một thời điểm nhất định, nó bị
hạn chế về thời lượng phát sóng, thời gian phát sóng. Theo anh hiểu cái đó nó còn cân bằng
nhiều kênh, nhiều chương trình, nhiều bộ, ban ngành nên họ không chú trọng sâu lắm.
Khi ra được kênh ANTV, ngoài tuyên truyền hoạt động của ngành… nói về hoạt
động công an… ANTV rất tốt, tuyên truyền ngành…dù sao mình là kênh công an thành thử
là mình nói rất sâu, tạo độ tin cậy.
Hỏi: Thời gian vừa qua, theo dõi những bản tin thời sự VTV đơn cử như Chuyển
động 24h, Thời sự 19h và một số bản tin của truyền hình công an như: Thời sự an ninh, Nhật
ký an ninh thì anh thấy cách thức tổ chức, TTTP có những điểm hạn chế gì?.
Qua theo dõi anh thấy rằng chương trình gần cuộc sống, không còn kiểu ngồi nhà
làm báo, nhanh nhạy theo kịp rồi. Quan điểm của anh chương trình được, nên phát huy,
người ta cần loại thông tin đó. Đừng chờ, rất sợ chờ sự chỉ đạo, một khi em chờ chỉ đạo là
thua. Nên thỉnh thoảng làm một số phóng sự vạch trần âm mưu thủ đoạn bọn lề trái, có những
sự việc tiêu cực mình nên nói, chọn góc độ nói, làm giảm bớt hệ quả xấu của thông tin. Với
những vụ lớn có tầm ảnh hưởng thì ANTV cần có tiếng nói, nên xông vào, xã hội sẽ thay
đổi ngay.
Tôi đánh giá VTV truyền hình quốc gia sóng lớn, tỷ lệ người xem đông và thậm chí
là bản tin của nó đã trở thành món ăn quen thuộc 19h hàng ngày rồi thì rõ ràng tiếng nói của
nó thậm chí rất quan trọng. Với ANTV, nhiệm vụ tuyên truyền cho lực lượng. Đài quốc gia
tuyên truyền cho Đảng, Nhà nước. Mình cần tìm tiếng nói riêng biệt, bản sắc riêng biệt.
Hỏi: Để TTTP khách quan, hấp dẫn thì đối với mỗi nhà báo và đặc biệt các cơ quan
báo chí cần phải làm gì?
Đôi với tờ báo công an thành phố, có 50-70 phóng viên thì các công việc sẽ chia ra
từng khu vực, ví dụ có người phụ trách mảng quận, huyện, phụ trách mảng phòng ban, phụ
trách các tỉnh. Một phóng viên phải làm tốt công tác quản lý địa bàn, có chuyện gì xảy ra
phải biết và nguyên tắc nếu để báo bạn đăng mà báo mình không đăng là sẽ bị kiểm điểm.
Anh nghĩ rằng càng nhiều thông tin càng tốt, càng kỹ càng tốt. Một bài viết, bài điều
tra thì phóng viên phải tuân thủ việc đầu tiên là thông tin nhanh nhạy và quan trọng nhất là
thông tin chính xác nhất là báo chí của ngành công an càng phải chính xác. Bài viết hay, dở
phụ thuộc năng lực phóng viên. Đối với TTTP không được viết quá đà, mô tả tỉ mỉ vụ án.
Để tờ báo đến bạn đọc tốt nhất phải nhanh nhạy thông tin. Báo in thua báo điện tử
nhưng báo điện tử không đưa dài và sâu được. Khi mình đưa sau thì mình phân tích sâu, đưa
ra được bài học.
Cuộc trao đổi kết thúc hồi 09h30 cùng ngày.
Phụ lục 3.12
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: Ngày 03 tháng 1 năm 2017
Ngày phỏng vấn
: Vào hồi 14h
Thời gian
Địa điểm
: Hội Nhà báo TPHCM
Người phỏng vấn : Nguyễn Đăng Khang
Phỏng vấn
: Nam; Chủ tịch Hội Nhà báo TPHCM, Nguyên Phó Tổng
Giám đốc Đài Truyền hình TPHCM. Mã số 13
Câu 1: Là Chủ tịch Hội Nhà báo TPHCM, ông đánh giá như thế nào về TTTP trên
báo chí hiện nay?
Thông tin chuyên biệt về tội phạm, các cảnh báo về tội phạm chủ yếu có trên ANTV,
VTV, nhiều đài địa phương cũng có những chương trình như vậy. Như vậy sẽ tạo ra một
lượng thông tin rất khổng lồ về tội phạm, điều đó có 2 mặt, một mặt là cảnh báo nhưng mặt
khác bọn tội phạm sẽ học được cách phạm tội. Chính vì vậy, làm truyền hình mình phải hết
sức thận trọng.
Rõ ràng khi mình phản ánh TTTP trên các kênh truyền thông thì sẽ có rất nhiều vấn
đề. Thứ nhất, như tôi nói là có thể làm người ta bắt chước, chưa kể là những điều đó có thể
tác động tới trẻ em, mà trẻ em nhận thức có giới hạn... Chính vì vậy, TTTP trên TH phải hết
sức thận trọng, không đưa những hình ảnh ghê rợn, nó sẽ tác động tới tâm lý rất là lớn. Tôi
nhận thấy trên báo chí hiện nay nhiều đơn vị đưa tin rất là tỉ mỉ, bóp cổ như thế nào, chặt
tay, chém ra sao..... nói chung rất là phản cảm về cả ngôn ngữ và hình ảnh. Chính vì vậy,
điều đáng lưu tâm nhất khi đưa tin về tội phạm trên báo chí hiện nay là cần phải thận trọng
về mặt hình ảnh bởi vì những hình ảnh tác động rất ghê gớm về mặt tâm lý.
Câu 2: Trong cương vị người quản lý, ông đã bao giờ có những quy định hoặc định
hướng trong việc đưa tin về tội phạm?
Cần phải định hướng và phải định hướng từ xa. Nếu một trong những trường hợp đó
xảy ra ở đơn vị mình thì phải làm rõ ngọn ngành.
Câu 3: Tính hấp dẫn là yếu tố quan trọng trong TTTP, tuy nhiên làm sao để vừa hấp
dẫn nhưng lại không sa vào những tình tiết giật gân câu khách khi phản ánh TTTP trên báo
chí?
Phải xử lý về kỹ xảo hình ảnh, đồ họa...chúng ta có nhiều cách để giảm nhẹ mức độ
ảnh hưởng về mặt tâm lý. Trong mỗi vụ việc thì phải có cách viết đúng định hướng, thứ nhất
là cảnh báo cho xã hội, thứ hai là lên án những hành động đó. Và quan trọng nhất là trên
tổng thể, một bản tin hay một trang báo phải cân đối các loại tin tức chứ không thể chỉ đưa
về một vấn đề.
Để mà quản lý những thông tin giật gân thì phải từ người đưa tin. Phóng viên, biên
tập viên cần có cái gốc, phải tự ý thức được những gì cần thiết phải đưa trong các thông tin
về tội phạm. Chính người làm ra thông tin mới là người quyết định tính hấp dẫn của thông
tin đó. Quan trọng thứ 2 là sự tiếp cận của xã hội với thông tin đó.
Câu 4: Nếu có một đề nghị để thông tin về tội phạm trên truyền hình có hiệu quả đối
với xã hội thì ông sẽ đề xuất điều gì?
Đề xuất cụ thể thì rất trừu tượng, vì nó chỉ có thể đúng trong một trường hợp nhất
định, còn đối với cái chung thì mình cần phải giáo dục cho cả người lãnh đạo và đội ngũ
phóng viên, biên tập viên thực hiện chương trình.
Câu 5: Ông đã từng được tiếp xúc với các Hội Nhà báo hoặc chuyên gia nước ngoài,
anh thấy cách thức đưa tin tội phạm của họ như thế nào, xin ông cho ví dụ cụ thể? Ông thấy
cần thiết phải có Bộ quy tắc về TTTP trên báo chí?
Đối với một số nước Châu Á, thì hệ thống của họ cũng có cảnh báo giống như mình
nói nãy giờ, một số nước theo đạo Phật như Thái Lan...thì họ cũng rất hạn chế đưa lên truyền
hình những thông tin gây ảnh hưởng tới xã hội. Hay như ở Hàn Quốc, tôi cũng đã từng được
tiếp xúc thì các giá trị truyền thống, giá trị đạo đức, họ rất giữ gìn. Trên truyền thông họ rất
là thận trọng trong vấn đề giáo dục thế hệ trẻ.
Tôi nghĩ việc xây dựng một bộ quy tắc khi TTTP trên báo chí là cần thiết để các cơ
quan báo chí tham khảo, làm theo. Bấy lâu nay chúng ta chỉ đưa ra quy ước mang tính tự
phát kiểu như: nạn nhân trẻ em phải che mặt, người phạm tội phải che mặt…Có Đài Truyền
hình bắt buộc phải che, có Đài thì tùy phóng viên…Tôi nghĩ tự phát như vậy là không được.
Câu 6: Nếu xét về chuyên môn, khi đưa tin thì VTV ngoài đưa tin về tội phạm còn
đưa tin về những vấn đề khác trong xã hội, còn đối với ANTV thì là kênh truyền hình chuyên
biệt về ANTT vậy ông nhận xét về cách thức đưa tin trên 2 kênh truyền hình này như thế
nào?
Nói chung cách đưa tin là tốt, kênh chuyên biệt thì nó sẽ khác với kênh tổng hợp.
Như ANTV thì cần đi vào chiều sâu nhiều hơn, không nên thông tin dàn trải, cần chú ý phân
tích lợi hại trong từng vụ việc.
Câu 7: Trong giai đoạn hiện này thì báo mạng, mạng xã hội, đang dần chiếm ưu thế,
truyền hình dường như đang bị lép vế dần, ông có đồng tình với quan điểm này không?
Theo tôi không phải vậy, đối với những người có học thức, hiểu biết thì họ sẽ vẫn
muốn xem những thông tin chính thống. Tuy nhiên, truyền hình cần nhanh hơn trong đưa tin
nhưng quan trọng vẫn là tính chính xác. Chậm hơn một chút nhưng đàng hoàng, chính xác
còn hơn nhanh mà chưa đúng. Giữa cái đúng và cái nhanh thì khán giả bao giờ cũng sẽ chọn
cái đúng.
Cuộc trao đổi kết thúc hồi 15h30 cùng ngày.
Phụ lục 3.13
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: Ngày 17 tháng 6 năm 2017
: Vào hồi 14h
: Tại Thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk
: Nam, Phó Trưởng phòng ANTV Đắk Lắk, Mã 14
Ngày phỏng vấn
Thời gian
Địa điểm
Người phỏng vấn : Nguyễn Đăng Khang
Phỏng vấn
1. Hỏi: Đồng chí cho biết những hiểu biết về TTTP?
Riêng vùng Tây Nguyên ví dụ ở Đắk Lắk, chúng tôi nỗ lực tuyên truyền, truyền thông
về TTTP mục đích nâng cao nhận thức, góp một phần nâng cao dân trí để phòng ngừa tội
phạm. Một là nhận thức để mọi người hiểu về các đặc điểm, phương thức, thủ đoạn hoạt
động của các loại tội phạm ở vùng. Ở Tây Nguyên, đồng bào dân tộc thiểu số cũng nhiều
nên cách thức truyền thông và đưa thông tin nó cũng phải gắn với cái nhận thức dân trí.
Đồng bào dân tộc thiểu số cần ngôn ngữ truyền hình mộc mạc, đơn giản, dễ hiểu chú trọng
tâm lý, văn hóa, tập quán người ta mới cảm nhận được thông tin mình đưa ra, ngoài mình
tuyên truyền TTTP bằng tiếng Kinh thì phải lưu ý đến tiếng tiếng dân tộc thiểu số nó mới
hiệu quả, tác động lan tỏa, nâng cao hiệu ứng xã hội và tác dụng lớn để phòng ngừa tội phạm.
TTTP dày quá thì sẽ có những hiệu ứng phụ, tác dụng không tốt, làm cho người ta bi
quan hoặc là ảm đạm. Một tác phẩm thông tin truyền thông về tội phạm có sự đầu tư, tính
khái quát cao, có tỉnh điển hình hóa có giá trị trong nhiều thời điểm phát sóng để người ta rỉ
tai, lan truyền và kể cho nhau cái chuyện đó và chia sẻ nhau rất nhiều lần. Cái đó gọi là chất
tức là không cần phải đưa quá nhiều tin tức. Quan trọng cách nâng tầm vấn đề lên, có thể
mượn câu chuyện cụ thể của một thời điểm nhưng chuyển tải thông điệp đối với nhiều thế
hệ trong nhiều thời kỳ mà nó có tác dụng lâu, cái đó gọi là chất lượng truyền thông.
2. Nếu để có một cái đánh giá của những người làm nghề hoặc là với vị trí là một
công chúng thì anh có đánh giá hiện nay là TTTP nó đang ở mức độ nào, nhiễu loạn hay
như thế nào?
Qua quan sát thực tế ở các tỉnh Tây Nguyên cũng như các hình thức truyền thông
trên mạng hoặc các báo chính thống hiện nay đang rơi vào tình trạng loạn thông tin về tội
phạm và liên quan đến ANTT. Loạn ở chỗ này - một sự việc nếu mà các nhà đài, nhà báo
chuyên nghiệp thì người ta sẽ rất đưa tin rất sâu. Ít sản phẩm nhưng chất lượng truyền thông,
hiệu ứng xã hội và thông điệp truyền tải để phòng ngừa, cảnh báo những cái xấu nó rất có
giá trị cao. Nhưng hiện nay nhiều đài, báo lại không đào xới sâu bản chất sự việc để có những
truyền tải sâu, mà chủ yếu share tin, share bài, chủ yếu phản ánh bề ngoài là chính, rất hời
hợt, không đào xới bản chất. Cho nên thông tin nó bị chồng lên nhau những cái đó nó tác
động không tốt đến công chúng và mục tiêu tuyên truyền của giới truyền thông.
Câu 3: Với một tác phẩm báo chí thì tính hấp dẫn là một trong những yếu tố quan
trọng. Theo anh, làm thế nào để TTTP vừa đảm bảo tính hấp dẫn mà không bị sa vào tình
trạng giật gân, câu khách?
Theo tôi muốn thông tin về tội phạm để cảnh báo, tuyên truyền, phòng ngừa, giáo
dục chung để nâng cao nhận thức pháp luật và đảm bảo an ninh, trật tự xã hội thì đòi hỏi
người truyền tin, người làm báo phải có lương tâm, trách nhiệm, không được phép liệt kê,
kể việc. Nhà báo phải đến tận hiện trường để có cảm xúc, cảm nhận, đào sâu, tìm hiểu nhiều
góc độ để anh chọn cách tiếp cận vấn đề và đưa đến cho công chúng một góc tiếp cận khác,
mới nó có tính nhân văn và văn hóa cao thì mới có hiệu ứng tuyên truyền tốt. Còn nếu ông
chỉ liệt kê kể việc, kể những thông tin đơn thuần thì nó không có tác dụng gì nhiều trong
tuyên truyền phòng ngừa tội phạm.
Câu 4: Thưa anh thì hiện tại VTV1 và ANTV thì đúng là 2 trong 7 kênh thiết yếu,
theo dõi những chương trình thời sự của VTV và ANTV, anh có thể đánh giá nó có ảnh
hưởng tích cực, tiêu cực gì không đối với công chúng?
Thực ra theo dõi hai kênh này thì chủ yếu từ trung niên trở lên và cán bộ, công nhân
viên chức theo dõi hai kênh chính thống trong khi đó số thanh thiếu niên nằm trong nhóm
nguy cơ cao về tội phạm thì cũng ít tiếp cận hai kênh này. Hai kênh chính thống này có đặc
thù riêng biệt là tính đại chúng đã được khẳng định từ lâu rồi thì đương nhiên lượng người
xem rất đông. Tác dụng thì lớn, bởi vì cái kênh VTV1 thì nó là kênh chính thống quốc gia
nên độ tin cậy, chính xác, khách quan, toàn diện....Kênh ANTV ra đời sau, là một kênh non
trẻ nhưng cũng có tính chính xác. Các tiêu chí của kênh lập ra làm cho người ta có niềm tin
mà khi có niềm tin thì người ta lan tỏa, rỉ tai và người ta bảo nhau xem nhiều hơn. Để khẳng
định giờ vàng đóng đinh cho từng lứa tuổi để nó có tính ổn định lâu dài thì phải lấy chất
lượng hàng đầu tránh đưa lên sóng quá nhiều thông tin dồn dập, nhạt nhòa.
Câu 5: Vậy theo anh thì mình đưa nhiều như thế này thì xã hội có ảnh hưởng tiêu
cực, ví dụ như là một màu đen tối rồi thì nhất là mình đưa liên tục mà không có cách giải
quyết vấn đề. VTV thì người ta sẽ ưu tiên rất nhiều thông tin nên nó phải cân bằng với các
loại thông tin khác. ANTV nó là truyền hình chuyên biệt, Anh đánh giá nếu đưa kiểu như thế
thì liệu rằng có ảnh hưởng tiêu cực đến người xem.
Về VTV thì người ta có tuổi đời rất lâu và kỹ năng, kinh nghiệm để truyền tải cho
nên lượng thông tin họ cân đối, hài hòa nhiều mặt, giữa mặt tốt, mặt xấu và bản tin về văn
hóa, kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng nó liều lượng phù hợp. Riêng ANTV ra đời mấy
năm gần đây nhưng thông tin của mình đưa lên quá nhiều thậm chí chưa được sàng lọc, chăm
chút kỹ càng để ra những sản phẩm để đời. Sản xuất ra nhiều thông tin nhưng người ta nhanh
quên, nó sẽ rối trong việc tiếp cận thông tin khó có thể hướng đến những cái thiện chân thiện
mỹ. Cho nên mình phải tính đến đến chuyện là đầu tư cho những bản tin có chiều sâu hơn.
Nếu chúng ta chạy theo số lượng nhiều thì sẽ không hiệu quả. Chạy theo số lượng nhiều thì
đến lúc chúng ta sẽ đuối và sẽ không nuôi được tất cả các bản tin. Mặc dù kinh phí đổ ra nhiều,
sản xuất nhiều bản tin nhưng mà nó nhạt, không có chiều sâu. Thông tin phải cân đối giữa các
mảng gương sáng, việc tốt, các mảng sáng của đời sống xã hội và đời sống an ninh trật tự phải
liều lượng, phải hợp lý. Và cũng không hẳn là chúng ta đưa quá nhiều vụ án, quá nhiều về thế
giới tội phạm trên một kênh, kể quá nhiều việc mà công an khám phá các kiểu nhưng chỉ mang
tính liệt kê thì ít có tác dụng mà chúng ta phải tiếp cận tinh tế.
Câu 6: Ở đây có một câu chuyện là báo mạng, mạng xã hội thì đang dần chiếm ưu
thế, rõ ràng là truyền đang gặp sự bất lợi. Cái cách của các anh làm như đưa lên Youtube,
cũng là một cách để mình thay đổi định hướng truyền thông và thay đổi kênh truyền thông,
kênh tiếp nhận công chúng. Vậy theo anh thì với cách làm này thì hiệu quả nó sẽ khác hơn
với làn sóng truyền thống như thế nào?
Giờ đang ở thời điểm chúng ta phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa các kênh chính thống,
truyền hình, báo chí với công nghệ để đưa thông tin lên mạng xã hội càng nhiều hơn, thì
mình mới thu hút được nhiều đối tượng, nhiều giới và phải sử dụng ứng dụng công nghệ thì
thông tin mới lan tỏa rộng trên tất cả các kênh được. Với chúng tôi thì ngoài việc tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương, của tỉnh, của khu vực Tây
Nguyên thì vẫn nỗ lực chuyển tải lên các kênh của quốc gia, đài, báo trung ương nữa và đặc
biệt là phải đưa lên Youtube. Chúng tôi đưa lên trên trang web, trên cổng thông tin của công
an tỉnh và kết nối với Youtube để thu hút lượng người xem đông. Mình muốn tuyên truyền,
thông tin, cảnh báo thì mình phải làm những clip riêng và đẩy lên Youtube, mạng xã hội để
công chúng dễ tiếp cận, dễ nắm bắt vấn đề. Thực tế các kênh, đài, báo địa phương thì người
xem, người nghe một ít hơn. Người ta vào các trang mạng xã hội ngày càng nhiều thì mình
phải có sản phẩm của mình phải dùng nhiều nơi, chúng ta phải tối đa sử dụng những kênh
thông tin này.
Câu 7: Một câu hỏi liên quan đến cái kênh ANTV, thẳng thắn nhìn nhận, thì anh thấy
cách thức đưa tin của các bản tin như vậy đã ổn chưa? Ví dụ như 113 Online, Thời sự an
ninh 18h15?
Trong một ngày 24 tiếng đồng hồ, thông tin chồng chéo, nhiều lớp nhưng mà không
có cái độ tĩnh, độ lắng để cho người xem hiểu và lưu giữ lâu thì những điểm lắng mình phải
nghiên cứu. Trong bản tin phải có những điểm lắng, khoảng lặng như âm nhạc, trong đưa tin
thời sự cũng vậy để họ còn lưu giữ thông tin ban đầu được lâu. Phải giãn cách thông tin như
thế nào đó để công chúng không tiếp nhận thông tin một cách dồn dập, cái này chúng ta phải
tính toán. Hai nữa là có những thông tin cần phân tích sâu, cần có thời lượng hơn thì mình
chưa đáp ứng được. Ví dụ như các phóng sự điều tra về tội phạm, về các mặt trái có nguy cơ
dẫn đến tội phạm, vi phạm pháp luật đáng ra phải dành thêm thời lượng để đào sâu tạo sự
lan tỏa và tác động lớn không chỉ đối với công chúng mà nó phải có tác động đến các cơ
quan hành chính, pháp luật và mọi công dân trong xã hội. Các bản tin thì hài hòa giữa cái
nóng, sự mềm mại với các mảng miếng cho nó hài hòa, cân đối được tâm lý người xem và
múi giờ để người ra thoải mái trong tiếp cận thông tin.
Cuộc trao đổi kết thúc hồi 16h30 cùng ngày
Phụ lục 3.14
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
: Ngày 18 tháng 8 năm 2017
: Vào hồi 8h30
: số 1 Lê Đức Thọ, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội
Ngày phỏng vấn
Thời gian
Địa điểm
Người phỏng vấn: Nguyễn Đăng Khang, NCS PTTH K22, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền
Phỏng vấn
: Nam, Phó Trưởng phòng ANTV Hà Nam, Mã 15
Theo ông, TTTP trên TH có sự khác biệt gì so với TTTP trên báo, mạng điện tử hoặc
các kênh truyền thông khác?
Chúng tôi cho rằng VTV1, ANTV là kênh thông tin cơ quan truyền thông của Đảng, của
ngành có các cách làm hay. Đối với kênh ANTV, đây là đội ngũ tạo cơ bản, có trình độ, có
những kiến thức chuyên sâu về báo chí, chuyên sâu về nghiệp vụ Công an do vậy TTTP
được định hướng, sẽ được nắm chắc và xử lý một cách khách quan, thông tin chuẩn xác tới
độc giả. Bởi vậy thì nó rất khác biệt với các thông tin của mạng xã hội. Bây giờ mạng phát
triển bùng nổ thì bất cứ một người dân cũng là kênh thông tin và thông tin này rất khó được
kiểm duyệt. Đây thời điểm thông tin một số nhũng nhiễu, do đó ảnh hưởng ít nhiều đến nhận
thức của một số người. Bởi vậy, TTTP trên kênh VTV1 và ANTV mang tính tích cực và
hiệu quả cao trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Một câu hỏi tiếp tôi muốn hỏi ông đối với lực lượng tuyên truyền của địa phương thì
theo ông ấy ông cũng thường xuyên định hướng anh em như thế nào để TTTP đi đúng định
hướng.
Đối với vai trò của lực lượng tuyên truyền địa phương, xác định đây là nhiệm vụ chung của
Đảng và Nhà nước, thông tin phải mang tính phòng ngừa, hạn chế thấp nhất các vi phạm xảy
ra đối với địa bàn cơ sở. Chúng tôi phải nắm rõ định hướng để bám sát vào những lĩnh vực
chuyên đề, lĩnh vực cụ thể. Công tác tuyên truyền phải có tác động tích cực với người dân ở
cơ sở, để họ nắm bắt rõ hơn thủ đoạn, hành vi nhằm giúp họ chung tay đảm bảo an ninh trật
tự, mang tính phòng ngừa xã hội cao hơn. Đồng thời chúng tôi cũng phải có thông tin mang
tính dự báo để tham mưu cho cấp trên để chỉ đạo tuyên truyền và quan trọng là thực hiện
phòng ngừa.
Hiện tại TTTP trên TH đang bị lép vế so với báo mạng điện tử, Đứng trước thực
trạng như vậy thì theo ông để TTTP có được vị thế thì theo ông phải làm gì để có thể cạnh
tranh được.
Ở góc độ làm tuyên truyền đối với lực lượng công an làm sao phải đổi mới về công
nghệ, ngoài đổi mới nội dung rồi thì đổi mới công nghệ tiếp cận đến mọi người dân. Công
nghệ là công nghệ ngay trên hệ thống của điện thoại di động, thiết bị di động, làm sao phù
hợp với tất cả người dân Tôi nghĩ rằng, TTTP được chuyển đến kịp thời trên hạ tầng mạng
thì sẽ hiệu quả hơn nhiều bởi chúng ta là kênh chính thống. Có như vậy chúng ta mới tránh
được những thông tin thất thiệt không mang tính báo chí mà chỉ mang tính giật gân, câu
khách, mang tính câu view.
PHỤ LỤC 4
Phụ lục 4.1
NỘI DUNG THẢO LUẬN NHÓM
- Công tác chuẩn bị: Mời 6-8 người tham gia. Ghi rõ, tên, tuổi, giới tính
- Chiếu 05 - 06 clip về TTTP (Tin, Phóng sự: Giết người, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội
phạm công nghệ cao, xúc phạm quốc kỳ, trộm cắp tài sản, cho vay lãi nặng…)
NỘI DUNG CÂU HỎI
CÂU HỎI CHUNG
1. Ông/Bà đã từng xem TTTP qua kênh truyền hình VTV1, ANTV?
2. Ông/bà thường quan tâm, theo dõi những thông tin về chủ đề gì trên các kênh truyền hình
trên (thông tin về tội phạm, an ninh trật tự, thông tin về an toàn giao thông, thông tin thời
tiết, thông tin an ninh quốc tế, thông tin tài chính - kinh doanh…)
3. Đối với những thông tin về tội phạm, khi theo dõi ông bà mong muốn được cung cấp
những thông tin gì? (khung hình phạt, cách thức hoạt động, cách phòng tránh--đối với tội
phạm cho vay, tội phạm giết người, tội phạm trộm cắp…)
4. Ông/Bà cảm thấy thế nào khi xem TTTP trên TH (sợ hãi, yên tâm vì có lực lượng công
an, cần đề phòng hơn, không cảm nhận gì...) Lý do?
5. Thông thường, sau khi tiếp cận các thông tin về tội phạm hành động của Ông/bà là gì?
Những nội dung nào khiến ông bà cảm thấy mình cần có hành động đi tuyên truyền, giới
thiệu cho người khác luôn?
Các nấc thang hành động:
+ Tiếp nhận thông tin vì đã đáp ứng đúng nhu cầu;
+ Ghi nhớ, chú ý hơn về các kiến thức được cung cấp;
+ Chủ động tìm hiểu thêm về thông tin đã được cung cấp;
+ Tin tưởng về an ninh trật tự trong nước;
+ Tuân thủ và tuyên truyền rộng rãi thông tin
6. Những TTTP trên TH có ảnh hưởng tiêu cực đến người xem không? Đó là những thông
tin nào? Theo ông bà, làm thế nào để hạn chế những thông tin tiêu cực đó?
CÂU HỎI CỤ THỂ
1. Những nội dung clip trên có phải là những thông tin mà ông/bà thường quan tâm, theo dõi
hằng ngày không? Những thông tin nào là mới và nhờ xem clip mà ông bà mới nắm được
thông tin (loại tội phạm, phương thức, thủ đoạn, nội dung cảnh báo…)?
2. Ông bà hãy chia sẻ thông tin về những loại tội phạm được đề cập ở trên mà ông bà đã
biết? (khung hình phạt, cách thức hoạt động, cách phòng tránh đối với tội phạm cho vay, tội
phạm giết người, tội phạm trộm cắp…)
3. Ông/Bà hãy cho biết các TTTP trên có những ảnh hưởng tích cực nào tới mình? (gợi ý
theo bảng dưới) Tại sao?
Ảnh hưởng tích cực
Ghi chú
Chú ý xin ví dụ cụ thể
1. Nhận thức đầy đủ hơn về các loại tội phạm
2. Hiểu biết hơn về các khung hình phạt đối với các vụ phạm tội
3. Khiến tôi quan tâm hơn đến việc phòng, chống tội phạm
4. Tham gia tích cực hơn trong việc tuyên truyền phòng,
chống tội phạm
5. Tin tưởng hơn vào bộ máy công quyền
Đặc biệt hỏi thêm lý do
nông thôn thấp hơn đô thị
6. Có kỹ năng để ngăn ngừa, phòng chống tội phạm
7. Có trách nhiệm hơn trong việc ngăn ngừa, tố giác tội phạm
8. Khác
4. Ông/Bà hãy cho biết những TTTP trên có ảnh hưởng tiêu cực đến ông bà không? (ví dụ
trong bảng). Tại sao có những ảnh hưởng đó?
Ghi chú
Tìm ví dụ
Ảnh hưởng tiêu cực
1. Gây hoang mang, lo lắng hoặc cảm thấy không an toàn
2. Không hoặc giảm lòng tin vào bộ máy công quyền
3. Không tin tưởng hoặc giảm lòng tin đối với con người
4. Cảm thấy đạo đức xuống cấp
5. Khác
9. Không có ảnh hưởng tiêu cực nào
5. Ông/Bà có đề xuất gì về việc cung cấp các TTTP trên TH, ví dụ cụ thể: (thảo luận cụ thể
ở từng tin, bài)
6. Bài học ông/bà rút ra từ các TTTP vừa xem là gì? Ông bà có dự định chia sẻ thông tin
mình biết được trên cho mọi người? Cụ thể là những ai, cách chia sẻ?
Phụ lục 4.2.
Thảo luận nhóm cán bộ xã/phường
Địa điểm: UBND phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội
I. Thành phần tham gia thảo luận:
Thành viên 1 (TV1) – Hoàng Anh T. - 36 tuổi
Thành viên 2 (TV2) – Nguyễn Vũ L. - 51 tuổi
Thành viên 3 (TV3) – Nguyễn Phương T. - 30 tuổi
Thành viên 4 (TV4) – Trần Sơn B. - 35 tuổi
Thành viên 5 (TV5) – Nguyễn Sơn T. - 37 tuổi
Thành viên 6 (TV6) – Vũ Thanh B. - 45 tuổi
II. Chiếu các clip về thông tin tội phạm:
- Tin bài về loại hình tội phạm cho vay lãi nặng
- Tin bài về loại hình tội phạm giết người
- Tin bài về loại hình tội phạm xúc phạm quốc kỳ
- Phóng sự về loại hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội
- Phóng sự về loại hình tội phạm trộm cắp tài sản
- Phóng sự về nguy cơ tiềm ẩn của bạo lực gia đình và các vụ án liên quan
III. Nội dung thảo luận
Phần 1: Các câu hỏi chung
1. Ông/Bà đã từng xem thông tin tội phạm qua kênh truyền hình VTV1, ANTV?
TV6. Trả lời câu hỏi của các đồng chí, tôi có ý kiến như sau, nội dung thông tin tội
phạm trên VTV1 và ANTV là thông tin phải xem thường xuyên rồi, không những xem trên
các truyền hình mà còn phải cập nhật thêm thông tin ở các nguồn khác.
Các thành viên khác cũng đồng tình với quan điểm của TV6.
2. Ông/Bà thường quan tâm, theo dõi những thông tin về chủ đề gì trên các kênh
truyền hình trên (thông tin về tội phạm, an ninh trật tự, thông tin về an toàn giao thông,
thông tin thời tiết, thông tin an ninh quốc tế, thông tin tài chính - kinh doanh….)
TV1. thông tin trên truyền hình thì thường tôi quan tâm đến thông tin thời sự, chính
trị, tuyên truyền cho gia đình và người thân. Mình cũng cập nhật thêm về khác trong cuộc
sống để có thêm kiến thức nữa.
TV5. Công việc đặc thù của mình là ngành công an nên việc theo dõi thông tin tội
phạm vừa là nhiệm vụ vừa là sở thích nữa. Mình xem thông tin chủ yếu là ANTV vì đây là
kênh chuyên biệt nhưng thời gian xem cũng chủ yếu là sáng sớm và buổi tối.
TV6. Thường thì mình xem chào buổi sáng, thời sự, xem tóm tắt các thông tin nhanh,
an ninh trật tự, an toàn giao thông. Rồi mình xem thêm báo bổ sung thêm các thông tin cho
đa dạng
3. Đối với những thông tin về tội phạm, khi theo dõi ông bà mong muốn được
cung cấp những thông tin gì? (khung hình phạt, cách thức hoạt động, cách phòng tránh
đối với tội phạm cho vay, tội phạm giết người, tội phạm trộm cắp….)
TV3. Mình thấy thông tin về các vụ việc (cướp, giết, hiếp...) thường được cập nhật rất
sớm trên mạng xã hội, báo mạng nhưng mãi rồi đến tối mới thấy thông báo trên thời sự của
VTV, ANTV. Nhưng để lựa chọn tin tưởng thì mình vẫn tin thông tin trên thời sự hơn
TV4-TV6-TV1. Thấy cung cấp như hiện nay là hợp lý rồi.
TV2. Xem xong thì ai cũng sẽ so sánh với bản thân xem đã biết thông tin chưa. Thấy
mình chưa được cái gì thì điều chỉnh. Vấn đề là mình cần phải đưa được các thông tin về kết
quả của việc phạm tội, thấy được hậu quả thì giới trẻ họ thấy cũng sẽ không bị a dua học
theo nữa.
4. Ông/Bà cảm thấy thế nào khi xem thông tin tội phạm trên truyền hình (sợ hãi,
yên tâm vì có lực lượng công an, cần đề phòng hơn, không cảm nhận gì...). Lý do?
TV1. Xem xong thông tin thì tùy theo thông tin mà mình đưa. Ví dụ vụ giết người thì
thấy lo lắng hay thông tin thông thường về tội phạm trộm cắp như vừa chiếu đây thì thấy
cảnh giác hơn, nói chung là mỗi thông tin sẽ có tác động khác nhau và không ai là giống ai
cả. Mình thấy nguy hiểm thì lo lắng còn thấy thông tin bắt được tội phạm thì sẽ thấy vui vẻ
an tâm thôi.
Các thành viên khác cũng đồng tình.
5. Thông thường, sau khi tiếp cận các thông tin về tội phạm hành động của ông/bà
là gì? Những nội dung nào khiến ông bà cảm thấy mình cần có hành động đi tuyên
truyền, giới thiệu cho người khác luôn?
TV2. Như tôi xem xong thì sẽ về nói cho gia đình con cháu để các cháu cẩn thận hơn
khi ra đường, không a dua, vay lãi…
TV1. Theo tôi thấy, các thông tin mà truyền hình đưa ra đều là những thông tin mình
đã chắt lọc và kiểm duyệt qua nhiều khâu. Thông tin như vậy sẽ không có vấn đề sai sót nên
để nói xem xong thì thông tin nào cũng tốt, để đi tuyên truyền hơn thì sẽ chỉ nói về những
chủ đề mà bà con thấy sát sườn gần với mình nhất như là tội trộm cắp, lừa đảo mấy cái đó
trên địa bàn mình dễ gặp.
TV5. Tôi cũng nghĩ như anh T. Người dân mình thường thì tâm lý là cái gì sát sườn
thì sẽ quan tâm hơn, còn những cái xa hơn chút mang tính vĩ mô thì sẽ không chú ý nhiều.
TV3-TV4-TV6. Đồng ý với các ý kiến trên
6. Những thông tin tội phạm trên truyền hình có ảnh hưởng tiêu cực đến người xem
không? Đó là những thông tin nào? Theo ông bà, làm thế nào để hạn chế những thông
tin tiêu cực đó?
TV2. Tiêu cực thì là khi người bình thường xem nhiều sẽ thấy có quan điểm tiêu cực
thôi. Hoặc có người mà làm theo thì thành ra là vẽ đường cho hươu chạy.
TV5. Theo tôi thì không thể nói là không có tác động tiêu cực ví dụ như các vụ cướp
ngân hàng gần đây như các anh chị thấy đó là do ảnh hưởng của việc học theo, tận dụng sơ
hở mà thành. Các vụ án cướp giết hiếp không phải là không có người từng thấy rồi làm theo.
Nhưng nói cho cùng thì đó chỉ là phần nhỏ, con sâu làm rầu nồi canh chúng ta vẫn phải tiếp
tục đưa các thông tin để tuyên truyền phòng tránh các loại tội phạm.
TV3- TV4-TV6: đồng tình với TV5.
Phần 2. Các câu hỏi cụ thể
1. Những nội dung clip trên có phải là những thông tin mà ông/bà thường quan
tâm, theo dõi hằng ngày không? Những thông tin nào là mới và nhờ xem clip mà ông
bà mới nắm được thông tin (loại tội phạm, phương thức, thủ đoạn, nội dung cảnh báo…)?
TV5. Mình làm cán bộ công an nên về các loại hình tội phạm mà các anh đưa ra là
không có gì mới, còn về tình tiết các vụ án thì mỗi vụ một khác, mình xem truyền hình để
cập nhật thông tin tình tiết thôi. Xem truyền hình đôi khi cũng là củng cố kiến thức về tội
phạm và lấy ví dụ để tuyên truyền, mình còn phải nắm rõ thực tế các vụ án để còn đi tuyên
truyền cho quần chúng nhân dân.
TV2. Thông tin tội phạm là nhu cầu của người dân rồi. Nếu không có thì dễ dẫn đến
tình trạng chủ quan. Với tôi thì đây là thông tin mình cần quan tâm các anh đưa thông tin ra
đây thì không có cái nào là thừa cả, đều là kiến thức cũ mới gì cũng phải cập nhật.
TV1, TV4, TV3, TV6 đồng tình với TV5
2. Ông bà hãy chia sẻ thông tin về những loại tội phạm được đề cập ở trên mà ông
bà đã biết? (khung hình phạt, cách thức hoạt động, cách phòng tránh đối với tội phạm cho
vay, tội phạm giết người, tội phạm trộm cắp….)
TV1. Thông tin về tội phạm các anh vừa đưa thì ai cũng đã từng nghe rồi nhưng để nói
cụ thể biết về khung hình phạt là bao nhiêu năm thì chắc là chỉ có người làm trong ngành thì
mới nắm được.
Các thành viên khác cũng đồng tình với TV1.
3. Ông/Bà hãy cho biết các thông tin tội phạm trên có những ảnh hưởng tích cực
nào tới mình? (gợi ý theo bảng) Tại sao?
TV3. Tác động tích cực thì là xem xong thì thấy cảnh giác hơn thôi
TV4. Nhìn thấy thì là ích cực, theo em thông tin của mình đi sau mạng xã hội nhưng
thông tin mình là đúng, tác động tuyên truyền hơn, xem xong thấy cảnh giác hơn về tình
hình tội phạm.
TV2. Tuyên truyền thì người dân sẽ nâng cao cảnh giác hơn. Như cuối năm 2019 nhiều
vụ lừa đảo, đa cấp biến tướng được đăng lên thì người dân cũng nắm được. Tất cả là phải
tuyên truyền thì người dân mới biết được mà cảnh giác. Thế là tốt có gì xấu đâu.
4. Ông/Bà hãy cho biết những thông tin tội phạm trên có ảnh hưởng tiêu cực đến
ông bà không? (ví dụ trong bảng) Tại sao có những ảnh hưởng đó?
TV5. Tiêu cực thì như đã nói khi nãy, mình cần khắc phục những ảnh hưởng đó để
làm thế nào nâng cao nhận thức của người dân giúp cho công tác phòng chống tội phạm tại
địa phương tốt hơn thôi.
Các thành viên khác không có ý kiến.
5. Ông/Bà có đề xuất gì về việc cung cấp các thông tin tội phạm trên truyền hình,
ví dụ cụ thể (thảo luận cụ thể ở từng tin, bài)
TV1. Cá nhân mình thấy VTV1 có cách đưa thông tin rất hay ví dụ như vụ tai nạn xảy
ra họ dùng đồ họa minh họa lại cho mình xem thấy rất rõ ràng nguyên nhân ở đâu, nhìn thấy
là hiểu. Trong khi đó, nếu chỉ chiếu ảnh hậu quả vụ tai nạn thì mình sẽ không thể nào hiểu
rõ được nguyên nhân rồi. Cái đó là điểm mình rất thích khi xem VTV1 gần đây.
TV5. Mình thấy việc đăng tải thông tin như hiện nay là tốt rồi nhưng bên cạnh các
thông tin đăng tải thì cần có sự phối hợp tuyên truyền của các đơn vị cơ sở, các gia đình nữa.
Đặc biệt đối với các cháu nhỏ khi mà tình trạng “giang hồ mạng” xuất hiện nhiều, các cháu
có thể dễ dàng xem ngay trên youtube nhưng không được người nhà quản lý là rất nguy
hiểm. Các cháu còn quá nhỏ, chưa nhận thức đầy đủ lại coi những người như thế là tấm
gương, thần tượng và học theo như vậy rất dễ đi đến con đường phạm tội. Trong khi truyền
hình, các cơ quan nhà nước thì tuyên truyền nhưng không thể tới được hết từng đối tượng
cụ thể được.
TV2. Mong muốn thì theo tôi là nên đăng nhiều thông tin cảnh báo, cách nhận diện,
ngăn chặn đấu tranh, đăng nhiều hơn và dày đặc hơn nữa. Tần suất phải liên tục thì mới có
hiệu quả, những thông tin về hình thức xử ý, các mức tội của từng loại tội phạm cũng cần
đăng thêm nhưng quan trọng nhất là cảnh báo và làm thế nào để nhận biết đối tượng.
TV4 – Tôi đồng tình với bác L. và anh T. vừa nói, tôi bổ sung thêm một chút là các
thông tin trên hiện nay đã bổ ích rồi, nhưng mình làm sao mà đưa thông tin nhanh hơn chứ
bây giờ mạng xã hội internet đăng nhiều và nhanh lắm.
TV6. Tôi thấy là các cụ sau khi xem thông tin truyền hình thì đều tin ngay, mà không
chỉ trên đó các thông tin trên mạng mà đọc được là cũng tin luôn. Đọc được cái gì thì tin vào
cái đó, trẻ thì khác, họ thấy thì có xu hướng làm ngược lại, đôi khi coi tivi nói là giáo điều.
TV3 Đồng tình với ý kiến của TV2.
6. Bài học ông/bà rút ra từ các thông tin tội phạm vừa xem là gì? Ông bà có dự
định chia sẻ thông tin mình biết được trên cho mọi người? Cụ thể là những ai, cách
chia sẻ?
TV2. Chia sẻ thì chắc chắn rồi, ai cũng sẽ chia sẻ lại thôi có thể là nói cho vợ con mình
hay khi giao lưu câu chuyện con cà con kê sẽ nói thôi. Cái đó là bình thường.
TV1. Như tôi thì thấy mình cũng cần chia sẻ lại cho vợ con gia đình, thông tin nào
mình thấy cần chú ý hơn sẽ tìm hiểu thêm sau đó chia sẻ lại cho các đồng chí khác. Làm sao
để mọi người cùng nắm được và làm theo.
Thảo luận nhóm cán bộ khu phố/thôn
Địa điểm: Tổ dân phố 2, Thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M’Gar, Đắk Lắk
I. Thành phần tham gia thảo luận:
Thành viên 1 (TV1) - Nguyễn Mạnh T. 52 tuổi
Thành viên 2 (TV2) - Nguyễn Văn T. 65 tuổi
Thành viên 3 (TV3) - Chu Thị G. 34 tuổi
Thành viên 4 (TV4) - Nguyễn Thị V. 29 tuổi
Thành viên 5 (TV5) - Nguyễn Văn P. 34 tuổi
Thành viên 6 (TV6). - Nguyễn Văn M. 43 tuổi
II. Chiếu các clip về thông tin tội phạm:
- Tin bài về loại hình tội phạm cho vay lãi nặng
- Tin bài về loại hình tội phạm giết người
- Tin bài về loại hình tội phạm xúc phạm quốc kỳ
- Phóng sự về loại hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội
- Phóng sự về loại hình tội phạm trộm cắp tài sản
- Phóng sự về nguy cơ tiềm ẩn của bạo lực gia đình và các vụ án liên quan
III. Nội dung thảo luận
Phần 1: Các câu hỏi chung
1. Ông/Bà đã từng xem thông tin tội phạm qua kênh truyền hình VTV1, ANTV?
TV1. Thực sự mà nói thì ở đây không có ai là chưa từng xem các thông tin an ninh trật tự
trên truyền hình VTV1 và ANTV. Giờ nhà ai cũng có tivi cả nên đã xem truyền hình thì đều
đã từng gặp các tin này cả. Phải không các anh chị.
TV3. Bác T. nói đúng, tôi và các anh chị ở đây cũng thấy vậy. Giờ nhà ai cũng có tivi nên
xem thì chắc chắn có rồi chỉ có điều kênh ANTV như tôi thấy thì không phải ai cũng xem
thôi.
Các thành viên khác cũng đồng tình với quan điểm của TV1 và TV3.
2. Ông/bà thường quan tâm, theo dõi những thông tin về chủ đề gì trên các kênh truyền
hình trên (thông tin về tội phạm, an ninh trật tự, thông tin về an toàn giao thông, thông
tin thời tiết, thông tin an ninh quốc tế, thông tin tài chính - kinh doanh….)
TV2. thông tin hằng ngày tôi đều xem đặc biết là thông tin an ninh trật tự. Xem thời sự, thời
tiết, thể thao và xem ANTV xong thì xem phim nữa. Cái quan tâm
TV1. tôi thường xem các thông tin thời sự , thời tiết, thể thao văn hóa. ANTV thì tôi xem
các bản tin ANTT, hành trình phá án..) trong đó thì tôi thích nhất là chương trình hành trình
phá án của các anh.
TV3. Mình thì ít khi có thời gian xem tivi, chủ yếu là xem qua đọc báo mạng, mạng xã hội.
Tivi chủ yếu chỉ xem thời sự của VTV và xem bản tin nhanh của ANTV sau khi xem xong
thời sự.
TV4. Tôi thì cũng xem thời sự nhưng không thường xuyên lắm vì nhà có con nhỏ nên khi
xem thì thường vào giờ nó ăn cơm, mình phải cho nó xem chương trình của nó thì nó mới
chịu cơ nên thi thoảng mình được xem thời sự. Còn lại thì mình cũng không có nhu cầu
nhiều nên chồng mở kênh nào thì mình xem. Nói chung mỗi thứ một chút.
TV5. Tôi thì xem thời sự là chính sau đó là tôi xem chương trình thời tiết, và sau đó là xem
bản tin tình hình an ninh trật tự, tội phạm cuối cùng là xem phim.
TV6. Tôi cũng có xem thời sự, ANTV và xem ca nhạc nhưng giờ xem giải trí là nhiều hơn
xem các chương trình thời sự.
3. Đối với những thông tin về tội phạm, khi theo dõi ông bà mong muốn được cung cấp
những thông tin gì? (khung hình phạt, cách thức hoạt động, cách phòng tránh đối với tội
phạm cho vay, tội phạm giết người, tội phạm trộm cắp….)
TV1. Mọi người thì tôi không rõ nhưng tôi thì quan tâm nhiều đến cách thức hoạt động của
tội phạm như thế nào, chúng làm thế nào để gây án. Mình không biết thì mình sẽ bị lừa, thủ
đoạn của nó mà được đưa lên mình biết, nắm được rồi thì sẽ không bị lừa nữa, hoặc thấy
tương tự mình phán đoán đó là lừa đảo thì tránh xa.
TV2. Tôi quan tâm đến các hành trình phá án nhưng cũng băn khoăn là không biết những
tình tiết đó mình đưa lên có thật không, các hình ảnh trước đó nhiều khi dựng lại thấy thật
quá. Cứ như lúc đó có người chứng kiến kể lại vậy.
TV3. Tôi quan tâm đến các loại hình lừa đảo trên mạng xã hội, cái đó mình thấy dễ mắc phải
dễ gặp nên cần phải thông tin nhiều hơn hướng dẫn người dân thao tác ra sao, cảnh báo tránh
xa.
4. Ông/Bà cảm thấy thế nào khi xem thông tin tội phạm trên truyền hình (sợ hãi, yên
tâm vì có lực lượng công an, cần đề phòng hơn, không cảm nhận gì...) Lý do?
TV1. Tâm lý thực tế thấy có nhiều sự kiện xảy ra thì lo chút thôi, nhưng mình thấy công tác
an ninh ở địa phương vẫn tốt ngăn chặn được nên không có gì quá lo cả.
5. Thông thường, sau khi tiếp cận các thông tin về tội phạm hành động của Ông/bà là
gì? Những nội dung nào khiến ông bà cảm thấy mình cần có hành động đi tuyên truyền,
giới thiệu cho người khác luôn?
TV1. Thường thì ai xem xong thì trước tiên là phải xem thông tin đó có cần phải đi tuyên
truyền ngay không chứ, cái nào mình thấy cần thì đi nói với bạn bè, nói trong các cuộc họp.
TV5. Xem thông tin xong thì cũng thấy cần phải về chia sẻ lại cho gia đình, nhưng cái này
thì ai cũng đã từng xem rồi không có gì là mới quá cả.
6. Những thông tin tội phạm trên truyền hình có ảnh hưởng tiêu cực đến người xem
không? Đó là những thông tin nào? Theo ông bà, làm thế nào để hạn chế những thông
tin tiêu cực đó?
TV2. Thông tin đưa như hiện nay nếu bảo tiêu cực thì chắc chỉ có thấy nhiều quá mà hoang
mang thôi, chứ tác động tiêu cực không có. Để hạn chế theo tôi thì cần đưa nhiều thông tin
về cách làm, cách phòng chống các thông tin về hình thức xử lý nghiêm như thế mọi người
sẽ thấy được sự nghiêm minh và không hoang mang.
Phần 2: Các câu hỏi cụ thể
1. Những nội dung clip trên có phải là những thông tin mà ông/bà thường quan tâm,
theo dõi hằng ngày không? Những thông tin nào là mới và nhờ xem clip mà ông bà mới
nắm được thông tin (loại tội phạm, phương thức, thủ đoạn, nội dung cảnh báo…)?
TV2. Như tôi đã nói khi nãy, đây là những tin mà mình theo dõi hằng ngày, thông tin thường
xuyên phải cập nhật nên không có gì là mới cả.
TV3. Em thì em thấy cái tội làm nhục quốc kỳ là mới thôi còn những cái khác thì đều đã
được nghe.
TV1, TV4, TV5, TV6 đồng tình với TV3
2. Ông bà hãy chia sẻ thông tin về những loại tội phạm được đề cập ở trên mà ông bà
đã biết? (khung hình phạt, cách thức hoạt động, cách phòng tránh đối với tội phạm cho
vay, tội phạm giết người, tội phạm trộm cắp….)
TV1. Các loại hình tội phạm mình vừa đưa ra thì bản thân tôi thì đã biết hầu hết rồi, có một
loại hình là tội phạm làm nhục quốc kỳ là mình mới nghe mới xem thấy thôi. Thông tin giờ
trên báo, đài, rồi cán bộ thôn, xã tuyên truyền suốt, mình nắm được thôi. Nói chung thì kiến
thức có từ nhiều nguồn và truyền hình cũng chỉ là một nguồn thôi”.
3. Ông/Bà hãy cho biết các thông tin tội phạm trên có những ảnh hưởng tích cực nào
tới mình? (gợi ý theo bảng) Tại sao?
TV3. Tác động tích cực thì chắc là nhiều, các tác động tích cực như anh nói cũng có. Nhưng
the em thấy thì mình được biết thông tin để cảnh giác hơn này biết tình hình thực tế hiện nay
để mà theo dõi cập nhật.
TV6. Tôi thấy tình hình tội phạm giảm là do các cơ quan chức năng đã vào cuộc một cách
đồng bộ và mạnh mẽ, qua đó đã phát hiện và xử lý được nhiều vụ án nghiêm trọng và đặc
biệt nghiêm trọng. Những đối tượng xấu cũng thấy đó mà làm gương không dám có ý định
thực hiện nữa hoặc có thì chỉ ở quy mô nhỏ lẻ.
TV2. Người có trình độ học vấn cao đương nhiên thì điều kiện của họ cũng tốt hơn các anh
chị học kém hơn rồi. Họ có trình độ và tiếp cận nhiều thông tin ở các nguồn khác nhau nên
khi nhớ thông tin sẽ tốt hơn những nhóm khác.
TV6. Học vấn cao thì người ta để tâm hơn đến lý do, phân tích để xử lý còn người bình
thường thì chỉ xem thông tin, tiếp nhận thôi không suy nghĩ sâu. Học cao thì biết tầm quan
trọng của thông tin và cũng biết cách truyền đạt lại cho mọi người hơn mình.
4. Ông/Bà hãy cho biết những thông tin tội phạm trên có ảnh hưởng tiêu cực đến ông
bà không? (ví dụ trong bảng) Tại sao có những ảnh hưởng đó?
TV1. Tiêu cực thì không có đâu, có chăng tác động xấy là có những người nhẹ dạ cả tin thấy
thông tin tuyên truyền như vậy nhưng bị xúi dục nên học theo thôi. Các vụ cướp giật cũng
như vậy, cũng chủ yếu là do lòng tham con người mà làm theo thôi chứ không phải là do
mình nói nhiều, tuyên truyền nhiều mà có.
TV2. Khi đưa nhiều thông tin thì chắc là sẽ có nhưng ít, đặc biệt là người ta chỉ hoang mang,
mất lòng tin khi thấy nhiều cán bộ tham nhũng thôi, chứ tội phạm bắt được càng nhiều thì
càng mừng chứ sao lại lo.
Các thành viên khác cũng đồng tình, với các quan điểm trên
5. Ông/Bà có đề xuất gì về việc cung cấp các thông tin tội phạm trên truyền hình, ví dụ
cụ thể: (thảo luận cụ thể ở từng tin, bài)
TV1. Đề xuất thì tôi không có, như hiện nay là tốt rồi.
TV2. Tôi thấy nên đưa nhiều thông tin về các vụ việc của cán bộ tham nhũng, đưa càng
nhiều để người dân chúng tôi biết họ bị xử phạt ra sao.
TV4. Em thấy đưa thông tin nhiều về các vụ lừa đảo qua mạng hơn.
6. Bài học ông/bà rút ra từ các thông tin tội phạm vừa xem là gì? Ông bà có dự định
chia sẻ thông tin mình biết được trên cho mọi người? Cụ thể là những ai, cách chia sẻ?
TV3. Với em thì bài học rút ra là phải cẩn thận phòng chống hơn nữa, mình sơ hở là dễ dàng
bị trộm cắp vào nhà như cái clip vừa xong ngay. Rồi không tham gia vào các mạng xã hội
lừa đảo, các thông tin tài khoản ngân hàng là cứ phải cẩn thận. Về phải bảo lại với chồng
ngay.
TV 4. Em thì thấy các thông tin đều tốt, học được nhiều.
TV1. Bài học thì cũng rút ra được rồi, mình biết các vụ trộm cắp, bạo hành gia đình rồi các
vụ lừa đảo như vậy thì cũng phải về chia sẻ với mọi người, chia sẻ với gia đình mình rồi khi
họp dân thấy lúc nào phù hợp thì sẽ đưa ra để cảnh báo mọi người tránh bị lừa đảo đặc biệt
là tránh trộm cắp.
Thảo luận nhóm người dân
Địa điểm: Nhà văn hóa tổ dân phố số 2, phường Phú Mỹ, quận Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh
I. Thành phần tham gia thảo luận:
Thành viên 1 (TV1) - Nguyễn Mạnh T. 62 tuổi
Thành viên 2 (TV2) - Võ T. 70 tuổi
Thành viên 3 (TV3) - Chu Thị G. 25 tuổi
Thành viên 4 (TV4) - Hoàng Xuân V. 38 tuổi
Thành viên 5 (TV5) - Nguyễn Văn K. 53 tuổi
II. Chiếu các clip về thông tin tội phạm:
- Tin bài về loại hình tội phạm cho vay lãi nặng
- Tin bài về loại hình tội phạm giết người
- Tin bài về loại hình tội phạm xúc phạm quốc kỳ
- Phóng sự về loại hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội
- Phóng sự về loại hình tội phạm trộm cắp tài sản
- Phóng sự về nguy cơ tiềm ẩn của bạo lực gia đình và các vụ án liên quan
III. Nội dung thảo luận
Phần 1: Các câu hỏi chung
1. Ông/Bà đã từng xem thông tin tội phạm qua kênh truyền hình VTV1, ANTV?
TV1. Trong này ít coi truyền hình (VTV1 và ANTV) coi đài thành phố là nhiều. Tôi là người
Bắc vô đây thì mới coi thôi chứ người khác thì ít lắm.
TV3. Dạ, tụi em cũng từng có coi qua rồi.
TV2, TV4 cũng đã từng xem. TV5 chưa từng xem cả hai kênh.
2. Ông/bà thường quan tâm, theo dõi những thông tin về chủ đề gì trên các kênh truyền
hình trên (thông tin về tội phạm, an ninh trật tự, thông tin về an toàn giao thông, thông tin
thời tiết, thông tin an ninh quốc tế, thông tin tài chính - kinh doanh….)
TV2. Thì mình coi các vụ án, thông tin thời sự rồi thời tiết và các cái khác nữa.
TV1. Tôi coi thời sự là thường xuyên bữa nào cũng coi này, ngoài ra thì mình cũng coi thêm
các thông tin khác như mọi người thôi, thời tiết, thể thao rồi an ninh trật tự.
TV3. Em ít khi coi tivi lắm thường xem trên mạng với coi báo là chính
TV5. Truyền hình thì mình coi cái tin tức xã hội này kia, coi xem trong ngày có tin gì mới,
mình cập nhật vậy.
TV4. Tôi cũng như mọi người thui, không có gì đặc biệt
3. Đối với những thông tin về tội phạm, khi theo dõi ông bà mong muốn được cung cấp
những thông tin gì? (khung hình phạt, cách thức hoạt động, cách phòng tránh đối với tội
phạm cho vay, tội phạm giết người, tội phạm trộm cắp….)
TV2. Tôi rất thường xuyên theo dõi tivi, theo tôi những năm gần đây xuất hiện ngày càng
nhiều các vụ án nghiêm trọng và các vụ án liên quan đến cán bộ cấp cao. Điều tôi quan tâm
nhất khi theo dõi các vụ án này là tại sao bây giờ lại xảy ra nhiều vụ án tham ô, tham nhũng
như vậy và hơn nữa là càng liên quan đến cán bộ cấp cao thì số tiền thiệt hại càng lớn…Các
vụ án này tôi phải theo dõi và xem là cách xử lý ra sao, làm thế nào để thu hồi lại cho nhà nước
và nhân dân.
TV3. Tụi em thì ít coi nên truyền hình có đưa thì đưa thông tin nào ngắn gọn, tóm tắt cho mình
thì tốt, những tin nào liên quan đến tội phạm mình thấy hay thì mình vô mạng xem thêm sau.
TV5. Tôi thì nghĩ mình xem những cái tin về tội phạm thì mình phải có những tin về cách
làm sao mình phòng tránh, không có bị mắc phải những trường hợp đó nữa. Tội phạm trộm
cắp cướp giật thì nhiều lắm, quan trọng là mình tránh được nó.
4. Ông/Bà cảm thấy thế nào khi xem thông tin tội phạm trên truyền hình (sợ hãi, yên
tâm vì có lực lượng công an, cần đề phòng hơn, không cảm nhận gì...) Lý do?
TV1. Trời ơi, coi xong thì mình cũng thấy ghê chứ bộ. Ai coi vụ giết người mà thấy vui cho
nổi, phải thấy lo lắng chớ.
TV2. Xem xong thì cũng thấy mấy anh công an của mình giỏi nhiều vụ khó tưởng chừng
như không tìm được mà cũng xét ra được. Mấy anh cũng giúp ngăn chặn cướp giật mình
cũng phải yên tâm hơn chứ.
TV4. Tôi thấy cần đề phòng hơn nữa, mình ra đường mình cũng coi trước coi sau, túi xách
với bóp thì cũng phải cất cho kỹ tránh kẻ gian tận dụng sơ hở của mình cướp giật.
Các thành viên khác cũng đồng tình.
5. Thông thường, sau khi tiếp cận các thông tin về tội phạm hành động của ông/bà là
gì? Những nội dung nào khiến ông bà cảm thấy mình cần có hành động đi tuyên truyền,
giới thiệu cho người khác luôn?
TV1. Coi nhiều thông tin thì cũng thấy mình cần đi tuyên truyền cho người xung quanh
mình. MÌnh thấy những thông tin tội phạm thấy nguy hiểm thì phải nói lại cho bà con lối
xóm, con cái trong nhà ra đường cẩn thận trộm cướp bữa nay nhiều thì biết mà tránh.
TV3. Em thì em nghĩ là những thông tin nào mà liên quan trực tiếp tới mình hoặc mình thấy
nó dễ xảy ra tại khu vực của mình thì mình sẽ đi chia sẻ lại cho moi người ạ.
6. Những thông tin tội phạm trên truyền hình có ảnh hưởng tiêu cực đến người xem
không? Đó là những thông tin nào? Theo ông bà, làm thế nào để hạn chế những thông
tin tiêu cực đó?
TV2. Khi nãy cũng có nói rồi đó, mình coi thì mình cũng phải lo lắng, thấy nguy hiểm chứ
sao mà tránh được. Còn để tránh thì khó lắm à, các anh đưa tin thì mỗi người lại có một cảm
xúc khác nhau sao mà như nhau hết được.
TV1. Tôi thấy là mình coi thông tin thì mình thấy tốt chứ, xem để biết mà tránh mà dạy con
cháu sao cho nó không mắc phải những vụ việc như vậy. Cái đó là cái tốt mà chứ cái mà như
anh nói là tiêu cực thì cũng không phải là nhiều đâu à.
TV3, TV4, TV5: đồng tình với TV1.
Phần 2: Các câu hỏi cụ thể
1. Những nội dung clip trên có phải là những thông tin mà ông/bà thường quan tâm,
theo dõi hằng ngày không? Những thông tin nào là mới và nhờ xem clip mà ông bà mới
nắm được thông tin (loại tội phạm, phương thức, thủ đoạn, nội dung cảnh báo…)?
Các thành viên đều đồng tình là những thông tin được xem là tin tức họ quan tâm hàng ngày.
2. Ông bà hãy chia sẻ thông tin về những loại tội phạm được đề cập ở trên mà ông bà
đã biết? (khung hình phạt, cách thức hoạt động, cách phòng tránh đối với tội phạm cho
vay, tội phạm giết người, tội phạm trộm cắp….)
TV1. Thông tin thì đều đã biết rồi chỉ có cái tội mà chặt cờ thì mới có thấy thấy lần đầu thôi
à. Mình coi thì biết là đó là tội chứ ao mà biết được tội đó bao nhiêu năm tù hay phạt như
thế nào đâu.
TV2. Tôi thường xuyên theo dõi nên tôi biết mấy cái vụ này, mấy cái tội giết người, trộm
cắp mấy anh vẫn đưa suốt đó thôi. Gần đây có nhiều loại lừa đảo qua mạng, điện thoại thì
cũng mới mới.
Các thành viên khác cũng đồng tình với TV1.
3. Ông/Bà hãy cho biết các thông tin tội phạm trên có những ảnh hưởng tích cực nào
tới mình? Tại sao?
TV1. Khi nãy có nói rồi, thấy thì cũng sợ nhưng mà cái được là mình coi để biết phòng tránh
vậy à. Những cái đó theo như các anh thì đó là tích cực đấy mà.
TV2. Xem xong thì thấy có thêm kiến thức, như nãy tôi có nói là biết thêm về mấy loại lừa
đảo qua mạng, qua điện thoại đó. Mình biết để tránh với dạy lại con cháu cho nó khỏi có
mắc phải.
TV3. Em cũng như các bác, ngoài ra đúng là cái tội xúc phạm quốc kỳ là mới thấy lần đầu.
TV4, TV5, không có ý kiến.
4. Ông/Bà hãy cho biết những thông tin tội phạm trên có ảnh hưởng tiêu cực đến ông
bà không? (ví dụ trong bảng) Tại sao có những ảnh hưởng đó?
TV1. Nếu mà như các anh nói thì các cái đó là có, mỗi cái một chút.
TV5. Như bác T có nói đó, mình coi thì mình cũng có hết các cảm giác đó thôi, cái nào mà
nguy hiểm quá thì mình cũng phải lo.
TV2. Mình coi thì mình thấy lo lắng, sao lại xuất hiện nhiều loại tội phạm đến thế, bữa giờ
ít thấy có mà bây giờ sao lắm quá. Nào cướp giật rồi giờ lại cả lừa đảo nữa.
Các thành viên khác đồng ý với TV1 và TV5.
5. Ông/Bà có đề xuất gì về việc cung cấp các thông tin tội phạm trên truyền hình, ví
dụ cụ thể:
TV1. Mình già mình có thời gian coi tivi, gặp gỡ bạn bè rồi tham gia cái này cái kia chứ bọn
trẻ thì đi làm tối ngày lấy đâu thời gian mà coi tivi. Sáng sớm đã đi làm rồi đến khuya mới
về nhà tắm gội, cho sắp nhỏ ăn uống xong là cũng hết thời gian rồi. Tụi đó là chỉ có coi xong
rồi để đó thui.
TV3. Theo em là nếu mà được thì mình cứ đưa các tin theo dạng tóm tắt vậy, mình tóm lại
thông tin xong rồi chi tiết thì tụi em có thể tự tìm kiếm thêm. Chứ giờ không có thời gian mà
coi luôn.
TV2. Các anh nên đưa nhiều các tin về các vụ án liên quan đến các lãnh đạo cao cấp của
mình, để tụi tôi coi xem thực tế nó như nào sao mà lại nhiều vụ tham nhũng đến vậy. Rồi xử
án các ổng ra sao nữa.
TV5, TV4 không có ý kiến.
6. Bài học ông/bà rút ra từ các thông tin tội phạm vừa xem là gì? Ông bà có dự định
chia sẻ thông tin mình biết được trên cho mọi người? Cụ thể là những ai, cách chia
sẻ?
TV3. Em biết thêm về loại tội xỉ nhục quốc kỳ, rồi cách phòng tránh lừa đảo trộm cắp, cái
đó là cái em ấn tượng nhất đó. Để khi về nhà em về kể cho má coi.
TV1, TV2: đều đồng tình việc chia sẻ thêm với gia đình để thông tin cho họ biết phòng tránh
các loại tội trộm cướp và lừa đảo.
TV4: Tôi thì thấy có thêm kiến thức về mấy cái vụ trộm cắp, xem rồi mình về nhà cũng phải
cẩn thận hơn, khóa cửa này kia nữa. Về coi bảo lại vợ con trước khi đi ngủ phải khóa lại
tránh trộm cắp.
TV5. Cũng đồng tình với các ý kiến khác.