
1
Chương I
GIA ĐÌNH - TẾ BÀO CỦA XÃ HỘI
Thời gian giảng: Thời gian thảo luận:
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ GIA ĐÌNH
1. Khái niệm Gia đình
Với tư cách là một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội. Gia
đình được hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu
dài. Xuất phát từ nhu cầu bảo tồn và duy trì nòi giống, từ sự cần thiết phải dựa
vào nhau để sinh tồn, các hình thức quần tụ giữa nam và nữ giới, những hình
thức cộng đồng tổ chức đời sống gia đình đã xuất hiện. Lịch sử nhân loại đã
trải qua nhiều hình thức gia đình như: Gia đình đối ngẫu, gia đình hôn nhân
từng cặp, gia đình một vợ một chồng...
Trên cơ sở của sự phát triển kinh tế - xã hội các kiểu dạng tổ chức cộng
đồng mang tính tự nhiên, ngay từ đầu đã chịu sự quy định của sự biến đổi
trong sản xuất trong đời sống kinh tế - xã hội.
Để quan hệ với thiên nhiên, tác động vào thiên nhiên, con người cần
phải quần tụ thành các nhóm cộng đồng. Ban đầu, các quan hệ chi phối trong
những nhóm cộng đồng ấy còn mang sắc thái tự nhiên sinh học sống quần tụ
với nhau theo bày đàn, sinh sống bằng săn bắn hái lượm...
Trước những yêu cầu của sản xuất và sinh hoạt những đòi hỏi của
đời sống kinh tế các quan hệ ấy dần trở nên chặt chẽ, giữa các thành viên
trong cộng đồng ấy xuất hiện những cơ chế ràng buộc lẫn nhau phù hợp và
thích ứng với những điều kiện sản xuất, sinh hoạt của mỗi một nền sản
xuất. Gia đình dần dần trở thành một thiết chế xã hội, một hình ảnh "xã hội
thu nhỏ". Nhưng không phải là sự thu nhỏ một cách giản đơn các quan hệ
xã hội. Những gia đình được coi như một thiết chế xã hội đặc thù, nhỏ
nhất, cơ bản nhất.
Nếu như văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra, nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình thì

2
gia đình không chỉ là một hình thức tổ chức cộng đồng, một thiết chế xã hội
mà điều quan trọng gia đình còn là một giá trị văn hoá xã hội. Tính chất, bản
sắc của gia đình lại được duy trì, bảo tồn, được sáng tạo và phát triển nhằm
thoả mãn những nhu cầu của mỗi thành viên trong gia đình trong sự tương tác
gắn bó với văn hoá cộng đồng dân tộc, cộng đồng giai cấp, tầng lớp trong mỗi
giai đoạn lịch sử của quốc gia, dân tộc.
Như vậy: Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản
trong đời sống cộng đồng của con người một thiết chế văn hoá xã hội đặc
thù được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của những quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục... giữa
các thành viên.
b. Đặc trưng các mối quan hệ cơ bản của gia đình
* Hôn nhân và quan hệ hôn nhân là một quan hệ cơ bản của sự hình
thành, tồn tại và phát triển gia đình
- Hôn nhân là một hình thức quan hệ tính giao giữa nam và nữ nhằm
thoả mãn các nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm và bảo đảm tái sản xuất ra con
người nhằm duy trì, phát triển nòi giống.
Cùng với sự phát triển của lịch sử Hôn nhân cũng có sự biến đổi sâu
sắc về hình thức tính chất và sắc thái của nó: Nếu như trong chế độ CSNT
hình thái hôn nhân chủ yếu là quần hôn. Trong các chế độ tư hữu hôn nhân
được hình thành xây dựng và thực hiện trên cơ sở bảo đảm lợi ích của những
người chủ sở hữu (gia đình gia trưởng - bảo đảm quyền lực của người chồng,
người cha, người chủ sở hữu tài sản và kế thừa tài sản...).
- Hôn nhân là hình thức quan hệ tính giao của con người và chỉ có ở
con người. Cho nên ngay từ đầu hôn nhân đã mang bản chất người nhân văn
và nhân đạo. Sự phù hợp về tâm lí, sức khoẻ và nhất là trạng thái tình cảm
ngay từ ban đầu nó đã là cơ sở trực tiếp của hôn nhân, mang lại bản sắc đặc
thù của quan hệ hôn nhân.

3
- Tuy nhiên, cũng như mọi quan hệ xã hội khác Hôn nhân luôn chịu sự
chi phối của các quan hệ kinh tế và bản chất của chế độ xã hội mà trên đó nó
được hình thành và phát triển.
Vì vậy, hôn nhân trong bất cứ thời đại nào cũng có thể và cần phải
được xã hội thừa nhận ở những mức độ, trình độ khác nhau. Trong chế độ tư
hữu và các xã hội có sự phân chia giai cấp sự thừa nhận đó của các chuẩn
mực văn hoá và lối sống truyền thống của cộng đồng (tổ chức cưới, hỏi...).
- Sự phù hợp về trạng thái tâm lý, tình cảm, lối sống giữa đôi nam nữ
trước khi đi đến hôn nhân là cơ sở trực tiếp cho hôn nhân: Tình yêu. Cũng
như hôn nhân, tình yêu của mỗi thời đại, mỗi giai tầng, mỗi dân tộc và cộng
đồng tâm lý văn hoá cũng có những giá trị và chuẩn mực riêng với những
biểu hiện riêng, cụ thể và sinh động.
* Huyết thống, quan hệ huyết thống là quan hệ cơ bản, đặc trưng của
gia đình
Do nhu cầu hết sức tự nhiên cần duy trì và phát triển nòi giống, con
người đã sáng tạo ra gia đình với tính cách là một thiết chế xã hội. Trong gia
đình cùng với quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống được coi là một quan
hệ cơ bản nhất. Tuy nhiên, ngay cả quan hệ cơ bản này cũng có những thay
đổi theo tiến trình lịch sử, những sự thay đổi ấy được quy định, chịu sự chi
phối của các điều kiện: Kinh tế, văn hoá, chính trị của xã hội. Mặt khác quan
hệ huyết thống ấy cũng gia nhập đan xen vào các quan hệ kinh tế và chính trị
xã hội của mỗi thời đại.
Thí dụ: Trong chế độ công xã nguyên thuỷ huyết thống về đằng mẹ
được coi là chuẩn mực để tính quan hệ thân tộc gần xa khi ấy gia đình được
xây dựng trên cơ sở huyết thống mẫu hệ.
Khi chế độ tư hữu ra đời vai trò của người đàn ông ngày càng được
khẳng định trong quan hệ gia đình gia trưởng. Gia đình theo huyết thống về
đằng cha (gia đình phụ hệ ra đời). Khi quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ

4
ngày càng gay gắt thì gia đình phu hệ phát triển: Gia đình chủ nô, gia đình
phong kiến gia trưởng và gia đình tư sản.
Chỉ có thể khắc phục được những mâu thuẫn này khi xoá bỏ được chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được xác lập.
* Quan hệ quần tụ trong một không gian sinh tồn
Ngay từ đầu xuất phát từ yêu cầu đặt ra trong quan hệ với tự nhiên và
giữa con người với nhau cộng đồng gia đình đã luôn cư trú quần tụ trong
một không gian sinh tồn từ lúc trong một hang đá hốc cây → sau đó là trong
một mái nhà. Dù không gian sinh tồn ấy ngày càng mở rộng và chịu sự chi
phối của các quan hệ kinh tế - xã hội nhưng nhu cầu quần tụ vẫn luôn luôn
được đặt ra, cho dù ngày nay khái niệm không gian sinh tồn không còn giữ
nguyên nghĩa như một giới hạn địa lý thuần tuý nữa. Cho dù sự can thiệp,
mức độ quan tâm giữa các thành viên gia đình đã được thay thế, đảm nhận ở
mức độ đáng kể sự quan tâm, chăm sóc giữa các thành viên, các thế hệ trong
mỗi gia đình không vì thế mà mất đi mà trái lại nó được củng cố, được thực
hiện nhờ thiết bị, phương tiện và tiện nghi ngày càng hiện đại đầy đủ hơn
(An cư lập nghiệp).
* Quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên và các thế hệ thành viên
trong gia đình
Nuôi dưỡng là một nghĩa vụ, một trách nhiệm đồng thời còn là một
quyền lợi thiêng liêng của gia đình của các thành viên gia đình đối với nhau.
Nuôi dưỡng không đơn thuần chỉ là các bậc cha mẹ, ông bà nuôi dưỡng con
cháu mà còn là hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng của con cháu đối với cha mẹ,
ông bà, giữa các thành viên khoẻ mạnh có thuận lợi trong làm ăn sinh sống
đối với những thành viên gặp khó khăn, rủi ro về sức khoẻ về làm ăn sinh
sống. Mặc dù xã hội phát triển sự quan tâm của xã hội đối với gia đình và các
thành viên gia đình qua các chính sách bảo hiểm, chăm sóc y tế, dưỡng lão..
nhưng nuôi dưỡng của gia đình có những đặc thù mà xã hội dù có hiện đại

5
đến đâu cũng không thể thay thế được và càng không nên đặt vấn đề thay thế
hoàn toàn.
2. Vị trí gia đình trong xã hội
a. Gia đình là tế bào của xã hội
Có thể ví xã hội là một cơ thể sống hoàn chỉnh và không ngừng biến
đổi được "sắp xếp tổ chức" theo nhiều mối quan hệ, trong đó gia đình được
xem là một tế bào, một thiết chế cơ sở đầu tiên.
Mỗi một chế độ xã hội được sinh thành, vận động và biến đổi trên cơ
sở một phương thức sản xuất xác định và có vai trò quy định đối với gia đình.
Nhưng xã hội ấy lại tồn tại thông qua các hình thức kết cấu và quy mô gia
đình. Mỗi gia đình hoà thuận thì cả cộng đồng xã hội tồn tại và vận động một
cách êm thấm. Mục đích chung của sự vận động, biến đổi của xã hội trước hết
vì lợi ích của mỗi công dân và thành viên của xã hội nhưng lợi ích của mỗi
công dân, mỗi thành viên xã hội lại chịu sự chi phối của lợi ích các tập đoàn
giai cấp thống trị trong xã hội, trong điều kiện xã hội phân chia thành giai cấp.
b. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mô, kết cấu,
hình thức tổ chức và tính chất của gia đình
Theo quan điểm về duy vât lịch sử đã chỉ ra rằng: Gia đình là những
hình thức phản ánh đặc thù của trình độ sản xuất của trình độ phát triển kinh
tế. Trong tiến trình lịch sử nhân loại các phương thức sản xuất: cộng sản
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, địa chủ phong kiến, tư bản chủ nghĩa, và xã
hội chủ nghĩa đã lần lượt thay thế nhau, kéo theo và dẫn đến sự biến đổi về
hình thức tổ chức, quy mô và kết cấu cũng như tính chất của gia đình.
Từ gia đình tập thể quần hôn với hình thức huyết thống → gia đình
đối ngẫu cặp đôi bước sang hình thức gia đình cá thể một vợ một chồng. Từ
chỗ gia đình một vợ một chồng bất bình đẳng đối với người phụ nữ, người
vợ sang gia đình một vợ một chồng bình đẳng giữa nam và nữ, vợ và chồng.
Tất cả những bước phát triển ấy của gia đình phụ thuộc chủ yếu và trước hết