Bài giảng Vận động biên của điểm răng cửa ghi trên mặt phẳng dọc giữa (sơ đồ posselt)
lượt xem 11
download
Bài giảng Vận động biên của điểm răng cửa ghi trên mặt phẳng dọc giữa (sơ đồ posselt) giúp người học mô tả được sơ đồ đường đi của điểm răng cửa trong vận động biên ghi trên mặt phẳng dọc giữa (sơ đồ Posselt); trình bày và thảo luận được đặc điểm của đoạn vận động bản lề; trình bày và thảo luận được đặc điểm của đoạn trượt trung tâm.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Vận động biên của điểm răng cửa ghi trên mặt phẳng dọc giữa (sơ đồ posselt)
- § VẬN ĐỘNG BIÊN CỦA ĐIỂM RĂNG CỬA GHI TRÊN MẶT PHẲNG DỌC GIỮA (SƠ ĐỒ POSSELT) MỤC TIÊU 1. Mô tả được sơ đồ đường đi của điểm răng cửa trong vận động biên ghi trên mặt phẳng dọc giữa (sơ đồ Posselt). 2. Trình bày và thảo luận được đặc điểm của đoạn vận động bản lề. 3. Trình bày và thảo luận được đặc điểm của đoạn trượt trung tâm. MỞ ĐẦU Vận động biên của điểm răng cửa ghi trên mặt phẳng dọc giữa được Posselt mô tả lần đầu tiên năm 1957. Để ghi vận động biên, người ta có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Đơn giản nhất và cũng là phương pháp được Posselt sử dụng là dùng bút ghi lên giấy: bút chì được cố định vào vùng răng cửa dưới, ghi trên một bản ghi đặt trên mặt phẳng đứng dọc, nghĩa là song song với mặt phẳng dọc giữa (Hình 4-1). Ngày nay, người ta có thể dùng nhiều phương tiện cơ-điện tử, kết hợp với camera hoặc các phương tiện điện toán, để ghi lại sơ đồ này. Ở nước ta, năm 1994, Hoàng Tử Hùng, Nguyễn Phúc Diên Thảo đã ghi vận động biên của điểm răng cửa trên mặt phẳng dọc giữa và nghiên cứu các thông số cắn khớp cơ bản( 1 ). Trong phần dưới đây, sơ đồ Posselt sẽ được mô tả theo từng đoạn. 1. ĐOẠN HÁ-LUI SAU Nếu thầy thuốc (hoặc bệnh nhân) giữ hàm dưới được ra sau và hướng dẫn thực hiện động tác mở-đóng, một vận động bản lề có thể được thực hiện, điểm răng cửa vạch đoạn S – B (đoạn này dài khoảng 16 – 20 mm) (Hình 4-2). Trục quay của vận động bản lề là một trục ngang cố định qua hai lồi cầu (Hình 4-3), tức đi qua hai khớp thái dương hàm. Vận động của hàm dưới trong vị trí này được gọi là vận động bản lề tận cùng. Lúc này, lồi cầu ở vị trí sau nhất, cao nhất, tựa vào đĩa khớp ở đáy của hõm khớp và xương hàm dưới nằm cân xứng trên đường giữa. Hình 4-2. Trong vận động bản lề S của hàm dưới, điểm răng cửa vạch đoạn S – B (khoảng 16 – 20 mm). B (1) Hòang Tử Hùng, Nguyễn Phúc Diên Thảo: Nghiên cứu thăm dò một số đặc trưng vận động biên của hàm dưới trên mặt phẳng dọc giữa (sơ đồ Posselt) và một số thông số về quan hệ hai hàm ở người Việt, Hình Thái Học, tập 5, số 1, 1995. hoangtuhung.com 1
- L T S N B H L S T D N Hình 4-1. Sơ đồ Posselt: S - vị trí tiếp xúc lui sau, L – vị trí lồng múi tối đa, D – vị trí đối đầu các răng cửa, T – vị trí tiếp xúc ra trước tối đa, H – điểm há tối đa, B – điểm tận cùng của đoạn vận động bản lề, N – vị trí nghỉ. Hình 4-3. Trục quay của vận động bản lề là một trục ngang cố định qua hai lồi cầu. Vận động bản lề là vận động mở-đóng hàm dưới, được thực hiện chỉ khi có sự hướng dẫn: hàm dưới được giữ ra sau, các cơ hàm ở trạng thái thư dãn, nghĩa là một vận động mở-đóng hàm dưới do hướng dẫn, không có sự tham gia của các cơ, biên độ được quyết định bởi dây chằng khớp thái dương hàm. Vận động bản lề được xác định trên người Việt (theo nghiên cứu của Hoàng Tử Hùng và Nguyễn Phúc Diên Thảo ( 2 ) là khoảng 17 đến 23 mm (trung bình 19,98 ± 2,84 mm). Vị trí mà lồi cầu thực hiện được vận động bản lề được gọi là vị trí tương quan trung tâm, (còn gọi là vị trí bản lề, vị trí lui sau). Do vị trí và đường vận động bản lề được quyết định bởi dây chằng và các cấu trúc khác của khớp thái dương hàm, nó còn được gọi (2) Hòang Tử Hùng , Nguyễn Phúc Diên Thảo, (1995), Tài liệu đã dẫn. hoangtuhung.com 2
- là vị trí dây chằng, vị trí dây chằng hướng dẫn (Posselt, 1961), vị trí đĩa khớp hướng dẫn (Ash và Ramfjord, 1995). Thuật ngữ thường dùng nhất để chỉ vị trí này của lồi cầu (và của hàm dưới) là tương quan trung tâm. Như vậy, tương quan trung tâm là một tương quan hàm- sọ, hay gần hơn là tương quan giữa lồi cầu xương hàm dưới và hõm khớp xương thái dương qua trung gian đĩa khớp. Từ vị trí tương quan trung tâm (mà khi được hướng dẫn và không có sự tham gia của các cơ hàm, hàm dưới thực hiện được vận động bản lề), khi không có hướng dẫn và có sự tham gia của các cơ, hàm dưới có thể thực hiện các động tác há, ngậm, sang bên, ra trước; như vậy, đây là tư thế chức năng sau nhất của hàm dưới. Trong thực hành làm hàm giả toàn bộ, vị trí tương quan trung tâm được xác định như một trong những căn cứ quan trọng nhất để xác lập khớp cắn trung tâm cho hàm giả. Trong suốt đoạn vận động bản lề của hàm dưới, lồi cầu chỉ xoay quanh trục nằm ngay tại các lồi cầu (trục bản lề). Các điểm của xương hàm dưới và của chính lồi cầu vạch những cung tròn với tâm là trục bản lề. Vị trí tương quan trung tâm cũng như các vị trí khác (của hàm dưới nói chung và của lồi cầu nói riêng) trên đường vận động bản lề là những vị trí tham chiếu theo chiều ngang. Tương quan trung tâm, như vậy, không liên quan đến việc còn răng hay mất răng. Người ta có thể mô tả tương quan giữa các răng ở vị trí này trên những người còn răng. Ở vị trí này (tức vị trí kết thúc của vận động đóng hàm ở tương quan trung tâm), các răng trên và dưới có tiếp xúc nhau ở một số điểm, tập trung hoặc phân tán trên bản nhai, đó là vị trí tiếp xúc lui sau (Hình 4-4). Hình 4-4. Tương quan khớp cắn ở vị trí tiếp xúc lui sau. Trong điều kiện sinh lý của hệ thống nhai, trục quay và đường vận động quanh trục bản lề tận cùng của hàm dưới là không thay đổi và có thể lặp lại, vì vậy tương quan trung tâm được coi là vị trí tham chiếu quan trọng của hàm dưới (xem Phần thứ ba: Giá khớp, cung mặt và lên giá khớp). Từ điểm B (điểm tận cùng của đường vận động bản lề), nếu cố gắng tiếp tục động tác há, điểm răng cửa vạch đoạn BH, điểm H là điểm kết thúc vận động há – lui sau tức điểm há tối đa. Tại điểm H (há tối đa), các vận động theo chiều ngang của hàm dưới bị giới hạn, điểm há tối đa là chung cho các vận động há miệng đến tối đa. Khi điểm răng cửa vạch đoạn BH, lồi cầu rời khỏi hõm khớp, dịch chuyển ra trước và xuống dưới, tại điểm H (há tối đa), lồi cầu ở trước dưới lồi khớp (Hình 4-5). Trục quay của vận động hàm dưới cũng rời khỏi lồi cầu, di chuyển xuống dưới và ra trước, nằm gần phía dưới lỗ hàm. hoangtuhung.com 3
- S B H Hình 4-5. Pha thứ hai của đoạn há lui sau. Lồi cầu dịch chuyển ra trước và xuống dưới. Như vậy, toàn bộ đoạn SH gồm đường đi của điểm răng cửa trong vận động từ vị trí tiếp xúc lui sau (điểm S) đến há tối đa (điểm H) là một đường cong gồm hai pha với cung trên (SB) và cung dưới (BH) cong lõm ra sau với một điểm uốn lõm ra trước ở B. Đoạn BH thường dài hơn đoạn SB. Điểm uốn B là do dây chằng không tiếp tục căng thêm nữa, lồi cầu rời khỏi hõm khớp, dịch chuyển ra trước và xuống dưới (Hình 4-6). Hình 4-6. Tại vị trí kết thúc vận động bản lề, Dây chằng không tiếp tục căng thêm nữa, lồi cầu rời khỏi hõm khớp, dịch chuyển ra trước và xuống dưới. 2. ĐOẠN ĐÓNG-RA TRƯỚC VÀ TRƯỢT TỪ TIẾP XÚC LUI SAU ĐẾN RA TRƯỚC TỐI ĐA Từ điểm há tối đa, nếu hàm dưới thực hiện động tác đóng-ra trước cho đến khi răng dưới chạm răng trên, điểm răng cửa vạch cung HT (Hình 4-7). hoangtuhung.com 4
- B H Hình 4-7. Đoạn đóng-ra trước của điểm răng cửa. Điểm T là điểm tiếp xúc ra trước tối đa. Điểm này ở 10 – 12 mm trước điểm tiếp xúc lui sau (S). Cung HT là một cung lõm về sau, không phân đoạn. Trong quá trình đóng ra trước, lồi cầu ở dưới lồi khớp. Đoạn gấp khúc ST được quyết định bởi quan hệ giữa mặt nhai và bờ cắn của hai cung răng. Đó là đoạn từ tiếp xúc lui sau đến tiếp xúc ra trước tối đa. Trên đoạn này có thể thấy: thoạt tiên một đoạn ngắn SL lên trên và ra trước, điểm L là vị trí lồng múi tối đa (Hình 4-8). Tại vị trí này có sự tiếp xúc tối đa giữa các răng trên và dưới, đó là tư thế đóng (cắn) khít nhất giữa hai hàm và tạo nên sự ổn định cơ học nhất đối với xương hàm dưới. Tư thế này thường được gọi là khớp cắn trung tâm, và còn được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác : vị trí lồng múi, vị trí răng, vị trí trung tâm tập nhiễm, vị trí trung tâm thông thường. L S Hình 4-8. Đoạn SL: điểm răng cửa từ vị trí tiếp xúc lui sau (S) trượt một đoạn ngắn lên trên và ra trước, đến vị trí lồng múi tối đa (L). Các thuật ngữ thường dùng nhất để chỉ vị trí này là lồng múi tối đa, vị trí lồng múi (trong giải phẫu răng và cắn khớp học), khớp cắn/cắn khớp trung tâm hoặc cắn khít trung tâm (trong lâm sàng cắn khớp học và các môn lâm sàng nha khoa khác). Lồng múi tối đa là một vị trí tương quan răng – răng, (khác với tương quan trung tâm đã nói trên là vị trí tương quan hàm sọ) trong đó mặt chức năng của các răng hướng dẫn và xác định vị trí của hàm dưới, vì vậy còn được gọi là vị trí “ răng hướng dẫn”. Vị hoangtuhung.com 5
- trí lồng múi bị thay đổi bởi những biến chuyển của bộ răng. Sự ăn khớp bình thường giữa các răng ở lồng múi tối đa đã được mô tả trong sách giải phẫu răng( 3 ) và trong một bài sau của chương này. Độ dài trung bình của đoạn SL trên người Âu theo Posselt là 1,25 mm ± 1. Trên người Âu, 90% số người có chức năng nhai bình thường, lành mạnh và hòa hợp chức năng, tức có khớp cắn sinh lý, vị trí lồng múi nằm ở 1,25 mm ± 1 trước điểm tiếp xúc lui sau. Ở 10% số người có khớp cắn sinh lý còn lại, các điểm tận cùng của vận động đóng hàm dưới thông thường tự do và của vận động đóng lui sau gặp nhau ở một điểm. Nói cách khác, tư thế lồng múi diễn ra trong tư thế tiếp xúc lui sau (Posselt) (Hình 4-9). Ở người trẻ Việt nam, vị trí lồng múi nằm ở 0,72 mm ± 0,43 trước điểm tiếp xúc lui sau (chiếm 95% số người có chức năng nhai bình thường). Ở 5% số người có khớp cắn sinh lý còn lại, tư thế lồng múi trùng với tư thế tiếp xúc lui sau (không có đoạn trượt trung tâm) (Hoàng Tử Hùng và Nguyễn Phúc Diên Thảo, 1995)( 4 ) Đoạn từ L đến T thường là một đoạn gấp khúc lõm lên trên, trong đó D là điểm cắn đối đầu giữa các răng cửa (Hình 4-10). S =L Hình 4-9. Tư thế lồng múi diễn ra trong tư thế tiếp xúc lui sau (điểm S trùng với điểm L trên sơ đồ Posselt). L T S D B L D H Hình 4-10. Đoạn LT thường là đoạn gấp khúc lõm lên trên, với D là điểm đối đầu giữa các răng cửa. (3) Xem Hoàng Tử Hùng, “Giải phẫu răng”, nxb Y học, 2003. (4), (5) Hòang tử Hùng, Nguyễn Phúc Diên Thảo, (1995), tài liệu đã dẫn. hoangtuhung.com 6
- Mô tả trên đây về đoạn ST đề cập đến những trường hợp thường gặp của bộ răng có quan hệ giữa hai hàm bình thường. Những trường hợp khác sẽ được khảo sát trong các bài sau. Cần chú ý là đoạn ST là đoạn vận động tiếp xúc, đồng thời cũng là vận động biên của hàm dưới vì hàm dưới không thể đóng thêm nữa khi các răng tiếp xúc nhau. 3. VỊ TRÍ NGHỈ Trên sơ đồ Posselt, người ta thường mô tả vị trí nghỉ của hàm dưới. Khi điểm răng cửa ở vị trí nghỉ (điểm N, Hình 4-1), hàm dưới được “treo” một cách lỏng lẻo, sự tác động của hệ thống cơ hàm đối với hàm dưới ở mức thấp. Vị trí nghỉ của hàm dưới, cũng như các vị trí nghỉ khác của cơ thể, có sự khác biệt nhất định ngay cả trên cùng một người (thí dụ rõ rệt nhất là sự khác biệt vị trí nghỉ của hàm dưới khi ngủ và khi thức: khi ngủ, thường có độ mở lớn hơn). Điểm N trên người Âu, theo posselt, thường ở một độ mở khoảng 1–4 mm (2,5mm ± 1,5) dưới vị trí lồng múi, một số tác giả còn cho những giá trị lớn hơn, tới 7 – 10 mm. Trên người Việt, vị trí nghỉ dưới vị trí lồng múi khoảng 1,3 đến 3,2 mm (trung bình: 2,24 mm ± 0,93) ( 5 ). Nếu một người ngồi hoặc đứng, hàm dưới ở tư thế nghỉ và được yêu cầu há miệng, điểm răng cửa sẽ vạch đường S. Trong vận động há miệng này, lồi cầu di chuyển ra trước và xuống dưới với tâm quay gần với trục D tức gần lỗ hàm, đó là vận động há miệng tự do. Từ tư thế nghỉ, nếu yêu cầu đụng nhẹ răng trở lại, trong điều kiện hệ thống nhai lành mạnh, điểm tiếp xúc đầu tiên từ tư thế nghỉ và của những vận động tự do thông thường khác là vị trí lồng múi tối đa. Tiếp xúc đầu tiên này cũng có thể diễn ra ở một nơi nào đó gần với vị trí lồng múi tối đa. Vị trí tiếp xúc đầu tiên phụ thuộc vào cân bằng cơ (còn được gọi là hồi ức hay bộ nhớ cơ) của tiếp xúc cắn khớp, nên vị trí đó được gọi là vị trí cơ hay vị trí trung tâm (muscular/centric position). Tư thế nghỉ thường là tư thế bắt đầu và là điểm kết thúc của các vận động tự do của hàm dưới (xem bài Kích thước dọc và tư thế nghỉ, chương 6). hoangtuhung.com 7
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tập bài giảng Quy Luật thời khí và biện chứng luận trị về bệnh thời khí
177 p | 208 | 60
-
Bài giảng Các bệnh thiếu DD có ý nghĩa cộng đồng - BS. Phan Kim Huệ
45 p | 94 | 11
-
Bài giảng Dinh dưỡng - ĐH Duy Tân
176 p | 55 | 9
-
Bài giảng chuyên đề Bệnh học: Hở van động mạch chủ - TS. Nguyễn Đức Công (Học viện Quân Y
13 p | 129 | 7
-
Bài giảng Phục hồi chức năng: Phần 2 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2022)
75 p | 13 | 6
-
Bài giảng Sinh lý bệnh: Bài 3 - PGS.TS. Lê Văn Quân
27 p | 6 | 3
-
Bài giảng Sinh lý bệnh: Bài 2 - PGS.TS. Lê Văn Quân
15 p | 6 | 3
-
Bài giảng Sinh lý bệnh: Bài 1 - PGS.TS. Lê Văn Quân
16 p | 6 | 3
-
Bài giảng Tiếp cận triệu chứng âm thổi ở tim - ThS. BS. Nguyễn Thành Sang
40 p | 5 | 3
-
Bài giảng Mạch máu chi dưới - BS. Hoàng Văn Sơn
28 p | 18 | 3
-
Bài giảng Sinh lý co cơ - Nguyễn Thị Bình
39 p | 10 | 3
-
Bài giảng Hở van động mạch chủ - T.S BS. Nguyễn Tuấn Vũ
7 p | 98 | 3
-
Nghiên cứu pilot về hiệu quả giảm đau, biên độ vận động khớp cổ, khớp vai, chức năng sinh hoạt hằng ngày của bài tập khớp cổ, khớp vai theo y học cổ truyền và bài tập vận động cột sống cổ theo phục hồi chức năng trên bệnh nhân thoái hóa cột sống cổ
7 p | 3 | 3
-
Bài giảng Hở van hai lá - PGS.TS. Hoàng Anh Tiến
48 p | 5 | 2
-
Bài giảng Ngoại cơ sở 2: Phần 2 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2017)
61 p | 8 | 2
-
Bài giảng Độ cứng động mạch: Cái nhìn mới cho một vấn đề cũ - PGS. TS.BS. Nguyễn Ngọc Quang
41 p | 8 | 2
-
Bài giảng Sinh lý bệnh: Bài 11 - PGS.TS. Lê Văn Quân
33 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn