intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả công tác phụ đạo học sinh yếu môn Toán lớp bốn

Chia sẻ: Vinh Le | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:9

112
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung báo cáo sáng kiến kinh nghiệm trình bày thực trạng khi chưa đổi mới; những yếu tố khách quan, chủ quan; các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phụ đạo học sinh yếu kém môn Toán lớp 4 và các hiệu quả đạt được. Mời các bạn cùng tham khảo sáng kiến kinh nghiệm để nắm chi tiết nội dung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả công tác phụ đạo học sinh yếu môn Toán lớp bốn

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BÁO CÁO SÁNG KIẾN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHỤ ĐẠO  HỌC SINH YẾU MÔN TOÁN LỚP BỐN I. Sơ yếu lí lịch              Họ và tên : NGUYỄN THỊ PHƯỚC YẾN              Giới tính : Nữ             Năm sinh: 1983             Trình độ chuyên môn nghiệp vụ :  Cao Đẳng Sư Phạm              Chức vụ :  Giáo viên              Đơn vị : Trường Tiểu học Lam Sơn II. Nội dung:       1. Thực trạng khi chưa đổi mới     ­  Học sinh còn chậm trong thực hành tính toán, chưa thuộc bảng cửu chương.      ­ Cộng, trừ, nhân, chia có nhớ còn chậm, quên không nhớ.      ­ Còn lẫn lộn, quên cách tìm thành phần chưa biết của phép tính.      ­ Kỹ năng giải toán có lời văn còn yếu.         2.  Những yếu tố khách quan, chủ quan:           a/ Khách quan *) Vê phia h ̀ ́ ọc sinh: Như   chúng ta đã biết, sự  yếu kém về  môn Toán của học   sinh có biểu hiện dưới nhiều cách khác nhau nhưng nhìn chung thường có các đặc  điểm sau đây:    ­ Có nhiều lỗ hổng về kiến thức, kĩ năng, tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng  chậm. Trang 1
  2.   ­ Phương pháp học tập chưa tốt, năng lực tư  duy yếu, có thái độ  thờ  ơ  với học   tập, ngại cố gắng, thiếu tự tin.         ­ Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập.         ­ Khả  năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học   tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin.          ­ Học sinh lười suy nghĩ, còn trông chờ  thầy cô giải giúp, trình độ  tư  duy, vốn  kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế.         ­   Khả   năng   chú   ý   và   tập   trung   vào   bài   giảng   của   giáo   viên   không   bền.           ­ Mỗi em có một khả năng nôi tr ̉ ội riêng nhưng các em chưa biết phát huy khả  năng của mình.         ­ Không biết làm tính, yếu các kỹ  năng tính toán cơ  bản, cần thiết (cộng, trừ,   nhân, chia).        ­ Học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức. *)  Đối với phụ huynh:  Một bộ phận phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc  học tập của con cái, giao việc học tập của con em cho nhà trường. Bên cạnh đó phụ  huynh chưa nắm được phương pháp sư phạm, không nắm được cách giải Toán ở Tiểu   học khiến cho trẻ  không hiểu và thiếu tin tưởng. Mặt khác, một số  phụ  huynh điều   kiện kinh tế gia đình quá khó khăn không có điều kiện chăm lo cho con em học tập,  ở  nhà các em còn phải làm nhiều việc phụ  giúp gia đình vì vậy các em đến trường  thường trong trạng thái mệt mỏi, uể oải. Một số phụ huynh đi làm ăn xa phải gửi con  cho ông bà, cô bác trông hộ. Các em trong đối tượng này thì bị thiếu thốn tình cảm của   bố mẹ nên khi học thường không chú tâm vào việc học tập. .             b/ Chủ quan           Trong quá trình dạy học có thể  nói người giáo viên còn chưa có sự  chú ý đúng   mức tới việc làm thế  nào để  đối tượng học sinh nắm vững được lượng kiến thức.  Nguyên nhân là do giáo viên chưa nhiệt tình trong công tác giảng dạy cũng như  chưa   đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học  tập của học   sinh. Tổ chức các hình thức dạy và học chưa phong phú và phù hợp với từng đối tượng   học sinh. Do vậy, chưa lôi cuốn  được sự tập trung chú ý nghe giảng của học sinh. Từ  đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến thức còn dàn trải. Nội dung mỗi bài học trước thường là cơ sở của bài học sau, việc giới thiệu bài  cũng hết sức quan trọng  vì nó  là một sự chuyển tiếp giữa mảng kiến thức cũ và mảng  kiến thức mới. Tuy nhiên vẫn còn một số  giáo viên chưa đầu tư, các kiến thức liên  Trang 2
  3. quan đến bài giảng chưa biết sử  dụng bài trước để  giới thiệu dẫn dắt lôi cuốn học  sinh một cách hấp dẫn vào bài mới.         Một số giáo viên ít dành thời gian nghiên cứu, chuẩn bị hay chuẩn bị đồ dùng dạy   học phục vụ cho tiết dạy, dẫn tới việc HS tiếp thu bài môn Toán chưa cao.    3/ .Tên sáng ki   ến :  Từ  những thực trạng nói trên, để  tập trung nâng chất lượng học tập của học   sinh, ngăn ngưa và kh ̀ ắc phục tình trạng học sinh yếu, kém về môn Toán, tránh để tình  trạng học sinh ngồi nhầm lớp tôi đa suy nghĩ và trao đ ̃ ổi cùng đồng nghiệp đưa ra   “Nâng cao hiệu quả công tác phụ đạo học sinh lớp  yếu kém môn Toán lớp 4”   như  sau:           4.Nội dung của sáng kiến :. * Các giải  pháp nâng cao hiệu quả công tác phụ  đạo học sinh lớp  yếu kém môn   Toán lớp 4              + Giải pháp 1. Theo dõi thường xuyên, nắm bắt cụ thể tình hình học sinh  yếu. Tôi đã theo dõi kết quả làm bài tập trên lớp và làm bài tập về nhà hàng ngày, theo   dõi kết quả  kiểm tra định kỳ, sớm phát hiện ra các trường hợp học sinh có khó khăn  trong học tập và đi sâu tìm hiểu từng trường hợp cụ  thể, phân tích đúng nguyên nhân  dẫn đến tình hình đó đối với các em. ­ Ngay từ đầu năm học, tiến hành khảo sát chất lượng học sinh về môn Toán.  ­ Lập danh sách và phân loại học sinh yếu, kém về môn Toán, phân tích nguyên   nhân.  ­ Phân loại học sinh học yếu theo những nguyên nhân chủ  yếu như: Do hổng   kiến thức, kỹ năng từ lớp dưới, do điều kiện hoàn cảnh gia đình, do trí tuệ  chậm phát  triển... Phân loại học sinh yếu môn toán theo các nhóm nguyên nhân chủ yếu như sau:  + Nhóm khả  năng tiếp thu bài chậm, chưa chăm học, hổng kiến thức lớp  dưới   như  chưa thuộc bảng nhân, bảng chia, chưa biết tìm thành phần chưa biết của phép  tính, giải toán có lời văn còn yếu: Nhóm này có 10 em. + Nhóm do hoàn cảnh gia đình và các nguyên nhân khác: Nhóm này có 5 em.   Trong nhóm này các em có khả năng tiếp thu bài tốt. Nhưng vì điều kiện gia đình khó  khăn không có người chăm lo, đôn đốc học tập nên các em chưa tích cực học tập,   không hoàn thành nhiệm vụ  học tập, dẫn đến kết quả  học tập sa sút và liên tục bị  điểm yếu. Trang 3
  4.       + Giải pháp 2.  Lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ đạo học sinh yếu,  kém về môn toán phù hợp với đối tượng học sinh.  Khi nắm được nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu, kém về  môn Toán của  từng em, tôi lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ đạo học sinh yếu, kém với yêu   cầu: + Lập kế  hoạch bài học phải phù hợp với từng đối tượng học sinh kể  cả  tiết  chính khóa cũng như tiết phụ đạo. Nội dung kế hoạch phải xuyên suốt cả năm học và   cụ thể cho từng tuần, từng tháng.  + Nội dung các tiết phụ đạo tập trung rèn luyện kĩ năng và ôn tập các kiến thức   đã học cho học sinh. + Đặc biệt giúp các em củng cố những kiến thức cơ bản theo yêu cầu chuẩn kĩ  năng kiến thức của lớp dưới mà các em còn bị  hổng. Như  nhớ  được bảng nhân, bảng   chia, giải được một số dạng toán cơ bản đã học ở lớp dưới... Mục đích là lấp lỗ hổng  về kiến thức cho học sinh. * Ví dụ nội dung phụ đạo học sinh học yếu môn toán lớp 4: Tuần 1: Khảo sát, tìm hiểu nguyên nhân, phân loại học sinh. Tuần 2: Củng cố về bảng nhân, bảng chia 2,3,4,5. Tuần 3: Củng cố về bảng nhân, bảng chia 6,7,8,9. Tuần 4: Củng cố  về  bảng nhân, bảng chia kết hợp với củng cố  về  tìm thành   phần chưa biết của phép tính. Tuần 5: Củng cố về bốn phép tính với số tự nhiên kết hợp với củng cố về giải   toán có lời văn. Tuần 6: Tiếp tục củng cố về bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia với số tự nhiên   kết hợp với củng cố về giải toán có lời văn. Tuần 7: Tiếp tục củng cố về bốn phép tính với số  tự  nhiên, củng cố  mối quan   hệ các đơn vị đo lường và vận dụng làm toán có lời văn... Cứ  tiếp tục như  vậy, nội dung các buổi phụ  đạo sau phải có sự  củng cố  lại  những kiến thức đã học  ở  các buổi học trước và tập trung chủ  yếu vào củng cố  cho   học sinh kĩ năng thực hiện thành thạo bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia với số  tự  nhiên ở học kì I. Nội dung củng cố kĩ năng thực hành làm tính với số tự nhiên, giáo viên   linh hoạt bằng nhiều bài toán khác nhau. Có thể là các dạng bài như: đặt tính rồi tính;  tính giá trị biểu thức; tìm x; toán có lời văn…  Phải cho học sinh làm đi làm lại nhiều  lần một dạng bài tập để các em thành thạo. Việc củng cố kiến thức đã học thực hiện   đồng thời với việc dạy kiến thức mới của lớp 4. Căn cứ vào yêu cầu chuẩn kiến thức   kĩ năng của từng bài, giáo viên giúp học sinh yếu tiếp thu những kiến thức và làm bài   tập vừa sức với các em. Trang 4
  5. + Cuối tuần kiểm tra 1 lần, cuối mỗi tháng, mỗi kỳ có bài kiểm tra theo dõi kết  quả  học tập của các em. Lập sổ  theo dõi quá trình phụ  đạo, nâng bậc học sinh yếu   (suốt cả năm học). + Kết hợp chặt chẽ với gia đình và nhà trường. Có sổ liên lạc giữa giáo viên chủ  nhiệm và phụ huynh học sinh, thường xuyên đến thăm và động viên gia đình học sinh.  + Thời gian phụ  đạo chủ  yếu vào các buổi chiều trong tuần ( thứ  3 và thứ  5),   lồng ghép vào chương trình chính khoá và với một số  tiết hoạt động tập thể  hay giờ  giải lao ( trong đó tổ chức các trò chơi có nội dung toán học). + Kế hoạch bồi dưỡng phải có chỉ  tiêu phấn đấu cụ  thể  là: cuối học kì I không  còn tình trạng học sinh bị hổng kiến thức đã học. Học kì II, các em học đến đâu phải   đạt yêu cầu đến đó (theo yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình toán lớp   4). Đến cuối năm học, không còn học sinh nào học yếu môn toán. Giải pháp 3 :  Thực hiện kế hoạch:  Khi thực hiện kế  hoạch phụ  đạo học sinh yếu, tôi không nóng vội, phải thực   hiện kế  hoạch theo từng bước hợp lí. Đồng thời không cứng nhắc rập khuôn theo kế  hoạch mà cần phải linh hoạt điều chỉnh nội dung và cách thức thực hiện.  Căn cứ vào kết quả tìm hiểu nguyên nhân của học sinh học yếu môn toán ở khối  4, tôi  thực hiện kế hoạch phụ đạo với những nội chủ yếu như sau: 1. Củng cố 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Bởi vì số  hoc sinh h ̣ ọc kém môn Toán khối 4, đa số  do khả  năng tiếp thu bài  chậm, còn hổng kiến thức từ lớp dưới, vì thế  đã học lên lớp 4 nhưng các em này vẫn   chưa thuộc lòng bảng nhân, bảng chia ở lớp 2, 3 còn yếu trong việc vận dụng bốn phép   tính cộng, trừ, nhân, chia để giải toán có lời văn. Điều đó rất bất lợi cho các em trong  quá trình học toán ở lớp 4 và lên lớp 5. Để các em làm thành thạo 4 phép tính cộng, trừ,   nhân, chia, tôi xác định việc làm đầu tiên dạy lại những kiến thức cơ bản giúp học sinh  lấp được lỗ hổng kiến thức.  Vì vậy, tôi đã giao cho học sinh yếu cứ  mỗi tuần phải học thuộc 3 đến 5 bảng  nhân, bảng chia, mỗi buổi học tôi dành 5 phút với buổi chính khoá, 15 phút với buổi  phụ  đạo để  kiểm tra việc học của học sinh. Cuối tuần tôi lại tổ  chức cho các em thi   đọc bảng cửu chương (15­20 phút).  Sau hai tuần đầu tôi kiểm tra đã nhận thấy rằng: Các em đều học thuộc bảng  nhân, bảng chia nhưng khi vận dụng làm một phép tính cụ thể (VD: 124 : 2) thì có em  làm được nhưng rất chậm, có em không làm được. Tôi tìm nguyên nhân, thì ra các em   chỉ thuộc "vẹt" bảng nhân, bảng chia.  Tiếp theo tôi  điều chỉnh cách kiểm tra, phải chỉ  định học sinh đọc bảng nhân,   chỉ rõ bản chất của phép nhân là kết quả của phép cộng của các số bằng nhau, hướng   dẫn các em học thuộc kĩ bảng nhân 5,  cách tính một số nhân với mười để  các em dựa   vào đó tìm kết quả  phép tính nhân, chia trong bảng khi chưa thuộc lòng: Ví dụ  bảng  Trang 5
  6. nhân 3, hỏi phép nhân, phép chia bất bất kì 3 6 = ? (học sinh vận dụng kết quả phép  nhân  3 5 = 15 suy ra kết quả 3 6 = 15 + 3 = 18);    3 9 = ?... (suy từ 3 10=30 ra 3 9 =  30­ 3 =27). Từ đó giúp các em học thuộc lòng. Đồng thời củng cố vận dụng bảng nhân  chia, bảng chia bằng cách giao cho các em thực hiện những phép tính đơn giản không   có nhớ như: 24   2;   123   3;   84 : 2;  124: 4 ... Đến tuần sau, vào các buổi chiều phụ  đạo HS yếu, kém tôi thay đổi hình thức   kiểm tra, khác với các tuần trước. Cứ mỗi lần, gọi 2 HS lên bảng làm bài (HS ghi kết quả vào chỗ chấm). Lần này   không ghi theo thứ tự phép tính của bảng nhân hay bảng chia mà ghi bất kì phép nhân   hay phép chia trong bảng, mục đích là để học sinh thuộc lòng bảng nhân, bảng chia mà  các em đã học. Đồng thời tiếp tục củng cố  kĩ năng vận dụng thực hành các phép tính  nhân, chia bằng các bài như đặt tính rồi tính, tính giá trị biểu thức đơn giản, tìm  x … Không những yêu cầu các em học thuộc bảng nhân, bảng chia mà tôi còn phải  giao cho các em về  nhà viết lại nhiều lần thay cho bài kiểm tra và  chấm điểm chặt  chẽ các bài này. Ngoài ra giờ ra chơi hay giờ giải lao của buổi học, tôi  gần gũi và nói  chuyện với các em, lồng vào đó là những mẫu chuyện vui về  toán học, những câu đố  đơn giản đố các em về phép nhân hay phép chia. Các em đã thi nhau trả lời và như vậy   đã giúp các em dễ nhớ được bảng nhân, bảng chia đã học ở lớp 2,3. 2. Củng cố kỹ năng giải toán. Kết hợp củng cố kĩ năng tính toán với củng cố rèn luyện kĩ năng giải toán có lời  văn sẽ  giúp các em giải toán đúng tránh nhầm lẫn khi tính toán. Bởi vì có những em  nhiều khi cách giải đúng nhưng tính toán sai hoặc biết tính toán nhưng cách giải sai dẫn  đến bài toán giải sai. Vì vậy sau khi các em làm thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân,   chia thì chú ý đến việc giải toán có lời văn. Bởi chúng ta biết rằng đa số  các em yếu,  kém về  môn Toán thường gặp khó khăn trong việc giải Toán có lời văn. Tôi đã  lựa   chọn cách dạy phù hợp để học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu nội dung bài học, nhớ kĩ được  từng dạng bài toán. Tôi đã  củng cố  cho học sinh cách giải các dạng toán điển hình của lớp 3  kết   hợp với củng cố kỹ năng tính toán với bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Vì học sinh   yếu có đặc điểm là rất ngại, thậm chí sợ làm toán có lời văn vì khả năng tư duy “phân  tích, tổng hợp của các em còn nhiều hạn chế” nên chưa có khả  năng phán đoán suy   luận. Do đó, khi làm toán có lời văn các em giải chưa đúng, tính toán còn sai. Có em   giải “bừa” cho xong. Vì vậy  khi củng cố kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh yếu   thì chỉ cần ra với dạng cơ bản nhất, đơn giản nhất mang tính chất vận dụng củng cố  lý thuyết mà thôi. Không nên ra những bài lắt léo hay những bài phải qua bước trung  gian mới về  dạng cơ  bản.  Đến khi học sinh lấp được những chỗ  hổng kiến thức đã  học thì mới nâng dần mức độ lên.  * Một số dạng toán điển hình lớp 3 cần phải ôn tập củng cố là: ­ Dạng bài gấp một số lên nhiều lần.  Trang 6
  7. ­ Dạng bài giảm một số đi nhiều lần. ­ Dạng bài tìm một phần mấy của một số:  ­ Dạng bài có liên quan đến rút về đơn vị: ­ Dạng bài tính chu vi, diện tích hình vuông, hình chữ nhật; Để kết hợp tốt giữa lấp lỗ hổng kiến thức và dạy kiến thức mới, tôi  thực hiện  nội dung củng cố  kĩ năng giải các bài toán điển hình lớp 3 trong những tuần đầu của  năm học (khoảng 6 đến 8 tuần đầu). Song song với việc  bổ sung chỗ hổng kiến thức   lớp 3 thì trong các tiết học chính khóa, giáo viên giúp học sinh yếu biết giải các bài toán  giải dạng toán điển hình lớp 4 đồng thời cần phải ôn tập củng cố ngay ở các tiết học   phụ đạo. Nhất định không để học sinh hổng kiến thức đã học nữa..  3. Quan tâm động viên kịp thời học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Với những đặc điểm của học sinh yếu, kém nói chung và môn toán nói riêng, tôi  đã khẳng định rằng học sinh yếu, kém môn Toán cần được quan tâm, hỗ  trợ  dạy học   một cách tích cực. Còn với học sinh học yếu nguyên nhân do điều kiện hoàn cảnh gia   đình , phải có sự quan tâm đặc biệt. Ngoài việc tích cực hỗ trợ cho các em lấp lỗ hổng   kiến thức đồng thời phải có sự quan tâm đặc biệt về tình cảm và vật chất.  Vì vậy tôi  thường xuyên đến thăm một số  gia đình học sinh yếu , gần gũi, tâm  sự  với em, kể  cho em nghe một số  tấm gương biết vượt khó trong học tập, giúp em  khỏi mặc cảm với số phận và cố gắng vươn lên trong học tập. Giải pháp 4: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy hoc̣   tích cực.     1. Linh hoạt sử dụng phương pháp dạy học khi tổ chức các hoạt động học tập. Để  thực hiện việc lấp "lỗ  hổng" kiến thức cho học sinh yếu, kém toán có hiệu   quả và dạy kiến thức mơi tôi luôn tìm ra nh ́ ững phương pháp giảng dạy thích hợp, tập   trung các yêu cầu quan trọng nhất, đó là giúp các em làm thành thạo 4 phép tính cộng,  trừ, nhân, chia với mức độ  yêu cầu vừa sức để  các em nâng dần trình độ; không nôn  nóng sốt ruột, khắc phục tình trạng ngại khó của học sinh.    2. Gây hứng thú học tập cho học sinh.  Để  gây hứng thú cho các em học tập, trong các tiết học vận dung các hình thức   dạy tích cực như: Tổ chức hoạt động nhóm (hoặc tổ chức làm bài theo hình thức tiếp   sức) có thi đua giữa các nhóm, tất cả  các thành viên trong nhóm đều được giao phần  việc làm vừa sức phù hợp với năng lực từng em, các nhóm học tập linh hoat thay đ ̣ ổi   như nhóm nhỏ, nhóm lớn, nhóm cùng trình độ, nhóm ngẫu nhiên... luôn tạo cơ hội cho   tất cả các em được phát biểu, đặc biệt quan tâm đến học sinh yếu. Động viên khuyến  khích kịp thời khi học sinh có tiến bộ dù là nhỏ nhất để học sinh yếu mạnh dạn, tự tin   hơn. Thường xuyên  tổ chức "Hội vui học tập" vào các tiết hoạt động tập thể. Hoặc tổ  chức trò chơi có lồng nội dung Toán học: Hái hoa dân chủ,… Giải pháp 5: Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh học sinh. Trang 7
  8. ­Nâng cao nhận thức của phụ huynh về trách nhiệm lớn lao của phụ huynh và gia  đình trong việc góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Tôi trao đổi với phụ huynh để  tìm ra biện pháp tốt nhất phù hợp với điều kiện và tính cách từng em giúp các em vươn   lên trong học tập, hướng dẫn phụ  huynh biết kiểm tra việc học tập c ủa con mình,  thường xuyên giữ  liên lạc với phụ  huynh. Thường xuyên liên lạc thông báo kết quả  học tập của các em qua sổ  liên lạc cho phụ  huynh và đề  nghị  phụ  huynh theo dõi và  kiểm tra bài vở của con em mình, giúp đỡ  các em trong quá trình học tập ở nhà , quản  lý thời gian biểu của con em, ghi đầy đủ  lời nhận xét vào sổ  (đảm bảo thông tin 2   chiều). Khi thấy học sinh chưa tiến bộ  cần chủ động gặp phụ  huynh để  trao đổi về  việc học tập của học sinh tiếp tục cùng với phụ  huynh điều chỉnh biện pháp phù hợp  và có hiệu quả  hơn. Thấy được sự  lo lắng của giáo viên nên phụ  huynh đã thường  xuyên kiểm tra việc học bài, làm bài của con em mình, đôn đốc các em đi học chuyên  cần. Vì vậy, Học sinh lớp tôi đã tiến bộ lên rất nhiều. Khi áp dụng các giải phap trên, tôi th ́ ấy các em học sinh ở lớp 4 đã tiến bộ rõ rệt,  chất lượng học tập ngày càng được nâng lên, tỉ lệ học sinh yếu giảm.  So sánh với kết quả khảo sát đâu năm tôi nh ̀ ận thấy:  Nhờ  thực hiện tốt các giải pháp phụ đạo học sinh yếu, kém về  môn toán mà tôi  đã xây dựng chất lượng học tập môn toán được nâng lên rõ rệt. Tất cả  học sinh yếu,   kém môn toán ở đầu năm học của học sinh  đã lên loại trung bình, có em đã đạt điểm   khá. Không phát sinh thêm học sinh nào yếu, kém về môn toán. Số lượng học sinh yêu  thích môn toán ngày càng tăng 5. Phạm vi áp dụng : Học sinh yếu môn Toán.         6.Thời điểm áp dụng:Từ tháng 8/2018 đến nay. 7. Hiệu quả mang lại : Qua quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các phương pháp trên, tôi nhận thấy học   sinh lớp tôi hứng thú học tập. Các em mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài, tính  toán nhanh, chính xác. Học sinh ham học, tự tin, chất lượng học tập được nâng lên một   cách rõ rệt. Trong  quá trình học Toán, học sinh dần dần chiếm lĩnh kiến thức mới và  giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. Sự tiến bộ của các em biểu hiện rõ rệt.    CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG              Bình Thạnh, ngày 12 tháng 2 năm 2019 Trang 8
  9.                        NGƯỜI BÁO CÁO                                                                                  Nguyễn Thị Phước Yến                         Trang 9
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0