Báo cáo sáng kiến: Giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8 thông qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm ở trường PTDTBT THCS Trà Cang
lượt xem 1
download
Với sự phát triển của công nghệ và phương pháp dạy học hiện đại, việc sử dụng câu hỏi trắc nghiệm không chỉ giúp học sinh ôn tập hiệu quả mà còn tăng cường khả năng tư duy, phân tích và phản biện. Báo cáo sáng kiến ''Giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8 thông qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm ở trường PTDTBT THCS Trà Cang'' sẽ khảo sát thực trạng, đưa ra giải pháp thiết thực và đánh giá hiệu quả của hệ thống trắc nghiệm trong việc nâng cao hứng thú và kết quả học tập của học sinh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo sáng kiến: Giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8 thông qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm ở trường PTDTBT THCS Trà Cang
- 1 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lâp – Tự do – Hạnh phúc BÁO CÁO SÁNG KIẾN GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN NGỮ VĂN 8 THÔNG QUA HỆ THỐNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM Ở TRƯỜNG PTDTBT THCS TRÀ CANG 1. Mô tả tả bản chất của sáng kiến: Tên sáng kiến: Giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8 thông qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm ở trường PTDTBT THCS Trà Cang Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục. 1.1. Các giải pháp thực hiện, các bước và cách thức thực hiện: Ngữ văn là môn học thuộc nhóm ngành khoa học xã hội, có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình giáo dục, cũng như đối với đời sống và sự phát triển tư duy của con người. Mặc dù vậy, có một thực tế là rất nhiều học sinh thế hệ hiện nay không còn yêu thích, và hứng thú học tập môn Ngữ văn; cũng như chưa ý thức được vai trò, ý nghĩa to lớn của môn học này. Thực trạng đáng suy ngẫm trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản xuất phát từ chính quá trình dạy và học môn ngữ văn trong các nhà trường phổ thông hiện nay: hoạt động dạy học Ngữ văn, nhất là đối với các bài học có nội dung trọng tâm là truyền đạt kiến thức cho học sinh, dường như mới chỉ dừng ở những “kênh chữ”, một số bài có cung cấp thêm hình ảnh. Nhiều giáo viên mới chỉ tập trung bám sát nội dung kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa thực sự chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ, làm cho tiết học thêm sinh động. Những tiết học Ngữ văn do vậy trở nên kém sinh động, hấp dẫn, thậm chí có phần nặng nề, không tạo được hứng thú, khơi dậy niềm say mê tìm hiểu, khám phá ở các em. Chính vì lẽ đó, việc đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức dạy và học môn Ngữ văn trong các nhà trường hiện nay để nhằm vừa đảm bảo trang bị kiến thức, vừa tạo được sự hấp dẫn, lôi cuốn các em tích cực tham gia học tập, yêu thích môn Ngữ văn là một yêu cầu bức thiết.
- 2 Trắc nghiệm là phương pháp kiểm tra nhanh các kiến thức, kỹ năng của mọi người thông qua việc đánh giá bằng các câu hỏi đúng sai hoặc lựa chọn đáp án A, B, C…. Trắc nghiệm là phương pháp kiểm tra giúp cho học sinh có được phương pháp học tập hiệu quả hơn, mở rộng và hệ thống tri thức giúp các em khắc phục tình trạng học bài nào biết bài ấy, “học trước quên sau”; đồng thời biết liên kết các đơn vị kiến thức với nhau, cũng như vận dụng những tri thức đã học từ trước vào những phần học sau. Nói cách khác, sử dụng các câu hỏi trắc nghiệm trong học tập giúp học sinh có được phương pháp học chủ động, động lập, sáng tạo và không ngừng phát triển tư duy. 1.1.1. Các giải pháp thực hiện: 1.1.1.1 Vận dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm trong quá trình dạy và học Quá trình dạy và học trong nhà trường bao gồm hoạt động giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh. Bản chất của hoạt động dạy - học là quá trình truyền thụ tri thức, kỹ năng của giáo viên và lĩnh hội, làm chủ các kiến thức, kỹ năng của người học thông qua bài dạy; những tri thức, kỹ năng đó được người học tiếp cận, ghi nhớ, vận dụng trong mỗi bài học, cũng như trong thực tế đời sống hàng ngày. Chính vì lẽ đó, ghi nhớ là một yêu cầu, thao tác hết sức quan trọng trong quá trình học tập của học sinh. Việc tìm ra một phương pháp giúp ghi nhớ, khắc sâu tri thức một cách hiệu quả, từ đó tạo cơ sở cho mở rộng, sáng tạo tri thức có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cả hoạt động dạy của giáo viên cũng như hoạt động học tập của học sinh. Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay, khối lượng kiến thức trong các môn học ở hầu hết các cấp học đang trở nên “quá tải”, tạo ra áp lực không nhỏ đối với cả hoạt động dạy học của giáo viên lẫn việc học tập của học sinh: thời gian có hạn mà kiến thức phải học ngày càng nhiều; “sức học” của học sinh có hạn mà nhiều môn học đang trở nên “quá tải”… Điều này dẫn đến thực trạng nhiều học sinh cảm thấy ngại học, lười học; giáo viên không có điều kiện khắc sâu, mở rộng bài giảng vì phải tập trung “đối phó” với khối lượng bài dạy.
- 3 Để giải quyết vấn đề trên, việc áp dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm trong quá trình dạy và học đang cho thấy những hiệu quả tích cực. Phương pháp dạy học bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm không chỉ giúp giáo viên và học sinh “đơn giản hóa” nội dung kiến thức của môn học, từ đó giải quyết vấn đề “quá tải” về mặt kiến thức; mà còn đem lại cho các em một cái nhìn tổng quát, đa chiều về nội dung bài học, từ đó có khả năng ghi nhớ, cũng như xâu chuỗi các kiến thức một cách hiệu quả hơn, đồng thời giúp cho việc học tập của các em không trở thành nhàm chán. Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm là một hình thức hệ thống hóa kiến thức nhanh nhất, đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nó có vai trò như một công cụ tổ chức tư duy nền tảng. Việc vận dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm vào quá trình dạy học giúp học sinh có được phương pháp học tập hiệu quả hơn, đồng thời tăng cường tính tích cực học tập ở các em. Do đó, việc sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm không chỉ giúp cho mỗi học sinh gia tăng tích cực trong học tập, mà còn giúp huy động tối đa tiềm năng tư duy, suy luận ở các em. Thực tế cho thấy, nhiều học sinh mặc dù khá chăm chỉ học tập, song kết quả đạt được vẫn không cao: các em thường học bài nào biết bài đó, học trước quên sau, nhất là không biết liên hệ các kiến thức với nhau, hay vận dụng những kiến thức đã học ở bài trước vào những phần được học về sau. Mặt khác, rất nhiều em trong quá trình đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp gặp phải khó khăn trong việc ghi chép, ghi nhớ kiến thức đã đọc hoặc đã được thầy cô giảng dạy. Với việc sử dụng thành thạo hệ thống câu hỏi trắc nghiệm trong học tập, học sinh có được một công cụ hiệu quả trong việc ghi nhớ, lưu giữ kiến thức một cách tích cực, chủ động sáng tạo. 1.1.1.2. Thực trạng vận dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm trong dạy học Ngữ văn hiện nay Ngữ văn là một môn học có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, có một thực tế là, ngày càng có nhiều học sinh không còn yêu thích môn học này, thậm chí thờ ơ, lười học, dẫn đến ngại học môn văn. Nhiều học sinh có tố chất, năng khiếu môn Ngữ văn cũng không có mong muốn được tham gia đội
- 4 tuyển học sinh giỏi văn ở trường; nhiều bậc phụ huynh cũng không khuyến khích, động viên con em mình “tập trung”, “đầu tư lâu dài” cho môn Ngữ văn trong định hướng học tập cũng như phát triển về lâu dài. Do đó, với không ít học sinh, việc học tập môn Ngữ văn nhiều khi chỉ mang tính đối phó; các tiết học môn văn dường như đem đến những “áp lực”, nhàm . Thực tế trên đã dẫn đến nhiều “hậu quả” rất đáng suy ngẫm: không khó để nhận ra những lỗi sai cơ bản rất nhiều mắc phải trong quá trình tạo lập văn bản đơn giản như dùng từ, đặt câu, lỗi chính tả, lôgic, bố cục;… nhiều em bị hổng kiến thức văn học, cũng như hạn chế về năng lực tư duy ở mức đáng báo động, mà “minh chứng” là những bài văn “cười ra nước mắt” đã không còn là hiếm gặp hiện nay. Thực trạng đáng suy ngẫm trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân xuất phát từ những hạn chế, bất cập của người dạy, và cả những nguyên nhân thuộc về chính bản thân người học. Về phía người dạy, có thể thấy đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, có ý thức về chuyên môn; tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế: phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, chưa thực sự “phù hợp” với tất cả các đối tượng học sinh, nhất là với một bộ phận học sinh có lực học kém, dẫn đến chất lượng, hiệu quả học tập chưa cao; phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho việc đổi mới phương pháp, áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực còn nhiều thiếu thốn; một số giáo viên chưa thực sự “tâm huyết”, chưa có ý thức tìm tòi đào sâu kiến thức, làm phong phú và sinh động bài dạy; ngoài ra còn phải kể đến những bất cập trong cơ cấu, phân phối chương trình sách giáo khoa,… cũng là những nguyên nhân dẫn đến việc tiếp thu bài giảng của học sinh còn nhiều hạn chế. Về phía học sinh, nhiều em còn ngại học, lười suy nghĩ, không tập trung nghe giảng, dẫn đến tâm thế thiếu tích cực, chủ động trong việc học tập môn ngữ văn. Nhiều em ngoài giờ học trên lớp, còn phải phụ giúp gia đình trong việc mưu sinh nên không có nhiều thời gian giành cho việc tự học. Bên cạnh đó, có thể thấy trong bối cảnh những điều kiện đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần ngày càng không ngừng được nâng cao như hiện nay, rất nhiều học sinh đã
- 5 bị lôi cuốn, sa đà và các loại hình giải trí khác nhau, dẫn tới sao nhãng việc học, nhất là học thêm và tự học ở nhà. Để khắc phục thực trạng bất cập nêu trên, thiết nghĩ cần một hệ giải pháp toàn diện, có hiệu quả trong việc tạo chuyển biến theo hướng nâng cao chất lượng giảng dạy đối với đội ngũ giáo viên, cũng như thái độ tích cực của học sinh trong việc học tập môn Ngữ văn. Trong đó, việc đổi mới phương pháp giảng dạy, cũng như vận dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, hiện đại để nhằm không chỉ trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng cho học sinh, mà còn tạo ra sức lôi cuốn, khơi gợi ở các em niềm yêu thích với môn học đặc biệt quan trọng này là một trong những trọng tâm cần được ưu tiên. Chính vì lẽ đó, việc vận dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn – với những hiệu quả bước đầu mà biện pháp này đem lại – đã và đang nhận được rất nhiều sự quan tâm. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, việc tìm hiểu, vận dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm của nhiều giáo viên dường như mới chỉ đang dừng ở mức độ “tự phát”, tùy thuộc vào quan điểm tiếp cận cũng như “năng lực” cá nhân của mỗi người. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu về phương pháp này, từ đó đi đến xây dựng “mô thức ứng dụng” có tính chất phương pháp luận nhằm hướng tới vận dụng phương pháp một cách bài bản, phổ biến và tối ưu thiết nghĩ là hết sức cần thiết. 1.1.3. Một số biện pháp vận dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn 1.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm Kiểm tra - đánh giá là khâu không thể thiếu trong quá trình dạy học. Hoạt động này không chỉ nhằm ghi nhận kết quả đạt được của học sinh mà còn hướng vào việc đề xuất những phương hướng đổi mới, cải thiện thực trạng, điều chỉnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Như vậy có thể nói kiểm tra - đánh giá là hoạt động có ý nghĩa hết sức to lớn đối với quá trình dạy học. Những nguyên tắc chung khi xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan
- 6 Nguyên tắc 1. Câu hỏi cần phải tuân thủ đúng những nguyên tắc về mặt lí luận và bám sát vào nội dung của chương trình cần kiểm tra - đánh giá. Nguyên tắc này là nhân tố cần thiết đảm bảo cho tính chính xác và khoa học của các câu hỏi trắc nghiệm khách quan khi được xây dựng để đánh giá kết quả học tập của học sinh trong nhà trường. Nguyên tắc 2. Cần phải đưa ra các mệnh đề chính xác về mặt cú pháp. Đây là quy tắc chuẩn cho quá trình xây dựng tất cả các loại câu hỏi trong kiểm tra - đánh giá. Đảm bảo chính xác về mặt cú pháp cũng là cơ sở đảm bảo cho sự chính xác và khoa học của đáp án, tránh gây sự tranh cãi, hiểu nhầm của học sinh trong quá trình hiểu câu hỏi và lựa chọn các đáp án. Nguyên tắc 3. Không được đưa ra các thuật ngữ không rõ ràng nhằm mục đích đánh đố tư duy học sinh. Câu trắc nghiệm nhằm mục đích kiểm tra kiến thức của học sinh trên cơ sở nhận thức và tư duy khoa học của các em chứ không nhằm đánh đố học sinh bằng những thủ thuật của từ ngữ. Hiện tượng này thường xảy ra khi xây dựng các câu điền thế. Nguyên tắc 4. Tránh các hình thức câu phủ định (cả về mặt cú pháp lẫn ngữ nghĩa) và việc đặt nhiều mệnh đề phủ định trong câu hỏi. Sự xuất hiện nhiều mệnh đề phủ định sẽ gây phức tạp cho học sinh khi trả lời câu hỏi. Việc tích tụ nhiều mệnh đề phủ định có thể gây khả năng hiểu nhầm trong việc lựa chọn các câu trả lời. Nguyên tắc 5. Cần phải tách biệt rõ ràng phần dữ kiện và phần câu hỏi trong câu. Cần tránh trường hợp dùng từ nối giữa phần hỏi và phần dữ kiện trả lời, hoặc các phần dữ kiện với nhau. 1.3. Các bước thực hiện 1.3.1. Sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra bài cũ Giáo viên đưa ra một hệ thống câu hỏi trắc nghiệm liên quan nội dung kiến thức của bài cũ, sau đó yêu cầu học sinh trả lời bằng cách chọn phương án đúng. Thông qua cách trả lời các câu hỏi, học sinh sẽ nhớ lại các nội dung đã học, đồng thời khắc sâu kiến thức.
- 7 Ví dụ: Khi dạy bài đến “ Nói giảm nói tránh” (Ngữ văn 8), để kiểm tra bài cũ, thay vì đặt câu hỏi để học sinh trả lời bằng cách ghi nhớ máy móc, hoặc cho các em làm bài tập nào đó rồi ghi điểm, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi trắc nghiệm “NÓI QUÁ”. Câu 1: Nói quá là gì? A. Là phương tiện tu từ làm giảm nhẹ, làm yếu đi một đặc trưng tích cực nào đó của một đối tượng được nói đến. B. Là cách thức xếp đặt để đối chiếu hai sự vật, hiện tượng có mối liên hệ giống nhau. C. Là một biện pháp tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện tượng. D. Là một phương thức chuyển tên gọi từ một vật này sang một vật khác. Câu 2: Biện pháp nói quá ít được dùng trong văn bản nào? A. Văn bản tự sự. B. Văn bản miêu tả. C. Văn bản hành chính, khoa học. D. Văn bản biểu cảm. Câu 3: Thành ngữ, tục ngữ nào có sử dụng biện pháp nói quá? A. Ăn cây táo rào cây sung. B. Ăn to nói lớn. C. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. D. Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo. Sau khi học sinh trả lời xong; các em khác theo dõi, nhận xét, bổ sung nếu cần thiết. Cuối cùng, giáo viên sẽ nhận xét và cho điểm.Với cách học này học sinh không cần ghi nhớ máy móc mà vẫn nắm được bản chất của bài học của mình. 1.3.2. Sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để hỗ trợ giảng dạy kiến thức mới
- 8 Đối với việc dạy bài mới, để sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm hiệu quả, yêu cầu giáo viên cần thực hiện việc chuẩn bị từ trước một cách kỹ lưỡng. Từ nội dung bài học, giáo viên cần có hệ thống kiến thức và từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm phù hợp. Khi lên lớp, giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm đó để hướng dẫn học sinh khai thác từng nội dung của bài học (mỗi nội dung được biểu đạt tương ứng với một hệ thống câu hỏi trắc nghiệm). Một số lưu ý khi giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm vào việc hỗ trợ dạy học kiến thức mới: - Giáo viên chỉ đóng vai trò là người gợi ý, dẫn dắt để học sinh chủ động trong tiếp thu kiến thức. Do đó, tính tích cực và sáng tạo của các em sẽ được phát huy tối đa, lớp học sẽ trở nên sôi nổi, sinh động hơn, các em cũng tỏ ra thích thú, hào hứng với tiết học Ngữ văn hơn. - Giáo viên có thể dùng những phương tiện sẵn có của lớp: bảng đen, ti vi, bảng phụ, phấn màu, bút màu, giấy A4 hoặc A0. - Giáo viên có thể dùng phấn màu vẽ trực tiếp lên bảng (nếu có khả năng vẽ), hoặc có thể dùng máy; có thể vẽ trên giấy A4 hoặc A0 bằng bút màu. Thông qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm đó học sinh có thể nắm được toàn bộ kiến thức bài học một cách dễ dàng. Ví dụ 1: Với văn bản: “Lão Hạc” (Nam Cao), sau phần đọc và tìm hiểu chung, giáo viên dùng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm tuỳ thuộc vào nội dung, kiến thức của bài học. Để có kiểm tra khả năng tiếp nhận kiến thức của học sinh với bài học, giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức: Câu 1: Nhà văn Nam Cao mất năm 36 tuổi, trong trường hợp nào? A. Bị bệnh B. Bị địch bắt giam và tra tấn dã man C. Bị địch phục kích và hi sinh. D. Bị tai nạn giao thông.
- 9 Câu 2: Nhà văn Nam Cao là nhà văn nổi tiếng của trào lưu văn học nào? A, Thơ mới. B. Trào lưu văn học lãng mạn. C. Trào lưu hiện thực phê phán. D. Trào lưu tiêu cực. Câu 3: Nhà văn Nam Cao là nhà văn chuyên viết về mảng đề tài nào? A. Đề tài người nông dân. B. Đề tài người tiểu tri thức tiểu tư sản nghèo. C. Đề tài người dân thành thị nghèo. D. Đề tài người nông dân và người tiểu tri thức tiểu tư sản nghèo. Câu 4: Tác phẩm Lão Hạc được viết theo thể loại nào? A. Truyện ngắn B. Truyện vừa C. Truyện dài D. Tiểu thuyết. Sau khi tìm hiểu phần tìm hiểu văn bản giáo viên có thể kiểm tra kiến thức tiếp nhận văn bản, đồng thời kiểm tra kiến thức các phân môn khác trong môn ngữ văn của học sinh thông qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm: Câu 1: Ý nào nói đúng nhất nội dung của truyện Lão Hạc? A. Tác động của cái đói và miếng ăn đến đời sống con người B. Phẩm chất cao quý của người nông dân C. Số phận đau thương của người nông dân D. Tố cáo xã hội thực dân phong kiến Câu 2: Ý kiến nào nói đúng nhất nguyên nhân sâu xa khiến lão Hạc phải lựa chọn cái chết? A. Lão Hạc ân hận vì trót lừa cậu Vàng. B. Lão Hạc rất thương con. C. Lão Hạc ăn phải bả chó. D. Lão Hạc không muốn làm liên lụy đến mọi người. Câu 3: Trong tác phẩm Lão Hạc, con trai lão Hạc đi phu vì lí do gì?
- 10 A. Vì muốn làm giàu. B. Phẫn chí vì nghèo không lấy được vợ. C. Vì giận cha. D. Vì nghèo túng quá. Câu 4: Trong tác phẩm Lão Hạc, vì sao lão Hạc phải bán cậu Vàng? A. Vì lão sợ kẻ trộm đánh bả. B. Vì nuôi con chó sẽ phải tiêu vào tiền của con. C. Để lấy tiền gửi cho con. D. Vì lão không muốn nuôi con chó nữa. Câu 5: Dấu ba chấm (dấu chấm lửng) được nhắc lại nhiều lần trong đoạn văn sau có tác dụng gì: "Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết...Một con người thế ấy!... Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!... Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng... Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày thêm đáng buồn..." (Lão Hạc, Nam Cao) A. Ngụ ý rằng còn nhiều điều ông giáo biết về lão Hạc mà chưa kể hết. B. Làm dãn nhịp điệu câu văn. C. Thể hiện sự ngập ngừng, ngỡ ngàng đau đớn trong lòng ông giáo. D. Thể hiện ý còn nhiều thất vọng mà ông giáo chưa nói hết. Câu 6: Trong các từ sau đây, từ nào là từ tượng hình? A. Móm mém. B. Vui vẻ. C. Xót xa. D. Ái ngại. Câu 7: Ý nào sau đây nói đúng nhất về nội dung của đoạn văn sau: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước [...] Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép
- 11 cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…” (Ngữ văn 8, Tập một) A. Sự yếu đuối của lão Hạc B. Sự già nua của lão Hạc C. Sự đau đớn về tinh thần của lão Hạc D. Sự cực khổ của lão Hạc Câu 8: Câu văn “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra nó sung sướng hơn một chút ... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!” biểu hiện điều gì? A. Sự chua chát của lão Hạc khi nói về thân phận của mình B. Sự tự an ủi của lão Hạc đối với bản thân mình C. Sự thương tiếc của lão Hạc đối với cậu Vàng D. Sự hối hận của lão Hạc khi bán câu Vàng. Câu 9: Nhận định nào nói đúng nhất về ý nghĩa cái chết của lão Hạc? A. Là bằng chứng cảm động về tình phụ tử mộc mạc, giản dị nhưng cao quý vô ngần B. Gián tiếp tố cáo xã hội thực dân phong kiến đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh khốn cùng C. Thể hiện tính tự trọng và quyết tâm không rơi vào con đường tha hóa của người nông dân D. Ca ngợi tình phụ tử mộc mạc, giản dị nhưng cao quý, tính tự trọng của người nông dân. Gián tiếp tố cáo xã hội thực dân phong kiến đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh khốn cùng. Câu 10: Đọc đoạn văn sau: "Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi...toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương...Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có
- 12 lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn không nỡ giận." (Lão Hạc, Nam Cao) Đoạn văn trên chủ yếu nói lên điều gì về con người ông giáo? A. Có cái nhìn hẹp hòi đối với con người và cuộc sống nói chung. B. Có một thái độ sống, một cách ứng xử mang tinh thần nhân đạo đối với con người. C. Bênh vực, bao che đối với hành động từ chối giúp đỡ lão Hạc của vợ mình. D. Thương hại đối với lão Hạc và những người như lão Hạc. Câu 11: Nhận xét nào nói đúng nhất về nhân vật ông giáo trong tác phẩm? A. Là một người biết đồng cảm, chia sẻ nỗi buồn khổ của Lão Hạc B. Là người đáng tin cậy để lão Hạc trao gửi niềm tin C. Là con người có cách nhìn mới mẻ, sẻ chia, đồng cảm với lão Hạc nói riêng và người nông dân nói chung D. Là một người chồng nhu nhược Ví dụ 2: Khi học bài “Chiếc lá cuối cùng” (Ngữ văn 8), sau phần tìm hiểu văn bản giáo viên có thể kiểm tra khả năng thông hiểu kiến thức của học sinh thông qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm: Câu 1: Các nhân vật chính trong tác phẩm Chiếc lá cuối cùng làm nghề gì? A. Nhà văn. B. Nhạc sĩ. C. Hoạ sĩ. D. Bác sĩ. Câu 2: Đối với Giôn-xi, chiếc lá cuối cùng rụng hay không rụng có ý nghĩa như thế nào? A. Nếu chiếc lá ấy rụng thì cô sẽ không tiếp tục vẽ nữa.
- 13 B. Nếu chiếc lá ấy rụng thì cô sẽ rất đau khổ. C. Cô không còn muốn quan tâm đến chiếc lá cuối cùng nữa. D. Chiếc lá rụng hay không sẽ quyết định số phận của cô. Câu 3: Câu văn "Chị Xiu thân yêu ơi, một ngày nào đó em hi vọng sẽ được vẽ vịnh Na-plơ" giúp em hiểu gì về Giôn-xi. A. Giôn-xi rất thích vẽ vịnh Na-plơ. B. Giôn-xi chưa bao giờ vẽ vịnh Na-plơ C. Trong con người Giôn-xi đang có sự hồi sinh. D. Giôn-xi đang có bắt chuyện và làm vui lòng Xiu. Câu 4: Qua câu chuyện Chiếc lá cuối cùng, em hiểu thế nào là một tác phẩm nghệ thuật được coi là kiệt tác? A. Tác phẩm đó phải có ích cho cuộc sống. B. Tác phẩm đó phải rất đẹp C. Tác phẩm đó phải đồ sộ. D. Tác phẩm đó phải rất độc đáo. Câu 5: Nhận định nào nói đúng nhất ý nghĩa câu nói của Giôn-xi: "Có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào"? A. Giôn-xi thấy mình đã làm những điều khiến cho Xiu và mọi người phải lo lắng. B. Trước việc cố bám lấy sự sống dù rất mỏng manh của chiếc lá, Giôn-xi nhận ra sự yếu đuối, buông xuôi trước số phận của mình. C. Giôn-xi thấy chiếc lá không rụng và vì thế mà cô vẫn có thể sống. D. Cả A, B đều đúng. Câu 6: Trong tác phẩm Chiếc lá cuối cùng, Giôn-xi đã được cứu sống nhờ vào điều gì? A. Nhờ có thuốc, sự chăm sóc của Xiu và chủ yếu là nhờ chiếc lá không rụng. B. Chỉ nhờ may mắn và nhờ ở sức trẻ của chính bản thân người nữ hoạ sĩ.
- 14 C. Bác sĩ đã kịp thời cho cô uống loại thuốc tốt, đắt tiền. D. Xiu đã chăm sóc rất chu đáo. Câu 7: Từ nào nói đúng nhất cảm xúc và tâm trạng của nhân vật được thể hiện trong câu văn "Nhưng, ô kìa!"? trong tác phẩm Chiếc lá cuối cùng? A. Ngạc nhiên. B. Nghi ngờ. C. Lo lắng. D. Sợ hãi. Câu 8: Từ “ơi” trong câu: “Em thật là con bé hư, chị Xiu thân yêu ơi!” thuộc loại từ nào? A. Tình thái từ B. Trợ từ C. Thán từ D. Phó từ Câu 9: Đọc đoạn văn sau: “Nhưng Giôn-xi không trả lời. Cái cô đơn nhất trong khắp thế gian là một tâm hồn đang chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi xa xôi bí ẩn của mình. Khi những dây ràng buộc cô với tình bạn và với thế gian cứ lơi lỏng dần từng sợi một, ý nghĩ kì quặc ấy hình như càng choán lấy tâm trí cô mạnh mẽ hơn.” (Chiếc lá cuối cùng) Cụm từ "chuyến đi xa xôi bí ẩn" nên được hiểu theo nghĩa nào và có nghĩa là gì? A. Nghĩa bóng, chỉ cái chết. B. Nghĩa đen, chỉ một chuyến đi bí ẩn có thật. C. Nghĩa bóng, chỉ sự đau ốm. D. Nghĩa đen, chỉ một chuyến đi chơi xa có thật. Câu 10: Nhận định nào sau đây nói đúng nhất về đoạn trích Chiếc lá cuối cùng?
- 15 A. Thông qua việc miêu tả tâm trạng của Giôn – xi, kể lại những việc làm của Xiu và cụ Bơ – men dành cho cô, tác giả muốn làm nổi bật tình yêu thương giữa những người nghèo khổ với nhau. B. Thông qua việc miêu tả tâm trạng của Giôn – xi, kể lại những việc làm của Xiu và cụ Bơ – men dành cho cô, tác giả muốn làm nổi bật đức tính cao cả và sự hy sinh quên mình của cụ Bơ – men C. Thông qua việc miêu tả tâm trạng của Giôn – xi, kể lại những việc làm của Xiu và cụ Bơ – men dành cho cô, tác giả muốn làm nổi bật sự lo lắng khôn nguôi của Xiu dành cho Giôn – xi. D. Thông qua việc miêu tả tâm trạng của Giôn – xi, kể lại những việc làm của Xiu và cụ Bơ – men dành cho cô, tác giả muốn làm nổi bật nguyên nhân sâu xa quyết định hồi sinh của Giôn – xi. 1.3.3. Sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để củng cố, hệ thống kiến thức Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ bằng thống thống câu hỏi trắc nghiệm. Sau đó giáo viên yêu cầu một vài em lên bảng trả lời ý kiến của mình những kiến thức đã tiếp thu được và cho những học sinh khác nhận xét, rút kinh nghiệm. Thực hiện trả lời hệ thống câu hỏi trắc nghiệm như vậy sẽ giúp cho giáo viên nắm được mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh, và học sinh cũng nắm vững kiến thức và nhớ lâu hơn. Mỗi bài học được củng cố bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. Ví dụ 1: Ở bài “Ôn Dịch thuốc lá” (Ngữ văn 8), sau khi dạy xong kiến thức lí thuyết, giáo viên chia học sinh thành các nhóm, tái hiện lại nội dung bài học thông qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm; sau đó gọi các học sinh lên trình bày để củng cố các học sinh khác được yêu cầu nhận xét, bổ sung. Bằng cách này, học sinh có thể dễ dàng tổng hợp và củng cố những kiến thức về bài học.
- 16 Câu 1: Các nhà khoa học lên tiếng báo động về thuốc lá trên cơ sở nào? A. Những thí nghiệm của một nhà bác học nổi tiếng B. Hơn năm vạn công trình nghiên cứu trong mấy chục năm qua C. Phỏng đoán của các bác sĩ uy tín D. Thực tế lâm sàng của nhiều bệnh viện Câu 2: Quan điểm nào đúng A. Hút thuốc ảnh hưởng đến sức khỏe người hút, và những người xung quanh B. Hút thuốc chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe người những người xung quanh. C. Hút thuốc chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe người hút. D. Hút thuốc không ảnh hưởng đến sức khỏe người hút, và những người xung quanh. Câu 3: Các nước phát triển đã làm gì để chống thuốc lá? A. Đóng cửa nhà máy thuốc lá B. Cấm trồng cây thuốc lá C. Đánh thuế người bán thuốc lá D. Cấm hút thuốc lá nơi công cộng, cấm quảng cáo thuốc lá. 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU. Sau khi áp dụng phương pháp trên trong học kỳ II năm học 2020- 2021 với hai lớp 8 do tôi giảng dạy tại trường PTDTBT THCS Trà Cang thì kết quả học tập của học sinh được cải thiện rõ rệt so với học kỳ I như sau: H G K Tb Y Ké Tb trở lên ọc m SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL lực Tổn g 8 HK I 3 3.7% 15 18.5% 59 72.8% 4 4.9% 0 0% 77 95.1% HKII 8 9.9% 30 37% 43 53,% 0 0% 0 0% 81 100% 1
- 17 * Trong năm học 2021 – 2022, tiến hành thực nghiệm đề tài trên lớp 8.2 và đạt kết quả cuối năm môn Ngữ văn như sau: Dưới Trun trun Giỏi Khá g Ghi chú Tổng g Lớp bình số bình Tỉ lệ Tỉ lệ SL SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % SL % % Lớp không thực 8.1 43 1 2,3 % 8 18,4 % 31 72,1% 3 7% nghiệm đề tài Lớp thực 8.2 44 4 9,1 % 14 31,8, % 25 56,8% 1 2,3% nghiệm đề tài Từ kết quả thử nghiệm trên, tôi nhận thấy rằng: Ban đầu chất lượng của hai lớp 8 trong cùng một năm học là tương đương nhau, thậm chí lớp tôi tiến hành thực nghiệm có chất lượng thấp hơn. Nhưng sau một quá trình áp dụng đề tài thì chất lượng học tập của lớp thực nghiệm tăng lên rõ rệt, tỉ lệ học sinh yếu giảm, tỉ lệ học sinh giỏi, khá tăng lên đáng kể. Trong quá trình dạy học, tôi thấy rằng đối với lớp thực nghiệm, khả năng nhớ bài của các em tương đối tốt. Trong khi lớp không áp dụng đề tài thì kiến thức của các em còn mơ hồ (lúc nhớ, lúc quên vì các em không hệ thống được kiến thức đã học). II. Những thông tin cần được bảo mât: (không). III. Danh sách các thành viên tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu TT Họ và tên Nơi công tác Nơi áp dụng sáng kiến Ghi chú 01 Trần Văn Thiên Trường PTDTBT Học sinh khối 8, Trường THCS Trà Cang PTDTBT THCS Trà Cang
- 18 IV. Kết luận Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động dạy và học nói chung, dạy học môn ngữ văn nói riêng là vấn đề thu hút sự quan tâm hiện nay. Để nâng cao chất lượng dạy học ngữ văn, người dạy cần có những sự điều chỉnh về mặt phương pháp sao cho phù hợp với chương trình và mực tiêu giáo dục là mang đến cái mới,cái sáng tạo, tích cực cho người học. Đồng thời người học cần có sự chủ động, tích cực trong việc học tập biến quá trình học tập thành việc tự học của chính bản thân mình, do đó người dạy cần có những phương pháp giúp cho học sinh nắm vững tri thức được học và sáng tạo trên cơ sở những tri thức đó là động lực của quá trình học tập. Sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm trong dạy học góp phần hiệu quả nhằm giải quyết những vấn đề trên. Đây là phương pháp mở được xây dựng trên cơ sở thông tin hai chiều của cả người dạy và người học. Người học nắm bắt được kiến thức mới thông qua những kiến thức đã được học, thông qua sự chuẩn bị về bài học, thông qua những biểu tượng đặc trưng với vấn đề mà bài học đề cập đến,… Đối với người dạy thì hướng dẫn, dẫn dụ sự tư duy của học sinh một vấn đề mà đỉnh cao là hướng dẫn cho học sinh sự sáng tạo trong quá trình học tập qua đó đi sâu và bao quát được vấn đề mà học sinh được học. Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm giúp nâng cao tính tích cực chủ động của học sinh trong việc tìm tòi, chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng các em được học. Đồng thời góp phần hiệu quả trong việc giáo dục thẩm mỹ và sự sáng tạo mỹ thuật ở mỗi học sinh. * Một số kinh nghiệm từ việc vận dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm vào quá trình dạy học Ngữ văn: - Mỗi giáo viên và học sinh cần nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa của hệ thống câu hỏi trắc nghiệm trong đổi mới phương pháp dạy học. Nhà trường nên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để tuyên truyền, giới thiệu cho giáo viên về vai trò, tác dụng của hệ thống câu hỏi trắc nghiệm trong hỗ trợ đổi mới
- 19 phương pháp dạy học; từ đó giáo viên nâng cao nhận thức và tuyên truyền, phổ biến tới học sinh theo môn học của mình. - Để hệ thống câu hỏi trắc nghiệm trở thành một công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh một cách hiệu quả nhất, nhân tố quyết định chính là vai trò của giáo viên trong việc dẫn dắt, gợi mở học sinh phát hiện, tìm kiếm được “trung tâm” (trọng tâm bài học), từ đó từng bước khám phá kiến thức bài học. Bằng trí tưởng tượng cùng sự tập hợp kiến thức từ các nguồn, học sinh phải biết cách phân tích tìm ra những từ khóa, chính xác nhất. Điều đó giúp học sinh dễ dàng ôn tập sau này. Cứ làm việc theo cách đó học sinh sẽ biết cách tự mình vận động, tìm tòi khám phá, lĩnh hội tri thức một cách có hiệu quả. - Giáo viên cần phải có biện pháp khích lệ cũng như kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà của các em một cách hiệu quả, hạn chế trường hợp các em sao chép nhau, hoặc nhờ người khác trong việc thiết kế và thực hiện hệ thống câu hỏi trắc nghiệm về những nội dung đã được yêu cầu. - Giáo viên cần phải cố gắng quản lí thật tốt khi cho các em thảo luận và nhận xét và khuyến khích đưa ra ý kiến, quan điểm của mình về vấn đề đó. Hiện nay, một số các giáo viên vẫn chưa làm được điều này. Trên đây là kinh nghiệm của bản thân tôi qua quá trình bước đầu sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn 8 ở trường PTDTBT THCS Trà Cang. Tôi rất mong muốn nhận được những ý kiến góp ý, chia sẻ của Ban Giám hiệu và các đồng nghiệp để vận dụng đề tài này vào thực tiễn giảng dạy một cách thực sự hiệu quả hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn và các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này! Cam đoan: Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm này là do tôi viết, không sao chép của bất cứ ai. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo sáng kiến: Tích hợp một số trò chơi trong môn toán để dạy học theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh lớp 3/2 Trường Tiểu học Kim Đồng năm học 2021-2022
15 p | 15 | 4
-
Báo cáo sáng kiến: Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua hoạt động khởi động trong chương trình môn Toán 6 tại trường PTDTBT THCS Trà Cang
14 p | 18 | 4
-
Báo cáo sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 6 trường PTDTBT THCS Trà Cang rèn luyện kĩ năng sống qua học tập môn Công Nghệ 6
38 p | 14 | 3
-
Báo cáo sáng kiến: Một số giải pháp giúp nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn tại trường PTDTBT THCS Trà Dơn
11 p | 14 | 2
-
Báo cáo sáng kiến: Một số giải pháp để xây dựng tốt kế hoạch bài dạy, thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) 2018, cấp tiểu học
16 p | 10 | 2
-
Báo cáo sáng kiến: Một số biện pháp giúp trẻ 4-5 tuổi hứng thú trong hoạt động khám phá khoa học” tại trường mầm non Hoa Mai, xã Trà Mai huyện Nam Trà My
12 p | 16 | 2
-
Báo cáo sáng kiến: Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để chọn lọc và giải quyết các bài toán tình huống thực tế trong môn Toán lớp 6 tại trường PTDTBT THCS Trà Vân
23 p | 5 | 2
-
Báo cáo sáng kiến: Vận dụng bộ tài liệu hướng dẫn sử dụng dụng cụ, thiết bị vật lí 7 kết hợp với giáo dục stem giúp cho học sinh học tập đạt hiệu quả hơn trong môn vật lí 7 tại trường PTDTBT THCS trà leng, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam
27 p | 3 | 2
-
Báo cáo sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 8 học tốt phần phân tích đa thức thành nhân tử tại trường THCS Trà Mai
16 p | 15 | 2
-
Báo cáo sáng kiến: Một số giải pháp giúp học sinh thực hiện tốt các thí nghiệm thực hành trong Sinh học 8 ở Trường PTDTBT THCS Trà Cang
22 p | 6 | 1
-
Báo cáo sáng kiến: Một số biện pháp giúp giáo viên tạo sự mạnh dạn tự tin trong giao tiếp cho trẻ mẫu giáo người DTTS ở trường mẫu giáo Trà Leng-Huyện Nam Trà My – Quảng Nam
12 p | 9 | 1
-
Báo cáo sáng kiến: Dạy học chủ đề tỉ lệ thức, dãy tỉ số bằng nhau theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học môn Toán lớp 7
23 p | 7 | 1
-
Báo cáo sáng kiến: Thông qua hoạt động trò chơi giúp học sinh học tốt phân môn tập đọc nhạc đối với bộ môn Âm nhạc THCS tại trường PTDTBT THCS Trà Dơn
15 p | 2 | 1
-
Báo cáo sáng kiến: Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử ở trường PTDTBT TH&THCS Trà Vinh
8 p | 12 | 1
-
Báo cáo sáng kiến: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tại Trường mẫu giáo Sơn Ca
12 p | 7 | 1
-
Báo cáo sáng kiến: Một số biện pháp quản lý giáo viên làm và sử dụng đồ chơi có hiệu quả ở trường Mẫu giáo Hướng Dương xã Trà Dơn huyện Nam Trà My
11 p | 6 | 1
-
Báo cáo sáng kiến: Tổ chức, quản lí hoạt động nhóm hiệu quả trong giờ thực hành vẽ tranh đề tài khối lớp 6 ở trường PTDTBT TH&THCS Trà Vinh
15 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn