Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích hoạt động báo cáo phản ứng có hại của thuốc tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2015-2015
lượt xem 23
download
Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích hoạt động báo cáo phản ứng có hại của thuốc tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2015-2015 với mục tiêu phân tích hoạt động báo cáo ADR của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình thông qua số lượng và chất lượng báo cáo gửi tới Trung tâm DI&ADR quốc gia giai đoạn 2015-2015;...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích hoạt động báo cáo phản ứng có hại của thuốc tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2015-2015
- Phần I: MỞ ĐẦU Cùng với sự tiến bộ không ngừng của y học, ngành công nghiệp dược phẩm cũng đã có những bước tiến quan trọng trong việc nghiên cứu và chế tạo thuốc mới. Sự ra đời của nhiều loại thuốc mới làm thay đổi cơ bản diễn biến nhiều loại bệnh tật, tạo nên những cuộc cách mạng trong điều trị mang lại sứ khỏe cho hàng triệu người. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích mà thuốc mang lại, không thể phủ nhận một thực tế là thuốc có thể gây ra những phản ứng bất lợi, những bệnh lý nghiêm trọng, thậm chí gây tử vong cho người dùng thuốc. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh phản ứng có hại của thuốc tạo ra những gánh nặng lớn về bệnh tật và kinh tế. Với mục đích đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý trong phòng và điều trị bệnh, Cảnh giác Dược là một hoạt động chuyên môn quan trọng chăm sóc sức khỏe bệnh nhân. Trong hoạt động Cảnh giác Dược, báo cáo phản ứng có hại của thuốc tự nguyện là phương pháp phổ biến nhất được áp dụng tại nhiều quốc gia trên toàn thế giới để phát hiện và giám sát phản ứng có hại của thuốc. Hệ thống báo cáo ADR tự nguyện được áp dụng tại nhiều quốc gia trên thế giới bởi ưu điểm và cơ cấu đỡ tốn kém. Tuy nhiên, báo cáo ADR tự nguyện cũng có những hạn chế nhất định là hiện tượng báo cáo thiếu và báo cáo chất lượng kém. Vì vậy, nâng cao số lượng và chất lượng báo cáo là một nhiệm vụ trọng tâm của Cảnh giác Dược. Bệnh viện đa khoa tỉnh Hòa Bình là Bệnh viện hạng I, có quy mô hơn 500 giường bệnh và với khoảng 30000 bệnh nhân nội trú mỗi năm. Số lượng báo cáo ADR được ghi nhận trong giai đoạn 1998 – 2000 là 101 báo cáo, và giai đoạn 2006 2008 là 203 báo cáo. Năm 2012, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình đã thay đổi hình thức báo cáo ADR từ phương thức sử dụng sổ ghi chép ADR tại các khoa, phòng điều trị sang phương thức mới với biểu mẫu chi tiết sử dụng mẫu báo cáo theo Thông tư số 23/2011/TTBYT “Hướng dẫn sử dụng thuốc trong các cơ sở y tế có giường bệnh”. Nhằm đánh giá tác động của việc thay đổi phương thức báo cáo ADR này đến hiệu quả báo cáo ADR. Từ những nội dung như trên chuyên đề “Phân tích hoạt động báo cáo phản ứng có hại của thuốc tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2015 2015” với mục tiêu: 1
- Phân tích hoạt động báo cáo ADR của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình thông qua số lượng và chất lượng báo cáo gửi tới Trung tâm DI&ADR quốc gia giai đoạn 2015– 2015 Phân tích thưc trạng nhận thức thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong hoạt động báo cáo ADR tại BVĐK tỉnh Hòa Bình. 1.1. Định nghĩa và mục tiêu cảnh giác Dược Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa “Cảnh giác Dược là khoa học và các hoạt động liên quan đến việc ohats hiện, đánh giá, nghiên cứu và phòng tránh các phản ứng có hại của thuốc (ADR) và các vấn đề liên quan đến quá trình sử dụng thuốc”. Mục tiêu cụ thể của hoạt động Cảnh giác Dược là: Cải thiện việc chăm sóc bệnh nhân và an toàn trong mối liên quan sử dụng thuốc với can thiệp của điều trị và hỗ trợ điều trị trên người bệnh. Cải thiện sức khỏe cộng đồng và đảm bảo an toàn trong sử dụng thuốc. Góp phần đánh giá lợi ích, nguy cơ, hiệu quả và độ an toàn của thuốc, khuyến khích sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, hiệu quả (bao gồm các yếu tố kinh tế). Thúc đẩy sự hiểu biết, giáo dục và đào tạo trên lâm sàng trong Cảnh giác Dược và tuyên truyền hiệu quả tới cộng đồng. 1.2 Các đối tượng tham gia hoạt động Cảnh giác Dược trong bệnh viện: 1.2.1. Hội đồng thuốc và điều trị: Theo WHO, một trong ba nhiệm vụ quan trọng của Hội đồng Thuốc và Điều trị là giúp đảm bảo sử dụng thuốc an toàn và hợp lý là giám sát và quản lý ADR. Hội đồng Thuốc và Điều trị cần xây dựng một hệ thống giám sát, theo dõi điều tra và báo cáo các phản ứng có hại của thuốc trong bệnh viện. Bộ Y tế cũng quy định một trong những nhiệm vụ của Hội đồng Thuốc và Điều trị là giám sát phản ứng có hại của thuốc (ADR) và các sai sót trong điều trị, cụ thể là: Xây dựng quy trình phát hiện, đánh giá, xử trí, dự phòng ADR và các sai sót trong chu trình sử dụng thuốc tại bệnh viện từ giai đoạn chẩn đoán, kê đơn của thầy thuốc, chuẩn bị và cấp phát thuốc của dược sĩ, thực hiện y lệnh và hướng dẫn 2
- sử dụng của điều dưỡng, sự tuân thủ điều trị của người bệnh nhằm đảm bảo an toàn cho người bệnh trong quá trình điều trị. Tổ chức giám sát ADR, ghi nhận và rút kinh nghiệm các sai sót trong điều trị. Triển khai hệ thống báo cáo ADR trong bệnh viện. Thông tin cho cán bộ y tế trong bệnh viện về ADR, sai sót trong sử dụng thuốc để kịp thời rút kinh nghiêm chuyên môn. Cập nhật, sửa đổi, bổ sung danh mục thuốc của bệnh viện, hướng dẫn điều trị và các quy trình chuyên môn khác dựa trên thông tin về ADR và sai sót trong sử dụng thuốc ghi nhận tại bệnh viện. 1.2.2. Khoa Dược bệnh viện: Thông tư 22/2011/TTBYT của Bộ Y tế quy định một trong những hoạt động của khoa Dược là: “Tham gia công tác Cảnh giác Dược: theo dõi, tập hợp các báo cáo về tác dụng không mong muốn của thuốc trong đơn vị và báo cáo về Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc. Đề xuất biện pháp giải quyết và kiến nghị về sử dụng thuốc hợp lý, an toàn”. Thông tư 23/2011/TTBYT cũng quy định: “Khoa Dược có nhiệm vụ làm đầu mối trình lãnh đạo bệnh viện theo phản ứng có hại của thuốc theo mẫu của Bộ Y tế và gửi về Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc ngay sau xử lý. 1.2.3. Đơn vị Thông tin thuốc Công văn 10766/YTĐTR của Bộ Y tế về hướng dẫn tổ chức và hoạt động của Đơn vị Thông tin thuốc trong bệnh viện có quy định nhiệm vụ của Đơn vị Thông tin thuốc là “Tham gia theo dõi, xử lý các phản ứng có hại và theo dõi chất lượng thuốc” 1.2.4. Nhân viên y tế: Theo WHO, các nhân viên y tế có điều kiện tốt nhất để báo cáo các nghi ngờ về một ADR xảy ra ở bệnh nhân. Tất cả nhân viên y tế tham gia vào một hệ thống chăm sóc sức khỏe đều tham gia báo cáo các ADR như một phần trách nhiệm chuyên môn của mình, ngay cả khi ADR bị nghi ngờ chưa có mối quan hệ rõ ràng với việc điều trị. 3
- Điều 51, Luật Dược quy định: “Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cán bộ, nhân viên y tế có trách nhiệm theo dõi và báo cáo cho người phụ trách cơ sở, cơ quan có thẩm quyền quản lý thuốc về các phản ứng có hại của thuốc”. Thông tư 31 của Bộ Y tế ban hành ngày 20/12/2012 về hướng dẫn hoạt động dược lâm sàng trong bệnh viện quy định một trong những nhiễm vụ của dược sĩ lâm sàng là: “Theo dõi, giám sát ADR và là đầu mối báo cáo các ADR tại đơn vị theo quy định hiện hành”. Tại khoa dược lâm sàng, dược sĩ lâm sàng ngoài xem xét các thuốc được kê đơn cho người bệnh về chỉ định, chống chỉ định... còn phải xem xét đến ADR của thuốc. 1.3. Các hoạt động theo dõi ADR trong bệnh viện: 1.3.1. Phát hiện ADR: Điều dưỡng viên, hộ sinh viên, kỹ thuật viên trong bệnh viện có trách nhiệm: “Theo dõi và phát hiện những biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng bất thường trên người bệnh, thông báo ngay cho bác sĩ điều trị và khoa Dược và ghi lại các thông tin liên quan tới thuốc và người bệnh đa sử dụng”. Bác sĩ có trách nhiệm: “Phát hiện, ghi nhận những biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng bất thường trên người bệnh vào bệnh án, kiểm tra lại tất cả các thuốc thực tế người bệnh đã sử dụng, kiểm tra chất lượng cảm quan mẫu thuốc được lưu lại, kiểm tra việc sử dụng thuốc có phù hợp với tình trạng bệnh lý hay khoongm có cân nhắc đến các bệnh mắc kèm và chống chỉ định trên người bệnh hay không, liều dùng thuốc đã đúng như khuyến cáo chưa, người bệnh có tiền sử dị ứng, đặc biệt là dị ứng thuốc không và có sự phù hợp về thời điểm dùng thuốc nghi ngờ và thời điểm xuất hiện ADR không”. Với dược sĩ: “Trong quá trình xem bệnh án hoặc duyệt thuốc tại Khoa Dược, dược sĩ phát hiện ADR dựa trên các thuốc có khả năng được sử dụng để xử trí phản ứng có hại của thuốc, biểu hiện lâm sàng và kết quả xét nghiệm cận lâm sàng bất thường. Ưu tiên xem xét bênh án các đối tượng đặc biệt, sử dụng thuốc có nguy cơ cao xảy ra ADR” 1.3.2. Xử trí ADR: Với điều dưỡng viên, hộ sinh viên, kỹ thuật viên: “Thực hiện xử trí ADR theo đúng y lệnh, theo dõi người bệnh, thông báo kịp thời cho bác sĩ điều trị nếu có 4
- diễn biến bất thường của người bệnh. Trường hợp khẩn cấp có thể ngừng sử dụng thuốc nghi ngờ gây ảnh hưởng tới tính mạng người bệnh trước khi thông báo cho bác sĩ”. Bác sĩ có nhiệm vụ: “Đánh giá mức độ nghiêm trọng của ADR để quyết định hướng xử trí lâm sàng phù hợp: giảm liều hoặc ngừng thuốc nghi ngờ gây ADR trong điều kiện lâm sàng cho phép, kịp thời thực hiện các biện pháp điều trị triệu chứng, điều trị hỗ trợ, đảm bảo chức năng sống còn cho người bệnh, thực hiện theo các hướng dẫn chuyên môn của Bộ Y tế có liên quan nếu việc xử trí ADR thuộc phạm vi hướng dẫn đó. Trong trường hợp cần thiết có thể trao đổi hướng xử trí với đồng nghiệp, tổ chức hội chẩn chuyên môn, tham khảo thêm thông tin về ADR từ Dược sĩ, Đơn vị thông tin thuốc bệnh viện hoặc các Trung tâm về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc. Giám sát chặt chẽ người bệnh trong trường hợp bắt buộc sử dụng lại thuốc nghi ngờ gây ADR khi không có thuốc thay thế hoặc khi lợi ích của thuốc vượt trội hơn nguy cơ”. Dược sĩ cần phải: “Trao đổi với bác sĩ điều trị nếu phát hiện ADR khi thực hiện các hoạt động dược lâm sàng tại khoa phòng để có biện pháp xử trí phù hợp, cũng như cung cấp thông tin về thuốc trong quá trình xác định và xử trí ADR theo yêu cầu của cán bộ y tế”. 1.3.3. Đánh giá ADR: Khi một ADR xảy ra trong quá trình điều trị nhân viên y tế cần kiểm tra tiền sử bệnh nhân và tra cứu các tài liệu cần thiết để đánh giá đầy đủ ADR nghi ngờ. Đối với một số bệnh nhân, có thể tìm kiếm sự hỗ trợ từ dược sĩ lâm sàng để đánh giá nguyên nhân, chẩn đoán cụ thể và quản lý ADR nghi ngờ. Các quan hệ nhân quả của một báo cáo ADR hoặc nghi ngờ (ví dụ như xác định hoặc không xác định, có thể xảy ra, có thể không) nên được đánh giá để phân loại từng ADR với việc xem xét những điều sau đây: Sự liên quan giữa thời điểm bắt đầu điều trị bằng thuốc và các tác dụng phụ của phản ứng. Kết quả sau khi ngừng thuốc Dấu hiệu và triệu chứng của ADR có thể được giải thích là do bệnh của bệnh nhân không 5
- Các xét nghiệm cung cấp bằng chứng cho các phản ứng là một ADR Nếu tái sử dụng, triệu chứng có trở lại không Cần đánh giá mức độ nghiêm trọng của một báo cáo ADR hoặc nghi ngờ. 1.3.4. Báo cáo ADR: “Người trực tiếp viết báo cáo có thể là bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng biên, hộ sinh viên, kỹ thuật viên và các cán bộ y tế khác, sử dụng mẫu báo cáo do Bộ Y tế quy định” “Báo cáo cần được gửi trong thời gian sớm nhát có thể sau khi xáy ra phản ứng, ngay cả khi thông tin thu được chưa đầy đủ (báo cáo ban đầu). Trong trường hợp này, có thể bổ sung báo cáo nếu thu thập được thêm thông tin (báo cáo bổ sung). 1.3.5. Phản hồi báo cáo ADR Hội đồng Thuốc và Điều trị thông tin cho cán bộ y tế trong bệnh viện về ADR, sai sót trong sử dụng thuốc để kịp thời rút kinh nghiệm chuyên môn. Dược sĩ cung cấp thông tin phản hồi cho các bác sĩ, điều dưỡng: phổ biến thông tin về ADR không được báo cáo trước đây. 1.4. Giới thiệu về Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình: Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình là Bệnh viện Đa khoa hạng I tuyến tỉnh, năm 2006 bệnh viện đã được dự án JACA của Chính phủ Nhật Bản tài trợ không hoàn lại xây dựng khu nhà kỹ thuật cao gồm 3 tầng, kèm theo các trang thiết bị nội thất và một số máy móc, thiết bị y tế hiện đại. Đến tháng 3 năm 2007 đã được chính thức đưa vào sử dụng phục vụ người bệnh đạt hiệu quả cao. Hiện nay với quy mô hơn 500 giường bệnh được đưa vào sử dụng, bệnh viện có hơn 500 nhân viên y tế tại 20 khoa lâm sàng và 01 khoa Dược. Nằm trong khoa Dược bệnh viện, tổ Dược lâm sàng không chỉ đảm nhiệm việc duyệt thuốc cho các Khoa/Phòng mà còn kiểm tra giám sát sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, kiểm tra quy chế chuyên môn cũng như các hoạt động thông tin thuốc, Dược sĩ đi lâm sàng có nhiệm vụ theo dõi bệnh nhân, soát bệnh án, tư vấn sử dụng thuốc cho bác sỹ. Năm 2012, Bệnh viện tỉnh Hòa Bình đã thay đổi hình thức báo cáo ADR từ phương thức sử dụng sổ ghi chép ADR tại các khoa, phòng điều trị sang phương 6
- thức mới với biểu mẫu chi tiết sử dụng mẫu báo cáo theo Thông tư số 23/2011/TT BYT “Hướng dẫn sử dụng thuốc trong các cơ sở y tế có giường bệnh”. Phần II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ 2.1. Quy trình báo cáo ADR của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình năm 2012 – 2015. Từ năm 2012 Bệnh viện tỉnh Hòa Bình đã thay đổi hình thức báo cáo ADR từ phương thức sử dụng sổ ghi chép ADR tại các khoa, phòng điều trị sang phương thức mới với biểu mẫu chi tiết sử dụng mẫu báo cáo theo Thông tư số 23/2011/TT BYT “Hướng dẫn sử dụng thuốc trong các cơ sở y tế có giường bệnh”. Quy trình báo cáo ADR của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình giai đoạn năm 20122015 được tóm tắt ở bảng 2.1: Bảng 2.1: Một số nét chính của quy trình báo cáo ADR của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2015 Ghi nhận nhiều về mặt số lượng, đầy đủ về mặt chất lượng và hợp lý Mục tiêu về mặt thời gian (kịp thời) để phát hiện phản ứng có hại của thuốc Các đối Các khoa lâm sàng Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình, khoa Dược Bệnh tác tham viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình. Trung tâm DI&ADR Quốc gia gia Hình Biểu mẫu báo cáo Mỗi khoa lâm sàng có sổ ghi chép báo cáo ADR. Sổ 3 liên giấy in thức báo carbon, có thể xé rời từng trang. Mỗi trang là một mẫu báo cáo dựa cáo theo mẫu báo cáo ADR được quy định tại phụ lục 5, Thông tư số 23/2011/TTBYT ban hành ngày 10 tháng 06 năm 2011 “Hướng dẫn sử dụng thuốc trong các cơ sở y tế có giường bệnh” Đối tượng và phương pháp báo cáo Các cán bộ y tế ghi thông tin vào sổ ghi chép ADR Thu thập báo cáo Khoa Dược kiểm tra sổ 3 tháng/lần, xé báo cáo ADR khỏi sổ, một bản lưu lại khoa lâm sàng, một bản lưu tại khoa Dược, một bản gửi lên Trung tâm DI&ADR Quốc gia. Khoa Dược gửi báo cáo về Trung tâm DI&ADR Quốc gia theo hệ 7
- thống báo cáo ADR trực tuyến trên trang web www.canhgiacduoc.org.vn Quy trình báo cáo ADR giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2015 với mục tiêu cụ thể hơn, hình thức báo cáo tập trung và khoa học hơn, việc gửi báo cáo đơn giản hơn đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc báo cáo ADR hiệu quả, chất lượng hơn. 2.2 Cơ cấu về báo cáo nhóm 2.2.1.. Đối tượng tham gia báo cáo ADR Số lượng và tỷ lệ báo cáo ADR theo từng đối tượng được báo cáo ADR được tính theo bảng 2.1 Bảng 2.2. Đối tượng tham gia báo cáo ADR Số NVYT đã tham gia báo Tỷ lệ báo cáo (%) Đối tượng Tần suất báo cáo cáo n=127 Bác sĩ 10 107 84,25% Điều dưỡng 3 16 12,6% Dược sĩ 2 4 3,15% Có 15 nhân viên y tế đã tham gia điền và gửi báo cáo ADR, trong đó có 10 bác sĩ, 3 điều dưỡng và 2 dược sĩ . Đối tượng chủ yếu vẫn là bác sĩ ( 84,25%) và thấp nhất là dược sĩ (3,15%) 2.2.2. Các khoa phòng tham gia báo cáo ADR Số lượng và tỷ lệ báo cáo ADR của các khoa phòng trong bệnh viện giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2015 được trình bày trong bảng 2.2 Bảng 2.3. Các khoa phòng tham gia báo cáo STT Khoa phòng Tần số báo cáo Tỷ lệ (%) n=127 ADR 1 Khoa Da liễu 94 74,15 2 Hồi sức cấp cứu 9 7,09 3 Sản 6 4,72 4 Ngoại Tổng Hợp 4 3,15 5 Nội Tim Mạch 4 3,15 6 Nhi 7 5,51 7 Không có thông tin 3 2,36 Có 6/20 khoa phòng (chiếm tỷ lệ 30%) có báo cáo trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2015. Trong đó Khoa Da liễu là có tỷ lệ báo cáo cao nhất (74,15%) tiếp đến là 8
- Khoa Hồi sức cấp cứu (7,06%). Bên cạnh đó còn rất nhiều khoa phòng chưa tham gia báo cáo. 2.3. Thông tin về thuốc nghi ngờ gây ADR 2.3.1. Phân loại thuốc nghi ngờ theo lý do sử dung thuốc Tiến hành tổng hợp lý do sử dụng thuốc nghi ngờ gây ADR, một số kết quả điển hình được trình bày qua bảng 2.3 Bảng 2.4. Lý do sử dụng thuốc phân loại bệnh Tần Tỷ lệ (%) STT Loại bệnh tật suấ n=127 t 1 Bệnh hô hấp 64 50,39 Các triệu chứng, dấu hiệu và những biểu hiện lâm sàng 2 và cận lâm sàng bất thường không phân loại ở phần 45 35,43 khác (đau đầu, đau răng, sốt, ho, mệt...) 3 Bệnh hệ cơ – xương – khớp và mô liên kết 4 3,15 4 Bệnh hệ tiêu hóa 4 3,15 5 Bệnh nhiễm trùng và ký sinh 3 2,36 6 Bệnh hệ sinh dục tiết niệu 4 3,15 8 Bệnh tân sinh 1 0,79 Các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe và tiếp 9 1 0,79 xúc dịch vụ y tế 10 Các bệnh về da và mô dưới da 1 0,79 Trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2015, bệnh hô hấp là lý do sử dụng thuốc chiếm tỷ lệ lớn nhất ( 50,49%), sau đó là Các triệu chứng, dấu hiệu và những biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng bất thường không phân loại ở phần khác như đau đầu, đau răng, sốt, ho, mệt... (chiếm 35,43%) 2.3.2. Phân loại thuốc nghi ngờ gây ADR theo đường dùng thuốc Kết quả tổng hợp và phân loại các thuốc nghi ngờ gây ADR theo đường dùng thuốc được trình bày ở bảng 2.4 Bảng 2.5. Phân loại thuốc nghi ngờ gây ADR theo đường dùng thuốc Đường dùng Tần suất Tỷ lệ (%) n=127 Uống 90 70,86 Tiêm. Truyền tĩnh mạch 25 19,68 Tiêm bắp 10 7,87 Tiêm dưới da 11 8,66 9
- Các báo cáo ADR được ghi nhận chủ yếu khi bệnh nhân sử dụng theo đường uống, chiếm tỷ lệ 70,68%. Báo cáo liên quan đến đường tiêm có tỉ lệ thấp như tiêm bắp, tiêm dưới da 2.3.3. Các nhóm dược lý được báo cáo nhiều nhất Bảng 2.6. Các nhóm dược lý được báo cáo nhiều nhất Tần Tỷ lệ (%) ST Nhóm thuốc suấ n=127 T t Kháng sinh beta – lactam khác (bao gồm cephalosporin thế 50,39 1 64 hệ từ 1 đến 4, carbapenem...) 2 Thuốc điều trị lao 27 21,26 3 Kháng sinh nhóm Aminoglycosid 9 7,09 4 Kháng sinh nhóm Beta – lactam, các penicilin 10 7,87 5 Kháng sinh nhóm quinolon 4 3,15 6 Thuốc giảm đau và hạ sốt khác 5 3,93 7 Thuốc kháng virus 6 4,72 Kháng sinh nhóm khác (bao gồm kháng sinh nhóm 8 Glycopeptip, các polymyxon, dẫn chất 5 nitro – 3 2,36 imidazol...) Các kháng sinh nhóm Beta – lactam khác (cephalosporin thế hệ từ 1 đến 4, carbapenem...) là kháng sinh có tỷ lệ báo cáo biến cố có hại nhiều nhất (50,39%). Tiếp theo là nhóm thuốc điều trị lao (21,26%) 2.3.4. Thuốc nghi ngờ được báo cáo nhiều nhất Các thuốc nghi ngờ gây ADR báo cáo nhiều nhất được trình bày trong bảng 2.6 Bảng 2.7. Danh sách các thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo nhiều nhất STT Tên thuốc Tần suất Tỷ lệ (%) n=127 1 Cefotaxim 53 41,73 2 Streptomycin 15 11,81 3 Diclofenac 10 7,87 4 Ciprofloxacin 10 7,87 5 Cefuroxim 5 3,93 6 Amoxicilin/acid clavulanic 8 6,3 7 Thuốc có nguồn gốc dược liệu 4 3,15 8 Ceftriaxon 4 3,15 10
- 9 Ceftazidim 8 6,3 Các thuốc nghi ngờ gây phản ứng có hại xuất hiện nhiều nhất trong các báo cáo ADR thuộc 4 nhóm chính: nhóm thuốc kháng sinh với 6 đại diện là cefotaxim , ceftazidim, ciprofloxacin, Cefuroxim, Amoxicilin/acid clavulanic, ceftriaxon; nhóm thuốc trị lao (streptomycin), nhóm thuốc giảm đau, hạ sốt, chống viêm (diclofenac) và thuốc có nguồn gốc từ dược liệu. 2.4. Thông tin về ADR . Các biểu hiện ADR được ghi nhận nhiều nhất Các biểu hiện ADR được ghi nhận nhiều nhất được thống kê và trình bày trong bảng 2.7 Bảng2.8. Biểu hiện ADR được ghi nhận nhiều nhất STT Biểu hiện ADR Tần suất Tỷ lệ (%) n=127 1 Ngứa 120 94,5 2 Ban đỏ toàn thân 114 89,76 3 Mày đay 37 29,13 4 Sốt 36 26,38 5 Phát ban 14 11,02 6 Tức ngực 14 11,02 7 Phù mặt 9 7,08 8 Khó chịu 7 5,51 9 Khó thở 4 3,14 10 Sốc phản vệ 6 4,72 Các biểu hiện được báo cáo nhiều nhất chủ yếu là biểu hiện trên da và niêm mạc bao gồm: ngứa (94,5%), ban đỏ toàn thân (89,76%), mày đay (29,13%), và phát ban (11,02%). Đáng chú ý , phản ứng nghiêm trọng sốc phản vệ cũng nằm trong số những ADR được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn từ 2012 đến năm 2015 (chiếm tỉ lệ 4,72%) 2.5. Phân tích thực trạng nhận thức, thái độ và thực hành báo cáo ADR của nhân viên y tế 2.5.1. Thông tin về đối tượng được khảo sát 2.5.1.1. Tỷ lệ nhân viên y tế tham gia khảo sát Bảng 2.9. Tỷ lệ nhân viên y tế tham gia khảo sát Số phiếu Số phiếu Tỷ lệ Khoa phòng phát ra thu về (%) 11
- Khoa da liễu 9 9 100,0 Khoa Hồi sức cấp cứu 42 40 95,2 Khoa Hồi sức tích cực 37 33 89,1 Khoa Bệnh nhiệt đới 9 9 100,0 Khoa Bệnh lao – Phổi 9 9 100,0 Khoa Mắt 11 11 100,0 Khoa Ngoại chấn thương chỉnh hình 19 19 100,0 Khoa Ngoại Thần kinh U bướu 16 16 100,0 Khoa Ngoại tổng hợp 22 20 90,9 Khoa Nhi 45 41 91,1 Khoa Nội thần kinh cơ – xương – khớp 11 11 100,0 Khoa Nội tim mạch – não khoa 22 22 100,0 Khoa Nội tổng hợp 26 26 100,0 Khoa Phụ sản 35 35 100,0 Khoa Gây mê hồi sức 27 27 100,0 Khoa Răng – hàm – mặt 10 10 100,0 Khoa Tai – Mũi – Họng 10 10 100,0 Khoa Y học cổ truyền 8 8 100,0 Khoa Dược 6 6 Tổng 374 362 96,7 Tỷ lệ bộ câu hỏi thu về trên tổng số bộ câu hỏi phát ra là 96,7%. Mặc dù có sự chênh lệch về số nhân viên y tế ở từng khoa phòng nhưng nhìn chung đa số tỉ lệ nhân viên y tế tham gia khảo sát ở các khoa phòng đều là 100,0%, chỉ có 4 khoa phòng có tỷ lệ thấp hơn là: Khoa Hồi sức cấp cứu (95,2%), khoa Hồi sức tích cực (89,1%), khoa Ngoại tổng hợp (90,9%) và khoa Nhi (91,1%) 2.5.1.2. Đặc điểm đối tượng tham gia khảo sát Đặc điểm đối tượng tham gia trả lời bộ câu hỏi được trình bày trong bảng 4.2 Bảng 2.10. Đặc điểm đối tượng tham gia khảo sát Trình độ chuyên môn Bác sĩ 91 25,1% Điều dưỡng viên 263 72,6% Dược sĩ 6 1,65% Giới tính Nam 122 33,7% Nữ 240 66,3% Điều dưỡng viên tham gia trả lời nhiều nhất (chiếm 72,6%) tiếp theo là bác sĩ (chiếm 22,3%) , trong đó nhân viên nữ chiếm đa số (66,3%). 2.5.2. Nhận thức của nhân viên về ADR và báo cáo ADR 12
- 2.5.2.1. Nhận thức về tầm quan trọng của báo cáo ADR a) Lý do nhân viên y tê cho rằng báo cáo ADR là quan trọng Các lý do nhân viên y tế cho rằng việc báo cáo ADR là quan trọng được trình bày trong bảng 2.10 Bảng 2.11. Lý do nhân viên y tế cho rằng báo cáo ADR là quan trọng Bác sĩ Điều dưỡng Dược sĩ Tổng N Tỷ N Tỷ lệ N Tỷ N Tỷ Tiêu chí (91) lệ (263) (%) (6) lệ (362) lệ (%) (%) (%) Xác định và phát hiện ADR 100, 74 81,3 199 75,6 6 279 77,1 mới 0 Chia sẻ thông tin ADR với 100, 74 81,3 202 76,8 6 282 77,9 đồng nghiệp 0 Là một phần của công việc 100, 63 69,2 197 74,9 6 266 73,4 đang làm 0 Đảm bảo an toàn cho bệnh 100, 81 89,0 242 92,0 6 329 90,8 nhân 0 Xác định vấn đề liên quan 100, 66 72,5 199 75,6 6 271 74,8 an toàn thuốc 0 Xác định tần suất gặp 83,3 47 51,6 152 75,7 5 204 56,3 ADR 3 Các lý do bộ câu hỏi đưa ra đều có tỷ lệ lựa chon khá cao. Trong đó, lý do đảm bảo an toàn cho bệnh nhân được các nhân viên y tế chọn với tỷ lệ cao nhất (90,8%), tiếp theo là các lý do xác định vấn đề liên quan an toàn thuốc và chia sẻ thông tin ADR với đồng nghiệp có tỷ lệ lựa chọn tương ứng là 74,8% và 77,9%. Trên 80,0 % dược sỹ cho rằng việc báo cáo ADR là quan trọng bởi tất cả các lý do bộ câu hỏi đưa ra. b) Các trường hợp ADR cần báo cáo Kết quả khảo sát nhận thức về các trường hợp ADR cần báo cáo được trình bày ở bảng 2.11 Bảng 2.12. Nhận thức về các trường hợp ADR cần báo cáo Tiêu chí Bác sĩ Điều dưỡng Dược sĩ Tổng 13
- N Tỷ N Tỷ lệ N Tỷ N Tỷ (91) lệ (263) (%) (6) lệ (362) lệ (%) (%) (%) Nghiêm trọng, không mong 59 64,8 149 56,6 4 66,7 212 58,5 muốn và nghi ngờ Bất cứ ADR nào của thuốc 51 56,0 140 53,2 4 66,7 195 53,8 cũ Bất cứ biến cố bất lợi nào 59 64,8 173 65,7 4 66,7 236 65,1 ADR của thuốc mới 55 60,4 152 57,7 4 66,7 211 58,2 Chỉ những ADR được công 18 19,7 86 32,7 1 16,6 105 29,0 nhận Tất cả các trường hợp trên 47 51,6 164 62,3 3 50,0 214 59,1 Không trường hợp nào 2 2,19 14 5,32 0 0,00 16 4,41 Không biết 3 3,29 18 6,84 0 0,00 21 5,81 Tỷ lệ lựa chọn phương án của bác sĩ, điều dưỡng và dược sĩ là khá giống nhau. Trong đó bất cứ biến cố có lợi nào là trường hợp báo cáo được lựa chọn nhiều nhất ở cả 3 đối tượng (65,1%). Có 59,1% nhân viên y tế cho rằng tất cả các trường hợp bộ câu hỏi đưa ra cần được báo cáo. Ngoài ra, các trường hợp ADR nghiêm trọng, không mong muốn và nghi ngờ, bất cứ ADR nào của các thuốc cũ và ADR của thuốc mới cũng chiếm tỷ lệ lựa chon cao lần lượt là 58,5%, 53,8% và 58,2%. Có 3,29 % bác sĩ và 6,84% điều dưỡng viên không biết những trường hợp ADR nào cần báo cáo. 2.5.3. Thực hành phát hiện và xử trí ADR Tỷ lệ nhân viên y tế đã từng gặp ADR trong quá trình chăm sóc và điều trị cho bệnh nhân được trình bày ở trong bảng 4.5\ Bảng 2.13. Tỷ lệ nhân viên y tế đã từng gặp ADR Điều Bác sĩ Dược sĩ Tổng dưỡng Tiêu chí N Tỷ lệ N Tỷ N Tỷ lệ N Tỷ lệ (91) (%) (263) lệ (6) (%) (362) (%) (%) Có 86 94,5 242 92,1 6 100,0 334 92,2 Không 2 2,19 9 3,42 0 0,0 11 3,03 Không trả lời 3 3,29 12 4,56 0 0,0 15 4,14 14
- Kết quả cho thấy 92,2% nhân viên y tế từng gặp ADR, trong đó 100,0% dược sĩ đã gặp ADR. Có rất ít bác sĩ và điều dưỡng chưa từng gặp ADR với tỷ lệ tương ứng là 2,19% và 3,42% Khảo sát những phương án xử lý của nhân viên y tế khi phát hiện ADR được trình bày trong bảng 4.6 Bảng 2.14. Cách xử lý của nhân viên y tế khi gặp ADR Bác sĩ Điều dưỡng Dược sĩ Tổng N Tỷ lệ N Tỷ lệ N Tỷ lệ N Tỷ Tiêu chí (91) (%) (263) (%) (6) (%) (362) lệ (%) Ghi nhận lại các biểu 78 85,7 225 85,5 6 100,0 309 85,3 hiện ADR Kiểm tra lại thuốc người 67 73,6 201 76,4 6 100,0 274 75,7 bệnh sử dụng Trao đổi với đồng 68 74,7 210 79,8 6 100,0 284 78,4 nghiệp Ghi lại thông tin về 62 68,1 190 72,2 6 100,0 258 71,2 thuốc Kiểm tra chất lượng cảm quan mẫu thuốc được 44 48,3 158 60,1 6 100,0 208 57,4 lưu lại Phương án ghi nhận lại các biểu hiện ADR được nhân viên y tế chọn nhiều nhất (85,3%). Tỷ lệ nhân viên kiểm tra lại thuốc người bệnh đã sử dụng và trao đổi với đồng nghiệp khi gặp ADR là 75,7% và 78,4%. Tất cả các dược sĩ đều kiểm tra chất lượng cảm quan mẫu thuốc được lưu lại, trong khi đó chỉ có 48,3% bác sĩ và 60,1% điều dưỡng làm điều này. Phần III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 3.1. Số lượng và chất lượng báo cáo ADR Số lượng báo cáo của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình có xu hướng giảm dần qua các năm. Có 15 nhân viên y tế đã tham gia điền và gửi báo cáo ADR, trong đó có 10 bác sĩ, 3 điều dưỡng và 2 dược sĩ . Đối tượng chủ yếu vẫn là bác sĩ (84,25%) và thấp nhất là dược sĩ 3,15(%). Trong đó các ADR chủ yếu là biểu hiện trên da và mô dưới da, ví dụ như ban ban đỏ toàn thân, mày đay 15
- Số lượng nhân viên y tế đã tham gia báo cáo ADR của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn 2012 2015 là 15 người. Như vậy, số lượng nhân viên y tế tham gia báo cáo ADR còn rất hạn chế trên tổng số gần 400 nhân viên y tế hoạt động trong qua trình chăn sóc và điều trị cho bệnh nhân tại bệnh viện. Tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình những thuốc nghi ngờ gây ADR được ghi nhận nhiều nhất chủ yếu là thuốc dùng đường uống ( 70,86%). Trong khi đó, kết quả tổng kết công tác báo cáo ADR từ năm 2012 đến năm 2015 của Trung tâm DI&ADR Quốc gia cho thấy đường dùng của thuốc gây ADR được báo cáo nhiều nhất cũng là đường uống nhưng chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 50% và không có sự chênh lệch đáng kể với đường tiêm, truyền tĩnh mạch. Điều này được giải thích do đặc thù của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình là có rất nhiều trường hợp gặp biểu hiện ADR là do người dân tự dùng thuốc tại nhà với đường uống là đường dùng phổ biến, sau đó phải nhập viện vì các ADR xuất hiện trong quá trình tự dùng thuốc điều trị ngoại trú, Nhóm thuốc được báo cáo nhiều nhất là nhóm thuốc kháng sinh beta – lactam khác (bao gồm các cephalosporin thế hệ từ 1 đến 4, carbapene...) chiếm tỷ lệ 50,39%. Trong tổng số báo cáo của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình, số báo cáo của khoa Da liễu chiếm nhiều nhất. Do đó, các biểu hiện ADR được báo cáo nhiều nhất theo phân loại tổ chức cơ thể bị ảnh hưởng là các rối loạn da và mô dưới da . Trong đó chủ yếu là các biểu hiện ngứa, ban đỏ toàn thân , mày đay Năm 2012, bệnh viện áp dụng hình thức mẫu bao cáo ADR mới là biểu mẫu báo cáo của Bộ Y tế thay cho sổ theo dõi báo cáo ADR. Tuy nhiên, sau khi áp dụng hình thức báo cáo mới, chất lượng báo cáo ADR của bệnh viện đã giảm đáng kể, năm 2015 số lượng báo cáo ADR giảm xuống chỉ còn 26 lần báo cáo ADR. Chất lượng báo cáo ADR của bệnh viện giảm là do số lượng báo cáo thiếu thông tin hoặc thông tin chưa hợp lý tăng lên. Như vậy, kết quả khảo sát hoạt động báo cáo ADR của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2015 cho thấy vấn đề nổi cộm là số lượng và chất lượng báo cáo ADR của bệnh viện đều có xu hướng giảm và bệnh viện chưa huy động được tối đa nguồn lực tham gia công tác báo cáo 3.2. Thái độ và thực hành báo cáo ADR của nhân viên y tế 16
- Số câu hỏi được phát ra là 374 bộ và số bộ câu hỏi thu về là 362, đạt tỷ lệ phản hồi rất cao là 96,7%. Đối với mục đích thực hiện báo cáo ADR có 77,1% nhân viên y tế nhận thức được đúng mục đích của báo cáo ADR là xác định và phát hiện ADR mới, như vậy còn nhiều nhân viên y tế của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình chưa nhận thức đúng về báo cáo phản ứng có hại của thuốc. Điều này dẫn tới tình trạng một số lượng các ADR thực tế bệnh nhân gặp phải trong quá trình chăm sóc và điều trị không được nhân viên y tế báo cáo. Số lượng nhân viên y tế đã gặp ADR trong quá trình chăm sóc và điều trị cho bệnh nhân là 334 (92,2%), trong đó nhận thức trường hợp ADR cần báo cáo là bất cứ biến cố bất lợi nào 236 cán bộ, chiếm tỷ lệ khá cao (65,1%).Trong đó, cách xử trí của nhân viên y tế phần lớn là ghi nhận lại các biểu hiện ADR (85,3%). 3.3. Đề xuất Để tăng số lượng, chất lượng báo cáo ADR và nâng cao nhận thức của nhân viên y tế đối với hoạt động báo cáo ADR tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hòa Bình, e xin có những đề xuất sau đây: Tăng cường đào tạo, tập huấn cho nhân viên y tế về tầm quan trọng của Cành giác Dược và cách báo cáo ADR để nâng cao chất lượng báo cáo ADR. Xây dựng quy trình báo cáo ADR tại bệnh viện để đảm bảo việc phát hiện, xử trí, đánh giá, báo cáo và dự phòng ADR được thực hiện đúng theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Huy động tối đa nguồn lực tham gia hoạt động báo cáo ADR để đảm bảo sử dụng thuốc an toàn, hợp lý. Đặc biệt nâng cao vai trò của dược sĩ trong hoạt động Cảnh giác Dược. Tăng cường hoạt động DLS giám sát các bệnh nhân tại khoa phòng để phát hiện ADR và có hướng xử trí tốt nhất 17
- 18
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ môn Quản lý và Kinh tế Dược Trường Đại học Dược Hà Nội (2013), “Nghiên cứu về tỷ lệ phần trăm các biến cố bất lợi liên quan đến thuốc đã báo cáo được xử trí phù hợp tại các bệnh viện trọng điểm” 2. Bộ Y tế (2013), “Quyết định 1088/QĐBYT quy định về việc ban hành hướng dẫn hoạt động giám sát phản ứng có hại của thuốc (ADR) tại các cơ sở khám, chữa bệnh” 3. Bộ Y tế (2013), “Thông tư 21/2013/TTBYT quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Thuốc và Điều trị trong bệnh viện”. 4. Bộ Y tế (2012), “Thông tư số 22/2011/YYBYT Hướng dẫn hoạt động dược lâm sàng trong bệnh viện”. 5. Bộ Y tế (2011), “Thông tư số 22/2011/TTBYT Quy định tổ chức và hoạt động của khoa Dược bệnh viện”. 6. Bộ Y tế (2011), “Thông tư số 23/2011/TTBYT Hướng dẫn sử dụng thuốc trong các cơ sở y tế có giường bệnh”. 7. Bộ Y tế (2009), Quyết định số 991/QĐBYT Quyết định việc thành lập Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc”. 8. Bộ Y tế (2003), “Hướng dẫn tổ chức, hoạt động của đơn vị thông tin thuốc trong bệnh viện. Ban hành kèm công văn số 10766/YTĐtr”. 9. Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam 92010), “Luật Dược”, Nhà xuất bản Tư Pháp, pp. 41. 10. Bộ Y tế, Trung tâm Dược Điển – Dược Thư Quốc gia Việt nam (2009), Dược thư Quốc gia Việt nam (National Drug Formulary), NXB y học. 11. Trần Nhân Thắng (2012), “Tổng hợp và phân tích các báo cáo ADR của Bệnh viện bạch mai giai đoạn 20062008”. Tạp chí Dược học, 403, pp. 1016. 12. Trung tâm DI&ADR Quốc gia (2015), “Tổng kết công tác báo cáo phản ứng có hại của thuốc (ADR) năm 2013”. 13. Trung tâm DI&ADR Quốc gia (2013), “Tài liệu hội nghị tổng kết công tác dược năm 2013”. 14. Trung tâm DI&ADR Quốc gia (2012), “Tổng kết công tác báo cáo ADR năm 2012” 19
- 15. 14. Trung tâm DI&ADR Quốc gia (2014), “Tổng kết công tác báo cáo ADR năm 2012” 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Cổ phần may Sài Gòn giai đoạn 2009 - 2010
79 p | 1199 | 305
-
Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích tình hình tài chính tại công ty cổ phần thiết bị Tân Minh Giang
34 p | 683 | 287
-
Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích dự án đầu tư xây dựng tổ hợp sản xuất bê tông thương phẩm và bê tông đúc sẵn
83 p | 538 | 231
-
Báo cáo tốt nghiệp "Phân tích kinh doanh xuất khẩu gạo tại công ty AFIEXTS"
81 p | 444 | 199
-
Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích rủi ro trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Cần Thơ
80 p | 435 | 149
-
Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích tài chính
0 p | 435 | 147
-
Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích tình hình tài chính Công ty Cổ phần Công nghệ Tân Doanh
78 p | 319 | 142
-
báo cáo tốt nghiệp:"Phân tích tình hình cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh"
59 p | 627 | 139
-
Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích hiệu quả kinh doanh tại Công ty TNHH MTV dịch vụ Vico Việt Nam
85 p | 481 | 131
-
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP: "Phân tích tình hình thực hiện doanh thu bán hàng tại Công ty giầy Thuỵ Khuê"
64 p | 363 | 112
-
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP: "Phân tích các chỉ tiêu lợi nhuận của Công ty đầu tư phát triển xây dựng DIC"
57 p | 263 | 110
-
Báo cáo tốt nghiệp: “Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần Hoá chất VLĐ Đà Nẵng”
26 p | 318 | 92
-
Báo cáo tốt nghiệp: "Phân tích nhu cầu sử dụng vốn cố định tại Công ty Công nghệ phẩm Đà Nẵng"
30 p | 242 | 75
-
Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam thương tín phòng giao dịch Đầm Sen
53 p | 300 | 71
-
Báo cáo tốt nghiệp: “ Phân tích tình hình biến động lợi nhuận của Công ty Xuất nhập khẩu Thuỷ sản Miền Trung”
52 p | 248 | 68
-
Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích tình hình tài chính Công ty Cổ phần Phần mềm D2S
69 p | 261 | 63
-
Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích và thiết kế biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Trung tâm Thực phẩm Dinh Dưỡng – Viện Dinh Dưỡng
30 p | 144 | 14
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn