BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

VŨ HẢI YẾN

THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH

CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Hà Nội, 2020

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

VŨ HẢI YẾN

THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH

CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Chuyên ngành

: Tài chính – Ngân hàng

Mã số

: 9340201

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. GS.TS. NGUYỄN VĂN TIẾN

2. TS. NGUYỄN TUẤN PHƯƠNG

Hà Nội, 2020

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận án

Ổn định và lành mạnh hóa hệ thống tài chính là mục tiêu quan trọng, không chỉ

đem lại lợi ích cho từng quốc gia mà cho toàn bộ thị trường tài chính thế giới. Sự phát

triển của hệ thống tài chính khiến các giao dịch tài chính ngày càng trở nên hiện đại và phức tạp hơn, sự xuất hiện của những định chế đặc biệt quan trọng hệ thống (Systemically

important banks-SIFS), tiềm ẩn nhiều rủi ro, sự thiếu liên kết giữa các chính sách và các

công cụ giám sát phù hợp là nguyên nhân gây bất ổn tài chính, khủng hoảng những năm

90 và năm 2008. Các cuộc khủng hoảng này đã giúp các nhà hoạch định chính sách nhìn

nhận lại mục tiêu điều hành của mình, trong đó, mục tiêu ổn định tài chính, an toàn kinh tế

vĩ mô là vô cùng quan trọng và cần được đặt cạnh mục tiêu lạm phát.

Ổn định tài chính là một mục tiêu đa chiều do mối quan hệ phức tạp giữa các thành

phần trong hệ thống tài chính và với các khu vực bên ngoài, ổn định tài chính khó có thể

được đo lường qua một chỉ tiêu riêng lẻ mà cần một bộ chỉ số với nhiều chỉ tiêu để xác định mức độ ổn định, lành mạnh của các cấu phần trọng yếu. Để giúp đỡ các quốc gia trong công tác đo lường ổn định hệ thống tài chính, IMF, ECB và ADB đã đưa ra các bộ chỉ số giúp đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của từng hệ thống tài chính. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng biệt về tình hình kinh tế, chính trị, cấu trúc

hệ thống tài chính, kỳ vọng thị trường…, vì thế, việc áp dụng bộ chỉ số với tiêu chuẩn quốc tế tại các quốc gia mới nổi nói chung và hệ thống tài chính thiếu hoàn thiện như Việt Nam nói riêng là điều không dễ dàng. Xuất phát từ thực tiễn trên, nghiên cứu sinh lựa chọn chủ đề: “Thiết lập bộ chỉ số xác định mức độ ổn định của hệ thống tài chính Việt Nam” làm đề tài luận án của mình với mong muốn nghiên cứu cơ sở lý luận cũng như kinh nghiệm quốc tế về ổn định tài chính nói chung và các phương thức xác định mức độ ổn định tài chính nói riêng nhằm khuyến nghị thiết lập bộ chỉ số cho Việt Nam. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1. Nghiên cứu quốc tế

Về khái niệm ổn định tài chính. dưới góc độ các tổ chức quốc tế, và WB có đưa ra

định nghĩa như sau: “Ổn định tài chính là điều kiện đạt được khi hệ thống tài chính thực

hiện đầy đủ các chức năng của nó”. Ở một khía cạnh khác, Ngân hàng trung ương châu

Âu (ECB) lại cho rằng, ổn định tài chính sẽ đạt được khi những rủi ro hệ thống được ngăn

chặn. Một số các nghiên cứu khác như De Bandt and Hartmann (2000), Group of Ten

(2001), Hoelscher and Quintyn (2003) và Summer (2003) lại có cách tiếp cận ổn định tài

chính tương tự như ECB khi tập trung vào rủi ro hệ thống. Issing (2003) và Foot (2003) gợi ý rằng, ổn định tài chính liên quan đến bong bóng thị trường tài chính hoặc sự biến động của các chỉ số thị trường tài chính.

2

Về nguyên nhân gây bất ổn tài chính, những nghiên cứu của Houben và cộng sự

(2004), Nier (2009) IMF (2013) đều cố gắng chỉ ra những rủi ro, nguồn gốc bất ổn cho hệ

thống tài chính lần lượt theo các góc độ: bên trong và bên ngoài, vi mô và vĩ mô, theo thời

gian và giữa các khu vực.

Về phương pháp đo lường ổn định tài chính, trong giai đoạn đầu đo lường ổn định tài chính, các quốc gia sử dụng các chỉ tiêu riêng lẻ giúp đánh giá mức độ ổn định trong

từng khu vực của hệ thống (Gadanecz và Jayaram, 2009). Ở giai đoạn sau, các quốc gia và

các nhà nghiên cứu đã kết hợp nhiều chỉ tiêu riêng lẻ và phát triển thành các bộ chỉ số

(Bhattacharyay (2002), Navajas and Thegeya (2013), Indraratna (2013)). Các bộ chỉ số này

giúp đo lường, đánh giá sự lành mạnh, ổn định của hệ thống tài chính theo từng khu vực. Ở

mức độ phát triển cao hơn, các cơ quan điều hành và các nhà nghiên cứu đã kết hợp các chỉ

số này thành một chỉ số tổng hợp duy nhất để đo lường, và phản ánh tức thời sự ổn định

hoặc bất ổn trong hệ thống tài chính (Morris (2010), Cerqueira và Murcia (2015), Akosha,

Loloh, Lawson và Kumah (2018), Illing và Liu (2003), Nelson và Perli (2005), Geršl và Heřmánek (2006), Van den End (2006)). 2.2. Nghiên cứu trong nước

Vấn đề ổn định tài chính tại Việt Nam cũng đã được đề cập đến qua một số các nghiên cứu của các tác giả đến từ các Viện nghiên cứu và Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể,

nghiên cứu Phạm Anh Thái (2014) đề cập đến các vấn đề có thể gây nên bất ổn tài chính tại Việt Nam như: thâm hụt cán cân thương mại và thâm hụt Ngân sách kéo dài, chính sách tài khóa và tiền tệ chưa đồng bộ, giá tài sản tăng cao và sự lên xuống thất thường của tỷ lệ lạm phát. Phạm Tiên Phong (2014) đã phân tích về thực trạng hoạt động giám sát tài chính ở Việt Nam, từ đó đề xuất gợi ý cho khuôn khổ chính sách an toàn vĩ mô của Việt Nam. Trần Lưu Trung và Nguyễn Trung Hậu (2014) đã giúp đánh giá được mức độ ổn định tài chính và từ đó sử dụng các công cụ điều chỉnh phù hợp. Hai tác giả đồng thời cũng giới thiệu và so sánh các bộ chỉ số của IMF, ECB và ADB, từ đó đề xuất một số chỉ số cơ bản với bốn lĩnh vực: ngân hàng, tiền tệ và tín dụng, chứng khoán và các biến số vĩ

mô khác cho Việt Nam khi xây dựng bộ chỉ số an toàn vĩ mô. Nguyễn Đức Thành và Vũ

Minh Long (2014) đã thực hiện đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam thông qua bộ chỉ số

lành mạnh tài chính FSI cốt lõi được gợi ý bởi IMF.

2.3. Khoảng trống nghiên cứu

Từ tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước, có thể thấy việc xây dựng và sử

dụng bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính là rất cấp thiết, và cũng có nhiều

nghiên cứu nước ngoài đề cập đến. Tuy nhiên, các nghiên cứu này tại Việt Nam còn chưa nhiều và vẫn còn tồn tại một số khoảng trống nghiên cứu nhất định: Thứ nhất, về mặt lý luận, các nghiên cứu trước chưa làm rõ cơ sở thiết lập bộ chỉ số

cũng như các tiêu chí khi lựa chọn các chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính.

3

Thứ hai, đo lường ổn định tài chính thông qua bộ chỉ số tồng hợp và xây dựng chỉ

số tổng hợp duy nhất đang là xu hướng được nhiều quốc gia trên thế giới thực hiện, trong

đó có cả các quốc gia đang phát triển có điều kiện tài chính tương đồng với Việt Nam. Tuy

nhiên, các nghiên cứu về điều kiện, cách thức xây dựng, triển khai các bộ chỉ số và chỉ số

tổng hợp duy nhất tại các quốc gia này là còn hạn chế. Thứ ba, các nghiên cứu về đo lường ổn định tài chính tại Việt Nam thông qua bộ

chỉ số hay chỉ số tổng hợp còn rất hạn chế. Nghiên cứu của Phạm Tiên Phong và cộng sự

(2015) đã đưa ra một bộ chỉ số an toàn vĩ mô cho Việt Nam với 72 chỉ tiêu. Tuy nhiên,

nhóm tác giả chưa lý giải cơ sở lựa chọn các chỉ số này cũng như chứng minh sự phù hợp

của các chỉ số này với điều kiện của hệ thống tài chính Việt Nam.

Đây là khoảng trống nghiên cứu mà luận án có thể thực hiện nghiên cứu, qua đó,

đưa ra các kiến nghị chính sách phù hợp cho các cơ quan quản lý.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Luận án được thực hiện với mục tiêu chung là xây dựng một bộ chỉ số có khả năng đo lường mức độ ổn định tài chính phù hợp với đặc điểm tài chính Việt Nam, từ đó phát triển thành chỉ số ổn định tài chính tổng hợp duy nhất. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính, cơ

sở xây dựng và ý nghĩa các nhóm chỉ số trong bộ chỉ số của các tổ chức quốc tế (IMF, ADB và ECB) và các chỉ số được sử dụng bởi các quốc gia (Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia) cũng như thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định của hệ thống tài chính tại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu về không gian: ba cấu phần chính là hệ thống ngân hàng, thị

trường tài chính, khu vực kinh tế vĩ mô trong giai đoạn 2008-2018. 5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp định tính: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp , diễn dịch, quy nạp, kết hợp với bảng biểu minh họa để đánh giá thực trạng các rủi ro cho hệ thống tài

chính cũng như mức độ ổn định của các khu vực hệ thống tài chính.

- Phương pháp định lượng: áp dụng phương pháp trọng số cân bằng và phương

pháp phân tích thành tố chính (Principal Component Analysis-PCA). Phương pháp

PCA được sử dụng giúp giảm chiều dữ liệu, chuyển đổi biến cũ trong mối tương quan

tuyến tính với nhiều biến khác thành biến mới ít tương quan, mà vẫn giữ được hàm ý

thông tin, nhằm khái quát khả năng đo lường ổn định tài chính thông qua một chỉ số

tổng hợp duy nhất. 6. Tính mới của luận án

Thứ nhất, về lý luận, luận án hệ thống hóa lý thuyết về ổn định tài chính và quy

trình thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính với bốn bước: nhận diện rủi

4

ro, phân nhóm rủi ro, xác định các chỉ tiêu phản ánh rủi ro và thu thập dữ liệu, kiểm định

tính phù hợp của chỉ tiêu.

Thứ hai, luận án đã thực hiện tổng hợp các kinh nghiệm thiết lập bộ chỉ số đo lường

ổn định tài chính tại một số quốc gia, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam trong việc thiết

lập và lựa chọn các chỉ số phù hợp với điều kiện để đo lường ổn định tài chính. Thứ ba, luận án thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định của hệ thống tài chính

Việt Nam gắn với điều kiện kinh tế - tài chính hiện nay.

Thứ tư, luận án đưa khuyến nghị tính toán chỉ số ổn định tài chính tổng hợp dựa

trên bộ chỉ số gợi ý cho cơ quan điều hành.

Thứ năm, luận án cũng xây dựng hệ thống khuyến nghị cho các cơ quan điều hành

để nâng cao hiệu quả công tác đo lường ổn định hệ thống tài chính.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án bao

Chương 1: Cơ sở lý luận về thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Chương 2: Thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính – Kinh nghiệm

gồm 4 chương: quốc tế và bài học cho Việt Nam Chương 3: Thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam

Chương 4: Một số khuyến nghị về thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài

chính Việt Nam

5

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN

ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

1.1. Khái quát chung về hệ thống tài chính

1.1.1. Khái niệm hệ thống tài chính

Hệ thống tài chính là một tổng thể bao gồm các chủ thể dư thừa và thiếu hụt vốn, các tổ chức và thị trường tài chính, các cơ quan quản lý giám sát hoạt động với mục tiêu

luân chuyển và phân bổ vốn hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

1.1.2. Phương thức luân chuyển vốn trong hệ thống tài chính

Phương thức luân chuyển vốn trực tiếp

Phương thức luân chuyển vốn gián tiếp

1.1.3. Cấu trúc hệ thống tài chính

Hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng

Hệ thống tài chính dựa vào thị trường

1.2. Những vấn đề cơ bản về ổn định tài chính 1.2.1. Khái niệm ổn định tài chính

Ổn định tài chính là ổn định hệ thống tài chính, là đảm bảo hệ thống tài chính có

thể thực hiện đầy đủ, liên tục và trơn tru các chức năng của nó. 1.1.2. Đặc điểm ổn định tài chính

Một là, ổn định tài chính là mục tiêu của chính sách an toàn vĩ mô. Hai là, ổn định tài chính là kết quả tương tác của chính sách an toàn vĩ mô và các

Ba là, ổn định tài chính chỉ được kiểm soát một phần bởi các công cụ chính sách, và

chính sách khác. đôi khi các chính sách này không thực sự thống nhất với nhau.

Bốn là, các chính sách nhằm đạt được ổn định tài chính thường phải đối mặt với sự

đánh đổi giữa khả năng phục hồi và tính hiệu quả. 1.1.3. Nguyên nhân gây mất ổn định hệ thống tài chính

a) Rủi ro hệ thống từ góc độ bên trong và bên ngoài hệ thống

- Rủi ro tổ chức tài chính

- Rủi ro thị trường tài chính

- Rủi ro cơ sở hạ tầng

b) Rủi ro hệ thống từ góc độ vĩ mô và vi mô

c) Rủi ro hệ thống từ góc độ mối liên hệ giữa các rủi ro

1.2. Thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống tài chính

1.2.1. Sự cần thiết xây dựng bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính

- Sự phụ thuộc lẫn nhau và qua lại tương đối phức tạp giữa các thành phần trong hệ

thống tài chính, và giữa hệ thống tài chính với nền kinh tế thực.

6

- Hoạt động của thị trường tài chính và các khu vực tài chính khác có tính chu kỳ,

khó có thể đo lường chu kỳ này thông qua một chỉ tiêu.

- Mối quan hệ phi tuyến giữa các khu vực cùng với việc dẫn truyền các cú sốc từ

khu vực này sang khu vực khác sẽ khiến việc đánh giá mức độ ổn định của hệ thống tài

chính trở nên khó khăn hơn.

- Khu vực tài chính và nền kinh tế có mối liên hệ chéo với nhau, và mức độ ảnh

hưởng của các thành phần tài chính này đến nền kinh tế thực là khác nhau.

1.2.2. Quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống tài chính

Bước 1: Nhận diện rủi ro

Bước 2: Phân nhóm các rủi ro

Bước 3: Xác định các chỉ số đại diện cho rủi ro

Bước 4: Thu thập số liệu và kiểm định tính phù hợp của chỉ số

Hình 1.5. Quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính

Bước 1: Nhận diện rủi ro (i) Những rủi ro từ môi trường bên ngoài - Điều kiện tài chính toàn cầu khó khăn

- Tăng trưởng kinh tế toàn cầu suy giảm - Bất ổn an ninh mạng trên hạ tầng thanh toán quốc tế - Bất ổn chính trị, chiến tranh thương mại, thiên tai, dịch bệnh

- Tăng trưởng kinh tế suy giảm, lạm phát gia tăng, nợ công tăng cao, thâm hụt cán

cân vãng lai, biến động tỷ giá, lãi suất…

(ii) Những rủi ro từ môi trường bên trong - Tăng trưởng tín dụng nóng, mức độ tập trung tín dụng cao, tín dụng gia tăng cho

lĩnh vực chứng khoán và bất động sản, tăng trưởng tín dụng tiêu dùng với lãi suất cao…

- Mất cân bằng trong kỳ hạn bảng cân đối, chênh lệch lớn giữa giá trị tài sản và nợ

bằng nội tệ, ngoại tệ…

- Mối liên hệ chặt chẽ giữa các tổ chức tài chính

- Sự phát triển của hệ thống ngân hàng ngầm

Bước 2: Phân nhóm các rủi ro

7

Bảng 1.4. Phân nhóm các rủi ro cho ổn định hệ thống tài chính

Phân loại Nguy cơ được nhận diện Tính chất Khu vực Loại rủi ro

Vĩ mô Bên ngoài - RR thanh khoản - RR ngoại hối - RR tín dụng

Vĩ mô Kinh tế thực - RR tín dụng - RR thanh khoản - RR lãi suất

- Điều kiện tài chính toàn cầu suy giảm - Điều kiện kinh tế suy giảm (tăng trưởng giảm) - Gia tăng toàn cầu hóa/ Hoạt động giao thương/ Hội nhập tài chính/ Luân chuyển dòng tiền - Phát triển công nghệ, phát minh tài chính - Tấn công mạng, hạ tầng thanh toán giao dịch quốc tế - Mất cân bằng vĩ mô - Tính thuận chu kỳ tăng - Biến động lớn trong tỷ giá, lãi suất, cung tiền

Vĩ mô Doanh nghiệp và hộ gia đình gia tăng nợ nần - RR tín dụng Doanh nghiệp và hộ gia đình

Vĩ mô Thị trường tài chính - RR bong bóng vỡ - RR thanh khoản

Vi mô Ngân hàng

- RR tín dụng - RR thanh khoản - RR ngoại hối - RR lãi suất - RR danh tiếng - RR hoạt động

- Gia tăng nhu cầu tài trợ vốn trên thị trường liên ngân hàng - Quy mô thị trường tài chính phát triển quá nhanh (thị trường chứng khoán) - Thay đổi lớn trong giá tài sản - Mức độ tập trung cao - Tăng trưởng tín dụng, tập trung tín dụng - Mất cân bằng trên bảng cân đối - Mối liên kết giữa các tổ chức tài chính - Gia tăng hoạt động ngân hàng ngầm - An ninh mạng hệ thống thanh toán, công nghệ

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

8

Bước 3: Xác định các chỉ số đại diện cho rủi ro

Đối với hướng tiếp cận vi mô

a) Bộ chỉ số lành mạnh tài chính của IMF (Financial Soundness Indicators-

FSIs)

Trên cơ sở đo lường các rủi ro vi mô tổng hợp mà cá nhân từng tổ chức tài chính

(chủ yếu là ngân hàng) phải đối mặt bao gồm: rủi ro tín dụng, thanh khoản, lãi suất, ngoại

hối…, bộ chỉ số FSIs lựa chọn các chỉ số cơ bản dựa trên các phương diện của mô hình

CAMELS:

(1) Các chỉ số an toàn vốn

(2) Các chỉ số chất lượng tài sản

(3) Các chỉ số khả năng sinh lời

(4) Các chỉ số thanh khoản

(5) Các chỉ số nhạy cảm với rủi ro thị trường

Bộ chỉ số cơ bản cũng chỉ dành một chỉ tiêu cho thị trường bất động sản bởi mối

quan hệ mật thiết giữa những thay đổi trong giá nhà ở với tăng trưởng tín dụng của hệ

thống ngân hàng.

b) Bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ECB (Macro Prudential Indicators-MPIs)

Tương tự như bộ chỉ số của IMF, bộ chỉ số của ECB cũng thực hiện đo lường rủi ro

vi mô của khu vực ngân hàng trên các khía cạnh tương tự như mô hình CAMELS, nhưng

chi tiết hơn (Mörttinen và cộng sự, 2005).

- Nhóm nhân tố bên trong: đo lường nguy cơ rủi ro của hệ thống ngân hàng.

(1) Các chỉ số khả năng sinh lời, chất lượng bảng cân đối và an toàn vốn

(2) Các chỉ số cung và cầu

(3) Các chỉ số tập trung rủi ro

(4) Các chỉ số đánh giá rủi ro thị trường

- Nhóm nhân tố bên ngoài:

(5) Các chỉ số đổ vỡ tài chính

(6) Các chỉ số phát triển giá tài sản

(7) Các chỉ số điều kiện tiền tệ và chu kỳ kinh tế

- Nhóm nhân tố lan truyền

(8) Các chỉ số thị trường liên ngân hàng

9

Đối với hướng tiếp cận vĩ mô

c) Bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ADB (Macroprudential Indicators-MPIs)

Bộ chỉ số của ADB bao gồm 67 chỉ số an toàn vĩ mô chung và 43 chỉ số an toàn vĩ

mô bổ sung (Phụ lục 3) được chia thành các nhóm sau:

(1) Nợ nước ngoài và các dòng vốn đầu tư

(2) Tiền tệ và tín dụng

(3) Ngân hàng

(4) Lãi suất

(5) Thị trường cổ phiếu

(6) Thương mại, tỷ giá và dự trữ ngoại hối

(7) Dữ liệu khảo sát doanh nghiệp

Bộ chỉ số MPIs của ADB theo hướng tiếp cận vĩ mô, xem xét đánh giá mức độ lành

mạnh của nhiều lĩnh vực trong tổng thể nền kinh tế, và ngân hàng chỉ là một trong các lĩnh

vực được xem xét đến.

Bước 4: Thu thập số liệu và kiểm định tính phù hợp của chỉ số đại diện rủi ro

- Các chỉ số nên có khả năng cảnh báo sớm, cung cấp những thông tin về nguy cơ

khủng hoảng, đổ vỡ tài chính.

- Các chỉ số được chứng minh là có ý nghĩa và phù hợp trong các nghiên cứu trước

đó, phù hợp với thực tế lịch sử.

- Dữ liệu tính toán chỉ số cần được thu thập từ những nguồn đáng tin cậy và với tần

suất thời gian thống nhất.

TÓM TẮT CHƯƠNG 1

Trong chương 1, luận án đã hệ thống hóa những lý luận chung về ổn định tài chính

trên một số khía cạnh: khái niệm, đặc điểm, cũng như nguyên nhân gây mất ổn định cho

hệ thống tài chính. Trong phần 2 của chương 1, thông qua việc tìm hiểu các bộ chỉ số đo

lường ổn định hệ thống tài chính được gợi ý bởi các tổ chức quốc tế, nghiên cứu sinh tổng

kết được quy trình thiết lập bộ chỉ số với 4 bước cơ bản: (i) nhận diện các rủi ro cho hệ

thống tài chính; (ii) phân nhóm các rủi ro; (iii) xác định các chỉ số đại diện cho các nhóm

rủi ro; và (iv) thu thập số liệu và kiểm định tính phù hợp của chỉ số đại diện rủi ro. Đây là

khung lý thuyết cơ bản và nền tảng giúp nghiên cứu sinh thực hiện phần kinh nghiệm xây

dựng bộ chỉ số tại một số quốc gia cũng như phân tích thực trạng thiết lập và đo lường ổn

định hệ thống tài chính tại Việt Nam trong các chương tiếp theo.

10

CHƯƠNG 2: THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI

CHÍNH – KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

2.1. Cơ sở lựa chọn quốc gia nghiên cứu

Một là, bốn quốc gia đại diện cho các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau. Bên cạnh đó, Anh là điển hình cho hệ thống tài chính dựa vào thị trường còn Trung Quốc, Hàn Quốc

và Indonesia là các quốc gia có cấu trúc tài chính dựa vào ngân hàng. Thông qua việc

nghiên cứu về các quốc gia này, tác giả có thể khái quát được những khác biệt về kinh tế

và tài chính đặc thù ảnh hưởng như thế nào đến cách thức lựa chọn, xây dựng bộ chỉ số đo

lường ổn định hệ thống tài chính.

Hai là, Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia đều là những nước trong khu vực châu

Á, có những đặc điểm về kinh tế và tài chính tương đồng với Việt Nam như đều là các

quốc gia đang phát triển, có tốc độ mở cửa và hội nhập nhanh chóng với thế giới. Chính vì

vậy, những cú sốc hay rủi ro từ môi trường vĩ mô bên ngoài ảnh hưởng đến các quốc gia này cũng có tác động tương tự với Việt Nam 2.2. Kinh nghiệm quốc tế về đo lường ổn định hệ thống tài chính 2.2.1. Kinh nghiệm của Anh 2.2.1.1. Đặc điểm hệ thống tài chính

Hệ thống tài chính Anh là hệ thống tài chính dựa vào thị trường, phát triển ở cấp độ

cao và có sự kết nối toàn cầu.

Hệ thống ngân hàng Anh có mức độ tập trung nhưng áp lực cạnh tranh ngày càng

Thị trường tài chính phát triển ở cấp độ cao, đa dạng và hoàn thiện. Ngân hàng trung ương Anh có tính độc lập cao, thực hiện giám sát toàn bộ hệ thống

có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây. tài chính.

Anh có hệ thống giám sát hợp nhất, trong đó Ngân hàng trung ương Anh chịu trách

nhiệm giám sát toàn bộ hệ thống tài chính.

2.2.1.2. Đo lường ổn định hệ thống tài chính

a) Nhận diện rủi ro hệ thống tài chính Anh

Ở Anh, rủi ro hệ thống chủ yếu đến từ 4 lĩnh vực: rủi ro từ thị trường cho vay thế

chấp BĐS, tín dụng tiêu dùng, rủi ro từ môi trường kinh doanh toàn cầu, sự thay đổi giá

tài sản (lãi suất dài hạn), trong đó đánh giá và hạn chế rủi ro từ thị trường cho vay thế

chấp và thị trường cho vay tiêu dùng là mối quan tâm hàng đầu của các cơ quan quản lý

tại Anh. b) Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Anh

Ủy ban chính sách tài chính FPC nhận diện thị trường cho vay thế chấp và cho vay

tiêu dùng là hai nguy cơ rủi ro lớn nhất đối với hệ thống tài chính, và đây là những rủi ro

11

vi mô, xuất phát từ khu vực ngân hàng và thị trường bất động sản. Chính vì vậy, PFC

quyết định sử dụng các công cụ để điều chỉnh, can thiệp vào hai khu vực chính yếu này.

Ủy ban chính sách tài chính PFC

Tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ CCyB

Tỷ lệ đệm vốn theo lĩnh vực SCRs

Công cụ điều chỉnh BĐS

BỘ CHỈ SỐ: - Độ căng BCĐ tổ chức cho vay và người đi vay - Điều kiện và kì hạn thị trường

BỘ CHỈ SỐ: - Độ căng BCĐ phi ngân hàng - Độ căng BCĐ ngân hàng - Điều kiện và kỳ hạn thị trường

BỘ CHỈ SỐ: - Độ căng BCĐ phi ngân hàng - Điều kiện và kỳ hạn thị trường - Độ căng BCĐ ngân hàng

Các tổ chức tài chính (Ngân hàng)

Người đi vay (Cá nhân, doanh nghiệp)

Hình 2.7. Các công cụ và chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Anh

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Bộ chỉ số cơ bản Đệm vốn phản chu kỳ (CCyB) (i) Nhóm thứ nhất thực hiện đo lường độ căng bảng cân đối phi ngân hàng. Trong nhóm này, FPC thực hiện đo lường tốc độ tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ tín dụng/GDP và chênh lệch giữa tỷ lệ này với xu hướng tín dụng/GDP trong dài hạn.

(ii) Nhóm thứ hai thực hiện đo lường điều kiện và kỳ hạn của thị trường. Các chỉ

số trong nhóm này liên quan đến lãi suất thực dài hạn và chênh lệch lãi suất ngân hàng áp dụng đối với các khoản cho vay mới đối với hộ gia đình và doanh nghiệp.

(iii) Nhóm thứ ba thực hiện đo lường độ căng bảng cân đối ngân hàng, trong đó ghi

nhận mức đòn bẩy và chênh lệch kỳ hạn/ thanh khoản trong hệ thống ngân hàng.

Bộ chỉ số cơ bản Đệm vốn theo lĩnh vực (SCRs)

Đối với nhóm chỉ số đo lường độ căng bảng cân đối ngân hàng: hai chỉ số tỷ lệ an

toàn vốn và tỷ lệ đòn bẩy là rất quan trọng, bởi chúng là cơ sở giúp FPC cân nhắc xem

liệu có nên điều chỉnh tỷ lệ SCRs hay không.

12

Đối với nhóm chỉ số đo lường độ căng bảng cân đối phi ngân hàng: chỉ số tăng

trưởng tín dụng theo lĩnh vực/ ngành là chỉ số đầu tiên phải xem xét đến.

Đối với nhóm chỉ số đo lường điều kiện và kỳ hạn thị trường: chỉ số đầu tiên cần

quan tâm trong nhóm này là giá bất động sản thương mại và nhà ở.

Bộ chỉ số cơ bản công cụ nhà ở  LTV là tỷ lệ giá trị cho vay thế chấp trên giá trị tài sản đảm bảo  DTI là tỷ lệ dư nợ của người đi vay trên thu nhập hàng năm của người đó.  ICRs là tỷ lệ thu nhập dự kiến từ việc cho thuê nhà trên lãi suất dự kiến phải trả

cho khoản vay thế chấp mua nhà

2.2.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trung Quốc có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng với sự tăng trưởng mạnh mẽ

2.2.2.1. Đặc điểm hệ thống tài chính cả về quy mô và độ phức tạp.

Hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung cao Thị trường tài chính có quy mô lớn nhưng thiếu ổn định, chưa thể hiện được vai trò

NHTW (PBC) và Ủy bản giám sát chứng khoán (CSRC) là hai cơ quan giám sát

quan trọng trong dẫn truyền vốn cho các doanh nghiệp. hoạt động của hệ thống tài chính

Tăng trưởng tín dụng nóng và sự phát triển nhanh chóng của khu vực ngân hàng

2.2.2.2. Đo lường ổn định hệ thống tài chính a) Nhận diện rủi ro hệ thống ngầm là nguy cơ rủi ro hệ thống chính của Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay. b) Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Trung Quốc Đối với hệ thống ngân hàng, PBC sử dụng một bộ chỉ số đo lường sự lành mạnh của hệ thống bằng các chỉ tiêu sinh lời, tài sản, nợ, vốn và thanh khoản, khá tương đồng với bộ chỉ số FSIs của IMF. Đối với thị trường tài chính, PBC sử dụng các chỉ số căng thẳng của từng thị

trường: thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu, thị trường chỉ số tổng hợp Thượng Hải và

thị trường ngoại hối.

Đối với hoạt động ngân hàng ngầm, đo lường qua phương pháp khấu trừ.

c) Các bài kiểm tra sức chịu đựng

2.2.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc

2.2.3.1. Đặc điểm hệ thống tài chính

Hệ thống tài chính Hàn Quốc là hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng, mặc dù tỷ

trọng tài sản của nhóm tổ chức này có xu hướng giảm qua các năm. Quy mô thị trường tài chính Hàn quốc tăng đều qua các năm.

Hàn Quốc có hệ thống giám sát hợp nhất.

13

NHTW Hàn Quốc chịu trách nhiệm thực thi mục tiêu ổn định tài chính.

2.2.3.2. Đo lường ổn định hệ thống tài chính

a) Nhận diện rủi ro hệ thống tài chính Hàn Quốc

Với đặc điểm cấu trúc tài chính dựa vào ngân hàng, các nguy cơ rủi ro chủ yếu cho

hệ thống tài chính Hàn Quốc đến từ khu vực ngân hàng. Để đo lường các nguy cơ rủi ro từ hoạt động ngân hàng, BOK đã áp dụng bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs của IMF cho

hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, với mức độ phát triển và mở cửa nền kinh tế, tự do hóa

dòng vốn nhanh chóng, hệ thống tài chính Hàn Quốc cũng phải đối mặt với những rủi ro

từ những cú sốc khu vực bên ngoài, khu vực doanh nghiệp, thị trường tài chính…

b) Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Hàn Quốc

Theo hướng dẫn của IMF, Hàn Quốc thực hiện tính toán và công bố đều đặn 35 chỉ

số lành mạnh tài chính cho các nhóm tổ chức nhận tiền gửi, các tổ chức tài chính khác,

doanh nghiệp, hộ gia đình, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản.

c) Chỉ số ổn định tài chính tổng hợp (financial stability index – FSI) Bắt đầu từ năm 2012, BOK đã phát triển chỉ số tổng hợp FSI bằng cách tổng hợp rất nhiều các chỉ số ổn định tài chính thành một chỉ số duy nhất, và chỉ số này được sử dụng để đánh giá nhanh điều kiện tài chính chung của Hàn Quốc. Quy trình thiết lập chỉ số ổn định tài chính duy nhất bao gồm 5 bước:

- Bước 1: Kiểm tra các chỉ tiêu ổn định tài chính phù hợp. - Bước 2: Thực hiện khảo sát. - Bước 3: Lựa chọn các chỉ số. - Bước 4: Tính toán tỷ trọng của các chỉ tiêu. + Phương pháp bình quân phương sai cân bằng

Bình quân gia quyền = (Giá trị đo được × w)

Trong đó: w = / ∑

SDi: độ lệch chuẩn của giá trị đo đượci

+ Phương pháp phân tích thành phần chính.

Bình quân gia quyền = (Giá trị đo được × w)

Trong đó: w = a/ ∑ a ai: vector riêng của giá trị đo đượci

- Bước 5: Thiết lập chỉ số FSI.

- Bước 6: Xác định giá trị ngưỡng cảnh báo khủng hoảng của chỉ số FSI  Nếu FSI nằm dưới mức 8 thì giai đoạn này được coi là ổn định.  Nếu FSI nằm từ mức 8 – 22 thì đây là giai đoạn cảnh báo.  Nếu FSI nằm trên mức 22 thì đây là giai đoạn khủng hoảng.

14

d) Bản đồ ổn định tài chính (Financial Stability Map)

2.2.3. Kinh nghiệm của Indonesia

2.2.3.1. Đặc điểm hệ thống tài chính

Hệ thống tài chính của Indonesia là tương đối nhỏ và dựa vào ngân hàng.

Các tập đoàn tài chính đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống tài chính

Indonesia.

Hệ thống ngân hàng tại Indonesia không có mức độ tập trung cao như các quốc gia

mới nổi khác nhưng các ngân hàng thương mại của nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể.

Rủi ro hệ thống ở mức thấp và hệ thống ngân hàng được đánh giá là lành mạnh và

ổn định, có khả năng chống đỡ trước các cú sốc nghiêm trọng.

Thị trường vốn được đánh giá là tương đối nhỏ, chịu ảnh hưởng lớn bởi các nguồn

vốn bên ngoài khiến thị trường lại càng nhạy cảm hơn với những biến động toàn cầu.

Indonesia có hệ thống giám sát phân tán với sự tham gia chính của Ngân hàng trung

ương và Cơ quan dịch vụ tài chính (Financial Service Authority-FSA).

NHTW Indonesia chịu trách nhiệm thực thi mục tiêu ổn định tài chính trên cơ sở

phối hợp với các cơ quan khác. 2.2.3.2. Đo lường ổn định hệ thống tài chính a) Nhận diện rủi ro hệ thống tài chính Indonesia

Đối với Indonesia, NHTW nhận diện rủi ro cho hệ thống tài chính có thể đến từ 4 khu vực chính: tổ chức tài chính, thị trường tài chính, khu vực kinh tế vĩ mô và khu vực kinh tế thực. b) Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Indonesia

Bộ chỉ số này được chia thành 4 nhóm chỉ số chính: - Nhóm chỉ số giám sát an toàn vi mô tổng hợp, áp dụng với từng tổ chức, thực hiện giám sát rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro hệ thống với quan điểm ngăn ngừa sự lan truyền có thể ảnh hưởng đến hệ thống tài chính, các doanh nghiệp và hộ gia đình.

- Nhóm chỉ số kinh tế vĩ mô

- Nhóm chỉ số thị trường tài chính

- Nhóm chỉ số khu vực kinh tế thực bao gồm doanh nghiệp và hộ gia đình.

c) Chỉ số ổn định hệ thống tài chính (Financial System Stability Index-FSSI)

Chỉ số FSSI được xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa hai nhóm nhân tố chính, hệ

thống ngân hàng (chiếm hơn 77% tổng tài sản các tổ chức tài chính) và thị trường tài

chính, hai khu vực tiềm ẩn rủi ro và biến động nhiều nhất. Quy trình xây dựng chỉ số FSSI như sau:

- Bước 1: Lựa chọn các chỉ số đưa vào mô hình

- Bước 2: Chuẩn hóa dữ liệu

15

- Bước 3: Xác định tỷ trọng của từng biến số trong chỉ số tổng hợp: thông

qua phương pháp phân tích bước ngoặt (Turning Point Analysis-TPA).

- Bước 4: Tổng hợp chỉ số ổn định hệ thống tài chính FSSI

- Bước 5: Xác định ngưỡng

d) Các bài kiểm tra sức chịu đựng (Stress tests) 2.3. Bài học cho Việt Nam

Một là, đặc điểm hệ thống tài chính và bối cảnh kinh tế vĩ mô là cơ sở xác định các

nguy cơ rủi ro cho hệ thống tài chính.

Hai là, bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính có thể được thiết lập căn cứ

vào khu vực tiềm ẩn rủi ro chính yếu của hệ thống hoặc công cụ điều chỉnh rủi ro.

Ba là, nên thiết kế bộ chỉ số với những chỉ số cơ bản để đo lường, giám sát khu vực

quan trọng và chỉ số bổ sung cho những khu vực ít rủi ro hơn.

Bốn là, tùy thuộc vào đặc điểm hệ thống tài chính và mục tiêu giám sát, các quốc

gia có thể đánh giá mức độ ổn định hệ thống tài chính thông qua các bộ chỉ số lành mạnh tài chính hoặc xây dựng chỉ số ổn định tài chính riêng, hoặc kết hợp cả hai phương thức này.

Năm là, hiệu ứng lan truyền của trong hệ thống ngân hàng là vô cùng mạnh mẽ nên các chỉ tiêu đo lường mức độ vay mượn, phụ thuộc lẫn nhau giữa các ngân hàng là rất

quan trọng bên cạnh các chỉ số rủi ro cơ bản.

Sáu là, việc lựa chọn các chỉ số ổn định tài chính cần dựa trên các tiêu chí: (i) Mức độ quan trọng và khả năng phản ánh bất ổn tài chính của chỉ số; (ii) Sự đầy đủ và sẵn có của các dữ liệu giúp tính toán chỉ số; (iii) Tính toàn diện của bộ chỉ tiêu đánh giá; và (iv) Căn cứ vào công cụ thực thi chính sách định áp dụng.

TÓM TẮT CHƯƠNG 2 Trong chương 2, luận án đã phân tích kinh nghiệm đo lường ổn định tài chính tại một số quốc gia với các mức độ phát triển khác nhau (Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc và

Indonesia), để thấy được sự khác biệt về điều kiện kinh tế, mức độ phát triển tài chính, mô

hình tổ chức giám sát hệ thống tài chính ảnh hưởng đến việc lựa chọn các chỉ số và xây

dựng bộ chỉ số đo lường ổn định. Các phần phân tích kinh nghiệm tập trung vào các nội

dung: đặc điểm hệ thống tài chính, các rủi ro hệ thống, cách thức xây dựng, lựa chọn các

chỉ tiêu vào bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính. Trên cơ sở những kinh nghiệm

này, nghiên cứu sinh rút ra 6 bài học cho Việt Nam trong việc xây dựng bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính cho Việt Nam.

16

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN ĐỊNH HỆ

THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM

3.1. ĐẶC ĐIỂM HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM

3.1.1. Hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng

3.1.2. Hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung cao 3.1.3. Thị trường tài chính chưa hoàn thiện

3.1.4. Hệ thống giám sát phân tán

3.2. THỰC TRẠNG THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH

TẠI VIỆT NAM

3.2.1. Thực trạng tổ chức quản lý

Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thực hiện chức năng ổn định tiền tệ - tài chính.

Hệ thống tài chính được giám sát bởi NHNN và Bộ Tài chính.

Hiệu quả phối hợp quản lý giữa các cơ quan là chưa cao

3.2.2. Thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính 3.2.2.1. Bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs của IMF

Trên cơ sở gợi ý của IMF, Việt Nam đã tính toán một số các chỉ tiêu trong bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs từ năm 2008 và được công bố trên website của IMF. Tuy nhiên, các chỉ số FSIs của Việt Nam không đầy đủ mà chủ yếu tập trung vào đo lường sự ổn định

khu vực ngân hàng. 3.2.2.2. Bộ chỉ số an toàn vĩ mô MPIs của Vụ Ổn định tài chính tiền tệ

Trên cơ sở gợi ý của các tổ chức quốc tế như IMF, ADB và ECB, Vụ Ổn định tài chính tiền tệ thuộc NHNN đã đề xuất một bộ gồm 81 chỉ số phân tích an toàn vĩ mô cho Việt Nam bao gồm được chia thành 13 lĩnh vực chính. Các chỉ số này được đưa vào trong Báo cáo ổn định tài chính do Vụ Ổn định tài chính tiền tệ xuất bản từ năm 2014 nhưng chưa được công bố rộng rãi cho công chúng và nhà đầu tư trên thị trường. Bộ chỉ số đi theo hướng tiếp cận vĩ mô khi đo lường một cách bao quát mức độ lành mạnh của các khu vực trong hệ thống tài chính (ngân hàng, các tổ chức tài chính khác, thị trường chứng

khoán) và các khu vực bên ngoài hệ thống (kinh tế thực, cán cân thanh toán, doanh

nghiệp, hộ gia đình và khu vực bất động sản). Tuy nhiên, bộ chỉ số này được đánh giá là

khá cồng kềnh, khó có thể cập nhật số liệu thường xuyên cũng như phản ánh một cách

nhanh chóng mức độ ổn định hay bất ổn của hệ thống tài chính.

3.2.2.3. Bộ chỉ số giám sát ngân hàng BSIs của Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng

Bộ chỉ số BSIs gồm 112 chỉ tiêu, được chia thành 3 nhóm:

- Các chỉ số giám sát tuân thủ (32 chỉ tiêu). Đối với các chỉ số này, cơ quan thanh tra giám sát căn cứ theo các quy định hiện hành của pháp luật, chỉ thị, thông tư… để đưa ra các ngưỡng giám sát, và kiểm tra xem các TCTD có vi phạm các giá trị ngưỡng hay

không.

17

- Các chỉ số giám sát rủi ro (47 chỉ tiêu bao gồm chỉ tiêu cốt lõi và chỉ tiêu khuyến

khích), nhằm đánh giá rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản và hiệu quả

hoạt động của TCTD.

- Các chỉ số xếp hạng (40 chỉ tiêu).

3.2.3. Thực trạng rủi ro cho hệ thống tài chính Việt Nam

Đối với khu vực ngân hàng: Hoạt động của ngân hàng vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro,

nhưng đối với các NHTM ở Việt Nam, rủi ro chính yếu vẫn là rủi ro tín dụng. Ngoài ra,

những nguy cơ rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, sự suy giảm về lợi nhuận hoặc vốn

cũng là những dấu hiệu cho biết sự thiếu an toàn và lành mạnh trong hoạt động của ngân

hàng.

Đối với khu vực ngân hàng ngầm: mặc dù không phức tạp như Trung Quốc

nhưng cũng có xu hướng phát triển nhanh trong những năm gần đây.

Đối với khu vực thị trường tài chính: Trong khoảng 5 năm, từ 2006 đến 2011, thị

trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua 2 lần giảm điểm nghiêm trọng, gây suy yếu và gia tăng rủi ro cho hệ thống tài chính vào năm 2009 và năm 2011.

Đối với các khu vực khác - Lạm phát tăng cao trong năm 2008 và 2011 do những tác động bên ngoài (giá cả thế giới, luồng vốn đầu tư nước ngoài,…) và do cả những mất cân bằng trong nội tại nền

kinh tế (tăng trưởng tín dụng cao, đầu tư công kém hiệu quả…) gây bất ổn định cho môi trường kinh tế vĩ mô.

- Nợ công có xu hướng gia tăng đều đặn qua các năm và đã gần chạm đến ngưỡng

65% GDP theo quy định của Quốc hội.

- Thị trường bất động sản trong thời kỳ này cũng trải qua giai đoạn tăng trưởng

nóng, suy giảm, đóng băng và phục hồi 3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM 3.3.1. Thành công

Thứ nhất, Chính phủ nhận thức được tầm quan trọng của mục tiêu ổn định tài chính

và đã ban hành Nghị định xác định và giao phó nhiệm vụ đảm bảo ổn định tài chính đối

phó với khủng hoảng cho NHNN bằng cách thành lập một đơn vị mới (Vụ Ổn định tiền tệ

- tài chính) nằm trong NHNN.

Thứ hai, cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các đơn vị, cơ quan quản lý tham

gia vào công tác giám sát đảm bảo ổn định hệ thống tài chính đã cụ thể hóa thông qua các

văn bản pháp lý chính thức từ Chính phủ, Bộ Tài chính, NHNN, Bộ Kế hoạch đầu tư và Bộ Công Thương. Thứ ba, bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính của Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính đã

được hình thành, làm cơ sở cho phát hành Báo cáo ổn định tài chính.

18

Thứ tư, hệ thống ngân hàng – cấu phần quan trọng nhất của hệ thống tài chính Việt

Nam cũng đặc biệt được theo dõi, giám sát thông qua bộ chỉ số MPIs của Vụ Ổn định tiền

tệ - tài chính và bộ chỉ số riêng của Cơ quan thanh tra giám sát.

3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

3.3.2.1. Những hạn chế Một là, bộ chỉ số BSIs với số lượng chỉ số lớn, chỉ tập trung đánh giá sự ổn định

riêng lẻ của từng tổ chức, nhóm tổ chức chứ chưa đánh giá được rủi ro theo thời gian, rủi

ro do sự liên kết giữa các ngân hàng.

Hai là, bộ chỉ số MPIs của Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính khá cồng kềnh và khó cập

nhật số liệu thường xuyên. Một số các chỉ tiêu quan trọng chưa được đề cập trong bộ chỉ

số này.

Ba là, chưa có phương án xây dựng chỉ số ổn định tài chính tổng hợp để phán ánh

một cách nhanh chóng mức độ ổn định của hệ thống tài chính.

Bốn là, báo cáo ổn định tài chính sau nhiều năm nghiên cứu vẫn chưa được công bố

chính thức cho thị trường và các nhà đầu tư. 3.3.2.2. Nguyên nhân Thứ nhất, NHNN khi không có cơ chế giám sát trực tiếp đến các mảng hoạt động khác của hệ thống tài chính như chứng khoán, bảo hiểm, thị trường bất động sản…, khó

Thứ hai, vụ Ổn định tiền tệ - ngân hàng bị hạn chế quyền lực trong việc huy động

Thứ ba, cơ quan điều hành chưa xây dựng một khung điều hành nhằm thực hiện

khăn trong việc thu thập thông tin và dữ liệu. nguồn lực, dữ liệu, thông tin từ các đơn vị khác trong và ngoài NHNN. mục tiêu ổn định tài chính về mặt pháp lý. Thứ tư, những khu vực tiềm ẩn rủi ro gây bất ổn định như các tổ chức tài chính quan trọng trong hệ thống hay khu vực ngân hàng ngầm cũng chưa được quy định cụ thể về khái niệm, tiêu chí xác định, trách nhiệm giám sát, công cụ đo lường và giám sát… Thứ năm, cơ sở dữ liệu thông tin còn hạn chế, chưa có trung tâm thông tin dữ liệu

mang tính tổng hợp, chính xác và cập nhật cao.

Thứ sáu, hệ thống tài chính chưa phát triển, sự hạn chế về trình độ dân trí và kiến

thức tài chính của nhà đầu tư khiến hệ thống dễ bị tổn thương

TÓM TẮT CHƯƠNG 3

Trong chương 3, luận án đã thực hiện phân tích đặc điểm hệ thống tài chính Việt

Nam trên các khía cạnh: xác định cấu trúc hệ thống tài chính, đặc điểm của hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính, đặc điểm về hệ thống giám sát và vị trí, vai trò của NHNN trong điều hành. Những đặc điểm này khá tương đồng với ba quốc gia được nghiên cứu ở

chương 2 là Trung Quốc, Indonesia và Hàn Quốc và vì thế, việc xây dựng bộ chỉ số đo

19

lường ổn định tài chính của Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm từ hai quốc gia này.

Phần 2 của chương 3, nghiên cứu sinh cũng tìm hiểu, phân tích thực trạng triển khai công

tác thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính của Việt Nam hiện nay trong đó

tập trung vào tổ chức quản lý công tác này và thực tế đo lường. Trên cơ sở đó, luận án đưa

ra những đánh giá về những thành công và hạn chế của hoạt động đo lường ổn định tài chính nói chung và việc thiết lập bộ chỉ số nói riêng trong giai đoạn vừa rồi.

20

CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG

ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM

4.1. THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM

4.1.1. Nhận diện rủi ro cho hệ thống tài chính Việt Nam Từ đánh giá của IMF kết hợp với những phân tích về những đặc điểm và thực trạng hoạt động của hệ thống tài chính Việt Nam có thể nhận diện nguy cơ rủi ro cho hệ thống

đến từ ba khu vực chính:

- Khu vực kinh tế vĩ mô:

 Nguy cơ bất ổn vĩ mô do tình trạng thâm hụt ngân sách cùng với tình trạng

vay mượn của Chính phủ ở mức cao.

 Lạm phát gia tăng và khó kiểm soát

 Nguy cơ bùng nổ và vỡ bong bóng thị trường bất động sản

- Khu vực ngân hàng:

 Rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng khi chênh lệch tín dụng/GDP ở mức cao, rủi ro tập trung khi cho vay thị trường bất động sản, cho vay tiêu dùng.

 Chất lượng vốn thấp, hệ số an toàn vốn suy giảm.

 Sự phát triển của hệ thống ngân hàng ngầm, chưa được kiểm soát.

 Rủi ro thanh khoản do cơ cấu tài sản chưa hợp lý

- Khu vực thị trường tài chính: Nguy cơ bùng nổ và vỡ bong bóng thị trường chứng

khoán, thị trường bị thao túng, báo cáo tài chính chưa minh bạch. 4.1.2. Lựa chọn các chỉ đo lường số ổn định hệ thống tài chính Việt Nam 4.1.2.1. Căn cứ lựa chọn các chỉ số

Một là, mức độ quan trọng và khả năng phản ánh bất ổn tài chính của chỉ số. Hai là, sự đầy đủ và sẵn có của các dữ liệu. Ba là, tính toàn diện của bộ chỉ tiêu đánh giá. Bốn là, mối liên hệ với công cụ thực thi chính sách.

4.1.2.2. Thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam

Bảng 4.1. Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam

TT Chỉ tiêu Cách tính

Hệ thống ngân hàng

1 Tăng trưởng tín dụng Chênh lệch tăng trưởng tín dụng/ GDP với xu

nóng (Tín dụng/ GDP) hướng dài hạn

Tăng trưởng tín dụng Tốc độ tăng trưởng tín dụng so với năm trước 2

Cơ cấu tín dụng Phân bổ dư nợ theo ngành/ Tổng dư nợ 3

Tỷ lệ nợ xấu Dư nợ xấu/ Tổng dư nợ 4

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu Dự phòng/ Dư nợ xấu 5

21

6 Hệ số an toàn vốn CAR Vốn tự có cấp 1/ TSCRR quy đổi

7 Tỷ lệ đòn bẩy ngân hàng Tổng nợ/ vốn chủ sở hữu

8 Tỷ lệ tài sản thanh khoản Tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản

9 Chênh lệch lãi ròng NIM Lãi ròng/ TS sinh lời

10 Tỷ lệ ROE Lợi nhuận/ Vốn chủ sở hữu

Thị trường tài chính

11 Lãi suất liên ngân hàng

12 Tỷ giá bình quân liên

ngân hàng

13 Giá chứng khoán Biến động chỉ số VNIndex

14 Chỉ số thanh khoản thị Giá trị giao dịch thị trường

trường

15 Lãi suất trái phiếu Chính

phủ 5 năm

16 Chỉ số CDS CDS

Kinh tế vĩ mô

17 Tăng trưởng kinh tế Tốc độ tăng trưởng GDP

18 Tỷ lệ lạm phát Thay đổi CPI trung bình so với năm trước

19 Lãi suất Lãi suất cho vay của ngân hàng

20 Tỷ lệ nợ công Nợ công/ GDP

21 Tỷ lệ nợ nước ngoài Nợ nước ngoài/ GDP

22 Chỉ số giá bất động sản

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

4.1.3. Áp dụng bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam 4.1.3.1. Hệ thống ngân hàng

- Nền kinh tế bắt đầu đối mặt với tăng trưởng tín dụng nóng từ năm 2007 và gia

tăng mạnh hơn trong giai đoạn 2008-2010, gây nguy cơ rủi ro tín dụng.

- Tín dụng mở rộng nhanh chóng làm giảm mức độ an toàn vốn của các ngân hàng

trong giai đoạn 2009-2010

- Sau giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng 2009-2010, tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ bao phủ

nợ xấu các năm sau cũng có xu hướng tăng lên và tăng cao nhất vào năm 2012.

- Nợ xấu gia tăng làm suy giảm nghiêm trọng lợi nhuận của các ngân hàng.

- Trong giai đoạn 2008-2011, bên cạnh rủi ro tín dụng, các ngân hàng cũng đồng

thời phải đối mặt với nguy cơ rủi ro thanh khoản

22

- Mặc dù các chỉ số lành mạnh cho thấy sự cải thiện của hệ thống ngân hàng trong

giai đoạn từ 2015 trở lại đây, nhưng vấn đề về tăng trưởng tín dụng nóng và sự thiếu an

toàn vốn vẫn là những nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

4.1.3.2. Thị trường tài chính

- Thị trường tiền tệ liên ngân hàng Giai đoạn 2008-2012 cũng là giai đoạn lãi suất qua đêm liên ngân hàng biến động

mạnh và ở mức cao, thể hiện nguy cơ rủi ro thanh khoản hệ thống.

- Thị trường ngoại tệ

Diễn biến tỷ giá USD/VND trên thị trường ngoại hối cho thấy tỷ giá biến động theo

chiều hướng tăng lên trong các năm qua, và đặc biệt tăng mạnh trong giai đoạn 2007-2011

(tốc độ tăng gần 30%).

- Thị trường cổ phiếu:

Những biến động bất thường của chỉ số giá chứng khoán VN Index trong giai đoạn

2006-2009 chính là dấu hiệu ban đầu của khủng hoảng thị trường chứng khoán và tiếp sau đó là khủng hoảng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng.

- Thị trường trái phiếu chính phủ Lãi suất trái phiếu chính phủ và chỉ số CDS 5 năm tăng mạnh trong năm 2008 và 2011 thể hiện những bất ổn và sự mất niềm tin của nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu

Việt Nam. 4.1.3.3. Khu vực kinh tế vĩ mô

- Bối cảnh kinh tế vĩ mô có những biến động mạnh và rủi ro lớn trong giai đoạn

- Nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam ở mức cao, có xu hướng gia tăng từ

- Thị trường bất động sản trải qua giai đoạn bong bóng và vỡ năm 2007-2009, và ổn

2008-2012, và ổn định dần từ năm 2013 trở lại đây. năm 2012 trở lại đây, là thách thức đối với ổn định tài khóa. định hơn trong năm gần đây nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. 4.2. PHÁT TRIỂN CHỈ SỐ ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH TỔNG HỢP

4.2.1. Phương pháp trọng số cân bằng

- Bước 1: Lựa chọn các chỉ số thành phần.

- Bước 2: Chuẩn hóa các chỉ số: Tác giả áp dụng phương pháp chuẩn hóa min-max,

mỗi chỉ số sẽ được chuyển đổi để nhận giá trị trong khoảng [0;1]

- Bước 3: Xác định trọng số của từng chỉ số thành phần

- Bước 4: Tổng hợp chỉ số FSI theo phương pháp trọng số cân bằng

Chỉ số này càng cao thể hiện tình hình hoạt động của thị trường càng ổn định.

23

0,70

0,64

0,62

0,60

0,60

0,55

0,54

0,54

0,53

0,51

0,50

0,47

0,46

0,40

0,40

0,30

0,20

0,10

0,00

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Hình 4.13. Chỉ số ổn định tài chính FSI theo phương pháp trọng số cân bằng

Nguồn: Tính toán của tác giả

4.2.2. Phương pháp phân tích thành tố chính PCA - Bước 1: Lựa chọn các chỉ số thành phần

- Bước 2: Chuẩn hóa các chỉ số (theo phương pháp Normed Principal component

analysis-Normed PCA)

- Bước 3: Tính toán các thành tố chính theo phương pháp PCA (Principal

component analysis – PCA)

0,28

0,25

0,21

0,16

0,15

0,11

0,06

-0,01

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

-0,16

-0,47

-0,58

0,40 0,30 0,20 0,10 0,00 -0,10 -0,20 -0,30 -0,40 -0,50 -0,60 -0,70

Hình 4.14. Chỉ số ổn định tài chính FSI theo phương pháp PCA

Nguồn: Tính toán của tác giả

4.2.3. Lựa chọn phương pháp phù hợp

Để kiểm định xem phương pháp tổng hợp theo trọng số cân bằng hay phương pháp PCA phù hợp hơn, tác giả thực hiện kiểm tra lỗi loại I (type I Errors) và lỗi loại II (type II Errors), trong đó lỗi loại I là sai số trong đó phương pháp thất bại trong việc nhận diện giai đoạn hay mốc khủng hoảng, lỗi loại II là sai số trong đó phương pháp dự báo nhầm giai đoạn khủng hoảng. Phương pháp tính lỗi này được áp dụng trong điều kiện không có giá trị ngưỡng rõ ràng, khi đó ngưỡng sử dụng là giá trị trung vị trừ một độ lệch chuẩn (S.D) và

24

đây là phương pháp được sử dụng theo gợi ý của Eichengreen, Rose và Wyplosz (1996), Illing và Liu (2003) áp dụng cho NHTW Canada.

Bảng 4.8. Lỗi loại I và lỗi loại II theo phương pháp bình quân và PCA (%)

Phương pháp bình quân gia quyền Phương pháp phân tích thành phần chính PCA Lỗi loại I 50 0 Lỗi loại II 0 11

Nguồn: Tính toán của tác giả Như vậy, cả hai phương pháp này đều có khả năng nhận diện được những dấu mốc căng thẳng, khủng hoảng của hệ thống tài chính, nhưng phương pháp PCA có lỗi loại I thấp hơn và vì thế, đây là phương pháp tác giả khuyến nghị cơ quan quản lý nên nghiên cứu để áp dụng. 4.3. Một số khuyến nghị thực hiện hiệu quả bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống tài chính Việt Nam được đề xuất 4.3.1. Thiết lập khuôn khổ chính sách ổn định tài chính 4.3.1.1. Thiết lập khung chính sách ổn định tài chính 4.3.1.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho chính sách ổn định tài chính

Thứ nhất, bổ sung chức năng ổn định tài chính cho NHNN Thứ hai, thành lập hội đồng ổn định tài chính. Thứ ba, ban hành quy định về giám sát các tổ chức tài chính quan trọng trong hệ

thống (SIFIs)

Thứ tư, ban hành quy định giám sát hệ thống ngân hàng ngầm

4.3.2. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin 4.3.3. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các Bộ, các đơn vị trong NHNN 4.3.4. Nâng cao nhận thức về kinh tế - tài chính cho công chúng

TÓM TẮT CHƯƠNG 4

Trong chương 4, trên cơ sở những hạn chế của công tác đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam là chưa có bộ chỉ số chính thức, nghiên cứu sinh đã đề xuất bộ chỉ số giúp xác định mức độ ổn định của hệ thống tài chính Việt Nam với 22 chỉ tiêu, tập trung vào ba lĩnh vực: hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính và khu vực kinh tế vĩ mô. Luận án thực hiện thu thập số liệu và áp dụng bộ chỉ số để đo lường ổn định hệ thống tài chính trong giai đoạn từ 2008-2018 và nhận thấy rằng giai đoạn có nhiều bất ổn của hệ thống là từ 2008-2011. Dựa trên bộ chỉ số, luận án thực hiện xây dựng chỉ số ổn định tài chính tổng hợp theo hai phương pháp: trọng số cân bằng và phân tích thành phần chính PCA và cũng giúp nhận diện được giai đoạn bất ổn của hệ thống tài chính Việt Nam là 2008-2011. Ngoài đề xuất bộ chỉ số và chỉ số ổn định tổng hợp, luận án cũng đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đo lường ổn định tài chính nói chung và bộ chỉ số nói riêng.

25

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh thực tiễn của Việt Nam, việc nghiên cứu đề tài: “Thiết lập bộ chỉ số

xác định mức độ ổn định của hệ thống tài chính Việt Nam” là thực sự cần thiết và luận

án đã đạt được một số kết quả chính như sau:

Thứ nhất, luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về ổn định tài chính và quy trình

thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính.

Thứ hai, nghiên cứu sinh cũng tìm hiểu kinh nghiệm đo lường cũng như sử dụng

các bộ chỉ số tại bốn quốc gia là Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia. Mỗi quốc gia

có cách thức đo lường ổn định tài chính riêng, có thể là kinh nghiệm quý báu cho Việt

Nam trước khi chính thức thiết lập khuôn khổ chính sách ổn định tài chính và theo đuổi

mục tiêu ổn định hệ thống tài chính.

Thứ ba, luận án đã thực hiện phân tích đặc điểm hệ thống tài chính Việt Nam và

thực trạng triển khai công tác đo lường ổn định tài chính của Việt Nam hiện nay, những rủi ro mà hệ thống phải đối mặt trong thời gian vừa qua, trên cơ sở đó đưa ra những đánh giá về những thành công và hạn chế của hoạt động đo lường ổn định tài chính.

Thứ tư, nghiên cứu sinh đề xuất bộ chỉ số xác định mức độ ổn định của hệ thống tài chính Việt Nam với 22 chỉ số cơ bản, tập trung vào ba khu vực: hệ thống ngân hàng, thị

trường tài chính và khu vực kinh tế vĩ mô. Trên cơ sở bộ chỉ số, nghiên cứu sinh thực hiện xây dựng chỉ số tổng hợp theo hai phương pháp: trọng số cân bằng và phân tích thành phần chính PCA và gợi ý nên áp dụng phương pháp PCAvì có lỗi loại I thấp hơn. Bên cạnh đó, luận án cũng đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả đo lường ổn định hệ thống tài chính như: (i) thiết lập khung chính sách ổn định tài chính; (ii) xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin; (iii) tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị và (iv) nâng cao nhận thức về kinh tế - tài chính cho công chúng.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

A. Bài báo khoa học

1. Vũ Hải Yến, Nguyễn Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Thu Trang, Phạm Thị Lâm Anh, 2019,

The threshold effects of Government’s external debt on economics in emerging countries, Beyond Traditional Probabilistic Method in Economics, Studies in Computational

Intelligence, Vol 809, pp. 440-451, Springer 2019 (SCOPUS Q4)

2. Vũ Hải Yến, 2018, Kinh nghiệm đo lường ổn định tài chính tại các quốc gia mới nổi và

bài học cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng, số 197, trang 59-73.

3. Nguyễn Thị Thu Trang, Vũ Hải Yến, 2018, Đo lường rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng

– Yêu cầu của Basel và khuyến nghị cho Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 14, trang 15-22.

4. Vũ Hải Yến, 2018, Đo lường ổn định tài chính các quốc gia - Kinh nghiệm quốc tế và

bài học cho Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 13, trang 49-56.

5. Vũ Hải Yến, Nguyễn Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Thu Trang, Phạm Thị Lâm Anh, 2018, Xác định ngưỡng nợ nước ngoài của chính phủ Việt Nam và một số khuyến nghị chính sách, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 109, trang 97-112. 6. Vũ Thị Kim Oanh, Vũ Hải Yến, Nguyễn Thị Thu Trang, Bùi Huy Trung, 2018, A Framework for Macro Stress-Testing the Credit Risk of Commercial Banks: The Case of

Vietnam, Asian Social Science, Vol.14, No.2, pp.1-11. 7. Vũ Hải Yến, Trần Thanh Ngân, 2016, Đánh giá hiệu quả chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 20, trang 2-10. 8. Vũ Thị Kim Oanh, Vũ Hải Yến, Nguyễn Thị Thu Trang, Bùi Huy Trung, 2016, Xây dựng mô hình thử sức chịu đựng rủi ro tín dụng từ lý thuyết đến thực tiễn tại Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 19, trang 23-30. 9. Nguyễn Thanh Nhàn, Vũ Hải Yến, Vũ Ngọc Hương, 2016, Impact of Monetary policy on Asset markets: The case of Vietnam, Review of Business and Economics Studies, Vol 4, No 3, pp. 39-52, Financial University, Moscow.

10. Vũ Hải Yến, 2015, Áp dụng nguyên tắc Taylor tại Nhật Bản và bài học kinh nghiệm

cho Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 19, trang 48-56.

11. Nguyễn Thanh Nhàn, Vũ Hải Yến, Vũ Ngọc Hương, 2014, Lựa chọn lãi suất mục tiêu

trong điều hành chính sách tiền tệ - Cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm các nước, Tạp chí

Khoa học và đào tạo Ngân hàng, số 150, trang 69-76.

B. Đề tài nghiên cứu khoa học

1. Nguyễn Quỳnh Thơ, 2019, Xây dựng chỉ số ổn định tài chính tổng hợp cho Việt Nam: Kinh nghiệm từ các quốc gia đang phát triển, đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, thư ký.

2. Nguyễn Thị Thu Trang, 2019, Quản trị rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng theo chuẩn

mực quốc tế tại các NHTM Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, thành viên.

3. Vũ Hải Yến, 2017, Xác định ngưỡng nợ bền vững cho các quốc gia mới nổi – Kinh

nghiệm thế giới và gợi ý cho Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học đạt giải Nhất cấp Bộ

năm 2018, chủ nhiệm. 4. Vũ Thị Kim Oanh, Vũ Hải Yến, 2016, Xây dựng mô hình thử sức chịu đựng rủi ro tín

dụng của hệ thống ngân hàng dưới sự biến động của các yếu tố vĩ mô, đề tài nghiên cứu

khoa học đạt giải Nhì cấp Bộ năm 2018, đồng chủ nhiệm.

5. Nguyễn Thanh Nhàn, 2015, Áp dụng nguyên tắc Taylor trong việc xác định lãi suất mục

tiêu trong điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp

Ngành, thành viên.

6. Đỗ Thị Kim Hảo, 2010, Thực tế xây dựng và vận hành hệ thống giám sát tài chính –

Kinh nghiệm các nước và bài học cho Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành

(nhánh cấp Nhà nước), thành viên. 7. Hà Thị Sáu, 2009, Giải pháp phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, thành viên.