BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
VŨ HẢI YẾN
THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH
CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Hà Nội, 2020
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
VŨ HẢI YẾN
THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH
CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
Chuyên ngành
: Tài chính – Ngân hàng
Mã số
: 9340201
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. GS.TS. NGUYỄN VĂN TIẾN
2. TS. NGUYỄN TUẤN PHƯƠNG
Hà Nội, 2020
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Ổn định và lành mạnh hóa hệ thống tài chính là mục tiêu quan trọng, không chỉ
đem lại lợi ích cho từng quốc gia mà cho toàn bộ thị trường tài chính thế giới. Sự phát
triển của hệ thống tài chính khiến các giao dịch tài chính ngày càng trở nên hiện đại và phức tạp hơn, sự xuất hiện của những định chế đặc biệt quan trọng hệ thống (Systemically
important banks-SIFS), tiềm ẩn nhiều rủi ro, sự thiếu liên kết giữa các chính sách và các
công cụ giám sát phù hợp là nguyên nhân gây bất ổn tài chính, khủng hoảng những năm
90 và năm 2008. Các cuộc khủng hoảng này đã giúp các nhà hoạch định chính sách nhìn
nhận lại mục tiêu điều hành của mình, trong đó, mục tiêu ổn định tài chính, an toàn kinh tế
vĩ mô là vô cùng quan trọng và cần được đặt cạnh mục tiêu lạm phát.
Ổn định tài chính là một mục tiêu đa chiều do mối quan hệ phức tạp giữa các thành
phần trong hệ thống tài chính và với các khu vực bên ngoài, ổn định tài chính khó có thể
được đo lường qua một chỉ tiêu riêng lẻ mà cần một bộ chỉ số với nhiều chỉ tiêu để xác định mức độ ổn định, lành mạnh của các cấu phần trọng yếu. Để giúp đỡ các quốc gia trong công tác đo lường ổn định hệ thống tài chính, IMF, ECB và ADB đã đưa ra các bộ chỉ số giúp đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của từng hệ thống tài chính. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng biệt về tình hình kinh tế, chính trị, cấu trúc
hệ thống tài chính, kỳ vọng thị trường…, vì thế, việc áp dụng bộ chỉ số với tiêu chuẩn quốc tế tại các quốc gia mới nổi nói chung và hệ thống tài chính thiếu hoàn thiện như Việt Nam nói riêng là điều không dễ dàng. Xuất phát từ thực tiễn trên, nghiên cứu sinh lựa chọn chủ đề: “Thiết lập bộ chỉ số xác định mức độ ổn định của hệ thống tài chính Việt Nam” làm đề tài luận án của mình với mong muốn nghiên cứu cơ sở lý luận cũng như kinh nghiệm quốc tế về ổn định tài chính nói chung và các phương thức xác định mức độ ổn định tài chính nói riêng nhằm khuyến nghị thiết lập bộ chỉ số cho Việt Nam. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1. Nghiên cứu quốc tế
Về khái niệm ổn định tài chính. dưới góc độ các tổ chức quốc tế, và WB có đưa ra
định nghĩa như sau: “Ổn định tài chính là điều kiện đạt được khi hệ thống tài chính thực
hiện đầy đủ các chức năng của nó”. Ở một khía cạnh khác, Ngân hàng trung ương châu
Âu (ECB) lại cho rằng, ổn định tài chính sẽ đạt được khi những rủi ro hệ thống được ngăn
chặn. Một số các nghiên cứu khác như De Bandt and Hartmann (2000), Group of Ten
(2001), Hoelscher and Quintyn (2003) và Summer (2003) lại có cách tiếp cận ổn định tài
chính tương tự như ECB khi tập trung vào rủi ro hệ thống. Issing (2003) và Foot (2003) gợi ý rằng, ổn định tài chính liên quan đến bong bóng thị trường tài chính hoặc sự biến động của các chỉ số thị trường tài chính.
2
Về nguyên nhân gây bất ổn tài chính, những nghiên cứu của Houben và cộng sự
(2004), Nier (2009) IMF (2013) đều cố gắng chỉ ra những rủi ro, nguồn gốc bất ổn cho hệ
thống tài chính lần lượt theo các góc độ: bên trong và bên ngoài, vi mô và vĩ mô, theo thời
gian và giữa các khu vực.
Về phương pháp đo lường ổn định tài chính, trong giai đoạn đầu đo lường ổn định tài chính, các quốc gia sử dụng các chỉ tiêu riêng lẻ giúp đánh giá mức độ ổn định trong
từng khu vực của hệ thống (Gadanecz và Jayaram, 2009). Ở giai đoạn sau, các quốc gia và
các nhà nghiên cứu đã kết hợp nhiều chỉ tiêu riêng lẻ và phát triển thành các bộ chỉ số
(Bhattacharyay (2002), Navajas and Thegeya (2013), Indraratna (2013)). Các bộ chỉ số này
giúp đo lường, đánh giá sự lành mạnh, ổn định của hệ thống tài chính theo từng khu vực. Ở
mức độ phát triển cao hơn, các cơ quan điều hành và các nhà nghiên cứu đã kết hợp các chỉ
số này thành một chỉ số tổng hợp duy nhất để đo lường, và phản ánh tức thời sự ổn định
hoặc bất ổn trong hệ thống tài chính (Morris (2010), Cerqueira và Murcia (2015), Akosha,
Loloh, Lawson và Kumah (2018), Illing và Liu (2003), Nelson và Perli (2005), Geršl và Heřmánek (2006), Van den End (2006)). 2.2. Nghiên cứu trong nước
Vấn đề ổn định tài chính tại Việt Nam cũng đã được đề cập đến qua một số các nghiên cứu của các tác giả đến từ các Viện nghiên cứu và Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể,
nghiên cứu Phạm Anh Thái (2014) đề cập đến các vấn đề có thể gây nên bất ổn tài chính tại Việt Nam như: thâm hụt cán cân thương mại và thâm hụt Ngân sách kéo dài, chính sách tài khóa và tiền tệ chưa đồng bộ, giá tài sản tăng cao và sự lên xuống thất thường của tỷ lệ lạm phát. Phạm Tiên Phong (2014) đã phân tích về thực trạng hoạt động giám sát tài chính ở Việt Nam, từ đó đề xuất gợi ý cho khuôn khổ chính sách an toàn vĩ mô của Việt Nam. Trần Lưu Trung và Nguyễn Trung Hậu (2014) đã giúp đánh giá được mức độ ổn định tài chính và từ đó sử dụng các công cụ điều chỉnh phù hợp. Hai tác giả đồng thời cũng giới thiệu và so sánh các bộ chỉ số của IMF, ECB và ADB, từ đó đề xuất một số chỉ số cơ bản với bốn lĩnh vực: ngân hàng, tiền tệ và tín dụng, chứng khoán và các biến số vĩ
mô khác cho Việt Nam khi xây dựng bộ chỉ số an toàn vĩ mô. Nguyễn Đức Thành và Vũ
Minh Long (2014) đã thực hiện đánh giá hệ thống NHTM Việt Nam thông qua bộ chỉ số
lành mạnh tài chính FSI cốt lõi được gợi ý bởi IMF.
2.3. Khoảng trống nghiên cứu
Từ tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước, có thể thấy việc xây dựng và sử
dụng bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính là rất cấp thiết, và cũng có nhiều
nghiên cứu nước ngoài đề cập đến. Tuy nhiên, các nghiên cứu này tại Việt Nam còn chưa nhiều và vẫn còn tồn tại một số khoảng trống nghiên cứu nhất định: Thứ nhất, về mặt lý luận, các nghiên cứu trước chưa làm rõ cơ sở thiết lập bộ chỉ số
cũng như các tiêu chí khi lựa chọn các chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính.
3
Thứ hai, đo lường ổn định tài chính thông qua bộ chỉ số tồng hợp và xây dựng chỉ
số tổng hợp duy nhất đang là xu hướng được nhiều quốc gia trên thế giới thực hiện, trong
đó có cả các quốc gia đang phát triển có điều kiện tài chính tương đồng với Việt Nam. Tuy
nhiên, các nghiên cứu về điều kiện, cách thức xây dựng, triển khai các bộ chỉ số và chỉ số
tổng hợp duy nhất tại các quốc gia này là còn hạn chế. Thứ ba, các nghiên cứu về đo lường ổn định tài chính tại Việt Nam thông qua bộ
chỉ số hay chỉ số tổng hợp còn rất hạn chế. Nghiên cứu của Phạm Tiên Phong và cộng sự
(2015) đã đưa ra một bộ chỉ số an toàn vĩ mô cho Việt Nam với 72 chỉ tiêu. Tuy nhiên,
nhóm tác giả chưa lý giải cơ sở lựa chọn các chỉ số này cũng như chứng minh sự phù hợp
của các chỉ số này với điều kiện của hệ thống tài chính Việt Nam.
Đây là khoảng trống nghiên cứu mà luận án có thể thực hiện nghiên cứu, qua đó,
đưa ra các kiến nghị chính sách phù hợp cho các cơ quan quản lý.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án được thực hiện với mục tiêu chung là xây dựng một bộ chỉ số có khả năng đo lường mức độ ổn định tài chính phù hợp với đặc điểm tài chính Việt Nam, từ đó phát triển thành chỉ số ổn định tài chính tổng hợp duy nhất. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính, cơ
sở xây dựng và ý nghĩa các nhóm chỉ số trong bộ chỉ số của các tổ chức quốc tế (IMF, ADB và ECB) và các chỉ số được sử dụng bởi các quốc gia (Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia) cũng như thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định của hệ thống tài chính tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu về không gian: ba cấu phần chính là hệ thống ngân hàng, thị
trường tài chính, khu vực kinh tế vĩ mô trong giai đoạn 2008-2018. 5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp định tính: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp , diễn dịch, quy nạp, kết hợp với bảng biểu minh họa để đánh giá thực trạng các rủi ro cho hệ thống tài
chính cũng như mức độ ổn định của các khu vực hệ thống tài chính.
- Phương pháp định lượng: áp dụng phương pháp trọng số cân bằng và phương
pháp phân tích thành tố chính (Principal Component Analysis-PCA). Phương pháp
PCA được sử dụng giúp giảm chiều dữ liệu, chuyển đổi biến cũ trong mối tương quan
tuyến tính với nhiều biến khác thành biến mới ít tương quan, mà vẫn giữ được hàm ý
thông tin, nhằm khái quát khả năng đo lường ổn định tài chính thông qua một chỉ số
tổng hợp duy nhất. 6. Tính mới của luận án
Thứ nhất, về lý luận, luận án hệ thống hóa lý thuyết về ổn định tài chính và quy
trình thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính với bốn bước: nhận diện rủi
4
ro, phân nhóm rủi ro, xác định các chỉ tiêu phản ánh rủi ro và thu thập dữ liệu, kiểm định
tính phù hợp của chỉ tiêu.
Thứ hai, luận án đã thực hiện tổng hợp các kinh nghiệm thiết lập bộ chỉ số đo lường
ổn định tài chính tại một số quốc gia, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam trong việc thiết
lập và lựa chọn các chỉ số phù hợp với điều kiện để đo lường ổn định tài chính. Thứ ba, luận án thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định của hệ thống tài chính
Việt Nam gắn với điều kiện kinh tế - tài chính hiện nay.
Thứ tư, luận án đưa khuyến nghị tính toán chỉ số ổn định tài chính tổng hợp dựa
trên bộ chỉ số gợi ý cho cơ quan điều hành.
Thứ năm, luận án cũng xây dựng hệ thống khuyến nghị cho các cơ quan điều hành
để nâng cao hiệu quả công tác đo lường ổn định hệ thống tài chính.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án bao
Chương 1: Cơ sở lý luận về thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Chương 2: Thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính – Kinh nghiệm
gồm 4 chương: quốc tế và bài học cho Việt Nam Chương 3: Thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam
Chương 4: Một số khuyến nghị về thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài
chính Việt Nam
5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN
ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
1.1. Khái quát chung về hệ thống tài chính
1.1.1. Khái niệm hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính là một tổng thể bao gồm các chủ thể dư thừa và thiếu hụt vốn, các tổ chức và thị trường tài chính, các cơ quan quản lý giám sát hoạt động với mục tiêu
luân chuyển và phân bổ vốn hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.1.2. Phương thức luân chuyển vốn trong hệ thống tài chính
Phương thức luân chuyển vốn trực tiếp
Phương thức luân chuyển vốn gián tiếp
1.1.3. Cấu trúc hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng
Hệ thống tài chính dựa vào thị trường
1.2. Những vấn đề cơ bản về ổn định tài chính 1.2.1. Khái niệm ổn định tài chính
Ổn định tài chính là ổn định hệ thống tài chính, là đảm bảo hệ thống tài chính có
thể thực hiện đầy đủ, liên tục và trơn tru các chức năng của nó. 1.1.2. Đặc điểm ổn định tài chính
Một là, ổn định tài chính là mục tiêu của chính sách an toàn vĩ mô. Hai là, ổn định tài chính là kết quả tương tác của chính sách an toàn vĩ mô và các
Ba là, ổn định tài chính chỉ được kiểm soát một phần bởi các công cụ chính sách, và
chính sách khác. đôi khi các chính sách này không thực sự thống nhất với nhau.
Bốn là, các chính sách nhằm đạt được ổn định tài chính thường phải đối mặt với sự
đánh đổi giữa khả năng phục hồi và tính hiệu quả. 1.1.3. Nguyên nhân gây mất ổn định hệ thống tài chính
a) Rủi ro hệ thống từ góc độ bên trong và bên ngoài hệ thống
- Rủi ro tổ chức tài chính
- Rủi ro thị trường tài chính
- Rủi ro cơ sở hạ tầng
b) Rủi ro hệ thống từ góc độ vĩ mô và vi mô
c) Rủi ro hệ thống từ góc độ mối liên hệ giữa các rủi ro
1.2. Thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống tài chính
1.2.1. Sự cần thiết xây dựng bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính
- Sự phụ thuộc lẫn nhau và qua lại tương đối phức tạp giữa các thành phần trong hệ
thống tài chính, và giữa hệ thống tài chính với nền kinh tế thực.
6
- Hoạt động của thị trường tài chính và các khu vực tài chính khác có tính chu kỳ,
khó có thể đo lường chu kỳ này thông qua một chỉ tiêu.
- Mối quan hệ phi tuyến giữa các khu vực cùng với việc dẫn truyền các cú sốc từ
khu vực này sang khu vực khác sẽ khiến việc đánh giá mức độ ổn định của hệ thống tài
chính trở nên khó khăn hơn.
- Khu vực tài chính và nền kinh tế có mối liên hệ chéo với nhau, và mức độ ảnh
hưởng của các thành phần tài chính này đến nền kinh tế thực là khác nhau.
1.2.2. Quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống tài chính
Bước 1: Nhận diện rủi ro
Bước 2: Phân nhóm các rủi ro
Bước 3: Xác định các chỉ số đại diện cho rủi ro
Bước 4: Thu thập số liệu và kiểm định tính phù hợp của chỉ số
Hình 1.5. Quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính
Bước 1: Nhận diện rủi ro (i) Những rủi ro từ môi trường bên ngoài - Điều kiện tài chính toàn cầu khó khăn
- Tăng trưởng kinh tế toàn cầu suy giảm - Bất ổn an ninh mạng trên hạ tầng thanh toán quốc tế - Bất ổn chính trị, chiến tranh thương mại, thiên tai, dịch bệnh
- Tăng trưởng kinh tế suy giảm, lạm phát gia tăng, nợ công tăng cao, thâm hụt cán
cân vãng lai, biến động tỷ giá, lãi suất…
(ii) Những rủi ro từ môi trường bên trong - Tăng trưởng tín dụng nóng, mức độ tập trung tín dụng cao, tín dụng gia tăng cho
lĩnh vực chứng khoán và bất động sản, tăng trưởng tín dụng tiêu dùng với lãi suất cao…
- Mất cân bằng trong kỳ hạn bảng cân đối, chênh lệch lớn giữa giá trị tài sản và nợ
bằng nội tệ, ngoại tệ…
- Mối liên hệ chặt chẽ giữa các tổ chức tài chính
- Sự phát triển của hệ thống ngân hàng ngầm
Bước 2: Phân nhóm các rủi ro
7
Bảng 1.4. Phân nhóm các rủi ro cho ổn định hệ thống tài chính
Phân loại Nguy cơ được nhận diện Tính chất Khu vực Loại rủi ro
Vĩ mô Bên ngoài - RR thanh khoản - RR ngoại hối - RR tín dụng
Vĩ mô Kinh tế thực - RR tín dụng - RR thanh khoản - RR lãi suất
- Điều kiện tài chính toàn cầu suy giảm - Điều kiện kinh tế suy giảm (tăng trưởng giảm) - Gia tăng toàn cầu hóa/ Hoạt động giao thương/ Hội nhập tài chính/ Luân chuyển dòng tiền - Phát triển công nghệ, phát minh tài chính - Tấn công mạng, hạ tầng thanh toán giao dịch quốc tế - Mất cân bằng vĩ mô - Tính thuận chu kỳ tăng - Biến động lớn trong tỷ giá, lãi suất, cung tiền
Vĩ mô Doanh nghiệp và hộ gia đình gia tăng nợ nần - RR tín dụng Doanh nghiệp và hộ gia đình
Vĩ mô Thị trường tài chính - RR bong bóng vỡ - RR thanh khoản
Vi mô Ngân hàng
- RR tín dụng - RR thanh khoản - RR ngoại hối - RR lãi suất - RR danh tiếng - RR hoạt động
- Gia tăng nhu cầu tài trợ vốn trên thị trường liên ngân hàng - Quy mô thị trường tài chính phát triển quá nhanh (thị trường chứng khoán) - Thay đổi lớn trong giá tài sản - Mức độ tập trung cao - Tăng trưởng tín dụng, tập trung tín dụng - Mất cân bằng trên bảng cân đối - Mối liên kết giữa các tổ chức tài chính - Gia tăng hoạt động ngân hàng ngầm - An ninh mạng hệ thống thanh toán, công nghệ
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
8
Bước 3: Xác định các chỉ số đại diện cho rủi ro
Đối với hướng tiếp cận vi mô
a) Bộ chỉ số lành mạnh tài chính của IMF (Financial Soundness Indicators-
FSIs)
Trên cơ sở đo lường các rủi ro vi mô tổng hợp mà cá nhân từng tổ chức tài chính
(chủ yếu là ngân hàng) phải đối mặt bao gồm: rủi ro tín dụng, thanh khoản, lãi suất, ngoại
hối…, bộ chỉ số FSIs lựa chọn các chỉ số cơ bản dựa trên các phương diện của mô hình
CAMELS:
(1) Các chỉ số an toàn vốn
(2) Các chỉ số chất lượng tài sản
(3) Các chỉ số khả năng sinh lời
(4) Các chỉ số thanh khoản
(5) Các chỉ số nhạy cảm với rủi ro thị trường
Bộ chỉ số cơ bản cũng chỉ dành một chỉ tiêu cho thị trường bất động sản bởi mối
quan hệ mật thiết giữa những thay đổi trong giá nhà ở với tăng trưởng tín dụng của hệ
thống ngân hàng.
b) Bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ECB (Macro Prudential Indicators-MPIs)
Tương tự như bộ chỉ số của IMF, bộ chỉ số của ECB cũng thực hiện đo lường rủi ro
vi mô của khu vực ngân hàng trên các khía cạnh tương tự như mô hình CAMELS, nhưng
chi tiết hơn (Mörttinen và cộng sự, 2005).
- Nhóm nhân tố bên trong: đo lường nguy cơ rủi ro của hệ thống ngân hàng.
(1) Các chỉ số khả năng sinh lời, chất lượng bảng cân đối và an toàn vốn
(2) Các chỉ số cung và cầu
(3) Các chỉ số tập trung rủi ro
(4) Các chỉ số đánh giá rủi ro thị trường
- Nhóm nhân tố bên ngoài:
(5) Các chỉ số đổ vỡ tài chính
(6) Các chỉ số phát triển giá tài sản
(7) Các chỉ số điều kiện tiền tệ và chu kỳ kinh tế
- Nhóm nhân tố lan truyền
(8) Các chỉ số thị trường liên ngân hàng
9
Đối với hướng tiếp cận vĩ mô
c) Bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ADB (Macroprudential Indicators-MPIs)
Bộ chỉ số của ADB bao gồm 67 chỉ số an toàn vĩ mô chung và 43 chỉ số an toàn vĩ
mô bổ sung (Phụ lục 3) được chia thành các nhóm sau:
(1) Nợ nước ngoài và các dòng vốn đầu tư
(2) Tiền tệ và tín dụng
(3) Ngân hàng
(4) Lãi suất
(5) Thị trường cổ phiếu
(6) Thương mại, tỷ giá và dự trữ ngoại hối
(7) Dữ liệu khảo sát doanh nghiệp
Bộ chỉ số MPIs của ADB theo hướng tiếp cận vĩ mô, xem xét đánh giá mức độ lành
mạnh của nhiều lĩnh vực trong tổng thể nền kinh tế, và ngân hàng chỉ là một trong các lĩnh
vực được xem xét đến.
Bước 4: Thu thập số liệu và kiểm định tính phù hợp của chỉ số đại diện rủi ro
- Các chỉ số nên có khả năng cảnh báo sớm, cung cấp những thông tin về nguy cơ
khủng hoảng, đổ vỡ tài chính.
- Các chỉ số được chứng minh là có ý nghĩa và phù hợp trong các nghiên cứu trước
đó, phù hợp với thực tế lịch sử.
- Dữ liệu tính toán chỉ số cần được thu thập từ những nguồn đáng tin cậy và với tần
suất thời gian thống nhất.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong chương 1, luận án đã hệ thống hóa những lý luận chung về ổn định tài chính
trên một số khía cạnh: khái niệm, đặc điểm, cũng như nguyên nhân gây mất ổn định cho
hệ thống tài chính. Trong phần 2 của chương 1, thông qua việc tìm hiểu các bộ chỉ số đo
lường ổn định hệ thống tài chính được gợi ý bởi các tổ chức quốc tế, nghiên cứu sinh tổng
kết được quy trình thiết lập bộ chỉ số với 4 bước cơ bản: (i) nhận diện các rủi ro cho hệ
thống tài chính; (ii) phân nhóm các rủi ro; (iii) xác định các chỉ số đại diện cho các nhóm
rủi ro; và (iv) thu thập số liệu và kiểm định tính phù hợp của chỉ số đại diện rủi ro. Đây là
khung lý thuyết cơ bản và nền tảng giúp nghiên cứu sinh thực hiện phần kinh nghiệm xây
dựng bộ chỉ số tại một số quốc gia cũng như phân tích thực trạng thiết lập và đo lường ổn
định hệ thống tài chính tại Việt Nam trong các chương tiếp theo.
10
CHƯƠNG 2: THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI
CHÍNH – KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
2.1. Cơ sở lựa chọn quốc gia nghiên cứu
Một là, bốn quốc gia đại diện cho các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau. Bên cạnh đó, Anh là điển hình cho hệ thống tài chính dựa vào thị trường còn Trung Quốc, Hàn Quốc
và Indonesia là các quốc gia có cấu trúc tài chính dựa vào ngân hàng. Thông qua việc
nghiên cứu về các quốc gia này, tác giả có thể khái quát được những khác biệt về kinh tế
và tài chính đặc thù ảnh hưởng như thế nào đến cách thức lựa chọn, xây dựng bộ chỉ số đo
lường ổn định hệ thống tài chính.
Hai là, Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia đều là những nước trong khu vực châu
Á, có những đặc điểm về kinh tế và tài chính tương đồng với Việt Nam như đều là các
quốc gia đang phát triển, có tốc độ mở cửa và hội nhập nhanh chóng với thế giới. Chính vì
vậy, những cú sốc hay rủi ro từ môi trường vĩ mô bên ngoài ảnh hưởng đến các quốc gia này cũng có tác động tương tự với Việt Nam 2.2. Kinh nghiệm quốc tế về đo lường ổn định hệ thống tài chính 2.2.1. Kinh nghiệm của Anh 2.2.1.1. Đặc điểm hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính Anh là hệ thống tài chính dựa vào thị trường, phát triển ở cấp độ
cao và có sự kết nối toàn cầu.
Hệ thống ngân hàng Anh có mức độ tập trung nhưng áp lực cạnh tranh ngày càng
Thị trường tài chính phát triển ở cấp độ cao, đa dạng và hoàn thiện. Ngân hàng trung ương Anh có tính độc lập cao, thực hiện giám sát toàn bộ hệ thống
có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây. tài chính.
Anh có hệ thống giám sát hợp nhất, trong đó Ngân hàng trung ương Anh chịu trách
nhiệm giám sát toàn bộ hệ thống tài chính.
2.2.1.2. Đo lường ổn định hệ thống tài chính
a) Nhận diện rủi ro hệ thống tài chính Anh
Ở Anh, rủi ro hệ thống chủ yếu đến từ 4 lĩnh vực: rủi ro từ thị trường cho vay thế
chấp BĐS, tín dụng tiêu dùng, rủi ro từ môi trường kinh doanh toàn cầu, sự thay đổi giá
tài sản (lãi suất dài hạn), trong đó đánh giá và hạn chế rủi ro từ thị trường cho vay thế
chấp và thị trường cho vay tiêu dùng là mối quan tâm hàng đầu của các cơ quan quản lý
tại Anh. b) Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Anh
Ủy ban chính sách tài chính FPC nhận diện thị trường cho vay thế chấp và cho vay
tiêu dùng là hai nguy cơ rủi ro lớn nhất đối với hệ thống tài chính, và đây là những rủi ro
11
vi mô, xuất phát từ khu vực ngân hàng và thị trường bất động sản. Chính vì vậy, PFC
quyết định sử dụng các công cụ để điều chỉnh, can thiệp vào hai khu vực chính yếu này.
Ủy ban chính sách tài chính PFC
Tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ CCyB
Tỷ lệ đệm vốn theo lĩnh vực SCRs
Công cụ điều chỉnh BĐS
BỘ CHỈ SỐ: - Độ căng BCĐ tổ chức cho vay và người đi vay - Điều kiện và kì hạn thị trường
BỘ CHỈ SỐ: - Độ căng BCĐ phi ngân hàng - Độ căng BCĐ ngân hàng - Điều kiện và kỳ hạn thị trường
BỘ CHỈ SỐ: - Độ căng BCĐ phi ngân hàng - Điều kiện và kỳ hạn thị trường - Độ căng BCĐ ngân hàng
Các tổ chức tài chính (Ngân hàng)
Người đi vay (Cá nhân, doanh nghiệp)
Hình 2.7. Các công cụ và chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Anh
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Bộ chỉ số cơ bản Đệm vốn phản chu kỳ (CCyB) (i) Nhóm thứ nhất thực hiện đo lường độ căng bảng cân đối phi ngân hàng. Trong nhóm này, FPC thực hiện đo lường tốc độ tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ tín dụng/GDP và chênh lệch giữa tỷ lệ này với xu hướng tín dụng/GDP trong dài hạn.
(ii) Nhóm thứ hai thực hiện đo lường điều kiện và kỳ hạn của thị trường. Các chỉ
số trong nhóm này liên quan đến lãi suất thực dài hạn và chênh lệch lãi suất ngân hàng áp dụng đối với các khoản cho vay mới đối với hộ gia đình và doanh nghiệp.
(iii) Nhóm thứ ba thực hiện đo lường độ căng bảng cân đối ngân hàng, trong đó ghi
nhận mức đòn bẩy và chênh lệch kỳ hạn/ thanh khoản trong hệ thống ngân hàng.
Bộ chỉ số cơ bản Đệm vốn theo lĩnh vực (SCRs)
Đối với nhóm chỉ số đo lường độ căng bảng cân đối ngân hàng: hai chỉ số tỷ lệ an
toàn vốn và tỷ lệ đòn bẩy là rất quan trọng, bởi chúng là cơ sở giúp FPC cân nhắc xem
liệu có nên điều chỉnh tỷ lệ SCRs hay không.
12
Đối với nhóm chỉ số đo lường độ căng bảng cân đối phi ngân hàng: chỉ số tăng
trưởng tín dụng theo lĩnh vực/ ngành là chỉ số đầu tiên phải xem xét đến.
Đối với nhóm chỉ số đo lường điều kiện và kỳ hạn thị trường: chỉ số đầu tiên cần
quan tâm trong nhóm này là giá bất động sản thương mại và nhà ở.
Bộ chỉ số cơ bản công cụ nhà ở LTV là tỷ lệ giá trị cho vay thế chấp trên giá trị tài sản đảm bảo DTI là tỷ lệ dư nợ của người đi vay trên thu nhập hàng năm của người đó. ICRs là tỷ lệ thu nhập dự kiến từ việc cho thuê nhà trên lãi suất dự kiến phải trả
cho khoản vay thế chấp mua nhà
2.2.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng với sự tăng trưởng mạnh mẽ
2.2.2.1. Đặc điểm hệ thống tài chính cả về quy mô và độ phức tạp.
Hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung cao Thị trường tài chính có quy mô lớn nhưng thiếu ổn định, chưa thể hiện được vai trò
NHTW (PBC) và Ủy bản giám sát chứng khoán (CSRC) là hai cơ quan giám sát
quan trọng trong dẫn truyền vốn cho các doanh nghiệp. hoạt động của hệ thống tài chính
Tăng trưởng tín dụng nóng và sự phát triển nhanh chóng của khu vực ngân hàng
2.2.2.2. Đo lường ổn định hệ thống tài chính a) Nhận diện rủi ro hệ thống ngầm là nguy cơ rủi ro hệ thống chính của Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay. b) Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Trung Quốc Đối với hệ thống ngân hàng, PBC sử dụng một bộ chỉ số đo lường sự lành mạnh của hệ thống bằng các chỉ tiêu sinh lời, tài sản, nợ, vốn và thanh khoản, khá tương đồng với bộ chỉ số FSIs của IMF. Đối với thị trường tài chính, PBC sử dụng các chỉ số căng thẳng của từng thị
trường: thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu, thị trường chỉ số tổng hợp Thượng Hải và
thị trường ngoại hối.
Đối với hoạt động ngân hàng ngầm, đo lường qua phương pháp khấu trừ.
c) Các bài kiểm tra sức chịu đựng
2.2.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
2.2.3.1. Đặc điểm hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính Hàn Quốc là hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng, mặc dù tỷ
trọng tài sản của nhóm tổ chức này có xu hướng giảm qua các năm. Quy mô thị trường tài chính Hàn quốc tăng đều qua các năm.
Hàn Quốc có hệ thống giám sát hợp nhất.
13
NHTW Hàn Quốc chịu trách nhiệm thực thi mục tiêu ổn định tài chính.
2.2.3.2. Đo lường ổn định hệ thống tài chính
a) Nhận diện rủi ro hệ thống tài chính Hàn Quốc
Với đặc điểm cấu trúc tài chính dựa vào ngân hàng, các nguy cơ rủi ro chủ yếu cho
hệ thống tài chính Hàn Quốc đến từ khu vực ngân hàng. Để đo lường các nguy cơ rủi ro từ hoạt động ngân hàng, BOK đã áp dụng bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs của IMF cho
hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, với mức độ phát triển và mở cửa nền kinh tế, tự do hóa
dòng vốn nhanh chóng, hệ thống tài chính Hàn Quốc cũng phải đối mặt với những rủi ro
từ những cú sốc khu vực bên ngoài, khu vực doanh nghiệp, thị trường tài chính…
b) Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Hàn Quốc
Theo hướng dẫn của IMF, Hàn Quốc thực hiện tính toán và công bố đều đặn 35 chỉ
số lành mạnh tài chính cho các nhóm tổ chức nhận tiền gửi, các tổ chức tài chính khác,
doanh nghiệp, hộ gia đình, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản.
c) Chỉ số ổn định tài chính tổng hợp (financial stability index – FSI) Bắt đầu từ năm 2012, BOK đã phát triển chỉ số tổng hợp FSI bằng cách tổng hợp rất nhiều các chỉ số ổn định tài chính thành một chỉ số duy nhất, và chỉ số này được sử dụng để đánh giá nhanh điều kiện tài chính chung của Hàn Quốc. Quy trình thiết lập chỉ số ổn định tài chính duy nhất bao gồm 5 bước:
- Bước 1: Kiểm tra các chỉ tiêu ổn định tài chính phù hợp. - Bước 2: Thực hiện khảo sát. - Bước 3: Lựa chọn các chỉ số. - Bước 4: Tính toán tỷ trọng của các chỉ tiêu. + Phương pháp bình quân phương sai cân bằng
Bình quân gia quyền = (Giá trị đo được × w )