VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DIỆP HUYỀN THẢO CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG NGỪA LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DIỆP HUYỀN THẢO CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG NGỪA Ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm Mã số: 9.38.01.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học:1. TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH
2. TS. NGUYỄN VĂN ĐIỆP
Hà Nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
T i xin ca oan y c ng tr nh nghi n c u c a
ri ng t i C c s i u k t qu n u trong u n n trung
th c c ngu n g c r r ng v ư c tr ch dẫn y theo
quy nh
Tác giả luận án
Diệp Huyền Thảo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .............................................................................. 9
1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước ................................................................. 9
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ............................................................. 24
1.3 Đánh giá về tình hình nghiên cứu: ............................................................. 30
Chương 2: TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ ............................................................... 33
2.1 Khái quát lý luận về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em .............. 33
2.2 Phần hiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn
miền Tây Nam Bộ ............................................................................................ 44
2.3 Phần ẩn của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ trên địa bàn miền
Tây Nam Bộ ..................................................................................................... 61
Chương 3: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC
TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY
NAM BỘ .................................................................................................................. 69
3.1 Khái quát lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội xâm
phạm tình dục trẻ em ........................................................................................ 69
3.2 Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em ... 71
Chương 4: DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA CÁC TỘI XÂM
PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ ............... 113
4.1 Dự báo tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền
Tây Nam Bộ ................................................................................................... 113
4.2 Giải pháp về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em
trên địa miền Tây Nam Bộ ............................................................................. 118
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU .......................................... 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 150
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
HSSV
Học sinh sinh viên
HVPT
Hành vi phạm tội
NXB
Nhà xuất bản
TAND
Tòa án nhân dân
THTP
Tình hình tội phạm
TNHS
Trách nhiệm hình sự
TNXH
Tệ nạn xã hội
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
XHTD
Xâm hại tình dục
XPTDTE Xâm hại tình dục trẻ em
BLHS 1999 Bộ luật hình sự 1999
SĐBS 2009 Sửa đổi bổ sung 2009
BLHS 2015 Bộ luật hình sự 2015
SĐBS 2017 Sửa đổi bổ sung 2017
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây các vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em đã xảy ra
khá nhiều và ở mức độ đáng báo động trong phạm vi cả nước. Chỉ tính từ ngày
01/01/2008 đến ngày 31/12/2013: Tòa án các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm
9.683 vụ với 11.444 bị cáo. Trong đó, đưa ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm 8.772 vụ
với 10.265 bị cáo. Trong số các vụ án xâm phạm tình dục phụ nữ và trẻ em mà Tòa
án các cấp đưa ra xét xử, có 1.812 vụ với 2.641 bị cáo bị xét xử về tội “Hiếp dâm”,
3.276 vụ với 3.759 bị cáo bị xét xử về tội “Hiếp dâm trẻ em”, 31 vụ với 61 bị cáo bị
xét xử về tội “Cưỡng dâm”; 25 vụ với 30 bị cáo bị xét xử về tội “Cưỡng dâm trẻ
em”; 2.749 vụ với 2.878 bị cáo bị xét xử về tội “Giao cấu với trẻ em” và 879 vụ với
896 bị cáo bị xét xử về tội “Dâm ô với trẻ em”. Số liệu này cho thấy nạn nhân của
các vụ án xâm phạm tình dục là trẻ em chiếm tỷ lệ lớn (6.929 vụ với 7.563 bị cáo,
chiếm tỷ lệ 78,99% số vụ và chiếm 73,68% số bị cáo bị xét xử). Qua theo dõi số
liệu các vụ án xâm phạm tình dục phụ nữ và trẻ em Tòa án các cấp đã thụ lý, giải
quyết, thấy rằng tình trạng xâm phạm tình dục đối với phụ nữ và trẻ em có xu
hướng tăng lên trong những năm gần đây, cụ thể: Năm 2008: 1.494 vụ với 1.789 bị
cáo; năm 2012: 1.736 vụ với 2.039 bị cáo và năm 2013: 2.050 vụ với 2.330 bị
cáo.Các địa phương xảy ra nhiều vụ án hình sự xâm phạm tình dục phụ nữ và trẻ em
gồm có: Thành phố Hồ Chí Minh (815 vụ/935 bị cáo); Đồng Nai (615 vụ/681 bị
cáo), Cà Mau (384 vụ/406 bị cáo), Bình Dương (370 vụ/414 bị cáo), Đắk Lắk (287
vụ/332 bị cáo), Trà Vinh (194 vụ), Bình Thuận (166 vụ/224 bị cáo), Hòa Bình (121
vụ/142 bị cáo), Lâm Đồng (162 vụ/190 bị cáo), thành phố Cần Thơ (158 vụ/182 bị
cáo), Hậu Giang (136 vụ), Vĩnh Long (109 vụ/111 bị cáo), Tuyên Quang (111
vụ/130 bị cáo), Bình Định (102 vụ/123 bị cáo), Đắk Nông (108 vụ/110 bị cáo), Phú
Yên (98 vụ/139 bị cáo), Hải Phòng (91 vụ/97 bị cáo). [102, tr.5]. Theo báo cáo số
16/BC-TANDTC ngày 24 tháng 3 năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao; năm
2014 xét xử 1.825 vụ/1.976 bị cáo; năm 2015 xét xử 1.692 vụ/1798 bị cáo; năm
2016 xét xử 1.454 vụ/1528 bị cáo và theo báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao về
các tội xâm phạm tình dục trẻ em tính từ ngày 1.10.2017 đến 28.2.2019 Tòa án
1
nhân dân các cấp đã thụ lý sơ thẩm và phúc thẩm 2.719 vụ với 2.894 bị cáo. Với số
liệu được thống kê nêu trên phản ánh tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở
nước ta hiện nay điều này đã cho thấy Việt Nam đang đứng trước thực trạng về xâm
phạm tình dục, trong đó xâm phạm tình dục trẻ em ở nước ta đang diễn biến phức
tạp và có chiều hướng gia tăng. Vì vậy, việc bảo vệ trẻ em không còn là trách nhiệm
riêng của từng gia đình mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Tại khoản 1 Điều
37 Hiến pháp 2013 đã ghi nhận“ Trẻ e ư c Nh nước gia nh v xã hội b o v
chă s c v gi o dục; ư c tha gia v o c c vấn ề về trẻ e Nghi cấ x
hại h nh hạ ngư c ãi bỏ ặc ạ dụng b c ột s c ao ộng v những h nh vi
kh c vi phạ quyền trẻ e ”. Tiếp nối việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ trẻ em
trước nguy cơ bị lạm dụng, bạo hành và xâm hại tình dục, Luật trẻ em năm 2016
được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua vào ngày 5/4/2016, có hiệu lực kể
từ ngày 1/6/2017. So với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 thì Luật
Trẻ em 2016 đã ghi nhận và bảo vệ quyền trẻ em chặt chẽ hơn bằng việc mở rộng khái
niệm về “bạo c trẻ e ” “x hại trẻ e “X hại t nh dục trẻ e ” và quy định cụ
thể hơn về việc tổ chức phối hợp liên ngành trong việc thực hiện, bảo vệ trẻ em đáp
ứng nhu cầu phát triển của xã hội trong công cuộc bảo vệ thế hệ tương lai của đất nước.
Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 có hiệu lực thi hành 01/01/2018
được coi là một trong những công cụ hữu hiệu nhất để đấu tranh, phòng ngừa tội
phạm. Có thể thấy các hành vi xâm phạm tình dục trẻ em đều được thể hiện và quy
định trong BLHS với mức hình phạt cực kỳ nghiêm khắc có thể đến mức tử hình,
tuy nhiên công cuộc đấu tranh trong phòng chống loại tội phạm này cũng có nhiều
khó khăn xuất phát bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Miền Tây Nam Bộ cũng không nằm ngoài thực trạng chung của cả nước, với
mức độ nghiêm trọng của các vụ án xâm phạm tình dục và có xu hướng ngày càng
tăng lên. Nhiều vụ án xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra có tính chất đặc biệt nghiêm
trọng, thể hiện sự suy đồi đạo đức, coi thường tính mạng, sức khỏe và nhân phẩm
của con người gây bức xúc trong dư luận, điển hình như vụ án cha cùng ông ngoại
xâm hại tình dục con/cháu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long hoặc vụ án bố hiếp dâm con
gái trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, hay vụ án hiếp dâm trẻ em và giết người ở Bạc Liêu
2
gây bức xúc trong dư luận thời gian vừa qua, ngoài ra còn khá nhiều vụ án xâm
phạm tình dục trẻ em xảy ra trên địa bàn miền Tây Nam Bộ mà giữa người phạm tội
và nạn nhân có mối quan hệ gần gũi thân thích như anh trai hiếp dâm em gái, người
chồng hiếp dâm con riêng của vợ, ông ngoại hiếp dâm cháu, xâm hại tình dục làm
người bị xâm hại mang thai và sinh con, hiếp dâm rồi giết người nhằm trốn tránh sự
tố giác của người bị hại, trốn tránh sự phát hiện, trừng trị của pháp luật. Mặc dù
công tác phòng chống loại tội phạm này trên địa bàn miền Tây Nam Bộ được triển
khai thực hiện tuy nhiên tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em vẫn đang gia
tăng do nhiều nguyên nhân khác nhau như: vị trí địa lý, dân cư miền Tây Nam Bộ;
chính sách bảo vệ trẻ em khu vực nông thôn, đồng bào dân tộc chưa được quan tâm;
kỹ năng chăm sóc con cái của cha mẹ còn chưa đầy đủ; tư tưởng dễ thỏa hiệp và sự
hiểu biết vể pháp luật chưa cao. Những nguyên nhân này đang tác động đến tình
hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em nhưng lại chưa có công trình nghiên cứu
tổng thể tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên cơ sở kết hợp nghiên cứu
tổng thể 13 địa bàn của miền Tây Nam Bộ mà chỉ có các công trình nghiên cứu giới
hạn ở từng Tỉnh cụ thể. Do vậy, thực tiễn đòi hỏi phải có các công trình nghiên cứu tổng
thể tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ để đánh giá tình
hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em từ
đó đề xuất những giải pháp phòng ngừa để từ đó các cấp, các ngành, đặc biệt là lực
lượng công an, tòa án, viện kiểm sát từng bước khắc phục những nguyên nhân khách
quan, chủ quan bởi tính đặc thù của vùng và có những đánh giá cụ thể trong công tác đấu
tranh phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em đang được thực thi tại địa phương.
Công trình nghiên cứu này cũng là một công cụ hết sức quan trọng trong việc thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng ngừa tội phạm, đảm bảo sự ổn định về trật tự an toàn
xã hội, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của miền Tây Nam Bộ. Vì
thế đề tài “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ: tình
hình, nguyên nhân và phòng ngừa” đã được được tác giả nghiên cứu và thực hiện đáp
ứng nhu cầu của địa bàn miền Tây Nam Bộ trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa các
tội xâm phạm tình dục trẻ em.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ của Luận án
2.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là đưa ra được các giải pháp phòng ngừa
các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ, để kiềm soát sự
gia tăng của tội phạm và làm giảm dần các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa
bàn miền Tây Nam Bộ trong những năm tiếp theo.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài luận án cần giải quyết một số nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
- Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước về những
công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, đánh giá khái quát những vấn
đề đã được thống nhất, những vấn đề nghiên cứu, xác định những vấn đề cần tiếp
tục nghiên cứu trong luận án.
- Khái quát lý luận về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, tình hình tội phạm,
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, phòng ngừa và dự báo tình hình tội
phạm, từ đó khái quát những vấn đề lý luận về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ
em như: khái niệm tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em, nguyên nhân và điều kiện
của tình hình các tội XPTDTE, dự báo và phòng ngừa các tội XPTDTE.
- Phân tích, đánh giá tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam
Bộ trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2018. Cụ thể luận án sẽ nghiên cứu đánh
giá phần hiện của tình hình các tội XPTDTE thông qua các chỉ số phản ánh mức độ,
động thái, cơ cấu, tính chất của tình hình các tội XPTDTE. Song song đó nghiên
cứu, đánh giá phần ẩn của tình hình các tội này trên thực tiễn hiện nay.
- Phân tích nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn
miền Tây Nam Bộ trong thời gian từ năm 2007 - 2018.
- Dự báo tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
- Đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình các tội XPTDTE
gắn kết với địa bàn miền Tây Nam Bộ
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em
trên địa bàn miền Tây Nam Bộ, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh,
4
phát triển loại tội phạm này, từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa các tội xâm
phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ .
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu với góc độ chuyên ngành: Tội phạm học và phòng
ngừa tội phạm.
- Về nhóm các tội XPTDTE được nghiên cứu trong luận án bao gồm 4 tội
được quy định trong BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009: Tội hiếp dâm trẻ
em (Điều 112), tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114), tội giao cấu với trẻ em (Điều
115), tội dâm ô trẻ em (Điều 116).
- Đối chiếu với quy định của Luật Trẻ Em 2016 và Bộ luật hình sự 2015 sửa
đổi bổ sung 2017 về các tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi (5 tội danh bao
gồm: hiếp dâm người dưới 16 tuổi; cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi; giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi; dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; sử dụng người dưới 16 tuổi vào
mục đích khiêu dâm)
- Về thời gian nghiên cứu: Thông qua số liệu thống kê của tòa án nhân dân
các tỉnh miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 đến năm 2018.
- Về địa bàn nghiên cứu, gồm 12 tỉnh và 01 thành phố trực thuộc trung ương
bao gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Hậu
Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Tp.Cần Thơ.
- Để công trình nghiên cứu được hoàn thiện, luận án tổng hợp số liệu thống
kê của Tòa án về các tội XPTDTE trên 13 địa bàn miền Tây Nam Bộ giai đoạn
2007 – 2018. Số liệu thống kê của tòa án nhân dân tối cao về số liệu tội phạm của cả
nước và số liệu các tội XPTDTE của cả nước.
Nghiên cứu điển hình 485 bản án ở 13 địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm
2007 – 2018 để thực hiện công trình nghiên cứu.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm của Đảng, Nhà nước, qui định của pháp
luật hình sự, chính sách pháp luật về bảo vệ trẻ em.
5
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận án dự kiến sẽ sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Trong chương 1, Luận án sử dụng phương pháp tổng hợp và phương pháp
phân tích để hệ thống các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, từ đó đánh giá
những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề còn tranh luận, những vấn đề đặt ra và
luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ.
- Trong chương 2, Luận án sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp để trình bày những vấn đề lý luận về tình hình các tội XPTDTE, đánh giá
về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ; Luận
án sử dụng phương pháp thống kê số vụ phạm tội, số người phạm tội trong từng
thời gian, ở từng địa bàn; phương pháp so sánh để so sánh tình hình các tội
XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ với địa bàn giáp ranh như Đông Nam Bộ,
Tây Nguyên và so sánh tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn cả nước, so sánh tỷ
lệ các tội cụ thể trong nhóm các tội này để đánh giá tính chất, mức độ của tình hình
các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
- Trong chương 3, Luận án sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để
trình bày những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội
XPTDTE; phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ sự tác động của các yếu
tố thuộc môi trường sống, các yếu tố thuộc về người phạm tội, các yếu tố tình
huống phạm tội. Phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng trong việc phân
tích một số đặc điểm nhân thân người phạm tội và nạn nhân của tội phạm dẫn chứng
nghiên cứu từ các bản án XPTDTE.
- Trong chương 4, Luận án sử dụng phương pháp dự báo khoa học nhằm dự báo
tình hình các tội XPTDTE trong thời gian tới, ngoài ra luận án còn sử dụng phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để làm cơ sở xây dựng hệ thống các giải pháp nhần
tăng cường phòng ngừa tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ.
5. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
5.1. Giả thuyết nghiên cứu
Với đề tài như trên, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu như sau: Tình hình
các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ trong thời gian từ
6
2007 – 2018 đang gia tăng và có diễn biến phức tạp. Với những nguyên nhân và
điều kiện tác động đến tình hình các tội XPTDTE thì công tác phòng ngừa đối với
loại tội phạm này thời gian qua chưa đạt được những hiệu quả vẫn còn thiếu sự
đồng bộ ở các khu vực trên địa bàn. Do đó cần phải có những giải pháp thiết thực
nhằm kiểm soát và phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền
Tây Nam Bộ trong thời gian tới.
5.2 Câu hỏi nghiên cứu:
a. Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đang
diễn ra như thế nào trong khoảng thời gian từ năm 2007 - 2018 ?
b. Nguyên nhân và điều kiện trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đang tác động đến tình
hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em như thế nào?
c. Để thực hiện tốt công tác phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn
miền Tây Nam Bộ thì cần xây dựng hệ thống phòng ngừa tội phạm như thế nào?
6. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án
- Là công trình nghiên cứu các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở cấp độ luận
án tiến sĩ tập trung nghiên cứu đầy đủ các vấn đề về tình hình các tội xâm phạm tình
dục trẻ em, nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTDTE cũng như các
biện pháp phòng ngừa loại tội phạm này trên địa bàn miền Tây Nam Bộ.
- Là công trình nghiên cứu về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em,
kết hợp nghiên cứu nguyên nhân điều kiện đặc thù của miền Tây Nam Bộ như: đời
sống văn hóa, tín ngưỡng, yếu tố dân tộc; tính cách người dân miền Tây Nam Bộ,
tình trạng phụ nữ lấy chồng nước ngoài, tỉ lệ ly hôn ở địa bàn miền Tây Nam Bộ...
Để từ đó nêu ra được đặc điểm riêng biệt trong nguyên nhân và điều kiện của tình
hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em khác với các địa bàn nghiên cứu khác.
- Là công trình nghiên cứu đề xuất các giải pháp phòng ngừa các tội xâm
phạm tình dục trẻ em gắn liền với các địa bàn miền Tây Nam Bộ đáp ứng công cuộc
đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7.1 Về mặt lý luận
- Luận án là công trình nghiên cứu đóng góp cho nền tảng lý luận về tình
hình tội phạm trong đó có các tội XPTDTE, lý luận về nguyên nhân và điều kiện
7
của tình hình các tội XPTDTE và phòng ngừa các tội XPTDTE. Luận án còn cung
cấp luận cứ góp phần xây dựng chính sách pháp luật và biện pháp phòng ngừa các
tội XPTDTE.
7.2 Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là đóng góp cho công cuộc phòng ngừa
các tội xâm phạm tình dục trẻ em không chỉ ở khu vực miền Tây Nam Bộ mà còn
đóng góp cho việc phòng ngừa tội phạm này ở phạm vi cả nước. Luận án là tài liệu
hữu ích tiếp nối cho cho việc nghiên cứu tình hình các tội XPTDTE và là một công
trình có tính nối kết với các công trình nghiên cứu các tội XPTDTE ở khu vực Đông
Nam Bộ, Tây Nguyên... tạo thành một bức tranh tổng thể của tình hình các tội
XPTDTE. Từ những giải pháp của luận án sẽ là công trình tham khảo hữu ích cho
công cuộc đấu tranh phòng ngừa các tội XPTDTE.
Luận án sẽ là nguồn tham khảo hữu ích cho các cơ quan có thẩm quyền
nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn phòng ngừa tội phạm tại địa phương, nguồn
tham khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp xem xét, đánh giá thực tiễn pháp luật
Hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tình dục trẻ em để từ đó nghiên cứu bổ
sung những quy định pháp luật về các tội XPTDTE phù hợp với bối cảnh xã hội
hiện nay.
8. Cơ cấu của luận án
- Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
- Chương 2: Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền
Tây Nam Bộ
- Chương 3: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình
dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
- Chương 4: Dự báo và các giải pháp phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục
trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ.
8
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Để nghiên cứu đề tài “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền
Tây Nam Bộ: tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa” thì việc nghiên cứu, phân
tích và đánh giá kết quả của các công trình có liên quan đến đề tài luận án là việc
làm có ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết. Thông qua việc tìm hiểu các công trình
nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong và ngoài nước, nhận diện
cách tiếp cận, hướng nghiên cứu, nội dung và kết quả đạt được của các công trình
nghiên cứu. Từ đó những nghiên cứu của luận án được dựa nền tảng kiến thức từ
tổng thể từ lý luận về tội phạm học, lý luận về các tội xâm phạm tình dục trẻ em cho
đến những phương thức và công cụ để phòng ngừa các tội phạm này. Kế thừa tri
thức khoa học pháp lý của các công trình nghiên cứu trước đó để định hướng nghiên
cứu cho công trình nghiên cứu của đề tài. Tác giả khái quát những công trình nghiên
cứu có liên quan đến các tội xâm phạm tình dục trẻ em cụ thể như sau:
1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước
1.1.1 Những công trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận của tội phạm học tạo
nền tảng lý luận cho đề tài luận án
“Tội phạ ở Vi t Na th c trạng nguy n nh n v gi i ph p”, đây là đề tài
cấp Nhà nước mã số KX – 04 - 14 do Bộ Nội vụ nay là Bộ Công an làm chủ đề tài,
Nxb Công an nhân dân, năm 1994 [16, tr19 - tr.24] công trình nghiên cứu về tình
hình tội phạm ở Việt Nam, nêu ra một số đặc điểm về tội phạm, chủ thể của tội
phạm, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa tội phạm nói chung. Đề tài chưa
nghiên cứu nguyên nhân cũng như các biện pháp phòng ngừa các tội xâm phạm tình
dục trẻ em.
“Giáo trình Tội phạm học” của Giáo Sư, Tiến sĩ Đỗ Ngọc Quang, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội, năm 1995. Cho rằng “Tội phạ học ng nh khoa học nghi n
c u những vấn ề i n quan n t nh trạng phạ tội v tội phạ ; nghi n c u về
nh n th n người phạ tội nguy n nh n iều ki n phạ tội v những bi n ph p
phòng ngừa tội phạ nhằ từng bước ngăn chặn hạn ch tội phạ trong cuộc
s ng xã hội” [106 tr8]. Công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận của tình hình tội
9
phạm, đã chia các biện pháp phòng ngừa tội phạm ra thành các nhóm sau: Nhóm
các biện pháp phòng ngừa chung; nhóm các biện pháp quản lý hành chính nhà nước
về an ninh trật tự; nhóm các biện pháp phòng ngừa xã hội; nhóm những biện pháp
phòng ngừa theo chức năng; nhóm những biện pháp phòng ngừa riêng. Mặc dù
công trình nghiên cứu này không đề cập đến biện pháp phòng ngừa các tội phạm cụ
thể, nhưng đây cũng là cơ sở để luận án tiếp cận và khai thác nghiên cứu trong nội
dung về phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
“Gi o tr nh tội phạ học” Võ Khánh Vinh, Nxb Giáo dục, 1999, tái bản
2009. Hay “Gi o tr nh tội phạ học” Võ Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân,
2003 và tái bản năm 2008, 2013. Đây là công trình nhiên cứu lý luận về tội phạm
học và xem “tội phạ học ng nh khoa học ph p ý – xã hội học nghi n c u
ngu n g c b n chất c c h nh th c biểu hi n v thay ổi c a t nh h nh tội phạ ..”
[148 tr5]. Công trình nghiên cứu các nhóm hiện tượng xã hội như: Tình hình tội
phạm, tính quyết định luận, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, nhân
thân người phạm tội, phòng ngừa tội phạm, hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng
chống tình hình tội phạm. Công trình nghiên cứu tuy không phân tích chuyên sâu về
tội phạm cụ thể nhưng công trình đã cung cấp nền tảng lý luận mang tính định
hướng lý luận cho luận án tiếp cận nghiên cứu chuyên sâu về các tội xâm phạm tình
dục trẻ em. Công trình đã đưa ra những kết luận nghiên cứu có liên quan đến đề tài
luận án “Trong cơ cấu t nh h nh tội phạ ở thời gian c c tội x phạ sở hữu
c a c ng d n chi tỷ cao nhất kho ng 47% ti p n c c tội x phạ t nh
ạng s c khỏe nh n phẩ danh d c a con người chi 19% c c tội x phạ
an to n c ng cộng x phạ tr t t qu n ý h nh ch nh chi 10% ” [148, tr71]
“Giáo trình Tội phạm học” của Trường Đại Học Luật Hà Nội, Nxb Công an
nhân dân, 2015 đã đưa ra định nghĩa “tội phạm học là khoa học liên ngành, th c
nghi m nghiên c u về tội phạm (hi n th c), nguyên nhân c a tội phạm và kiểm soát
tội phạm nhằm mục ch phòng ngừa tội phạ ” [139b tr17]. Trong giáo trình này
nhóm tác giả đã phân tích các nội dung về tình hình tội phạm, lý luận chung về
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, lý luận về nhân thân và phòng
ngừa tội phạm. Đây là cơ sở lý luận góp phần củng cố lý luận cho các nghiên cứu
của luận án.
10
Sách chuyên khảo “Tội phạm học và cấu thành tội phạm” tác giả GS.TS
Nguyễn Ngọc Hòa, xuất bản 2015, nhà xuất bản Tư Pháp. Đây là công trình nghiên
cứu về tội phạm dưới góc độ luật hình sự và tội phạm học, công trình đã trình bày
những quan điểm khoa học về khái niệm tội phạm, về phân loại tội phạm, nội dung
chủ yếu của bốn yếu tố cấu thành tội phạm, về tình hình tội phạm, nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm và phòng ngừa tội phạm.
Sách chuyên khảo “Bình lu n khoa học Bộ Lu t hình s nă 2015 – sửa ổi
bổ sung nă 2017” (phần chung và phần các tội phạm) chủ biên GS.TS Nguyễn
Ngọc Hòa, xuất bản 2017, nhà xuất bản Tư Pháp. Công trình nghiên cứu có giá trị
hữu ích cho luận án nghiên cứu các tội xâm phạm tình dục trẻ em thông qua nội
dung bình luận tại điều 142, 144,145,146, 147 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ
sung năm 2017)
Sách chuyên khảo “Tội phạ học Vi t Na : Một s vấn ề ý u n v th c
tiễn” xuất bản năm 2000 của tập thể tác giả Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp
Luật. Đây có thể xem là một công trình nghiên cứu điển hình về tội phạm học, nội
dung nghiên cứu từ quá trình hình thành và phát triển của tội phạm học, đối tượng
và phương pháp nghiên cứu của tội phạm học đến các vấn đề về phòng ngừa tội
phạm. Những kiến thức của công trình nghiên cứu này góp phần ảnh hưởng đến tư
duy và hướng nghiên cứu của luận án.
Sách chuyên khảo “Một s vấn ề ý u n về t nh h nh tội phạ ở Vi t Na ”
Tác giả PGS. Tiến sĩ Phạm Văn Tỉnh, Nxb Tư Pháp, 2007. Tác phẩm này nghiên
cứu cơ cấu về số lượng bị cáo và sự biến động của nó trong tình hình tội phạm. so
sánh với giai đoạn 1986 – 1988 theo số chương của Bộ Luật Hình sự cho thấy: nhóm
tội phạm về ma túy có cấp độ nguy hiểm cao nhất, nhóm tội xâm phạm an toàn, trật
tự công công và nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có cùng cấp độ nguy
hiểm thứ hai; nhóm xâm phạm tình mạng, sức khỏe, nhân phẩm của con người có
cấp độ nguy hiểm thứ ba. Trong công trình nghiên cứu này tác giả không nghiên cứu
nguyên nhân và các biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Sách chuyên khảo “Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam” tác giả GS.TS
Nguyễn Văn Cảnh, PGS.TS Phạm Văn Tỉnh. Công trình nghiên cứu cho rằng “Tội
phạ học khoa học ph p ý h nh s phi quy phạ th c hi n vi c nghi n c u i
11
với kh ch thể cơ b n t nh h nh tội phạ v nghi n c u c c kh ch thể ph i sinh
bao g nh n th n người phạ tội; t nh h nh nạn nh n (người b hại) C a tội
phạ ; t c dụng c a h nh phạt i với t nh h nh tội phạ t c dụng c a những bi n
ph p phòng ngừa tội phạ v n ang ư c p dụng trong th c t v b n th n ch sử
ph t triển c a khoa học n y nhằ t ra quy u t c a hi n tư ng phạ tội trong xã
hội c i ư c thể hi n th ng qua c c phạ trù như b n chất c a t nh h nh tội phạ ;
nguy n nh n v iều ki n c a t nh h nh tội phạ hay t ra i i n h nh n qu
giữa t nh h nh tội phạ v c c hi n tư ng c c qu tr nh kinh t - xã hội kh c v ục
ch phòng ngừa tội phạ t c ngăn ngừa tội phạ v oại trừ tội phạ t c ngăn
ngừa tội phạ v oại trừ tội phạ ra khỏi ời s ng xã hội” [22 tr17]. Định nghĩa này
có nội dung báo quát hơn so với định nghĩa được đưa ra trước đây, và cũng bao quát
nhiều nội dung cụ thể hơn so với các định nghĩa của nhiều nhà khoa học khác. Từ đó
tác giả vận dụng để nghiên cứu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em cụ thể trong
chương 2 của luận án, và đánh giá công tác phòng ngừa cũng như nghiên cứu phòng
ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em thể hiện trong chương 4 của luận án.
Sách chuyên khảo “Nạn nh n c a Tội phạ ” tác giả PGS.TS Trần Hữu
Tráng, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2011. Tác giả đưa ra khái niệm về nạn nhân của tội
phạm, các yếu tố và hoàn cảnh cụ thể trở thành nạn nhân của tội phạm, nguyên nhân
của tình hình tội phạm trong đó có nguyên nhân từ phía nạn nhân. Vận dụng những
lý luận nêu trên, luận án cũng nghiên cứu về nạn nhân và vai trò của nạn nhân dưới
góc độ “nạn nh n ư c hiểu những c nh n tổ ch c b thi t hại về thể chất tinh
th n hoặc t i s n Nạn nh n bao g rất nhiều oại như nạn nh n c a chi n tranh
nạn nh n c a thi n tai nạn nh n b tai nạn ao ộng tai nạn giao th ng nạn nh n
t tử nạn nh n c a tội phạ … Trong c c oại nạn nh n kể tr n th nạn nh n c a tội
phạ dạng nạn nh n ặc bi t”. [135 tr12]
Sách chuyên khảo “Tội phạ học hi n ại v phòng ngừa tội phạ ” của GS.TS
Nguyễn Xuân Yêm, Nxb Công an nhân dân, 2001. Ở phần I công trình nghiên cứu lý
luận cơ bản về tội phạm học, ở phần II công trình nghiên cứu chuyên sâu về chuyên
ngành và phòng ngừa các tội phạm cụ thể. Tuy không có nội dung phân tích riêng về
nhóm tội xâm phạm tình dục nhưng công trình đã có những phân tích có đề cập đến các
tội xâm phạm tình dục. Ở trang 99 của giáo trình phân tích độ ẩn, tác giả có đề cập đến
các tội có độ ẩn lớn trong đó có một số tội phạm sinh lý (cưỡng dâm, giao cấu với trẻ
12
em dưới 16 tuổi). Ở trang 102 của giáo trình có phân tích “C c k t qu nghi n c u tội
phạ học c c vụ n cưỡng d cho thấy hơn 50% ch nh người phụ nữ ã tạo n n t nh
hu ng tạo iều ki n cho tội phạ x y ra” [151, tr102].
“Kh i ni phòng ngừa tội phạ dưới g c ộ tội phạ học” Trịnh Tiến Việt,
Tạp chí Khoa học xã hội Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật 24 (2008) trong bài
viết tác giả phân tích khái niệm tội phạm, các quan điểm về tội phạm, khái niệm về tội
phạm học, các quan điểm về tội phạm học, khái niệm phòng ngừa tội phạm. Trong bài
viết tác giả đưa ra khái niệm “tội phạ học ng nh khoa học xã hội – ph p ý h nh s
nghi n c u về tội phạ với tư c ch ột hi n tư ng xã hội nghi n c u về t nh h nh
tội phạ v c c oại tội phạ cụ thể về nguy n nh n v iều ki n phạ tội v tất c
c c i i n h c a tội phạ với những hi n tư ng xã hội v với qu tr nh diễn ra trong
xã hội ” [150, tr185-199]
“B n về kh i ni nạn nh n c a tội phạ ” Trần Hữu Tráng, tạp chí Luật học
số 01/2002. Trong bài viết tác giả đã đi sâu vào phân tích định nghĩa nạn nhân của
tội phạm, đặc điểm nạn nhân của tội phạm và phân biệt nạn nhân của tội phạm với
một số khái niệm khác trong luật hình sự và tố tụng hình sự như “Kh i ni nạn nh n
c a tội phạ còn ư c ph n bi t với kh i ni người b hại nguy n ơn d n s trong
t tụng h nh s Người b hại người b thi t hại về thể chất về tinh th n hay t i s n
do tội phạ g y ra Nguy n ơn d n s c nh n cơ quan hoặc tổ ch c b thi t hại về
v t chất do tội phạ g y ra v c ơn y u c u b i thường thi t hại”. [136 tr13]. Đây
cũng là một trong những lý luận cơ bản về nạn nhân góp phần vào việc nghiên cứu của
luận án về nạn nhân của các tội xâm phạm tình dục trẻ em
“Nạn nh n c a tội phạ ” Nguyễn Khắc Hải, tạp chí khoa học ĐHQGHN:
Luật học, số 2/2018. Bài viết của tác giả đã phân tích và giải thích sâu về khái niệm nạn
nhân dựa theo tiến trình lịch sử. Tác giả cho rằng “Dù ti p c n ở g c ộ n o th nạn
nh n học cũng vẫn c c ch hiểu chung khoa học nghi n c u về những tổn thương thể
chất tinh th n thi t hại t i ch nh c c c nh n – nạn nh n ph i g nh ch u do h nh
vi tr i ph p u t g y n n”[Tr86 87] Bài viết còn phân tích về nguyên nhân của nạn
nhân hóa, quyền của nạn nhân, vai trò của nạn nhân trong hệ thống tư pháp hình sự.
Nghiên cứu này đã củng cố thêm những lý luận cơ bản về nạn nhân, nạn nhân học của
tội phạm học góp phần vào nền tảng lý luận phục vụ cho nghiên cứu của luận án.
13
“Vấn ề ph n oại nh n th n người phạ tội trong tội phạ học”, Nguyễn
Thị Thanh Thủy, tạp chí luật học số 3/2003. Trong bài viết tác giả phân tích chuyên
sâu về phân loại người phạm tội như phân loại người phạm tội theo dấu hiệu nhân
khẩu học – xã hội, phân loại người phạm tội theo dấu hiệu pháp lý như: tính chất của
khuynh hướng chống lại xã hội và các định hướng giá trị của nhân thân (tính chất và
nội dung của mục đích và động cơ của hành vi phạm tội); mức độ nguy hiểm và bền
vững của tính chống đối xã hội đó (vị trí của các mục đích và động cơ trong cơ cấu
nhân thân, mức độ phát triển, độ sâu của các định hướng giá trị và các phẩm chất
đạo đức – tâm lý tương ứng). Bài viết cung cấp kiến thức lý luận chuyên sâu về phân
loại người phạm tội đưa ra những phân tích về người phạm tội “ngẫu nhiên” và “tình
huống” từ những kiến thức trên luận án đã tiếp cận và nghiên cứu phân loại nhân
thân người phạm tội XPTDTE dưới khía cạnh nhân khẩu học – xã hội.
“Đặc iể nh t nh c a t nh h nh tội phạ ở nước ta hi n nay” Phạm Văn
Tỉnh, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10/2005. Tác giả phân tích cơ cấu của tình
hình tội phạm bao gồm cơ cấu cơ bản, cơ cấu chuyên biệt, cơ cấu dữ liệu, bài viết
làm sáng tỏ cơ cấu trên hai bình diện dự liệu và thực tế, tác giả so sánh tổng hợp cơ
cấu dữ liệu và cơ cấu thực tế của tình hình tội phạm trên cơ sở của hình phạt trong
các thời kỳ của BLHS.
“Nguy n nh n v iều ki n c a t nh h nh tội phạ ở nước ta hi n nay – mô
h nh ý u n”, Phạm Văn Tỉnh, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 06/2008. Tác giả
phân tích khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, ảnh hưởng
của xu thế hội nhập đến nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm.
“Tổng quan về c ộ c a t nh h nh tội phạ ở Vi t Na qua s i u th ng
k từ nă 1986 – 2008”, Phạm Văn Tỉnh, 2011, Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà
nước và Pháp luật, số 4 (276), Tr 73- 80. Bài báo nghiên cứu về xu hướng của tình
hình tội phạm, các chỉ số khái quát, mức độ của tình hình tội phạm xét theo tội danh,
mức độ của tình hình tội phạm xét theo đơn vị hành vi phạm tội. Trong nhiều kết
quả nghiên cứu thì có kết quả nghiên cứu liên quan đến tội danh hiếp dâm và hiếp
dâm trẻ em (năm 2001 có 1.376 bị cáo; năm 2002 có 1.383 bị cáo; năm 2003 có
1.282 bị cáo) tổng cộng trong giai đoạn ba năm có 4.041 bị cáo (chiếm 2.16%)
14
Trong nghiên cứu này có giá trị tham khảo quan trọng trong công trình nghiên cứu
luận án của tác giả.
“Tội phạ học Vi t Na v phòng ngừa tội phạ ”, Phạm Văn Tỉnh, tạp chí
Nhà nước và pháp luật, 4/2009. Trong bài viết tác giả đã đi sâu vào phân tích về
tình hình tội phạm trên cơ sở lý giải nhiều luận điểm vả phòng ngừa tội phạm
“Phòng ngừa tội phạ ư c hiểu tổng thể c c bi n ph p do cơ quan tổ ch c v
ọi c ng d n ti n h nh dưới s ãnh ạo c a Đ ng c quyền nhằ t c ộng v o
c c y u t ph t sinh tội phạ cũng như oại trừ c c y u t n y v ục ch
ngăn chặn v ti n tới ẩy ùi tội phạ ra khỏi ời s ng xã hội” [120 tr59] - các hệ
thống của phòng ngừa tội phạm bao gồm các biện pháp loại trừ tội phạm vả các
biện pháp ngăn chặn tội phạm. Lý luận này được nghiên cứu sinh vận dụng vào quá
trình nghiên cứu của Luận án về phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em có
thể hiểu “ h th ng nhiều c ộ c c bi n ph p ang t nh ch ộng do cơ quan
tổ ch c v ọi c ng d n ti n h nh dưới s ãnh ạo c a Đ ng nhằ kh ng cho c c
tội x phạ t nh dục trẻ e diễn ra bằng c ch t c ộng hạn ch v bằng c ch
gi v d n d n oại bỏ t nh h nh tội phạ x phạ t nh dục trẻ e ‟
Trong các công trình nghiên cứu tội phạm học ở Việt Nam, có nhiều công
trình đưa ra định nghĩa về tình hình tội phạm có thể chia thành hai cách tiếp cận.
Một loại định nghĩa được xây dựng trên cách tiếp cận tình hình tội phạm là trạng
thái, xu hướng diễn biến của tội phạm nói chung và một loại định nghĩa được xây
dựng trên cách tiếp cận tình hình tội phạm như là một hiện tượng xã hội theo
GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm trong cuốn “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội
phạm” thì “Tình hình tội phạm là toàn bộ tình hình, cơ cấu, động thái, diễn biến của
các loại tội phạm hay từng loại tội phạm trong một giai đoạn nhất định xảy ra trong
một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm vi quốc gia, khu vực hoặc toàn thế giới
trong một khoảng thời gian nhất định” [151. tr88] Cùng với quan điềm này thì theo
TS. Nguyễn Ngọc Thế thì “Tình hình tội phạm chính là sự khắc họa tổng thể của
những hiện tượng tội phạm đã xảy ra. Nghiên cứu tình hình tội phạm và nghiên cứu
trạng thái của tội phạm và nghiên cứu xu hướng vận động của tội phạm”. [130.tr9]
PGS.TS Phạm Văn Tỉnh thì cho rằng “T nh h nh tội phạ ột hi n tư ng
15
xã hội ti u c c ang t nh ch sử v t nh ph p ý h nh s c t nh giai cấp v ư c
biểu hi n bằng tổng thể c c tội phạ cùng c c ch thể th c hi n c c tội phạ
trong ột ơn v h nh ch nh ãnh thổ nhất nh v trong ột thời gian cụ thể nhất
nh” [117 tr10] với những ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường sống, văn hóa, kinh tế
xã hội đã ảnh hưởng đến tình hình tội phạm phát sinh và tồn tại trong xã hội
Với những quan điểm trên đã cho thấy các công trình nghiên cứu tội phạm
học trong nước đã xây dựng nên một hệ thống lý luận về tội phạm học, lý luận về
tình hình tội phạm, nguyên nhân điều kiện của tình hình tội phạm, lý luận về nạn
nhân của tội phạm và phòng ngừa tội phạm là nền tảng kiến thức cho các công trình
nghiên cứu tiếp nối. Ngoài ra, các nghiên cứu về tội phạm học còn phân tích sâu về:
các thông số, chỉ số của tình hình tội phạm như là mức độ của tình hình tội phạm,
động thái của tình hình tội phạm, cơ cấu của tình hình tội phạm, tính chất của tình
hình tội phạm và khái niệm tội phạm ẩn. Những thông số, chỉ số này được phân tích
đánh giá dưới khía cạnh định tính và định lượng thông qua các số liệu thống kê tư
pháp. Các nghiên cứu lý luận về Tội phạm học đã cho thấy rằng tội phạm và tình
hình tội phạm là mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung, vì thế khi tiếp cận nghiên
cứu tội phạm học là sự tiếp cận về bản chất của tình hình tội phạm với tư cách là cái
được phản ánh thông qua các thông số định tính, định lượng của tình hình tội phạm và
cần phải xuất phát từ hành vi cụ thể của con người trong xã hội. Từ đó lý giải nguyên
nhân của tình hình tội và những biện pháp phòng ngừa tội phạm đạt hiệu quả.
Quan điểm của nghiên cứu sinh sẽ đi theo cách tiếp cận xem tình hình tội
phạm là một khách thể nghiên cứu cơ bản của tội phạm học, xem tình hình tội phạm
như là “ ột hi n tư ng xã hội ph p ý - h nh s ư c thay ổi về ặt ch sử ang
t nh chất giai cấp bao g tổng thể th ng nhất (h th ng) c c tội phạ th c hi n
trong ột xã hội (qu c gia) nhất nh v trong ột kho ng thời gian nhất nh”
[148. tr160]. Có thể thấy rằng, các công trình trên đã cung cấp kiến thức mang tính
tương đối toàn diện về tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, đồng thời cũng chỉ ra
phương pháp nghiên cứu, trang bị hệ thống các khái niệm và phương hướng nghiên
cứu khoa học về tình hình tội phạm cho luận án và cho các công trình nghiên cứu
tiếp nối.
16
1.1.2 Những công trình nghiên cứu có liên quan về các tội xâm phạm tình dục và
các công trình nghiên cứu tội phạm học về tình hình, nguyên nhân và phòng
ngừa tội phạm.
Các công trình nghiên cứu được thể hiện dưới dạng luận án, luận văn hay bài
báo nghiên cứu, tài liệu chuyên ngành sẽ là cơ sở dữ liệu hỗ trợ cho việc nghiên cứu
luận án được chuẩn xác phù hợp với thực tế hơn. Những công trình nghiên cứu về
các tội xâm phạm tình dục, hay các công trình nghiên cứu về tình hình, nguyên nhân
và phòng ngừa tội phạm hiện nay rất đa dạng, nghiên cứu từng tội phạm cụ thể hoặc
một nhóm tội phạm. Luận án chỉ khai thác những công trình nghiên cứu điển hình có
giá trị tham khảo hoặc liên quan đến đề tài của luận án bao gồm các công trình như sau:
Tài liệu chuyên ngành “Gi i p vướng ắc trong hoạt ộng th c h nh
quyền c ng t kiể s t vi c khởi t iều tra truy t xét xử c c vụ n vụ vi c x
hại phụ nữ trẻ e ” Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2019, Nhà xuất bản Tư pháp.
Tài liệu có nội dung liên quan đến luận án như: hướng dẫn và giải đáp thắc mắc của
Nghị quyết số 06/2019/NQ – HĐTPTANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định
tại điều 141,142,143,144,145,146,147 của Bộ luật hình sự và việc xét xử vụ án xâm
hại tình dục người dưới 18 tuổi và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về
phòng, chống xâm hại phụ nữ và trẻ em. [154, Phụ lục 1]
Luận án tiến sĩ luật học “C c tội x phạ t nh dục trong u t h nh s Vi t
Na ” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Linh năm 2019, Trường Đại học quốc gia Hà
Nội. Luận án nghiên cứu một cách hệ thống, đồng bộ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về các tội xâm phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam. Xây dựng cơ sở lý
luận về các tội xâm phạm tình dục, phân tích nội dung quy định pháp luật về các tội
xâm phạm tình dục, đánh giá những điểm mới và đề xuất mô hình lập pháp về các
tội xâm phạm tình dục, kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
quy định của các tội xâm phạm tình dục trong luật hình sự.
Luận án tiến sĩ luật học “Đấu tranh phòng ch ng tội ua b n phụ nữ ở Vi t
Na ” của tác giả Nguyễn Văn Hương, năm 2008, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Luận án nghiên cứu về tội mua bán phụ nữ trong giai đoạn từ năm 1998 – 2007, có
1904 bị cáo phạm tội trong có có 697 bị cáo là nữ giới. Đối với tội mua bán phụ nữ
thì việc lợi dụng mối quan hệ quen biết, dụ dỗ về vật chất chiếm tỷ lệ cao trong cơ
17
cấu tình huống phạm tội. Đây cũng là tội phạm trực tiếp xâm hại đến quyền con
người và nạn nhân là nữ giới. Luận án cũng phân tích nguyên nhân và giải phòng
ngừa tội phạm này. Công trình nghiên cứu này cũng góp phần định hướng mở rộng
nghiên cứu các tội phạm mà chủ thể của tội phạm là nữ giới.
Luận án tiến sĩ luật học “Đấu tranh phòng ch ng tội phạ c sử dụng bạo c
ở Vi t Na hi n nay”, Nguyễn Ngọc Bình, năm 2010. Luận án phân tích lý luận về
phòng ngừa tội phạm và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm có sử dụng bạo lực.
Luận án phân tích thực trạng của tình hình tội phạm có sử dụng bạo lực ở Việt Nam giai
đoạn từ năm 1999 – 2008 thông qua số liệu thống kê, phân tích diễn biến, cơ cấu, tính
chất của tình hình tội phạm và đề xuất các giải pháp nhằm ngăn chặn và phòng, chống tội
phạm có sử dụng bạo lực. Tiếp cận nghiên cứu của luận án này trong việc phòng ngừa tội
phạm có hành vi dùng bạo lực để đạt mục đích, vận dụng các nghiên cứu này vào trong
việc phòng ngừa hành vi xâm hại tình dục trẻ em có xu hướng sử dụng bạo lực.
Luận án tiến sĩ luật học “Phòng ch ng tội phạ ua b n người tại Vi t Na ”
Nguyễn Mai Trâm, năm 2017, Học viện Khoa học Xã hội . Công trình nghiên cứu về
tình hình tội phạm mua bán người từ năm 2004 đến năm 2015, luận án phân tích tính
hình tội phạm mua bán người trên phạm vi toàn quốc, đánh giá nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội phạm, luận án tiếp cận dưới góc độ quyền con người đối với tội
phạm mua bán người, đưa ra các giải pháp căn bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong thực tiễn. Công trình nghiên cứu này cũng
là tài liệu tham khảo hữu ích để nghiên cứu tội phạm dưới góc độ tội phạm học theo
hướng đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Luận án tiến sĩ luật học “Tội gi t người trong Lu t h nh s Vi t na v ấu
tranh phòng ch ng tội phạ n y” Đỗ Đức Hồng Hà, 2007. Luận án nghiên cứu về tội
giết người theo quy định của Luật hình sự, thực tiễn tình hình tội giết người ở Việt
Nam từ giai đoạn 1996 – 2005, lý giải nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết
người, luận án đề xuất các giải pháp phòng ngừa và nâng cao hiệu quả của công tác
phòng, chống tội phạm này trên thực tế. Kế thừa thành quả nghiên cứu mà luận án đề
cập trong đó có hành vi giết người nhằm che dấu hành vi phạm tội, trong đó có hành
vi xâm phạm tình dục trẻ em. [75]
Luận văn thạc sĩ “C c tội phạ t nh dục v ấu tranh ch ng c c tội phạ
n y ở Vi t Na trong giai oạn hi n nay”, Trịnh Thị Thu Hương, 2004. Luận văn
18
nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn cả nước. Nạn nhân của tội
phạm phần lớn là nữ. Luận văn phân tích quy định của pháp luật hình sự về các tội
xâm phạm tình dục trẻ em và thực trạng của tình hình tội phạm. Tác giả đề xuất các
biện pháp đấu tranh và phòng ngừa loại tội phạm này trên thực tiễn. Với tính chất là
tài liệu tham khảo luận án sẽ tiếp cận các quan điểm của tác phẩm này như phân tích
pháp luật thực định và vận dụng kiến nghị đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Luận văn thạc sĩ “B o v quyền c a nạn nh n c c tội x phạ t nh dục trẻ
e dưới g c ộ quyền con người” Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh, 2011. Luận văn phân
tích quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, phân tích
nạn nhân của tội phạm và các quyền liên quan đến nạn nhân của tội phạm. Luận văn
phân tích quy định của pháp luật về bảo vệ quyền của nạn nhân trong đó có nạn
nhân của các tội xâm phạm tình dục và Quyền con người trong quy định của pháp
luật. Từ các kết quả của những nghiên cứu trên, luận án đã tiếp thu và nghiên cứu đề
xuất bảo vệ quyền nạn nhân các tội xâm phạm tình dục trẻ em dưới gốc độ quyền
con người.
“Một s kh khăn v gi i ph p n ng cao hi u qu phòng ch ng tội phạ x
hại t nh dục trẻ e ”, Nguyễn Văn Điền, 8/2019, tạp chí Tòa án nhân dân. Tác giả
phân tích lý luận về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, những khó khăn vướng mắc
khi giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em trên thực tiễn. Từ đó tác giả đề xuất
những giải pháp nhầm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em
và nâng cao công tác đấu tranh phòng ngừa.
“Những kh khăn vướng ắc c a cơ quan ti n h nh t tụng trong qu tr nh
iều tra c c vụ n x hại t nh dục trẻ e ” Trần Xuân Thiên An, 2018, tạp chí Kiểm
sát. Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc trong công tác giải quyết vụ án của
cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt công tác của Viện kiểm sát trong quá trình giải
quyết các vụ án về xâm hại tình dục trẻ em, từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể cho
việc phòng ngừa đối với các tội này trên thực tiễn trong thời gian tới.
“Th c trạng v gi i ph p ấu tranh phòng ch ng tội phạ x hại t nh dục
trẻ e ở nước ta hi n nay’ Đỗ Đức Hồng Hà, 19/2017, tạp chí Tòa án nhân dân. Bài
viết thống kê tình hình các tội XPTDTE diễn ra hiện nay ở các địa bàn như Thành phố
Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, An Giang, Long An, Tiền Giang, Kiên Giang, Cà Mau,
19
Đồng Nai, Tây Ninh... Từ đó tác giả cũng đề xuất các giải pháp đấu tranh phòng,
chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ em ở nước ta hiện nay.
1.1.3 Những công trình nghiên cứu về tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa các tội
xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn cả nước hoặc từng địa phương
Sách chuyên khảo “Phòng ch ng tội phạ x hại t nh dục trẻ e tr n a
b n tỉnh Đ ng Nai” Đồng Xuân Thọ, Nxb Công an nhân dân, 2011. Công trình
nghiên cứu chuyên sâu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, giai đoạn từ năm 1998
– 2007 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Công trình phân tích khái niệm về trẻ em và quy
định của pháp luật về trẻ em, phân tích quy định pháp luật về các tội xâm phạm tình
dục trẻ em. Quan điềm của Đảng và Nhà nước về công cuộc đấu tranh phòng, chống
các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Bằng phương pháp thống kê công trình cho thấy
thực trạng, diễn biến, cơ cấu và tính chất của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ
em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Các đặc điểm về địa lý, kinh tế, xã hội và dân cư ảnh
hưởng đến tình hình tội phạm. Công trình đưa ra dự báo và giải pháp phòng ngừa cụ
thể trên đại bàn tỉnh Đồng Nai. Kết quả nghiên cứu của công trình có giá trị tham
khảo cho các nghiên cứu tiếp theo và là tài liệu tham khảo hữu ích đối với việc
nghiên cứu về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em gắn với địa bàn cụ thể.
Luật án Tiến sĩ “Đấu tranh phòng ch ng tội hi p d trẻ e ở Vi t Na trong
giai oạn hi n nay” Lê Hữu Du, 2015, Học Viện Khoa học Xã hội. Luận án nghiên cứu
tình hình tội hiếp dâm trẻ em giai đoạn từ năm 2007 – 2013 trên địa bàn cả nước. Luận án
phân tích nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm dưới tác động của môi trường
sống, môi trường con người và tình huống phạm tội, từ đó đề xuất các giải pháp phòng
ngừa tội hiếp dâm trẻ em. Những kết quả của luận án là cơ sớ quý giá cho việc nghiên
cứu về các tội xâm phạm tình dục trong đó có tội hiếp dâm trẻ em. Luận án cũng kế thừa
kết quả của nghiên cứu này để tiếp nối nghiên cứu với giai đoạn tiếp theo.
Luận án Tiến sĩ luật học “C c tội x phạ t nh dục trẻ e tr n a b n iền
Đ ng Na Bộ: t nh h nh nguy n nh n v gi i ph p phòng ngừa” Trần Văn Thưởng,
Năm 2018, công trình nghiên cứu tình hình các tội XPTDTE từ năm 2008 – 2017 trên
địa bàn miền Đông Nam Bộ với 2064 vụ/2122 bị cáo. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy
các tỉnh Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố. Hồ Chí Minh có tỉ lệ phạm
tội cao nhất. Đa số đối tượng phạm tội trong độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi chiếm 54.8%,
20
đối tượng phạm tội có nghề nghiệp không ổn định chiếm 58,8%. Công trình đã phân
tích nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTDTE gắn với địa bàn miền
Đông Nam Bộ. Từ đó đề xuất các giải pháp thiết thực phòng ngừa tội phạm. Công
trình này là bước tiếp nối cho nghiên cứu tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền
Tây Nam Bộ của tác giả, so sánh đối chiếu đã cho thấy nguyên nhân điều kiện của
tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở cả hai địa bàn Đông Nam Bộ và Tây
Nam Bộ có nhiều nét tương đồng như điều kiện về phát triển kinh tế, Tuy nhiên giữa
hai địa bàn cũng có sự khác biệt đáng kể: như yếu tố về dân cư, thành phần dân tộc.
Dân cư ở khu vực cụm công nghiệp, tình trạng di cư ở địa bàn Đông Nam Bộ thì yếu
tố này Tây Nam Bộ không có sự tác động nhiều trong nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội phạm. Ngược lại đối với miền Tây Nam Bộ thì đời sống như hôn nhân
với thực trạng ly hôn cao ở các địa bàn cũng là nguyên nhân và điều kiện của tình
hình các tội XPTDTE, ngoài ra các yếu tố như: phụ nữ kết hôn nước ngoài, khu vực
dân cư sông nước sống thưa thớt, trẻ em người dân tộc Khơme chưa được cha mẹ
quan tâm đầy đủ đây là các nguyên nhân của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên
địa bàn miền Tây Nam Bộ trong khi đó Đông Nam Bộ ít bị ảnh hưởng bởi những yếu
tố này. Do vậy luận án sẽ kế thừa và tiếp nối các công trình nghiên cứu trước đó để
phát triển từ đó nêu ra những giải pháp riêng cho địa bàn và các khu vực lân cận để
làm rõ hơn tình hình các tội XPTDTE của các khu vực và tình hình các tội XPTDTE
của cả nước.
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Tội phạ x phạ t nh dục trẻ e ở c c tỉnh
th nh ph ph a Na th c trạng v gi i ph p phòng ngừa ấu tranh” Vũ Đức
Trung, 2005, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân. Đề tài đã nghiên cứu thực tiễn
công tác phòng ngừa, đấu tranh các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn các
tỉnh, thành phố phía Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp phòng ngừa, đấu tranh của
lực lượng cảnh sát nhân dân. Trong đề tài có một số nội dung liên quan đến luận án
như tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh, thành phố phía
Nam, phân tích các yếu tố tác động đến tình hình tội phạm từ đó phân tích nguyên
nhân và điều kiện trực tiếp liên quan đến người phạm tội. Kết quả nghiên cứu này là
một trong những tài liệu tham khảo rất cần thiết cho nghiên cứu của luận án. Đặc
biệt là phần giải pháp phòng ngừa mang tính nghiệp vụ.
21
Đề tài nghiên cứu cấp Trường “Đấu tranh phòng ch ng c c tội x phạ
t nh dục người chưa th nh ni n tại c c Tỉnh Ph a Na ” Võ Thị Kim Oanh, Lê
Nguyên Thanh, Phạm Thái, 2008, Đại học Luật TP.HCM. Đề tài phân tích lý luận về
các tội xâm phạm tình dục người chưa thành niên, lý luận về phòng, chống các tội
xâm phạm tình dục và xâm phạm tình dục người chưa thành niên. Phân tích thực trạng
tình hình tội các tội xâm phạm tình dục người chưa thành niên tại các tỉnh phía Nam.
nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục người chưa thành
niên. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tại các tỉnh phía Nam, kiến nghị các
giải pháp cụ thể. Với tính chất là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu của Luận án, đề
tài cung cấp kiến thức lý luận làm nền tảng cho việc so sánh đối chiếu và kế thừa với
các công trình có cùng đối tượng nghiên cứu.
Luận văn thạc sĩ “Hoạt ộng phòng ngừa tội phạ hi p d trẻ e c a c
ư ng C nh s t iều tra tội phạ về tr t t xã hội C ng an th nh ph H Nội”
Nguyễn Thị Hương, 2012, Học viện CSND. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu hoạt
động phòng ngừa tội phạm hiếp dâm trẻ em do lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn phân tích khái niệm, vai trò,
trách nhiệm, nội dung, biện pháp phòng ngừa và công tác phối hợp của các chủ thể có
thẩm quyền. Qua công trình nghiên cứu này luận án tiếp cận tham khảo về công tác
nghiệp vụ trong điều tra và phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em và nghiên
cứu giải pháp phòng ngừa cụ thể.
Luận văn thạc sĩ “Đấu tranh phòng ch ng c c tội x phạ t nh dục trẻ e
tr n a b n Th nh ph H Nội” Hà Xuân Tùng (2010). Luận văn đã phân tích tình
hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Thành phố Hà Nội, giai đoạn 2004
– 2009 Tòa án đã xét xử 270 vụ/438 bị cáo, luận án còn phân tích nguyên nhân và
điều kiện cùa tình hình tội phạm này, đề xuất giải pháp phòng ngừa các tội xâm phạm
tình dục trẻ em trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Luận văn thạc sĩ “C c tội x phạ t nh dục i với trẻ e tr n a b n tỉnh
Trà Vinh – T nh h nh nguy n nh n v gi i ph p phòng ngừa” Diệp Huyền Thảo
(2014) - Luận văn thạc sĩ - Học viện Khoa học. Đây là công trình nghiên cứu về
tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tình Trà Vinh giai đoạn
2004 – 2013. Công trình nghiên cứu về thực trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất của
22
tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội phạm, dự báo tình hình tội phạm diễn ra trong thời
gian tới và giải pháp phòng ngừa loại tội phạm này trên địa bàn. Công trình này có ý
nghĩa nền tảng cho việc nghiên cứu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
địa bàn miền Tây Nam Bộ với tính chất là luận án tiến sĩ.
Luận văn thạc sĩ “Hoạt ộng c a c ư ng CSND trong phòng ngừa v iều
tra tội phạ hi p d trẻ e x y ra tr n a b n tỉnh Đ ng Th p” Võ Thành Tốt
(2002) - Học viện CSND; Công trình nghiên cứu về thực trạng, diễn biến, cơ cấu,
tính chất của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng
Tháp, nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm tình dục trẻ em trên địa
bàn tỉnh Đồng Tháp trong đó yếu tố địa lý mang tính đặc thù của địa bàn, dự báo
tình hình tội phạm diễn ra trong thời gian tới và giải pháp phòng ngừa. Thành quả
nghiên cứu của luận văn là cơ sở tham khảo cho công trình nghiên cứu của Luận án.
Đồng Tháp là một trong các địa bàn của miền Tây Nam Bộ nên việc tiếp cận với các
công trình nghiên cứu chuyên sâu, phân tích vị trí địa lý, ảnh hưởng của vùng đến
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm có ý nghĩa hữu ích trong nghiên
cứu của Luận án.
Luận văn thạc sĩ “Đấu tranh phòng ch ng tội hi p d tr n a b n Tỉnh
S c Trăng” Phan Thị Ngoan (2013) - Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học Xã hội.
Luận văn nghiên cứu về phần hiện và phần ẩn của tình hình các tội xâm phạm tình
dục trẻ em. Công trình đã thống kê các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng từ năm 2007 – 2012 như sau: hiếp dâm (33 vụ/44 bị cáo); Hiếp dâm trẻ em (91
vụ/93 bị cáo); giao cấu với trẻ em (27 vụ/27 bị cáo); Dâm ô trẻ em (12 vụ/13 bị cáo);
cưỡng dâm và cưỡng dâm trẻ em (0 vụ/0 bị cáo). Công trình còn phân tích nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Yếu tố về văn
hóa, dân tộc, trình độ dân trí được tác giả phân tích chuyên sâu. Luận văn nêu ra dự báo
tình hình tội phạm và phòng ngừa tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Lê Thị Linh Sương “Kh a cạnh nạn nh n trong nguy n nh n v iều ki n c a
c c tội x phạ t nh dục trẻ e tr n a b n Th nh ph H Ch Minh” luận văn
thạc sỹ (2015). Luận văn đã phân tích nạn nhân của các tội xâm phạm tình dục trẻ em
và có những kết luận đáng chú ý như sau: trẻ em cơ nhỡ, lang thang trên các địa bàn
23
quận 2, 10, 12 và quận Thủ Đức có nguy cơ cao trở thành nạn nhân của tội phạm này.
Trẻ em ở những khu trọ, có cha mẹ làm công nhân cũng dễ trở thành nạn nhân của các
tội xâm phạm tình dục trẻ em. Nguyên nhân về kinh tế, đời sống cũng có ảnh hưởng đến
việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, sự ít quan tâm của cha mẹ, sự dễ dãi của trẻ em gái
cũng là dễ dàng tạo điều kiện cho người phạm tội thực hiện hành vi xâm hại tình dục.
Bùi Bé Năm “N ng cao hi u qu hoạt ộng phòng ngừa iều tra xử ý tội
phạ x phạ t nh dục trẻ e tr n a b n tỉnh An Giang” (2007) Luận văn đã
phân tích về phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa các tội xâm phạm tình
dục trẻ em, phân tích tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh An Giang cụ thể như địa
bàn: Tri Tôn, Tịnh Biên, Tân Châu nơi giáp ranh khu vực biên giới, từ đó đề xuất các
giải pháp phòng ngừa, điều tra và xử lý các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Các công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em đã cho thấy
xu hướng ngày càng gia tăng của loại tội phạm này. Sự tăng giảm không điều của
tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em qua các năm cũng cho thấy những diễn
biến phức tạp của tình hình các tội xâm phạm tình dục trong thời gian tới. Trong
nhóm các tội xâm phạm tình dục thì tội hiếp dâm trẻ em chiếm tỉ lệ cao nhất. Các
công trình nghiên cứu có nhiều quan điểm về nguyên nhân của tình hình các tội xâm
phạm tình dục. Tuy nhiên đa số đều thống nhất các yếu tố phát sinh loại tội phạm
này là do các nguyên nhân về kinh tế, xã hội và nguyên nhân trong quản lý nhà nước
hoặc những nghiên cứu thiên về các như: yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống,
môi trường quản lý, giáo dục của gia đình, nhà trường, môi trường xã hội do Nhà
nước quản lý, hay các hiện tượng tiêu cực thuộc về chủ thể của tội phạm và tình
huống phạm tội, các hiện tượng về sự biến đổi tâm sinh lý,bệnh lý, các hiện tượng
tiêu cực do việc gia tăng tệ nạn xã hội. Các nghiên cứu cũng kiến nghị và đề xuất
các giải pháp phòng ngừa tội phạm gắn kết với từng nhóm nguyên nhân cụ thể như
giải pháp về kinh tế, xã hội, giáo dục, môi trường sống, về gốc độ nạn nhân. Những
giải pháp gắn liền với từng địa bàn cụ thể nhằm tăng cường biện pháp phòng ngừa
cho từng vùng trên địa bàn miền Tây Nam Bộ.
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Tình hình tội phạm nói chung, tội phạm xâm hại tình dục trẻ em nói riêng
không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới cũng luôn có nhiều diễn biến phức tạp và có
24
xu hướng gia tăng. Chính vì vậy, nó đã thu hút nhiều sự quan tâm của cộng đồng
quốc tế và rất nhiều tổ chức, nhà nghiên cứu tội phạm học ở hầu hết các quốc gia với
nhiều cấp độ và khía cạnh nghiên cứu khác nhau
1.2.1 Những công trình nghiên cứu lý luận về tội phạm học
Trong cuốn sách “Criminology Today”, nhà xuất bản Prentice Hall năm
2002, Trường Đại học Bắc Cariolina ở Perbroke (Mỹ) của Tiến sĩ triết học Giáo sư
danh dự Frank – Schmalleger chủ biên. Trong quyển Sách Criminology Today khái
niệm về tội phạm học “Tội phạ học khoa học bao quanh chuy n n i n
ng nh nghi n c u về tội phạ v h nh vi phạ tội bao g c những biểu hi n c a
n nguy n nh n c c kh a cạnh ph p ý v s kiể so t” [164. tr10] tức là tội phạm
học là khoa học có tính liên ngành vì nghiên cứu về tội phạm phải hiểu biết các vấn
đề của các khoa học khác, nhằm để tổng hợp các vấn đề liên quan đến tội phạm tồn
tại trong xã hội và tìm ra các quy luật để có các giải pháp xử lý các vấn đề do tội
phạm gây ra.Ngoài ra, quan niệm về tội phạm học hiện đại thì tội phạm học là ngành
khoa học thực nghiệm độc lập nghiên cứu các sự việc thuộc các lĩnh vực của con
người, xã hội mà chúng liên quan đến sự hình thành tội phạm, việc phạm tội, hậu
quả của tội phạm và việc ngăn chặn tội phạm cũng như việc xử lý những người
phạm tội
Trong cuốn sách “On crime and punishment”, tác giả Cesare Beccaria. Đây
là sách chuyên khảo thuộc trường phái tội phạm học cổ điển xuất hiện từ giữa thế kỷ
XVIII. Công trình nghiên cứu của Cesare Beccaria đã cung cấp kế hoạch và giới hạn
trong hệ thống pháp luật, phân tích hệ thống tư pháp hình sự hiện đại, thừa nhận kẻ
phạm tội khi thực hiện tội phạm có cân nhắc đến yếu tố hậu quả. Theo công trình
nghiên cứu thì các cá nhân có tự nguyên lựa chọn những cách thức thực hiện hợp
pháp hoặc hoặc không hợp pháp để đạt mục đích và tâm lý lo ngại về hình phạt có
thể ngăn chặn hành vi phạm tội của con người.
Trong cuốn sách “Crime and Society” Fance Heidensohn. Tác giả cho rằng
“tội phạm học là khoa học nghiên cứu tội phạm, các dạng tội phạm, các nguyên
nhân của tội phạm và các mối quan hệ với các hiện tượng và quá trình khác; nghiên
cứu hiệu quả áp dụng các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm” Tội phạm và
xã hội là tổng quan nghiên cứu toàn diện xã hội học về tội phạm, mối quan hệ giữa
25
tội phạm và xã hội kết hợp phân tích lý thuyết với các khảo sát thực nghiệm. Bao
gồm các vấn đề: khái niệm tội phạm, tội phạm vị thành niên, nạn nhân của tội phạm
và chính sách kiểm soát tội phạm.
Trong cuốn sách “Crime and Criminology” Rob White Haines, Trường đại
học Oxford, xuất bản năm 2000. Tác giả viết “Tội phạm là một lĩnh vực nghiên cứu
độc lập, có phạm vi nghiên cứu của tội phạm học rất rộng liên quan đến khía cạnh xã
hội học pháp luật, nguyên nhân của tội phạm và sự phản ứng của xã hội đối với tội
phạm” tác già cho rằng tội phạm học với tư cách là một hiện tượng xã hội, mục tiêu
của tội phạm học là phát triển một hệ thống chung các nguyên tắc đã thực thi trên
thực tế thông qua thực trạng tội phạm và quá trình giải quyết tội phạm.
Trong cuốn sách “Cri ino ogy – The Core”, của tác giả Larry Siegel, Nhà
xuất bản Cengage Learning, năm 2014. Tác giả đã đưa ra những nghiên cứu một
cách tổng thể về lý thuyết cơ cấu xã hội, xung đột xã hội nghiêm trọng giữa tội
phạm và công lý, các lý thuyết phát triển về thiên hướng và quy luật tội phạm đây là
một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về tội phạm, đặc biệt là kết quả của
những nghiên cứu về mối quan hệ giữa nạn nhân và tội phạm, nạn nhân với nạn
nhân, dự báo về các nguy cơ tái phạm đối với một số loại tội phạm.
Trong tác phẩm “Cri e prevension theory and practice” của Stephen R.
Schneider giáo sư về lĩnh vực khoa học xã hội học và tội phạm, thuộc Đại học Saint
mary, Halifax, Nova Scotia, Canada. Tác giả nhấn mạnh các vấn đề lý luận về phòng
ngừa tội phạm, biện pháp phòng chống tội phạm thông qua thiết kế môi trường. Tác
phẩm đã đề cập đến việc phòng ngừa tội phạm với đối tượng thanh thiếu niên,
những người trưởng thành bằng việc thực hiện các hoạt động cộng đồng, hoạt động
hữu ích. Từ đó tác giả đã có những giải pháp phòng ngừa tội phạm bằng cách thức
thay đổi hành vi từ chính nạn nhân, giảm nguy cơ trở thành nạn nhân tiềm tàng, hay
giải pháp về việc giảm sát sự tiếp cận giữa nạn nhân với người phạm tội, hạn chế sự
tác động của nguyên nhân và điều kiện của việc hình thành động cơ phạm tội. Tác
giả cũng chỉ ra được những hạn chế và cách giải quyết những hạn chế của việc áp dụng
các giải pháp giải quyết vấn đề xã hội cho người phạm tội, tập trung vào công tác phòng
ngừa tái phạm, nâng cao trách nhiệm của cộng đồng trong phòng ngừa tội phạm.
26
Trong cuốn sách “Crimes and Justie in Contemporary Japa” 1989, Trường
Đại học Tổng hợp Ritsumeikan, tác phẩm do GS.TS Nguyễn Xuân Yêm và GS.TS
Hồ Trọng Ngũ dịch từ bản tiếng Nga của Nxb Tiến Bộ, Maxcova năm 1989. Công
trình nghiên cứu chỉ ra chủ thể của hoạt động phòng ngừa tội phạm bao gồm các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội, và các nhà khoa học. Nghiên cứu đề cập đến các
quan điểm về tội phạm, các biện pháp đấu tranh chống tội phạm, trong đó các chính
sách về kinh tế, văn hóa, xã hội là các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm. Với
công trình khoa học này, nhà tội phạm học người Nhật cho rằng tội phạm học không phải
là khoa học duy nhất nghiên cứu tội phạm, mà là đối tượng của một số ngành khoa học
khác như: Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Xã hội học, Tâm lý học, Thần kinh học.
Trong t c phẩ “Teoretichskiye osnovy preduprezhdeniya prestupnosti” d ch
“Cơ sở ý u n c a vi c phòng ngừa tội phạ ” Mikovskij G.M, Nxb.Max-xcơ-va,
Jurid, Literature, năm 1977, (bản dịch của Viện thông tin Khoa học xã hội, năm
1982). Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về cơ sở lý luận của phòng ngừa tội
phạm. Công trình chỉ rõ tội phạm là một hiện tượng xã hội và phương hướng đấu
tranh chống tội phạm cơ bản nhất là phòng ngừa tội phạm.
1.2.2 Những nghiên cứu chuyên sâu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Công trình “ Child Sexual Abuse: Crimes, Victims, Offender Characteristics,
and Recidivis ”, Anita Carlsteadt, 2012. Trung tâm Đạo đức, Pháp luật và Sức khỏe
Tâm thần Viện Khoa học thần kinh và Sinh lý học Học viện Sahlgrenska tại Đại học
Gothenburg. Công trình nghiên cứu đã phân tích hành vi lạm dụng tình dục được
hiểu là hành động tình dục giữa trẻ em và có mối tiếp xúc cơ thể với bộ phận sinh
dục của trẻ em hoặc có ý định ép buộc họ hoạt động tình dục. Theo nghiên cứu này
thì sử dụng trẻ em khiêu dâm được hiểu khác hơn và được định nghĩa trong Bộ luật
Hình sự Thụy Điển (Brottsbalken) là hành vi quấy rối tình dục. Nghiên cứu cũng nói
đến việc rối loạn tình dục đặc trưng DSM-IV cũng là nguyên nhân đến hành vi xâm
phạm tình dục trẻ em.
Công trình nghiên cứu “The Legal Process In Child Sexual Abuse-
Difficulties in confirming evidence and providing support” Master Thesis Christina
Back , Linköping University, Sweden, 2012. Công trình nghiên cứu về tình hình
nạn nhân của tội phạm (trẻ em bị xâm phạm tình dục) với độ tuổi từ 8 - 18 tuổi.
27
Nghiên cứu những nguyên nhân trẻ em bị lạm dụng tình dục thông qua nhiều kênh
thông tin như các nhà làm luật, công tố viên, cha mẹ của những trẻ em bị lạm dụng
tình dục, công trình nghiên cứu thông qua khảo sát, phỏng vấn để nghiên cứu về nạn
nhân của tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em.
Công trình nghiên cứu “United States child abuse prevention” by Prevent
child Abuse America, công bố năm 2000, GS David Frikelhor. Với công trình
nghiên cứu của Liên hiệp quốc gia về phòng ngừa lạm dụng tình dục và bóc lột trẻ
em Hoa kỳ: Nghiên cứu đánh giá rằng hệ thống pháp luật hiện tại phản ứng khá thụ
động với tội phạm lạm dụng trẻ em, thường chỉ là những phản ứng mang tính tức
thời sau khi tội phạm xảy ra hơn là những chương trình chiến lược lâu dài để phòng
ngừa. Công trình đề xuất sáu bước quan trọng để cải thiện tình hình gồm: nâng cao
khả năng nghiên cứu về loại tội phạm này, nâng cao nhận thức cộng đồng, ngăn
chặn nguyên nhân và điều kiện của tội phạm lạm dụng tình dục trẻ em, cải thiện
chính sách và năng lực hoạt động của các tổ chức, cuối cùng là sự hỗ trợ tài chính
vào các chương trình phát triển và phòng ngừa. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đưa ra rất
nhiều khuyến nghị để phòng ngừa và ngăn chặn ở cấp độ cá nhân, ở cộng đồng, và
cấp độ chính sách quốc gia đẩy mạnh các chương trình phòng ngừa, chuyển vai trò
phòng ngừa từ trẻ em qua người lớn, thăm dò và đẩy mạnh những cách tiếp cận mới
trong hệ thống tư pháp đó là tăng cường khả năng phòng ngừa lâu dài bằng cách tập
trung nhiều hơn vào trách nhiệm, cải tạo giáo dục và bồi thường hơn là sự trừng phạt
thông thường vốn chỉ giải quyết được vấn đề trước mắt chứ không có nhiều tác dụng
mang tính lâu dài
Trong tác phẩm “National Plan to Prevent the Sexual Abuse and
Exploitation of Children” của Liên hiệp quốc gia về phòng ngừa lạm dụng tình dục
và bóc lột trẻ em Hoa kỳ, xuất bản tháng 3/2012. Nghiên cứu được thực hiện bởi
một cơ quan độc lập không thuộc chính phủ đã có những đánh giá về tình hình tội
phạm lạm dụng và bóc lột tình dục ở trẻ em Nam Phi. Mục tiêu của nghiên cứu là
làm giảm tình hình tội lạm dụng tình dục trẻ em. Nghiên cứu cũng chỉ ra những
điểm chính cần lưu ý khi đấu tranh, phòng ngừa loại hình tội phạm này bao gồm:
tâm tư từ cả bé gái và bé trai đã bị lạm dụng, công lý cho trẻ em, vấn đề chia sẻ trách
nhiệm trong phòng ngừa lạm dụng tình dục ở trẻ em, nguyên nhân của tình trạng
28
lạm dụng và bóc lột tình dục ở trẻ em, sự tham gia của trẻ em trong một môi trường
giáo dục thân thiện…Nghiên cứu cũng đưa ra 10 khuyến nghị cơ bản xuất phát từ
bài học thực tiễn đã rút ra như: xây dựng đạo luật về tội phạm tình dục, xây dựng
chính sách quốc gia, xây dựng chiến lược quốc gia, tạo cho trẻ em nhiều cơ hội hơn
để bảo vệ mình, trẻ em nên được tham gia đóng góp những quy định liên quan đến
mình, những tác động về văn hóa, tín ngưỡng truyền thống cần được nghiên cứu sâu
hơn, khôi phục niềm tin cộng đồng vào hệ thống công lý, cải thiện chất lượng của
chứng cứ, phòng ngừa những tổn thương sau khi bị lạm dụng tình dục, tòa án nên
đứng về phía trẻ em, các nguồn lực phải được đầu tư nhiều hơn để bảo vệ trẻ em
trước tội phạm lạm dụng và bóc lột tình dục
Trong tác phẩm “The Epidemic of Rape and Child Sexual Abuse in the United
States” Diana E.H.Russell và Rebecca M.Bolen, Nxb Sage Publication Inc, 2000.
Công trình nghiên cứu về trẻ em bị lạm dụng ở 1 số quốc gia (Hoa Kỳ, Nam Phi,
Anh) đều cho thấy thực trạng của việc hiếp dâm và và lạm dụng tình dục trẻ em vẫn
tiếp tục diễn ra và có tình trạng gia tăng. Cộng trình nghiên cứu cũng kiến nghị
những giải pháp hữu hiệu để đấu tranh phòng, chống tình trạng lạm dụng tình dục
trẻ em và có những phương thức thực nghiệm cụ thể để phòng ngừa tội phạm.
Công trình nghiên cứu: “The Issue of Sexual Violence against women in
Contemporary India” – công bố ngày 7/2/2013 của tổ chức Human Rights Watch.
Công trình nghiên cứu về vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em ở Ấn Độ của tổ chức
giám sát nhân quyền quốc tế (Human Rights Watch). Nghiên cứu đưa ra nhiều
khuyến nghị đối với chính quyền địa phương cũng như chính quyền trung ương về
vấn đề bảo vệ trẻ em khỏi nguy cơ bị lạm dụng tình dục. Các học giả cũng chỉ ra
những điểm không phù hợp khi giải quyết vấn đề lạm dụng tình dục ở trẻ em ở cấp
độ cộng đồng, nhà trường, sự thiếu hiệu quả của hệ thống tư pháp (Cảnh sát, tổ chức
giám định, Tòa án). Ngoài ra nghiên cứu cũng đánh giá những nỗ lực trong đấu
tranh và phòng ngừa tội phạm lạm dụng tình dục trẻ em như các đạo luật bảo vệ trẻ
em, của Ủy ban quốc gia và địa phương, hệ thống bảo vệ trẻ em, ủy ban phúc lợi
dành cho trẻ em, Luật vị thành niên và luật pháp quốc tế liên quan trong giải quyết
tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em
Công trình nghiên cứu “Sex offending against children : understanding the risk
29
” của tổng cục nghiên cứu phát triển và thống kê (Anh), xuất bản năm 1998, do Giáo
sư Don Grubin chủ trì, công trình nghiên cứu còn đề cập đến những luận thuyết liên
quan đến tội phạm hiếp dâm trẻ em, tập trung vào phản ứng của Cảnh sát đối với
người phạm tội, và bao hàm ba lĩnh vực nghiên cứu: phạm vi và bản chất của lạm
dụng tình dục trẻ em, đặc điểm người phạm tội và những nguy cơ từ những người
này và phương pháp khống chế những nguy cơ này. Công trình có một số điểm đáng
chú ý khác nữa mà tác giả đã tập trung đánh giá, đó là phân tích mối quan hệ giữa
nạn nhân và tội phạm, dự báo về nguy cơ tái phạm, xử lý nó và các chương trình
giúp nạn nhân vượt qua những tổn thất về tinh thần và thể xác. Nhìn chung đây là
công trình có ý nghĩa lớn trong phòng ngừa từ xa và ngăn chặn các nguy cơ tái phạm
mà các cơ quan chức năng có thể tham khảo.
1.3 Đánh giá về tình hình nghiên cứu:
Tổng kết các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về các tội xâm phạm
tình dục trẻ em, Nghiên cứu sinh có những kết luận như sau:
1.3.1 Những thành công của các công trình nghiên cứu đạt được:
Các công trình nghiên cứu khoa học đã nghiên cứu tội phạm dưới nhiều gốc
độ và cách tiếp cận khác nhau về thực trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất, của tình
hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em, nguyên nhân, điều kiện cũng như các giải
pháp phòng ngừa tội xâm phạm tình dục. Các công trình đã có những phân tích cụ
thể về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em (diễn biến, tính chất, cơ cấu,mức
độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em)
Các công trình đã có những phân tích nguyên nhân, điều kiện của các tội xâm
phạm tình dục trẻ em trên các địa bàn cụ thể, bên cạnh những nguyên nhân chung và
nguyên nhân đặc thù từng địa bàn và kiến nghị về các biện pháp phòng ngừa cho
từng địa bàn cụ thể
Các công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em dưới gốc độ
là nạn nhân của tội phạm, phân tích những hậu quả do hành vi xâm phạm tình dục
gây ra và tác động của nó đối với trẻ em. Từ đó có những giải pháp cũng như những
kinh nghiệm trong công tác bảo vệ trẻ em trước hành vi xâm hại.
1.3.2 Những vấn đề chưa được giải quyết và cần tiếp tục nghiên cứu
Các luận án nghiên cứu các tội xâm phạm tình dục trẻ em trước đây được
nghiên cứu trên cơ sở của Bộ Luật hình sự 1999 hoặc Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi
bổ sung 2009.
30
Luận án của tác giả sẽ nghiên cứu trên cơ sở Luật Hình sự 1999 (SĐBS
2009) và Bộ Luật Hình sự 2015 (SĐBS 2017): các vấn đề đặt ra trong nhiên cứu là
chủ thể của tội phạm, độ tuổi và khung hình phạt dành cho các tội xâm phạm tình
dục trẻ em, và tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em đang diễn ra trong giai
đoạn 2007 – 2018 tác giả chia 2 giai đoạn nghiên cứu: 2007 - 2017, số liệu thống kê
4 tội danh, năm 2018 số liệu thống kê 5 tội danh)
Luận án nghiên cứu chuyên ngành về tội phạm học trên cơ sở nghiên cứu đa
ngành về xã hội học, tâm lý học và vấn đề về quyền con người để đáp ứng cho việc
nghiên cứu về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em diễn ra ở địa bàn Tây
Nam Bộ.
Các công trình nghiên cứu trước đây tuy có nhiều thành tựu thành nhất định
trong nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em tuy nhiên chưa có các công trình
nghiên cứu loại tội phạm này trên địa bàn miền Tây Nam Bộ để tìm ra điểm khác biệt
của loại tội phạm này so với địa bàn khác. Trong nghiên cứu của Luận án sẽ phân tích
tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên cơ sở 13 địa bàn của vùng Tây Nam Bộ
với thời gian từ 2007 – 2017, 2018. Nghiên cứu và làm rõ phần ẩn và phần hiện của tình
hình tội phạm, so sánh tình hình tội phạm trong phạm vi các địa bàn.
Các công trình nghiên cứu trước đây đều nêu rõ nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em nhưng với khía cạnh từng vùng, địa
bàn, các công trình đã phân tích nguyên nhân của từng vùng, từng địa bàn có đặc
điểm tương đồng nhau vì thế việc dự báo cũng trên từng địa bàn cụ thể. Ngoài ra các
nghiên cứu cũng chưa đi sâu về tâm lý người phạm tội và khía cạnh nạn nhân của tội
phạm, và chưa khai thác sâu mối quan hệ giữa nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em
với yếu tố xã hội học pháp luật, nhân học pháp luật cũng như yếu tố tác động của
yếu tố dân tộc đến sự thiên giảm loại tội phạm này. Luận án sẽ tiếp nối nghiên cứu
những vấn đề mà các công trình đi trước chưa hoàn thiện được.
Các giải pháp thiết thực trong các công trình nghiên cứu có giá trị tham khảo
cho luận án trong việc đề xuất các giải pháp phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên Luận
án sẽ có những giải phải pháp chung cho khu vực Tây Nam Bộ nói chung và từng
địa bàn nói riêng, những giải pháp ngắn hạn và lâu dài trong công cuộc đấu tranh
phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em
31
Kết luận chương 1
Trong chương 1, tác giả nghiên cứu lý luận nền tảng về tội phạm học, từ đó
nghiên cứu các công trình chuyên sâu về tội phạm học nói chung và các công trình
nghiên cứu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Từ đó tác giả có nền tảng lý
luận vững chắc hơn trong quá trình nghiên cứu. Thông qua các công trình nghiên
cứu đã cho thấy các tội xâm phạm về tình dục là các tội có tính chất nguy hiểm cho
xã hội cao không những xâm hại nghiêm trọng đến danh dự nhân phẩm của con
người mà nó biểu hiện ở sự suy đồi đạo đức một cách nghiêm trọng của một số
người trong giai đoạn hiện nay, còn gây ra những dư luận xã hội không tốt. Vì vậy
nhiều công trình khoa học trên phạm vi cả nước và trên thế giới đã viết rất nhiều về
các vấn đề này với nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Ở Việt
Nam, lịch sử phát triển của tội phạm học chưa có bề dày, nhưng với lượng lớn công
trình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài luận án. Sự xuất hiện của các
công trình nghiên cứu khoa học về xâm phạm tình dục trong đó có xâm phạm tình
dục trẻ em đã cho thấy sự tầm nhìn trong dự báo về tội phạm, sự quan tâm, đầu tư
của các nhà khoa học, các học giả trong nước đối với lĩnh vực khoa học này. Với số
lượng lớn các công trình nghiên cứu trong nước cũng như trên thế giới về những vấn
đề có liên quan đến đề tài luận án, mặc dù vẫn còn những điểm hạn chế, một số vấn đề
chưa thể giải quyết triệt để, nhưng có thể nói những công trình này chính là nguồn tư
liệu quý giá để nghiên cứu sinh tiếp thu những thành quả đó làm cơ sở dữ liệu để đưa
vào luận án, góp phần cho công trình nghiên cứu của luận án được hoàn thiện, với độ
tin cậy và tính ứng dụng cho các công trình nghiên cứu tiếp nối trong tương lai.
32
Chương 2
TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ
2.1 Khái quát lý luận về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em
2.1.1 Khái niệm các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Theo Bình luận khoa học Luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 thì “Các tội
xâm phạm tính mạng sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người là hành vi nguy
hiểm cho xã hội do con người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, gây
tổn hại hoặc đe dọa đến quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người” [97. tr53]
Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112): Tội hiếp dâm trẻ em được hiểu là hành vi một
người dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ
được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu trái ý muốn với nạn nhân là trẻ em
từ đủ 3 tuổi đến dưới 16 tuổi. Mặc dù pháp luật chưa qui định rõ chủ thể người thực
hiện hành vi này là nam hay nữ nhưng dựa trên thực tế xét xử thì chủ thể thực hiện
tội phạm thì là nam và nạn nhân là nữ. Đa số chủ thể nữ của tội phạm này bị truy tố
với góc độ là đồng phạm. Hành vi quan hệ tình dục của người nam đủ năng lực truy
cứu trách nhiệm hình sự với người nữ bị tâm thần thì hành vi này luôn được coi là
hiếp dâm dù nạn nhân đồng ý hay không đồng ý, do người bị tâm thần không làm
chủ được hành vi của mình
Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114) được hiểu là: hành vi của một người dùng
mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi lệ thuộc mình hoặc đang ở
trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu với mình. Về cơ bản các dấu
hiệu của tội cưỡng dâm trẻ em cũng tương tự như đối với tội cưỡng dâm quy định
tại Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân bị cưỡng dâm ở tội này
là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm
tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại Điều 112 Bộ
luật hình sự. Cũng tương tự như đối với các trường hợp hiếp dâm trẻ em, hiếp dâm
người chưa thành niên, trường hợp cưỡng dâm trẻ em, các cơ quan tiến hành tố tụng
chỉ cần xác định tuổi thật của nạn nhân là trẻ em từ 13 đến dưới 16 tuổi mà không
33
phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội có biết hay không biết người mà
mình cưỡng dâm là trẻ em.
Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115) được hiểu là hành vi của một người đã
thành niên giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi một cách hoàn toàn tự
nguyện của người bị hại. Người phạm tội phải là người đã thành niên, tức là người
đã đủ 18 tuổi trở lên. Chủ thể của tội phạm này có thể là nữ giới, nhưng đa số là
nam giới. Việc giao cấu với người dưới 16 là hoàn toàn có sự đồng tình của hai
người không bên nào ép buộc bên nào. Sự thoả thuận này có trường hợp là mối tình
yêu đương giữa hai người, nhất là ở một số vùng nông thôn, tệ tảo hôn còn phổ
biến, cũng có trường hợp do cuộc sống, do hoàn cảnh éo le của một số em gái chưa
đủ 16 tuổi đã bán dâm cho khách làng chơi để kiếm tiền. Người bị hại trong vụ án
giao cấu với người dưới 16 tuổi là người có độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi,
có thể là nam giới nhưng chủ yếu là nữ giới.
Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116) được hiểu là hành vi của người đã thành
niên dùng mọi thủ đoạn có tính chất dâm dục đối với người dưới 16 tuổi nhằm thoả
mãn dục vọng của mình nhưng không có ý định giao cấu với nạn nhân. Hành vi
dâm ô được thể hiện đa dạng như: sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục của nạn nhân;
dùng bộ phận sinh dục của mình chà xát với bộ phận sinh dục của nạn nhân hoặc
bắt nạn nhân sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục của mình nhằm thoả mãn dục vọng,
nhưng không có ý định giao cấu với nạn nhân. Nếu có ý định giao cấu với nạn nhân
nhưng không giao cấu được thì không phải là hành vi dâm ô mà tuỳ từng trường
hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ
em, tội cưỡng dâm trẻ em hoặc tội giao cấu với trẻ em. Người bị hại phải là người
dưới 16 tuổi, có thể là nữ hoặc là nam, nhưng chủ yếu là trẻ em nữ. Nạn nhân có thể
bị người phạm tội cưỡng ép buộc phải thực hiện hành vi dâm ô, nhưng cũng có thể
đồng tình với người phạm tội để người phạm tội thực hiện hành vi dâm ô hoặc tự
nguyện thực hiện hành vi dâm ô với người phạm tội.
Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về các tội xâm
phạm tình dục người dưới 16 tuổi: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Chương XIV Bộ Luật Hình sự 2015 sửa
34
đổi bổ sung năm 2016 (sau đây gọi tắt là Bộ Luật Hình sự 2015) quy định các tội
xâm phạm tình dục trong đó có đối tượng là người dưới 16 tuổi bao gồm: Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi (Điều 144), Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145), Tội dâm ô đối với người dưới 16
tuổi (Điều 146), Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm. Pháp luật
hình sự Việt Nam dựa vào độ tuổi của nạn nhân để phân định mức độ bảo vệ. Nạn
nhân có độ tuổi khác nhau thì mức độ bảo vệ của pháp luật hình sự cũng khác nhau.
Bộ luật hình sự chia độ tuổi nạn nhân thành 3 mức độ chính: người từ đủ 16 tuổi,
người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi và người dưới 13 tuổi (qui định chung trong các
điều luật áp dụng cho nạn nhân là người dưới 16 tuổi)
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142): được hiểu là hành vi một người
“Dùng vũ c e dọa dùng vũ c hoặc i dụng t nh trạng kh ng thể t v ư c
c a nạn nh n hoặc th oạn kh c giao cấu hoặc th c hi n h nh vi quan h t nh dục
kh c với người từ 13 tuổi n dưới 16 tuổi tr i với ý u n c a họ” Mặc dù pháp
luật chưa qui định rõ chủ thể thực hiện hành vi này là nam hay nữ nhưng dựa trên
thực tế xét xử thì chủ thể thực hiện tội phạm là nam giới và nạn nhân là nữ giới. Đa
số chủ thể là nữ của tội phạm này thường bị truy tố với góc độ là đồng phạm của tội
hiếp dâm. Người phạm tội thực hiện các hành vi dùng vũ lực, dùng sức mạnh để tác
động lên thân thể của nạn nhân hoặc dùng lời nói để đe dọa. Người phạm tội còn có
thể lợi dụng tình trạng không tự vệ của nạn nhân như đau ốm, bệnh tật, tai nạn, bị
bất tỉnh, bị tâm thần để thực hiện hành vi giao cấu. Trong trường hợp 1 người có đủ
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi quan hệ tình dục với nạn nhân nữ bị
tâm thần thì hành vi này luôn bị coi là hiếp dâm dù nạn nhân có đồng ý hay không
đồng ý. Trong trường hợp hành vi giao cấu với người từ dưới 13 tuổi có sự đồng
thuận của người đó thì hành vi này vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi vì việc đồng thuận của nạn nhân không có ý nghĩa trong
việc định tội đối với người thực hiện hành vi phạm tội.
Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144): được hiểu
là hành vi của một người “dùng ọi th oạn khi n người từ 13 tuổi n dưới 16
35
tuổi ang ở trong t nh trạng thuộc nh hoặc trong t nh trạng quẫn b ch ph i
iễn cưỡng giao cấu hoặc iễn cưỡng th c hi n h nh vi quan h t nh dục kh c”
Về cơ bản các dấu hiệu của tội cưỡng dâm người dưới 16 tuổi cũng tương tự
như đối với tội cưỡng dâm quy định tại Điều 143 Bộ luật hình sự. Người nào dùng
vũ lực hoặc lừa gạt, dụ dỗ, hứa hẹn, dọa nạt buộc người lệ thuộc mình hoặc đang
trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng chấp nhận cho người phạm tội giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục, mặc dù họ hoàn toàn không muốn điều đó.
Nạn nhân bị cưỡng dâm ở tội này là người có độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi,
nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 142 Bộ luật hình sự.
Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145): được hiểu là hành vi của một người“ 18 tuổi
trở n giao cấu hoặc th c hi n h nh vi quan h t nh dục kh c với người từ
13 tuổi n dưới 16 tuổi n u kh ng thuộc trường h p quy nh tại Điều 142 v
Điều 144 c a Bộ u t H nh s 2015 sửa ổi bổ sung 2017 Người phạm tội phải là
người đủ 18 tuổi trở lên, chủ thể của tội phạm này cũng có thể là nữ giới. Việc giao
cấu với người dưới 16 tuổi là hoàn toàn có sự đồng thuận của hai người không bên
nào ép buộc bên nào. Sự thoả thuận này có trường hợp là mối quan hệ yêu đương
giữa hai người, nhất là bối cảnh xã hội hiện nay nam, nữ yêu nhau từ rất sớm, ngoài
ra ở độ tuổi đang phát triển về mặt tâm sinh lý trẻ em thường dễ bị dụ dỗ, rủ rê, bị
lôi kéo, hoặc họ chưa nhận thức được sự việc một cách đúng đắng. Bên cạnh đó
cũng có trường hợp do cuộc sống, do hoàn cảnh một số em gái chưa đủ 16 tuổi đã
thực hiện hành vi bán dâm cho khách để kiếm tiền trang trải cuộc sống. Người bị
hại trong vụ án giao cấu với người dưới 16 tuổi là người có độ tuổi từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi. Hành vi giao cấu là hoàn toàn có sự tự nguyện, không hề có sự
cưỡng bức hay ép buộc nào. Mặc dù họ tự nguyện và có nhiều trường hợp họ yêu
cầu không xử lý đối với người phạm tội, nhưng yêu cầu này của họ không được
chấp nhận bởi vì họ là đối tượng mà Nhà nước buộc phải bảo vệ.
Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146): được hiểu là hành vi của
“người từ 18 tuổi trở n c h nh vi d i với người dưới 16 tuổi kh ng
36
nhằ ục ch giao cấu hoặc kh ng nhằ th c hi n c c h nh vi quan h t nh dục
kh c” Hành vi dâm ô là việc dùng mọi thủ đoạn có tính chất dâm dục đối với người
dưới 16 tuổi nhằm thoả mãn dục vọng của mình được thể hiện đa dạng như: sờ mó,
hôn hít bộ phận sinh dục của nạn nhân; dùng bộ phận sinh dục của mình chà xát với
bộ phận sinh dục của nạn nhân hoặc bắt nạn nhân sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục
của mình nhằm thoả mãn dục vọng, nhưng không có ý định giao cấu với nạn nhân.
Nếu có ý định giao cấu với nạn nhân nhưng không giao cấu được thì không phải là
hành vi dâm ô mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm hoặc tội giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi. Đối với tội này người bị hại phải là người dưới 16 tuổi, có thể là nữ hoặc là
nam, nhưng chủ yếu nạn nhân là nữ. Nạn nhân có thể bị người phạm tội cưỡng ép
buộc phải thực hiện hành vi dâm ô, nhưng cũng có thể đồng tình với người phạm tội
để người phạm tội thực hiện hành vi dâm ô hoặc tự nguyện thực hiện hành vi dâm ô
với người phạm tội.
Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147): được
hiểu là hành vi của” người từ 18 tuổi trở n i kéo dụ dỗ ép buộc người dưới
16 tuổi tr nh diễn khi u d hoặc tr c ti p ch ng ki n vi c tr nh diễn khi u d
dưới ọi h nh th c”. Đây là tội phạm mới, được quy định lần đầu tiên trong Bộ luật
Hình sự 2015. Hành vi khiêu dâm được hiểu là việc lôi kéo, rủ rê, xúi giục, hứa hẹn,
dụ dỗ, ép buộc hoặc dùng các lợi ích về vật chất để người dưới 16 tuổi trình diễn
hoặc thực hiện các động tác khiêu dâm nhằm thỏa mãn dục vọng của mình hoặc cho
người dưới 16 tuổi chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm nhưng không có hành vi
quan hệ tình dục với nạn nhân. Mọi hành vi khiêu dâm đối với người dưới 16 tuổi
đều bị coi là tội phạm và nạn nhân của tội phạm này cũng có thể là nam hoặc nữ.
Từ những lý luận nêu trên, các tội xâm phạm tình dục trẻ em có thể hiểu là:
“những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người c năng c trách nhi m hình s
th c hi n một cách c ý xâm phạ n quyền bất kh xâm phạm về tình dục, xâm
phạ n s phát triển b nh thường về thể chất, hoặc xâm phạ n s c khỏe, danh
d , nhân phẩm c a trẻ e ”
37
2.1.2 Khái niệm tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Tội phạm học là khoa học nghiên cứu về tình hình tội phạm, nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm, mối liên hệ của tội phạm với các hiện tượng phát
sinh trong xã hội, nhân thân người phạm tội và giải pháp phòng ngừa tội phạm... Do
đó khái niệm về tình hình tội phạm là một trong các khái niệm cơ bản của tội phạm
học. Theo từ điển Tiếng Việt thì “ tình hình“ được hiểu là trạng thái, xu thế phát
triển của sự vật, hiện tượng với tất cả những sự kiện diễn ra, biến đổi trong đó. Nói
đến tình hình tội phạm là gắn liền với một khoảng thời gian – không gian cụ thể vì
tội phạm luôn xảy ra trong không gian và thời gian xác định.
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “ T nh h nh tội phạ ột hi n tư ng xã hội
pháp lý – h nh s ư c thay ổi về ặt ch sử ang t nh chất giai cấp bao g
tổng thể th ng nhất (h th ng) c c tội phạ th c hi n trong ột xã hội (qu c gia)
nhất nh v trong ột kho ng thời gian nhất nh” [146 tr160]
Trong cuốn “Một số vấn đề Tội phạm học Việt Nam” năm 2013, Học viện cảnh
sát nhân dân thì “T nh h nh tội phạ hi n tư ng t sinh ý – xã hội ti u c c vừa
ang t nh ch sử v ch sử cụ thể vừa ang t nh ph p ý h nh s với hạt nh n
t nh giai cấp ư c biểu hi n th ng qua tổng thể c c h nh vi phạ tội cùng với c c
ch thể ã th c hi n c c h nh vi trong ột ơn v thời gian v kh ng gian nhất
nh” [112 tr92]
Trong “Gi o tr nh tội phạ học” năm 2010, Trường Đại học Luật Hà Nội thì:
“T nh h nh tội phạ ột hi n tư ng xã hội ti u c c tr i ph p u t h nh s ang
t nh giai cấp v thay ổi theo qu tr nh ch sử; ư c thể hi n ở ột tổng h p c c
tội phạ cụ thể ã x y ra trong xã hội v trong ột kho ng thời gian nhất nh”
[139tr91]. Trong lần tái bản năm 2013 thì khái niệm tình hình tội phạm: “Tình hình
tội phạ th c trạng v diễn bi n c a tội phạ ã x y ra trong ơn v thời gian
v ơn v kh ng gian nhất nh” [139 tr99]
Để khái quát về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em thì luận án cần phải
tiếp cận với nhiều phương diện về khoa học pháp lý hình sự và các ngành khoa học
pháp lý khác có liên quan. Theo điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định “trẻ e
người dưới 16 tuổi” điều này có thể hiểu Trẻ em là người dưới 16 tuổi là công dân
Việt Nam hoặc nước ngoài cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Quy định này phù hợp
38
với quy định của Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam ký kết và phù
hợp với xu thế bảo vệ quyền con người của trẻ em trong bối cảnh hiện tại. Bên cạnh
đó tại điều 4 của Luật Trẻ em 2016 cũng quy định “X hại t nh dục trẻ e vi c
dùng vũ c e dọa dùng vũ c ép buộc i kéo dụ dỗ trẻ e tha gia v o c c
h nh vi i n quan n t nh dục bao g hi p d cưỡng d giao cấu d với
trẻ e v sử dụng trẻ e v o mục ch ại d khi u d dưới ọi h nh th c”.
So sánh các tội xâm phạm tình dục trẻ em được quy định trong Bộ luật hình sự
1999 SĐBS 2009 với Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 để thấy được sự
khác nhau khi xác định khái niệm trẻ em và xác định hành vi xâm hại tình dục, pháp
luật hình sự đã có sự thay đổi như sau: Tội hiếp dâm trẻ em (điều 112) đổi thành tội
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114) đổi
thành Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); Tội giao cấu
với trẻ em đổi thành Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); Tội dâm ô trẻ em đổi thành Tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào
mục đích khiêu dâm (Điều 147) là tội danh được quy định mới trong Bộ luật hình
sự 2015 SĐBS 2017 trong chương XIV Các tội xâm phạm tình mạng sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người. Ngoài ra Bộ luật Hình sự 2015 SĐBS 2017 còn
đề cập đến các tội liên quan đến trẻ em như: Mua bán trẻ em để sử dụng vào mục
đích mại dâm (Điều 120), Tội chứa mại dâm đối với trẻ em (Điều 254), Tội môi
giới mại dâm (Điều 254), Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256). Mặc dù
phạm vi nghiên cứu của Luận án là các tội XPTDTE theo quy định BLHS 1999
SĐBS 2009 nhưng với sự thay đổi của quy định pháp luật hình sự cũng tác động
đến việc tăng hay giảm của tình hình tội phạm và cần đề cập so sánh trong quá trình
nghiên cứu. Từ những lý luận nêu trên, có thể khái quát tình hình các tội XPTDTE
như sau: “T nh h nh c c tội xâm phạm tình dục trẻ em là hi n tư ng xã hội, pháp lý
– hình s ư c thay ổi về mặt l ch sử, mang tính giai cấp, bao g m tổng thể các
trường h p phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em x y ra trên một a bàn nhất nh
và trong kho ng thời gian nhất nh”
39
2.1.3 Đặc điểm của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em
T nh h nh c c tội XPTDTE ột hi n tư ng xã hội vì nó tồn tại trong xã hội, có
nguồn gốc xã hội, có nội dung và nguyên nhân từ xã hội và những kết quả của nó cũng
mang tính xã hội. Đó là một hiện tượng xã hội bởi nó được hình thành từ hành vi của
chính con người sống trong xã hội đó, những hành vi đi ngược với chuẩn mực, đạo đức
của xã hội, gây nguy hại cho xã hội và trái với quy định của pháp luật.
T nh h nh c c tội XPTDTE hi n tư ng ph p ý h nh s các tội XPTDTE
được quy định trong BLHS bao gồm tất cả các tội hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm trẻ
em, giao cấu với trẻ em, dâm ô đối với trẻ em. Mặc dù pháp luật quy định hành vi
XPTDTE là tội phạm nhưng những nguyên nhân và điều kiện phát sinh các tội
XPTDTE vẫn còn tồn tại trong xã hội. Kinh tế các vùng chưa phát triển ổn định,
người dân không có việc làm, ý thức chấp hành pháp luật không cao, sự phân hóa
giai cấp và phân tầng xã hội chênh lệch, điều này cũng làm cho tình hình các tội
XPTDTE ngày càng gia tăng khi mà cha mẹ chỉ chú trọng công việc, kinh tế gia
đình, việc chăm sóc con cái chưa được quan tâm đúng mức, không nắm bắt tâm lý
của con, không phát hiện những mối nguy hại tiềm ẩn để phòng ngừa.
T nh h nh c c tội XPTDTE hi n tư ng thay ổi theo qu tr nh ch sử tình
hình tội phạm nói chung và các tội XPTDTE nói riêng không phải là hiện tượng bất
biến trong xã hội mà nó có sự thay đổi và mất đi trong những điều kiện lịch sử nhất
định. Tình hình các tội XPTDTE hiện tại ngày càng gia tăng, sự phát triển của xã
hội, công nghệ vượt bậc, cập nhật thông tin nhanh chóng, tin tức lan nhanh trên các
phương tiện. Mặt trái của tiến trình phát triển là sự lựa chọn và tiếp cận thông tin
chính thống, chuẩn xác ít hơn những thông tin, hình ảnh không chuẩn mực. Tiến
trình hội nhập đem lại sự phát triển mạnh mẽ hầu hết các lĩnh vực nhưng cũng có
nhiều hệ lụy về tội phạm : tội phạm công nghệ cao, tội phạm kinh tế, tội phạm môi
trường và cả các tội về XPTDTE.
T nh h nh c c tội XPTDTE kh i ni chung ư c h nh th nh từ tổng thể
th ng nhất c c tội phạ ã ư c th c hi n trong xã hội Sự thay đổi khi xác định
khái niệm trẻ em, xâm hại trẻ em, hành vi xâm hại tình dục trong quy định của Luật
trẻ em 2016 đã đẫn đến sự thay đổi của các tội danh xâm phạm tình dục người dưới
16 tuổi theo quy định của BLHS 2015 SĐBS 2017, việc xác định lại hành vi phạm
40
tội cũng làm thay đổi nội dung cấu thành tội phạm và sự thay đổi của một tội phạm
cụ thể cũng sẽ kéo theo sự thay đổi của nhóm tội phạm, mối quan hệ biện chứng
giữa cái chung và cái riêng trong một thể thống nhất. Có thế thấy hành vi XPTDTE
và tình hình các tội XPTDTE có mối quan hệ biện chứng với nhau. Khi nghiên cứu
tình hình các tội XPTDTE thì cần phải nghiên cứu các hành vi XPTDTE để có đánh
giá bao quát và tìm ra các đặc điểm của tình hình các tội XPTDTE.
T nh h nh c c tội XPTDTE t n tại tr n a b n v trong ột kho ng thời gian
x c nh Các tội XPTDTE không phải chỉ xảy ra chỉ riêng ở miền Tây Nam Bộ mà
ở khu vực cả nước và nằm trong trường hợp đáng báo động về hành vi XPTDTE.
Việc nghiên cứu tình hình các tội XPTDTE gắn với địa bàn xác định và thời gian cụ
thể để đảm bảo độ tin cậy và khả năng khả thi của việc nghiên cứu. Thế nên nghiên
cứu tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ là nghiên cứu các vụ
án XPTDTE xảy ra trên địa bàn này và trong phạm vi xét xử của tòa án các tỉnh
miền Tây Nam Bộ, nghiên cứu gắn liền với địa tình hình và địa tội phạm trong tổng
thể tình hình các tội XPTDTE trên phạm vi cả nước.
Để có thể đánh giá được tình hình các tội XPTDTE ngoài việc nghiên cứu về
khái niệm, đặc điểm của tình hình các tội XPTDTE còn phải nghiên cứu về phần ẩn
và phần hiện của tình hình các tội XPTDTE.
2.1.4 Phần hiện và phần ẩn của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em
2.1.4 1 Ph n hi n c a t nh h nh c c tội x phạ t nh dục trẻ e
Trong giáo trình “ Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam” của Học viện Cảnh
sát nhân dân cho rằng “ph n hi n c a t nh h nh tội phạ to n bộ những h nh vi
ã ư c xử ý theo quy nh c a ph p u t h nh s ở từng ơn v h nh ch nh –
ãnh thổ hay tr n phạ vi to n qu c trong những kho ng thời gian nhất nh v
ư c ghi nh n k p thời trong th ng k h nh s ” [112 tr138]. Như vậy phần hiện của
tình hình tội phạm được xác định thông qua số liệu thống kê, số tội phạm và người
phạm tội không qua xét xử và số tội phạm và người phạm tội đã qua xét xử.
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì phần hiện của tình hình tội phạm được hiểu là
“S th ng nhất bi n ch ng c a tất c c c y u t cấu th nh t nh h nh tội phạ biểu
hi n ở c c th ng s ( ặc iể ) về ư ng v c c th ng s ( ặc iể ) về chất c a n
41
Tất c c c th ng s về ư ng v về chất c a t nh h nh tội phạ cũng ở trong s
th ng nhất bi n ch ng S thay ổi c a ột trong những th ng s ở dạng tổng
thể hay dạng từng ph n ều dẫn n s thay ổi c a t nh h nh tội phạ n i chung”
[146 tr60]. Như vậy, những thông số về lượng của tình hình tội phạm là thực trạng
(mức độ) và động thái (diễn biến), những thông số về chất của tình hình tội phạm là
cơ cấu và tính chất. Để xác định số lượng tội phạm thì cần phải tính tổng cộng các
số lượng: số lượng tội phạm và người bị tòa án xét xử, số lượng các vụ án hình sự bị
đình chỉ điều tra, truy tố, số lượng về các tội phạm không bị phát hiện, hệ số của
tình hình tội phạm, mức độ tái phạm.
Dựa theo quan điểm lý luận nêu trên cho thấy khi nghiên cứu phần hiện của tình
hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em cũng là những thông số phản ánh về mặt
định lượng được biểu hiện thông qua mức độ, diễn biến của tình hình các tội xâm
phạm tình dục trẻ em và những thông số phản ánh về mặt định tính được biểu hiện
thông qua các cơ cấu và tính chất của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Thực trạng (mức độ) của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em được
nghiên cứu trên địa bàn Tây Nam Bộ là số lượng các tội XPTDTE đã được thực
hiện và những người thực hiện các tội xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra trên địa bàn
Tây Nam Bộ trong khoảng thời gian nhất định. Ngoài ra việc đánh giá mức độ của
tình hình tội phạm còn được thể hiện bao gồm tỷ trọng giữa các tội phạm nói chung
với tỷ trọng của nhóm tội XPTDTE và tỷ trọng của nhóm tội XPTDTE với tỷ trọng
của từng tội phạm cụ thể trong nhóm tội XPTDTE.
Động thái (diễn biến) của tình hình các tội XPTDTE nghiên cứu trên địa bàn
miền Tây Nam Bộ được hiểu là sự vận động, sự thay đổi của thực trạng và cơ cấu
của tình hình các tội XPTDTE diễn ra trên địa bàn miền Tây Nam Bộ trong khoảng
thời gian nhất định.
Cơ cấu của tình hình các tội XPTDTE là kết cấu bên trong của các con số tạo
nên tình hình các tội XPTDTE. Bao gồm cơ cấu cơ bản, là cơ cấu được xét theo
hành vi phạm tội, cơ cấu chuyên biệt là loại cơ cấu xét theo các tiêu chí đặc tính của
tình hình tội phạm như: lứa tuổi,nghề nghiệp, dân tộc...
42
Tính chất của tình hình các tội XPTDTE là mức độ nguy hiểm cho xã hội của số
lượng hành vi phạm tội XPTDTE. Thông qua nghiên cứu về cơ cấu của tình hình
các tội XPTDTE thì tính chất của nó sẽ được làm rõ.
2.1.4 2 Ph n ẩn c a t nh h nh c c tội x phạ t nh dục trẻ e
Theo PGS.TS Phạm Văn Tỉnh cho rằng: “T nh h nh tội phạ ẩn tổng qu t
những h nh vi phạ tội cùng c c ch thể c a những h nh vi th c t ã ư c
th c hi n v o ột kho ng thời gian nhất nh v trong ột vùng h nh ch nh – lãnh
thổ nhất nh chưa b cơ quan ch c năng ph t hi n chưa b xử ý h nh s hoặc
kh ng c trong th ng k h nh s ” [117 tr35].
Theo lý luận tội phạm học, tội phạm thực tế đã xảy ra nhưng không được vào
thống kê hình sự được phân loại như: Tội phạm ẩn tự nhiên, tội phạm ẩn nhân tạo,
tội phạm ẩn thống kê hoặc tội phạm ẩn khách quan, tội phạm ẩn chủ quan và sai số
thống kê. Tội phạm ẩn khách quan được hiểu là “những tội phạ ã x y ra trong
th c t song c c cơ quan c thẩ quyền khởi t vụ n h nh s kh ng c th ng tin
về chúng” [100 tr168] như vậy tội phạm ẩn khách quan có lý do ẩn từ phía chủ thể
của hành vi phạm tội hoặc xuất phát từ nhân thân người phạm tội hay từ phía người
bị hại. Tội phạm ẩn chủ quan được sử dụng thay thế cho “tội phạm ẩn nhân tạo” và
được khái quát là “toàn bộ các tội phạ ã x y ra mà thông tin về chúng ã ư c
các ch thể tr c ti p ấu tranh ch ng tội phạm nắ ư c, song vì những lý do khác
nhau, các tội phạ trong ột thời gian nhất nh hoặc vĩnh viễn không b xử lý
hoặc xử ý kh ng úng c a pháp lu t” [117,tr333]. Tội phạm ẩn chủ quan được
phân chia thành hai dạng : tội phạm ẩn chủ quan cố ý và tội phạm ẩn chủ quan vô ý.
Tội phạm ẩn thống kê là khái niệm còn gây bàn cải, có chuyên gia không thừa nhận
tội phạm ẩn thống kê vì không thể đánh giá đủ các tiêu chí về độ ẩn, thời gian ẩn
hay vùng ẩn. Một phần lớn các chuyên gia tội phạm học thừa nhận tội phạm ẩn
thống kê và cho rằng tội phạm ẩn thống kê “t n tại hay không t n tại phụ thuộc vào
kh năng c a công tác th ng kê ở mọi nước” [117, tr344]
Cũng như tình hình tội phạm ẩn nói chung thì tình hình tội phạm ẩn của các tội
XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ cũng phải được đánh giá trên nền tảng lý
luận về tội phạm ẩn khách quan, tội phạm ẩn chủ quan và tội phạm ẩn thống kê.
Trên cơ sở phân tích các tiêu chí về độ ẩn, thời gian ẩn, vùng ẩn, nguyên nhân ẩn
của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ. Phần hiện và phần
ẩn của tình hình các tội XPTDTE có mối quan hệ tác động lẫn nhau trong một chỉnh
43
thể. Do đó trong công tác phòng ngừa tội phạm ngoài việc tăng cường phòng ngừa
tội phạm còn phải hướng đến việc loại trừ tội phạm ẩn ra khỏi đời sống xã hội.
2.2 Phần hiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn
miền Tây Nam Bộ
2.2.1 Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền
Tây Nam Bộ
Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam
Bộ là tổng số hành vi phạm tội và số người phạm tội, xảy ra trên địa bàn Tây Nam Bộ
và được nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2018.
Theo thống kê của TAND các tỉnh trên địa bàn miền Tây Nam Bộ trong
khoảng thời gian từ 2007 đến 2017 đã xét xử sơ thẩm 3.793 vụ án về các tội
XPTDTE, với 3.844 bị cáo. Trung bình mỗi năm trên địa bàn tòa án đã xét xử
khoảng 316 vụ án XPTDTE với gần 320 bị cáo. Số liệu thống kê (xe b ng biểu
2.1 và 2.2– ph n phụ ục) cho thấy mức độ tình hình các tội XPTDTE như sau: Cà
Mau (558 vụ án/561 bị cáo); Kiên Giang (421 vụ án/426 bị cáo); Sóc Trăng (331 vụ
án/334 bị cáo); Đồng Tháp (307 vụ án/311 bị cáo); Hậu Giang (262 vụ án/266 bị
cáo); Vĩnh Long (284 vụ án/287 bị cáo); An Giang (286 vụ án/289 bị cáo); Cần Thơ
(257 vụ án/260 bị cáo); Trà Vinh (253 vụ án/260 bị cáo); Long An (232 vụ án/235
bị cáo); Bạc Liêu (211 vụ án/216 bị cáo); Tiền Giang (210 vụ án/214 bị cáo); Bến
Tre (181 vụ án/185 bị cáo).
Tính riêng năm 2018 (khi Bộ luật hình sự 2015 SĐBS 2017 có hiệu lực pháp
luật). Với năm tội danh về xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi được quy định
trong BLHS, tăng thêm một tội danh so với BLHS 1999, sửa đổi bổ sung 2009 thì
trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đã xét xử 520 vụ án/541 bị cáo. Số liệu thống kê
(xe b ng biểu 2 1 v 2 2 – ph n phụ ục) cho thấy tại Cà Mau (53 vụ án/56 bị
cáo); Kiên Giang (41 vụ án/44 bị cáo); Sóc Trăng (37 vụ án/40 bị cáo); Đồng Tháp
(28 vụ án/33 bị cáo); Hậu Giang (25 vụ án/27 bị cáo); Vĩnh Long (31 vụ án/32 bị
cáo); An Giang (43 vụ án/45 bị cáo); Cần Thơ (31 vụ án/33 bị cáo); Trà Vinh (38 vụ
án/40 bị cáo); Long An (34 vụ án/37 bị cáo); Bạc Liêu (32 vụ án/35 bị cáo); Tiền
Giang (27 vụ án/29 bị cáo); Bến Tre (31 vụ án/32 bị cáo). Thống kê tình hình các
tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ chỉ trong vòng 12 năm đã xét xử 4.244
vụ án/4.327 bị cáo phạm các tội về XPTDTE điều này cho thấy đây là loại tội phạm
phát sinh hầu hết ở các địa phương trên địa bàn Tây Nam Bộ, tuy số vụ án và số bị
44
cáo ở từng địa bàn có sự chênh lệnh cao thấp khác nhau nhưng điều này vẫn phản
ánh mức độ nguy hiểm của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em đang diễn ra
ở hầu hết các địa bàn trên khu vực miền Tây Nam Bộ.
Để làm rõ hơn mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
địa bàn Tây Nam Bộ ta cũng cần phải nghiên cứu mức độ phổ biến của loại tội
phạm này đang diễn ra trên thực tế. Theo số liệu phân tích (xe b ng biểu 2 3 –
ph n phụ ục) cho thấy, nếu như năm 2007 cứ 100.000 người dân thì sẽ có 1,86
người phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em, tuy nhiên giai đoạn từ năm 2008 –
2012 hệ số tội phạm thấp nhất là 1,61 và cao nhất chỉ ở mức 1,80 (có nghĩa là cứ
100.000 dân thì có 1,86 người phạm các tội XPTDTE) với hệ số tội phạm này vẫn
thấp hơn năm 2007. Tuy nhiên từ giai đoạn 2014 – 2018 thì hệ số tội phạm gia tăng
qua từng năm cụ thể: năm 2014 là 2,29; năm 2015 là 2,33; năm 2016 là 2,37; năm
2017 là 2,4 và đến năm 2018 cứ 100.000 người dân thì có 2,53 người phạm các tội
XPTDTE. Nếu so sánh hệ số tội phạm của năm 2018 với năm 2007 thì cao gấp 1,36
lần, so sánh tổng hệ số tội phạm XPTDTE giai đoạn 6 năm (2007 – 2012) là 10,5 và
giai đoạn (2013-2018) là 13,95 (cao gấp 1,32 lần). Từ những phân tích trên luận án
có thể đưa ra kết luận hệ số tội phạm XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đang
có chiều hướng ngày càng gia tăng. Hệ số tội phạm càng lớn thì mức độ nguy hiểm
của loại tội phạm này ngày càng cao.
Để làm rõ hơn mức độ của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây
Nam Bộ thì cần phải so sánh mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ
em với tình hình tội phạm xâm hại trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ từ năm 2007
đến năm 2018. Qua số liệu thống kê cho thấy trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đã xảy
ra 4684 vụ xâm hại trẻ em với 4781 bị cáo, trong đó các tội xâm phạm tình dục trẻ
em có 4244 vụ (chiếm 90,6%) với 4327 bị cáo (chiếm 90,5%), các tội xâm hại trẻ
em còn lại có 440 vụ án/ 454 bị cáo chiếm tỷ lệ 9,4% số vụ/ 9,5% số bị cáo.(xem
b ng 2 4 – ph n phụ ục). Điều này cho thấy trong tổng số các vụ án xâm hại trẻ em
trên địa bàn miền Tây Nam Bộ thì các vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em chiếm tỷ
lệ nhiều nhất.
Ngoài ra để làm rõ hơn mức độ của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn
Tây Nam Bộ ta cần phải đối chiếu so sánh với tình hình các tội XPTDTE ở các địa
bàn khác trong khu vực thông qua việc lựa chọn các khu vực có nhiều yếu tố tương
45
đồng về thành phần kinh tế, về dân cư, về điều kiện khí hậu hoặc về các yếu tố văn
hóa xã hội để việc nghiên cứu có tính đa chiều hơn, kết quả nghiên cứu sẽ mang lại
cái nhìn tổng quát hơn về mức độ của tình hình các tội XPTDTE. Từ đó độ tin cậy
của kết quả nghiên cứu trong luận án mới có tính thuyết phục hơn. So sánh các tội
phạm xâm hại tình dục trẻ em ở khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Tây Nam
Bộ đã thu được kết quả như sau: tính từ năm 2007 đến năm 2017 trên địa bàn Tây
Nam Bộ có 3.793 vụ án XPTDTE với 3.844 bị cáo phạm tội đã bị xét xử. Ở địa bàn
Đông Nam Bộ có 3.123 vụ án XPTDTE với 3.255 bị cáo. Khu vực Tây Nguyên có
1.072 XPTDTE với 1.189 bị cáo. Để làm rõ hơn về tình các tội XPTDTE ở các khu
vực nêu trên ta cần làm rõ mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em
trên cơ sở kết hợp giữa số dân và diện tích của cả 3 khu vực (xe b ng 2 5 v 2 6 –
ph n phục ục), dựa trên kết quả tính toán số dân trên một bị cáo và số bị cáo trên
1km² để xác định về hệ số tiêu cực, cấp độ nguy hiểm và sắp xếp thứ bậc kết quả
cho thấy: địa bàn Tây Nam Bộ cứ 4.557 người thì có 1 bị cáo phạm tội XPTDTE và
cứ 1km² có 0,094 bị cáo. Địa bàn Đông Nam Bộ cứ 4851 người thì có 1 bị cáo
phạm tội XPTDTE và cứ 1km² có 0.137 bị cáo, địa bàn Tây Nguyên thì 5.488 người
thì có 1 bị cáo phạm tội XPTDTE và cứ 1km² có 0,021 bị cáo. Điều này cho thấy
Tây Nam Bộ và Đông Nam Bộ là 2 khu vực có cấp độ nguy hiểm cao về các tội
XPTDTE và xếp sau đó là Tây Nguyên. Như vậy các tội XPTDTE xảy ra ở hầu hết
các địa bàn trong cả nước. Đều này cũng phản ánh được tính cấp thiết của việc
phòng ngừa loại tội phạm này trong đời sống xã hội.
Để phân tích mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa
bàn miền Tây Nam Bộ, luận án cần phải so sánh, đối chiếu với tình hình các tội
XPTDTE của cả nước để làm rõ hơn thực trạng của loại tội phạm này đang diễn ra
hiện nay. Trong giai đoạn 12 năm từ năm 2007 – 2018 trên cả nước đã xét xử
15.544 vụ/16.699 bị cáo, trong đó các tội XPTDTE trên địa bàn Tây Nam Bộ chiếm
4244 vụ (27,30%) và 4327 bị cáo (25,91%) (xe b ng biểu 2 7 v biểu 2 2 –
ph n phụ ục) Việc so sánh mức độ tình hình các tội XPTDTE ờ địa bàn Tây Nam
Bộ so với cả nước góp phần làm rõ hơn mức độ của loại tội phạm này ở khu vực, tỷ
lệ về số vụ và số bị cáo cũng cao hơn bình quân của cả nước. Tây Nam Bộ có 13 địa
bàn với 4244 vụ án XPTDTE, trung bình mỗi địa bàn có 326,4 vụ. Trong khi đó
trung bình cả nước (63 tỉnh thành) là 245,1 vụ. Như vậy Tây Nam Bộ có tỷ lệ về số
46
vụ và số bị cáo cũng cao hơn bình quân của cả nước (số vụ cao gấp 1,33 lần và số bị
cáo cao gấp 1,25 lần). Điều này cho thấy công tác đấu tranh và phòng ngừa các tội
XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đang là vấn đề cấp bách và cấp thiết.
2.2.2 Diễn biến của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn
miền Tây Nam Bộ
Diễn biến của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây
Nam Bộ là sự vận động và thay đổi của thực trạng và cơ cấu của tình hình các tội
xâm phạm tình dục trẻ em trong khoảng thời gian nhất định từ năm 2007 đến 2017.
Như vậy phân tích diễn biến của tình hình các tội XPTDTE để xác định quy luật
vận động của loại tội phạm này trong một khoảng thời gian nhất định từ đó đưa ra
được dự báo và xu hướng vận động của tội phạm trong những năm tiếp theo.
Diễn biến của tình hình các tội XPTDTE được thể hiện thông qua các kết
quả nghiên cứu sau đây:
Th 1 Nghiên cứu số liệu thống kê qua cho thấy từ năm 2007 – 2018 các tội
XPTDTE ở miền Tây Nam Bộ có diễn biến phức tạp. Xét trên tổng thể số vụ án và
số bị cáo thì các tội XPTDTE có xu hướng tăng lên năm 2007 có 325 vụ án/327 bị
cáo thì năm 2017 có 422 vụ/426 bị cáo (tăng 30,27% so với năm 2007)– (Xe b ng
biểu 2 8 - biểu 2 1 – ph n phục ục). Nếu lấy năm 2007 làm mốc 100% để so
sánh thì diễn biến tình hình các tội XPTDTE qua các năm 2007 – 2012 tội phạm có
chiều hướng giảm; năm 2008 tội phạm giảm rõ rệt 14,15% vụ, 12,53% bị cáo; năm
2009 giảm 12% vụ, 11% bị cáo; năm 2010 giảm 10,15% vụ, 9,48% bị cáo; năm
2011 giảm 4,3% vụ, 4,28% bị cáo; năm 2011 giảm 4,3% vụ, 4,28% bị cáo. Có thể
lý giải trong giai đoạn từ năm 2007 – 2010 đề án “Đấu tranh phòng ch ng c c oại
tội x hại trẻ e ; tội phạ trong a tuổi th nh ni n” đang được triển khai do đó
công tác phòng ngừa loại tội phạm này cũng mang lại nhiều kết quả khả quan. Tuy
nhiên trong tổng thể giai đoạn từ năm 2008 – 2017 thì tội phạm XPTDTE có diễn biến
chung là gia tăng theo từng năm và tăng mạnh trong những năm 2012 – 2014. So sánh
tình hình tội phạm của năm 2014 với năm 2007 cho thấy đến thời điểm này thì tỷ lệ
tội phạm gia tăng (22,4% số vụ, 22,9% số bị cáo) và so với năm 2017 thì tỷ lệ tội
phạm gia tăng (29,8% số vụ, 30,27% số bị cáo). Bình quân mỗi năm từ năm 2007 –
2017 diễn biến tội phạm XPTDTE gia tăng trung bình là 6.69 vụ, 7.54 bị cáo. Giai
đoạn khi Bộ Luật Hình sự 2015 SĐBS 2017 có hiệu lực thì diễn biến các tội
47
XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ năm 2018 vẫn đang gia tăng. So sánh năm
2018 với năm 2017 thì các tội XPTDTE tăng 6,8% số vụ/13,3% số bị cáo.
Th 2, tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây
Nam Bộ đang ngày càng gia tăng,so sánh diễn biến tình hình các tội XPTDTE qua
các giai đoạn (từ năm 2007 – 2009; từ năm 2010 – 2012; từ năm 2013 – 2015 và từ
năm 2016 – 2018) (xe b ng biểu 2 9 – ph n phụ ục). Nghiên cứu cho thấy: giai
đoạn từ năm 2007 – 2009 (giai đoạn 1) có 890 vụ án/904 bị cáo; giai đoạn từ năm
2010 – 2012 (giai đoạn 2) có 917 vụ án/928 bị cáo; giai đoạn từ năm 2013 – 2015
(giai đoạn 3) có 1147 vụ án/1167 bị cáo và giai đoạn từ năm 2016 – 2018 (giai đoạn
4) có 1290 bị cáo/1328 bị cáo. Nếu tính trung bình từng năm thì giai đoạn 1 có mức
trung bình 296,6 vụ án/301,3 bị cáo; giai đoạn 2 có mức trung bình 305,6 vụ
án/309,3 bị cáo; đến giai đoạn 3 có mức trung bình 382,3 vụ án/389,0 bị cáo; và giai
đoạn 4 thì số trung bình là 430 vụ án/422,6 bị cáo. Chỉ xem xét trên số liệu thống kê
đã cho thấy diễn biến tình hình các tội XPTDTE đang gia tăng về số vụ án, số bị
cáo và xét theo tính toán trung bình từng năm thì tình hình tội phạm này cũng đang
gia tăng.
Nếu lấy số liệu của giai đoạn 2007 – 2009 (giai đoạn 1) làm gốc để tính tỉ lệ
gia tăng của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ thì thu được
kết quả nghiên cứu như sau (xem bảng biểu 2.9 – phần phụ lục): Ở giai đoạn 2 thì
tình hình các tội XPTDTE tăng 3,03% số vụ và 2,65% số bị cáo; giai đoạn 3 tăng
28,87% số vụ và 29,09% số bị cáo; giai đoạn 4 tăng 44,94% số vụ và 46,9% số bị
cáo. Giai đoạn 3 và giai đoạn 4 có tỉ lệ gia tăng rất cao điều này cho thấy tình hình
các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đang gia tăng và có ti lệ gia tăng
khá cao (giai đoạn 3 so với giai đoạn 2 tỉ lệ gia tăng 18,12% số vụ án/25,7% số bị
cáo; giai đoạn 4 so với giai đoạn 3 tỉ lệ gia tăng 12,46% số vụ/13,7% số bị cáo). Có
thể thấy trong giai đoạn từ năm 2013 – 2018 công tác đấu tranh, phòng ngừa các tội
XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ không đạt được hiệu quả. Trong giai đoạn
2011 – 2015 không có đề án “Đấu tranh phòng ch ng c c oại tội x hại trẻ e ;
tội phạ trong a tuổi th nh ni n” vì thế việc huy động cá nguồn lực để triển khai
công tác phòng ngừa các tội XPTDTE ở nhiều địa phương ở địa bàn miền Tây Nam
Bộ còn hạn chế, và đặc biệt là các vùng xâu, vùng xa, vùng sông nước hẻo lánh và
vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống nhất.
48
Th ba tình hình các tội XPTDTE ở các địa bàn miền Tây Nam Bộ có
những diễn biến đáng chú ý như sau:Cà Mau (611 vụ/617 bị cáo); Kiên Giang (462
vụ/470 bị cáo); Sóc Trăng (368 vụ/374 bị cáo); Đồng Tháp (335 vụ/344 bị cáo); An
Giang (329 vụ/334 bị cáo); Vĩnh Long (315 vụ/319 bị cáo) đây là các địa bàn có tỷ
lệ tội phạm XPTDTE chiếm tỷ lệ cao nhất khu vực. Mặc dù đây mới chỉ là con số
thống kê trên cơ sở số vụ án và số bị cáo được đưa ra xét xử chưa có sự tính toán
trên cơ sở dân số và diện tích của từng địa bàn, tuy nhiên con số thống kê này sẽ
cho cái nhìn tổng quan về diễn biến của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn
miền Tây Nam Bộ hiện nay đang diễn ra với chiều hướng gia tăng và đặc biệt ở một
số địa bàn thì loại tội phạm này đang chiếm tỷ lệ rất cao.
Th tư Diễn biến tình hình các tội XPTDTE ở mỗi địa bàn qua từng năm
cũng có sự khác nhau điển hình như: (xe b ng biểu 2 1 2 2 v biểu 2 3 – ph n
phụ ục)
+ Cà Mau: từ năm 2007 – 2018 tỉnh Cà Mau đưa ra xét xử 611 vụ với 617 bị
cáo. Năm nhiều nhất xét xử 60 vụ với 61 bị cáo (2017); năm ít nhất xét xử 42 vụ với
44 bị cáo (2008)
+ Kiên Giang: từ năm 2007 – 2018 tỉnh Kiên Giang đưa ra xét xử 462 vụ với
470 bị cáo. Năm nhiều nhất xét xử 47 vụ với 49 bị cáo(2016); năm ít nhất xét xử 30
vụ với 33 bị cáo (2013)
+ Sóc Trăng: từ năm 2007 – 2018 tỉnh Sóc Trăng đưa ra xét xử 368 vụ với
374 bị cáo. Năm nhiều nhất xét xử 38 vụ với 38 bị cáo(2007); năm ít nhất xét xử 18
vụ với 19 bị cáo (2009)
+ Đồng Tháp: từ năm 2007 – 2018 tỉnh Đồng Tháp đưa ra xét xử 335 vụ với
344 bị cáo. Năm nhiều nhất xét xử 35 vụ với 36 bị cáo(2013); năm ít nhất xét xử 21
vụ với 22 bị cáo (2008)
+ Bến Tre: từ năm 2007 – 2018 tỉnh Bến Tre đưa ra xét xử 212 vụ với 217 bị
cáo. Đây là địa bàn có tỷ lệ các tội XPTDTE ít nhất trong khu vực miền Tây Nam
Bộ. Năm nhiều nhất xét xử 24 vụ với 24 bị cáo(2017); năm ít nhất xét xử 12 vụ với
12 bị cáo (2008)
49
2.2.3 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền
Tây Nam Bộ
Để nghiên cứu đặc điểm về lượng - chất của tính nguy hiểm cho xã hội của
tình hình tội phạm ta cần phải làm rõ các chỉ số về cơ cấu của tình hình tội phạm
“cơ cấu c a t nh h nh tội phạ tỷ trọng v i tương quan c a c c oại tội phạ
kh c nhau trong s ư ng chung c a chúng trong kho ng thời gian nhất nh v ở
ột ãnh thổ ( a b n) nhất nh [146 tr13] Như vậy có thể hiểu cơ cấu của tình
hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ là tỷ trọng và mối
tương quan của các loại tội phạm khác nhau trong số lượng tổng thể chung của các
tội xâm phạm tình dục trẻ em trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2017,
2018 trên địa bàn Tây Nam Bộ. Các chỉ số về cơ cấu tình hình các tội xâm phạm
tình dục trẻ em sẽ chỉ ra các đặc điểm về lượng – chất, tính nguy hiểm cho xã hội
của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn.
Nghiên cứu số liệu thống kê của TAND các tỉnh, thánh trên địa bàn miền
Tây Nam Bộ trong giai đoạn từ năm 2007 – 2018 và 485 bản án hình sự với 500 bị
cáo để xác định cơ cấu của tình hình các tội XPTDTE theo các tiêu chí như sau:
2.2.3.1 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội XPTDTE xét theo tội danh theo quy nh BLHS
1999 SĐBS 2009
Theo cơ cấu tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em theo tội danh trên địa
bàn miền Tây Nam Bộ (xe biểu 2 4- ph n phụ ục) thì tội Hiếp dâm trẻ em
chiếm tỷ lệ cao nhất có 2102 vụ án/2122 bị cáo (chiếm 55,42%/52,20%) chiếm hơn
phân nữa số vụ phạm tội XPTDTE xảy ra trên địa bàn. Tiếp đến là tội giao cấu với
trẻ em có 1397 vụ án/1418 bị cáo (chiếm 36,83%/36,89%. Tội dâm ô trẻ em có 291
vụ án/291 bị cáo (chiếm 7,58%/7,58%) và thấp nhất là tội cưỡng dâm trẻ em có 3
vụ án/3 bị cáo (chiếm 0,08%/0,07%) (xe b ng biểu 2 10 – ph n phục ục). Trong
nhóm tội XPTDTE thì tội hiếp dâm trẻ em có mức độ nghiêm trọng nhất lại chiếm
tỷ lệ nhiều nhất do đó cần phải nghiên cứu và tìm hiểu những nguyên nhân, điều
kiện làm phát sinh hành vi phạm tội để từ đó đưa ra những giải pháp thiết thực và
hữu hiệu hơn đối với loại tội phạm này.
50
2.2.3.2 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội x phạ t nh dục trẻ e xét theo a b n th c
hi n tội phạ
Cơ cấu của tình hình các tội XPTDTE ở những địa phương trên địa bàn miền
Tây Nam Bộ có phần khác nhau. Điều này được lý giải nhiều trong các công trình
nghiên cứu lý luận về tội phạm học, sự khác nhau về thành phần dân tộc, đặc điểm
lối sống, văn hóa bản sắc vùng miền cộng với các điều kiện về kinh tế, chính sách
phòng ngừa tội phạm cụ thể ở từng địa phương khác nhau cũng dẫn đến tỷ lệ tội
phạm có mức chênh lệch khác nhau. Tuy nhiên để xác định hệ số và cấp độ nguy
hiểm của tình hình các tội XPTDTE của từng địa bàn chỉ dựa vào số vụ và số bị
cáo phạm tội để kết luận thì chưa thể hiện đầy đủ bởi vì mỗi địa bàn khác nhau thì
sẽ có dân cư và diện tích khác nhau từ đó mức độ tội phạm nếu kết hợp trên cơ sở
dân cư và diện tích thì sẽ cho ra kết quả phù hợp hơn. Vận dụng phương pháp
nghiên cứu tội phạm học chuyên biệt của PGS.TS Phạm Văn Tĩnh, tính hệ số và cấp
độ nguy hiểm của các tội XPTDTE trên từng địa bàn miền Tây Nam Bộ thu được
các kết quả như sau:
Th nhất trên cơ sở số vụ án, số bị cáo kết hợp tính toán với số dân qua từng
năm (xe b ng biểu 2 11 - ph n phụ ục) có thể thấy các địa bàn có mật độ các tội
XPTDTE cao nhất là (Cà Mau 2.174 người, Hậu Giang 2.909 người, Vĩnh Long
khoảng 3.807 người dân) thì có 1 bị cáo phạm tội, trong khi đó thì ở Bến Tre
khoảng 6.821 người thì có 1 bị cáo phạm tội, An Giang khoảng 7.457 người thì có 1
bị cáo phạm tội và xếp thấp nhất là Tiền Giang khoảng 7.959 người thì mới có 1 bị
cáo phạm tội. Kết quả này cũng chưa phải là cơ sở đầy đủ để khẳng định địa bàn
nào có tỷ lệ tội phạm cao nhất hay thấp nhất.
Th hai phân tích tình hình các tội XPTDTE trên cơ sở kết hợp diện tích tự
nhiên của từng địa bàn để tính toán (xe b ng biểu 2 12 - ph n phụ ục ) kết quả cho thấy: xếp cao nhất là Vĩnh Long có 0,1945 bị cáo/1km2, tiếp đến là Cần Thơ có 0,1806 bị cáo/1km2, Hậu Giang có 0,1660 bị cáo/1km2, Trà Vinh có 0,1110 bị cáo/1km2, và xếp thấp nhất là Long An có 0,0523 bị cáo/1km2.
Như vậy, qua đánh giá cho thấy nếu chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu từng
bảng số liệu riêng lẻ thì sẽ cho ra những kết quả khác nhau về cơ cấu tình hình tội
51
phạm trên địa bàn. Vì thế để có sự đánh giá tổng thể về cơ cấu, mức độ của tình
hình tội phạm thì cần đánh giá thứ bậc về dân cư và diện tích của từng địa bàn để
tính toán hệ số tiêu cực (xe b ng biểu 2 13- ph n phục ục) kết quả nghiên cứu
cho thấy: Vĩnh Long, Hậu Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng (đây là
các địa bàn có hệ số tiêu cực cao nhất), xếp thứ tự sau đó là Đồng Tháp, Bạc Liêu,
Kiên Giang, Bến Tre, An Giang. Hệ số tiêu cực thấp nhất là địa bàn Tiền Giang và
Long An. Kết luận nêu trên đã cho cái nhìn toàn diện hơn về cơ cấu của tình hình
các tội XPTDTE xét theo địa bàn phát sinh tội phạm.
2 2 3 3 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội x phạ t nh dục trẻ e xét theo thời gian v
a iể g y n
* Về thời gian g y n: Nghiên cứu cho thấy nạn nhân bị xâm hại tình dục cao
nhất trong khoảng thời gian từ 11 giờ đến 16 giờ (chiếm 33,4%), kế đến là 6 giờ đến
11 giờ (chiếm 30,7%) điều này cho thấy trẻ em bị xâm phạm tình dục chủ yếu vào
ban ngày khi mà cha mẹ đi làm, hoặc lúc cha mẹ nghỉ ngơi, trẻ em đi chơi quanh
nhà. Bên cạnh đó thời gian từ 16 giờ đến 21 (chiếm 23,3%) thời gian này trẻ em đi
học thêm, đi chơi với bạn bè, đi liên hoan sinh nhật khoảng thời gian này nạn nhân
bị xâm hại tình dục ở khu vực vắng, ít người qua lại hoặc trẻ em yêu đương thường
chủ yếu bị xâm hại tình dục trong khoảng thời gian này. Nạn nhân bị xâm phạm tình
dục trong khoảng thời gian từ 21 giờ trở đi (chiếm 12,6%) (xe b ng biểu 2 14 –
ph n phụ ục) khoảng thời gian này ngoài vòng kiểm soát của cha mẹ, nạn nhân đi
chơi qua đêm hoặc có những trường hợp thừa lúc cha mẹ ngủ nạn nhân đã đưa bạn
trai vào ngủ cùng như vụ án Nguyễn Văn A, bản án số: 14/2017/HSST ngày
18/4/2017 của TAND tỉnh Long An. Nguyễn văn A phạm tội giao cấu với trẻ em,
do nạn nhân thừa lúc cha mẹ và các em ngủ say nên đã mở cửa cho bị cáo vào ngủ
cùng và thực hiện hành vi quan hệ tình dục, hành vi này diễn ra nhiều lần cho đến
khi bị phát hiện. Như vậy qua nghiên cứu về thời gian phạm tội có thể thấy người
phạm tội thường dựa vào thời gian thuận lợi khi mà nạn nhân ngoài vòng kiểm soát
của gia đình, người thân. Nạn nhân thường ở một mình hoặc với những đứa trẻ khác
mà không có người lớn bên cạnh. Có những trường hợp trẻ em bị xâm phạm tình
dục ngay cả khi có người lớn hoặc cha mẹ bên cạnh nhưng vì độ tuổi còn quá nhỏ
chưa biết nói hoặc lợi dụng lúc trẻ đang ngủ say nên người phạm tội đã lợi dụng các
52
điều kiện đó để thực hiện hành vi của mình. Ví dụ vụ án Nguyễn Vũ L, bản án số
34/2017/HS-ST ngày 29/9/2017 của TAND Huyện H, tỉnh Cà Mau. Nguyễn Vũ L
thực hiện hành vi dâm ô cháu Nguyễn K lợi dụng lúc K đang ngủ L có hành vi dâm
ô đối với K, K khóc nên L rời đi, sau đó K kể lại hành vi của L với gia đình. Từ đó
cho thấy mức độ cảnh giác của cha mẹ đối với con cái cần đặc biệt nâng cao hơn,
không loại trừ khả năng quan hệ thân thuộc hay quen biết, hành vi xâm phạm tình
dục trẻ em đều có thể xảy ra ngay cả khi cha mẹ đều có ở nhà.
* Đ a iể th c hi n tội phạ : Trong 485 vụ án xâm phạm tình dục trẻ em,
có 175 vụ án xảy ra ở tại nhà nạn nhân (chiếm 36,1%), 96 vụ án xảy ra tại nhà bị
cáo (chiếm 19,7%) , 85 vụ án xảy ra ở khách sạn, nhà trọ (chiếm 17,5%), 60 vụ án
xảy ra ở những khu vực đầm nước, chòi canh tôm, khu vực mương nước, vườn cây,
cồn cát, bãi biển, khu vực cách xa nhà dân và đường qua lại (chiếm 12,4%), 26 vụ
án xảy ra ở các phòng karaoke, tụ điểm vui chơi (chiếm 5,3%), có 43 vụ án xảy ra ở
khu vực nhà bỏ hoang, miếu hoang (chiếm 8,8 %) (xe b ng 2 15 – ph n phụ ục)
2 2 3 4 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội XPTDTE xét theo phương th c v th oạn
phạ tội
Qua nghiên cứu cho thấy người phạm tội sử dụng các phương thức, thủ đoạn
để XPTDTE như sau: (xe b ng biểu 2 17 – ph n phụ ục)
+ Lợi dụng trẻ em ở nhà một mình để khống chế tinh thần của trẻ chiếm tỷ lệ
cao nhất với 165 vụ án (34,1%)
+ Lợi dụng vào tâm lý yêu đương của tuổi mới lớn, lợi dụng nạn nhân có tình
cảm yêu dương với mình và thực hiện hành vi phạm tội có 115 vụ án (23,7%)
+ Dụ dỗ, cho tiền, cho quà bánh, mua quần áo để thực hiện hành vi XPTDTE
có 91 vụ án (chiếm 18,7% )
+ Lợi dụng nạn nhân có lối sống buông thả và dễ dãi, ham chơi, thích uống
rượu, sử dụng chất kích thích để thực hiện hành vi XPTDTE có 47 vụ (9,7%)
+ Dụ dỗ nạn nhân về nơi ở, nhà trọ để thực hiện hành vi phạm tội có 35 vụ
án (chiếm 16,5%)
+ Lợi dụng khu vực vắng người qua lại để thực hiện hành vi phạm tội có 28
vụ án (chiếm 5,7%).
53
+ Lợi dụng nạn nhân bị các bệnh về tâm thần hoặc có khó khăn trong nhận
thức để thực hiện hành vi XPTDTE có 4 vụ án chiếm tỷ lệ (0,82%)
2 2 3 5 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội x hại t nh dục trẻ e xét theo ặc iể nh n
th n c a nạn nh n
* Cơ cấu xét theo giới t nh c a nạn nh n:Qua thống kê cho thấy nạn nhân
của tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ trong thời gian
qua đa số đều là các nữ trẻ em, tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em đang giữ
chiều hướng gia tăng. Trong 3.793 vụ án về các tội XPTDTE thì có 3 trường hợp trẻ
em là nam giới bị xâm phạm về tình dục. Tuy số vụ xâm phạm tình dục trẻ em nam
rất ít so với trẻ em gái, tuy nhiên mức độ ẩn của tội phạm rất cao một phần do nạn
nhân hoàn toàn không khai báo, không có ý định khai báo, gia đình không hay biết,
không tố giác, hoặc với xu hướng tình yêu đồng giới người phạm tội đã dùng những
cám dỗ về vật chất để thực hiện hành vi lạm dụng tình dục, có hành vi diễn ra nhưng
không bị phát hiện và xử lý, mặt khác việc xâm phạm tình dục trẻ em nam thật sự chưa
được chú trọng phòng ngừa như các bé gái. Đây cũng là một trong những hạn chế cho
công tác nghiên cứu các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong đó trẻ em nam chưa được
chú ý và bảo vệ trước nguy cơ là nạn nhân của xâm phạm tình dục.
* Cơ cấu nạn nh n c a c c tội XPTDTE tr n a b n iền T y Na Bộ - xét
theo ộ tuổi c a nạn nh n: Nghiên cứu điển hình 485 vụ án về các tội xâm phạm
tình dục trẻ em với 501 nạn nhân: Độ tuổi bị xâm hại tình dục nhiều nhất là độ tuổi
từ đủ 6 tuổi đến dưới 13 tuổi chiếm tỷ lệ 55,7% (279/501 nạn nhân), kế đến là độ
tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi chiếm tỷ lệ 30,1% ( 151/501 nạn nhân với 148 nạn nhân
nữ và 03 nạn nhân nam) và thấp nhất là độ tuổi dưới 6 tuổi chiếm tỷ lệ 14,2%
(71/501 nạn nhân). – (Xe b ng biểu 2 16 v biểu 2 5 – ph n phụ ục)
* Cơ cấu t nh h nh c c tội x phạ t nh dục trẻ e xét theo i quan h giữa
nạn nhân với người phạ tội:
Qua phân tích cho thấy trong các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em trên địa
bàn miền Tây Nam Bộ thời gian vừa qua, giữa người phạm tội và nạn nhân có mối
quan hệ hàng xóm láng giềng và người có quen biết chiếm tỉ lệ khá cao (hàng xóm
láng giềng 75/485 vụ và người có quen biết 124/485 vụ. Chiếm tổng tỉ lệ 41% (xem
54
b ng 2 18 v biểu 2 6 – ph n phụ ục) Bên cạnh đó thì mối quan hệ giữa nạn
nhân và bị cáo là người yêu của nhau có 153 vụ chiếm tỉ lệ 31,5%; mối quan hệ
huyết thống, quan hệ họ hàng, quan hệ thân thích:có 77 vụ án chiếm tỉ lệ 15,9%;
quan hệ bạn bè có 30 vụ án chiếm tỉ lệ 6,2%; người phạm tội và nạn nhân không
quen biết nhau có 26 vụ án chiếm tỉ lệ 5,2%. Nếu phân loại mối quan hệ thành hai
trường hợp người quen biết (bao gồm họ hàng thân thích) và người không quen biết
thì người quen biết chiếm 94,6% trong khi đó người không quen biết chỉ chiếm
5,2%. Điều này cho thấy người phạm các tội XPTDTE phần lớn đều là người biết
đến nạn nhân và lợi dụng vào các mối quan hệ quen biết thân thiết để thực hiện
hành vi phạm tội, cũng như che dấu hành vi phạm tội của mình.
2.2.3.6 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội XPTDTE xét theo ặc iể nh n th n người
phạ tội tr n a b n iền T y Na Bộ
* Độ tuổi c a người phạ tội:
Độ tuổi là dấu hiệu sinh học cơ bản thể hiện sự phát triển về mặt thể chất và
khả năng nhận thức về sự vật hiện tượng cũng như sự kiểm soát về hành vi của con
người, độ tuổi còn là tiêu chí để phản ánh quá trình hình thành và phát triển nhân
cách trong đặc điểm nhân thân người phạm tội. Theo số liệu thống kê B ng biểu
2.19 v biểu 2 7 – ph n phụ ục cho thấy. Người phạm tội về XPTDTE có ở tất
cả các độ tuổi khác nhau: từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, từ 18 tuổi đến 30 tuổi, trên 30
tuổi đến 45 tuổi, trên 45 tuổi đến 70 tuổi, trên 70 tuổi. So sánh độ tuổi của người
phạm tội cho thấy, độ tuổi từ 18 tuổi đến 30 tuổi phạm các tội XPTDTE nhiều nhất
1.762 bị cáo (chiếm 45,8%); xếp sau đó là độ tuổi dưới 18 có 1.035 bị cáo (chiếm
27%); tiếp đến độ tuổi trên 30 đến 45 tuổi có 804 bị cáo(chiếm 21%); độ tuổi trên
45 đến 70 có 213 bị cáo (chiếm 5,6%); độ tuổi trên 70 có 30 bị cáo (chiếm 0,8%)
Tội phạm ở độ tuổi dưới 18 nếu so sánh năm 2017 với năm 2007 thì tỉ lệ phạm tội ở
độ tuổi này tăng 1,3 lần. Tội phạm từ độ tuổi trên 18 đến 30 tuổi tăng 1,1 lần, tội
phạm từ độ tuổi trên 30 đến 45 tăng 1,9 lần và tội phạm trên 45 tuổi đến 70 tuổi
tăng 0,5 lần so với năm 2007.
* Tr nh ộ học vấn c a người phạm tội:
Trình độ học vấn phản ánh sự phát triển của một người về lý trí và hình
thành nhân cách của một cá thể trong xã hội. Không phải người trình độ học vấn
55
càng cao thì sẽ không phạm tội, cũng không phải người có học vấn càng thấp thì sẽ
phạm tội. Trình độ học vấn có ảnh hưởng đến cách xử sự của con người đối với các
quan hệ xã hội, nghiên cứu về trình độ học vấn của người phạm tội chỉ để làm rõ
hơn vai trò của việc nâng cao dân trí, nâng cao nhận thức và hiểu biết của người dân
trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Qua nghiên cứu điển hình cho thấy
trong 500 bị cáo phạm các tội XPTDTE thì trình độ học vấn của người phạm tội
nhìn chung thấp hơn so với những người không phạm tội ở cùng độ tuổi. Người
không biết chữ tỉ lệ phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em là 33%, trình độ tiểu
học là 40,2%, trình độ trung học cơ sở là 23,2%, trung cấp, cao đẳng, đại học 3,6%
và sau đại học là 0%. (xem b ng 2.20 và biểu 2.8 – ph n phụ lục)
Như vậy, thực tế nghiên cứu cho thấy người có trình độ học vấn thấp sẽ tiềm
ẩn khả năng phạm tội khi có những tình huống thuận lợi cho việc phạm tội thì khả
năng nhận thức, khả năng kiểm soát hành vi sẽ không cao. Ngoài ra những người có
trình độ học vấn tương đối cao nhưng do lối sống, ham hưởng thụ bất chấp quy định
của pháp luật, lợi dụng sự non nớt và tâm lý yêu đương của trẻ em để thỏa mãn cho
nhu cầu sinh lý của mình. Do vậy đối với loại tội phạm này không chỉ có những
người có trình độ học vấn thấp mới chiếm tỉ lệ phạm tội cao mà những người có
trình độ học vấn, có sự hiểu biết pháp luật nhưng vẫn phạm tội này.
* Thành ph n xã hội và nghề nghi p c a người phạm tội::
Trong tổng số 500 bị cáo, có 73 bị cáo (chiếm 14,6%) không có nghề nghiệp,
số bị cáo làm nghề tự do là 187 (chiếm 37.4%), số bị cáo làm nông là 115 (chiếm
23%), bị cáo làm các nghề nuôi trồng liên quan đến thủy hải sản là 69 (chiếm
13,8%), là học sinh, sinh viên có 45 bị cáo (chiếm 9%), còn lại số bị cáo là cán bộ
công chức có 11 người (chiếm 2,2%). (xe b ng biểu 2 21 v biểu 2 9 – ph n
phụ ục)
* Thành ph n dân tộc c a người phạm tội :
Kết quả nhiên cứu trong 485 vụ án với 500 bị cáo đã cho thấy: Ở địa bàn
miền Tây Nam Bộ thì người dân tộc kinh chiếm tỉ lệ xâm phạm tình dục trẻ em có
nhất với 301 bị cáo (chiếm 60,2%), tiếp đến là người dân tộc Khmer với 178 bị cáo
(chiếm tỷ lệ 35,6%) mặc dù người dân tộc Khmer chỉ tập trung đông nhất ở Trà
Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Long An. Nhưng tỉ lệ phạm loại tội này cũng khá cao.
56
Có 20 bị cáo là người dân tộc Hoa (chiếm 4,0%) và có 1 bị cáo là dân tộc Chăm ở
An Giang (chiếm 0,2%) (xe b ng 2 22 – ph n phụ ục). Nghiên cứu này góp phần
cho việc tìm ra được các giải pháp phòng ngừa gắn với những yếu tố dân tộc đặc
trưng của vùng miền.
* Hoàn c nh gia nh c a người phạm tội :
Qua nghiên cứu cho thấy trong 500 bị cáo phạm các tội xâm phạm tình dục
trẻ em bị xét xử có 85 bị cáo còn cha mẹ (chiếm 17%), 54 bị cáo mất cha và mẹ
(chiếm 10,88%), 35 bị cáo mất cả cha lẫn mẹ (chiếm 7%), 87 bị cáo có hoàn cảnh
cha mẹ ly hôn (chiếm 17,4%). – (xem b ng biểu 2.23 – ph n phục lục).
Nghiên cứu trong 485 bản án với 500 bị cáo cũng cho thấy có 261 bị cáo
chưa từng lập gia đình (chiếm tỷ lệ 52,2%), số bị cáo còn lại đã từng kết hôn là 239
(chiếm tỷ lệ 47,8%)(xem b ng biểu 2.23 – ph n phục lục).
2 2 3 7 Cơ cấu theo ch tài hình s áp dụng i với người phạm tội
Nghiên cứu trong 500 bị cáo phạm các tội xâm hại tình dục trẻ em, cho thấy:
mức hình phạt được áp dụng nhiều nhất đối với người phạm tội XPTDTE là mức
hình phạt tù có thời hạn từ trên 7 năm đến 15 năm có 201 bị cáo (chiếm tỷ lệ
40,2%), mức hình phạt có tỷ lệ áp dụng nhiều thứ hai là hình phạt tù từ 3 năm đến 7
năm có 144 bị cáo (chiếm tỷ lệ 28,8%), mức hình phạt có tỷ lệ áp dụng nhiều thứ ba
là hình phạt dưới 3 năm tù có 77 bị cáo chiếm tỷ lệ 15,4% (trong đó có 15 hưởng án
treo chiếm tỷ lệ 3%), có 68 bị cáo (chiếm tỷ lệ 13,6%) bị áp dụng hình phạt tù trên
15 năm và thấp nhất có 10 bị cáo (chiếm tỷ lệ 2,0%) bị áp dụng mức hình phạt
chung thân (bảng biểu 2.24 – phần phụ lục). Các thông số về hình phạt chính được
áp dụng đối với bị cáo phạm các tội XPTDTE là rất nghiêm khắc. Đa số bị cáo phải
nhận hình phạt từ trên 7 năm đến 15 năm và từ 3 năm đến 7 năm tù (345 bị
cáo/chiếm 69%); số bị cáo bị áp dụng hình phạt dưới 3 năm tù (77 bị cáo/chiếm
15,4%) số bị cáo bị áp dụng hình phạt dưới 3 năm tù chiếm tỷ lệ không nhiều
thường thuộc các trường hợp phạm tội lần đầu, phạm tội không gây hậu quả lớn và
người phạm tội trong độ tuổi chưa thành niên. Với kết quả áp dụng các chế tài nói trên
phần nào phản ánh sự nghiêm khắc trong công tác xử lý, đấu tranh phòng ngừa các tội
xâm phạm tình dục trẻ em của các cơ quan, tổ chức thể hiện sự thống nhất ý chí của
Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ trẻ em trước nguy cơ bị xâm hại tình dục.
57
2 2 3 8 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội XPTDTE xét theo trường h p phạ tội n u
t i phạ t i phạ nguy hiể
Nghiên cứu trong 500 bị cáo/485 vụ án có 45 bị cáo đã có tiền án tiền sự và
thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm tình dục (chiếm tỷ lệ 9%); có 424 bị cáo
phạm tội lần đầu (chiếm 84,8%), có 27 bị cáo tái phạm (chiếm tỷ lệ 5,4%) và 4 bị
cáo tái phạm nguy hiểm (chiếm 0,8%) (xe b ng 2 25 - ph n phụ ục)
Đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em hình phạt áp dụng cho loại tội này
rất cao, những người chấp hành hình phạt tù với thời gian khá dài, việc giáo dục cải
tạo trong môi trường nhà tù người phạm tội nhận thức được sự trừng phạt mang tính
răn đe của pháp luật nên việc tái phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em hầu như rất
ít xảy ra, thêm vào đó một tỉ lệ không nhỏ các bị cáo hiện vẫn còn phải đang chấp
hành hình phạt tù cụ thể: bản án số 13/2011/HSST ngày 04/7/2011 bị cáo Phan Văn
Miền phạm tội “Hiếp dâm trẻ em” và “dâm ô trẻ em” tổng hợp hình phạt là 16 năm
tù, tính từ ngày 30/1/2011.
Đối với tội phạm XPTDTE phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy
hiểm ảnh hưởng rất lớn đến mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Chẳng hạn như những người phạm tội XPTDTE lần đầu thì thường, có sự bộc phát
hành vi phạm tội, những tội phạm đã tái phạm nhiều họ có kinh nghiệm để đối phó
với cơ quan bảo vệ pháp luật, kinh nghiệm về xóa dấu vết phạm tội, đặc biệt là
những đối tượng có án tích về tội phạm XPTDTE nhưng vẫn tái phạm, những đối
tượng này sẽ gây khó khăn cho cơ quan CSĐT trong việc điều tra, khám phá với thủ
đoạn tinh vi này. Chính vì vậy, phân tích đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng đối
với cơ quan tư pháp trong việc xác định tỷ lệ tái phạm của tội phạm nói chung và
nhóm tội XPTDTE nói riêng để đánh giá được tổng thể tình hình nhân thân người
phạm tội XPTDTE, những sơ hở, thiếu xót của cơ quan tư pháp, sự quản lý của cơ
quan chức năng để từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa đối với từng đặc điểm
hành vi cụ thể hoặc nhóm hành vi phạm tội cho phù hợp và đạt hiệu quả.
2 2 3 9 Cơ cấu c a t nh h nh t nh h nh c c tội XPTDTE xét theo ặc iể người
phạ tội c s dụng bia rư u v c c chất k ch th ch khác
Nghiên cứu cho thấy trong 500 bị cáo phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em
trên địa bàn miền Tây Nam Bộ thì có đến 285 bị cáo (chiếm tỷ lệ 57,2%) sử dụng
58
bia, rượu và thực hiện hành vi phạm tội, có 84 bị cáo (chiếm tỷ lệ 16,8%) xem
phim, truyện, ảnh sex và thực hiện hành vi phạm tội. Có 131 bị cáo (chiếm tỷ lệ
26,2%) thực hiện hành vi phạm tội do ham muốn tình dục phát sinh không có sự tác
động của bia rượu hay các chất kích thích, ma túy (b ng biểu 2 26 – ph n phụ ục)
2.2.4 Tính chất của tình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây
Nam Bộ
Trên cơ sở lý luận tội phạm học, có thể hiểu tính chất của tình hình tội phạm
là kết quả phân tích, đánh giá về mức độ, diễn biến và cơ cấu về tình hình tội phạm
và các kết luận được rút ra từ việc phân tích, đánh giá đó. Qua nghiên cứu các thông
số về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
trong giai đoạn 2007 – 2017, 2018 có thể rút ra những đặc điểm về tính chất của các
tội xâm phạm tình dục trẻ em như sau:
Th nhất Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ 2007 – 2017 và năm 2018 xảy ra rất nghiêm trọng, hệ số và cấp độ nguy hiểm
cao. Trung bình mỗi năm trên địa bàn tòa án đã xét xử 353,6 vụ án với gần 360,5 bị
cáo. Đây là loại tội phạm phát sinh hầu hết ở các địa phương trên địa bàn miền Tây
Nam Bộ. Theo dữ liệu thì tính đến năm 2018 cứ 100.000 dân thì có 2,53 người
phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Th hai Các tội xâm phạm tình dục trẻ em diễn ra trên phạm vi khắp các
tỉnh thành của miền Tây Nam Bộ. Trong đó tội hiếp dâm trẻ em chiếm tỷ lệ cao
nhất (2102 vụ án/2122 bị cáo), tiếp đến là tội giao cấu với trẻ em (1397 vụ án/1418
bị cáo), tội dâm ô trẻ em (291 vụ/291 bị cáo) và thấp nhất là tội cưỡng dâm trẻ em
có 3 vụ án/3 bị cáo.
Th ba Hệ số tiêu cực về các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên các địa bàn
theo thứ tự như sau: Vĩnh Long, Hậu Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc
Trăng (đây là các địa bàn có hệ số tiêu cực cao nhất) và tiếp đến là các địa bàn
Đồng Tháp, Bạc Liêu, Kiên Giang, Bến Tre, An Giang, Tiền Giang và Long An)
Th 4 Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ có
hệ số đồng phạm thấp, bình quân có 1,01 bị cáo tham gia trong một vụ xâm phạm
tình dục trẻ em.
59
Th 5 Đa số nạn nhân của các tội XPTDTE là nữ, ở độ tuổi từ đủ 6 tuổi đến
dưới 13 tuổi (chiếm 57,5%) tiếp đến là độ tuổi từ 13 – dưới 16 tuổi (chiếm 27,9%).
Nạn nhân dưới 6 tuổi (chiếm 14,6%). Độ tuổi nạn nhân càng nhỏ sẽ cho thấy tính
chất nguy hiểm càng cao của loại tội phạm này.
Th 6 Người phạm tội chủ yếu sử dụng phương thức đe dọa, dùng vũ lực, uy
hiếp tinh thần nạn nhân để thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, người phạm tội
còn lợi dụng sự non nớt của nạn nhân để dụ dỗ, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của nạn
nhân về quan hệ tình dục để thực hiện hành vi giao cấu. Phương thức phạm tội ngày
càng đa dạng, thực hiện hành vi tới điều này đã phản ánh tính chất nguy hiểm của
các tội XPTDTE ngày càng cao.
Th 7 Các tội xâm phạm tình dục diễn ra trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
thông qua nghiên cứu cùng có một đặc điểm chung là người phạm tội thực hiện
hành vi trong tình trạng say rượu hoặc đã uống rượu, bia (chiếm tỷ lệ 57%) đều này
cho thấy những ảnh hưởng không nhỏ của bia rượu đến việc phát sinh và hình thành
hành vi phạm tội do bản thân không thể làm chủ và kiểm soát hành vi.
Th 8 Người phạm tội các tội xâm phạm tình dục trẻ em đa số nằm trong độ
tuổi từ 18 đến 30 tuổi (chiếm tỷ lệ 45,8%), độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi (chiếm
tỷ lệ 27%). Người phạm các loại này đa phần còn rất trẻ bản năng và nhu cầu sinh
lý cao trong khi điều kiện để thỏa mãn cho nhu cầu tình dục còn hạn chế, tỷ lệ tội
phạm trẻ hóa cho thấy tính chất nguy hiểm của tội phạm này đối với xã hội. Vì nạn
nhân là trẻ em và người phạm tội cũng ở độ tuổi rất trẻ. Cả hai đều là đối tượng mà
xã hội phải quan tâm và bảo vệ.
Th 9 Tính chất của tình hình các tội XPTDTE còn được thể hiện thông qua
mối quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân. Trong tổng số 485 bản án với 500
bị cáo thì có 5,4% trường hợp nạn nhân không có quen biết với người phạm tội. Số
còn lại chiếm 94,6% với 451 vụ án đều có sự quen biết với nạn nhân. Điều này cho
thấy phần lớn người phạm tội xâm hại tình dục trẻ em đều là người quen vì thế với
sự cảnh giác và phòng ngừa không cao đã làm cho tình hình các tội XPTDTE ngày
càng trở nên phức tạp, việc phát hiện và xử lý tội phạm này càng trở nên khó khăn.
Th 10 Các tội XPTDTE xảy ra không chỉ tập trung vào đối tượng thất
nghiệp, không có việc làm ổn định, các vùng đồng bào dân tộc nông thôn sâu, trình
60
độ văn hóa thấp mà còn xảy ra ở các đối tượng lao động phổ thông, tầng lớp trí
thức, học sinh sinh viên.
Th 11 Các tội XPTDTE có mức hình phạt áp dụng cao, có 201 bị cáo bị
tuyên mức hình phạt tù có thời hạn từ trên 7 năm đến 15 năm có 201 bị cáo (chiếm
tỷ lệ 40,2%). Mức hình phạt tù từ 3 năm đến 7 năm có 144 bị cáo (chiếm tỷ lệ
28,8%), mức hình phạt dưới 3 năm tù có 77 bị cáo chiếm tỷ lệ 15,4% (trong đó có
15 hưởng án treo chiếm tỷ lệ 3%), có 68 bị cáo (chiếm tỷ lệ 13,6%) bị áp dụng hình
phạt tù trên 15 năm và thấp nhất có 10 bị cáo (chiếm tỷ lệ 2,0%) bị áp dụng mức
hình phạt chung thân.
Th 12 Các tội XPTDTE là loại tội phạm có độ ẩn cao, việc phát hiện, điều
tra và xử lý còn nhiều khó khăn từ đó công tác xử lý tội phạm còn nhiều hạn chế,
tính kịp thời và hiệu quả còn chưa cao.
Từ những nghiên cứu các thông số về mức độ, diễn biến, cơ cấu và tính chất của
tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đã cho thấy cần phải tăng
cường và nâng cao công tác đấu tranh và phòng ngừa loại tội phạm này trong thời gian
tới. Dù rằng kết quả của việc phòng ngừa tội phạm này trong những năm qua đã đạt
được những kết quả thiết thực, việc triển khai và thực hiện nghiêm túc đề án IV “Đấu
tranh phòng ch ng c c oại tội x hại trẻ e ; tội phạ trong a tuổi th nh ni n”
việc triển khai và thực hiện nghiêm túc đề án này đã góp phần không nhỏ trong việc
nâng cao ý thức và phòng ngừa loại tội phạm này trên các địa bàn của cả nước.
2.3 Phần ẩn của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ trên địa bàn miền Tây
Nam Bộ
2.3.1 Độ ẩn của các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ
“ Độ ẩn c a tội phạ ư c hiểu kh năng ẩn khuất kh c nhau c a từng
oại tội phạ hoặc từng nh tội phạ “ [144 tr38]. Đối với nhóm tội về xâm phạm
tình dục trẻ em thì độ ẩn của tội phạm cao, vì đây là nhóm tội xâm hại danh dự,
nhân phẩm và cá nhân bị xâm hại là trẻ em. Thực tiễn cho thấy bằng nhiều thủ đoạn
tinh vi người thực hiện hành vi phạm tội sẽ che giấu việc phạm tội của mình, trong
khi trẻ em lại thiếu hiểu biết, non nớt, nhận thức về việc xâm hại tình dục còn hạn
chế, tâm lý lo lắng, sợ sệt không dám tố cáo hành vi phạm tội, ý thức trách nhiệm
của gia đình, người làm chứng chưa cao từ đó rất nhiều trường hợp trên thực tiễn tội
61
phạm này đã thực hiện nhưng các cơ quan bảo vệ pháp luật không có thông tin về
chúng hoặc chưa phát hiện sự việc phạm tội cùng chủ thể thực hiện hành vi phạm tội
vì thế việc xử lý tội phạm còn gặp rất nhiều trở ngại và khó khăn.
Vì là tội phạm ẩn nên việc xác định chính xác và đầy đủ về độ ẩn của tội
phạm XPTDTE là điều không thể thực hiện. Để làm rõ về độ ẩn của tội phạm chủ
yếu nghiên cứu trên cơ sở kết quả của những nghiên cứu có liên quan từ đó phân
tích, tổng hợp, đánh giá và đưa ra kết luận phù hợp. Cụ thể:
Th nhất Đánh giá độ ẩn của các tội XPTDTE dựa theo số liệu tính từ từ
năm 2007 đến năm 2017 cho thấy: Cơ quan điều tra các cấp trên địa bàn miền Tây
Nam Bộ đã khởi tố 4221 vụ về các tội xâm phạm tình dục trẻ em với 4432 bị can.
Tòa án các cấp đã đưa ra xét xử 3793 vụ án với 3844 bị cáo (đạt tỷ lệ 89,86% số vụ,
86,73% số bị can). Như vậy, số vụ và bị can còn lại chưa hoặc không bị xét xử
trong giai đoạn trên là 428 vụ với 588 bị can (chiếm 10,14% số vụ, 13,27% số bị
can) (xe b ng biểu 2 27 – ph n phụ ục) có thể lý giải nhiều nguyên nhân khác
nhau, như: Thời hạn điều tra đã hết mà không chứng minh được bị can đã phạm tội
XPTDTE hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội
XPTDTE. Trong số các bị can phạm tội xâm hại tình dục trẻ em không bị xét xử nói
trên sẽ có nhiều trường hợp thuộc phần ẩn của tội phạm này.
Th hai Nghiên cứu số vụ án về các tội xâm hại tình dục trẻ em thông qua
số liệu thống kê B ng biểu 2 27 – ph n phụ ục cho thấy tính từ năm 2007 đến năm
2017 ở địa bàn miền Tây Nam Bộ cơ quan điều tra đã đình chỉ điều tra 207 vụ với
227 bị cáo (chiếm tỷ lệ 5,45% vụ, 5.91% bị can phạm tội XPTDTE đã khởi tố).
Viện kiểm sát đã đình chỉ 93 vụ phạm tội với 102 bị can (chiếm tỷ lệ 2.2% số vụ,
2,3% số bị can phạm tội đã bị truy tố). Theo thống kê cho thấy số bị can bị đình chỉ
trong giai đoạn điều tra, truy tố trong giai đoạn từ năm 2007 – 2017 là 141 người.
Trong số này cũng sẽ có một số trường hợp là tội phạm ẩn của các tội xâm phạm
tình dục trẻ em
Th ba Để đánh giá độ ẩn của các tội XPTDTE, luận án sử dụng phương
pháp phân tích điển hình các bản án đã xét xử cho thấy: rất nhiều vụ án có hành vi
xâm phạm tình dục trẻ em tái diễn nhiều lần nhưng sau đó mới bị phát hiện, cụ thể
với 485 bản án được nghiên cứu có 283 bản án (chiếm tỷ lệ 58,35%) hành vi phạm tội
62
bị phát hiện ngay sau khi gây án. Còn lại 202 bản án (chiếm tỷ lệ 41,65%) hành vi xâm
hại tình dục trẻ em không bị phát hiện ngay lần đầu thực hiện. Điều này cũng cho thấy
rất nhiều tội phạm về xâm phạm tình dục trẻ em đã xảy ra nhưng vì những lý do khác
nhau nên chưa được phát hiện, tình hình tội phạm ẩn đối với nhóm tội này khá cao và
thường xảy ra trong các mối quan hệ thân thuộc, họ hàng.
Với kết quả nghiên cứu về mức độ ẩn của các tội xâm phạm tình dục trẻ em
cho thấy đây là loại tội phạm có độ ẩn cao, đồng thời cũng phản ánh công tác phát
hiện và xử lý và phòng ngừa loại tội phạm này chưa đạt hiệu quả. Sự yếu kém trong
công tác phát hiện và xử lý đã làm cho các vụ phạm tội xảy ra nhưng không đủ
chứng cứ để xử lý hoặc xử lý không kịp thời đã dẫn đến sự ỷ lại, kích thích tội
phạm tái phạm nhiều lần, gây mất lòng tin trong nhân dân.
2.3.2 Thời gian ẩn của các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ
Thời gian ẩn của tội phạm“ kho ng thời gian từ khi th c hi n tội phạ cho
n khi tội phạ b ph t hi n’[144 tr40] Để làm rõ về thời gian ẩn của các tội xâm
phạm tình dục trẻ em trên cơ sở phân tích và đánh giá các bản án, thu được kết quả
như sau: b ng biểu 2 27 ph n phụ ục trong 485 bản án có 283 vụ án được phát
hiện ngay sau khi hành vi phạm tội số còn lại là 202 vụ có thời gian ẩn dài ngắn
khác nhau, thậm chí có những vụ thời gian ẩn kéo dài trên 3 năm mới bị phát hiện.
Trong số 202 vụ án có thời gian ẩn, có 29.28% số vụ ẩn từ 1 đến 6 tháng
(trong đó có 17,94% số vụ hành vi phát hiện lần đầu những đã bị ẩn một khoảng
thời gian mới bị phát hiện và 11,34% vụ có hành vi phạm tội được lập lại nhiều lần
sau đó bị phát hiện). Có 7.01% số vụ có thời gian ẩn từ 6 đến 12 tháng và 5,36% số
vụ có thời gian ẩn trên một năm (xe b ng biểu 2 28 – ph n phụ ục). Điển hình
như vụ án của Dương Ngọc Thế, sinh năm 1987 (Bản án số 19/2017/HS-ST ngày
22/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng). Dương Ngọc Thế thực hiện giao
cấu với em Lâm Thị Hồng N, Cao Thị Ra Ni và Lâm Thị Hồng M (các nạn nhân là
cháu vợ của bị cáo). Cả ba nạn nhân đều bị giao cấu nhiều lần từ khoản thời gian
năm 2015 đến 01/6/2017, thì hành vi phạm tội này mới bị gia đình nạn nhân phát
hiện và trình báo. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình, đối với Lâm Thị
Hồng N bị cáo thừa nhận quan hệ 7 – 8 lần (thời gian 12h trưa); đối với Lâm Thị
Hồng M bị cáo quan hệ 4 – 5 lần (khoảng thời gian 5h sáng); đối với Cao Thị RaNi
63
bị cáo giao cấu khoảng 4 – 5 lần, lần đầu tiên vào năm 2012. Bị cáo bị tuyên bố
phạm tội hiếp dâm trẻ em, hình phạt tù chung thân, thời gian tính từ ngày
04/6/2017. Mặc dù hành vi phạm tội của bị cáo đã bị xử lý nhưng qua bản án đã cho
thấy hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra quá lớn, ảnh hưởng đến tâm
sinh lý và danh dự của các nạn nhân, mà các nạn nhân đều là người thân của bị cáo.
Hành vi phạm tội xảy ra một thời gian khá dài từ năm 2012 nhưng không bị tố giác
kịp thời do đó nạn nhân đã phải chịu đựng và ám ảnh trong một thời gian khá dài.
2.3.3 Vùng ẩn của các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
Theo c c nh tội phạ học Macxit th vùng ẩn c a tội phạ “L ột ĩnh
v c kinh t - xã hội nhất nh vùng ẩn h ch a những iều ki n thu n i i với
vi c che dấu h nh vi phạ tội ã ư c th c hi n“[144 tr40] Như vậy, vùng ẩn
không chỉ giới hạn về không gian vùng địa lý mà còn bao gồm cả vùng trong lĩnh
vực kinh tế hoặc vùng trong lĩnh vực xã hội nào đó mà ở đó sẽ tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho việc che dấu các tội XPTDTE. Nghiên cứu cơ cấu theo mối quan
hệ giữa nạn nhân và người phạm tội trong 485 bản án XPTDTE với 500 bị cáo cho
thấy có 26 bị cáo không quen biết với nạn nhân. Số còn lại 474 bị cáo đều có mối
quan hệ quen biết, gần gũi hoặc bà con với nạn nhân. Có 165 bị cáo có quan hệ tình
cảm với nạn nhân; 124 bị cáo có quen biết với nạn nhân (người cùng địa phương
hoặc người quen của cha mẹ nạn nhân); 75 bị cáo có quan hệ xóm làng; 45 bị cáo
có quan hệ bạn bè; 33 bị cáo có quan hệ anh em họ hàng; 27 bị cáo có quan hệ thân
thuộc (cậu, chú, ông bác...) và 5 bị cáo có quan hệ là bố đẻ, bố dượng với nạn nhân.
So sánh mức độ ẩn trong các vụ án XPTDTE cho thấy trường hợp phạm tội mà
người phạm tội và nạn nhân quen biết nhau sẽ có mức độ ẩn lớn hơn nhiều lần so
với trường hợp giữa họ không có sự quen biết. Trong số 26 bị cáo không có sự quen
biết với nạn nhân chỉ có 3/26 bị cáo (chiếm 11%) có trạng thái ẩn vì bị cáo không bị
phát hiện hành vi phạm tội ngay lần đầu thực hiện hành vi, 89% trường hợp còn lại
không có trạng thái ẩn, hành vi phạm tội đều bị phát hiện và xử lý. Trái lại, đối với
các vụ án mà giữa người phạm tội với nạn nhân có sự quen biết, gần gũi hoặc bà
con dòng họ thì có đến 206 bị cáo/199 vụ án có trạng thái ẩn (chiếm tỷ lệ 41.2%).
Số còn lại 268 bị cáo/260 vụ án không có trạng thái ẩn (chiếm tỷ lệ 53,6%). Sự khác
nhau về mức độ ẩn xét theo mối quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân đã cho
64
thấy với mối quan hệ càng gần gũi, càng thân thiết, người phạm tội càng hiểu rõ
hoàn cảnh gia đình, điều kiện thói quen sinh hoạt thì người phạm tội càng dễ dàng
che dấu hành vi phạm tội của mình. Bên cạnh đó với mối quan hệ huyết thống, họ
hàng thì nạn nhân và gia đình nạn nhân càng muốn và tìm cách che dấu hành vi
phạm tội, hoặc thỏa thuận từ phía các gia đình mà không tố giác tội phạm. Đây là
điều kiện thuận lợi làm tội phạm ẩn ngày càng gia tăng.
Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra kết luận vùng ẩn của các tội xâm
phạm tình dục trẻ em được luận án khai thác dưới góc độ là các “Mối quan hệ giữa
người phạm tội với nạn nhân của các tội XPTDTE“
2.3.4 Nguyên nhân ẩn của tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ
Nguyên nhân ẩn của các tội XPTDTE rất đa dạng, có thể chia thành các
nhóm nguyên nhân chính như sau:
* Nguy n nh n ch quan: Nguyên nhân chủ quan làm phát sinh phần ẩn của
các tội XPTDTE phát sinh một phần từ chủ thể có thẩm quyền trong việc tiếp nhận,
xử lý tội phạm (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án). Các cơ quan có thẩm quyền chủ
động trong công tác tiếp nhận tố giác và giải quyết vụ án hình sự, nhưng thụ động
trong việc phát hiện và xử lý kịp thời, các tội phạm về xâm phạm tình dục trẻ em là
loại tội có độ ẩn cao nên đa số các vụ án được phát hiện chủ yếu do nạn nhân khai báo,
gia đình tố giác, hoặc có người chứng kiến tường thuật lại. Những hạn chế trong nghiệp
vụ phòng ngừa tội phạm cũng là một trong các nguyên nhân đẫn đến phần ẩn của các
tội XPTDTE. Bên cạnh đó tuy có thông tin về tội phạm nhưng vì nhiều lí do như: quen
biết, họ hàng... đã đề xuất người phạm tội thỏa thuận với gia đình nạn nhân để họ
không tố giác tội phạm, do đó người phạm tội không bi xử lý theo quy định pháp luật.
Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến phần ẩn của các tội XPTDTE.
*Nguyên nhân khách quan: Nguyên nhân khách quan làm phát sinh phần ẩn
của tình hình các tội XPTDTE là những yếu tố tác động bên ngoài, không phụ thuộc
vào ý chí của các chủ thể có thẩm quyền trong việc tiếp nhận và xử lý tội phạm (ẩn
khách quan). Các yếu tố khách quan chủ yếu bắt nguồn từ chính nạn nhân, do người
phạm tội.
Về phía nạn nhân, có nhiều nguyên nhân trong các tội XPTDTE làm cho
mức độ tội phạm ẩn cao như:Trong các vụ XPTDTE nạn nhân là trẻ em còn rất nhỏ
65
không có khả năng tự bảo vệ mình trước sự tấn công của tội phạm, trẻ em chịu sự
uy hiếp và khiếp sợ nên đã không dám nói với gia đình, người thân, không đủ can
đảm để tố giác hành vi phạm tội, hay nguyên nhân do nạn nhân lo sợ, mặc cảm nên
đã không khai báo sự việc hoặc khi bị phát hiện nạn nhân mong muốn được giấu
kín. Gia đình nạn nhân và người phạm tội thỏa thuận giải quyết mà không tố cáo
hành vi phạm tội đến chính quyền địa phương. Hoặc nạn nhân và người phạm tội
trong các vụ án XPTDTE thường có mối quan hệ gần gũi thậm chí là thân thiết, ruột
thịt như anh em, chú bác, ông cháu, bố con... Việc tố giác tội phạm sẽ ảnh hưởng
đến tình cảm gia đình, sẽ làm cho nạn nhân càng thấy xấu hổ, dư luận đàm tiếu,
chính vì vậy mà họ không khai báo, không tố giác hành vi phạm tội. Nạn nhân và
người phạm tội có quan hệ tình cảm nam nữ, nạn nhân chủ động quan hệ tình dục
với người phạm tội, có một số trường hợp nạn nhân có thai hoặc bỏ trốn cùng người
phạm tội. Với tâm lý muốn giải quyết sự việc kín đáo, gia đình người phạm tội và
nạn nhân thương lượng cho cả hai chung sống với nhau, thậm chí kết hôn khi nạn
nhân chưa đủ tuổi. Ngoài rado chính nạn nhân có lối sống buông thả, hưởng thụ, với
thói quen uống rượu, đi bar và sử dụng các chất kích thích dẫn đến việc nạn nhân bị
xâm hại tình dục trong trạng thái say rượu hoặc sử dụng chất kích thích. Do ảnh
hưởng của lối sống buông thả nên mặc dù nạn nhân bị xâm hại tình dục nhưng vẫn
không tố giác hành vi phạm tội.
Về ph a người phạ tội: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em có khoảng thời
gian phạm tội diễn ra rất nhanh, hành vi phạm tội thực hiện rất “kín“ thường chỉ có
người phạm tội và nạn nhân biết. Người phạm tội chủ yếu lựa chọn và lợi dụng thời
gian và địa điểm thuận lợi cho việc thực hiện hành vi mà không bị phát hiện. Các
thủ đoạn mà người phạm tội thường dùng để đạt được mục đích giao cấu rất đa
dạng như: đe dọa, uy hiếp tinh thần, dùng vũ lực, mua chuộc, cho tiền, cho bánh kẹo
hoặc các lợi ích khác theo mong muốn nạn nhân. Nghiên cứu trong 485 vụ án cho
thấy có 215 vụ án (chiếm 44,3%) người phạm tội dùng vũ lực, đe dọa, uy hiếp, lợi
dụng nạn nhân ở nhà một mình để thực hiện hành vi phạm tội, 126 vụ án (chiếm
25,9%) người phạm tội có thủ đoạn dụ đỗ,cho tiền cho quà bánh đễ dễ dàng thực
hiện hành vi phạm tội, 135 vụ án (chiếm 27,8%) người phạm tội lợi dụng tâm lý yêu
đương để giao cấu với nạn nhân hoặc lợi dụng nạn nhân say rượu, bia để thực hiện
66
hành vi giao cấu, có 4 vụ án (chiếm 0,8%) người phạm tội lợi dụng với trẻ em bị
thiểu năng nhận thức kém để thực hiện hành vi giao cấu và dễ dàng che dấu hành vi
phạm tội.
*Nguy n nh n do quy nh ph p u t h nh s (tội phạ ẩn th ng k ): Ngoài
những nguyên nhân đã được phân tích làm cho tội XPTDTE có tình trạng ẩn thì còn
phải nói đến nguyên nhân khác đó là do quy định của pháp luật về thống kê “theo
tội danh nghi trọng nhất hoặc tội danh c h nh phạt cao nhất c a b can b c o
u vụ“[142] Việc thống kê vụ án như quy định nói trên sẽ dẫn đến kết quả nhiều
hành vi xâm hại tình dục trẻ em nhưng không được phản ánh trong thống kê tội
phạm, ví dụ bản án số 23/HSST ngày 20/5/2010 đối với bị cáo Thạch Thi Na, bị tòa
án nhân dân tỉnh Trà Vinh tuyên 18 năm tù về tội hiếp dâm trẻ em, chung thân về
tội giết người. Đối với vụ án này theo quy định về phương pháp thống kê tội phạm
“theo tội danh nghiêm trọng nhất” thì trong số liệu thống kê hình sự thì Thạch Thi
Na phạm tội giết người, vụ án HDTE bị ẩn và không được thống kê.
Như vậy, từ những phân tích đánh giá về phần ẩn của các tội xâm phạm tình
dục trẻ em, có thể kết luận bên cạnh số lượng các tội XPTDTE đã được cơ quan bảo
vệ pháp luật xử lý và ghi nhận trong thống kê hình sự nhưng vẫn còn một lượng ẩn
lớn của các tội XPTDTE chưa được phát hiện, xử lý hoặc chưa có trong số liệu
thống kê. Lượng tội phạm ẩn càng lớn càng chứng tỏ rằng công tác đấu tranh phòng
ngừa các tội XPTDTE chưa đạt được hiệu quả vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế.
67
Kết luận chương 2
Nghiên cứu đánh giá về mức độ, diễn biến và cơ cấu, tính chất của tình hình
các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2017,
luận án rút ra một số kết luận như sau:
1. Các tội XPTDTE đang diễn ra với mức độ nghiêm trọng, diễn biến phức
tạp và xảy ra ở khắp các tỉnh thành thuộc địa bàn miền Tây Nam Bộ. Trong nhóm
tội về xâm phạm tình dục trẻ em thì tội HDTE chiếm tỷ lệ cao nhất 2102 vụ/2122 bị
cáo. Mức độ nghiêm trọng của tội này chiếm tỷ lệ rất cao được thể hiện trên cơ sở
phân tích đánh giá khi so sánh số vụ, số người phạm tội trong nhóm tội XPTDTE.
2. Từ những phân tích các đặc điểm trong cơ cấu của tình hình các tội
XPTDTE đã cho thấy các đặc điểm bên trong, tỷ trọng và mối tương quan của các
yếu tố thể hiện tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em, cũng cho thấy tính chất
nguy hiểm cho xã hội của các tội XPTDTE.
3. Thủ đoạn sử dụng để phạm các tội XPTDTE là rất đa dạng, song một đặc
điểm chung nhất là tội phạm lợi dụng sự thiếu hiểu biết của trẻ em, lợi dụng vào
tình yêu của tuổi mới lớn để thỏa mãn nhu cầu tình dục. Xu hướng tội phạm là lợi
dụng nạn nhân càng nhỏ tuổi càng dễ che đậy hành vi phạm tội, sự non nớt của nạn
nhân vừa là điều kiện thuận lợi để tội phạm tấn công, vừa là rào cản gây khó khăn
cho công tác phát hiện và xử lý tội phạm.
4. Trong số các vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em được chọn lọc nghiên
cứu các vụ án xảy ra giữa nạn nhân và người phạm tội có mối quan hệ quen biết,
gần gũi hoặc thân tình chiếm đại đa số (chiếm 94%). Đây là đấu hiệu điển hình
trong cơ cấu tình hình các tội XTDTE, và là nguyên nhân dẫn đến mức độ ẩn của
tội phạm cao.
5. Do tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội nên bị cáo
thường bị áp dụng những hình phạt nghiêm khắc nhất (khung hình phạt từ trên 7
năm đến 15 năm tù chiếm tỷ lệ 40,2%) nhiều nhất so với các khung hình phạt khác.
6. Phân tích, đánh giá về mức độ diễn biến và cơ cấu tính chất của các tội
XPTDTE đã cho thấy bức tranh về tình hình các tội XPTDTE trong những năm qua
từ đó làm cơ sở cho việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm cung cấp cơ sở khoa học cho việc dự báo về các tội XPTDTE trong tương lai
68
Chương 3
NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM
TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ
3.1 Khái quát lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội xâm
phạm tình dục trẻ em
3.1.1 Khái niệm và mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
Trong giáo trình Tội phạm học GS. Võ Khánh Vinh khẳng định “Nguy n nh n
v iều ki n c a t nh h nh tội phạ ư c hiểu h th ng c c hi n tư ng xã hội ti u
c c trong h nh th i kinh t - xã hội tương ng quy t nh s ra ời c a t nh h nh tội
phạ như h u qu c a nh” và “C c nguy n nh n v iều ki n c a t nh h nh tội
phạ tạo th nh ột h th ng g nhiều bộ ph n cấu th nh n ”. [146 tr87]
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là hai phạm trù khác nhau,
giữ vai trò khác nhau trong việc sinh ra kết quả của tình hình tội phạm. Nguyên
nhân là sự tác động qua lại cho nên điều kiện cũng góp phần vào các mối tương tác
này, vì thế khi nói nguyên nhân đã bao hàm cả điều kiện. Như vậy nguyên nhân và
điều kiện của các tội XPTDTE cũng được sinh ra theo quy luật chung, cũng là kết
quả của sự tương tác giữa các yếu tố thuộc môi trường sống và các yếu tố thuộc về
con người trong những hoàn cảnh và tình huống nhất định.
Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTDTE nhằm
mục đích tìm ra nguyên nhân và điều kiện làm cơ sở cho việc xây dựng các giải
pháp phòng ngừa có hiệu quả tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây
Nam Bộ. Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu này, luận án sẽ nghiên cứu về mối quan
hệ nhân quả trên nền tảng lý luận của triết học Macxit.
Mối quan hệ nhân - quả là một cặp phạm trù mà chủ nghĩa duy vật biện
chứng của triết học Mac - Lenin dùng để chỉ mối quan hệ khách quan giữa các hiện
tượng sự phụ thuộc lẫn nhau của các hiện tượng, quá trình khác nhau. Ở nghĩa rộng,
mối quan hệ nhân quả bao gồm các khái niệm như nguyên nhân, điều kiện, hậu quả,
mối quan hệ nhân quả và ngược lại. Triết học Macxit khẳng định rằng nguyên nhân
là phạm trù chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật, một hiện tượng
hoặc giữa các sự vật, các hiện tượng với nhau gây ra sự biến đổi nhất định gọi là kết
quả. Như vậy về bản chất, nguyên nhân không phải là hiện tượng hay sự vật nào đó,
69
mà nguyên nhân chỉ có thể là sự tác động qua lại. Không có sự tác động qua lại thì
không có nguyên nhân. Để nguyên nhân sinh ra kết quả nhất định nào đó như THTP
thì quá trình tương tác phải diễn ra trong điều kiện nhất định. Điều kiện tuy không
sản sinh ra kết quả, song tạo thuận lợi, hỗ trợ, thúc đẩy sự tương tác sinh ra kết quả.
Vậy là, về bản chất, điều kiện là những sự kiện, hiện tượng, tình huống, hoàn cảnh
nhất định.
Theo lý luận tội phạm học, “k t qu ” không phải là cái gì khác ngoài tình
hình tội phạm hoặc hành vi phạm tội cụ thể. Còn “nguyên nhân” không thể là một
hiện tượng hay một yếu tố nào đó, mà chỉ có thể là sự tác động qua lại của nhiều
hiện tượng nhiều yếu tố. Sự tác động qua lại này không phải là sự tác động trực tiếp
mà là sự tác động gián tiếp, tức là phải thông qua đầu óc con người. Như vậy,
nguyên nhân của tình hình tội phạm phải là sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu
cực thuộc môi trường sống và yếu tố tâm - sinh - lý - xã hội tiêu cực thuộc cá nhân
con người trong những hoàn cảnh, tình huống nhất định đã dẫn tới việc thực hiện
một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà pháp luật hình sự đã quy định là tội phạm
Trong cơ chế nhân - quả, vị trí của nguyên nhân và điều kiện cũng khác
nhau. Về mặt lý thuyết, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là hai
phạm trù khác nhau trong việc sinh ra kết quả. Sự khác biệt giữa chúng hoàn toàn
có thể nhưng vì “nguy n nh n” là sự tác động qua lại cho nên “ iều ki n” không
thể không tham gia vào sự tương tác này. Do đó, khi nói nguyên nhân đã bao hàm
trong đó cả điều kiện. Trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm cần loại trừ cả
hai tức là loại trừ những gì thuộc về nguyên nhân và những gì thuộc về điều kiện.
3.1.2 Cách tiếp cận nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình các tội xâm
phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của các tội XPTDTE cần phải có
phương pháp luận và phương pháp cụ thể để tiến hành các hoạt động này. Nghiên
cứu nguyên nhân và điều kiện của các tội XPTDTE phải dựa trên chủ nghĩa duy vật
biện chứng của triết học Mac - Lenin và kết hợp với những phương pháp nghiên
cứu cụ thể (so sánh, đánh giá, phân tích, nghiên cứu lịch sử, thống kê, tổng hợp, suy
đoán..) một cách có hiệu quả. Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm XPTDTE dưới gốc độ đa ngành (kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, tâm
70
sinh lý…) Ngoài ra khi nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội
XPTDTE xảy ra trên địa bàn miền Tây Nam Bộ cũng cần phải đặt trong mối quan
hệ khác như nhân thân người phạm tội, nạn nhân của tội phạm, những nhóm tội
khác xảy ra trên địa bàn hay hậu quả của các loại tệ nạn xã hội đã ảnh hưởng đến
tình hình các tội XPTDTE (tệ nạn ma túy, mại dâm, say rượu, tệ nạn tín ngưỡng mê
tín dị đoan…)
Để nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của các tội xâm phạm tình dục
người chưa thành niên đồng thời thấy được mức độ tác động của nhân tố này đối
với việc làm phát sinh các tội xâm phạm tình dục người chưa thành niên trên địa
bàn các tỉnh miền Tây Nam Bộ thì cần phải phân tích và làm rõ mối quan hệ của nó
với nhiều yếu tố phức tạp cùng tồn tại trên địa bàn miền Tây Nam Bộ.
3.2 Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em
3.2.1 Nguyên nhân và điều kiện thuộc về môi trường sống
Trong mối liên hệ với nguyên nhân và điều kiện của tội phạm thì môi trường
sống luôn giữ vai trò quan trọng, luôn tác động và chi phối thường xuyên đến cá
nhân, định hướng việc hình thành và hoàn thiện nhân cách và những đặc điểm nhân
thân người phạm tội. Những yếu tố đặc thù về môi trường sống của địa bàn Tây
Nam Bộ cũng có thể là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh hành vi phạm tội,
trong đó có các tội về xâm hại tình dục trẻ em.
3 2 1 1 Nguy n nh n v iều ki n xuất ph t từ những hạn ch trong qu tr nh ph t
triển về kinh t - xã hội iền T y Na Bộ
Nghiên cứu tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ cho
thấy có nhiều nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và trong đó có nguyên nhân phát
sinh từ quá trình phát triển kinh tế- xã hội.
Tây Nam Bộ là vùng nông nghiệp trọng điểm, có vị trí rất thuận lợi để phát
triển kinh tế biển, với đóng góp của nông nghiệp trong GDP của vùng ở mức cao
với tỷ trọng 39,6% cơ cấu GDP của vùng (năm 2010). Với diện tích trên 40.000 km2, chiếm 12% diện tích cả nước; dân số chiếm khoảng 20% và đóng góp khoảng
27% GDP cả nước; trong lĩnh vực nông nghiệp, miền Tây Nam Bộ đáp ứng khoảng
trên 50% sản lượng trái cây, 70% diện tích nuôi trồng thủy - hải sản [61]. Có thể
thấy đây là khu vực được thiên nhiên ưu đãi, thuận lợi trồng trọt, chăn nuôi, phát
71
triển tài nguyên biển. Mặc dù vậy nhưng Tây Nam Bộ là một trong những địa
phương có tỉ lệ nghèo cao, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển,
trình độ dân trí còn thấp, so với những vùng khác thì hàng năm Tây Nam Bộ còn bị
ảnh hưởng bởi xâm ngập mặn, hạn hán nên số hộ nghèo và cận nghèo ở vùng Tây
Nam Bộ vẫn còn gần 19%. Thu nhập bình quân đầu người đạt mức 40,2% triệu
đồng, trong khi cả nước là 47,9 triệu đồng/người/năm. [71]
Theo số liệu điều tra cho thấy, tính đến hết năm 2008 tỉ lệ hộ nghèo: Đông
Bắc 25,9%, Đồng bằng sông Cửu Long (Tây Nam Bộ) 25,9%. Khu vực Tây Bắc
19,8%, tiếp đến là Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là 8,4%, Duyên Hải
Nam Trung Bộ 2,3% (thấp nhất cả nước). Như vậy Đông Bắc và Đồng bằng sông
Cửu long là hai khu vực có tỉ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước. Theo số liệu điều tra
đến cuối năm 2010 thì tỉ lệ hộ nghèo có sự thay đổi như sau: Khu vực Tây Bắc
39,16%, Đông Bắc 24,62%, Duyên hải Nam trung bộ 17,27%, Duyên hải Bắc trung
bộ 16,04%, Đồng bằng sông Cửu Long (Tây Nam Bộ) 13.48% tiếp đến là Đồng
bằng sông Hồng 8,3% , Đông Nam Bộ là 2,11% (thấp nhất cả nước) [71] Mặc dù có
những chuyển biến tích cực về kinh tế, khu vực Tây Nam Bộ không còn chiếm tỷ lệ
nghèo cao nhất cả nước nhưng vẫn còn nằm trong nhóm các khu vực có tỷ lệ hộ
nghèo cao. Bên cạnh đó theo số liệu báo cáo tại Hội nghị “Những chuyển bi n nổi
b t kinh t ng bằng S ng Cửu Long 6 th ng u nă 2017 xu hướng thay ổi
trước cuộc c ch ạng c ng nghi p 4 0” đã cho thấy : Trong những năm 2001 -
2005 tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng trên 10%, giai đoạn 2011 - 2015 tốc độ
tăng trưởng 8%, và năm 2016 giảm còn 7%. … Đối với nông nghiệp trước năm
2014 tăng trưởng nông nghiệp khoảng 6%, giai đoạn 2014 - 2015 còn 3%, và năm
2016 chỉ 0,6%” tốc độ tăng trưởng kinh tế ở miền Tây Nam Bộ đang ngày càng giảm
rõ rệt. Tây Nam Bộ đang đứng trước những thách thức lớn về phát triển kinh tế như:
Th nhất t c ộ tăng trưởng kinh t gi s ph t triển nhanh v ất c n i
c a ột s ng nh/nghề trong khu v c s ất c n i c a d n cư ở c c Tỉnh c c
khu v c
Các địa phương có cơ cấu nông nghiệp cao như: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc
Trăng, An Giang, Hậu Giang có lượng di dân lớn đến các tỉnh, thành phố khác để
72
tìm việc làm. Những địa phương như Tiền Giang, Long An nơi thu hút các nguồn
đầu tư, khu công nghiệp thì dân cư tập trung đông. Sự mất cân đối giữa nguồn lao
động ở các nơi cũng gây khó khăn cho phát triển ổn định của khu vực Tây Nam Bộ.
Trên địa bàn các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: Long An, Tiền Giang, Kiên Giang,
Hậu Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh... đang tập trung nguồn lực để phát triển mạnh về
kinh tế, mở rộng chính sách thu hút và đầu tư đã có nhiều khu chế xuất, khu công
nghiệp, khu công nghệ cao, cụm cảng biển, nhà máy nhiệt điện những nơi này đang
thu hút và tập trung đông nguồn lao động từ các nơi đỗ về. Từ đó kéo theo các loại
hình kinh doanh dịch vụ, nhà trọ, và các loại hình kinh doanh khác có điều kiện phát
triển mạnh, nhiều nhóm nghề nghiệp phát triển như: thiết bị, dịch vụ, sửa chữa lắp
ráp, vận hành máy móc, bảo vệ, bán hàng, phục vụ, môi giới việc làm, kinh doanh
nhỏ.... sự phát triển các ngành dịch vụ khác nhau ở khu vực này như: quán ăn, quán
cafe, các chợ tự phát, nhà nghỉ, tiệm massage, nhà cho thuê, tiệm gội đầu, bar, quán
nhậu, cầm đồ, tiệm Internet- game đáp ứng nhu cầu của người lao động. Bên cạnh
đó, việc phát triển kinh tế ở các khu vực thiếu vững chắc mặc dù là vùng trọng điểm
về nông nghiệp của quốc gia, là vựa lúa lớn thứ hai của cả nước nhưng hiện tại mức
đầu tư còn thấp, sản xuất nông nghiệp thiếu bảo đảm về điều kiện kinh tế - kỹ thuật,
công nghệ chế biến nhiều nơi còn khá lạc hậu, việc đầu tư và ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ vào sản xuất chưa cao, gây thất thoát sau thu hoạch và giá thành
thấp. Ngoài ra hệ thống hạ tầng về giao thông thủy lợi cũng là trở ngại lớn cho việc
phát triển kinh tế ảnh hưởng đến sức hút đầu tư trong và ngoài nước. Đây cũng là
thách thức lớn cho công cuộc phát triển kinh tế của khu vực Tây Nam Bộ.
Hiện nay với sự chuyển đổi kinh tế, người dân không còn giữ ruộng vườn,
không tập trung phát triển nông nghiệp mà chuyển hướng làm kinh tế theo thời vụ,
không có định hướng lâu dài, trồng trọt chăn nuôi theo thị hiếu (dưa hấu, thanh
long...) từ đó dẫn đến việc lượng cung sản phẩm nhiều hơn cầu, người dân được
mùa nhưng sản phẩm lại không có giá cao hoặc việc phát triển kinh tế theo số đông
cũng làm tăng nguy cơ rủi ro cao trong phát triển kinh tế. Biến đổi khí hậu ở Tây
Nam Bộ cũng là nguyên nhân dẫn đến việc mùa vụ thất thu, người dân bỏ ruộng, bỏ
vườn chuyển hướng làm các công việc kinh tế khác. Đất đai chưa được đầu tư khai
thác đúng mức, trong khi đó các tỉnh miền Tây Nam Bộ gánh thêm một lượng lớn
lao động thiếu việc làm vì những ảnh hưởng của thị trường, kinh tế của việc biến
73
đổi khí hậu. Song hành với những điều kiện thuận lợi hay khó khăn trong phát triển
kinh tế, xã hội thì cũng tìm ẩn nguyên nhân làm phát sinh tội phạm nói chung và tội
phạm XPTDTE nói riêng.
Th hai t c ộng c a t nh trạng thất nghi p thi u vi c ở những a b n
Tây Nam Bộ “đến năm 2010 nếu tính theo chuẩn nghèo mới thì tỷ lệ nghèo
thu n n ng nghi p iền T y Na Bộ
của vùng là 12,6%, cả nước là 14,2%. Nhiều tỉnh trong vùng có tỷ lệ nghèo khá cao
như Trà Vinh 23,2%, Sóc Trăng 22,1%, Hậu Giang 17,3%...” [63]. Tây Nam Bộ có
gần 2 triệu người nghèo sống trong vùng nông thôn sâu, do đó quá trình giảm nghèo
bền vững còn đặt ra cho vùng rất nhiều thách thức. Trong những năm qua miền Tây
Nam Bộ đã có những chuyển biến tích cực về kinh tế và đạt được nhiều thành quả
trong việc phát triển kinh tế xã hội: Các tỉnh như Cần Thơ, Long An, Vĩnh Long …
đã có được các trung tâm kinh tế lớn làm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
người dân, tạo nhiều việc làm dẫn tới việc thu hút nhiều người lao động góp phần
hạn chế tình trạng thất nghiệp. Ngoài ra các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng,
Bến Tre, Trà Vinh… có vị trí thuận lợi trong phát triển kinh tế biển, khai thác và
nuôi trồng thủy sản phục vụ cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng cho trong nước và xuất
khẩu, 1 số tỉnh như Đồng Tháp, Hậu Giang, An Giang … cũng là trung tâm sản
xuất lúa gạo, các mặt hàng nông lâm khác để xuất khẩu. Theo kết quả rà soát hộ
nghèo cuối năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng giảm xuống còn 5,48% (giảm
1,93% so với năm 2013). Tổng hợp số liệu của các địa phương, cuối năm 2015 tỷ lệ
hộ nghèo toàn vùng giảm còn khoảng 3,54% (cả nước còn dưới 4,5%). Trong đó, có
8/13 địa phương có tỷ lệ hộ nghèo thấp (dưới 5%); một số tỉnh có mức giảm tỷ lệ hộ
nghèo đạt cao như Sóc Trăng (khoảng 4,5%), Bạc Liêu (khoảng 4,5%), Trà Vinh
(khoảng 3,3%). Tuy nhiên so với cả nước thì miền Tây Nam Bộ vẫn là khu vực phát
triển chậm hơn so với các khu vực lân cận như Đông Nam Bộ. Do đó khi nghiên
cứu nhân thân người phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây
Nam Bộ đã có sự khác biệt như sau: Độ tuổi từ 18 - 45 tuổi phạm tội nhiều nhất
(chiếm 45,8%). Người phạm các tội này phần lớn chưa kết hôn 261 bị cáo, đã ly
hôn 57 bị cáo (chiếm 63,6%). Nghiên cứu về nghề nghiệp của 500 bị cáo đã cho
thấy: người phạm các tội XPTDTE phần lớn có nghề nghiệp không ổn định, làm
74
nghề tự do, kinh doanh nhỏ (chiếm 37,4%), người không có việc làm (chiếm
14,6%), nông nghiệp (chiếm 23%), nuôi trồng thủy sản (13,8%, học sinh, sinh viên
(chiếm 9%), cán bộ, nhân viên (chiếm 2,2). Với k trên cho thấy ở độ tuổi từ 18 - 45
tuổi đây vừa là độ tuổi có sức khỏe lao động, vừa là độ tuổi có nhu cầu cao về sinh
lý nên việc nảy sinh nhu cầu tình dục ở độ tuổi này là điều hiển nhiên, nhưng do đời
sống ở miền Tây Nam Bộ còn khó khăn, kinh tế thiếu thốn, thu nhập thấp, phần lớn
người phạm các tội về XPTDTE là người chưa kết hôn hoặc đã ly hôn, có như cầu
về tình dục nhưng nhu cầu này không được đáp ứng, không thể thỏa mãn dẫn đến
người phạm tội có những hành vi xâm phạm về tình dục để nhằm thỏa mãn nhu cầu
riêng của bản thân, mà chủ thể dễ bị xâm hại, dễ bị lợi dụng lại là trẻ em. Thực tế
cho thấy, không phải những người không có việc làm, việc làm không ổn định, có
thu nhập thấp đều phạm tội, mà chỉ một phần và đây được xem là một trong các
nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội XPTDTE thông qua kết quả của việc nghiên
cứu điển hình.
Một thách thức của các tỉnh miền Tây Nam Bộ là quá trình giảm nghèo, giải
quyết việc làm đặt trong bối cảnh là sự phát triển của cả nước, việc duy trì tốc độ
tăng trưởng kinh tế của vùng vừa nâng cao thu nhập và tạo việc làm cho người dân.
Sự phát triển đô thị hóa, mở rộng đường xá đã dẫn đến thực trạng người dân bị thu
hồi ruộng đất, mặc dù địa phương có rất nhiều chính sách giải quyết việc làm nhưng
với trình độ dân trí thấp, tâm lý quen với công việc đồng áng không chịu được sự kỉ
luật của những công việc đòi hỏi việc tuân thủ giờ giấc. Vì vậy xã hội dư thừa một
lượng lớn lao động không có việc làm hoặc việc làm không ổn định. Bên cạnh đó sự
phân hóa giàu nghèo với những chênh lệch về điều kiện sống trong thời kỳ chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, những rạn vỡ trong
gia đình và sự xói mòn những giá trị truyền thống đã dẫn tới con số trẻ em bị bỏ rơi,
bị sao nhãng ngày càng tăng từ đó trẻ em dễ dàng du nhập lối sống thực dụng chủ
động trong các mối quan hệ tình cảm và trở thành nạn nhân của các tội xâm phạm
tình dục trẻ em.
Th ba những t c ộng ti u c c c a nền kinh t s ph t triển nhiều ng nh
nghề kinh doanh d ch vụ du ch trong gia tăng ngu n ao ộng trẻ e .
Việc phát triển kinh tế đi kèm với phát triển du lịch biển, khu du lịch sinh thái,
75
miệt vườn ở miền Tây Nam Bộ nhằm giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và đời
sống cho người dân địa phương bên cạnh những thuận lợi nhất định về tiềm năng
khai thác du lịch thì còn có những hệ lụy phát sinh trong xã hội như bóc lột sức lao
động của trẻ em, không khó để thấy trên các đường phố ở miền Tây Nam Bộ, trẻ em
bán vé số, bán hàng rong, đi ăn xin ở những địa điểm quán nhậu, khu vực đông
khách du lịch, trẻ em phải kiếm tiền từ rất sớm đều này làm gia tăng nguy cơ trẻ em
bị xâm phạm tình dục và đặc biệt là trường hợp trẻ em tự nguyện bán dâm để lấy
tiền trang trải cuộc sống hoặc phải kiếm đủ tiền theo sự bắt buộc của gia đình. Theo
báo cáo của cơ quan Phòng chống ma túy và tội phạm (UNODC) cũng cảnh báo
Việt Nam bước vào giai đoạn đầu tiên của hiện tượng “ Du lịch tình dục” nhiều
khách du lịch đã dụng hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn này của các em đã dùng vật
chất để dẫn dụ các em đồng ý cho những kẻ đó quan hệ tình dục với những trường
hợp này rất khó phát hiện và xử lý, khách du lịch có thể rời đi sau khi thực hiện
hành vi XPTDTE. Các địa phương có lượng khách du lịch lớn như Kiên Giang, An
Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh Long... Mặc dù tính đến thời điểm hiện
tại Tòa án nhân dân các tỉnh trên địa bàn miền Tây Nam Bộ có xử lý các vụ án về
mua dâm trẻ em nhưng chưa có vụ án cụ thể nào có đối tượng phạm tội là khách du
lịch. Điều này không có nghĩa là thực tiễn thời gian tới sẽ không xảy ra. Vì thế trong
công tác phòng ngừa cũng cần có các biện pháp phòng ngừa các tội XPTDTE ở các địa
bàn tập trung đông khách du lịch trong và ngoài nước.
3 2 1 2 Nguy n nh n v iều ki n thuộc về i trường a ý t nhi n c a iền T y
Na Bộ
Về a ý: Tây Nam Bộ bao gồm 13 tỉnh, thành phố là Long An, Tiền Giang,
Vĩnh Long, Bến Tre, Đồng Tháp, Trà Vinh, An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc
Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang và Cà Mau. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt
Nam năm 2011 cho thấy diện tích 13 tỉnh, thành thuộc Đồng bằng sông Cửu Long
hơn 40.548,2 km² và tổng dân số của các tỉnh là 17.330.900 người. Phía Tây Bắc
giáp Campuchia. Phía Đông Bắc tiếp giáp Vùng Đông Nam Bộ. Phía Đông giáp
biển Đông. Phía Nam giáp Thái Bình Dương. Phía Tây giáp vịnh Thái Lan. Vị trí
địa lý đặc thù của Đồng bằng sông Cửu long: bao gồm quốc lộ 1A, 53, 54, 57, 60,
61, 62, 63, 80, 91, 91c và đường bờ biển dải 73,2 km [61] với các cảng biển khu
76
vực Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh...các dòng sông lớn như Sông Tiền,
sông Hậu, Sông Châu Đốc cùng với các hệ thống các kênh rạch chằng chịt, từ đó
các yếu tố địa lý đó đã hình thành thói quen sinh hoạt, buôn bán và cư trú trên sông
nước của người dân miền Tây. Ở một số khu vực của Tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bến
Tre, Trà Vinh, Đồng Tháp, Hậu Giang người dân vẫn còn vận chuyển và sinh hoạt
đi lại bằng ghe, xuồng. Một bộ phận dân cư sinh sống ở các khu vực cách xa thành
thị hoặc ở các cù lao, cồn nổi trên sông. Diện tích đất nông nghiệp, đất trồng trọt
khá lớn nên phần lớn người dân sống biệt lập, nông thôn Nam Bộ còn rất nhiều
những ngôi nhà lá, những nơi ở tạm bợ không kiên cố. Với điều kiện sinh sống cỏn
nhiều thiếu thốn việc tiếp cận thông tin còn hạn chế nên rất nhiều trường hợp trẻ em
bị xâm hại tình dục ngay tại nơi sinh sống nhưng cha mẹ và người thân điều không
hay biết. Theo nghiên cứu đã cho thấy: Vĩnh Long, Hậu Giang, Cà Mau, Trà Vinh,
Cần Thơ, Sóc Trăng (đây là các địa bàn có hệ số tiêu cực cao nhất), xếp thứ tự sau
đó là Đồng Tháp, Bạc Liêu, Kiên Giang, Bến Tre, An Giang. Hệ số tiêu cực thấp
nhất là địa bàn Tiền Giang và Long An. Những địa bàn có tình hình các tội
XPTDTE cao như Vĩnh Long, Hậu Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Sóc Trăng hầu như
đều có những yếu tố địa lý - kinh tế văn hóa tương đồng nhau, đều là vùng đồng
bằng sông nước, đời sống ở một số khu vực còn rất nhiều khó khăn, người dân chủ
yếu là ruộng, trồng trọt hoặc nuôi trồng thủy hải sản, tỉ lệ lao động không có việc
làm là rất cao, trình độ dân trí thấp. Vĩnh Long, Hậu Giang, Sóc Trăng là các địa
phương có tỷ lệ người dân đi xuất khẩu lao động cao, một số đi làm ở các thành phố
lớn như Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh hoặc các tỉnh thành khác. Trẻ em ở các
địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, vùng sông nước hẻo lánh chưa
được chăm sóc và bảo vệ đúng mức, trẻ em tự lập khi còn rất nhỏ, tự chăm sóc nhau
từ đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng xấu tấn công. Do đó cần phải nâng
cao công tác dự báo tội phạm ở từng địa bàn và công tác phòng ngừa loại tội phạm
này được triển khai hữu hiệu hơn ở từng địa bàn trong thời gian tới. Có thể thấy
điều kiện tự nhiên của miền Tây Nam Bộ vừa là yếu tố thuận lợi cho việc phát triển
kinh tế, nhưng cũng đồng thời là những thách thức đối với việc quản lý dân cư,
kiểm soát an ninh khu vực, kiểm soát các địa tội phạm trong đó có các tội về xâm
phạm tình dục trẻ em.
77
Về th nh ph n d n tộc v d n cư:
Dân cư sinh sống ở vùng Tây Nam Bộ bao gồm nhiều dân tộc khác nhau,
trong đó có 4 dân tộc chính là: Kinh (Việt), Hoa, Chăm và Khmer. Theo số liệu điều
tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số người Khmer ở Việt Nam có 1.260.640 người,
tập trung đông nhất ở các tỉnh thuộc khu vực Tây Nam Bộ. Trong đó tỉnh Trà Vinh
có 290.000 người (chiếm 30% dân số của toàn tỉnh); Sóc Trăng có 338.000 người
(chiếm 28,8% dân số toàn tỉnh); Kiên Giang có 182.000 người (chiếm 12,1% dân số
toàn tỉnh); Bạc Liêu có 58.000 người Khmer (chiếm 7,9% dân số toàn tỉnh) và An
Giang có 78.700 người Khmer (chiếm 3,8% dân số của tỉnh). Dân tộc Kinh chiếm
đại đa số 91,97% sống ở hầu hết các nơi trong vùng. Dân tộc Khmer chiếm 6,88%
sinh sống chủ yếu ở vùng nông thôn, miền núi khu vực: An Giang, Sóc Trăng, Trà
Vinh, Bạc Liêu, Kiên Giang. Dân tộc Hoa chiếm 1,03% sinh sống ở khắp các tỉnh
thành Tây Nam Bộ và dân tộc Chăm chiếm 0,09%, sinh sống chủ yếu ở An Giang
(Tân Châu, An Phú, Phú Tân, Châu Phú). Nghiên cứu trong 485 bản án với 500 bị
cáo phạm các tội về XPTDTE kết quả cho thấy người dân tộc kinh chiếm tỉ lệ cao
trong các tội về xâm phạm tình dục trẻ em với 301 bị cáo (chiếm 60,2%), tiếp đến là
người dân tộc Khmer với 178 bị cáo (chiếm tỷ lệ 35,6%), có 20 bị cáo là người dân
tộc Hoa (chiếm 4,0%) và có 1 bị cáo là dân tộc Chăm ở An Giang (chiếm 0,2%).
Hơn phân nửa người phạm tội là người dân tộc kinh, mặc dù phần lớn dân cư sinh
sống ở Nam Bộ là người dân tộc kinh nhưng đều này cho thấy một bộ phận dân cư
đang mất dần các tư tưởng văn hóa, truyền thống tốt đẹp của người Nam Bộ, coi
thường các giá trị về đạo đức, nhân phẩm và có lối sống lệch lạc về tình dục. Người
dân tộc Khmer chỉ tập trung sinh sống chủ yếu ở một số khu vực nhưng tỉ lệ phạm
loại tội này cũng khá cao (chiếm tỷ lệ 35,6%) đây cũng là một thực trạng đáng quan
tâm bởi phần lớn người dân tộc Khmer có đức tính thật thà, cần cù chất phát, có đời
sống văn hóa tín ngưỡng cao, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo Nam tông, đa
số người dân tộc Khmer từ khi sinh ra đã mặc định là người theo Phật giáo Nam
tông vì quan niệm “sống gửi thân chết gửi cốt” nên trong đời sống cũng như trong
thói quen sinh hoạt họ rất tôn trọng các giá trị có yếu tố truyền thống. Do đó việc
phạm các tội XPTDTE ở bộ phận dân cư này cần phải nghiên cứu nguyên nhân và
điều kiện phát sinh tội phạm dưới nhiều góc độ như kinh tế, thói quen sinh sống,
78
nghề nghiệp, trình độ dân trí, những ảnh hưởng của sự du nhập, giao thoa về đời
sống văn hóa đã làm một bộ phận người dân rời xa giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, để từ đó đưa ra giải pháp phòng ngừa hiệu quả hơn. Ngoài ra kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy bị cáo phạm tội là người dân tộc Hoa và Chăm tuy tỉ lệ
phạm tội thấp nhưng cũng cần đặc biệt quan tâm để từ đó loại trừ tội phạm này ra
khỏi đời sống xã hội.
3.2.1.3 Nguyên nhân và điều kiện về Đời sống - Văn hóa - Tính cách người dân miền Tây
Nam Bộ
* Về Đời sống – Văn Hóa
Trong những năm gần đây miền Tây Nam Bộ đã có những chuyển biến tích
cực về đời sống, người dân bắt kịp xu hướng tiến bộ của các nước, văn hóa thời kì
hội nhập, những tư tưởng hướng ngoại đã làm thay đổi mạnh mẽ đời sống văn hóa
con người Nam Bộ. Bên cạnh sự thay đổi tích cực thì cũng kéo theo nhiều ảnh
hưởng tiêu cực từ văn hóa xã hội đến tình hình tội phạm bao gồm cả các tội xâm
phạm tình dục trẻ em.
Th nhất Các phim ảnh, tạp chí, sách báo có nội dung đồi trụy, khiêu dâm từ
nước ngoài du nhập vào Việt Nam, cơ quan quản ký không thể kiểm soát được là
một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trẻ em ngày càng bình
thường hóa quan niệm tình dục và các tội phạm về xâm phạm tình dục trẻ em diễn
ra với mức độ nghiêm trọng hơn. Nghiên cứu trong 500 bị cáo cho thấy: có 84 bị
cáo phạm tội do ảnh hưởng của phim sex, ảnh sex, truyện sex ... chiếm 16,8 %.
Điều đáng quan tâm là những sản phẩm văn hóa độc hại, đồi trụy lại có khả năng
khích thích và lôi cuốn người tiêu dùng rất cao (đặc biệt là tầng lớp thanh niên mới
lớn), làm cho họ có những hành vi và tình dục lệch lạc. Sự lệch lạc về văn hóa và
nhận thức kéo theo sự khích thích và ham muốn dục vọng làm cho bản thân không
thể kiểm soát hành vi của mình, dù có thể biết hành vi thực hiện là trái pháp luật có
thể gây hậu quả cho người khác nhưng vẫn thực hiện hành vi. Điển hình như vụ
Phan Thanh Tuấn, sinh ngày 21/4/1998, Thường trú: xã Vĩnh Hanh, huyện Châu
Thành, Tỉnh An Giang (bản án số 06/2017/HSST). Tuấn có lối sống buông thả, sớm
tiêm nhiễm thói hư, tật xấu, thích xem phim sex mỗi lần xem phim xong, Tuấn lợi
dụng cha mẹ nạn nhân không thường xuyên ở nhà, nạn nhân lại là bà con với bị cáo
79
nên đã nhiều lần thực hiện hành vi xâm hại tình dục nạn nhân. Trong quá trình điều
tra Tuấn đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Sau khi xem xét các tình
tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội. Hội đồng xét xử tuyên mức án 8 năm tù
giam với Tuấn về tội Hiếp dâm trẻ em.
Th hai Do ảnh hưởng bởi lối sống buông thả, thích hưởng thụ, lười lao động
xem thường các giá trị đạo đức, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội, đã làm cho
tệ nạn xã hội và tội phạm ngày càng gia tăng trong đó có các tội xâm phạm tình dục
trẻ em. Nhu cầu tình dục được coi là nhu cầu mang tính bản năng của con người,
tuy nhiên việc thỏa mãn cho nhu cầu này không được xâm hại đến sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của người khác cũng như không được xem nhẹ các giá trị về truyền
thống, đạo đức. Các vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em ở địa bàn miền Tây Nam
Bộ xảy ra trong thời gian vừa qua đa phần đều có mối quan hệ người thân, quen
biết. Điều này cho thấy sự xuống cấp trong văn hóa ứng xử, trẻ em không được bảo
vệ ngay cả khi sống bên người thân của mình.
Điển hình như vụ án hiếp dâm trẻ em tại Vĩnh Long gây phẫn nộ trong dư luận
một thời gian dài. Nạn nhân là em PTLĐ (11 tuổi) trú tại xã An Phước, huyện Mang
Thít, tỉnh Vĩnh Long bị cha là Phan Thanh Tuấn (36 tuổi) và ông nội là Phan Thanh
Sơn (62 tuổi) xâm phạm tình dục nhiều lần. Từ tháng 7/2016 đến tháng 3/2017
Tuấn đã thực hiện hành vi xâm hại tình dục với con 4 lần, từ tháng 3/2016 đến
tháng 2/2017 Sơn đã thực hiện hành vi xâm hại tình dục 3 lần. Cả hai điều khai
nhận hành vi phạm tội của mình tại Tòa. Xét tình chất nghiêm trọng của hành vi
phạm tội. Ngày 30/8/2017 TAND tỉnh Vĩnh Long đã tuyên phạt bị cáo Phan Thanh
Tuấn tù chung thân về tội hiếp dâm trẻ em và ngày 11/9/2017 TAND tỉnh Vĩnh
Long đã tuyên phạt bị cáo Phan Thanh Sơn tù chung thân về tội hiếp dâm trẻ em.
Th ba Miền Tây Nam Bộ với đa thành phần dân tộc và sự giao thoa văn hóa
vì thế lễ hội diễn ra quanh năm, bên cạnh những ngày lễ, tết của dân tộc Kinh, còn
có khá nhiều ngày lễ, hội, của dân tộc khác như: Lễ hội Ok Om Bok, Chol Chnam
Thmay, Sen Dolta, lễ hội đua bò bảy núi, lễ hội vía Bà Chúa núi Sam, Lễ hội Cúng
dừa ... cùng với sự phát triển của văn hóa tâm linh ở các khu vực An Giang, Sóc
Trăng, Trà Vinh những ngày cúng Trăng, các ngày vía Thần, vía Bà (chúa xứ) các
Phật tử từ các nơi đến rất đông. Đây là những nét đặc trưng về văn hóa dân tộc, văn
80
hóa tâm linh miền Tây Nam Bộ, tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những hạn chế Tây
Nam Bộ là những nơi có tỷ lệ người nghèo cao, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm
nhiều, người dân miền Tây Nam Bộ thích lễ hội, cúng viếng chùa miếu và hưởng
ứng rất tích cực hoạt động lễ hội, điều này cũng ảnh hưởng đến kinh tế, việc làm
của các hộ gia đình ở miền Tây Nam Bộ. Bên cạnh đó, rất nhiều gia đình khu vực
miền Tây Nam Bộ có truyền thống ủ rượu và uống rượu như một phần trong cuộc
sống hàng ngày, khác với những khu vực khác người dân miền Tây Nam Bộ vui
cũng uống rượu, buồn cũng uống rượu, uống đến khi thật say và có khi điều này
diễn ra thường xuyên ở hầu hết các gia đình. Từ người trẻ đến người già và nhất là
nam giới họ dùng rượu như là cách thức để thắt chặt tình thân, tình bằng hữu. Có
thể nói rượu là niềm tự hào của miền Tây Nam Bộ, đó là một văn hóa rất riêng, tuy
nhiên bên cạnh những nét đặc thù về văn hóa này thì cũng có rất nhiều tiêu cực xảy
ra từ việc uống rượu. Đa số các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền
Tây Nam Bộ đều có cùng một đặc điểm: đó là người phạm tội uống bia, rượu trước
khi thực hiện hành vi phạm tội. Nghiên cứu trong 485 vụ án/ 500 bị cáo thì có đến
281vụ án/285 bị cáo có sử dụng rượu bia trước khi thực hiện hành vi phạm tội
(chiếm tỷ lệ 57%). Điều này cho thấy sự tác động của rượu, bia đã ảnh hưởng rất
lớn đến nhận thức và hành vi của con người, trong đó có cả hành vi phạm tội.
Điển hình như vụ án Huỳnh Thanh Hiếu, sinh năm 1988, thường trú khóm 2,
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang (bản án số 29/2017/HSST). Tại phiên tòa Hiếu
khai nhận sau khi uống rượu, cả nhóm bạn cùng say. Trong lúc Hiếu, Thọ, Dương ngồi
trong phòng nói chuyện thì Thọ ra ngoài đi vệ sinh, trong phòng chỉ còn Hiếu và Dương,
do đó Hiếu đã nảy sinh ý định giao cấu với nạn nhân, tại thời điểm thực hiện hành vi
phạm tội người bị hại chưa đủ 15 tuổi. Đây là một trong các vụ án điển hình cho thấy
các vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em diễn ra ở miền Tây Nam Bộ trong thời gian
vừa qua đều có những nguyên nhân do việc lạm dụng quá mức bia rượu, dẫn đến
việc thiếu kiểm soát, thiếu khả năng điều khiển hành vi, hình thành ý định phạm tội
do không thể kiềm chế được dục vọng. Rượu, bia cũng là một chất tác động đến
tinh thần, vừa khích thích hưng phấn vừa ức chế tế bào thần kinh dẫn đến việc thực
hiện hành vi phạm tội. Đây cũng là thách thức và khó khăn trong công tác phòng
ngừa tội phạm ở miền Tây Nam Bộ khi mà người dân sinh hoạt uống rượu vui chơi
81
tại nhà, thì việc kiểm soát, phòng ngừa tội phạm của cơ quan chức năng càng khó
khăn. Uống rượu, bia từ lâu đã được coi như là một văn hóa khó thay đổi, khó từ
bỏ, nhất là những vùng nông thôn, khu vực hẻo lánh miền Tây Nam Bộ. Tuy nhiên,
cần phải có những biện pháp phòng ngừa, lập phương án kiểm soát an ninh khu
vực, nhất là những khu vực nông thôn sâu.
* Về t nh c ch người d n iền T y Na Bộ
Th nhất, với điều kiện tự nhiên thuận lợi, ít thiên tai nên con người Tây Nam
Bộ không phải quá lo sợ về cái ăn, cái mặc, sống thoải mái, không suy tính lâu dài,
không cần xây dựng nhà kiên cố, chỉ cần đơn giản và nhiều khu vực nông thôn nơi
ở rất tạm bợ, ăn mặc cũng thoải mái từ những thói quen ảnh hưởng đến nhiều thế hệ
và trở thành đặc điểm, tính cách con người miền Tây Nam Bộ. Nghiên cứu trong
485 vụ án xâm phạm tình dục trẻ em đã cho thấy có 175 vụ án XPTDTE xảy ra ở
tại nhà nạn nhân (chiếm 36,1%), 96 vụ án xảy ra tại nhà bị cáo (chiếm 19,7%). Điều
này cho thấy phần lớn các vụ án XPTDTE xảy ra tại nơi nạn nhân sinh sống, những
ngôi nhà tạm bợ ở khu vực nông thôn, khu vực dân cư sinh sống cách xa nhau
không đảm bảo an toàn, khu vực sông nước vắng vẻ, địa hình đồng trống hoang
vắng, ít xe cộ qua lại càng tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm xảy ra trong đó có
cả các tội XPTDTE.
Th hai, Người Nam Bộ vốn tính cách hào phóng và rất hiếu khách, trọng
nghĩa và dễ thỏa hiệp vì thế có rất nhiều trường hợp có hành vi XPTDTE diễn ra
trên địa bàn nhưng do quan hệ quen biết, láng giềng thông thường họ có khuynh
hướng hòa giải, thương lượng, bồi thường, hoặc cho nạn nhân và người phạm tội
kết hôn với nhau như là một trong các biện pháp khắc phục hậu quả tốt nhất.
Điển hình như vụ án Kim Dũng, sinh năm 1995, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc
Trăng (bản án số 08/2017/HSST ngày 3/5/2017). Vào khoảng tháng 8/2015 Dũng
và T (sinh năm 2003) đi chơi, sau đó cả hai về nhà của Dũng, cả hai có quan hệ tình
dục với nhau và bị gia đình hai bên phát hiện. Gia đình hai bên thống nhất tổ chức
lễ cưới cho Dũng và T vào ngày 31/10/2015. Trong thời gian chung sống cả hai
thường xuyên mâu thuẫn dẫn đến đánh nhau. Ngày 4/10/2016 gia đình T đến cơ
quan công an trình báo sự việc, qua quá trình giải quyết mâu thuẫn, cơ quan điều tra
phát hiện T chưa đủ 13 tuổi. Dũng thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Tòa án
82
tuyên bố bị cáo Kim Dũng phạm tội “ hiếp dâm trẻ em“ hình phạt 7 năm tù giam.
Vụ án Lê Hoài Linh, sinh năm 1993, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang (bản án số
19/2017/HSST ngày 21/3/2017. Vào tháng 5/2015 Lê Hoài Linh quen với N (sinh
năm 2000) cả hai thực hiện hành vi giao cấu nhiều lần. Tháng 8/2015 cả hai đến
Thành phố Hồ Chí Minh tìm việc làm. Gia đình hai bên biết được sự việc nên yêu
cầu tổ chức đám cưới. Ngày 6/9/2015 hai bên gia đình tổ chức lễ cưới cho Linh và
N. Tháng 25/7/206 N sinh con. Trong quá trình chung sống giữa Linh và N phát
sinh mâu thuẫn nên ngày 20/7/2016 gia đình N đã làm đơn tố giác đến Công an xã
Hậu Mỹ Trinh, huyện Cái Bè. Tòa án tuyên bị cáo Lê Hoài Linh phạm tội “Giao cấu
với trẻ em“ xử phạt 3 năm tù giam cho hưởng án treo.
Đây là một trong số các vụ án điển hình cho thấy các vụ án về xâm phạm tình
dục trẻ em ở miền Tây Nam Bộ. Đa số người dân ở nông thôn với tâm lý lo ngại khi
phải tiếp xúc các vấn đề liên quan đến pháp luật, thưa kiện do đó gia đình có xu
hướng thỏa hiệp cho nạn nhân và người phạm tội lấy nhau và coi đó như là phương
thức giải quyết tốt nhất cho cả hai bên, giữ danh dự cho nạn nhân và gia đình cũng
như che giấu hành vi phạm tội. Với tư tưởng này đã dẫn tới những hệ lụy không nhỏ
cho xã hội, hành vi phạm tội không được pháp luật xử lý, con cái có cuộc hôn nhân
không hạnh phúc, phải sống với người xâm phạm tình dục hoặc dùng tiền thỏa hiệp
cho hành vi phạm tội.
Th ba, Một bộ phận người dân ở miền Tây Nam Bộ có tư tưởng thích con cái
lấy chồng nước ngoài, đi lao động nước ngoài hoặc đến các trung tâm thành phố lớn
sinh sống đây được coi là một trong các tiêu chí của gia đình muốn thay đổi thoát
nghèo. Theo thống kê của Bộ Công An trong 10 năm (tính đến năm 2018), riêng
khu vực miền Tây Nam Bộ có 70.000 phụ nữ lấy chồng nước ngoài, chiếm tỷ lệ
79% tổng số phụ nữ Việt Nam lấy chồng người nước ngoài và chủ yếu vì mục đích
kinh tế. Trong đó, Cần Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Hậu Giang là
những điểm nóng của tình trạng này. Sự mất cân đối về giới tính ở một số khu vực
đã dẫn đến thực trạng người nam khó lấy vợ dù đã đến tuổi kết hôn. Sự mất cân đối
về giới tính cũng gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội trong đó có các tội
về XPTDTE. Ngoài ra tâm lý của các bé gái mới lớn thích lấy chồng nước ngoài
nên có lối sống khá thoải mái, thích vui chơi không thích làm công việc đồng áng,
83
nặng nhọc, không quan tâm đến học hành, yêu đương khi tuổi còn rất nhỏ. Nghiên
cứu 485 bản án về XPTDTE thì có đến 153 vụ án (chiếm 31,5%) nạn nhân có quan
hệ yêu đương với người phạm tội, hầu hết nạn nhân tự nguyện quan hệ tình dục.
3 2 1 4 Nguy n nh n v iều ki n xuất ph t từ những hạn ch về i trường gia
nh v giáo dục ở a b n iền T y Na Bộ
* Những nh hưởng c a Gia nh trong qu tr nh h nh th nh nh n c ch
Trong các yếu tố từ môi trường sống thì gia đình là yếu tố có ảnh hưởng lớn
nhất đến việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân trong thời kì thơ ấu. Nghiên
cứu về hoàn cảnh gia đình của người phạm tội cho thấy trong 500 bị cáo/485 vụ án
thì có 87 bị cáo (chiếm 17,4%) có cha mẹ ly hôn; 54 bị cáo (chiếm 10,8%) mất cha
hoặc mẹ; 35 bị cáo (chiếm 7%) mất cha mẹ, trẻ em mồ côi; 85 bị cáo (chiếm 17%)
còn cha mẹ. Điều này cho thấy môi trường gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến việc
hình thành nhân cách người phạm tội. Kể từ khi mới sinh ra gia đình là môi trường
đầu tiên mà những đứa trẻ sinh sống, nhận thức của chúng mới bước đầu dần được
hình thành, do đó, những đứa trẻ sẽ học hỏi, bắt chước những hành vi của những
người xung quanh nó, bao gồm cả những hành vi tốt hay không tốt. Thông thường,
quá trình học hỏi, bắt chước hành vi xấu của trẻ diễn ra nhanh hơn, dễ dàng hơn so
với bắt chước hành vi tốt. Càng lớn, đứa trẻ càng khao khát khám phá thế giới xung
quanh, vì vậy quá trình nhận thức cũng như học hỏi, bắt chước dần dần mở rộng
phạm vi không còn dừng lại ở các thành viên trong gia đình nữa mà bắt đầu vươn ra
thế giới bên ngoài, tuy nhiên nhận thức, lối sống của trẻ vẫn mang dấu ấn của việc
ảnh hưởng từ các thành viên trong gia đình. Do đó, nếu như đứa trẻ sống trong môi
trường gia đình đẩy đủ cha mẹ, luôn chú trọng vào giáo dục nhân cách cho trẻ,
hướng trẻ sống thiện, trung thực, nhân hậu, vươn lên trong học tập, công việc thì sẽ
hạn chế hiệu quả việc hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân. Ngược lại, sống
trong môi trường gia đình không an toàn, không lành mạnh thì có thể tác động, ảnh
hưởng, dẫn đến việc hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân. Rất nhiều gia đình
cha, mẹ không gương mẫu trong lối sống có hành vi phạm tội, sa đà vào tệ nạn xã
hội như nghiện hút, cờ bạc, mại dâm hoặc có lối sống quá thực dụng chỉ biết coi
trọng đồng tiền mà coi nhẹ giá trị đạo đức; hoặc đứa trẻ lớn lên trong gia đình mà
bạo lực gia đình luôn tồn tại….
84
Ở miền Tây Nam Bộ trẻ em ở các gia đình nghèo phải lao động ở độ tuổi còn rất
nhỏ, dọc các tuyến đường ở miền Tây Nam Bộ có rất nhiều trẻ em (nam, nữ), người
già đi bán vé số hoặc đi ăn xin. Nhiều gia đình cho trẻ nhỏ đi bán vé số và coi đó là
thu nhập chính của gia đình, có những trường hợp trẻ không bán được hoặc không
xin được sẽ bị cha, mẹ đánh đập, không cho ăn hoặc không cho về nhà. Cũng từ
những hoàn cảnh đó trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục, hoặc bị xâm hại tình
dục nhưng cha mẹ không phát hiện, không quan tâm đầy đủ, một số gia đình trẻ em
sợ đòn roi của cha mẹ nhiều hơn cả hành vi bị xâm phạm tình dục. Sự suy thoái về
đạo đức đã hình thành lối sống thực dụng, ảnh hướng của văn hóa phẩm đồi trụy,
quan hệ gia đình có nhiều rạn nứt, không có sự yêu thương bảo bọc đó là nguyên
nhân trực tiếp của nhiều tội phạm, nhất là đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Nghiên cứu cho thấy số lượng vụ án giữa nạn nhân và người phạm tội hoàn
toàn không quen biết chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ (5,2%). Số còn lại chiếm 94.8% vụ án
mà giữa người phạm tội với nạn nhân có sự quen biết, họ hàng, xóm làng, hoặc có
mối quan hệ huyết thống thực hiện hành vi phạm tội. Điều này cho thấy chính bởi
sự quen biết, thân thuộc đã làm cho chính nạn nhân, gia đình nạn nhân mất cảnh
giác, hầu như không có sự phòng ngừa tội phạm, do đó người phạm tội lợi dụng các
điều kiện thuận lợi dễ dàng thực hiện hành vi XPTDTE mà không bị phát hiện.
Ngoài ra, người phạm tội còn lợi dụng vào tình cảm của nạn nhân, những rung động
yêu đương của tuổi mới lớn để nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục của cá nhân.
Nghiên cứu trong 485 vụ án cho thấy có 91 vụ án (chiếm 18,7%) người phạm tội
dùng thủ đoạn cho tiền, quà bánh, quần áo, đồ chơi... để thực hiện hành vi phạm tội,
có 115 vụ án (chiếm 23,7%) người phạm tội lợi dụng quan hệ yêu đương , bạn bè,
quen biết qua mạng xã hội facebook, zalo, để thực hiện hành vi phạm tội và 47 vụ
(chiếm 9,7%) lợi dụng lối sống buông thả, lợi dụng vào việc nạn nhân say rượu bia
để thực hiện hành vi xâm phạm tình dục.
* Những nh hưởng từ gia nh khuy t thi u n vi c h nh th nh nh n c ch
Hiện tại một số gia đình ở nông thôn và thành thị có lối sống không chuẩn
mực, cha mẹ thường xuyên cãi vã, đánh đập nhau, cha hoặc mẹ có hành vi ngoại
tình dẫn đến ly hôn. Theo thống kê của Cục điều tra dân số cho thấy “Tỷ y
h n/Ly th n c a na giới ở vùng Đ ng Na Bộ v Đ ng bằng s ng Cửu Long cao
85
hơn c c vùng còn ại ộ tuổi y h n/ y th n cao nhất ở Đ ng Bằng s ng Cửu Long
là nhóm 20 – 24 tuổi” [93 tr104]. Tình trạng ly hôn/ ly thân diễn ra nhiều ở miền
Tây Nam Bộ do ảnh hưởng của tác động của việc di dân (phụ nữ đi tìm việc làm ở
các thành phố lớn, đi xuất khẩu lao động và đặc biệt có một số vùng ở Vĩnh Long,
Sóc Trăng, Trà Vinh, Tiền Giang có tỷ lệ nữ giới kết hôn với người nước ngoài rất
cao, bên cạnh đó còn có một số yếu tố đặc thù thuộc về đời sống và con người liên
quan đến tình trạng ly hôn, ly thân. Người Nam Bộ sống phóng khoáng nên họ
không cam chịu trước cuộc sống gò bó, hoặc môi trường sống khắc nghiệt từ đó dẫn
đến có những gia đình cha mẹ chỉ sống vì bản thân mình, vợ chồng bỏ mặc nhau
không quan tâm đến đời sống và con cái, từ những yếu tố trên đã ảnh hưởng rất lớn
đến con cái của họ. Trẻ em sinh ra và lớn lên không có đủ cha và mẹ, không được
yêu thương chăm sóc và dạy bảo đúng đắn. Hầu hết những đứa trẻ bất hạnh này
phải sống với ông bà hoặc với những người bà con, không có sự bảo bọc và quan
tâm đúng mức dễ bị tác động lây nhiễm thói hư thật xấu.
Điển hình như vụ án Trần Chấn P có hành vi giao cấu với em Trần Ngọc
Mai. Do quen biết nhau từ trước nên cả hai phát sinh quan hệ yêu đương trong
khoảng thời gian từ ngày 28/8/2016 đến 12/2016 bị cáo Phong đã 9 lần thực thiện
hành vi quan hệ tình dục với Mai ở nhiều địa điểm khác nhau. Các vụ án cho thấy
hành vi giao cấu tuy có sự đồng thuận của nạn nhân nhưng với độ tuổi còn nhỏ, tâm
lý yêu đương sớm, nạn nhân mồi côi mẹ từ khi lên 6 tuổi nếu thiếu đi tình thương
và dạy dỗ của cha mẹ. Nhìn chung, một số nạn nhân bị xâm hại tình dục thường
sống trong gia đình có cơ cấu không hoàn thiện như mồi côi cha mẹ, cha mẹ ly hôn
hoặc đời sống vật chất không được đảm bảo, dễ bị dụ dỗ về vật chất và ít được sự
quan tâm chăm sóc của cha mẹ
* Những nh hưởng từ gia nh thi u quan t v gi o dục ạo c cho con c i
Đứng trước những thay đổi của đời sống xã hội, cha mẹ thường xuyên dành
nhiều thời gian cho công việc đồng áng, công việc ở cơ quan, công việc khác nhằm
đảm bảo cuộc sống vì thế cha mẹ ít có thời gian chăm sóc trò chuyện với con cái,
phó mặc việc chăm sóc, giáo dục con cái cho trường học, hoặc tự con cái chăm sóc
lẫn nhau, cha mẹ không nắm được tâm tư, suy nghĩ cũng như những vướng mắc
thầm kín mà trường học không thể nào chia sẻ hoặc bản thân trẻ không thể nào hiểu
86
hết được. . Nghiên cứu cho thấy trong 485 vụ án xâm phạm tình dục trẻ em, có 175
vụ án xảy ra ở tại nhà nạn nhân (chiếm 36,1%), 96 vụ án xảy ra tại nhà bị cáo
(chiếm 19,7%); 60 vụ án xảy ra ở những khu vực gần nhà như đầm nước, chòi canh
tôm, khu vực mương nước, vườn cây, cồn cát, bãi biển, khu vực cách xa nhà và
đường xá (chiếm 12,4%); Điều này cho thấy trẻ em có thể bị xâm hại tình dục tại
chính nơi cư trú của mình. Ở các vùng nông thôn kinh tế khó khăn cùng với việc
việc sinh con đông, hầu như thời gian cha mẹ chỉ lao động kiếm sống phó mặc con
cái tự chăm sóc lẫn nhau, đứa lớn chăm sóc đứa nhỏ, đứa nhỏ chăm sóc đứa nhỏ
hơn. Ở khu vực nông thôn có những ngôi nhà được xây dựng tạm bợ, có một số địa
bàn như Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Vĩnh Long, khu vực sinh sống của đồng
bào dân tộc Khơme, dân tộc Chăm không đảm bảo sự kiên cố, cũng như thói quen
để con cái ở nhà khi cha mẹ đi làm không có người lớn trong coi bảo vệ, đây cũng
là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em dễ bị lạm dụng tình dục hầu hết ở tại nhà
của chính mình. Ở vùng thành thị cha và (hoặc) mẹ quá nuông chiều hoặc Cha, mẹ
buông lỏng việc giáo dục con cái, để mặc con cái phát triển tự nhiên hoặc phó thách
việc giáo dục trẻ con cho nhà trưởng và xã hội. Khi phát hiện trẻ có những biểu hiện
sai trái đã không uốn nắn kịp thời mà vẫn thờ ơ, không quan tâm, thậm chí còn
dung túng. Sự quá nuông chiều, thỏa mãn mọi nhu cầu con cái của bố mẹ sẽ tạo nên
thói quen đòi gì được nấy. Bên cạnh sự nuông chiều, cha mẹ bao bọc mọi việc khiến
con trẻ hình thành tính ỷ lại, dựa dẫm, sống ích kỷ, lười nhác, không ý thức về trách
nhiệm, luôn đòi hỏi được phục vụ, được hưởng thụ. Đến một lúc nào đó, khi gia
đình không thỏa mãn những yêu sách hoặc không có điều kiện phục vụ thì con cái
trở nên bất mãn, thậm chí thù ghét bố mẹ, nhân cách trẻ bị lệch lạc trong lối sống
ích kỷ và chỉ chú trọng lợi ích của bản thân sẵn sàng xâm hại lợi ích người khác để
phục vụ cho nhu cầu của bản thân mình
* Những hạn ch c a Nh trường trong vi c gi o dục phẩ chất ạo c i
s ng v qu n ý học sinh
Tây Nam Bộ tuy có một lực lượng dân cư có trình độ học vấn tương đối cao,
nhưng bên cạnh đó một bộ phận lớn dân cư, đặc biệt là đối tượng người lao động
nghèo ở các vùng nông thôn lại có trình độ học vấn và hiểu biết tương đối thấp. Sự
phát triển dân trí không đồng đều ở các khu vực cũng dẫn đến nhiều hệ lụy trong đó
87
có cả tệ nạn xã hội và tội phạm phát sinh. Hội nghị “Ph t triển gi o dục v o tạo
vùng ng bằng s ng Cửu Long n nă 2010 v nh hướng n nă 2020” được tổ
chức tại Cần Thơ đã đưa ra những kết luận như sau: Đây là vùng xếp ở vị trí cuối bảng
về tỷ lệ học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông trên 1.000 người dân và thấp
hơn nhiều so với bình quân cả nước; mạng lưới trường lớp còn thiếu và chưa hợp lý; số
lượng các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề quá ít; đội ngũ
giáo viên, cán bộ quản lý còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng... Giáo dục - đào tạo
vùng đồng bằng sông Cửu Long đã tụt hậu 05 năm so với mặt bằng chung của cả nước
và ít nhất 10 năm so với vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ; quy mô giáo
dục - đào tạo chưa tương xứng với tầm vóc và vị trí chiến lược của vùng.
Nghiên cứu trong 500 bị cáo phạm các tội XPTDTE thì có đến 336 bị cáo là
người không biết chữ hoặc có trình độ tiểu học (chiếm 67,2%). Điều này cho thấy
người phạm các tội XPTDTE không có điều kiện để tiếp xúc với các loại hình giáo
dục, sinh sống ở khu vực nông thôn, nhận thức và hiểu biết của họ về các vấn đề xã
hội và đặc biệt về pháp luật không rõ ràng. Chính từ nguyên nhân này dẫn đến sự
hạn chế về mặt hiểu biết pháp luật. Nạn nhân của các tội xâm phạm tình dục trẻ em
thường là con em của gia đình có hoàn cảnh khó khăn và không được chăm sóc hay
giáo dục đầy đủ. Sự im lặng của nạn nhân trước hành vi phạm tội cũng làm gia tăng
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội xâm hại tình dục trẻ em. Xét về vai trò của
nhà trường ta thấy, nhà trường chỉ quan tâm đến việc giáo dục kiến thức cho trẻ em,
còn vấn đề đạo đức, các kỹ năng sống cần thiết thường ít được chú ý. Nhà trường cũng
không tạo được sự gắn kết chặt chẽ với gia đình để thực hiện tốt các chức năng quản lý
giờ giấc sinh hoạt và học tập của học sinh. Vấn đề giáo dục giới tính ở địa bàn miền
Tây Nam Bộ chưa được quan tâm và chú trọng đúng mức.
3.2 1 5 Nguy n nh n v iều ki n xuất ph t từ những hạn ch trong hoạt ộng qu n
ý nh nước về an ninh tr t t an to n xã hội ở iền T y Na Bộ
Những hạn chế trong quản lý nhà nước về trật tự xã hội, kiểm soát tình hình trị
an khu vực còn nhiều sơ hở, một số hoạt động còn nhiều yếu kém, buông lỏng quản
lý đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình các tội XPTDTE có chiều
hướng ngày càng gia tăng, cụ thể:
88
Miền Tây Nam Bộ đang trên đà phát triển mạnh, một số tỉnh thành xây dựng
nhà máy, khu công nghiệp với lượng công nhân lao động tăng, thu hút nguồn lao
động ở các địa phương khác, nhiều cảng biển được mở rộng ở các tỉnh Cà Mau, Bạc
Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh ... với qui mô lớn thu hút nhiều tàu bè,
người dân từ nơi khác đến. Một số địa phương mở rộng tìm năng khai thác du lịch
biển, du lịch sinh thái, du lịch sông nước miệt vườn, du lịch tâm linh ... từ đó thu
hút rất lớn lượng du khách đến tham quan nghỉ ngơi. Tuy nhiên công tác quản lý
nhân khẩu về tạm trú, lưu trú còn rất nhiều lỏng lẽo, chưa có sự chặt chẽ, công tác
quản lý xã hội, quản lý con người, quản ký kinh doanh ở một số địa phương còn
nhiều hạn chế, không có sự đồng bộ ở các khu vực. Vì thế khi có tội phạm xảy ra cơ
quan chức năng còn lúng túng trong quá trình điều tra nghi phạm khi có hành vi
phạm tội xảy ra. Công tác nắm bắt tình hình trị an khu vực còn nhiều thiếu sót,
nhiều địa bàn cơ quan chức năng chưa quản lý được những khu vực trọng điểm của
tội phạm. Công tác quản lý trật tự tại các khu vực tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tội
phạm còn nhiều hạn chế. Hoạt động tuần tra trên các địa bàn trọng điểm của tội
phạm cần phải tiến hành thường xuyên.
Việc quản lý, nắm bắt đối tượng có nhân thân xấu, có tiền án tiền sự, thường
xuyên gây rối trật tự công công cần phải có phương pháp giám sát, giáo dục nhắc
nhở. Qua nghiên cứu cơ cấu đặc điểm pháp lý hình sự của người phạm các tội
XPTDTE cho thấy có 45/500 bị cáo có tiền án tiền sự (chiếm 9%); 27/500 bị cáo
tái phạm (chiếm 5.4%), 4/500 bị cáo (chiếm 0,8%) tái phạm nguy hiểm. (B ng biểu
2.24 – ph n phụ ục)
Một nguyên nhân khác nữa đó các cơ quan chức năng không kiểm soát các
thông tin, hình ảnh tiêu cực từ mạng xã hội, facebook, zalo, các trang báo điện tử.
Những clip sex, film sex, truyện tranh khiêu dâm dễ dàng tìm thấy trên mạng
internet. Một bộ phận thanh thiếu niên hiện nay tiếp xúc sớm với các văn hóa phẩm
đồi trụy gây ảnh hưởng đến sự phát triển tâm sinh lý từ đó hình thành ý nghĩ lệch
lạc về tình dục và dẫn đến hành vi phạm tội XPTDTE. Nghiên cứu trong cơ cấu tình
hình các tội XPTDTE cho thấy có 84/500 bị cáo phạm các tội XPTDTE bị kích bởi
văn hóa phẩm đồi trụy. (b ng biểu 2 25 – ph n phụ ục)
89
Hạn chế trong công tác tuyên truyền, giáo dục: việc tuyên truyền, giáo dục
pháp luật trong cộng đồng xã hội rất là qua trọng, góp phần tác động rất lớn đến tâm
lý của người thực hiện phạm tội. Việc tuyên truyền cộng đồng có thể thực hiện dưới
rất nhiều hình thức như: băng rôn, biểu ngữ, tuyên truyền trên loa phát thanh của địa
phương, hay hiện nay rộng rãi nhất là trên các trang mạng xã hội. Hiện tại công tác
tuyên truyền về vấn nạn xâm phạm tình dục trẻ em có phần trọng rãi thực hiện trong
phạm vi cả nước, các chương trình về đời sống xã hội, về giáo dục, về tư vấn pháp
luật đều thể hiện tốt công tác tuyên truyền, đã có những chuyển biến tích cực của
người dân về phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Tuy nhiên, tâm lý chủ
quan của đại da số người dân cũng còn rất cao trong khi các tội XPTDTE phần lớn
người phạm tội có quen biết với nạn nhân, có mối quan hệ gần gũi hoặc có quan hệ
huyết thống, quan hệ bà con (chiếm 94,6%) các vụ án XPTDTE trên địa bàn miền
Tây Nam Bộ. Mặc khác trong những đợt tuyên tuyền, giáo dục pháp luật đang ở
những đợt cao điểm thì mức cảnh giác của người dân cũng tăng cao. Nhưng khi
chiến dịch tuyên truyền kết thúc hoặc một số nơi không thực hiện thường xuyên thì
sự cảnh giác của người dân cũng giảm tình trạng xâm hại tình dục trẻ em lại tiếp tục
diễn ra, thế nên công tác tuyên truyền không phải không đem lại những hiệu quả
tích cực mà cần thực hiện một cách nghiêm chỉnh và duy trì thường xuyên, không
chỉ tập trung ở thành thị mà ở cả những khu vực nông thôn.
3 2 1 6 Nguy n nh n v iều ki n xuất ph t từ những hạn ch trong hoạt ộng
phòng ngừa c c tội x phạ t nh dục trẻ e tr n a b n iền T y Na Bộ
Trong công tác đấu tranh phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em của
các tỉnh miền Tây Nam Bộ đã có nhiều chương trình phòng, chống tội phạm nhưng
có rất ít chương trình do địa phương chủ động khởi xướng mà hầu hết các chương
trình này chỉ được bắt đầu thực hiện khi có sự chỉ đạo của của các cơ quan cấp trên.
Một số địa phương thường tập trung vào tuần lễ phòng ngừa tội phạm hay tháng
phòng ngừa tội phạm mà không tổ chức công tác phòng ngừa đều đặn, thường
xuyên mặc dù biết tội xâm phạm tình dục trẻ em là hành vi hết sức nguy hiểm. Bên
cạnh đó, các chương trình này vẫn còn mang tính phong trào, thời vụ, không mang
tính thường xuyên xuất phát từ thực trạng của tình hình tội phạm tại địa phương nên
hiệu quả của công tác phòng ngừa không cao. Thêm vào đó các chương trình phòng
90
chống tội phạm, nhất là công tác tuyên truyền pháp luật cho người dân thường được
tập trung nhiều ở vùng thành thị, vùng ven hơn là ở các vùng nông thôn hẻo lánh
nơi mà các tội xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra phổ biến. Các hình thức, biện pháp
chưa tiếp cận đầy đủ các đối tượng cần được tuyên truyền, giáo dục. Tài liệu tuyên
truyền giáo dục còn thiếu, nội dung và biện pháp tuyên truyền, giáo dục chưa sáng
tạo, khô cứng, thiếu sức thu hút, chưa tạo ra động lực mạnh mẽ để thay đổi nhận
thức, từ đó tác động tích cực đến hành vi của mỗi người. Công tác tuyên truyền,
giáo dục, vận động quần chúng nhân dân phòng chống xâm hại tình dục trẻ em cũng
có nhiều hạn chế, hiệu quả thấp và chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh.
Chưa tạo ra được các phong trào toàn dân lên án và đấu tranh với tệ nạn xâm hại
tình dục trẻ em ở mọi lúc mọi nơi. Vẫn còn nhiều quần chúng chưa được trang bị
những kiến thức cơ bản về đấu tranh phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em cũng
như trách nhiệm công dân trong cuộc đấu tranh. Điều này dẫn đến một bộ phận
nhân dân lao động do thiếu hiểu biết hoặc vì mưu sinh mà không biết mình đang tạo
điều kiện cho bọn tội phạm gây tội ác với đồng bào, con em mình. Ngoài ra, sau khi
thực hiện các công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật việc không thu hồi kết quả
thu nhận sự chuyển biến trong nhận thức của người dân nên không chủ động vạch
ra các chương trình phòng ngừa tội phạm tiếp theo được nữa. Đôi khi hoạt động
tuyên truyền, phòng ngừa tội phạm chưa phát huy hiệu quả mà còn có tác động tiêu
cực, ảnh hưởng đến tâm lý cộng đồng, nhất là gây tổn thương cho nạn nhân, gia
đình nạn nhân khi mà đưa ra những thông tin quá chi tiết, không cần thiết về tên
tuổi, địa chỉ của nạn nhân, những thiệt hại về thể chất của nạn nhân, tạo nên tâm lý
cân nhắc e dè trong cộng đồng khi muốn tố giác tội phạm, tạo điều kiện cho tội
phạm ẩn tồn tại. Đây là hạn chế đầu tiên trong công tác phòng ngừa tội phạm xâm
phạm tình dục trẻ em.
Hạn chế thứ hai của công tác phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em là
hạn chế về các điều kiện bảo đảm cho các hoạt động phòng ngừa tội phạm. Những
yếu kém trong đội ngũ cán bộ, chuyên viên trực tiếp hoạt động phòng ngừa tội
phạm như cán bộ thực hiện việc tuyên truyền, chuyên viên nghiên cứu chuyên sâu
về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm là một trong những nguyên nhân ảnh
hưởng đến hiệu quả của hoạt động phòng ngừa tội phạm. Do sự chưa quan tâm
91
đúng mức tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, công tác tác động vào nguyên
nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể, chưa đầu tư xây dựng lực lượng cán bộ
chuyên nghiệp mà cụ thể là không khuyến khích sự tham gia của những người có
trình độ chuyên môn cao, chưa có chế độ đãi ngộ phù hợp, không tạo được động lực
phấn đấu, trao dồi của đội ngũ này. Nhiều cán bộ chuyên trách việc tuyên truyền
chuyển sang làm công tác khác, số người mới thay thế còn thiếu và chưa thành thạo
được việc này, một số nơi còn gặp khó khăn trong việc triển khai kế hoạch. Bên
cạnh đó, sự thiếu thốn về cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động phòng ngừa tội
phạm và sự khó khăn trong kinh phí hỗ trợ hoạt động cho đội ngũ cán bộ, chuyên
viên cũng đã ảnh hưởng đến rất nhiều hiệu quả hoạt động của các chủ thể phòng
ngừa tội phạm trong thời gian qua. Ở một số địa phương các chương trình tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, các hoạt động tư vấn, giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn, trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục trong thời gian qua chưa được thực
hiện chuyên sâu, thường xuyên và chỉ điển hình trong một số nơi và thiếu sự hỗ trợ
từ các phương tiện tuyên truyền, các hình thức tuyên truyền chay, báo cáo suông
còn xảy ra phổ biến tại. Các hoạt động tác động vào nguyên nhân và điều kiện của
tội phạm chỉ chủ yếu là các biện pháp tác động về tinh thần, chưa có đủ điều kiện về
vật chất giúp đỡ, hỗ trợ cho các em có hoàn cảnh khó khăn, đó là những đối tượng
có nguy cơ cao trở thành nạn nhân của tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em. Các
phương tiện thiết bị phục vụ cho hoạt động tuyên truyền cũng như hoạt động tố tụng
khi vụ án xảy ra như khám nghiệm hiện trường, giám định gen hiện đại , các thiết bị
xét nghiệm tinh trùng còn thiếu thốn lạc hậu, chưa đáp ứng được nhu cầu đấu tranh
phòng chống các tội xâm phạm tình dục. Bởi vì thiếu thốn kinh phí, cơ sở vật chất
mà các hoạt động nghiên cứu chuyên sâu, khảo sát thực tiễn tình hình tội phạm, tìm
hiểu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm chưa được tiến hành thường xuyên, chưa
được khảo sát trên thực tế mà chỉ là các kết quả nghiên cứu trong báo cáo hay các bài
viết đơn lẻ trên các bài báo, tạp chí, một vài đề tài của từng ngành chưa tạo thành hệ
thống thống nhất cho các chủ thể vận dụng vào hoạt động phòng ngừa tội phạm.
Hạn chế cuối cùng là những hạn chế trong việc hợp tác quốc tế về phòng ngừa
tội phạm liên quan đến các tội xâm phạm tình dục trẻ em.Yêu cầu hợp tác quốc tế
trong hoạt động phồng chống tội phạm là yêu cầu rất cần thiết với tình hình tội phạm
92
đang diễn biến phức tạp mang tính xuyên quốc gia như hiện nay. Tuy nhiên vẫn còn
những khó khăn, vướng mắc trong phối hợp phòng, chống tội phạm có yếu tố nước
ngoài, tội phạm xuyên quốc gia ở Việt Nam đặc việt là các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Các
tỉnh phía miền Tây Nam Bộ là địa bàn giáp ranh với Thái Lan, Campuchia, những nước
đang diễn biến phức tạp về tệ nạn mại dâm trẻ em nhưng chúng ta vẫn chưa có thỏa
thuận vấn đề này do sự khác biệt về chính sách hình sự, mối quan hệ đối ngoại còn nhiều
điểm chưa tương đồng nên nhiều yêu cầu về tương trợ hình sự và dẫn độ còn khó khăn,
hiệu quả chưa cao đã gây ra những khó khăn nhất định cho việc đấu tranh phòng chống
các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Trong khi đó lực lượng chuyên trách về phòng, chống
tội phạm xuyên quốc gia ở Việt Nam chưa thật sự được các ngành quan tâm chỉ đạo một
cách tổng thể từ Trung ương đến lực lượng chức năng ở các địa phương hoặc nếu có thì
việc tổ chức lực lượng chức năng ở địa phương chưa thống nhất, còn chồng chéo, chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tế. Hơn nữa kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm trong
hợp tác quốc tế, hiểu biết về pháp luật quốc tế, kiến thức ngoại ngữ và kỹ năng sử
dụng các loại phương tiện kỹ thuật hiện đại cùng với việc trang bị các phương tiện
kỹ thuật hiện đại phục vụ yêu cầu về hoạt động phòng, chống tội phạm mới nhất là
những tội phạm liên quan mật thiết với hành vi mua bán, mại dâm trẻ em của lực
lượng thực thi pháp luật nói chung còn hạn chế. Có thế thấy rằng những hạn chế
trong hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm tình trẻ em ở các tỉnh miền Tây Nam
Bộ cũng chính là những hạn chế chung đang gặp phải ở cả nước Việt Nam. Những
hạn chế này bắt nguồn từ những khó khăn trong đời sống xã hội và nhận thức chưa
đầy đủ về công tác phòng ngừa tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em.
3 2 1 7 Nguy n nh n v iều ki n xuất ph t từ những hạn ch trong chính sách
ph p u t v hoạt ộng th c thi ph p u t c a c c cơ quan ti n h nh t tụng v
người ti n h nh t tụng
Các yếu tố hạn chế trong chính sách pháp luật: Pháp luật là cơ sở pháp lý để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh, để đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Pháp
luật giúp các cơ quan chức năng duy trì trật tự xã hội, cân bằng quyền và lợi ích của
các chủ thể trong xã hội. Vì thế pháp luật là công cụ để bình ổn và duy trì trật tự xã
hội, nếu pháp luật bị thiếu sót, hạn chế hoặc không bao quát đến các quan hệ xã hội
cần điều chỉnh thì con người càng có nguy cơ bị xâm hại. Trong phạm vi nghiên
93
cứu, luận án đề cập đến các quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm
tình dục trẻ em để hướng kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng trong thực tiễn thời
gian tới. Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017), các tội xâm phạm tình dục
người dưới 16 tuổi tuy chưa được khái niệm cụ thể nhưng có thể hiểu là “những
hành vi nguy hiểm cho xã hội ư c quy nh tại Chương XIV Bộ Lu t Hình s 2015
sửa ổi bổ sung nă 2017 (sau y gọi tắt là Bộ Lu t Hình s 2015) do người có
năng c trách nhi m hình s th c hi n một cách c ý xâm phạ n quyền bất kh
xâm phạm về tình dục, xâm phạ n s phát triển b nh thường về thể chất, hoặc
xâm phạ n s c khỏe, danh d , nhân phẩm c a người chưa 16 tuổi” Bộ luật
Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) quy định các tội xâm phạm tình dục trong đó
có đối tượng là người dưới 16 tuổi bao gồm: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều
142), Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), Tội giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi (Điều 145), Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), Tội sử dụng
người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm. Pháp luật hình sự Việt Nam dựa vào
độ tuổi của nạn nhân để phân định mức độ bảo vệ. Nạn nhân có độ tuổi khác nhau
thì mức độ bảo vệ của pháp luật hình sự cũng khác nhau. Bộ luật hình sự chia độ
tuổi nạn nhân thành 3 mức độ chính: người từ đủ 16 tuổi, người từ đủ 13 đến dưới
16 tuổi và người dưới 13 tuổi (qui định chung trong các điều luật áp dụng cho nạn
nhân là người dưới 16 tuổi). Những quy định của pháp luật về các tội XPTDTE khi
áp dụng còn nhiều quan điểm, đường lối xử lý chưa thống nhất, cách hiểu còn tùy
nghi, cách tiếp cận các quy định pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền còn nhiều
khác biệt. Điều này dẫn đến việc áp dụng pháp luật vào thực tế không thể hiện được
hết mức độ tương xứng giữa chế tài áp dụng với tính chất, mức độ nguy hiểm hay
hậu quả mà người phạm tội gây ra, chưa thể hiện đầy đủ tính nghiêm minh của pháp
luật. Đó cũng là một trong những nguyên nhân, điều kiện làm cho tình hình các tội
XPTDTE gia tăng. Những bất cập trong quy định pháp luật hình sự về các tội
XPTDTE có thể được hiểu như sau:
Th nhất, Nhiều quốc gia trên thế giới cũng như Công ước về quyền trẻ em
xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi, trong khi đó pháp luật Hình sự Việt Nam thì trẻ
em là người dưới 16 tuổi. Vấn đề này cần được cân nhắc để có chính sách phù hợp
94
trong tiến trình hội nhập quốc tế. Các văn bản pháp luật, các chính sách hình sự liên
quan đến nhóm tội này cần phải xác định chuẩn xác theo thuật ngữ “người dưới 16
tuổi” theo quy định mới của Luật Hình sự thay cho thuật ngữ “trẻ e ” như trước đây.
Th hai cần phải thống nhất cách hiểu về hành vi “giao cấu” và hành vi
“quan h t nh dục kh c” theo quy định của Luật Hình sự sửa đổi bổ sung 2017.
Hành vi “giao cấu” được hiểu theo nghĩa truyền thống là hành vi “cọ s t tr c ti p
dương v t v o bộ ph n sinh dục c a người phụ nữ (bộ ph n từ i ớn trở v o) với
ý th c nhấn v o trong kh ng kể s x nh p c a dương v t s u hay cạn kh ng
kể c xuất tinh hay kh ng là Tội hi p d ư c coi là hoàn th nh v khi nh n
phẩm danh d c a người phụ nữ ã b ch ạp” [20]. Còn thuật ngữ “hành vi quan
h tình dục khác” được quy định trong Bộ luật Hình sự” [40]. Vậy hành vi trình
diễn khiêu dâm theo quan điểm của tác giả có thể hiểu là “hành vi trình diễn những
ộng tác, những cử chỉ, những âm thanh mang tính khích thích về tình dục hoặc ng
phim với những hành vi, những biểu c m gây khích thích về tình dục”. Thế nên pháp
luật hình sự cần phải mô tả thế nào là hành vi “trình diễn khiêu dâm” Để việc vận dụng
quy định vào thực tế được thống nhất theo đúng tinh thần của pháp luật.
Th tư thực tiễn cho thấy chủ thể của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
thường chủ yếu là nam giới. Đa số các vụ án hình sự về tội phạm này chủ yếu diễn
ra ở nam giới. Nam giới đóng vai trò là người thực hành. Vai trò nữ giới trong tội
phạm này thường mang yếu tố đồng phạm. Tuy nhiên trẻ em là nam giới hiện nay
cũng là đối tượng có nguy cơ bị xâm hại tình dục bằng nhiều hình thức và thủ đoạn
khác nhau, nhưng thực tiễn qui định của pháp luật lại chưa bảo vệ đối tượng này
một cách có hiệu quả. Pháp luật hình sự cần phải mở rộng giới hạn phạm vi chủ thể
của điều luật này theo hướng “ch thể c a tội hi p d người dưới 16 tuổi không
ph i là ch thể ặc bi t” Điển hình như vụ: Phan Minh Sang (sinh năm 1985) và
Phạm Thanh Lý (sinh năm 1982) ngày 02/12/2012 sau khi cùng gia đình và người
thân uống rượu tại quán Lan, đường Đinh Tiên Hoàng, quận Ninh Kiều, TP. Cần
Thơ. Lúc ra về Nguyễn Thế Trường (sinh năm 1988) xin đi nhờ xe. Sang và Lý
không chở Trường về nhà mà chạy xe vào hẻm vắng Sang dừng xe cho Lý và
Trường đi bộ. Tại đây Lý thực hiện hành vi dùng tay và miệng kích thích bộ phận
sinh dục của Trường, thấy vậy Sang cũng dùng tay và miệng kích thích bộ phận
95
sinh dục của Trường, rồi cả hai cùng đè và cởi quần Trường và thực hiện quan hệ
qua đường hậu môn. Trong khi đang thực hiện hành vi thì Trường có điện thoại, sau
khi thực hiện xong hành vi, Sang và Lý đưa Trường về nhà. Nạn nhân tường thuận
lại với gia đình và trình báo cơ quan công an. Tại phiên tòa cả hai cùng thừa nhận
hành vi của mình. Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ tuyên bố
Phan Minh Sang và Phạm Thanh Lý phạm tội “Dâm ô đối với trẻ em” xử phạt Phan
Minh Sang 06 tháng tù cho hưởng án treo, Phạm Thanh Lý 01 năm tù cho hưởng án
treo. Có thể thấy mức hình phạt còn khá nhẹ so với hành vi phạm tội của các bị cáo
và mặc dù bị xâm phạm tình dục cũng ảnh hưởng đến sức khỏe, danh dự, nhưng
hành vi xâm hại trên chưa được xử lý đích đáng.
Cho đến nay Việt Nam đã có một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ với 22
văn bản luật khác nhau quy định về các vấn đề liên quan đến quyền trẻ em bao gồm:
Luật Hình Sự, Luật lao động, Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật giáo
dục tiểu học... các văn pháp pháp luật này là cơ sở để thực hiện và bảo vệ quyền trẻ
em trên mọi lĩnh vực, tuy nhiên thực tiễn cho thấy việc áp dụng các văn bản pháp
luật vẫn còn rất nhiều vướng mắc, gây ảnh hưởng không nhỏ cho công tác đấu tranh
phòng ngừa tội phạm trong đó có các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Các yếu tố hạn chế trong hoạt động thực thi pháp luật của các cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng: Cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Lực
lượng Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân. Bên cạnh mặt tích cực quan tiến
hành tố tụng trong phòng ngừa tội phạm cũng tiềm ẩn nhiều nguyên nhân tác động
đến quá trình hình thành nhân thân tiêu cực phát sinh tội phạm nói chung và tội
phạm xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng, điển hình như: Sự yếu kém của cán bộ tư
pháp dẫn đến không xác định đúng người đúng tội, bỏ lọt tội phạm, không có sự răn
đe đối với người phạm tội; tham mưu ban hành các chế độ, chính sách pháp luật
không phù hợp; nhiều bản án có mức hình phạt chưa tương xứng với tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm tình dục trẻ em do người phạm tội gây ra;
do sự tha hóa về phẩm chất đạo đức, sự nể nang, bao che của một bộ phận cán bộ làm
việc trong ngành đã làm sai lệch sự việc, một số vụ án áp dụng hình phạt dưới khung
hoặc xử án treo… những sự việc như trên đã vô tình tiếp tay cho các đối tượng tiếp
tục phạm tội, coi thường kỷ cương pháp luật, làm cho lòng tin của quần chúng nhân
96
dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật bị giảm sút.
Bên cạnh những hạn chế nêu trên thì việc phối hợp giữa Tòa án các cấp với Cơ
quan điều tra với Viên kiểm sát cũng còn nhiều bất cập, nhiều vụ án do không được
phối hợp kịp thời nên những khúc mắc trong tố tụng không được giải quyết kịp thời
dẫn đến vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung làm cho vụ án bị kéo dài, ảnh hưởng
đến quá trình giải quyết vụ án. góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm nói
chung và tội tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng chưa được phối hợp tổ
chức thường xuyên. Công tác thống kê, phân tích số liệu nhằm rút ra những nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống các
biện pháp phòng ngừa chưa được khoa học, nhận thức về tầm quan trọng của công
tác này chưa đầy đủ. Những hạn chế, thiết sót trên là một trong những nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em.
3.2.2 Nguyên nhân và điều kiện thuộc về người phạm các tội xâm phạm
tình dục trẻ em
Tội phạm học Mác xít khẳng định: “Nh n th n con người s th ng nhất
giữa c c ặc t nh xã hội v ặc t nh sinh học trong ặc t nh xã hội c ý nghĩa
quy t nh” [183] những đặc điểm sinh học cũng góp phần không nhỏ trong việc
hình thành nên nhân thân của tội phạm. Nó thể hiện ở tính cách người phạm tội ví
dụ như: bản tính nóng nảy, hạn chế trí tuệ, …
3 2 2 1 Những biểu hi n thuộc về nh n th n người phạ tội nh hưởng n
nguy n nh n v iều ki n ph t sinh t nh h nh c c tội XPTDTE
+ Đặc iể sinh học c a người phạ tội: những đặc điểm sinh học của người
phạm tội như giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp ... Qua nghiên cứu các bị cáo phạm các
tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 : Hầu hết chủ thể
phạm các tội về xâm phạm tình dục trẻ em là nam giới, trong một số trường hợp nữ
giới cũng phạm các tội này nhưng chiếm con số rất ít. Xác định giới tính người
phạm tội cho chúng ta thấy tính chất, mức độ, đặc điểm tội phạm theo từng giới.
Theo số liệu thống kê hình sự, ở nước ta cũng như ở các nước khác trên thế nữ giới
phạm tội ít hơn nam giới. Ở khu vực miền Tây Nam Bộ trong số 500 bị cáo bị xét
xử về các tội xâm phạm tình dục với 485 bản án thì có 499 bị cáo phạm vào nhóm
97
tội này là nam giới và 1 bị cáo là nữ giới bị tuyên án hiếp dâm trẻ em với vai trò
đồng phạm
Về giới t nh:Việc nam giới phạm tội nhiều hơn nữ giới không phải do đặc
điểm sinh lý của nam giới khác với nữ giới, mà là do những điều kiện hình thành
phẩm chất cá nhân và sự thay đổi của môi trường sống, sự hội nhập của thế giới và
việc mở rộng nền công nghệ thông tin, nam giới dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tiêu
cực từ môi trường sống đó, việc hình thành thói hư tật xấu, tiêm nhiễm tệ nạn xã hội
và dễ hình thành phẩm chất cá nhân tiêu cực, trạng thái tâm lý lệch lạc hơn với các
giá trị truyền thống. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, tỉ lệ các tội phạm do nữ
giới thực hiện ngày càng đa dạng hơn, trong đó có hành vi các phạm tội xâm hại
tình dục trẻ em. Giải thích sự thay đổi của tội phạm do nữ giới thực hiện một phần
do sự tác động từ các yếu tố tiêu cực của môi trường sống và một phần sự thay đổi
tâm sinh lý của tuổi mới lớn, chưa có sự hướng dẫn đúng đắn từ phía gia đình, dẫn
đến sự lệch lạc từ trong nhận thức và thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi phạm tội.
Về ộ tuổi: Trong bảng 2.18 chương 2 cho thấy lứa tuổi phạm các tội
XPTDTE trong độ tuổi từ 18 – 30 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất 45,83%, tiếp theo là
người phạm tội trong độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi chiếm 27%, đứng thứ ba là
người phạm tội trong độ tuổi từ trên 30 tuổi đến 45 tuổi chiếm 21% và người phạm
tội trong độ tuổi trên 45 đến 70 tuổi chiếm 5,5% và ít nhất là độ tuổi 70 trở lên
chiếm 0,8%.Sự khác nhau của các yếu tố trong cơ cấu tội phạm là do những người
phạm tội ở độ tuổi khác nhau thực hiện sẽ có sự ảnh hưởng nhất định trong quá
trình xã hội hóa con người, sự hình thành nhân cách trong từng giai đoạn phát triển
của mỗi cá nhân. Đối với lứa tuổi khác nhau thì cơ cấu tội phạm được thực hiện
cũng khác nhau. Chẳng hạn, người chưa thành niên (từ 14 - 18 tuổi) với độ tuổi mới
lớn, tâm lý đang trong giai đoạn phát triển, muốn tìm hiểu về giới tính, muốn khẳng
định bản thân trưởng thành, ham muốn tình dục nảy sinh khi có yếu tố kích thích tác
động như (phim sex, truyện sex, tranh ảnh khiêu dâm..). Tội phạm có tuổi đời càng
trẻ thì mức độ của tội phạm càng cao sự tác động tiêu cực cho xã hội càng lớn. Thế
hệ trẻ là nền tảng phát triển của xã hội nếu nền tảng này thiếu ổn định các giá trị đạo
đức bị suy đồi, các chuẩn mực đạo đức trong xã hội sẽ bị xem nhẹ thì dẫn đến xã
hội thiếu bền chặt và khó phát triển. Người thành niên từ 18 - 30 tuổi, ở độ tuổi này
98
tâm sinh lý phát triển tương đối hoàn thiện, nhu cầu về tình dục và ham muốn tình
dục khá cao, đây là độ tuổi thích hợp để lập gia đình, có thể thấy nhu cầu tình dục
cũng gắn liền với cuộc sống của tuổi trưởng thành. Tuy nhiên, về tâm lý ở độ tuổi
này còn chưa chắn, kinh nghiệm sống chưa cao, yêu vội sống vội nhưng dễ thay
đổi, dễ bị kích thích do bị tác động của ngoại cảnh, ham muốn tình dục cao trong
khi bản thân thiếu dự kiểm soát. Chính những đặc điểm tâm sinh lý nêu trên làm
cho cá nhân trở nên dễ bị tác động thiếu khả năng kiềm chế và kiểm soát hành vi
trước những tác động từ đó đễ hình thành hành vi phạm tội. Ở độ tuổi càng cao trên
45 tuổi thì tỉ lệ phạm các tội XPTDTE có tỉ lệ thấp hơn vì ở độ tuổi này với những
thành quả đạt được trong sự nghiệp, địa vị trong xã hội, cuộc sống gia đình con cái,
sự chín chắn trong hành vi, các cá nhân lựa chọn cách thức xử sự đúng đắn hơn vì
thế ở độ tuổi này hành vi phạm tội cũng có phần ít hơn.
Về tr nh ộ văn h a v nghề nghi p: Trong bảng biểu 2.19 và 2.20 chương 2
cho thấy cơ cấu về trình độ văn hóa và nghề nghiệp của người phạm tội cho thấy
người phạm các tội XPDTE chủ yếu là người không biết chữ hoặc có trình độ tiểu
học (chiếm 67,2%), không nghề nghiệp hoặc làm nghề tự do (chiếm 51%). Phần lớn
các đối tượng phạm tội ở độ tuổi lao động, có mối quan hệ xã hội, nghề nghiệp chủ
yếu là nghề tự do hoặc không có nghề nghiệp, không có sự ổn định về kinh tế, thời
gian rảnh rỗi nhiều. Thông thường khi trình độ văn hóa thấp thì sẽ khó kiếm được
một công việc ổn định và có thu nhập ổn định. Không có tay nghề, chuyên môn thì
rất khó tìm được một công việc với những ưu đãi cao, nhất là trong cơ chế thị
trường hiện nay. Khi đã không có nghề nghiệp thì không có vị trí trong xã hội trong
485 vụ án về XPTDTE thì có đến 311 vụ án (chiếm 64,1%) có thời gian gây án chủ
yếu vào ban ngày từ 6h – 16h. Đây là khoảng thời gian mà cha mẹ, người thân của
trẻ em bận rộn với công việc lao động hàng ngày nên không chú tâm việc quản lý và
chăm sóc con cái. Trong khi đối tượng phạm các tội này lại có thời gian rảnh rỗi,
không có việc làm ổn định lợi dụng điều kiện thuận lợi này để thực hiện hành vi
phạm tội. Nghề nghiệp cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến
việc hình thành, phát sinh ý định, hành vi phạm tội. Quá rãnh rỗi về mặt thời gian,
quen với lối sống chỉ biết hưởng thụ, lười lao động, lười học tập, tiếp thu văn hoá
không chọn lọc, tiếp xúc phim, ảnh, nhiều loại hình khiêu dâm khác,… từ đó sẽ ảnh
99
hưởng đến tâm sinh lý, ham muốn hình thành lỗi suy nghĩ, hành động tiêu cực. Tuy
nhiên, không phải ai không có việc làm ổn định về kinh tế, quá rãnh rỗi về mặt thời
gian cũng là đối tượng phạm tội, thực tế nghiên cứu cho thấy rằng tội phạm xâm
phạm tình dục trẻ em còn là những người có việc làm ổn định, kinh tế khá giả, thậm
chí còn có địa vị cao trong xã hội, có vốn hiểu biết sâu rộng và có nhận thức nhất
định về pháp luật hiện hành nhưng vì ích kỷ, muốn thoả mãn ham muốn của bản
thân, lợi ích của bản thân mà thực hiện hành vi đồi bại. Do đó trong công tác phòng
ngừa tội phạm cũng cần phải lưu ý đến các đối tượng này thực hiện có hiệu quả
công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật cho người dân về phòng ngừa các tội
XPTDTE.
Về t i phạ t i phạ nguy hiể : Qua kết quả nghiên cứu cơ cấu tình hình
các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ xét theo khía cạnh về tiền án, tiền
sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm cho thấy, mặc dù tỉ lệ tái phạm 5,4%, tái phạm
nguy hiểm là 0,85%, bị cáo phạm tội có tiền án, tiền sự 9,0% chiếm tỉ lệ khá thấp so
với bị cáo phạm tội lần đầu 84,8%,. Tuy nhiên, việc tái phạm, tái phạm nguy hiểm
hoặc bị cáo đã có tiền án, tiền sự thì việc thực hiện hành vi phạm các tội XPTDTE
tính chất nghiêm trọng hơn.
Ví dụ vụ án tiêu biểu: Bị cáo Nguyễn Chí C (sinh năm 1986) đã từng có hai
tiền án, lần 01: Ngày 20/6/2006 bị Tòa án nhân dân tình Vĩnh Long xử phạt 05 năm
tù về tội “Hiếp dâm trẻ em”; lần 02: Ngày 27/9/2011 bị Tòa án nhân dân huyện
Long Hồ xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo Nguyễn Chí C bị
Viện kiềm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long truy tố về hành vi phạm tội như sau: Ngày
30/10/2015 ông Tâm (cha của nạn nhân) đi vắng nên Nguyễn Thanh T (sinh năm
2004) ở nhà một mình, khoảng 23 giờ đêm cùng ngày Nguyễn Chí C đi đến dùng
tay đập mạnh vào cửa phòng ngủ làm T giật mình thức giấc, C vào phòng bật đèn,
kêu T cởi đồ do T hoảng sợ nên làm theo, C thực hiện hành vi giao cấu mặc cho T
kháng cự. Sau khi thực hiện xong hành vi C kêu T vào nhà tắm, khi bước vào nhà
tắm T đẩy C, làm C loạng choạng, lợi dụng lúc này T đã chạy đến quán của chị
Huỳnh Thị Chát gần đó kêu cứu. Sự việc sau đó bị quần chúng nhân dân phát hiện,
bắt giữ C và báo cho Cơ quan Công an để xử lý. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Chí C
không thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo cho rằng mình say rượu không nhớ gì và
100
cũng không thực hiện hành vi phạm tội. Xét theo lời khai của người bị hại người
thực hiện hành vi xâm hại nạn nhân có vết xâm rất nhiều hình và chữ ở hai bên đùi
và chỉ mặc một quần dài. Xét theo lời khai của người làm chứng Nguyễn Thị Ngọc
Nga thì chỉ có một mình bị cáo từ nơi nạn nhân ở bước ra định lên xe chạy nhưng bị
bắt lại, lúc đó bản thân bị cáo mặc quần chưa kịp kéo dây kéo và thắt lưng chưa gài.
Dựa vào biên bản giám định số 3434/C54B ngày 18/11/2015 của Phân viện khoa học
hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thu được một kiều gen nam giới không đầy đủ.
Căn cứ vào giám định pháp y số: 139/BKLPY ngày 4/11/2015 của Trung tâm pháp y
tình Vĩnh Long kết luận đối với Nguyễn Thanh Trúc: màng trinh rách ở vị trí 1 giờ, 4
giờ, 7 giờ. Với tính chất của vụ án đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của bị cáo nguy hiểm
cho xã hội, lợi dụng đêm khuya, cha mẹ nạn nhân vắng nhà, bị cáo xông vào nhà và
thực hiện hành vi phạm tội. Theo bản án số 06/2016/HSST ngày 21/4/2016 Tuyên bố
Nguyễn Chí C, phạm tội “Hiếp dâm trẻ em”, xử phạt bị cáo Nguyễn Chí Cường 15
năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 31/10/2015
Đối với tội phạm XPTDTE phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy
hiểm ảnh hưởng rất lớn đến mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Chẳng hạn như những người phạm tội XPTDTE lần đầu thì thường, có sự bộc phát
hành vi phạm tội phương thức thủ đoạn che dấu tội phạm sẽ không tinh vi hơn
những tội phạm đã tái phạm nhiều lần bởi vi họ đã có kinh nghiệm để đối phó với
cơ quan bảo vệ pháp luật, kinh nghiệm về xóa dấu vết phạm tội, đặc biệt là những
đối tượng có án tích về tội phạm XPTDTE nhưng vẫn tái phạm, những đối tượng
này sẽ gây khó khăn cho cơ quan CSĐT trong việc điều tra, khám phá với thủ đoạn
tinh vi này. Chính vì vậy, phân tích đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng đối với cơ
quan tư pháp trong việc xác định tỷ lệ tái phạm của tội phạm nói chung và nhóm tội
XPTDTE nói riêng để đánh giá được tổng thể tình hình nhân thân người phạm tội
XPTDTE, những sơ hở, thiếu xót của cơ quan tư pháp, sự quản lý của cơ quan chức
năng để từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa đối với từng đặc điểm hành vi cụ
thể hoặc nhóm hành vi phạm tội cho phù hợp và đạt hiệu quả.
3 2 2 2 Đặc iể t ý c a người phạ c c tội x phạ t nh dục trẻ e
Đặc điểm tâm lý của con người được hình thành qua quá trình sống lâu dài và
tương tác với môi trường, đó là một quá trình phức tạp. Mỗi người có một đặc điểm
101
riêng biệt không lẫn vào nhau thì chính quá trình tác động lâu dài đó sẽ hình thành
nên. Do đó, đối với tội phạm xâm phạm tình dục ở trẻ em thì chính sự hình thành
tâm lý người phạm tội qua sự tác động của môi trường xã hội làm phát sinh động cơ
và mục đích của hành vi phạm tội. Ở đây con người là chủ thể của hành vi phạm tội
cho nên nó là yếu tố quan trọng và là điều kiện thúc đẩy hành vi phạm tội. Ý thức,
sai lệch về sở thích. Nhu cầu, sự thõa mãn, ý thức pháp luật, sự khiếm khuyết đạo
đức, sinh học, bất ổn tâm lý học,… đây là những yếu tố chủ quan có vai trò quan
trọng trong việc hình thành nhân thân người phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm tình dục trẻ em nhằm mục đích thoả
mãn nhu cầu về sinh lý của bản thân, giải toả căng thẳng, trầm cảm, hiện nay còn
xuất hiện một số trường hợp do bị ngược đãi hoặc gặp phải biến cố gây một cú sốc
lớn làm ảnh hưởng đến tinh thần hình thành chứng tâm thần phân liệt hay còn gọi là
đa nhân cách thực hiện hành vi xâm phạm tình dục trẻ em nhằm mục đích trả thù
hay trút những đau đớn mà mình đã từng phải chịu lên người khác người mà khả
năng phòng vệ kém hoặc không có khả năng phòng vệ có nhiều diễn biến tâm lý
xuất phát phỏng đoán từ những hành vi khác nhau. Đơn thuần là nhằm mục đích để
thoả mãn nhu cầu về tâm sinh lý của người phạm tội hoặc nhiều người phạm một tội
có cùng chung mục đích có thể xảy ra việc người phạm tội cảm thấy chưa thoả mãn
nhu cầu của bản thân sẽ tiếp tục tái phạm có thể tăng lên về số lần, hình thức, mức
độ của hành vi và người phạm tội. Vì vậy, trong việc này vừa có vấn đề về đạo đức
vừa có diễn biến tâm lý do môi trường bên ngoài tác động vào. Có thể nói rằng tâm
lý người phạm tội cũng rất phức tạp xuất phát từ những cơ chế hình thành nhân thân
của từng chủ thể trong môi trường sống.
Ví dụ như vụ án xâm phạm tình dục ở Vĩnh Long thì nạn nhân chính là con
gái và cháu nội của người phạm tội. Từ tháng 7/2016 đến gần ngày 23/3, T. đã thực
hiện hành vi đồi bại với con gái mình 4 lần [121] Còn S. từ khoảng tháng 3/2016
đến tháng 2/2017 đã quan hệ tình dục với cháu nội 3 lần [122]. Sự việc được phát
hiện khi Đ. kể với bà ngoại. Sau khi nghe cháu ngoại kể, bà M. đã đến cơ quan công
an trình báo. Qua xác minh và điều tra, cả T. và S đều thừa nhận hành vi phạm tội.
Thiết nghĩ, trong sự việc trên cha và ông nội của bé Đ đều nhận thức được hành vi
sai trái của mình, nhận thức được hành vi đó là trái với luân thường, đạo lý, suy đồi
102
về đạo đức, sẽ bị xã hội lên án và thậm chí bản thân sẽ phải vướng vào vòng lao lý
nhưng sự ích kỷ, ham muốn, nhu cầu về sinh lý của bản thân đã thúc đẩy họ thực
hiện hành vi phạm tội.
3.2.2.3 Sai ch c a ý th c c nh n về nh n th c v hiểu bi t ph p u t
Qua nghiên cứu trên địa bàn miền Tây Nam Bộ cho thấy có nhiều nhóm đối
tượng khác nhau:
+ Bản thân các đối tượng có động cơ phạm tội, coi thường nhân phẩm, danh
dự của người khác, nhu cầu tình dục lệch lạc đã thúc đẩy họ phạm tội để thỏa mãn
tình dục cá nhân. Điển hình như bản án số 02/2009/HSST ngày 8/1/2009 Lâm Văn
Dũng (sinh năm 1961) là cha đẻ của Lâm Thị Điệp (sinh năm 1993). Từ tháng 7
năm 2007, sau khi uống rượu về khoảng 15 giờ, Điệp đang quét nhà, Dũng nảy sinh
ý định giao cấu nên Dũng kêu “Điệp ơi cho ba lấy một cái” nhưng Điệp không trả
lời , Dũng nhặt khúc cây ném vào Điệp. Điệp bỏ chạy ra sau nhà thì bị vấp té, Dũng
đuổi kịp nắm tay kéo Điệp vào buồng thực hiện hành vi giao cấu cho tới khi thỏa
mãn. Từ đó cứ sau khi uống rượu về thì Dũng ép buộc, đánh đập Điệp để thực hiện
hành vi giao cấu. Đến tháng 7/2008 Điệp kể lại sự việc cho mẹ biết (nhưng mẹ Điệp
không tin). Sau đó Điệp nói với anh trai mình là Lâm Văn Tuấn. Tuấn đã khai báo
hành vi của Dũng đến cơ quan công an. Tại phiên tòa Dũng thừa nhận toàn bộ hành
vi phạm tội, Tòa án tuyên phạt bị cáo 20 năm tù về tội Hiếp dâm trẻ em. Từ đó cho
thấy đối tượng phạm tội xuất hiện nhu cầu về tình dục biến dạng, đi ngược lại
những chuẩn mực trên cả phạm vi đạo đức và pháp luật. Việc thực hiện hành vi
phạm tội phụ thuộc và chính chủ thể của tội phạm, thái độ thiếu tôn trọng pháp luật,
kỷ cương, đạo đức đã dẫn đến thái độ coi thường nhân phẩm của người khác, coi
thường pháp luật đã hình thành ở họ những nhu cầu thỏa mãn cá nhân một cách trái
đạo đức, trái quy định của pháp luật.
+ Đối tượng phạm tội về xâm phạm tình dục trẻ em nhận thức được hành vi
xâm phạm tình dục trẻ em là vi phạm đạo đức, trái pháp luật nhưng chưa nhận thức
rõ được tính nghiêm trọng của tội phạm do mình gây ra và mức hình phạt của nó.
Khi phạm tội chỉ chủ yếu để giải tỏa tâm lý, nhu cầu tình dục nhất thời mà trong
hoàn cảnh đó không có những điều kiện khác có thể đáp ứng được. Nhóm này
thường thực hiện hành vi xâm hại tình dục trẻ em bộc phát, thủ đoạn đơn giản, ít có
103
ý định che dấu hành vi nên công tác phát hiện, xử lý đối tượng này cũng thực hiện
nhanh chóng hơn. Điển hình như vụ án số 28/2014/HSST: Bị cáo Phạm Linh Tâm
(sinh năm 1997) là người cùng xóm với nạn nhân Nguyễn Thanh Thư (sinh ngày
19.5.2005) Khoảng 13h Thư đi tìm đôi dép ở Trường mẫu giáo Xã Liêu Tú, Huyện
Trần Đề, Tỉnh Sóc Trăng. Tâm nhìn thấy Thư ở khu vực phía sau trường học. Tâm
ôm hôn Thư, Tâm tiếp tục dùng tay cởi quần của Thư ra ngang đùi rồi dùng tay sờ
vào âm đạo của Thư, sau đó Tâm chủ động cởi quần của mình định thực hiện hành
vi giao cấu, thì bị bà Trần Thị Cúc ở gần đó phát hiện. Bà Cúc kể lại sự việc cho
cha mẹ bé Thư nghe, sau đó gia đình trình báo công an. Tại phiên tòa bị cáo thừa
nhận hành vi phạm tội, dựa vào các chứng cứ thể hiện trong hồ sơ, xét thấy bị cáo
khi phạm tội chưa thành niên, có nhân thân tốt. Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng
tuyên phạt Phạm Linh Tâm 7 năm tù giam về hành vi Hiếp dâm trẻ em. Mặc dù hậu
quả chưa xảy ra, tuy nhiên hành vi của bị cáo đặc biệt nguy hiểm, bị cáo biết rõ nạn
nhân còn rất nhỏ tuổi nhưng vẫn cố ý xâm hại để giải tỏa nhu cầu tình dục nhất thời
của mình.
+ Đối tượng phạm tội về xâm phạm tình dục trẻ em có kiến thức về pháp luật
nhưng ý thức tuân thủ kém, thậm chí sử dụng những hiểu biết của mình để tìm cách
thực hiện và che dấu tội phạm, lợi dụng trẻ em còn nhỏ, trẻ chậm phát triển, sẽ
không biết gì về hành vi của mình và hành vi xâm phạm tình dục sẽ không bị ai phát
hiện. Nhóm này chiếm tỷ lệ không cao, nhưng với thủ đoạn che dấu tội phạm tinh vi
nên gây khó khăn trong công tác điều tra tội phạm. Điển hình như vụ án số
81/2016/HSST: Nguyễn Văn Tròn Anh (sinh ngày 11/10/1980), khoảng tháng
9/2014 Tròn Anh có thuê Phạm Thị Ngọc Đào (sinh ngày 21/12/2001) cùng một số
người khác làm nhân công cho cơ sở bánh in của mình. Lợi dụng Đào bị chậm phát
triển về tâm thần nên Tròn Anh đã nhiều lần dụ Đào để thực hiện hành vi giao cấu và
Đào có thai. Khi gia đình hỏi thì Đào cho biết mình cùng Tròn Anh có thực hiện hành
vi giao cấu. Theo kết luận giám định pháp y tâm thần số 83 ngày 27/11/2015 của trung
tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ - Bộ y tế ghi nhận: Phạm Thị Ngọc Đào
chậm phát triển tâm thần (F70-ICD10), không đủ khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi. Trong khi đó Nguyễn Văn Tròn Anh không thừa nhận hành vi phạm tội của
mình. Theo kết luận giám định số 975 ngày 01/4/2016 của Phân viện khoa học hình sự
104
- Tổng cục cảnh sát, tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Phạm Thị Ngọc Đào là mẹ
ruột của bé trai sinh ra ngày 29/2/2016 và Nguyễn Văn Tròn Anh là cha ruột bé trai do
Phạm Thị Ngọc Đào sinh ra, với xác xuất 99,999%. Viện Kiểm sát nhân dân Tỉnh An
Giang, đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Tròn Anh về tội „Hiếp dâm trẻ em” Tại phiên Tòa
Tròn Anh thừa nhận hành vi của mình phạm tội của mình, Tòa tuyên phạt bị cáo 12
năm tù về tội hiếp dâm trẻ em.
3 2 2 4 Sai ch trong i s ng b k ch th ch bởi văn h a phẩ i trụy v thói
quen sử dụng bia rư u
Bên cạnh các ảnh hưởng của nhân thân người phạm tội đối với cơ chế hình
thành hành vi phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em thì môi trường sống cũng giữ
một vai trò đáng kể. Con người hình thành cơ chế phạm tội xâm phạm tình dục trẻ
em có thể được bắt đầu bằng đời sống vật chất, tinh thần của gia đình, đến cơ cấu
của gia đình. Đặc biệt là phương pháp giáo dục của gia đình. Ở phương diện thứ
nhất nói về áp lực trong công việc, công việc, sinh hoạt gia đình, các mối quan hệ
khác mà không có cách nào giải toả căng thẳng, trầm cảm, không được thoả mãn
nhu cầu về sinh lý của bản đã dẫn đến những sai lệch trong nhu cầu thỏa mãn tâm
sinh lý,
Ví dụ trong vụ án về hiếp dâm trẻ em do bị cáo Nguyễn Thanh Q thực hiện
đối với Võ Thị Mỹ L, lợi dụng mối quan hệ bà con và sinh sống gần nhà bị hại, Q
đã cho L số tiền 2.000 đồng để được thực hiện hành vi giao cấu với nạn nhân. Hành
vi này bị gia đình nạn nhân phát hiện. Qua điều tra Q khai nhận đã nhiều lần thực
hiện hành vi nhiều lần. Có một lần bị gia đình nạn nhân phát hiện, nhưng do có
quan hệ bà con, bị cáo lại có bệnh lý tai biến mạch máu não, thể lực yếu, không bạn
bè nên gia đình nạn nhân không khai báo. Nhưng do bị cáo lại tiếp tục thực hiện
hành vi phạm tội nên gia đình nạn nhân mới trình báo. Theo bản án số
21/2017/HSST ngày 01/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã tuyên bố bị
cáo Nguyễn Thanh Q phạm tội “hiếp dâm trẻ em” xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh
Quốc 10 năm tù.
Ở phương diện thứ hai các đối tượng tiếp xúc nhiều với văn hoá phẩm đồi
truỵ, các loại hình khiêu dâm từ đó dẫn đến việc hình thành ý định xâm phạm tình
dục người khác nhưng lo sợ sự kháng cự nên tìm đến đối tượng là trẻ em sức kháng
105
cự, khả năng phòng vệ yếu, ví dụ điển hình Bản án số 29/2017/HSST ngày
10/3/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên tỉnh An Giang đã tuyên bị
cáo Huỳnh Thanh H phạm tội hiếp dâm trẻ em, xử phạt 7 năm tù (thời hạn tính từ
23/8/2016). Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình , từng có 01 tiền án về tội
“Cố ý gây thương tích” ra tù chưa bao lâu bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm
tội “hiếp dâm trẻ em” đối với Trịnh Thị Thùy D là em họ của H. Sau khi chấp hành
xong hình phạt tù H không có công việc ổn định có lối sống buông thả, Ngày
20/2/2015 sau khi uống rượu cùng nhóm bạn, xem phim ảnh văn hóa phẩm đồi trụy
lợi dụng bạn bè đã đi về chỉ còn T và D ở lại, H nảy sinh ý định giao cấu với D nên
đã lợi dụng lúc T ra ngoài đi vệ sinh. H đã khống chế D để thực hiện hành vi giao
cấu mặc dù D chống cự quyết liệt nhưng bị cáo không dừng lại mà dùng sức mạnh
vật ngã bị hại, lúc này T quay vào phát hiện hành vi của H và la lớn bị cáo không
thực hiện được hành vi nên bỏ chạy và bị bắt. Tại thời điểm phạm tội nạn nhân mới
15 tuổi, người phạm tội thuộc thành phần lao động nghèo, học vấn thấp đã thành
khẩn khai báo, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt chưa gây hậu quả nghiêm
trọng, bị hại cũng xin giảm nhẹ cho bị cáo nên tòa án xem xét tình tiết giảm nhẹ cho
bị cáo, mức án 7 năm tù giam tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm
mục đích răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội trước thực trạng trẻ em bị xâm hại
tình dục ngày càng gia tăng như hiện nay.
Ở phương diện thứ ba là nói đến cơ cấu gia đình. Một người sống trong gia
đình có cơ cấu gia đình không đầy đủ có thể hình thành nên yếu tố tiêu cực trong
nhân thân người phạm tội. Ví dụ như: chỉ có bố hoặc chỉ có mẹ, hoặc mồ côi cả cha
mẹ cũng có thể ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành nhân cách con người.
Con người khi lớn lên thiếu sự giáo dục, giám sát của bố mẹ, thiếu tình cảm dẫn đến
những sai lầm trong hành vi và xử sự. Nói về phương diện giáo dục của gia đình,
đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành nhân cách của từng cá nhân
trong xã hội. Xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau có thể là môi trường sống,
công việc, gia đình, xã hội, mối quan hệ cụ thể, tâm sinh lý sẽ có những ảnh hưởng
nhất định đến hành vi xâm phạm tình dục trẻ em của một chủ thể. Vụ án điển hình
như vụ án Lê Văn Hoài V thực hiện hành vi Giao cấu với trẻ em và cướp tài sản đối
với Đào Thị Mộng T. Vào lúc 15 giờ ngày 03/01/2015 Lê Văn Hoài V đến nhà
106
Nguyễn Hữu Nghĩa tại xã Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, Tỉnh Đồng Tháp tổ chức uống
rượu. Lúc này Đào Thị Mộng T (sinh năm 1999) là người chậm phát triển có bệnh
tâm thần đi ngang qua nên Nghĩa kêu vào chơi. Khoảng 16h, Nghĩa rủ T và V đi
uống nước. Nghĩa điều khiển xe đi trước, V chở T đi sau do V có ý định giao cấu
với T nên chở T đến quán nước ở Xã An Thái Trung huyện Cái Bè, để thực hiện
hành vi giao cấu với T, thấy T có đeo 2 chiếc bông tai nên V nói T tháo ra cho V
một chiếc. T đồng ý và gỡ bông tai đưa cho V. Lúc này nảy sinh ý định chiếm đoạt
chiếc bông tai còn lại để bán tiêu sài nhưng T không đồng ý. Vũ dùng hai vai đè hai
tay của T vào băng đá và dùng tay gỡ chiếc bông. Sau đó cất vào bóp. V quay về
nhà chuẩn bị quần áo đi Thành phố Hồ Chí Minh Thì bị bắt. Tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, hành vi phạm tội của bị cáo
là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến sự phát triển bình thường về thể chất và
tâm lý của nạn nhân, cố ý xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại, tuy
nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đã khắc
phục thiệt hại, bị cáo mồ côi mất cha mẹ, nên hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ
cho bị cáo. Theo bản án số 88/2015/HSST Ngày 29/9/2015 của Tòa án nhân dân
huyện Cái Bè, Tỉnh Tiền Giang tuyên bố bị cáo Lê Văn Hoài V phạm tội “Giao cấu
với trẻ em” và “Cướp tài sản” Tổng hợp hình phạt của 02 tội là 4 năm 06 tháng tù,
thời hạn tính từ ngày 03/01/2015.
Ở phương diện thứ tư, một số trường hợp người phạm các tội XPTDTE từng
gặp phải biến cố gây một cú sốc lớn làm ảnh hưởng đến tinh thần hình thành chứng
tâm thần phân liệt, đa nhân cách thực hiện hành vi xâm phạm tình dục trẻ em nhằm
mục đích trả thù hay trút những đau đớn hoặc có những sở thích quan hệ tình dục
với trẻ em (ấu dâm). Điển hình như vụ án xảy ra tại Vĩnh Long, bị cáo thực hiện
hành vi xâm hại tình dục đối với em Mai Gia H (sinh năm 2004) và Mai Kim Anh
(sinh năm 2005). Vào khoảng 13 giờ ngày 26 tháng 5 năm 2013 Mai Gia H sang
nhà H chơi (quan hệ cậu cháu). Mai Thanh H cùng Mai Gia H và Mai Kim A cùng
chơi đánh bài trong phòng ngủ của Mai Thanh H, lúc này Mai Thanh H nảy sinh ý
định quan hệ tình dục với H, nên dụ dỗ H bằng cách ai chơi đánh bài thua thì sẽ làm
bệnh nhân cho bác sĩ khám bệnh, do đánh thu nên Mai Thanh H thực hiện hành vi
107
quan hệ tình dục với H mặc dù H không đồng ý nhưng người phạm tội vẫn thực
hiện hành vi dâm ô. Do H chống cự nên người phạm tội không thực hiện tới cùng
hành vi của mình. Sau khi được Mai Thanh H cho ra khỏi phòng và về nhà đến 18
giờ do đi tiểu đau nên H nói với mẹ ruột biết và sau đó gia đình trình báo công an
xã Tân Hội, thành phố Vĩnh Long. Trong quá trình điều tra Mai Thanh H cũng khai
nhận hành vi phạm tội của mình và cũng thừa nhận do thích quan hệ tình dục với trẻ
con nên từ ngày 24/3/2013 đến 26/4/2013 đã xâm hại tình dục Mai Kim A (3 lần).
Hành vi của bị cáo rất nghiêm trọng, bị cáo đã lợi dụng vào mối quan hệ thân tình
và tin tưởng của hai bị hại để thực hiện hành vi xâm phạm tình dục. Bị cáo có một
tiền án chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới. Tuy nhiên trường hợp của bị cáo
phạm tội hiếp dâm trẻ em nhưng chưa đạt mục đích, bị cáo thuộc thành phần dân
tộc nghèo, học vấn thấp, gia đình nạn nhân xin giảm nhẹ cho bị cáo. Theo bản án số
24/2014/HSST ngày 08/9/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long tuyên bố bị
cáo Mai Thanh Hải phạm tội “Hiếp dâm trẻ em” và “dâm ô trẻ em” tổng hợp hình
phạt là 17 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 25 tháng 12 năm 2013.
3.2.3 Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý, thể chất, trình
độ nhận thức của trẻ em.
Đặc điểm về tâm lý của nạn nhân cũng có những tác động cho việc hình
thành động cơ phạm tội. Trong các yếu tố tâm lý có những yếu tố xuất phát từ
phía nạn nhân đóng vai trò làm thúc đẩy hành vi phạm tội xâm hại tình dục trẻ
em. Ở nạn nhân thông thường tồn tại những tâm lý có lợi cho người phạm tội cụ
thể như sau:
Th 1 Do ặc iể về thể chất trẻ e còn y u ớt chưa ph t triển ho n
thi n chưa c kh năng ch ng c ại c c h nh vi x hại c a tội phạ
Người phạm tội lợi dụng tâm lý khiếp sợ trẻ em để thực hiện hành vi xâm phạm
tình dục, khống chế tinh thần của trẻ bằng thủ đoạn uy hiếp, đe dọa hoặc dùng vũ
lực khiến nạn nhân không dám chống cự, cũng không dám tố cáo hành vi vì lo sợ bị
đánh, bị giết vv..
Ví dụ trong vụ án: Nguyễn Văn A, bản án số 46/2014/HSST ngày
09/9/2014 của TAND Tỉnh Sóc Trăng. Bị hại: Lê Thị Thảo N (SN 2004). Nguyễn
108
Văn A thực hiện hành vi hiếp dâm Lê Thị Thảo N tại nhà của mình và đe dọa “mày
n i th tao sẽ gi t y ch t gi t u n ẹ c a y”
Vụ án Nguyễn Văn Q bản án số: 38/2016/HSST ngày 29/6/2016 của TAND
thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang. Nguyễn Văn Q thực hiện hành vi hiếp dâm em
Trần Thị Ngọc C tại khu vực cánh đống vắng với đe dọa “ y u n s ng hay
ch t” sau khi thực hiện hành vi hiếp dâm thì Quí lấy luôn điện thoại của nạn nhân
và bỏ đi. (đa số các trường hợp phạm tội hiếp dâm trẻ em, người phạm tội thường
de dọa sẽ giết chết nạn nhân hoặc gia đình nạn nhân để khống chế hành vi kháng cự
của nạn nhân và để dễ dàng thực hiện hành vi phạm tội)
Th 2 Do tr nh ộ nạn nh n còn nhiều hạn ch còn thi u ki n th c về xã
hội ki n th c về giới t nh người phạ tội i dụng v t chất ể th c hi n h nh vi
phạ tội
Nạn nhân chưa có những nhận thức chưa đầy đủ về hành vi xâm hại, trẻ em
có tâm lý nhẹ dạ, cả tin nên đã không có những phản ứng bảo vệ mình trước hành vi
xâm hại tình dục, thậm chí có em còn giấu đến khi người phạm tội bị phát hiện, nạn
nhân có thai hoặc khi đối tượng bị bắt nạn nhân mới khai đã bị xâm phạm tình dục
nhiều lần trước đó.
Ví dụ trong vụ án Trần Kim Th, bản án số: 42/2014/HSST ngày 26/8/2014
của TAND tỉnh Sóc Trăng. Trần Kim Th đã thực hiện hành vi hiếp dâm Đào Thị
Nhật T 5 lần thực hiện hành vi hiếp dâm nhưng không bị phát hiện. Ngày 24/5/2014
bị cáo gọi nạn nhân ra sau nhà “T ơi i ra nhà sau nè” và thực hiện hành vi hiếp
dâm thì bị phát hiện. Nạn nhân không tố cáo hành vi vì nạn nhân tin lời bị cáo nói
rằng “ai cũng th n y” và không nghĩ rằng mình đã bị xâm hại.
Nạn nhân bị đối tượng dụ dỗ, mua chuộc để thực hiện hành vi phạm tội. Sau
khi bị xâm phạm tình dục, các em sợ sệt không dám nói cho cha mẹ hoặc người lớn
biết. Một bộ phận không nhỏ các bé gái không được gia đình và nhà trường giáo
dục đầy đủ về giới tính nên không nhận thức được hậu quả của hành vi xâm phạm
tình dục. Ví dụ trong Vụ án Sơn N bản án số: 26/2014/HSST ngày 04/7/2014 của
TAND tỉnh Sóc Trăng. Sơn N thực hiện hành vi hiếp dâm em Lý Thị Xà Phe R, bị
cáo đã dụ dỗ nạn nhân “Cho tôi hôn, tôi cho tiền” nạn nhân đã đồng ý và được bị
cáo cho 8.000 đồng sau đó thực hiện hành vi hiếp dâm thì bị phát hiện. Có thể thấy
109
người phạm tội thường lợi dụng sự chưa nhận thức đầy đủ của nạn nhân về tình dục,
lợi dụng sự ngây thơ của bị hại, lợi dụng tâm lý thích được cho quà bánh, cho tiền
của nạn nhân để từ đó dễ dàng thực hiện hành vi giao cấu mà không cần uy hiếp hay
đe dọa. Đối với các trường hợp này thì mức độ ẩn của tội phạm cao vì sự nạn nhân
không hề khai báo với gia đình và người thân.
Th 3, Do ặc iể t sinh ý c a trẻ e b ng bột y u sớ thi u suy nghĩ
v cũng do những bi n chuyển về sinh ý
Nạn nhân có tình cảm yêu dương sớm, hoặc có lối sống buông thả bị đối
tượng lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Yếu tố này đóng vai trò của nạn nhân
trong cơ chế hình thành ý định phạm tội và thực hiện hành vi phạm tội được thể
hiện thông qua việc, nạn nhân có lối sống buông thả, mối quan hệ yêu đương bạn bè
phức tạp, yêu và quan hệ tình dục sớm, chính những điều này đã làm gia tăng nguy
cơ trở thành nạn nhân của loại tội phạm này. Ví dụ trong vụ án Nguyễn Văn Luân,
bản án số 19/2017/HSST ngày 31/3/2017 của TAND Thành phố Mỹ Tho, Tỉnh Tiền
Giang. Nguyễn Văn L có hành vi giao cấu với em Bùi Thị Ngọc T, bị cáo khai nhận
trong tháng 4/2016 bị cáo đã giao cấu với nạn nhân 04 lần, cụ thể: 03 lần tại phòng
ngủ nhà Luân, 01 lần tại phòng số 12 khách sạn Hoàng Lan với sự đồng thuận của
nạn nhân, cả hai có quan hệ yêu đương vào tháng 4/2016. Nạn nhân và bị cáo quan
hệ tình dục nhiều lần trong đó có 02 lần nạn nhân chủ động cởi đồ nhằm quan hệ
tình dục với bị cáo.
Trong vụ án Lý Quang M, bản án số 67/2016/HS-ST ngày 30/6/2016 của
TAND Thành phố Vĩnh Long, Tỉnh Vĩnh Long. Lý Quang M có hành vi giao cấu
với em Bùi Diễm M, bị cáo thừa nhận vì có quan hệ tình cảm với nhau nên cả hai
giao cấu nhiều lần dẫn đến việc nạn nhân có thai; hay vụ án Nguyễn Duy L, bản án
số: 22/2015/HSST ngày 11/3/2015 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
Nguyễn Duy L có hành vi giao cấu với em Huỳnh Ngọc Anh T, bị cáo phạm tội
trong trường hợp nhiều lần làm nạn nhân có thai và sinh con khi chưa đủ 15 tuổi. Các
vụ án trên cho thấy hành vi giao cấu tuy có sự đồng thuận của nạn nhân nhưng với độ
tuổi còn nhỏ, tâm lý yêu đương sớm, gia đình chưa có sự giáo dục và thờ ơ trong quản
lý con cái, khi có hành vi xâm hại xảy ra thì thiệt hại về sức khỏe về tinh thần của nạn
110
nhân khó mà khắc phục được. Hành vi phạm tội đã gây ra những dư luận xấu cho địa
phương và đặc biệt gây ảnh hưởng không nhỏ đối với gia đình bị hại.
Th 4 Do i s ng bu ng th u n khẳng nh b n th n theo phi nh
s ch b o i trụy sử dụng bia rư u
Nạn nhân có lối sống buông thả và dễ dãi, ham chơi cũng là một trong các
yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội xâm hại tình dục phát sinh như vụ án: Lương
Thanh Dương L, Dương Hoàng E và Lương Thanh P bản án số: 48/2015/HSST
ngày 17/9/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh. Lương Thanh Dương L phạm tội giao
cấu với em Trần Thị H và Dương Hoàng E và Lương Thanh P là đồng phạm trong
vụ án hiếp dâm trẻ em. Bị cáo với nạn nhân đã giao cấu nhiều lần trong đó có 3 lần
có sự đồng thuận của nạn nhân khi cả hai cùng đi uống rượu với bạn bè và 01 lần
nạn nhân không đồng ý quan hệ với bị cáo vì có nhiều người cùng muốn quan hệ
tình dục với nạn nhân.
Th 5, Do tr nh ộ nh n th c b hạn ch trong ột s trường h p trẻ e c
như c iể về tinh th n
Nghiên cứu trong 485 bản án với 487 nạn nhân thì có 9 nạn nhân bị mắc
các bệnh tâm thần, trẻ em bị xâm hại tình dục là do cha mẹ không quan tâm đúng
mức hoặc bỏ các em đi lang thang trong làng dẫn đến việc trẻ bị lạm dụng tình dục
và mang thai. Ví dụ vụ án Lê Thanh H, bản án số 84/2012/HSST ngày 10/7/2012
của TAND Thành phố Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang. Lê Thanh H thực hiện hành vi
giao cấu với em Lê Thị Kim H khi nạn nhân không nhận thức được hành vi xâm hại
tình dục sẽ gây nguy hại cho chính mình nên đã đồng ý cho bị cáo giao cấu nhiều
lần và tình cờ hành vi này bị người dân trong xóm phát hiện nên đã khai báo.
111
Kết luận chương 3
Nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội XPTDTE chính là
đi tìm các yếu tố tham gia quá trình tác động làm phát sinh các tội XPTDTE. Kết
quả nghiên cứu cho thấy có ba nhóm yếu tố cơ bản tham gia vào quá trình tương
tác, cụ thể:
1. Những yếu tố tác động thuộc về nguyên nhân, điều kiện môi trường sống
như: vị trí địa lý, văn hóa – đời sống, gia đình, nhà trường, kinh tế ..... môi trường
sống đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc hình thành tính cách, đời sống của
con người Nam Bộ, văn hóa tính ngưỡng hình thành nên thói quen thuộc về đời
sống tinh thần không thể thiếu của người dân miền Tây Nam Bộ, bên cạnh những
mặt thuận lợi thì cũng có những hạn chế, trong đó có cả những vấn đề thuộc về tội
phạm. Trong môi trường Gia đình và Nhà trường cũng có những tác động đến việc
hình thành nhân cách và các đặc điểm nhân thân xấu tạo tiền đề cho những hành vi
sai lệch, trong đó có cả những hành vi phạm tội XPTDTE. Bên cạnh đó các yếu tố
thuộc về kinh tế - xã hội, chính sách pháp luật như việc ban hành các quy định pháp
luật liên quan đến phòng ngừa các tội XPTDTE chưa được đồng bộ, kịp thời, có
nhiều nội dung còn nhiều cách hiểu gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng giải quyết
các vu án về XPTDTE. Những tác động từ việc quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực
như kinh tế, văn hóa, xã hội... có những hạn chế làm cho tình hình tội phạm gia tăng
trong đó có cả tình hình các tội XPTDTE. Những tác động từ trong công tác phát hiện,
xử lý các tội XPTDTE còn nhiều yếu kém gây mất niềm tin trong nhân dân.
2. Trong những nguyên nhân và điều kiện thuộc về các đặc điểm nhân thân
người phạm tội như: Đặc điểm về tâm, sinh lý – xã hội, những sai lệch trong quá
trình động cơ hóa, kế hoạch hóa cũng như hiện thực hóa hành vi đã thúc đẩy hành vi
phạm tội XPTDE
3. Những nguyên nhân, điều kiện thuộc về nạn nhân của các tội XPTDTE:
Những nhược điểm về của nạn nhân đã tạo điều kiện thuận lợi cho người phạm
tội thực hiện hành vi, tình huống phạm tội phần lớn do người phạm tội chủ động
tạo ra kết hợp với các yếu tố về thời gian, địa điểm thuận lợi để đạt được mục
đích phạm tội.
112
Chương 4
DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA CÁC TỘI XÂM PHẠM
TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ
4.1 Dự báo tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây
Nam Bộ
4.1.1 Khái niệm dự báo tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Trong lĩnh vực Tội phạm học, ở Việt Nam có rất nhiều tác giả đưa ra khái
niệm về dự báo tình hình tội phạm với những quan điểm khác nhau: Theo GS.TS
Võ Khánh Vinh thì cho rằng tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội nên dự báo
tình hình tội phạm là một phần, một bộ phận của dự báo xã hội... “ s ph n o n
về th c trạng diễn bi n cơ cấu t nh chất c a t nh h nh tội phạ c thể x y ra
trong tương ai về c c nguy n nh n v iều ki n về c c kh năng phòng ch ng n
trong từng giai oạn nhất nh v vi c nh gi về chất ư ng c a những thay ổi
trong t nh h nh tội phạ c c nguy n nh n v iều ki n c a n ” [146 tr147]
Theo PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm thì “D b o tội phạ th c chất “phỏng
o n” “ph n o n” t nh h nh tội phạ sẽ diễn ra trong tương ai kè theo
kh năng phòng ngừa ấu tranh”[150 tr338] Ngoài ra còn có quan điểm cho rằng
“D b o t nh h nh tội phạ ” đồng nghĩa với “d b o t nh trạng phạ tội về th c
chất ph n o n kh năng c a t nh h nh phạ tội trong tương ai” [143 tr108]
Từ kết quả nghiên cứu dựa trên các công trình khoa học tiêu biểu, trong
phạm vi nghiên cứu, luận án đưa ra khái niệm về dự báo tình hình các tội xâm phạm
tình dục trẻ em như sau: “D b o t nh h nh c c tội XPTDTE ch nh s ph n o n
về c ộ diễn bi n (xu hướng) về cơ cấu t nh chất c a t nh h nh c c tội XPTDTE
c thể x y ra trong tương ai”
Tình hình các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ở địa bàn miền Tây Nam
Bộ. Có liên quan chặt chẽ với tình hình phát triển kinh tế, xã hội và đặc điểm riêng
của địa bàn. Sự thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội trong những năm gần đây đã
kéo theo sự thay đổi trong xã hội, trong đó có tội xâm phạm tình dục trẻ em. Để dự
báo tình hình tội xâm phạm tình dục trẻ em trong những năm tới cần dựa vào những
cơ sở sau đây:
113
Trong những năm gần đây, miền Tây Nam Bộ đã có sự phát triển mạnh mẽ
trên tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là sự hình thành nhiều khu công
nghiệp có đến 74 KCN và 214 CCN được đưa vào quy hoạch, xây dựng với tổng
diện tích hơn 42.000 ha, tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Long An, Kiên Giang, Cà
Mau, Cần Thơ, Hậu trang, Trà Vinh, Sóc trăng, và khoảng 26 cảng lớn nhỏ ở Cần
Thơ Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau. Bên cạnh những thành tựu đạt được về kinh tế
thì hàng loạt các vấn đề bức xúc đang đặt ra dưới sự tác động của mặt trái nền kinh
tế thị trường như: sự phân hóa giàu nghèo, giữa đồng bào dân tộc và người dân khu
vực thành thị, những bất công xã hội, sự suy thoái về đạo đức, lối sống, số người
tỉnh khác về lao động, học tập và làm việc ngày càng tăng lên, các loại hình dịch vụ
ở những khu công nghiệp, khu vực cảng biển ngày càng nhiều hơn, tình hình đó làm
cho công tác quản lý nhà nước và an ninh trật tự trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
cũng có nhiều vấn đề cần phải quan tâm.
Điểm nổi bật ở địa bàn miền Tây Nam Bộ là còn phần lớn một bộ phận người
có trình độ dân trí thấp, mù chữ và trình độ tiểu học còn chiếm tỉ lệ khá cao, có một bộ
phận dân cư chỉ có khả năng nói tiếng dân tộc và không nói được tiếng Việt nên việc
trao đổi cũng như học hỏi kinh nghiệm, tuyên truyền vận động pháp luật cũng còn
nhiều hạn chế, với tâm lý ngại tiếp xúc và chỉ dành thời gian cho lao động nên việc vận
động, giáo dục ý thức, tuyên truyền pháp luật đối với họ cũng khó khăn. Thêm vào đó,
vì hạn chế về học vấn nên không thể đưa họ vào làm việc ở các khu công nghiệp từ đó
đời sống thiếu thốn cộng với sự thiếu hiểu biết pháp luật cũng phần nào làm gia tăng
tình trạng tội phạm nói chung và tội xâm phạm tình dục nói riêng.
Sự chuyên môn hóa về nghề nghiệp, mối quan hệ mở rộng, điều kiện và cơ
hội việc làm gia tăng đã làm nảy sinh những vấn đề liên quan đến sinh hoạt gia
đình. Các cặp vợ chồng và các thành viên gia đình ít có thời gian sinh hoạt cùng
nhau. Và đặt biệt ở khu vực nông thôn địa bàn người dân tộc sinh sống, sự quan tâm
chăm sóc của gia đình đối với trẻ em rất hạn chế, vai trò giáo dục của gia đình đối
với trẻ không nhiều. Bên cạnh đó nhận thức của trẻ về tình cảm gia đình cũng thay
đổi, ly hôn chiếm tỷ lệ cao đối với các gia đình thuộc thế hệ trẻ hiện nay, sự đỗ vỡ
của gia đình đã làm cho trẻ em thiếu đi nơi nương tựa, sự chăm sóc, nuôi dưỡng
114
giáo dục của gia đình. Tâm tư tình cảm thay đổi từ đó trẻ em dễ dàng trở thành nạn
nhân của tội xâm phạm tình dục.
Sự phát triển công nghệ, cũng là một vấn nạn cho xã hội, từ việc các cơ quan
chức năng không thể kiểm soát các trang web đồi trụy đã dẫn đến hệ quả một bộ
phận lớn thanh thiếu niên đã bị kích thích ham muốn tình dục mạnh bởi những gì họ
đã xem và thậm chí họ còn bị nghiện, tình dục để thỏa mãn nhu cầu nên sẵn sàng
thực hiện hành vi phạm tội, và trẻ em là đối tượng bị hướng tới nhiều nhất bởi sự
ngây thơ thiếu hiểu biết của trẻ.
4.1.2 Nội dung dự báo tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở địa bàn
miền Tây Nam Bộ trong thời gian tới
- Về c ộ diễn bi n c a t nh h nh c c tội XPTDTE
Tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ xảy ra với mức
độ nghiêm trọng, với chiều hướng gia tăng cả số vụ án và số người phạm tội. Gia
tăng tỷ lệ đồng phạm và tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Tình hình các tội XPTDTE
sẽ tiếp tục gia tăng và có những diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn
nhằm che dấu hành vi phạm tội. Các tội XPTDTE ở miền Tây Nam Bộ không giới
hạn ở những địa phương nhất định, tuy nhiên cần chú trọng công tác phòng ngừa ở
những nơi có điều kiện khó khăn, trình độ dân trí thấp, thấp nghiệp, những khu vực
người dân thường xuyên tụ tập uống rượu hoặc các đoạn đường nông thôn vắng khu
vực sông nước. Dự báo trong thời gian tới tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ
em sẽ có dấu hiệu tăng lên, diễn biến phức tạp, phương thức, thủ đoạn phạm tội
ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao, hậu quả
tác hại ngày càng lớn và đặc biệt ở các Tội như: tội hiếp dâm trẻ em, tội giao cấu trẻ
em và tiếp đến là tội dâm ô trẻ em. Và đặc biệt các tội mua dâm trẻ em tuy luận án
không nằm trong nhóm nghiên cứu ề các tội xâm phạm tình dục, nhưng trong số
liệu thống kê có ít nhất 8 vụ án về hành vi mua dâm trẻ em, vì thế cần phải phòng
ngừa tội phạm này trong thời gian tới.
- Về Cơ cấu t nh chất c a t nh h nh c c tội XPTDTE
Về cơ cấu tội phạm, cơ cấu tình hình các tội XPTDTE trong những năm tới
sẽ có sự chuyển dịch. Dưới sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế khu vực Tây Nam
Bộ, sự phát triển quá nhanh ở các khu vực nông thôn, khu cụm công nghiệp, thành
115
phần người dân tập trung đông (bao gồm có lao động trong và ngoài nước), những
khu kinh tế mũi nhọn của vùng, sự du nhập và phát triển nhanh chóng của văn hóa
ngoại lai đã tác động mạnh mẽ vào người dân Nam Bộ, làm cho một bộ phận dân
cư, trong đó chiếm đa phần là thanh thiếu niên bị tha hóa, biến chất sẵn sàng thực
hiện hành vi phạm tội. Đối với các tội XPTDTE sẽ ngày càng nhiều bị cáo phạm tội
có quan hệ thân thiết, gần gũi, họ hàng với nạn nhân, thậm chí là con ruột, cháu ruột
của mình (vì đối tượng này dễ tiếp cận và dễ che dấu hành vi phạm tội). Với lối
sống buông thả, ham chơi, không chịu sự quản lý của gia đình, gia đình không có
phương pháp giáo dục đúng đắn dẫn đến nhiều trường hợp trẻ yêu sớm và có quan
hệ tình dục rất sớm, mặc dù có sự đồng thuận nhưng việc quan hệ bừa bãi ảnh
hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như sức khỏe của trẻ em. Có trường hợp
xảy ra ở Vĩnh Long, hai bé gái lớp 7 có cùng bạn trai lớp 8. Gia đình chỉ phát hiện
sự việc khi một bé có thai và một em bị bệnh về tình dục mặc dù gia đình nạn nhân
có đơn tố cáo hành vi xâm hại tình dục nạn nhân, nhưng pháp luật không thể xử lý
hành vi này, do cả hai đều chưa thành niên và pháp luật đều cần bảo vệ họ trước
hành vi xâm phạm tình dục. Theo thống kê của Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt
Nam, trung bình mỗi năm cả nước có khoảng 320.000 ca nạo phá thai ở độ tuổi
thành niên, trong đó khoảng 70% là HSSV. Mặc dù tỉ lệ nạo phá thai ở Việt Nam
trong 10 năm trở lại đây giảm, nhưng tỉ lệ nạo phá thai ở trẻ chưa thành niên lại có
dấu hiệu gia tăng – chiếm hơn 20% các trường hợp nạo phá thai. Điều này cho thấy
xu hướng yêu đương sớm, quan hệ sớm có chiều hướng gia tăng trong thời gian tới.
Từ đó dẫn đến việc chuyển dịch tội phạm “giao cấu với người từ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi” sẽ có tỷ lệ gia tăng trong thời gian tới.
Trong những năm qua TNXH và không có việc làm ổn định là một trong
những yếu tố tiêu cực tác động mạnh làm phát sinh tình hình các tội xâm phạm tình
dục trẻ em, trong đó phần lớn người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm tình dục
trẻ em sau khi uống rượu. Đây là điểm đặc thù của loại tội phạm này ở địa bàn miền
Tây Nam Bộ. Để khắc phục tình trạng trên thì các địa phương phải có giải pháp
hiệu quả làm giảm tỷ lệ người dân sử dụng rượu bia trên các địa bàn, vừa quản lý
trật tự trị an khu vực vừa phòng ngừa tội phạm xảy ra.
116
- Về quy c a tội phạ : Trong thời gian tới sẽ có các vụ án về xâm phạm
tình dục trẻ em có đồng phạm (hiếp dâm tập thể, dâm ô tâm thể và giao cấu tập thể).
Bởi thực trạng về giới trẻ sử dụng rượu bia, ma túy đá, thuốc lắc, dẫn đến hành vi
thác loạn tập thể, trong đó có cả hành vi xâm phạm tình dục tập thể.
- Về ch thể th c hi n tội phạ : tình hình tội phạm diễn ra trong thời gian
tới người phạm tội về xâm phạm tình dục trẻ em tập trung ở độ tuổi từ đủ 18 đến
dưới 30 tuổi, tiếp đến là độ tuổi người chưa thành niên từ đủ 14 đến chưa đủ 18
tuổi, người phạm tội ở độ tuổi này sẽ gia tăng trong thời gian tới.
- Về th oạn phạ tội:Với phương thức chính là lợi dụng lòng tin của trẻ
em và dùng vật chất dụ dỗ để thực hiện hành vi xâm phạm tình dục trẻ em, bên
cạnh đó người phạm tội còn lợi dụng sự quen biết và sự thiếu hiểu biết của trẻ để
thực hiện hành vi phạm tội và che dấu hành vi phạm tội của mình. Phương thức thủ
đoạn tuy không mới nhưng trong thời gian tới sẽ có những vụ đối tượng phạm tội sử
dụng vũ lực giết chết nạn nhân để thực hiện hành vi xâm phạm tình dục trẻ em hoặc
ngay sau khi thực hiện hành vi xâm phạm tình dục trẻ em đối tượng sẽ giết chết nạn
nhân để bịt đầu mối. Trong nhiều trường hợp có thể đối tượng sẽ cướp luôn tài sản của
nạn nhân. Ngoài ra, sẽ có những vụ thông qua việc mua bán dâm, mua bán trinh để
xâm phạm tình dục trẻ em.
- Về a b n v a iể g y n: Theo kết quả nghiên cứu thì Vĩnh Long,
Hậu Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Đồng Tháp, (đây là các địa
bàn có tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em có hệ số tiêu cực cao nhất) là nơi
có số vụ xâm hại tình dục trẻ em khá cao và là các địa bàn trọng điểm của loại tội
phạm này trong thời gian tới, với tình hình địa bàn phức tạp, vắng vẻ, vùng sâu,
vùng xa, người làm thuê đông, trình độ dân trí thấp, việc quản lý gặp nhiều khó
khăn. Đối tượng thực hiện hành vi phạm tội chủ yếu là ở trong nhà bị hại, điều này
đòi hỏi sự tăng cường công tác kiểm tra giám sát, ổn định trị an khu vực, trẻ em cần
phải có sự quan tâm chăm sóc đặc biệt từ gia đình và xã hội.
- Về ho n c nh gia nh: Người phạm các tội xâm hại tình dục trẻ em thường
có hoàn cảnh kinh tế, cuộc sống khó khăn, nhóm người có cuộc sống gia đình
không hạnh phúc như ly hôn hoặc mất vợ cũng chiếm tỷ lệ xâm phạm tình dục trẻ
em khá cao.
117
- Về Nạn nh n c a tội phạ : Qua thống kê cho thấy nạn nhân của loại tội
phạm này tập trung chủ yếu ở người có độ tuổi từ đủ 6 tuổi đến dưới 13 tuổi, kế đến
là độ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi và thấp nhất là độ tuổi dưới 6 tuổi. Trong thời gian
tới, trẻ em từ dưới 6 tuổi bị xâm hại tình dục có xu hướng tăng lên, nạn nhân vẫn
tập trung vào các em có hoàn cảnh gia đình không hòa thuận, khó khăn, trẻ em
không được quan tâm chăm sóc chu đáo từ gia đình, nhà trường và xã hội.
- Về D n tộc:Trong những năm qua, người phạm tội chủ yếu là người dân
tộc kinh, người phạm tội là người dân tộc khmer chiếm tương đối cao và người
phạm tội là dân tộc Hoa chiếm thấp nhất. Các tội xâm phạm tình dục trẻ em chủ yếu
tập trung ở những người mang dân tộc Kinh, với tuổi đời còn trẻ, chịu ảnh hưởng
của sự phát triển công nghệ, sự tác động của văn hóa phẩm đồi trụy, lối sống ích kỷ,
xem thường pháp luật.
4.2 Giải pháp về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
địa miền Tây Nam Bộ
4.2.1 Khái niệm phòng ngừa tội phạm và phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Phòng ngừa tội phạm phạm là một trong những nội dung nghiên cứu trọng tâm
và quan trọng của tội phạm học. Phòng ngừa tội phạm được nghiên cứu từ rất sớm
khi mà xã hội xuất hiện tư hữu và nhà nước đồng thời phát sinh tội phạm. Tuy nhiên
tư tưởng về phòng ngừa tội phạm bắt đầu được nói đến và nghiên cứu nhiều vào thế
kỷ XVII, XVIII, nhà triết học Montexke đã có quan điểm “Người u t giỏi c n
ph i quan t n phòng ngừa tội phạ hơn trừng phạt n ” [173 tr393].
Trong giáo trình Tội phạm học Xô Viết xuất bản lần đầu tiên vào năm 1966 đã
có định nghĩa về phòng ngừa tội phạm “ tổng h p c c bi n ph p c quan h t c
ộng ẫn nhau ư c ti n h nh bởi c c cơ quan nh nước v c c tổ ch c xã hội
nhằ ục ch ngăn chặn tội phạ v hạn ch oại trừ những nguy n nh n sinh ra
tội phạ ” [186 tr112]
Những công trình khoa học nêu trên đã tạo tiền đề cho sự phát triển của lý
luận về phòng ngừa tội phạm trong nước là bước tiếp nối trong công cuộc nghiên
cứu về phòng ngừa tội phạm sau này.
Khoa học về tội phạm học của Liên Xô trước đây, quan niệm về phòng ngừa
tội phạm trong hệ thống này được GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm dẫn ra như sau:
118
“Phòng ngừa tội phạ tổng h p c c bi n ph p c quan h t c ộng ẫn nhau
ư c ti n h nh bởi cơ quan nh nước v c c tổ ch c xã hội nhằ ục ch ngăn
chặn tội phạ v hạn ch oại trừ những nguy n nh n sinh ra tội phạ ” (Giáo
trình Tội phạm học năm 1966) hay còn được hiểu là “ ột phương ti n iều chỉnh
s ph t triển c c quan h xã hội nhằ ục ch hạn ch oại trừ c c nguy n nh n
tội phạ như s t c ộng ẫn nhau c a c c bi n ph p kinh t - xã hội gi o dục -
sư phạ tổ ch c v ph p u t như ột tổ h p c c bi n ph p kh c nhau c a
phòng ngừa tội phạ ”[150tr195]
Khái niệm này còn mang tính khái quát chưa thể hiện hết nội dung và ý nghĩa
của hoạt động phòng ngừa tội phạm, mục tiêu phòng ngừa tội phạm còn chưa mang
tính chủ động chỉ dừng ở việc “ngăn chặn hạn ch oại trừ” mục đích chỉ áp dụng
được đối với các tội phạm cụ thể và tội phạm đã được diễn ra. Tuy nhiên chưa khái
quát được việc phòng ngừa các tội phạm tiềm tàng và không để tội phạm được diễn
ra trên thực tế.
Ngoài ra một số công trình nghiên cứu khoa học về tội phạm học còn đưa ra
khái niệm về phòng ngừa tội phạm theo một cách hiểu khác cụ thể
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh cũng có khái niệm hợp lý khi cho rằng “Vi c
phòng ngừa t nh h nh tội phạ h th ng nhiều c ộ c c bi n ph p mang tính
chất Nh Nước xã hội v Nh nước – xã hội nhằ khắc phục c c nguy n nh n v
iều ki n c a tội phạ hoặc v hi u h a ( y u; hạn ch ) chúng v bằng c ch
gi v d n d n oại bỏ t nh h nh tội phạ ” [148 tr150].
Theo GS.TS. Đỗ Ngọc Quang chỉ ra phòng ngừa tội phạm theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, phòng ngừa tội phạm bao hàm, một mặt không để cho tội phạm
xảy ra, thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Mặt khác, bằng mọi cách để
ngăn chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp
phạm tội và cuối cùng là cải tạo, giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những
công dân có ích cho xã hội; theo nghĩa hẹp, “phòng ngừa tội phạ kh ng ể cho
tội phạ x y ra kh ng ể cho tội phạ g y h u qu cho xã hội kh ng ể cho
th nh vi n c a xã hội ph i ch u h nh phạt c a ph p u t ti t ki ư c những chi
ph c n thi t cho Nh nước trong c ng t c iều tra truy t xét xử v c i tạo gi o
dục người phạ tội”[106 tr8]
119
PGS.TS Phạm Văn Tỉnh thì cho rằng “Phòng ngừa tội phạ ư c hiểu
tổng thể c c bi n ph p do cơ quan tổ ch c v ọi c ng d n ti n h nh dưới s ãnh
ạo c a Đ ng c quyền nhằ t c ộng v o c c y u t ph t sinh tội phạ
cũng như oại trừ c c y u t n y v ục ch ngăn chặn v ti n tới ẩy ùi tội phạ
ra khỏi ời s ng xã hội” [120 tr59]
Theo quan điểm của tác giả về lý luận về phòng ngừa các tội xâm phạm tình
dục trẻ em tác giả đồng thuận cách hiểu phòng ngừa là “Vi c phòng ngừa t nh h nh
c c tội XPTDTE h th ng nhiều c ộ c c bi n ph p ang t nh chất Nh
Nước xã hội v Nh nước – xã hội nhằ khắc phục c c nguy n nh n v iều ki n
c a t nh h nh c c tội XPTDTE hoặc v hi u h a ( y u; hạn ch ) chúng v
bằng c ch gi v d n d n kiể so t t nh h nh tội phạ ”
4.2.2 Nội dung các giải pháp phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
địa bàn miền Tây Nam Bộ
4 2 2 1 C c gi i ph p về kinh t - xã hội tr n a b n iền T y Na Bộ
Với chủ trương phát triển kinh tế khu vực Tây Nam Bộ, Thủ tướng Chính
phủ đã ký Quyết định 417/QĐ-TTg ngày 13/4/2019 ban hành Chương trình hành
động tổng thể thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền
vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Chương trình hành
động tổng thể đề ra 6 nhóm nhiệm vụ và giải pháp cụ thể chính, bao gồm: Rà soát,
hoàn thiện và bổ sung hệ thống cơ chế, chính sách; Cập nhật và hệ thống hóa số
liệu, dữ liệu liên ngành, tăng cường điều tra cơ bản; Xây dựng quy hoạch và tổ chức
không gian lãnh thổ; Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý thích ứng với biến đổi khí hậu;
Đầu tư và phát triển hạ tầng; Phát triển và huy động nguồn lực. Xuất phát từ yêu
cầu phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Chính trị đã có Kết
luận số 28-KL/TW ngày 14-8-2012 “Về phương hướng nhi vụ gi i ph p ph t
triển kinh t - xã hội v b o an ninh qu c phòng vùng ng bằng s ng Cửu
Long thời kỳ 2011 - 2020”. Theo đó, phương hướng, mục tiêu phát triển đồng bằng
sông Cửu Long đến năm 2020 được xác định là: “X y d ng v ph t triển vùng ng
bằng s ng Cửu Long trở th nh vùng trọng iể s n xuất n ng nghi p h ng h a
theo hướng hi n ại ph t triển c ng nghi p ch bi n v c ng nghi p phụ tr cho
120
n ng nghi p với t c ộ tăng trưởng cao bền vững Ph t triển ạnh kinh t biển
x y d ng ng nh th y s n trở th nh ng nh kinh t ũi nhọn c a qu c gia c quy
ớn hi n ại s c cạnh tranh cao… T p trung hi n ại h a n ng nghi p n ng th n
Ph t triển c ng nghi p năng ư ng sinh h a c ng nghi p ch t c tr c ti p phục vụ
s n xuất n ng nghi p H nh th nh cơ cấu h th ng iều c ng p ngăn ặn
ng ph với nước biển d ng v t c ộng c a thư ng ngu n s ng M C ng…”.[6]
Từ những chính sách phát triển kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng cùng trang thiết
bị đáp ứng nhu cầu phát triển của vùng từ đó loại trừ nguyên nhân và điều kiện phát
sinh tội phạm, cũng như các tội XPTDTE nói riêng, miền Tây Nam Bộ cần triển
khai thực hiện các vấn đề như sau:
Th nhất, quy hoạch ại s n xuất n ng nghi th y s n theo vùng, theo quy mô
i n k t c c khu v c c a iền T y Na Bộ
Các địa phương cần tạo môi trường thuận lợi để thiết lập và tăng cường các
mối liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với người dân,
giữa người dân với người dân, nhằm tổ chức, hình thành mối liên kết giữa sản xuất,
chế biến và bao tiêu sản phẩm chặt chẽ hơn, nhân rộng mô hình “Cánh đồng lớn”,
các vùng chuyên canh, nâng cao năng lực tổ chức và quản lý của nông dân. Để tái
cơ cấu ngành lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long, cần chú trọng giải quyết tốt vấn đề
thu nhập của người trồng lúa.
Th hai, th c hi n c ng t c x a i gi nghèo v ph t triển nền kinh t trọng
iể c a T y Na Bộ
Đây là một thách thức không chỉ riêng của các tỉnh miền Tây Nam Bộ mà còn
là vấn đề chung của cả nước. Quá trình giảm nghèo của miền Tây Nam Bộ được đặt
trong bối cảnh là sự phát triển của cả nước, việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế
của vùng vừa nâng cao thu nhập và tạo việc làm cho người dân nhằm thoát khỏi đói
nghèo là một trong những thách thức lớn mà các Tỉnh đã đề ra và là mục tiêu nhiệm
vụ cần phải đạt được. Nhà nước nói chung và các tỉnh miền Tây Nam Bộ nói riêng
cần thực hiện đồng bộ các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế để tạo công ăn
việc làm, nâng cao, thu nhập, giảm đói nghèo. Chú trọng phát triển các nhóm ngành
công nghiệp chế biến nông sản để gia tăng giá trị cho 3 nhóm ngành nông nghiệp
121
mũi nhọn của vùng là lúa gạo, thủy sản và trái cây. Đồng thời phát triển các lĩnh
vực dịch vụ phù hợp với lợi thế của vùng, đặc biệt là dịch vụ du lịch sông nước cần
phát triển ở Bến Tre, Cần Thơ, Hậu Giang. Huy động nguồn lực xã hội trên tinh
thần xã hội hóa trong giải quyết vấn đề nghèo đối với các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng,
Bến Tre, Bạc Liêu. Tăng cường nguồn lực xã hội trong hỗ trợ dạy nghề cho người
nghèo, hỗ trợ xuất khẩu lao động, hỗ trợ máy móc, vật tư cho sản xuất ở các tỉnh
Long An, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Tiền Giang, Cà Mau. Để sử dụng nguồn lực
giảm nghèo hiệu quả cần lồng ghép các dự án giảm nghèo ở các địa phương để hạn
chế sự trùng lắp trong đối tượng hưởng thụ và gia tăng sự phối hợp đồng bộ của các
chương trình quốc gia tại địa phương.
Th ba, mở rộng u tư ph t triển kinh t v gi i quy t nhu c u vi c cho
người ao ộng
Nhà nước với vai trò quản lí vĩ mô nền kinh tế cần có các chiến lược phát triển
kinh tế đi liền với các chiến lược phát triển kinh tế lúa nước đặc thù của vùng, phát
huy thế mạnh để tạo công ăn việc làm cho người lao động, hạn chế tình trạng người
dân bỏ đất, bỏ vườn để tập trung về các thành phố lớn. Tây Nam Bộ cần phải có
chính sách thu hút và giới thiệu việc làm cho người dân để tận dụng khai thác tiềm
lực sẵn có tại địa phương. Bên cạnh đó Tây Nam Bộ cũng cần phát triển mạnh mẽ
hơn các loại hình đào tạo nghề, đa dạng các ngành, nghề sản xuất, khai thác. Vấn đề
tạo thêm việc làm đang đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách vĩ mô để giải
phóng mọi năng lực sẵn có của nền kinh tế mà đi đầu là nguồn nhân lực. Nhà nước
cần sớm có chính sách và cơ chế thoả đáng để tăng cường hoạt động của các cơ sở
đào tạo nghề cũng như chính sách tạo việc làm để có thể giải phóng được nhiều nhất
các tiềm lực kinh tế, nâng cao chất lượng nguồn lao động thì mới có thể hạn chế và
xoá bỏ nguyên nhân của tội phạm có nguồn gốc từ thất nghiệp, nghèo đói, nên gắn
quá trình đào tạo nghề cho người nghèo với tạo việc làm tại chỗ để tạo động lực thu
hút người nghèo học nghề. Trong đào tạo nghề cần chú trọng đào tạo nghề theo nhu
cầu của xã hội để tránh lệnh pha trong cung ứng nguồn lực. Bên cạnh đó cần gắn
kết hoạt động đào tạo với xuất khẩu lao động để nâng cao thu nhập cho người
nghèo.Bên cạnh đó, công tác động viên, khuyến khích con em của đồng bào dân
122
tộc, trẻ em ở vùng sâu, vùng xa đi học hoặc giảm tỷ lệ trẻ em bỏ học của vùng cũng
cần được quan tâm.
Th tư, t p trung ngu n c gi i quy t c c nhu c u cơ b n cho người d n:
C c nhu c u ặc bi t i n nước sạch nh ở ường i c u ph cho ng b o
d n tộc v người nghèo khu v c n ng th n v cư d n ở vùng s ng nước
Nhà nước cần đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng ở khu vực miền Tây Nam Bộ,
chú trọng đầu tư vào hệ thống giao thông đường thủy và các dịch vụ hạ tầng cho
nông nghiệp, nông thôn. Giải quyết được vấn đề nhân lực và cơ sở hạ tầng vùng
Tây Nam Bộ thì mới mở ra nhiều cơ hội thu hút và kêu gọi đầu tư, tạo việc làm và
đặc biệt là trong phát triển các ngành phi nông nghiệp gắn với lợi thế đặc thù của
vùng.
Th nă , ph t triển kinh t song song với vi c ng ph bi n ổi kh h u c a
vùng T y Na Bộ c n ph i x y d ng chương tr nh h nh ộng cụ thể trong vi c ng
phó với bi n ổi kh h u nhằ gi thiểu r i ro trong s n xuất n ng nghi p v ngư
nghi p như hạn h n ng p ụt v ngu n nước b nhiễ ặn. Với thời tiết ngày càng
phức tạp và không còn theo qui luật tự nhiên đang là nguy cơ đe dọa cho kinh tế khu
vực. Vì thế Tây Nam Bộ cần qui hoạch và phân bố lại hệ thống thủy lợi nội đồng ở các
tỉnh hợp lý để tiết kiệm nước ngọt đáp ứng được thời tiết trong mùa khô thiếu nước
sinh hoạt và tưới tiêu. Thử nghiệm trên diện rộng giống lúa chịu mặn ở những nơi
không giải quyết được thủy lợi như Bạc Liêu, Cà Mau, Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh,
đồng thời xây dựng mô hình sản xuất để người dân có thể nhanh chóng thích nghi
những biến đổi khí hậu. Thực hiện các dự án xây dựng đê các tuyến bờ sông nhằm
chống nạn sụt lở đất các tỉnh Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cà Mau, An Giang, Hậu Giang.
Phát triển các hình thức bảo hiểm trong nông nghiệp để giảm thiểu rủi ro trong sản xuất
của nông dân. Khi sinh kế của người dân và người nghèo vùng Tây Nam Bộ còn gắn
với sản xuất nông nghiệp, cần chú trọng công tác dự báo và nghiên cứu thị trường để
cung ứng sản phẩm nông nghiệp có chất lượng và thu nhập cao. Tăng cường mối liên
kết vùng giữa các tỉnh trong vùng Tây Nam Bộ cũng như mối liên kết giữa Tây Nam
Bộ với các khu vực khác để phát triển thị trường hàng hóa nông sản và các hoạt động
công nghiệp chế biến để gia tăng giá trị sản phẩm, tạo việc làm, nâng cao cao thu nhập
cho người nghèo nói riêng và người dân vùng Tây Nam Bộ.
123
Th sáu, n ng cao tr nh ộ qu n kinh t v ph t triển ngu n nh n c c a vùng
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của vùng thông qua phát huy vai trò đầu
tàu của Cần Thơ, Trà Vinh, Vĩnh Long, Tiền Giang trong đào tạo nhân lực, đặc biệt
là nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế trọng điểm của khu vực, ứng phó với diễn
biến khí hậu và hội nhập kinh tế quốc tế. Nền kinh tế thị trường nước ta được xây
dựng theo hình mẫu nền kinh tế thị trường hiện đại. Điều đó đòi hỏi trình độ quản lí
kinh tế phải tương xứng với trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự không
phù hợp giữa trình độ quản lí kinh tế với trình độ phát triển của nền kinh tế sẽ tạo ra
nhiều kẽ hở để người phạm tội lợi dụng. Việc thực hiện các chính sách hoàn thuế
giá trị gia tăng hay chính sách hỗ trợ lãi suất đã cho chúng ta thấy hậu quả của sự
không phù hợp đó. Nâng cao trình độ quản lí kinh tế trước hết đòi hỏi cần hoàn
thiện khung pháp luật về kinh tế đồng bộ để đảm bảo sự vận hành tốt của nền kinh
tế. Cần có các chiến lược ngắn hạn và dài hạn trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ
quản lí kinh tế có đầy đủ đức tài để hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ của mình. Có
như vậy mới đảm bảo loại trừ các sơ hở trong quản lí kinh tế, ngăn ngừa các nguyên
nhân làm phát sinh tội phạm trong đó có các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Th b y, vi c ph t triển kinh t - xã hội ph i k t h p gi i quy t t t c c y u t
ti u c c ph t sinh từ qu tr nh th h a. Việc phát triển kinh tế - xã hội luôn đi
kèm với quá trình đô thị hóa. Quá trình đô thị hóa những năm gần đây diễn ra mạnh
mẽ dẫn đến tình trạng người lao động ở khu vực nông thôn bị mất ruộng đồng và rơi
vào tình trạng không có việc làm hoặc thiếu việc làm. Tình trạng không có việc làm,
thiếu việc làm kết hợp với những khó khăn về kinh tế, dẫn tới lang thang và tệ nạn
có thể trở thành nguyên nhân khiến một số người thực hiện hành vi XPTDTE. Vì
vậy, chính quyền địa phương và đặc biệt các chủ đầu tư, doanh nghiệp khi thu hồi
đất của người nông dân cần có chính sách và biện pháp tạo việc làm cho người lao
động, đặc biệt là những người bị thu hồi đất sản xuất để giảm bớt tình trạng không
có việc làm, thiếu việc làm vốn đã rất trầm trọng ở khu vực nông thôn hiện nay.
4 2 2 2 Gi i ph p về m i trường a ý – t nhi n T y Na Bộ
Theo kết quả nghiên cứu về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
địa bàn miền Tây Nam Bộ thống kê từ năm 2007 – 2018 cho thấy các tỉnh Vĩnh
Long, Hậu Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng là những địa bàn có hệ
số tiêu cực cao nhất khu vực, xếp theo sau là Đồng Tháp, Bạc Liêu, Kiên Giang,
124
Bến Tre, An Giang, Tiền Giang, Long An. Có thể khẳng định yếu tố về địa lý cũng
là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tình hình các tội XPTDTE ở địa bàn
miền Tây Nam Bộ. Các tỉnh như: Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Hậu Giang, Cà
Mau gắn với địa hình sông nước, kênh rạch, nhà cửa dân cư cũng cách xa nhau, đều
đặc biệt ở những khu vực này khá nhiều khu nhà tạm bợ. Qua nghiên cứu cho thấy
“do ặc thù c a vùng với ùa nước nổi kéo d i v hi n tư ng ng p ũ n n nh ở
c a c c hộ vùng ng bằng s ng Cửu Long vẫn còn rất nhiều nh tạ Nh ki n c
chỉ chi 11% tổng s hộ nh b n ki n c chi 51 4% nh thi u ki n c 20 8%
nh tạ chi 16 8% Đ y cũng vùng c tỷ nh ki n c thấp nhất c nước v
tỷ nh tạ cao nhất c nước” [63]. Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long ... đây là các
tỉnh có đông người dân tộc Khơme sinh sống, đời sống kinh tế khó khăn, gia đình
đông con, trình độ dân trí không cao, kiến thức phòng ngừa tội phạm xâm hại tình
dục trẻ em chưa được quan tâm đúng mức. Để phòng ngừa các tội xâm phạm tình
dục trẻ em các Tỉnh này phải có những hoạt động cụ thể như sau:
Th nhất Ở khu vực nông thôn sâu các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre,
Đồng Tháp, Cà Mau, An Giang ... cần tập trung xây dựng đường xá, cầu đường đi
lại cho người dân, giúp người dân đi lại thuận tiện vừa có thể nối kết được người
dân ở các khu vực.
Th hai Cần có quỹ vốn để xây dựng nhà tình thương, hỗ trợ xây dựng nhà
ở cho người nghèo, người dân tộc ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long,
Đồng Tháp, An Giang ... Điều chỉnh mức hỗ trợ từ ngân sách cho việc hỗ trợ về nhà
ở cho hộ nghèo để đảm bảo được chất theo tiêu chuẩn theo Quyết định
167/2008/QĐ-TTg, các Tỉnh xem xét hỗ trợ cho những hộ nghèo đang sống trên các
kênh, rạch, thuyền, không có đất nền (khá phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long;
Gắn hỗ trợ nhà ở với công tác di dân để đưa người dân ra khỏi những địa bàn có
nhiều rủi ro, nhất là rủi ro về tính mạng. Người dân có nơi ở an toàn từ đó hạn chế
tình hình các tội XPTDTE.
Th ba Cần một đội ngũ tuyên truyền pháp luật đến những vùng nông thôn
sâu, vùng đồng bào dân tộc, tuyên truyền về công tác văn hóa, công tác phòng ngừa
tội phạm nói chung và phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng.
Tăng cường công tác truyền thông về pháp lý để người dân được hiểu và phòng
125
ngừa tội phạm, đặc biệt chú trọng việc tuyên truyền bằng tiếng dân tộc ở các khu
vực có đông người dân tộc Khmer sinh sống để người dân biết, thực hiện nâng cao
nhân thức về pháp luật. Đa dạng hóa các hình thức trợ giúp pháp lý phù hợp với
điều kiện của các địa phương, phù hợp phong tục, văn hóa của từng dân tộc.
Th tư Ở những khu vực có hệ số tiêu cực cao về các tội xâm phạm tình dục
trẻ em, cần phải có biện pháp nghiệp vụ riêng, tăng cường kiểm tra giám sát ở các
khu vực này không chỉ thời gian ban đêm mà cả ban ngày khi mà người dân đi làm
và chủ yếu chỉ có trẻ em ở nhà.
Th nă Tăng cường công tác vận động cha mẹ khuyến khích đưa trẻ em
đến Trường, tránh bỏ học do những điều kiện khó khăn về đời sống, đi lại ở khu
vực nông thôn. Hạn chế tình trạng cha mẹ cho trẻ em nghỉ học và tham gia lao động
quá sớm không phù hợp với lứa tuổi. Vì mục tiêu giảm nghèo bền vững cho tương
lai thì cần xem xét xây dựng chính sách toàn diện hỗ trợ trẻ em nghèo, bảo đảm
mục tiêu trẻ em được đến trường, nâng cao dân trí, góp phần giảm nghèo trong
tương lai.
4.2.2.3 Giải pháp về đời sống – văn hóa- tính cách của người dân miền Tây Nam Bộ
Tây Nam Bộ có 12 tỉnh và 01 thành phố mặc dù có nét tương đồng về điều
kiện kinh tế, dân cư, con người, văn hóa miền Tây Nam Bộ. Tuy nhiên ở mỗi khu
vực khác nhau sự phát triển kinh tế cũng khác nhau, thành phần dân cư cũng có
phần khác nhau, vì thế đời sống - văn hóa ở mỗi khu vực này cũng mang màu sắc
khá nhau. Do vậy chính sách quản lý của các tỉnh ở địa bàn miền Tây Nam Bộ cũng
có phần khác nhau.
Th nhất Ở các địa phương như Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, Đồng Tháp,
Bến Tre, Bạc Liêu, Vĩnh Long... nơi có tập trung nhiều thành phần dân tộc Kinh,
Khmer, Hoa, Chăm sinh sống, truyền thống văn hóa lễ hội hàng năm rất đa dạng và
hầu như diễn ra quanh năm, những địa phương này cần có những hoạt động quản lý
an ninh thiết thực gắn liền với lễ hội truyền thống, để lễ hội vừa là môi trường văn
hóa lành mạnh vừa lồng ghép tuyên truyền giáo dục lối sống cho người dân, khuyến
khích người dân chuyên tâm canh tác, hạn chế bia rượu, phát triển loại hình văn hóa
gắn kết người dân, đoàn kết xây dựng và bảo vệ môi trường văn hóa, bảo vệ con
người và bảo vệ trẻ em. Đưa nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công
126
dân, bảo vệ trẻ em trước nguy cơ xâm hại tình dục vào các hoạt động giáo dục của
xã hội thông qua các hoạt động gắn liền với lễ hội.
Th hai ở những địa phương này phát triển mạnh văn hóa tâm linh tôn giáo
như : Sóc Trăng, An Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Vĩnh Long những nơi
này khá đông người dân theo đạo Phật. Người dân tộc Kinh phần lớn theo Phật giáo
Đại thừa và người dân tộc Khmer theo Phật giáo Tiểu thừa, với số lượng chùa,
miếu, tịnh thất, Am thờ khá lớn và như phần lớn người dân khu vực miền Tây Nam
Bộ thường xuyên đến nơi này vào ngày rằm, ngày cúng, vía, người dân chú trọng
việc nghe thuyết giảng. Một số địa phương như Trà Vinh, Sóc Trăng đã chú trọng
đưa môn pháp luật đại cương vào chương trình giảng dạy Trung cấp phật học, các
tăng ni tham gia học tập từ đó trong quá trình thuyết giảng cũng đưa pháp luật đến
các phật tử và người dân. Hướng sự tín ngưỡng của người dân không xa rời pháp
luật. Đây cũng là một kênh tuyên truyền pháp luật hữu hiệu góp phần cho công cuộc
phòng ngừa tội phạm cũng như phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Bên canh đó, ở miền Tây Nam Bộ thì tín ngưỡng gắn liền với đời sống người
dân do vậy ở những ngày rằm, ngày cúng phật, ngày hội vía Bà... không chỉ là
người dân địa phương mà còn rất nhiều người dân trên khắp các nơi đỗ về các tỉnh
này. Sự tín ngưỡng và văn hóa tâm linh cũng trở thành điểm khác biệt với các địa
phương khác, bên cạnh sự thuận lợi trong phát triển du lịch, kinh doanh dịch vụ
nhưng cũng có những hạn chế trong việc quản lý trật tự của khu vực, vì thế ở những
địa bàn này cần phải có sự quan tâm triệt của Nhà nước, của lãnh đạo Tỉnh khắc
phục những tình trạng lợi dụng lễ hội văn hóa, lợi dụng tôn giáo, lợi dụng đức tin để
thực hiện hành vi phạm tội, trong đó có các tội XPTDTE. Điển hình như vụ án của
Huỳnh Minh Toàn (pháp danh Thích Phước Hoàng, ngụ xã Tịnh Thới, Thành phố
Cao Lãnh, Đồng Tháp) ngày 25/2/2020, TAND quận Ninh Kiều. Thành phố Cần
Thơ đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, tuyên phạt bị cáo 6 năm tù về Tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi.
Đối với thành phố Cần Thơ, Kiên Giang, Long An, Tiền Giang, Cà Mau. Hầu
hết các tỉnh, thành phố này đều có sự phát triển kinh tế nổi trội và là những địa bàn
tiềm năng cho phát triển kinh tế của vùng. Do đó ảnh hưởng của sự du nhập về văn
hóa, lối sống thể hiện rất rõ rệt. Kiên Giang nổi bật về du lịch biển, Cần Thơ, Hậu
127
Giang phát triển mạnh kinh tế và du lịch miệt vườn. Cần tăng cường mô hình phát
triển du lịch gắn với việc tuyên truyền văn hóa bản sắc dân tộc và khẩu hiệu nhằm
tuyên truyền pháp luật. Bên cạnh đó các tỉnh cần tăng cường phòng ngừa các tội
xâm phạm tình dục trẻ em thông qua hoạt động du lịch tại địa phương. Quản lý,
kiểm tra, giám sát các cơ sở kinh doanh dịch vụ nhà nghỉ, khách sạn để tăng cường
phòng ngừa tội phạm.
Th ba, các địa phương trên địa bàn miền Tây Nam Bộ cần phát huy giá trị
truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây
dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha
mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương
yêu nhau. Xây dựng mỗi trường học phải thực sự là một trung tâm văn hóa giáo
dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống; giáo dục
truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ. Xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư,
các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt chuẩn thực chất
về văn hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến
bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu
quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào "To n d n o n k t x y d ng ời s ng
văn hóa".
Th tư, đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật phải nắm
vững pháp luật nhất là pháp luật bảo vệ quyền bất khả xâm phạm tình dục của trẻ
em, của người chưa thành niên; có trình độ chuyên môn cao trong hoạt động tuyên
truyền, đặc biệt là những đặc điểm tâm lý ở mỗi đối tượng cụ thể. Ngoài ra, giáo
dục nâng cao phẩm chất cán bộ, đảng viên đang là yêu cầu cần thiết nhằm tăng
cường sức mạnh của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đảm bảo loại trừ các tư tưởng, lối
sống không lành mạnh, hình thành văn hoá công sở văn minh cũng chính là loại trừ
các nguyên nhân làm phát sinh tội phạm. Mỗi cán bộ, đảng viên có trách nhiệm
thực hiện và tuyên truyền, vận động gia đình thực hiện pháp luật liên quan đến công
tác phòng, chống tội phạm. Nâng cao tuyên truyền giáo dục trong mọi tầng lớp nhân
dân, loại bỏ những tư tưởng, nhân cách, phẩm chất lệch lạc trong các tầng lớp dân
cư cũng sẽ hạn chế và loại trừ được các nguy cơ nạn nhân hoá của nhiều người. Nếu
việc tuyên truyền giáo dục huy động được sức mạnh toàn dân thì hiệu quả phòng
128
ngừa tội phạm sẽ vô cùng lớn. Ngoài ra, tăng cường và đổi mới công tác cảm hóa,
giáo dục, giúp đỡ những người phạm tội được đặc xá, tha tù, người mắc tệ nạn xã
hội tại cộng đồng và tại các trại giam, cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, trường giáo
dưỡng với những hình thức phù hợp. Quan tâm hỗ trợ những người lầm lỗi đã cải
tạo tốt để sớm ổn định cuộc sống, tái hòa nhập với cộng đồng.
Đẩy mạnh phát triển phong trào thể dục, thể thao, xã hội hóa các hoạt động
văn hóa thể thao nhằm thu hút quần chúng vào các hoạt động văn hóa lành mạnh,
bổ ích, nâng cao thể lực, sức khỏe, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo
đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mặt khác, cần kiên
quyết đấu tranh bài trừ các hủ tục lạc hậu, các thói hư tật xấu còn tồn tại trong các
cộng đồng xã hội, ngăn chặn có hiệu quả các văn hóa phẩm độc hại xâm nhập từ
bên ngoài, đấu tranh phê phán, chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực làm
ảnh hưởng xấu đến môi trường văn hóa lành mạnh trên địa bàn.
4 2 2 4 Gi i ph p về m i trường gia nh – gi o dục
Đ i với i trường gia nh:
Th nhất, qua nghiên cứu cho thấy, những bị cáo phạm tội XPTDTE trên địa
bàn miền Tây Nam Bộ chủ yếu phải sống trong các gia đình có cha mẹ người thân
không gương mẫu, thường xuyên vi phạm pháp luật, gia đình có cấu trúc không
hoàn hảo, kinh tế khó khăn hoặc được gia đình giáo dục không đúng cách. Để xây
dựng gia đình văn hóa, bền vững và mẫu mực trước tiên gia đình đó phải được xây
dựng trên cơ sở của hôn nhân tiến bộ, tuân thủ pháp luật, kết hôn tự nguyện, một vợ
một chồng. Hôn nhân tiến bộ là cơ sở để đảm bảo gia đình bền vững, hạnh phúc,
mọi người yêu thương và chung thủy với nhau. Miền Tây Nam Bộ đang đứng trước
thực trạng tỷ lệ vợ chồng ly hôn cao, mặc dù tình trạng ly hôn xảy ra ở khắp các
nơi, nhưng ở miền Tây Nam Bộ thì lại cao hơn các nơi khác, lý giải vấn đề này cho
thấy sự cộng hưởng từ môi trường sống từ những yếu tố thuận lợi của thiên nhiên,
từ tính cách đặc trưng của vùng miền, người miền Tây sống phóng khoáng không
thích gò bó, không cam chịu những áp lực của đời sống, mặc dù đây vừa là ưu điểm
nhưng đồng thời cũng là khuyết điểm, sự nối kết hôn nhân không cao, giá trị gia
đình truyền thống chưa được coi trọng. Việc giải quyết nhanh chóng những vụ án ly
hôn bên cạnh những ưu điểm trong công tác xử lý nhanh các vụ án của Tòa án
129
nhưng cũng có những hạn chế cho xã hội, do vậy trong tiếp nhận những vụ án ly
hôn, tòa án cần tăng cường công tác hòa giải hơn nữa để các cặp vợ chồng muốn ly
hôn có cơ hội trở lại đoàn tụ, cùng nhau xây dựng gia đình và nuôi dạy con cái, giúp
các bên nhận thức giá trị gia đình, vai trò của cha mẹ đối với con để vợ chồng nhận
thức được trách nhiệm của trong việc chăm sóc giáo dục con các.
Th hai, lồng ghép và tổ chức tuyên truyền pháp luật, hôn nhân gia đình và
cách nuôi dạy con cái trong các cuộc họp tổ dân phố, hội phụ nữ, họp sinh hoạt chi
bộ tại địa phương, mục tiêu đề ra cho mỗi gia đình là hôn nhân tiến bộ, gia đình văn
hóa, bền vững, mẫu mực, các thành viên trong gia đình phải gắn kết với nhau, cùng
yêu thương, chia sẻ đùm bọc, cùng có trách nhiệm với nhau; mỗi cá nhân là thành
viên trong gia đình phải biết tự mình điều tiết cảm xúc, kiềm chế và kiểm soát hành
vi để tránh những lời nói hành động xúc phạm lẫn nhau.Trong gia đình, ông bà, cha
mẹ, anh chị luôn có tác động rất lớn đến sự hình thành nhân cách, phẩm chất của
đứa trẻ. Phương hướng trong các năm tới cần đề ra mục tiêu gia đình và trách nhiệm
của gia đình trong việc giáo dục con cái và bảo vệ con cái tránh nguy cơ bị xâm hại
tình dục.
Đ i với i trường nh trường: để thực hiện được vai trò quan trọng của
giáo dục các nhà trường trên địa bàn miền Tây Nam Bộ cần thực hiện một số biện
pháp cụ thể sau: Nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp,
lối sống văn hóa của người giáo viên. Đề cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ giáo
viên, tấm gương đạo đức của người thầy, xây dựng hình ảnh mẫu mực của người
thầy trong tâm hồn của học sinh. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của thầy cô giáo.
Thầy cô giáo phải đảm bảo luôn nắm bắt kịp thời những tâm tư, nguyện vọng của
học sinh, nắm bắt mọi diễn biến tâm lý của học sinh nhất là đối với những HSSV cá
biệt để kịp thời có biện pháp giáo dục uốn nắn phù hợp và có sự phối hợp cần thiết
với gia đình và xã hội trong việc giáo dục các em.
Tăng cường giáo dục toàn diện cho HSSV. Bên cạnh việc chú trọng vào
giảng dạy kiến thức văn hóa thì nhà trường cũng cần phải quan tâm đến việc giáo
dục phẩm chất đạo đức, giáo dục pháp luật và kỹ năng sống cho các em. Ngoài ra,
việc giáo dục, trang bị kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường cũng là hoạt
động cần thiết, để giúp các em ứng phó kịp thời với những hoàn cảnh bất lợi, nhất là
khi bị xâm phạm tình dục. Cần giáo dục, trang bị cho các em các kỹ năng, như:
130
thoát hiểm khi bị tấn công, cưỡng bức; xử lý các tình huống bất lợi thường gặp như:
khi đi đường vắng, đêm tối, ở nhà một mình, tiếp xúc với người lạ, người khác
giới…; đặc biệt, cần chú ý phổ biến, giáo dục, hướng dẫn các em những kiến thức
về giới tính, ý thức cảnh giác, về cách thức tố giác, thông tin cho người lớn, các cơ
quan chức năng những hiện tượng, hành vi liên quan đến xâm hại tình dục (như dụ
dỗ, lừa phỉnh, đe dọa, lợi dụng nghề nghiệp để có hành vi dâm ô…).Nhà trường cần
phối hợp với các tổ chức Đoàn, Đội, ban đại diện cha, mẹ học sinh tổ chức các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, giao lưu, sinh hoạt tập thể … để học sinh
có nhiều điều kiện gặp gỡ vui chơi giải trí cùng nhau sau những giờ học trên lớp,
tạo môi trường thân thiện, lành mạnh; chủ động kiến nghị với chính quyền địa
phương trong việc quản lý các hoạt động dịch vụ văn hóa, các hàng quán chung
quanh trường, ngăn chặn văn hóa phẩm độc hại và các tệ nạn xã hội xâm nhập vào
nhà trường, ngăn chặn bạo lực học đường…
4.2.2.5 Các giải pháp về hoạt động quản lý Nhà nước trên địa bàn Miền Tây Nam Bộ
* Trong hoạt ộng kiể soát t nạn xã hội:
Miền Tây Nam Bộ cần tăng cường kiểm soát các tệ nạn xã hội TNXH nhất là
tình trạng nghiện phim ảnh sex, nghiện rượu bia và mại dâm. Các ngành, các cấp
đặc biệt là ngành văn hóa thông tin, an ninh văn hóa tư tưởng, quản lý thị trường,
truyền thông... phải kiểm soát chặt chẽ các trang web đồi trụy, các khu vực bán
phim, ảnh, sách, báo, băng nhạc, băng hình có nội dung khiêu dâm, kích dục; quản
lý chặt chẽ khu vực nhà nghỉ, khách sạn tránh trường hợp lợi dụng trẻ em, tổ chức
quay phim khiêu dâm diễn ra trong thời gian tới. Cần kiên quyết ngăn chặn một
cách triệt để nguồn cung cấp các loại sản phẩm có nội dung đồi trụy trong nước
cũng như từ nước ngoài vào nước ta. Đây là biện pháp vừa mang tính cấp bách, vừa
mang tính chiến lược lâu dài nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của các sản phẩm này đối
với xã hội. Đối với nạn nghiện rượu bia, cần giao cho các địa phương chủ trì phối
hợp với các tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị một mặt tăng cường hoạt
động tuyên truyền bằng các hình thức sinh động, hiệu quả để người dân thấy rõ tác
hại của việc uống rượu bia. Đối với nạn mại dâm, để tình hình mại dâm được lắng
dịu Ủy ban Quốc gia phòng chống các TNXH cần tiếp tục xây dựng các chương
trình trọng điểm quốc gia về phòng, chống mại dâm cũng như tăng cường vai trò
131
quản lý nhà nước từ cấp cơ sở. Xử lý nghiêm minh những trường hợp có vi phạm,
thậm chí đề nghị khởi tố hình sự nếu có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự. Cần tạo
ra dư luận của quần chúng đấu tranh mạnh mẽ với các hiện tượng tiêu cực xã hội và
các TNXH. khắc phục tình trạng thờ ơ, vô trách nhiệm, không giám tố giác, không
giám lên án hành vi TNXH, hành vi sản xuất, lưu hành, tàng trữ các sản phẩm văn hóa
độc hại lưu hành trong cộng đồng dân cư. Phát động quần chúng thu gom các sản phẩm
văn hóa có nội dung đồi trụy; tố giác các cá nhân, tổ chức lưu hành, phát tán các sản
phẩm văn hóa có nội dung đồi trụy; tố giác các hành vi TNXH.
* Trong hoạt ộng tuy n truyền phổ bi n gi o dục ph p u t : Với xu hướng
hội nhập thế giới, bên cạnh những yếu tố tích cực, luôn kèm theo những tác động
tiêu cực, những ảnh hưởng từ sự du nhập lối sống phương Tây đã tác động đến một
bộ phận dân cư làm hình thành những phẩm chất tâm lí lệch lạc như sự xuống cấp
về đạo đức, coi trọng đồng tiền, sự hám lợi, làm giàu bất chính, thói quen ăn chơi
hưởng thụ, lười lao động... Vì vậy, vấn đề vô cùng quan trọng là phải luôn tăng
cường hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục. Các cấp Ủy đảng, chính quyền từ
tỉnh đến cơ sở phải quan tâm hơn nữa trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên
truyền phòng, chống tội phạm, xác định công tác này là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm, thường xuyên của mình. Việc tuyên truyền giáo dục phải được thực hiện
thường xuyên, rộng rãi có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, cơ
quan, chính quyền các cấp cũng như các tổ chức Đảng, các tổ chức xã hội, xã hội
nghề nghiệp. Việc tuyên truyền, giáo dục cần tập trung vào việc giáo dục để hình
thành nhân cách con người hiện đại, có phẩm chất, lối sống tốt. Tôn trọng tuyệt đối
các lợi ích công cộng, lợi ích của người khác. Tuyên truyền giáo dục để hình thành
nếp sống kỉ luật, không xâm hại đến lợi ích của người khác. Việc tuyên truyền giáo
dục cũng cần tập trung giáo dục đạo đức trong sản xuất kinh doanh, coi trọng chữ
tín, coi trọng tính mạng sức khoẻ con người, loại bỏ các tư tưởng làm giàu bất
chính, sản xuất buôn bán bất chính, bất hợp pháp, hình thành nên trong mỗi người
thói quen cư xử, làm việc và kinh doanh văn hoá. Việc tuyên truyền giáo dục chỉ
thật sự phát huy tác dụng nếu chúng ta có những chiến lược phù hợp, huy động
được sức mạnh của đông đảo các tầng lớp dân cư, các cơ quan tổ chức xã hội tham
gia một cách nhiệt tình và có trách nhiệm. Kinh tế càng phát triển thì đòi hỏi con
132
người càng phải có trách nhiệm với xã hội, với người khác và với chính bản thân
mình. Chúng ta đã có những cuộc vận động nói không với mại dâm nhất là mại dâm
trẻ em hay việc trao các giải thưởng cho các sản phẩm vì sức khoẻ cộng đồng. Bên
cạnh đó cần hướng con người vào các hoạt động có ích như ca nhạc, thể thao, du
lịch... Việc tuyên truyền, giáo dục không chỉ nhằm vào một số đối tượng mà cần
nhằm vào nhiều đối tượng nhất là lớp trẻ để hình thành trong họ sự thay đổi cơ bản
về văn hoá ứng xử, văn hoá kinh doanh. Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí
đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Chú trọng công tác quản
lý các loại hình thông tin trên mạng Internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ
cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên. Đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động và cơ chế đầu tư theo hướng ưu tiên các cơ quan báo chí, truyền thông
chủ lực. Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng
phục vụ chủ yếu; nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học, góp phần xây dựng
nền văn hóa và con người Việt Nam.
* Trong hoạt ộng qu n ý chung c a c c cơ quan c thẩ quyền:
Trước thực trạng về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em đang diễn ra
trên địa bàn miền Tây Nam Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh trên địa bàn miền Tây
Nam Bộ đã yêu cầu các cấp, các ngành hữu quan thực hiện quản lý Nhà nước về trẻ
em theo thẩm quyền một cách hiệu quả, đảm bảo thực hiện quyền trẻ em phù hợp
với đặc điểm, điều kiện của địa phương, tích cực phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý tội
phạm về xâm hại trẻ em trên địa bàn. Do vậy công tác phòng ngừa các tội xâm
phạm tình dục trẻ em phải được triển khai và thực hiện một cách đồng bộ ở các khu
vực và có hiệu. Các tỉnh tăng cường triễn khai thực hiện như: Kế hoạch 137/KH-
UBND năm 2018 thực hiện Dự án “Đấu tranh phòng ch ng tội phạ x hại trẻ
e v người chưa th nh ni n vi phạ ph p u t v phòng ch ng bạo c gia nh
ua b n người” giai đoạn 2018-2020 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang; Ủy ban nhân
dân tình Trà Vinh ban hành Quyết định số 1655/QĐ – UBND ngày 16 tháng 8 năm
2018 thực hiện kế hoạch “Đấu tranh phòng ch ng tội phạ x hại trẻ e v
người chưa th nh ni n vi phạ ph p u t v phòng ch ng bạo c gia nh ua
bán người”. Đối với Tỉnh Vĩnh Long thì Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định
số 1090/QĐ-UBND ngày 13 tháng 5 năm 2019 về việc Ban hành kế hoạch “Đấu
133
tranh phòng ch ng tội phạ x hại trẻ e v người chưa th nh ni n vi phạ
ph p u t v phòng ch ng bạo c gia nh ua b n người”. Đối với tỉnh Cà mau
thì Ủy ban nhân tỉnh ban hành Quyết định số 1165/QĐ – UBND ngày 25 tháng 7
năm 2019 Ban hành kế hoạch triển khai, thực hiện đề án này. Ngoài ra các tỉnh
thành ở địa bàn miền tây Nam Bộ cũng triển khai thực hiện chương trỉnh “Đấu
tranh phòng ch ng tội phạ x hại trẻ e v người chưa th nh ni n vi phạ
ph p u t v phòng ch ng bạo c gia nh ua b n người”. Tuy nhiên với định
hướng và mục tiêu bảo vệ trẻ em trước tình hình mới theo Quyết định số 1863/QĐ –
TTg ngày 23.12.2019 về việc phê duyệt “K hoạch h nh ộng qu c gia phòng
ch ng bạo c x hại trẻ e giai oạn 2020 – 2025“ với mục tiêu để ra phấn đấu
100% gia đình có trẻ em được cung cấp kiến thức, kỹ năng về bảo vệ trẻ em bằng
các hình thức khác nhau; 100% học sinh được hướng dẫn, giáo dục kiến thức, kỹ
năng sống và kỹ năng tự bảo vệ trước các hành vi bạo lực, xâm hại tình dục với nội
dung phù hợp với lứa tuổi; phấn đấu 100% cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em các
cấp, cộng tác viên, tình nguyện viên được nâng cao năng lực về bảo vệ trẻ em; dịch
vụ bảo vệ trẻ em, đặc biệt là dịch vụ bảo vệ trẻ em trong trường hợp khẩn cấp được
củng cố và phát triển ở tất cả các tỉnh, thành phố. Hiện tại các tỉnh, thành phố trên
địa bàn miền Tây Nam Bộ chưa ban hành kế hoạch hành động mới triển khai thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra theo kế hoạch hành động quốc gia phòng, chống
bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2020 – 2025. Do vậy các tỉnh, thành phố trên địa
bàn miền Tây Nam Bộ cần nhanh chóng triển khai thực hiện và ban hành kế hoạch
theo mục tiêu đã được đề ra từ đó có những giải pháp thiết thực cho công cuộc
phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em theo đặc điểm của từng địa bàn.
Ngoài ra các cơ quan nhà nước, đoàn thể xã hội cần tích cực tăng cường cảnh
báo của cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ trẻ em nói chung và phòng chống
vấn nạn xâm hại tình dục trẻ em nói riêng. Các Trung tâm công tác xã hội cấp tỉnh
và một số địa phương đã triển khai mô hình cảnh báo về nạn xâm hại tình dục trẻ
em. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và truyền thông về bảo vệ trẻ em: truyền
thông, phổ biến các quy định về bảo vệ trẻ em trong Luật trẻ em và các văn bản
pháp luật có liên quan để Luật trẻ em và các quy định được triển khai thực hiện một
cách hiệu quả, hiệu lực từ ngày 01/06/2017. Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ
năng bảo vệ trẻ em, đặc biệt là phòng ngừa xâm hại tình dục và bạo lực đối với trẻ
134
em cho cha mẹ, các thành viên trong gia đình, thầy cô giáo, người chăm sóc trẻ,
người trực tiếp làm việc với trẻ em. Tăng cường truyền thông về Đường dây tư vấn
và hỗ trợ trẻ em 18001567 để mọi trẻ em, cá nhân, cơ quan, tổ chức liên hệ miễn
phí khi có nhu cầu tìm kiếm thông tin, thông báo, phối hợp với Cục trẻ em và
Đường dây trong việc tư vấn, can thiệp, hỗ trợ trẻ em bị xâm hại. Thiết lập đầu mối
tiếp cận thông tin, thông báo, tố giác; xác lập cơ chế phối hợp phòng ngừa, xử lý vụ
việc xâm hại tình dục trẻ em tại địa phương
Trong giai đoạn 2020 – 2025, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ
Văn hóa, Thể thao và du lịch cần triển khai kế hoạch hành động quốc gia phòng,
chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2020 – 2025 ở một số địa phương. Về công
tác tổ chức bộ máy, bố trí nhân lực cho hoạt động cảnh báo của cơ quan có thẩm
quyền, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cần đề nghị Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố xây dựng và thực hiện Đề án thành lập tổ chức phối hợp liên ngành
về trẻ em theo quy định tại khoản 2 điều 94 Luật trẻ em đặc biệt ở cấp xã, theo quy
định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 90 Luật trẻ em để đến năm 2025 tất cả các xã,
phường, thị trấn đều có cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em. Có thể nói việc tăng
cường hoạt động cảnh báo của các cơ quan có thẩm quyền đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong việc phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em tạo cho các em được
sống trong một môi trường an toàn, lành mạnh để các em có thể phát triển một cách
tốt nhất.
4 2 2 6 Gi i ph p về phòng ngừa nghi p vụ c c tội x phạ t nh dục trẻ e
Trong công tác phòng ngừa các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
cần phải thực hiện các biện pháp như sau
Th nhất Tổ chức tổng kết công tác điều tra trên toàn địa bàn miền Tây Nam
Bộ, rà soát các đối tượng, lập hồ sơ quản lý các đối tượng có liên quan đến tội phạm
xâm hại trẻ em
Nội dung cần thực hiện:
+ Xác định địa bàn trọng điểm xảy ra các tội XPTDTE
+ Thống kê và tổng hợp các nội dung: số vụ phạm tội xảy ra, đối tượng gây
án, số trẻ em bị xâm hại, đặc điểm của tội phạm, nạn nhân, tình huống phạm tội…
+ Xác định tội danh trong nhóm tội XHTDTE
135
Th hai Để chủ động phòng ngừa thì các địa bàn hành chính, các khu dân
cư, tổ dân phố phải có sự kiểm tra, rà soát, từ đó phân loại đối tượng và lập hồ sơ
quản lý đối tượng, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, các đối tượng có tiền án, tiền sự.
+ Những đối tượng có khả năng, điều kiện phạm các tội XPTDTE : cơ sở có
sử dụng lao động trẻ em, kinh doanh karaoke, quán nhậu, café sân vườn, kinh doanh
nhà trọ…
+ Những đối tượng có biểu hiện nghi vấn liên quan đến hoạt động xâm phạm
tình dục trẻ em cần tập trung những đối tượng từng có tiền án, tiền sự về hành vi
phạm tội XPTDTE.
+ Những đối tượng có nghi vấn phạm tội cụ thể cần điều tra, xác minh để
làm rõ hành vi phạm tội hay không phạm tội.
Th ba Tăng cường công tác điều tra tội phạm và phòng ngừa các tội
XPTDTE trên địa bàn
Thông qua hoạt động điều tra, phát hiện tội phạm, giúp cho công tác phòng
ngừa tội phạm ngày càng phát huy hiệu quả và hạn chế những thiếu sót, việc phòng
ngừa tội phạm mang tính chủ động hơn. Địa bàn cần xây dựng đường dây nóng, xử
lý kịp thời thông tin tố giác, tăng cường công tác tuần tra trên các địa bàn, các khu
vực nông thôn. Góp phần giữ vững an toàn, trị an khu vực ở các địa bàn vừa tăng
cường phòng ngừa các tội XPTDTE.
4.2 2 7 Những gi i ph p chung về c ng t c tổ ch c th c hi n c c hoạt ộng phòng
ngừa t nh h nh tội x phạ t nh dục trẻ e tr n a b n iền T y Na Bộ
Nhà nước ta đã và đang tích cực, chủ động trong việc phòng ngừa xâm hại
tình dục trẻ em, bảo vệ trẻ em trên mọi phương diện và hạn chế đến mức tối đa
những hậu quả không mong muốn xảy ra. Minh chứng cho điều đó, chúng ta có thể
thấy được rằng hiện nay các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đang ra sức thực
hiện rất nhiều giải pháp khác nhau nhằm phòng ngừa các vấn nạn xâm hại tình dục
trẻ em.
- Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương củng cố dịch vụ bảo vệ trẻ em: rà soát, đánh
giá hoạt động, quy hoạch các cơ sở cùng cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em công lập và
ngoài công lập theo quy định tại mục 2, chương IV Luật trẻ em. Đẩy mạnh việc
136
thành lập các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em chuyên biệt, Trung tâm công
tác xã hội hoặc Trung tâm công tác xã hội trẻ em cấp tỉnh hoặc cấp huyện. Phát
triển các mô hình, điểm tư vấn bảo vệ trẻ em tại cộng đồng, điểm tham vấn bảo
vệ trẻ em trong trường học. Khuyến khích các tổ chức xã hội, cá nhân tham gia
cung cấp dịch vụ, đăng kí hoạt động cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em theo
quy định của pháp luật.
- Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề nghị phân công cụ thể trách
nhiệm chủ trì, trách nhiệm phối hợp phòng ngừa, xử lý các vụ việc xâm hại trẻ em
cho các sở, cơ quan, đơn vị, UBND các cấp. Thực hiện quy trình hỗ trợ, can thiệp
đối với trẻ em bị xâm hại, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được quy định tại các văn
bản quy phạm pháp luật. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi xâm hại trẻ em;
xử lý nghiêm các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, cá nhân che giấu, không thông
báo, không tố cáo vụ việc, hành vi xâm hại trẻ em…
- Ngoài ra Nhà nước ta cũng đang xây dựng và hoàn thiện các quy trình, tiêu
chuẩn về bảo vệ trẻ em, tránh các trường hợp trẻ em bị xâm hại. Thống nhất hoạt
động phối hợp liên ngành để xác minh, điều tra, xử lý từng trường hợp trẻ em bị
xâm hại, trong đó quy định rõ các thủ tục, quy trình và trách nhiệm phòng ngừa,
phát hiện, tố giác, trợ giúp và giải quyết các trường hợp trẻ em bị xâm hại của các
cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình, cá nhân và trẻ em.
Chủ động xác minh, nắm tình hình, diễn biến hoạt động của tội phạm xâm
hại tỉnh dục trẻ em. Có kế hoạch phòng ngừa, ngăn chặn và quản lý chặt chẽ số
lượng thanh thiếu niên chậm tiến, có tiền án, tiền sự, các băng nhóm trên địa bàn là
những đối tượng có nguy cơ phạm tội xâm phạm tình dục. Đồng thời nâng cao hiệu
quả công tác điều tra, xử lý tội phạm xâm hại tình dục trẻ em, kết hợp chặt chẽ với
công tác đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật trong thanh thiếu niên, học sinh
và vận động quần chúng nhân dân tố giác kịp thời các hành vi xâm hại tình dục trẻ
em. Đối với người phạm tội cần xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật, kiên
quyết đấu tranh không để lọt tội phạm. Tổ chức tốt các phiên tòa xét xử lưu động
đối với các vụ án xâm hại tình dục trẻ em nhưng phải đảm bảo thuần phong mỹ tục.
Qua đó nhằm tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và nâng cao trách
nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội trong công tác
137
phòng chống xâm hại tình dục trẻ em, từng bước ngăn chặn, giảm dần và tiến tới
giảm cơ bản nguy cơ trẻ em trở thành nạn nhân của các tội xâm phạm tình dục.
Đồng thời nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ, công tác viên, tình nguyện
viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em; phát huy vai trò của trẻ em trong việc
thực hiện quyền cơ bản của trẻ em theo quy định của pháp luật hiện hành.
4 2 2 8 C c gi i ph p về ch nh s ch ph p u t v hoạt ộng th c thi ph p u t c a cơ
quan ti n h nh t tụng v người ti n h nh t tụng
* Gi i ph p ho n thi n c c quy nh c a Bộ u t h nh s về c c tội x phạ
t nh dục trẻ e
Thực hiện theo tinh thần của Nghị quyết số 06/2019/NQ - HĐTP của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 01/10/2019 “Hướng dẫn áp dụng
một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự
và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi”
Nghị quyết đã hướng dẫn cụ thể các vấn đề như: tình tiết để định tội danh,
định khung hình phạt, những trường hợp loại trừ truy cứu tránh nhiệm hình sự,
những nguyên tắc xử lý hành vi phạm tội xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Nghị
quyết đã làm rõ hành vi dâm ô (khoản 1 điều 146 BLHS 2015 SĐBS 2017) đã liệt
kê cụ thể năm hành vi được xem là dâm ô như sau: là hành vi của những người
cùng giới hoặc khác giới
Thứ 1, dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (cọ xát, chà xát…với bộ
phận sinh dục, bộ phân nhạy cạm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi.
Thứ 2, dùng bộ phận khác trên cơ thể ( tay, chân, miệng… để tiếp xúc vuốt ve, sờ,
bóp, cấu véo, hôn) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi.
Thứ 3, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp
xúc với bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi.
Thứ 4, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp
xúc với bộ phận nhạy cảm của người phạm tội hoặc của người khác.
Thứ 5, các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục
người dưới 16 tuổi
Với hướng dẫn của Nghị quyết thì các hành vi như hôn vào miệng, cổ, vai, gáy, đùi
…. của người dưới 16 tuổi cũng là căn cứ để xác định hành vi dâm ô. Quy định trên
138
cũng đã giải quyết những thắc mắc trong dư luận thời gian vừa qua: điển hình như
vụ án Nguyễn Khắc Thủy (77 tuổi) ở chung cư Lakeside, phường Nguyễn An Ninh,
TP Vũng Tàu) xâm hại tình dục cháu N; vụ Cao Mạnh Hùng (Đông Hưng, Thái
Bình), từng là cán bộ ngân hàng xâm hại tình dục bé gái 8 tuổi ở phố Tân Mai, quận
Hoàng Mai, Hà Nội; vụ Nguyễn Văn Ba ở huyện Tam Bình, Vĩnh Long dâm ô với
chính con gái ruột; vụ Nguyễn Hữu Linh dâm ô bé gái 8 tuổi trong thang máy tại
chung cư Galaxy 9, đường Nguyễn Khoái, P.1, Quận 4. TPHCM.
Th 1 mặc dù Nghị quyết có hướng dẫn không xử lý hình sự với người trực
tiếp chăm sóc, giáo dục người dưới 10 tuổi, người bệnh, người tàn tật (như cha, mẹ,
giáo viên mầm non tắm rửa, vệ sinh cho trẻ) hay người làm công việc khám chữa
bệnh, chăm sóc y tế, người cấp cứu, sơ cứu người bị nạn... Nhưng thực tiễn cho
thấy hành vi (ông bà hôn cháu, cậu chú, cô, dì hôn cháu, có thể hôn ở những khu
vực nhạy cảm vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội dâm ô theo điều 146
BLHS 2015 SĐBS 2017, với quy định này thực tiễn cho thấy tình hình tội phạm ẩn
đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi sẽ có tỷ lệ cao bởi vì không phải mọi trường
hợp phạm tội đều có những biểu hiện kể trên, việc xác định hành vi dâm ô thường
khó hơn các hành vi xâm phạm tình dục khác, chứng cứ ít và gây khó khăn cho
công tác điều tra. Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao cũng xác định dâm ô
(khoản 1 Điều 146 BLHS) là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới
tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh
dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính
chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục. Thực tiễn giải quyết sẽ có những
khó khăn trong việc xác định chính xác hành vi này có nhầm mục đích xâm phạm
tình dục hay không xâm phạm tình dục (trẻ em chủ động ngồi trên đùi, trên bụng
người khác, trẻ em bị tác động bởi việc cha mẹ dạy và có những lời khai về hành vi
nựng nịu và cho rằng đó là hành vi xâm hại tình dục vì vậy việc điều tra hành vi
cũng là vấn đề khó khăn cho công tác thực tiễn khi xác định. Do vậy cần hoàn thiện
cách hiểu hướng dẫn giải quyết thống nhất về hành vi dụ dỗ trẻ em để đạt mục đích
phạm tội và hành vi hôn, hít … vào bộ phận khác của trẻ em nhưng không coi là hành
vi dâm ô, hành vi khác có mục đích tình dục mà không nhằm quan hệ tình dục để việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội tránh oan sai trong xét xử.
139
Th 2, hành vi tấn công tình dục không nhằm mục đích giao cấu: những hành
vi sử dụng bạo lực tấn công hay tác động vào những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể
của phụ nữ và trẻ em (nam, nữ) nhằm thỏa mãn sở thích về tình dục (như cắn, đấm,
đá, cấu... vào ngực, mông hoặc bộ phận sinh dục của nạn nhân). Hành vi tấn công
này chưa đến mức gây ra tỷ lệ thương tích nhất định hoặc người phạm tội là người
dưới 16 tuổi thì không thể xử lý hình sự. Đều này dẫn đến những bất cập trên thực
tiễn đó là khi có hành vi tấn công tình dục xảy ra đối với trẻ em lại không thể xử lý
hình sự hoặc trường hợp bị xử lý hình sự nhưng với tội danh cố ý gây thương tích khi
hành vi tấn công gây ra tỷ lệ thương tích từ 11% trở lên, đều này chưa phù hợp với mục
đích và hành vi của người phạm tội. Thiết nghĩ cần nghiên cứu và bổ sung thêm hành
vi tấn công tình dục là một tội phạm riêng trong nhóm tội xâm phạm tình dục.
Th 3, hiện nay pháp luật của nước ta xử phạt về hành vi xâm hại tình dục trẻ
em tương đối nặng so với các nước vì đây là nhóm tội nghiêm trọng. Mức án thấp
nhất là 6 tháng và cao nhất là tử hình. Tuy nhiên, loại tội phạm này ngày càng xảy
ra nhiều vì lối sống lệch lạc về tình dục ngày càng trở nên phổ biến. Quan trọng
nhất là nhận thức của xã hội về vấn đề này còn thấp, cả người phạm tội và người bị
hại, nên hiện nay loại tội phạm này chưa bị phát hiện nhiều. Đa số nạn nhân bị xâm
hại tình dục là các em lang thang nên không khởi tố những người đã phạm tội. Còn
nạn nhân thuộc gia đình có giáo dục lại không dám tố cáo vì bị đe dọa, thường giấu
giếm do mặc cảm và lo ngại ảnh hưởng đến danh dự. Vì vậy, mặc dù luật pháp xử
phạt với mức án cao nhưng thái độ của nạn nhân không quyết liệt nên không đủ
cảnh báo xã hội và răn đe nhóm tội phạm này.
* Gi i ph p hoạt ộng th c thi ph p u t c a cơ quan ti n h nh t tụng v
người ti n h nh t tụng
Ở miền Tây Nam Bộ trong thời gian qua công tác điều tra thu thập chứng cứ,
chứng minh và kỹ năng giải quyết của cán bộ trực tiếp xử lý của các tội xâm phạm
tình dục trẻ em a cũng có những hạn chế và khó khăn, điều này cũng ảnh hướng đến
việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người phạm tội do vậy kiến nghị tăng cường
thực hiện các công tác như sau: Nhanh chóng và kịp thời thu giữ dấu vết tại hiện
trường, công tác này cần phải thực hiện tỉ mỉ, toàn diện để đánh giá lời khai của bị
hại, cần phối hợp với Bác sĩ phụ sản, chuyên gia tâm lý, cán bộ được đào tạo
140
chuyên môn về chăm sóc, giáo dục trẻ em để xử lý thông tin ban đầu, thăm khám,
thu thập dấu vết, vật chứng có liên quan trên thân thể nạn nhân. Bên cạnh đó, xây
dựng cơ chế nâng cao trách nhiệm, trình độ của đội ngũ cán bộ Cơ quan điều tra,
Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thông qua các lớp tập huấn, đào đạo
- bồi dưỡng chuyên môn. Bảo đảm để đội ngũ điều tra, truy tố, xét xử luôn được
đào tạo, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ, yên tâm công tác, phát huy tinh thần
công tâm, trách nhiệm và tinh thần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ban hành qui chế phối hợp, tổ chức họp rút kinh nghiệm
về kỹ năng chuyên môn giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các
vụ án về hiếp dâm trẻ em. Thường xuyên tổng kết, đánh giá việc áp dụng pháp luật
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hiếp dâm trẻ em, thông qua các
Hội nghị chuyên đề, tham luận nghiên cứu khoa học điển hình như: Hội th o th c
trạng v gi i ph p n ng cao chất ư ng c ng t c ấu tranh phòng ch ng tội phạ
x hại t nh dục trẻ e tr n a b n th nh ph H Ch Minh, đã triển khai thực
hiện vì thế các tỉnh miền Tây Nam Bộ cần phải có những buổi hội thảo, tập huấn
công tác này như các tỉnh, thành phố khác, từ đó đề xuất, tổng hợp ý kiến, kiến nghị
đến các cơ quan hữu quan khác quy định bổ sung, sửa đổi những quy định trong
luật hình sự nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn hiện nay. Hiện nay, chính sách khen
thưởng, bồi dưỡng đối với cán bộ công tác trong các ngành tư pháp hình sự chưa
được coi trọng đúng mức, chế độ tiền lương, chế độ thưởng và các chế độ phụ cấp
khác còn thấp nên có thể dẫn đến những tiêu cực trong quá trình giải quyết vụ án,
không đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng, khách quan của vụ án.
Ngoài ra khi tiến hình tố tụng về các vụ án xâm hại tình dục trẻ em thì mọi
thông tin, thông báo, tố giác trong quá trình tiếp nhận, xác minh phải được bảo mật
vì lợi ích, sự an toàn của người cung cấp thông tin và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em
có liên quan. Quá trình cung cấp, trao đổi thông tin phục vụ cho việc bảo vệ trẻ em
giữa nơi tiếp nhận thông tin và cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, chức năng
bảo vệ trẻ em phải được bảo mật. Thông tin, báo cáo định kỳ, đột xuất của cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền, chức năng bảo vệ trẻ em phải xác định mức độ bảo mật và
phạm vi cung cấp thông tin, báo cáo. Bên cạnh đó thông tin bí mật đời sống riêng
tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá
141
nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá
nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá
nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán; địa
chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em;
thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em đều phải được giữ bí mật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên môi trường mạng phải phối
hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức, cá nhân khác trong việc bảo
đảm an toàn thông tin của trẻ em trên môi trường mạng; ngăn chặn thông tin gây hại
cho trẻ em theo quy định của pháp luật về an toàn thông tin mạng. Doanh nghiệp
kinh doanh, cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải có biện pháp sử dụng dịch
vụ bảo vệ người sử dụng là trẻ em. Doanh nghiệp kinh doanh, cung cấp dịch vụ trên
môi trường mạng phải cảnh báo hoặc gỡ bỏ thông tin, dịch vụ gây hại cho trẻ em,
thông tin, dịch vụ giả mạo, xuyên tạc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ
em. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên môi trường mạng phải có
công cụ kiểm soát thời gian, bảo vệ trẻ em khỏi tình trạng lạm dụng, nghiện trò chơi
điện tử. Tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân hoạt động, cung cấp dịch vụ trên môi
trường mạng phải xây dựng hoặc sử dụng, phổ biến phần mềm, các công cụ bảo vệ
trẻ em trên môi trường mạng. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên
môi trường mạng và cá nhân khi đưa thông tin bí mật đời sống riêng tư của trẻ em
lên mạng phải có sự đồng ý của cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và trẻ em từ đủ 7
tuổi trở lên; có trách nhiệm bảo đảm an toàn thông tin của trẻ em. Cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải sử dụng các biện pháp,
công cụ bảo đảm an toàn về thông tin bí mật đời sống riêng tư của trẻ em, các thông
điệp cảnh báo nguy cơ khi trẻ em cung cấp, thay đổi thông tin bí mật đời sống riêng
tư của trẻ em. Cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em, trẻ em từ đủ 07 tuổi trở lên và cơ
quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ trẻ em theo quy định của pháp luật có
quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ và cá nhân tham gia hoạt động
trên môi trường mạng xóa bỏ các thông tin bí mật đời sống riêng tư của trẻ em để
bảo đảm sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em.
4.2.3 Những giải pháp tăng cường và bảo vệ trẻ em - nạn nhân của các tội xâm
phạm tình dục trẻ em.
Nhìn nhận lại các vụ án xâm hại tình dục trẻ em cho thấy đối tượng thực hiện
hành vi đa số có mối quan hệ quen biết với gia đình nạn nhân. Đó là hàng xóm, bạn
142
bè của bố mẹ, anh em, thậm chí là bố đẻ, bố dượng. Chính vì thế mà không mấy gia
đình cảnh giác, đề phòng trước những đối tượng này. Nạn nhân thường là các cháu
nhỏ không có đầy đủ khả năng tự bảo vệ mình trước sự xâm hại của các đối tượng
cũng như trước pháp luật. Nhiều cháu vì bị đối tượng đe dọa nên đã giấu gia đình và
mặc nhiên trở thành nạn nhân của các hành vi xâm hại tình dục trong một khoảng
thời gian rất dài. Vì vậy cha mẹ cần thường xuyên, quan tâm, chia sẻ với con cái và
cha mẹ cũng cần phải dạy cho con biết cách phòng vệ trước những đối tượng có ý
định thực hiện hành vi đồi bại. Bởi khả năng nhận thức và tự bảo vệ của trẻ em còn
nhiều hạn chế nên các em chính là đối tượng có nguy cơ bị lạm dụng, xâm hại tình
dục cao nhất.
Theo Tiến sĩ Vũ Thu Hương - Khoa giáo dục Tiểu học, Đại học Sư phạm Hà
Nội, đã đưa một số quy tắc giúp trẻ em tránh được nguy cơ bị xâm hại tình dục.
Trong đó quy tắc về 4 vòng tròn, với bố mẹ thì được ôm; ông bà anh chị em được
khoác tay, những người họ hàng được nắm tay, người lạ thi xua tay. Đây là quy tắc
khá đơn giản để cha mẹ trao đổi và giáo dục cho con biết tự bảo vệ bản thân, tránh
bị bắt cóc hoặc bị xâm hại tình dục.
Vi c u ti n c a Gia nh dạy trẻ: Biết những “chỗ riêng tư” trên cơ thể;
biết từ chối các hành động mà trẻ thấy khó chịu, sờ mó chỗ riêng tư, hay đưa dương
vật vào mồm; không bao giờ được đi vào chỗ kín, nơi vắng vẻ với một ai nếu không
có sự đồng ý của bố mẹ., biết hô to khi cần sự giúp đỡ hay để thoát nạn, biết không
phải lúc nào cũng nghe lời người lớn, tập cho trẻ thói quen kể cho phụ huynh nghe
khi có bất cứ ai làm điều gì khó chịu hay nguy hiểm cho trẻ...
Những dấu hiệu nghi ngờ trẻ bị xâm hại tình dục: Thấy vết thương, vết bầm
khó giải thích ở miệng, vùng kín của trẻ; trẻ sợ hãi một người hoặc một nơi đặc biệt
nào đó, phản ứng không bình thường khi trẻ được hỏi chúng có tiếp xúc đụng chạm
với một người nào đó không; trẻ đi tiêu, tiểu khó, ra máu; thấy vệt máu trên quần áo
trẻ; trẻ ít tắm, sợ tắm sợ thay đồ; trẻ khó ngủ, gặp ác mộng và hay tè dầm; trẻ hay vẽ
những hình vẽ liên quan đến hành vi tình dục; bỗng hiểu rõ bộ phận sinh dục, các
hoạt động tình dục cũng như các từ ngữ liên qua. Tuy nhiên, những biện pháp nêu
trên chỉ là những lời khuyên chung nhất. Cốt lõi của vấn đề là bố mẹ phải làm sao tạo
được một môi trường tin cậy lẫn nhau, quan tâm đến con cái, bình tĩnh trao đổi với trẻ,
và đặc biệt cho trẻ biết trẻ sẽ không bị bất cứ hình phạt nào khi kể ra với bạn. Điều
143
quan trọng nhất là sự nhạy cảm và tinh tế của phụ huynh cảm nhận được những bất
thường ở đứa con yêu quý của mình.
Bên cạnh đó, môi trường xã hội ngày càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến trẻ
em bị xâm hại tình dục. Những ấn phẩm đồi trụy, internet, phim ảnh ngoài luồng có
tính chất bạo lực, khiêu dâm... cha mẹ nên quản lý và quan tâm con cái trong việc
trẻ tiếp cận xử dụng trang thiết bị máy tính, điện thoại, truyền hình. Các bậc phụ
huynh nên dạy cho trẻ những kỹ năng phòng tránh xâm hại ngay từ khi trẻ còn nhỏ
để có thể hạn chế tối đa nguy cơ trẻ bị lạm dụng. Tùy theo độ tuổi và sự hiểu biết
của các em mà cha mẹ có thể dạy cho các em những kỹ năng dù đơn giản nhất
nhưng vẫn có thể tạo được hiệu quả bất ngờ giúp các bé tự bảo vệ mình. Chính vì
vậy để bảo vệ cho các em khỏi nguy cơ bị xâm hại, các bậc cha mẹ cần giáo dục
cho con em mình nâng cao ý thức cảnh giác, tăng cường bảo vệ danh dự, nhân
phẩm của cá nhân như:
Dạy trẻ về giới tính và các vùng nhạy cảm. Đó là kỹ năng đầu nên, là nền
móng cơ bản nhất để bảo vệ các em mà cha mẹ phải dạy cho trẻ kiến thức về giới
tính và các vùng nhạy cảm trên cơ thể. Nhiều trường hợp các em bị xâm hại không
thể tự nhận biết được sự nghiêm trọng của vấn đề do còn quá non nớt và thiếu hiểu
biết. Cha mẹ cần dạy cho trẻ nhận biết rằng các vùng nhạy cảm trên cơ thể chỉ có
thể là của riêng của các bé và dạy cho trẻ biết cách bảo vệ cơ thể trước sự động
chạm của người khác nếu trẻ không thích.
Cha mẹ nên dạy cho con mình là không cho người khác chạm vào vùng nhạy
cảm. Các bậc phụ huynh nên dạy cho trẻ biết cách bảo vệ cơ thể, không cho bất kì
người nào chạm vào vùng nhạy cảm hay có những hành động ôm ấp, vuốt ve nếu
trẻ không thích hoặc cảm thấy khó chịu. Vùng nhạy cảm là của riêng bé, kể cả bố
mẹ cũng không được chạm vào nếu không có sự đồng ý của trẻ. Hãy dạy cho trẻ
biết cách từ chối và phản ứng lại nếu có người cố tình đụng chạm vào cơ thể khiến
các em thấy khó chịu. Giống như việc dạy cho trẻ tự bảo vệ cơ thể của mình thì các bậc
huynh cũng nên dạy cho trẻ chú ý không nên chạm vào vùng nhạy cảm của người khác,
nhất là với những người khác giới. Đặc biệt không nên tò mò về cơ thể của người khác.
Dạy cho trẻ tránh xa người lạ mặt, không bắt chuyện hay làm quen với bất kì
ai mà các em gặp trên đường nếu không có sự đồng ý của cha mẹ. Đồng thời, cha
144
mẹ nên cảnh báo cho trẻ những nguy hiểm có thể gặp khi bé chơi một mình với
người lạ mặt hoặc đi đến những nơi vắng vẻ, những nơi tăm tối, kín đáo. Khi trẻ ở
nhà một mình, cần dạy trẻ lưu ý an toàn và tuyệt đối không được cho bất kì người lạ mặt
nào vào nhà. Cũng nên chú ý không cho trẻ đi chơi một mình dù là chỉ sang nhà hàng
xóm hay đến nhà người quen mà không có sự theo dõi của bố mẹ. Trong trường hợp có
kẻ xấu đe dọa ép buộc trẻ phải giữ bí mật thì trẻ nên thông báo cho cha mẹ và người
thân biết. Ngoài ra, khi các em không thích tiếp xúc với bất kì người nào, các em
cũng nên chia sẻ cho cha mẹ biết và tránh xa những người mà các em không thích
hay có những hành vi cố ý đụng chạm đến thân thẻ của các em. Đó cũng là những
giải pháp khắc phục cơ bản nhất để giúp trẻ tránh khỏi việc trở thành nạn nhân của
các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Hệ thống các cơ quan bảo vệ trẻ em ở nước ta
vẫn chưa được như các nước khác trên thế giới, do đó bên cạnh việc pháp luật xử lý
nghiêm minh các đối tượng phạm tội thì việc phòng ngừa, phát hiện sớm, can thiệp
kịp thời để giảm thiểu hoặc loại bỏ các nguy cơ trẻ bị xâm hại tình dục là việc phải
được đặt ra như một giải pháp cấp bách trước khi xảy ra những vụ án đau lòng
không mong muốn.
145
Kết luận chương 4
Các tội xâm phạm về tình dục là các tội có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao
không những xâm hại nghiêm trọng đến danh dự nhân phẩm của con người mà nó
biểu hiện ở sự suy đồi đạo đức một cách nghiêm trọng của một số người trong giai
đoạn hiện nay, còn gây ra những dư luận xã hội không tốt. Để không làm mất đi
những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc đã được gìn giữ, phát huy bao đời
nay và nhất là hiện nay đối tượng dễ bị xâm hại nhất về tình dục chính là lứa tuổi
thanh thiếu niên thế hệ tương lai, kế cận của cả nước rất cần được cả xã hội có sự
quan tâm, chăm sóc đặc biệt đến. Vì vậy, hiện nay cần phải được quan tâm hoàn
thiện, nâng cao hơn nữa việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Luận án đã đề ra
những giải pháp rất cụ thể nhằm nâng cao cho công tác đấu tranh, phòng ngừa các
tội xâm phạm tình dục trẻ em như đưa ra những giải pháp đóng góp cho công tác
đấu tranh, phòng ngừa các tội xâm hại về tình dục trên địa bàn các tỉnh miền Tây
Nam Bộ trong thời gian tới.
* Biện pháp kinh tế: Đây là biện pháp nhằm tác động loại bỏ hoặc hạn chế tác
động của những yếu tố tiêu cực nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
như tình trạng thất nghiệp, đói nghèo, việc làm không ổn định... đã góp phần thúc
đẩy sự gia tăng tình hình tội phạm, trong đó có các tội về xâm phạm tình dục trẻ em.
* Biện Pháp Đời Sống – Văn hóa: hướng đến loại bỏ những hạn chế những tác
động từ môi trường văn hóa không lành mạnh, trái đạo đức, đi ngược lại truyền
thống dân tộc, mê tính dị đoan để từ đó loại trừ khả năng tìm ẩn hình thành nhân các
lệch lạc, lối sống không lành mạnh, nhân cách không tốt.
* Biện pháp giáo dục từ Gia đình và Nhà trường thông qua nhiều phương pháp
giáo dục tích cực để định hướng cho cá nhân được phát triển hoàn thiện về nhân
cách, chú trọng việc giáo dục đạo đức lối sống, tuyên truyền phổ biến pháp luật,
tuyên truyền về phòng ngừa các tội XPTDTE, tuyên truyền các thức ứng xử và giáo
dục con cái trong các bậc phụ huynh
146
KẾT LUẬN
Với những kết quả nghiên cứu của Luận án đã cho thấy tổng thể tình hình
các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ giai đoạn 2007 -
2018, nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em, từ
đó hướng đến giải pháp phòng ngừa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình hình các tội
xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đang ngày càng gia tăng
và có tính chất nghiêm trọng, người phạm tội ngày càng trẻ hóa. Nguyên nhân của
tình hình tội phạm này có yếu tố đặc thù của vùng như : yếu tố về kinh tế khó khăn
cha mẹ đi làm ăn xa, trẻ nhỏ sống với ông bà và người thân, yếu tố về địa hình sông
nước cũng là một trong những nguyên nhân trẻ em bị xâm phạm tình dục nhưng gia
đình, hàng xóm không phát hiện, kết cấu gia đình không bền vững cha mẹ ly hôn,
với tỉ lệ ly hôn cao trẻ nhỏ thiếu thốn sự thương yêu chăm sóc, yếu tố về lối sống
phóng khoáng và dễ thỏa hiệp của cha mẹ, bên cạnh đó trẻ em cũng chưa được quan
tâm và giáo dục đầy đủ về kiến thức giới tính nên dẫn đến rất nhiều vụ án trẻ em bị
xâm phạm tình dục nhưng không dám nói với gia đình. Với những nguyên nhân,
điều kiện xuất phát từ tình hình của địa bàn miền Tây Nam Bộ, luận án cũng cần có
những giải pháp thiết thực để đáp ứng nhu cầu phòng ngừa các tội xâm phạm tình
dục trẻ em, kiểm soát tốt loại tội phạm này trên địa bàn. Vì Các tội xâm phạm về
tình dục là các tội có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao không những xâm hại
nghiêm trọng đến danh dự nhân phẩm của con người mà nó biểu hiện ở sự suy đồi
đạo đức một cách nghiêm trọng của một số người trong giai đoạn hiện nay, còn gây
ra những dư luận xã hội không tốt. Hiện nay không riêng địa bàn miền Tây Nam Bộ
mà cả nước cũng rất quan tâm đến việc phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ
em. Luận án đã đề ra những giải pháp rất cụ thể nhằm nâng cao cho công tác đấu
tranh, phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em như đưa ra những giải pháp
đóng góp cho công tác đấu tranh, phòng ngừa các tội xâm hại về tình dục trên địa
bàn các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Bảo vệ trẻ em không bị xâm hại nói chung và xâm
hại tình dục nói riêng là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài không chỉ ở Việt Nam mà
trên toàn cầu. Trên thế giới có hàng triệu trẻ em bị xâm hại tình dục. Ở Việt Nam
nói chung và ở miền Tây Nam Bộ nói riêng tình hình xâm phạm tình dục trẻ em
luôn chiếm tỷ lệ cao trong số tội phạm xâm hại trẻ em. Thành phần đối tượng xâm
147
hại tình dục trẻ em chủ yếu có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi, có trình độ học vấn thấp,
thường là lao động tự do hoặc không nghề nghiệp, nhận thức về pháp luật và các
chuẩn mực đạo đức xã hội kém. Động cơ phạm tội nhằm để thỏa mãn nhu cầu tình
dục cá nhân, thủ đoạn chủ yếu là lợi dụng sự thiếu hiểu biết của các em, lợi dụng sự
buông lỏng trong quản lý đối với các em để thực hiện hành vi phạm tội. Địa bàn gây
án chủ yếu ở nhà nạn nhân, nhà thủ phạm và khu vực vắng vẻ. Nạn nhân bị xâm hại
phần lớn ở độ tuổi từ 6 tuổi đến dưới 13 tuổi, tập trung trong những gia đình khó
khăn, cha mẹ thường xuyên vắng nhà, trẻ không được quan tâm chăm sóc chu đáo.
Nguyên nhân và điều kiện của tội xâm phạm tình dục trẻ em đó là sự sai lệch
trong nhân cách, đạo đức của người phạm tội cũng như ảnh hưởng của yếu tố kinh
tế, văn hóa, xã hội làm xuất hiện những lệch chuẩn về đạo đức chỉ biết thỏa mãn
nhu cầu cá nhân của mình. Trên cơ sở đánh giá hoạt động đấu tranh phòng ngừa tội
xâm phạm tình dục trẻ em của cơ quan chức năng tại địa bàn miền Tây Nam Bộ cho
thấy hoạt động này đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, qua kết quả
nghiên cứu cho thấy vẫn còn tồn tại, khuyết điểm trong công tác đấu tranh phòng,
chống đối với loại tội phạm này. Do vậy nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em là một yêu cầu cấp thiết. Căn cứ
vào kết quả khảo sát, đánh giá và dự báo về tình hình hoạt động của tội xâm phạm
tình dục trẻ em trong thời gian tới cho thấy loại tội phạm này vẫn diễn biến phức tạp
và tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn. Qua đánh giá tình hình và dự báo làm cơ sở đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa loại tội
phạm này tại địa bàn miền Tây Nam Bộ trong thời gian tới. Để ngăn chặn tội phạm
này có kết quả đòi hỏi phải làm tốt công tác phòng ngừa xã hội và phòng ngừa
nghiệp vụ, có sự phối hợp đồng bộ giữa những cơ quan chức năng trong việc ngăn
chặn, phát hiện xử lý tội phạm. Đấu tranh phòng, ngừa tội phạm xâm hại tình dục
trẻ em nói chung và tội phạm xâm hại tình dục trẻ em nói riêng là một trong những
điều kiện cơ bản để bảo đảm quyền trẻ em, tạo được môi trường sống an toàn và
lành mạnh, bảo đảm cho trẻ phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, góp phần ổn
định trật tự an toàn xã hội, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước.
148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
1. Diệp Huyền Thảo (2018), Hoàn thi n chính sách hình s i với các tội
xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi theo quy nh c a BLHS 2015 sửa ổi bổ sung
2017 (2/2018), Tạp chí giáo dục và xã hội ISSN 1859 – 3917
2. Diệp Huyền Thảo (2018), Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
a bàn miền Tây Nam Bộ - các bi n pháp phòng ngừa (8/2018), Tạp chí giáo dục
và xã hội ISSN 1859 – 3917
3. Diệp Huyền Thảo (2018), Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em và
d báo tình hình tội phạ tr n a bàn miền Tây Nam Bộ (11/2018), Tạp chí giáo
dục và xã hội ISSN 1859 – 3917
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Nguyễn Xuân Anh, “C c quy nh c a ph p u t Vi t Na b o v trẻ e khỏi
b ạ dụng t nh dục”, Sách chuyên đề về pháp luật Việt Nam và công ước quốc
tế bảo vệ trẻ em trước tệ nạn lạm dụng tình dục, Nxb giáo dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Tuấn Anh - Đinh Duy Thịnh “X hại t nh dục trẻ e v ột s gi i
ph p phòng ngừa”, 17/3/2017.
3. Trần Xuân Thiên An (2018)“Những kh khăn vướng ắc c a cơ quan ti n
h nh t tụng trong qu tr nh iều tra c c vụ n x hại t nh dục trẻ e ” tạp chí
Kiểm sát.
4. Ban chấp hành Trung ương (2013), Ngh quy t s 28-NQ/TW ngày 25/10/2013
về Chi n ư c b o v tổ qu c trong t nh h nh ới, Hà Nội.
5. Ban chỉ đạo chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm (1999) Đề án IV
“Đấu tranh phòng ch ng c c oại tội phạ x hại trẻ e tội phạ trong a
tuổi chưa th nh ni n” Hà Nội Ban chấp hành Trung ương (2010)
6. Ban chấp hành Trung ương (2012), Bộ Chính trị đã có Kết luận số 28-KL/TW
ngày 14-8-2012 “Về phương hướng nhi vụ gi i ph p ph t triển kinh t - xã
hội v b o an ninh qu c phòng vùng ng bằng s ng Cửu Long thời kỳ
2011 - 2020”, Hà Nội.
7. Ban chấp hành Trung ương (2010), Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của
Bộ Chính trị về “tăng cường s ãnh ạo c a Đ ng i với c ng t c phòng
ch ng tội phạ trong t nh h nh ới”, Hà Nội.
8. Ban chấp hành Trung ương (2012), Chỉ thị số 20- CT/TW ngày 05/11/2012
của Bộ Chính trị về “tăng cường s ãnh ạo c a Đ ng i với c ng t c chă
s c gi o dục v b o v trẻ e trong t nh h nh ới” Hà Nội.
9. Ban chỉ đạo Chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm (1999), Đề án IV
“Đấu tranh phòng ch ng c c oại tội phạ x hại trẻ e tội phạ trong a
tuổi chưa th nh ni n”, Hà Nội.
10. Ban nội chính Trung ương (2014), “Th ng b o Hội ngh Ban Chấp h nh
Trung ương Đ ng n th ch n kh a XI”, Hà Nội.
150
11. Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử về Tội hiếp dâm và một số tội
phạm khác về mặt tình dục số 329 –HS2 ngày 11/5/1967 của Tòa án nhân dân
tối cao
12. Bộ Chính trị (2002), Ngh quy t 08/NQ-TW ng y 22/01/2002 về ột s nhi
vụ trọng t c ng t c c i c ch tư ph p trong thời gian tới, Hà Nội.
13. Bộ Chính trị (2005), Ngh quy t 49/NQ-TW ng y 02/6/2005 về chi n ư c c i
c ch tư ph p n nă 2020, Hà Nội.
14. Bộ Chính trị (2005), Ngh quy t s 48- NQ/TW ng y 24/5/2005 về Chi n ư c
x y d ng v ho n thi n h th ng ph p u t Vi t Na n nă 2010 nh
hướng n nă 2020, Hà Nội.
15. Bộ Chính trị (2010), Chỉ th 48/CT- TW ng y 22 th ng 10 nă 2010 về tăng
cường s ãnh ạo c a Đ ng với c ng t c phòng ch ng tội phạ trong t nh
h nh ới, Hà Nội.
16. Bộ Công an (1994), “Tội phạ ở Vi t Na th c trạng nguy n nh n v gi i
ph p” Đề t i cấp Nh nước KX – 04 – 14 – Nxb CAND
17. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công an (2009), Th ng tư i n t ch s
34/2009/TT-LT-BGDĐT-BCA ng y 20/11/2009 c a Bộ Gi o dục v Đ o tạo-
Bộ C ng an hướng dẫn ph i h p th c hi n c ng t c b o ANTT c c cơ sở
gi o dục trong h th ng gi o dục qu c d n, Hà Nội.
18. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2010), Th ng tư s 23/2010/TTLĐTBXH
ng y 16/8/2010 c a Bộ Lao ộng- Thương binh v Xã hội quy tr nh can thi p tr
giúp trẻ e b bạo c b x hại t nh dục, Hà Nội.
19. Phạm Tuấn Bình chủ nhiệm đề tài cấp Bộ “tội phạ ẩn ở Vi t na - Th c
trạng nguy n nh n v gi i ph p”, 2003, Bộ Công an
20. Nguyễn Ngọc Bình (2010) Luận án tiến sĩ luật học “Đấu tranh phòng ch ng
tội phạ c sử dụng bạo c ở Vi t Na hi n nay”
21. Lê Văn Cảm (chủ biên) (2007), ”Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các
tội phạm)”, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Cảnh - Phạm Văn Tỉnh (2013), Một s vấn ề tội phạ học Vi t
Nam, Học viện CSND.
151
23. Thái Riết “Đấu tranh phòng ch ng c c tội ạ dụng t nh dục trẻ e tr n a b n
tỉnh S c Trăng” (2008) - Luận văn thạc sĩ, Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh;
24. Phạm Minh Chiêu (2015), “Tội phạm xâm hại trẻ em- Thực trạng và giải
pháp phòng chống”, tạp chí Cảnh sát phòng, chống tội phạm, số 9/2015.
25. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP, ngày 31/7/1998 về chương
trình quốc gia phòng, chống tội phạm, Hà Nội.
26. Chính phủ (1998), Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg ngày 31.7.1998 phê
duyệt Chương trình quốc gia phòng chống tối phạm, Hà Nội.
27. Chính phủ (2001), Quyết định số 23/2001/QĐ-TTg ngày 26/2/2001 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em
Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Hà Nội.
28. Chính phủ (2004), Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg ngày 8/11/2004 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết số 09 và chương trình quốc gia phòng
chống tội phạm đến năm 2020, Hà Nội.
29. Chính phủ (2004), Quyết định số 38/2004/QĐ-TTg ngày 7/3/2004 của Thủ
tướng Chính phủ về Chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá nhân nhận
nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi, Hà Nội.
30. Chính phủ (2004), Quyết định 130/2004/QĐ-TTg ngày 14/7/2004 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động phòng, chống tội phạm
buôn bán phụ nữ và trẻ em từ 2004 - 2010, Hà Nội.
31. Chính phủ (2004), Quyết định số 19/2004/QĐ-TTg ngày 12/2/2004 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình
trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động
nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010, Hà Nội.
32. Chính phủ (2004), Quyết định số 62/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về Chính sách phổ cập giáo dục ở cơ sở (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em
nghèo được miễn học phí, trợ giúp sách giáo khoa, vở viết khi đến trường),
Hà Nội.
33. Chính phủ (2005), Quyết định 65/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
Việc phê duyệt đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào
cộng đồng, Hà Nội.
152
34. Chính phủ (2009), Chỉ thị số 1408/CT-TTg ngày 01/9/2009 của Thủ tướng
Chính phủ về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, Hà Nội.
35. Chính phủ (2009), Quyết định số 84/2009/QĐ-TTg ngày 4/6/2009 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia vè trẻ em bị ảnh
hưởng bới HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, Hà Nội.
36. Chính phủ (2015), Quyết định số 2361/2015/QĐ-TTg ngày 22/12/2015 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn
20162020, Hà Nội.
37. Chính phủ (2011), Quyết định số 267/2011/QĐ-TTg ngày 22/2/2011 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn
2011-2015, Hà Nội.
38. Chính phủ (2015), Quyết định số 1614/QĐ của Thủ tướng Chính phủ về đề
án chuyển đổi tiếp cận đo lường từ nghèo đơn chiều sang đa chiều áp dụng
cho giai đoạn 2016 – 2020
39. Chính phủ (2012), Quyết định số 1217 ngày 6/9/2012 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm giai
đoạn 2012-2015, Hà Nội.
40. Chính phủ (2019), Quyết định số 1863/QĐ – TTg ngày 23.12.2019 về việc
phê duyệt kế hoạch hành động quốc gia phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em
giai đoạn 2020 – 2025.
41. Công an thành phố Cần Thơ (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm
2007 đến năm 2017, thành phố Cần Thơ.
42. Công an tỉnh Kiên Giang (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm
2007 đến năm 2017, Kiên Giang
43. Công an tỉnh Vĩnh Long (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007
đến năm 2016, Vĩnh Long.
44. Công an tỉnh Sóc Trăng (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007
đến năm 2016, Sóc Trăng.
45. Công an tỉnh Trà Vinh (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007
đến năm 2016, Trà Vinh.
153
46. Công an tỉnh Đồng Tháp (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007
đến năm 2016, Đồng Tháp.
47. Công an tỉnh Bạc Liêu (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007
đến năm 2016, Bạc Liêu.
48. Công an tỉnh Hậu Giang (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007
đến năm 2016, Hậu Giang.
49. Công an tỉnh Long An (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007
đến năm 2016, Long An.
50. Công an tỉnh Cà Mau (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007
đến năm 2016, Cà Mau.
51. Công an tỉnh Bến Tre (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007
đến năm 2016, Bến Tre.
52. Công an tỉnh Tiền Giang (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007
đến năm 2016, Tiền Giang.
53. Công an tỉnh An Giang (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007
đến năm 2016, An Giang.
54. Cơ quan cộng đồng về điều tra xã hội Nam Phi (2005), “Lạm dụng và sự bóc
lột tình dục trẻ em ở Nam Phi”, Tài liệu nghiên cứu
55. Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em, (2012), Tài liệu tham khảo Bảo vệ, chăm sóc trẻ
em (lưu hành nội bộ).
56. Cục Cảnh sát hình sự - Bộ Công an (2014), Báo cáo Kết quả thực hiện công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi
chưa thành niên năm 2013, Hà Nội.
57. Cục CSĐTTP về TTXH (2007-2014), Báo cáo kết quả phòng, chống tội phạm
xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên năm 2007 đến
2014, Hà Nội.
58. Cục CSĐTTP về TTXH (2007-2016), Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh
chống tội phạm hình sự năm 2007 đến 2016, Hà Nội.
59. Cục thống kê tội phạm và công nghệ thông tin Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao, (2007- 2018), Số liệu thống kê tội phạm giai đoạn 2007-2018, Hà Nội.
154
60. Danh mục các bản án xâm phạm tình dục trẻ điển hình của của Tòa án nhân
dân các tỉnh Miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 -2018.
61. Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013,
2014, 2015, 2016, 2017, 2018 phân theo địa phương. Tổng cục thống kê Việt Nam.
62. Lê Hữu Du (2015), “Đấu tranh phòng ch ng tội hi p d trẻ e ở Vi t Na
trong giai oạn hi n nay”, luận án tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
63. Phạm Mỹ Duyên (2014), “Gi nghèo bền vững vùng ng bằng s ng Cửu
Long trong qu tr nh c ng nghi p h a hi n ại h a” Tạp chí Cộng Sản.
64. Đỗ Tiến Dũng “C c tội x phạ t nh dục i với trẻ e tr n a b n tỉnh
B nh Dương – T nh h nh nguy n nh n v gi i ph p phòng ngừa”(2014) Luận
văn thạc sỹ- Học viện Khoa học Xã hội;
65. Bùi Văn Dũng (1999) “Giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội hiếp dâm” tạp
chí Công an nhân dân số 11/1999.
66. Bùi Văn De, Th ch th c i với Đ ng bằng s ng Cửu Long trong gi nghèo
theo c ch ti p c n gi nghèo a chiều, 08/08/2016
67. Đại hội đồng Liêp hiệp quốc (1989), Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
68. Đảng cộng sản (2012), Chỉ thị số 20/CT-TW ngày 05/11/2012 của Bộ chính
trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo
dục trẻ em trong tình hình mới, Hà Nội.
69. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Báo cáo tình hình, kết quả thực hiện Nghị
quyết 09/NQ-CP chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm năm 2010 của
Ban chỉ đạo 138/ CP, Hà Nội.
70. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
(2001), thứ X(2006); thứ XI(2011); thứ XII(2016), Hà Nội.
71. Nguyễn Duy Dũng “Gi i ph p gi nghèo bền vững i với c c d n tộc
người thiểu s ở khu v c T y Na Bộ hi n nay” 11/2018. Tạp chí Mặt Trận
Việt Nam.
72. Nguyễn Minh Đức “ M i quan h giữa ạ dụng t nh dục trẻ e tr c tuy n
với ạ dụng trẻ e th c t ” Kỷ yếu hội thảo “xâm hại tình dục trẻ em nguyên
nhân và giải pháp phòng chống” tháng 4/2015;
155
73. Thanh Đỗ “X hại t nh dục trẻ e ơ Vi t Na – Nguy n nh n v c c gi i
ph p phòng ch ng” Hội th o khoa học – Tạp chí nghiên cứu lý luận, nghiệp
vụ, khoa học của Học viện cảnh sát nhân dân (17/4/2015)
74. Đỗ Đức Hồng Hà (2010), “Th c trạng v gi i ph p ấu tranh phòng ch ng tội
phạ x hại t nh dục trẻ e ở nước ta hi n nay’ 19/2017, tạp chí Tòa án nhân
dân.
75. Đỗ Đức Hồng Hà, (2007) Luận án tiến sĩ luật học “Tội gi t người trong Lu t
h nh s Vi t na v ấu tranh phòng ch ng tội phạ n y”
76. Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
77. Phạm Hồng Hải (chủ biên) (2003), “C c quy nh c a ph p u t về hoạt ộng
phòng ch ng tội phạ x hại trẻ e – th c trạng v phương hướng hoàn
thi n”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 5/2003.
78. Phạm Hồng Hải: “Tội phạ học Vi t Na - Một s vấn ề ý u n v th c
tiễn”, năm 2000, tr103
79. Nguyễn Ngọc Hòa (2015) “Tội phạm học và cấu thành tội phạm” nhà xuất bản
Tư Pháp.
80. Nguyễn Ngọc Hòa (2009), “Các khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm
trong tội phạm học”, tạp chí Luật học, tháng 6/2009.
81. Nguyễn Ngọc Hòa (2009), “Cấu thành tội phạm: lý luận và thực tiễn”, Sách
chuyên khảo, Nxb tư pháp, Hà Nội.
82. Nguyễn Ngọc Hòa – chủ biên (2017) “Bình lu n khoa học Bộ Lu t hình s
nă 2015 – sửa ổi bổ sung nă 2017” (phần chung và phần các tội phạm)
xuất bản 2017, nhà xuất bản Tư Pháp.
83. Học viện Cảnh sát nhân dân (2010), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
84. Phạm Quốc Huỳnh“Tội phạ hi p d th c trạng v gi i ph p” tạp chí Công
an nhân dân số 1/1999
85. Trịnh Thị Thu Hương (2004) Luận văn thạc sĩ “C c tội phạ t nh dục v ấu
tranh ch ng c c tội phạ n y ở Vi t Na trong giai oạn hi n nay” - Học
viện KHXH
156
86. Nguyễn Thị Hương (2012) “Hoạt ộng phòng ngừa tội phạ hi p d trẻ e
c a c ư ng C nh s t iều tra tội phạ về tr t t xã hội C ng an th nh ph
H Nội” Học viện CSND.
87. Nguyễn Văn Hùng (2015), “Hoạt động của lực lượng cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tội hiếp dâm trẻ em tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ”, luận án tiến
sĩ, Học viện CSND.
88. Phạm Mạnh Hùng (2002), “Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về
các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2002.
89. Đỗ Ngọc Khanh và Anita Dodds (2011), “Phân tích về bóc lột tình dục trẻ em
vì mục đích thương mại ở Việt Nam”, Unicef Việt Nam.
90. Nguyễn Mạnh Kháng, Nh n th n người phạ tội – i tư ng nghi n c u c a
tội phạ học - trong sách Tội phạm học Việt Nam, NXBCAND, 2000, Tr99
91. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh (2011) Luận văn thạc sĩ “B o v quyền c a nạn
nh n c c tội x phạ t nh dục trẻ e dưới g c ộ quyền con người” Đại học
Luật. TPHCM;
92. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh (2004) luận văn “Vai trò c a c c ch thể trong
vi c phòng ngừa c c tội x phạ t nh dục người chưa th nh ni n phạ tội ở
c c tỉnh ph a Na ” Đại học Luật. TPHCM;
93. Kho dữ liệu dân số 2009 – số liệu mẫu của tổng điều tra dân số và nhà ờ
1/4/2009.
94. Đào Trí Úc, Tình hình nghiên cứu tội phạm học ở Việt Nam hiện nay, Trong
sách: Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập thể tác
giả do PGS.TS. Luật sư Phạm Hồng Hải chủ biên, NXB Công an Nhân dân,
Hà Nội, 2000.
95. Dương Tuyết Miên, Tội phạm học đại cương, (2013),Nxb. Chính trị - Hành
chính, Hà Nội, tr.47.
96. Dương Tuyết Miên “Về c c tội x phạ t nh dục trong u t h nh s Vi t
Nam”, 1998, Tạp chí Luật học số 06;
97. Nguyễn Đức Mai (chủ biên) (2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999,
SĐBS 2009, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội
157
98. Phan Thị Ngoan (2013) “Đấu tranh phòng ch ng tội hi p d tr n a b n
Tỉnh S c Trăng” Học vi n KHXH
99. Bùi Bé Năm “N ng cao hi u qu hoạt ộng phòng ngừa iều tra xử ý tội
phạ x phạ t nh dục trẻ e tr n a b n tỉnh An Giang” (2007) - Học viện
CSND;
100. “Một s vấn ề Tội phạ học Vi t Nam” Tài liệu tham khảo - Bộ Công An,
Học viện cảnh sát nhân dân, tr354, 2013, Hà Nội
101. Nguyễn Ngọc Minh (2014), “Quy nh c a ph p u t h nh s i với vi c xử ý
tội phạ x hại t nh dục trẻ e - Những vấn ề ý u n v th c tiễn”, kỷ yếu
hội thảo xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam- nguyên nhân và giải pháp phòng
chống, Học viện CSND tháng 4/2014.
102. Phòng xây dựng văn bản – vụ thống kê tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao
(2013) Giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm về
xâm hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em gái.
103. Nguyễn Thị Ngọc Linh “C c tội x phạ t nh dục trong u t h nh s Vi t
Na ” 2019, Trường Đại học quốc gia Hà Nội.
104. Võ Thị Kim Oanh, Lê Nguyên Thanh, Phạm Thái (2008) Đề tài nghiên cứu cấp
Trường “Đấu tranh phòng ch ng c c tội x phạ t nh dục người chưa th nh
ni n tại c c T nh Ph a Na ” Đại học Luật TP.HCM
105. Đỗ Ngọc Quang, Giáo trình Tội phạ học (biên soạn lần thứ ba có sửa đổi, bổ
sung) của Khoa Luật. Trường đại học KHXH và Nhân văn. NXB. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 1992, tr.132
106. Đỗ Ngọc Quang, Giáo trình Tội phạ học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
năm 1995, tr8
107. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt năm
1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
108. Quốc hội (2017), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
109. Quốc Hội (2016), Luật trẻ em, Hà Nội.
110. Quốc Hội (2013), Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 2013, Hà Nội.
158
111. Quốc Hội (2014), Nghị quyết số 76/2014/QH13 về việc đẩy mạnh thực hiện
mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020.
112. Học Viện Cảnh sát nhân dân (2013), „Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam”
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
113. Hồ Sỹ Sơn (2008), “Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật hình sự nước
ta với pháp luật hình sự của một số nước thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu
lục địa”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2008, tr.68-72
114. Lê Văn Tính (2009), “Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm tình dục trẻ
em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh.
115. Phạm Văn Tỉnh (1996), Cơ chế hành vi phạm tội cơ sở để xác định nguyên
nhân và biện pháp phòng ngừa tội phạm, Tạp chí Kiểm sát, số 1/1996
116. Phạm Văn Tỉnh (2000), “Các phương pháp nghiên cứu tình hình tội phạm,
một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
117. Phạm Văn Tỉnh (2007), “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt
Nam”, Sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
118. Phạm Văn Tỉnh (2007), ”Khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm dưới góc
độ tội phạm học”, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2007.
119. Phạm Văn Tỉnh (2008), ”Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ở
nước ta hiện nay – Mô hình lý luận”, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
6/2008.
120. Phạm Văn Tỉnh, “Tội phạm học Việt Nam và phòng ngừa tội phạm”, tạp chí
Nhà nước và pháp luật, 4/2009
121. Phạm Văn Tỉnh (2011), Phòng ngừa tội phạm và vấn đề bảo vệ quyền con
người – một nghiên cứu liên ngành tội phạm học và nhân quyền học, Tạp chí
Công an nhân dân, số 7/2011.
122. Phạm Văn Tỉnh (2013) Giáo trình Tội phạm học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
123. Hà Xuân Tùng (2010) “Đấu tranh phòng ch ng c c tội x phạ t nh dục trẻ e
tr n a b n Th nh ph H Nội” Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
124. Võ Thành Tốt (2002) sĩ “Hoạt động của lực lượng CSND trong phòng ngừa và
điều tra tội phạm hiếp dâm trẻ em xảy ra trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp”
159
125. Tòa án nhân dân Tối cao (1967), Bản tổng kết số 329/HS2 ngày 11/5/1967, Hà Nội.
126. Tòa án nhân dân Tối cao (2008- 2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2008
đến năm 2018
127. Lê Văn Thiệu (2015), “Đặc điểm nạn nhân trong các vụ án về xâm phạm tình
dục trên địa bàn tỉnh An Giang và giải pháp phòng ngừa”, tạp chí khoa học
giáo dục CSND, số 9/2015.
128. Trịnh Thị Thu Thủy (2015), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa
tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang”, tạp chí khoa
học giáo dục CSND, số 5/2015.
129. Diệp Huyền Thảo (2014) “Các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em trên địa
bàn tỉnh Trà Vinh – Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” - Luận
văn thạc sĩ - Học viện Khoa học Xã hội
130. Nguyễn Ngọc Thế “Tội phạ cấu th nh tội phạ Những vấn ề ý u n v
th c tiễn” 2013 Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – sự thật
131. Kiều Đình Thụ (2001) Chủ thể của tội phạm – Giáo trình: Luật hình sự Việt
Nam, ĐHQGHN, Hà Nội, 2001, tr92
132. Thống kê của Tòa án nhân dân tối cáo về các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em
trên cả nước giai đoạn 2008 -2013.
133. Thống kê của Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (Unicef) 15/5/2017: Những
thống kê đáng sợ về nạn xâm hại tình dục trẻ em
134. Nguyễn Ngọc Trai (2015), “Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm
xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền tây nam bộ và giải pháp phòng
ngừa”, tạp chí khoa học giáo dục CSND, số 6/2015.
135. Trần Hữu Tráng “Nạn nhân của Tội phạm”, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2011
136. Trần Hữu Tráng “Bàn về khái niệm nạn nhân của tội phạm” tạp chí Luật học
số 01/2002
137. Vũ Đức Trung “Tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ở các tỉnh, thành phố
phía Nam, thực trạng và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh”(2005) Trường Đại
học CSND;
138. Trường Đại học CSND (2004), Giáo trình tổ chức hoạt động phòng ngừa, phát
hiện và điều tra, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
160
139. a Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội., 139b Giáo trình tội phạm học, tái bản 2015, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
140. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2010), Giáo trình luật hình sự
Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
141. Vũ Xuân Trường (2002), “Hoạt động phòng ngừa tội phạm của lực lượng
CSND ở cơ sở hiện nay và những giải pháp hoàn thiện”, luận án tiến sĩ luật
học, Học viện CSND.
142. Viện Kiểm sát- Tòa án- Bộ Công an- Bộ Quốc phòng (2005), Thông tư liên
tịch số 01/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQPngày 01/7/2005 hướng dẫn
thi hành một số quy định của pháp luật trong công tác thống kê hình sự, thống
kê tội phạm, Hà Nội.
143. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam, một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
144. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1994), “Tội phạm học, Luật hình sự,
Luật tố tụng hình sự” Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
145. Võ Khánh Vinh (2000), “Dự báo tình hình tội phạm, Tội phạm học Việt
Nam”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
146. Võ Khánh Vinh (2011), “Giáo trình tội phạm học”, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
147. Võ Khánh Vinh (2014), “Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung)”,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
148. Võ Khánh Vinh (1999), “Gi o tr nh tội phạ học”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
149. Võ Khánh Vinh, Đào Trí Úc, Nguyễn Mạnh Kháng (2000), “Tội phạ học
Vi t Na : Một s vấn ề ý u n v th c tiễn”, Sách chuyên khảo, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
150. Trịnh Tiến Việt. 2008. Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội phạm
học, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, kinh tế - Luật (2008) 185 - 199
150 a.Trịnh Tiến Việt. 2013. Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị quốc gia.
151. Nguyễn Xuân Yêm (2001), “Tội phạ học hi n ại v phòng ngừa tội phạ ”,
Sách chuyên khảo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
161
152. Nguyễn Xuân Yêm (2005), “Phòng ch ng c c oại tội phạ ở Vi t Na thời
kỳ ổi ới”, Sách chuyên khảo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
153. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
154. “Gi i p vướng mắc trong hoạt ộng, th c hành quyền công t , kiểm sát vi c
khởi t , iều tra, truy t , xét xử các vụ án, vụ vi c xâm hại phụ nữ trẻ e ”
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2019, Nhà xuất bản Tư pháp.
Tài liệu nước ngoài
155. Frank – Schmalleger (2002) Criminology Today, Nxb Prentice Hall, Perbroke,
Hoa Kỳ. (Sách Criminology Today, nhà xuất bản Prentice Hall năm 2002,
Trường Đại học Bắc Cariolina ở Perbroke (Mỹ) của Tiến sĩ triết học Giáo sư
danh dự Frank – Schmalleger chủ biên)
156. Casare Beccaria 5th.ed “On crimes and Punishments” Translation, annotations,
and introduction by Graeme R. Newman and Piertro Margongu.
157. Fance Heidensohn (31, Jan, 1989) “Crime and Society” ISBN - 13:
9780333435281
158. Rob White Haines (2000) “Crime and Criminology” , Trường đại học Oxford,
xuất bản năm 2000
159. Larry Siege (2014)“Cri ino ogy – The Core” Nhà xuất bản Cengage
Learning, năm 2014
160. Stephen R. Schneider “Cri e prevension theory and practice” khoa học xã
hội học và tội phạm, thuộc Đại học Saint mary, Halifax, Nova Scotia, Canada.
161. “ Crimes and Justie in Contemporary Japa” 1989, Trường Đại học Tổng hợp
Ritsumeikan, tác phẩm do GS.TS Nguyễn Xuân Yêm và GS.TS Hồ Trọng
Ngũ dịch từ bản tiếng Nga của Nxb Tiến Bộ, Maxcova năm 1989.
162. Mikovskij G.M, “Teoretichskiye osnovy preduprezhdeniya prestupnosti” d ch
“Cơ sở ý u n c a vi c phòng ngừa tội phạ ” , Nxb.Max-xcơ-va, Jurid,
Literature, năm 1977, (bản dịch của Viện thông tin Khoa học xã hội, năm
1982).
163. Anita Carlsteadt, “ChildSexual Abuse:Crimes, Victims, Offender
Characteristics and Recidivis ”, 2012. Trung tâm Đạo đức, Pháp luật và Sức
162
khỏe Tâm thần Viện Khoa học thần kinh và Sinh lý học Học viện Sahlgrenska
tại Đại học Gothenburg.
164. Christina Back “The Legal Process In Child Sexual Abuse-Difficulties in
confirming evidence and providing support”, Master Thesis , Linköping
University, Sweden, 2012.
165. GS David Frikelhor, “United States child abuse prevention” by Prevent child
Abuse America, công bố năm 2000.
166. “National Plan to Prevent the Sexual Abuse and Exploitation of Children ” của Liên hiệp quốc gia về phòng ngừa lạm dụng tình dục và bóc lột trẻ em Hoa kỳ, xuất bản tháng 3/2012.
167. Diana E.H.Russell và Rebecca M.Bolen “The Epidemic of Rape and Child Sexual Abuse in the United States” , Nxb Sage Publication Inc, 2000.
168. “The Issue of Sexual Violence against women in Contemporary India” – công
bố ngày 7/2/2013 của tổ chức Human Rights Watch.
169. Don Grubin “Sex offending against children : understanding the risk ” của tổng cục nghiên cứu phát triển và thống kê (Anh), xuất bản năm 1998. 170. Master Thesis: Sandra Neuman, Linnæus University. “The issue of sexual
vio ence agaist wo en in conte porary in India” (2013).
171. Ph.D (Doctor of Philosophy): Anna Michele Viviani - University of Iowa,
“Counselor meaning- aking: working with chi dhood sexua abuse survivors” (2011)
172. Master of Science Degree in Education: Kyrsha M. Dryden, “Chlid Abuse and
Neglect “(2009)
173. Katie Ann Martin, “Domestic Violence, Sexual Assault, and Sex Trafficking
in the Media: A Content Analysis “ (2013).
174. Ph. D Thesis: Kleijn, Amelia Ann, “ The demographic profile and
psychosocial history of a group of convicted perpetrators of the rape of children under the age of three years” (2010).
175. Lisa Korn, University of Wisconsin-Stout, “A Literature Review On School
Child Sexual Abuse Prevention Programs”, (May 2004).
176. Denise A. Hines, David Finkelhor (2006 ). “Statutory sex crime relationships between juveniles and adults: A review of social scientific research”, 12 : 300- 314 ( CV150 )
163
177. Diana E.H.Russell và Rebecca M.Bolen “ Nạn hiếp dâm và lạm dụng tình dục trẻ em ở Hoa Kỳ” Công trình nghiên cứu, Nxb Sage Publication Inc, 2000 (336tr)
178. Finkelhor, D, Ormrod , R. và Jones , L. (2009 ) “Violence, abure, and crime to
violence, 2003 - 2011. JAMA prediatris, 168 (6), 540 - 546.
179. Tội phạm học XôViết, Matxcova 1966, trang 112
164
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DIỆP HUYỀN THẢO CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG NGỪA PHỤ LỤC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2020
MỤC LỤC PHỤ LỤC
Trang
Bảng 2.1 Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2017 thống kê theo số vụ án Pl.1
Bảng 2.2 Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2017 thống kê theo số bị cáo Pl.2
Bảng 2.3 Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
Pl.3
Bảng 2.4
địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2017 tính trên 100.000 dân So sánh mức độ tình hình các tội XPTDTE với tình hình tội phạm xâm hại trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ từ năm 2007 đến năm 2017 Pl.4
Pl.5
Bảng 2.6
Bảng 2.5 Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ so với Đông Nam Bộ trên cơ sở dân số và diện tích. Cấp độ nguy hiểm của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích. Pl.5
Bảng 2.7 Mức độ tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa
Pl.6
Bảng 2.8
Pl.7
Bảng 2.9
bàn Tây Nam Bộ so với số liệu các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn cả nước từ năm 2007 – 2018. Diễn biến của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018. So sánh diễn biến tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 PL7
Bảng 2.10 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
địa bàn miền Tây Nam Bộ xét theo tội danh – QĐ BLHS1999 – SĐBS 2009 Pl.7
Pl.8
Bảng 2.11 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên cơ sở dân số của các tỉnh thành thuộc địa bàn Tây Nam Bộ. Bảng 2.12 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên cơ
sở diện tích của các tỉnh thành thuộc địa bàn Tây Nam Bộ. Pl.9
Bảng 2.13 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích trên địa bàn Tây Nam Bộ Pl.10
Bảng 2.14 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo thời gian gây án Pl.11
Bảng 2.15 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 theo địa điểm phát sinh tội phạm Pl.12
Bảng 2.16 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo độ tuổi của nạn nhân Pl.12
Bảng 2.17 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo thủ đoạn phạm tội Pl.13
Bảng 2.18 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo mối quan hệ giữa nạn nhân với người phạm tội Pl.13
Bảng 2.19 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo độ tuổi của người phạm tội Pl.14
Bảng 2.20 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo độ tuổi của người phạm tội Pl.15
Bảng 2.21 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo nghể nghiệp của người phạm tội. Pl.15
Bảng 2.22 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo cơ cấu dân tộc của người phạm tội Pl.16
Bảng 2.23 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo hoàn cảnh gia đình Pl.16
Bảng 2.24 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo hình phạt áp dụng đối với người phạm tội Pl.17
Pl.17 Bảng 2.25 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo đặc điểm pháp lý – hình sự
Bảng 2.26 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo đặc điểm người phạm tội sử dụng bia, rượu và các yếu tố kích thích khác. Pl.18
Pl.18 Bảng 2.27 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét thống kê theo số vụ, số bị can phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em bị đình chỉ điều tra, truy tố, xét xử
Bảng 2.28 Cơ cấu của tình hình xâm phạm tình dục trẻ em xét theo vụ án có hành vi xâm phạm tình dục nhiều lần trước khi bị phát hiện trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét
PHỤ LỤC BIỂU ĐỒ Pl.19 Trang
Biểu đồ 2.1 So sánh tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây
Nam Bộ với tình hình XPTD trẻ em của cả nước từ năm 2007 – 2018 Pl.20
Biểu đồ 2.2 Diễn biến tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên
địa bàn Miền Tây Nam Bộ Pl.20
Biểu đồ 2.3 Diễn biến tình hình các tội về xâm phạm tình dục trẻ em
trên các địa bàn miền Tây Nam Bộ Pl.21
Biểu đồ 2.4 Diễn biến tình hình các tội về xâm phạm tình dục trẻ em
trên các địa bàn xét theo tội danh Pl.22
Biểu đồ 2.5 Cơ cấu theo độ tuổi của nạn nhân bị xâm phạm tình dục
trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
Pl.22 Pl.23
Biểu đồ 2.6 Cơ cấu về mối quan hệ giữa nạn nhân với người phạm tội Biểu đồ 2.7 Cơ cấu về độ tuổi của người phạm tội XPTDTE trên địa
bàn miền Tây Nam Bộ Pl.23
Biểu đồ 2.8 Cơ cấu theo trình độ văn hóa của người phạm tội về xâm
phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ Pl.24
Biểu đồ 2.9 Cơ cấu theo nghề nghiệp của người phạm tội về xâm phạm
tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ Pl.24
PHỤ LỤC
Bảng 2.1 : Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 - 2018 thống kê theo số vụ án [100]
Kiên Giang số vụ Bạc Liêu số vụ Cà Mau số vụ Trà Vinh số vụ Bến Tre số vụ Long An T.Giang Tổng số vụ số vụ Cần thơ số vụ Sóc Trăng số vụ
Hậu Giang số vụ 22 18 19 21 20 23 25 30 30 28 26 262 25 287 19 16 20 18 22 24 27 25 27 30 29 257 31 288 Đồng Vĩnh Long Tháp số vụ số vụ 28 21 24 22 27 24 35 30 35 32 29 307 28 335 25 20 22 23 25 25 28 30 29 30 27 284 31 315 An Giang số vụ 23 18 22 17 20 20 27 32 35 34 38 286 43 329 38 25 18 27 27 28 30 35 31 37 35 331 37 368 Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 TC 2018 TC 14 13 15 14 19 19 21 23 18 25 30 211 32 243 45 42 48 51 53 47 45 55 55 57 60 558 53 611 20 18 15 17 14 19 25 39 36 24 26 253 38 291 17 15 13 14 11 12 15 18 20 22 24 181 31 212 21 19 16 19 21 23 20 24 21 23 25 232 34 266 38 42 40 35 37 32 30 35 40 47 45 421 41 462 15 12 14 14 15 18 20 22 24 28 28 210 27 237 325 279 286 292 311 314 348 398 401 417 422 3793 451 4244
Pl.1
Bảng 2.2 : Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 - 2018 thống kê theo số bị cáo [100]
Cà Mau Trà Vinh Bến Tre Long An Tiền Giang Tổng Cần thơ
Hậu Giang 22 19 19 21 20 23 26 30 31 28 27 266 27 293 Sóc Trăng 38 25 19 27 28 28 31 35 31 37 35 334 40 374 Vĩnh long 25 20 23 23 25 26 28 31 29 30 27 287 32 319 Đồng Tháp 28 22 24 22 27 25 35 31 35 32 30 311 33 344 An Giang 23 19 22 17 20 21 27 33 35 34 38 289 45 334 Kiên Giang 38 42 41 35 37 32 32 35 42 47 45 426 44 470 Bạc Liêu 15 13 15 14 20 19 21 23 19 25 32 216 35 251 19 17 20 19 22 24 28 25 27 30 29 260 33 293 Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 TC 2018 TC 45 42 49 51 53 48 45 55 56 57 60 561 56 617 21 20 15 17 14 19 25 40 38 25 26 260 40 300 17 16 13 15 11 13 15 18 20 23 24 185 32 217 21 19 17 19 21 23 21 24 22 23 25 235 37 272 15 12 14 16 15 18 21 22 25 28 28 214 29 243 327 286 291 296 313 319 355 402 410 419 426 3844 483 4327
Pl.2
Bảng 2.3 : Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 – 2018 tính trên 100.000 dân [100]
Năm Bị Cáo
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 327 286 291 296 313 319 355 402 410 419 426 483 Dân số (nghìn người) 17.524.000 17.695.000 17.213.400 17.272.200 17.330.900 17.390.500 17.478.900 17.517.600 17.590.400 17.660.700 17.710.000 19.030.780 Hệ số tội phạm XPTDTE 1,86 1,61 1,69 1,71 1,80 1,83 2,03 2,29 2,33 2,37 2,40 2,53
Pl.3
Bảng 2.4 So sánh mức độ tình hình các tội XPTDTE với tình hình tội phạm xâm hại trẻ em trên địa bàn miền Tây
Nam Bộ - từ năm 2007 - 2018 [100]
Năm Tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn TNB Tình hình tội phạm XHTE trên địa bàn TNB Tỷ lệ %
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 TC 2018 TC số vụ (1) 325 279 286 292 311 314 348 398 401 417 422 3793 451 4244 số bị cáo (2) 327 286 291 296 313 319 355 402 410 419 426 3844 483 4327 số vụ (3) 345 321 332 336 334 385 368 432 415 453 447 4198 486 4684 số bị cáo (4) 352 338 343 341 345 391 371 441 453 461 453 4289 492 4781 (1)/(3) 94,2 86,9 86,1 86,9 93,1 81,5 94,6 92,1 90,1 92,0 94,4 90,3 92,7 90,6 (2)/(4) 92,8 84,6 84,8 86,8 90,7 81,5 95,7 91,1 90,5 90,8 94,1 89,6 98,1 90,5
Pl.4
Bảng 2.5. Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ với Tây Nguyên và Đông
Nam Bộ trên cơ sở dân số và diện tích từ năm 2007 - 2017 [100]
STT Khu Vực Số vụ Số bị cáo Dân số (người) Số dân/bị cáo Số bị cáo/diện tích
Diện tích (Km2) 40.576.00 1 Tây Nam Bộ 17.517.600 3793 3844 4.557 0,094
2 Đông Nam Bộ 15.790.400 23.590,70 3.123 3255 4.851 0,137
3 Tây Nguyên 6.525.800 54.691,00 1072 1189 5.488 0,021
Bảng 2.6 Cấp độ nguy hiểm của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ, Tây Nguyên và Đông
Nam Bộ trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích. [100]
Hệ số tiêu cực Cấp độ nguy hiểm Khu Vực
STT 1 Tây Nam Bộ Thứ bậc đã xác định theo dân số 1 Thứ bậc đã xác định theo diện tích 2 3 1
2 Đông Nam Bộ 2 1 3 2
3 Tây Nguyên 3 3 6 3
Pl.5
Bảng 2.7 Mức độ tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ so với
số liệu các tội xâm phạm tình dục của cả nước từ năm 2007 - 2018 [100]
Tỷ lệ % Tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn Miền Tây Nam Bộ Tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn cả nước Năm
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 TC 2018 TC 325 279 286 292 311 314 348 398 401 417 422 3793 451 4244 Số bị cáo 27,6 30,4 25,7 27,1 26,9 29,4 28,9 31,7 25,4 27,6 23,1 24,6 21,1 22,5 28,1 28,8 26,25 27,13 25,25 26,61 24,60 25,58 25,50 27,07 29,47 29.81 27,30 25,911 327 286 291 296 313 319 355 402 410 419 426 3844 483 4327 1.068 1.028 970 921 1.127 1.278 1.545 1.382 1.478 1.567 1.650 14.014 1.530 15.544 1.181 1.113 1.082 1.023 1.230 1.381 1.683 1.433 1.562 1.659 1.732 15.079 1.620 16.699
Pl.6
Bảng 2.8 Diễn biến của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 – 2018 [100]
Vụ án Bị cáo Tỷ lệ % vụ án So với năm 2007 Tỷ lệ % bị cáo So với năm 2007 Năm
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 BQDBTP 325 279 286 292 311 314 348 398 401 417 422 451 + 21,8 327 286 291 296 313 319 355 402 410 419 426 483 + 24,7 100 85,8 (-14,15%) 88 (-12%) 89,8 (-10,15%) 95,7 (- 4,3%) 96,7 (-3,3%) 107,07 (+7,07%) 122,4 (+22,4%) 123,3 (+23,3%) 128,3 (+28,3%) 129,8 (+29,8%) 138,7 (+38,7%) + 6,69 100 87,4 (-12,53%) 89 (-11%) 90,5 (-9,48%) 95,72 (-4,28%) 97,6 (-2,4%) 108,56(+8,56%) 122,9 (+22,9%) 125,3 (+25,3%) 128,1 (+28,1%) 130,2 (+30,2%) 147,7 (+47,2%) +7,54
Bảng 2.9 So sánh diễn biến tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 [100]
Giai đoạn Tổng số án XPTDTE đã xét xử Số trung bình năm Tỉ lệ gia tăng
2007 - 2009 2010 - 2012 2013 - 2015 2016 - 2018 Số vụ 890 917 1147 1290 Số Bị cáo 904 928 1167 1328 Số vụ 296,6 305,6 382,3 430 SốBị cáo 301,3 309,3 389,0 442,6 Tỉ lệ bị cáo/vụ % 1,57 1,19 1,74 2,94 số vụ 100% 100+ 3,03% 100+ 28,87% 100+ 44,94% Số bị cáo 100% 100+2,65% 100+29,09% 100+46,9%
Pl.7
Bảng 2.10 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em của các tỉnh thành thuộc địa bàn miền Tây Nam Bộ
xét theo tội danh – theo quy định BLHS 1999 – SĐBS 2009 [100]
Xâm hại tình dục trẻ em Dâm ô trẻ em Hiếp dâm trẻ em Năm Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Cưỡng dâm trẻ em Giao cấu với trẻ em Bị cáo Bị cáo Vụ Vụ Vụ Bị cáo
2007 325 327 212 213 0 102 103 11 11 0
2008 279 286 146 151 0 115 117 18 18 0
2009 286 291 160 161 0 109 113 17 17 0
2010 292 296 149 150 1 120 123 22 22 1
2011 311 313 163 164 0 130 131 18 18 0
2012 314 319 170 171 1 123 117 20 20 1
2013 348 355 190 192 0 135 140 23 23 0
2014 398 402 215 216 0 143 146 40 40 0
2015 401 410 219 223 0 140 145 42 42 0
2016 417 419 233 234 1 146 147 37 37 1
2017 422 426 245 247 0 134 136 43 43 0
3 3 TC 3793 3844 2102 2122 1397 1418 291 291
Tỷ lệ % 55,42 55,20 0,08 0,08 36,83 36,89 7,58 7,58
Pl.8
Bảng 2.11 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên cơ sở dân số của các tỉnh, thành phố thuộc
địa bàn Tây Nam Bộ [100]
Số dân/1 bị cáo STT Địa bàn Dân số
Cà Mau Số BC XPTDTE 561 1 1.219.900 2.174
Hậu Giang 2 266 773.800 2.909
Vĩnh Long 3 287 1.092.730 3.807
Trà Vinh 4 260 1.012.600 3.894
Sóc Trăng 5 334 1.308.300 3.917
Kiên Giang 6 426 1.738.800 4.081
Đồng Tháp 7 311 1.680.300 5.402
Cần Thơ 8 260 1.450.000 5.576
Bạc Liêu 9 216 1.262.000 5.842
Long An 10 235 1.490.600 6.342
Bến Tre 11 185 1.262.000 6.821
An Giang 12 289 2.155.300 7.457
Tiền giang 13 214 1.703.400 7.959
Tổng 3844 18.149.730 4.721
Pl.9
Bảng 2.12 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên cơ sở diện tích của các tỉnh, thành phố
thuộc địa bàn miền Tây Nam Bộ [100]
STT Địa bàn
Số BC XPTDTE 287 Diện tích 1.475 Số bị cáo/1km2 0,1945 1 Vĩnh Long
260 1.439,2 0,1806 2 Cần Thơ
266 1.602,4 0,1660 3 Hậu Giang
260 2.341,2 0,1110 4 Trà Vinh
561 5.294,9 0,1059 5 Cà Mau
334 3.311,6 0,1008 6 Sóc Trăng
311 3.378,8 0,0920 7 Đồng Tháp
216 2.526 0,0855 8 Bạc Liêu
214 2.508,6 0,0853 9 Tiền giang
289 3.536,7 0,0817 10 An Giang
185 2.359,5 0,0784 11 Bến Tre
426 6.348,5 0,0671 12 Kiên Giang
235 4.491,9 0,0523 13 Long An
3844 40.614,3 0,0946 Tổng
Pl.10
Bảng 2.13 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em của các tỉnh thành thuộc địa bànTây Nam Bộ
trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích. [100]
STT Địa bàn
Thứ bậc xác định theo dân cư và diện tích 3+1 Hệ số tiêu cực 4 Cấp độ nguy hiểm 1 1 Vĩnh Long
2+3 5 2 2 Hậu Giang
1+5 6 3 3 Cà Mau
4+4 8 4 4 Trà Vinh
8+2 10 5 5 Cần Thơ
5+6 11 6 6 Sóc Trăng
7+7 14 7 7 Đồng Tháp
9+8 17 8 8 Bạc Liêu
6+12 18 9 9 Kiên Giang
11+11 22 10 10 Bến Tre
12+10 22 11 11 An Giang
13+9 22 12 12 Tiền Giang
10+13 23 13 13 Long An
Pl.11
Bảng 2.14 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 - 20182007 - 2018 xét theo thời gian gây án [100]
Thời gian gây án trong các vụ xâm phạm tình dục trẻ em
Từ 11 -16 giờ Từ 16 đến 21 giờ Từ 21 giờ hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau Tổng số vụ án
Từ 6 - 11giờ số vụ tỷ lệ % số vụ tỷ lệ % số vụ tỷ lệ % số vụ tỷ lệ %
149 30,7 162 113 23,3 61 12,6 485
33,4
Bảng 2.15: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 – 2018 xét theo địa điểm phát sinh tội phạm [100]
Địa điểm gây án trong các vụ xâm phạm tình dục trẻ em
Nhà nạn nhân tại nhà bị cáo nhà trọ, khách sạn Tổng số vụ án khu vực vắng, đền chùa, nhà bỏ hoang, khu vực ít người quán karaoke, tụ điểm vui chơi khu vực đầm nước, chòi canh tôm, khu vực mương nước, vườn cây, cồn cát, bãi biễn....
số vụ tỷ lệ tỷ lệ tỷ lệ tỷ lệ số vụ tỷ lệ số vụ tỷ lệ
485 175 36,1% số vụ 43 8,8% số vụ 96 19,7% số vụ 26 5,3% 85 17,5% 60 12,4%
Pl.12
Bảng 2.16: Cơ cấu về nạn nhân của các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 – 2018 xét theo độ tuổi và giới tính của nạn nhân [100]
Tỷ lệ % Tổng số nạn nhân Độ tuổi
Số nạn nhân (nam) 0 0 03 0 0 0,6 501 Dưới 6 tuổi Từ 6 đến dưới 13 tuổi Trên 13 đến dưới 16 tuổi Tỷ lệ % 14,2 55,7 29,5
số nạn nhân (nữ) 71 279 148
Bảng 2.17: Cơ cấu của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 – 2018 xét theo thủ đoạn phạm tội [100]
Thủ đoạn gây án trong các vụ xâm phạm tình dục trẻ em
Uy hiếp tinh Dụ dỗ cho tiền, Quan hệ yêu Lối sống buông Địa hình vắng, Dụ dỗ về nơi Hạn chế về Tổng
thần, vũ lực quà bánh, đồ đương, bạn bè thả/say rượu bia, hẻo lánh ở của đối nhận thức số vụ
chơi, quần áo mạng xã hội ma túy tượng án
485 165 34,1% 91 18,7% 115 23,7% 47 9,7% 28 5,7% 35 16,5 4 0,82%
Pl.13
Bảng 2.18: Cơ cấu của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 – 2018 xét theo mối quan hệ giữa nạn nhân với người phạm tội [100]
Tổng số vụ Mối quan hệ với nạn nhân số bị cáo tỷ lệ %
Bố đẻ, bố dượng 5 1,0
485 Quan hệ thân thích (ông bác,chú, cậu, dượng.. 27 5,6
Bạn bè quen biết 30 6,2
Anh em, họ hàng 45 9,3
Người Yêu 153 31,5
Hàng xóm 75 15,5
Người quen biết 124 25,5
Không quen biết 26 5,4
Pl.14
Bảng 2.19: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 – 2018 xét theo độ tuổi của người phạm tội [100]
Độ Tuổi
2007 87 2008 76 2009 78 2010 2011 2012 90 86 82 2013 94 2014 108 2015 109 2016 111 2017 Tổng 1.035 114
Tỉ lệ % 26,9 45,8
Dưới 18 tuổi Từ đủ 18 đến 30 tuổi Trên 30 đến 45 tuổi Trên 45 đến 70 tuổi Trên 70 tuổi 163 56 19 2 143 49 17 1 141 53 16 3 139 57 14 4 150 59 16 2 154 60 15 0 163 73 23 2 172 92 25 5 174 97 27 3 180 101 21 6 183 107 20 2 1.762 804 213 30 21,0 5,5 0,8
Bảng 2.20: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 – 2018 xét theo trình độ học vấn của người phạm tội [100]
Tổng số bị cáo Trình độ học vấn số bị cáo Tỷ lệ %
500 không biết chữ 165 33
Tiểu học 201 40,2
Trung học cơ sở 116 23,2
Trung cấp, cao đẳng, đại học 18 3,6
Sau đại học 0 0
Pl.15
Bảng 2.21: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo nghể nghiệp của người phạm tội [100]
Nghề nghiệp của bị cáo số bị cáo Tỷ lệ % Tổng số bị cáo
Không nghề nghiệp 14,6 73 500
Nghề tự do 37,4 187
Nông dân 23 115
Nuôi trồng thủy sản 13,8 69
Học sinh, sinh viên 9 45
Cán bộ, công nhân viên chức 2,2 11
Bảng 2.22: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 – 2018 xét theo cơ cấu dân tộc của người phạm tội [100]
Cơ cấu dân tộc
Kinh Hoa Khmer Khác Tổng số đối tượng
Số ĐT Tỷ lệ % Số ĐT Tỷ lệ% Số ĐT Tỷ lệ% Số ĐT Tỷ lệ%
500 301 60,2 20 178 35,6 1 0,2 4,0
Pl.16
Bảng 2.23: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 – 2018 xét theo hoàn cảnh gia đình [100]
Tổng số bị cáo Hoản cảnh người phạm tội
Đã từng kết hôn Người phạm tội chưa từng kết hôn
Đã kết hôn Ly hôn Còn Cha mẹ Mất cha hoặc mẹ Mất cha và mẹ/ mồ côi cha mẹ Cha mẹ ly hôn
182 57 85 54 35 87
36,4% 11,4% 17% 10,8% 7% 17,4%
47,8% 500 52,2%
Bảng 2.24 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 – 2018 xét theo hình phạt áp dụng đối với người phạm tội [100]
Tổng số bị cáo
Trong đó hưởng án treo Hình phạt được Tòa án áp dụng Tù trên 7 năm đến 15 năm Tù từ 3 năm đến7 năm dưới 3 năm tù Tù trên 15 năm Tù chung thân
68 10 62 15 144 201
13,6% 2% 500 12,4% 3% 28,8% 40,2%
Pl.17
Bảng 2.25: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 – 2018 xét theo đặc điểm pháp lý – hình sự [100]
Tổng số bị cáo Phạm tội
Tiền án, tiền sự Phạm tội lần đầu Tái phạm Tái phạm nguy hiểm
45 424 27 4
500 9% 84,8% 5,4% 0,8%
Bảng 2.26: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
từ năm 2007 – 2018 xét theo người phạm tội sử dụng bia, rượu và các yếu tố kích thích khác. [100]
Tổng số bị cáo Tình trạng số bị cáo Tỷ lệ %
Có sử dụng rượu/ bia 285 57%
Xem phim/truyện sex, văn hóa phẩm đồi 500
trụy 84 16,8 %
Không sử dụng rượu, bia 131 26,2%
Pl.18
Bảng 2.27: Cơ cấu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ thống kê theo số vụ, số bị can
phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em bị đình chỉ điều tra, truy tố, xét xử. [100]
Số bị can Tỷ lệ % số vụ Tỷ lệ % số bị can Tiêu chí Số vụ
Cơ quan điều tra khởi tố 4221 4432 100 100
Cơ quan điều tra đình chỉ 207 227 5,45 5,91
Viện kiểm sát đình chỉ 93 102 2,2 2,3
Tòa án đã xét xử 3793 3844 bị cáo 89,86 86,73
Bảng 2.28: Cơ cấu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em xét theo vụ án có hành vi xâm phạm tình dục nhiều lần trước
khi bị phát hiện trên địa bàn miền Tây Nam Bộ [100]
số vụ 283 Tỷ lệ % 58,35
87 17,94
Thời gian ẩn Phát hiện lần đầu sau khi gây án Phát hiện lần đầu sau khi gây án từ 1 đến 6 tháng Phát hiện hành vi thực hiện nhiều lần trong thời gian từ 1 - 6 tháng Phát hiện trong thời gian từ 6 - 12 tháng Phát hiện từ 12 tháng trở lên 55 34 26 11,34 7,01 5,36
Pl.19
Miền Tây Nam Bộ
27,07%
Cả nước
72,93%
Biểu đồ 2.1: So sánh tình hình biến tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ với tình hình XPTD trẻ em của cả nước
483
417 422
451
398 401
348
314
325
410 419 426
279 286 292 311
402
355
327
Số vụ
296 313 319
286 291
Số bị cáo
550 500 450 400 350 300 250 200 150 100 50 0
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Biểu đồ 2.2 Diễn biến tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Miền Tây Nam Bộ - từ năm 2007 - 2018
Pl.20
Biểu đồ 2.3 Cơ cấu của tình hình các tội về xâm phạm tình dục trẻ em trên các địa bàn miền Tây Nam Bộ
600
500
400
300
200
100
0
Cần Thơ Số vụ án 257 Số bị cáo 260
Hậu Giang 262 266
sóc Trăng 331 334
Vĩnh Long 284 287
Đồng Tháp 307 311
Kiên Giang 421 426
Bạc Liêu 211 216
Cà Mau 558 561
Trà Vinh 253 260
Bến Tre 181 185
Long An 232 235
Tiền Giang 210 214
xét theo số vụ án và số bị cáo - từ năm 2007 - 2018
An Giang 286 289
Pl.21
Biểu đồ 2.4 Cơ cấu của tình hình các tội về xâm phạm tình dục trẻ em trên các địa bàn xét theo tội danh
7.58
36.83
Hiếp dâm trẻ em Cưỡng dâm trẻ em Giao cấu với trẻ em Dâm ô trẻ em
55.42
0.08
từ năm 2007 - 2018
Biểu đồ 2.5 Cơ cấu theo độ tuổi của nạn nhân bị xâm phạm tình dục trên địa bàn miền Tây Nam Bộ
14.6%
Dưới 6 tuổi
27.9%
Từ 6 đến dưới 13 tuổi
57.5%
Trên 13 đến dưới 16 tuổi
từ năm 2007 - 2018
Pl.22
Biểu đồ 2.6 Cơ cấu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ xét theo mối
Bố đẻ, bố dượng
1% 5,6%
5,4%
9,3%
6.2%
Quan hệ thân thích (ông bác,chú, cậu, dượng.. Anh em họ
25,5%
Bạn bè
Người Yêu
15,5%
33%
Hàng xóm
Người quen biết
quan hệ giữa nạn nhân với người phạm tội - từ năm 2007 - 2018
Biểu đồ 2.7 Cơ cấu tình hình các tội XPTDTE xét theo độ tuổi của người phạm tội trên địa bàn
5.5 0.8
26.9%
21%
45.8%
Dưới 18 tuổi
Từ đủ 18 đến 30 tuổi Trên 30 đến 45 tuổi
Trên 45 đến 70 tuổi
Trên 70 tuổi
miền Tây Nam Bộ - từ năm 2007 - 2018
Pl.23
Biểu đồ 2.8 Cơ cấu theo trình độ văn hóa của người phạm tội về xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền
3.6% 0%
Không biết chữ
23.2%
33%
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung cấp, cao đẳng, đại học
Sau đại học
40.2%
Tây Nam Bộ- từ năm 2007 - 2018
Biểu đồ 2.9 Cơ cấu theo nghề nghiệp của người phạm tội về xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền
Không nghề nghiệp
9% 2.2%
14.6%
Nghề tự do
13.8%
Nông dân
Nuôi trồng thủy sản
37.4%
Học sinh, sinh viên
23%
Cán bộ, công nhân viên chức
TâyNam Bộ - từ năm 2007 - 2018
Pl.24
THỐNG KÊ CÁC BẢN ÁN ĐIỂN HÌNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN MIỂN TÂY NAM BỘ - TỪ NĂM 2007 – 2018
Huỳnh Cẩm Tú, bản án số: 01/2007/HS-ST ngày 12/01/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Xuân Thiện, bản án số 05/2007/HSST ngày 19/1/2007 của TAND tỉnh Đồng Tháp
Nguyễn Văn Rơi, bản án số: 05/2007/HSST ngày 24/01/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Văn Linh, bản án số: 08/22007/HSST ngày 26/01/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Hồ Văn Lâm, bản án số: 09/2007/HSST ngày 26/01/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Hồ Hoàng Minh, bản án số: 15/2007/HSST ngày 10/4/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Lê Văn Thảo, bản án số: 24/2007/HSST ngày 16/4/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Trần Văn Hùng, bản án số: 24/2007/HS-ST ngày: 24/4/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Văn Thọ, bản án số: 28/2007/HS-ST ngày: 26/4/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn VĂn Tiếp, bản án số: 24/2007/HSST ngày 10/5/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Trần Văn Cường, bản án số: 25/2007/HSST ngày 11/5/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Kiên Sa Mi, bản án số: 29/2007/HSST ngày 17/5/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Trần Văn Cọp, bản án số: 35/2007/HSST ngày 11/6/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Biện Quốc Việt, bản án số: 37/2007/HSST ngày 12/6/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Danh Phước Long, Nguyễn Quốc Trí, bản án số: 34/2007/HSST ngày 11/6/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Thanh Hải, bản án số: 44/2007/HS-ST ngày: 16/6/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Pl.25
Nguyễn Văn Phụng, bản án số: 55/2007/HS-ST ngày: 10/8/2007của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Văn Hà, bản án số: 62/2007/HS-ST ngày: 14/8/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Dương Văn Diện, bản án số: 60/2007/HSST ngày 28/8/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Văn Lâm, bản án số 31/2007/HSST ngày 28/8/2007 của TAND tỉnh Đồng Tháp
Trần Minh Tuấn, bản án số 28/2007/HSST ngày 5/9/2007 của TAND tỉnh Bến Tre
Trần Văn Tuấn, Phạm Văn Vững, Nguyễn Hoàng Tiên, Ngô Bảo Anh, Phan Phú Lộc, bản án số 37/2007/HSST
của TAND tỉnh Hậu Giang
Trần Văn Phục, bản án số: 74/2007/HS-ST ngày: 25/10/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Lê Văn Trung, bản án số 20/2007/HSST ngày 26/10/2007 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
Mạch Phước Lộc, bản án số: 80/2007/HS-ST ngày: 22/11/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Kiên Tân, bản án số 72/2007/HSST ngày 4/12/2007 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Văn Khe, bản án số: 75/2007/HS-ST ngày: 04/12/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Trần Tài Đức, bản án số: 90/2008/HSST ngày 01/9/2008 của TAND thị xã Tân An tỉnh Long An
Nguyễn Văn Hận, bản án số 05/2008?HSST ngày 22/01/2008 của TAND thị xã Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang
Hồ Huy Khánh, bản án số 68/HSST ngày 23/9/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh
Kiên Tô La, bản án số: 08/2008/HSST ngày 22/01/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh
Dương Thanh Điền, bản án số: 08/2008/HS-ST ngày: 28/01/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh
Sơn Linh, bản án số: 13/2008/HSST ngày 18/3/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh
Kiên Minh, bản án số 14/2008/HSST ngày 18/3/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh
Pl.26
Thạch Nhanh, bản án số: 14/2008/HSST ngày 20/3/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh
Thạch Thảo, bản án số: 19/2008/HSST ngày 16/5/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh
Thạch Dươnl, bản án số: 20/2008/HSST ngày 16/6/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh
Hồ Quốc Tài, bản án số: 27/2008/HSST ngày 18/6/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh
Kim Son, bản án số: 29/2008/HSST ngày 22/6/2008 của TAND tỉnh An Giang
Dương Văn Hai, bản án số 33/2008/HSST ngày 22/6/2008 của TAND tỉnh Đồng Tháp
Nguyễn Thành Chia, bản án số: 30/2008/HSST ngày 31/7/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh
Lê Văn Tuyền, bản án số: 49/2008/HS-ST ngày: 09/8/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh
Lê Văn Kim, bản án số 32/2008/HSST ngày 9/8/2008 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Dương Văn Phương bản án số 29/2008/HSST ngày 20/8/2009 của TAND tỉnh Đồng Tháp
Võ Văn Chiều, bản án số: 23/2008/HSST ngày 25/8/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh
Viên Vinh Hận, bản án số: 39/2008/HSST ngày 01/9/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh
Thạch Thanh Trà, bản án số: 41/2008/HSST ngày 03/9/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Văn Mãi Em, bản án số: 03/2009/HSST ngày 09/01/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh
Lâm Văn Dũng, bản án số: 02/2009/HSST ngày 08/01/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh
Trương Minh Hải, bản án số: 01/HS-ST ngày: 12/02/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh
Thạch Trung Thành, bản án số: 09/HS-ST ngày: 20/02/2009 của TAND huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
Hồng Văn Chiến, bản án số: 09/2009/HSST ngày 25/02/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh
Danh Chí Cường, bản án số: 16/2009/HSST ngày 20/4/2009/HSST của TAND tỉnh Trà Vinh
Pl.27
Trương Văn Phương, bản án số: 18/2009/HSST ngày 21/4/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Văn Kê, bản án số: 21/2009/HSST ngày 28/4/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh
Thạch Ngọc Liên, bản án số: 22/2009/HSST ngày 18/5/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh
Thạch Hải. Bản án số: 47/HS-ST ngày: 04/8/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh
Trương Dũng Sỹ, bản án số: 35/2009/HSST ngày 25/8/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh
Trương Văn Công, bản án số: 36/2009/HSST ngày 09/11/2009 của TAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.
Nguyễn Văn Sinh, bản án số: 25/2009/HSST ngày 12/11/2009 của TAND huyện Châu Phú, Tỉnh An Giang
Trần Minh Kiên, bản án số 20/2009/HSST ngày 16/11/2009 của TAND huyện Ba Tri. Tỉnh Bến Tre
Trần Văn Trưởng, bản án số 33/2009/HSST ngày 17/11/2009 của TAND huyện Tân Phú, tỉnh Cà Mau
Nguyễn Văn Tình, bản án số 19/2009/HSST ngày 22/11/2009 của TAND thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
Lê Vũ Toàn, bản án số: 56/2009/HSST ngày 03/12/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh
Lê Thanh Ngà, bản án số 04/2010/HSST ngày 14/01/2010 của TAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.
Lê Chanh Thi, bản án số 04/2010/HSST ngày 12/3/2010 của TAND Tỉnh Trà Vinh.
Kim Tha, bản án số 11/2010/HSST ngày 12/3/2010 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Văn Huệ, bản án số 13/2010/HSST ngày 26/5/2010 của TAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.
Thạch Nhựt Sa Mươn, bản án số: 07/2010/HSST ngày 31/5/2010 của TAND tỉnh Trà Vinh
Dương Hồng Dương, bản án số: 10/2010/HSST ngày 01/6/2010 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Văn Sang, bản án số: 39/HS-ST ngày: 01/06/2010 của TAND huyện Trần Đề, tỉnh Trà Vinh
Trần Văn Tàu, bản án số: 29/HS-ST ngày: 03/6/2010 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang
Pl.28
Nguyễn Hoàng Nam, bản án số: 40/HS-ST ngày: 13/7/2010 của TAND Huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau
Lê Thành Tài, bản án số: 49/HS-ST ngày: 04/08/2010 của TAND huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau
Trương Ngọc Phi, bản án số: 13/2010/HS-ST ngày: 10/8/2010 của TAND tỉnh Trà Vinh
Đoàn Văn Lắm, bản án số 15/2010/HSST ngày 13/8/2010 của TAND Tỉnh Trà Vinh.
Nguyễn Anh Tuấn, bản án số 12/2010/HSST ngày 19/8/2010 của TAND huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau
Kim Binh Tha, bản án số: 42/2010/HS-ST ngày: 19/8/2010 của TAND huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng
Kim Thanh Hùng, bản án số 19/2010/HSST ngày 30/8/2010 của TAND Tỉnh Trà Vinh.
Kim Thi, bản án số 20/2010/HSST ngày 31/8/2010 của TAND Tỉnh Trà Vinh.
Lê Tấn Quân, bản án số: 66/HS-ST ngày: 20/9/2010 của TAND huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre
Thạch Phép, bản án số: 69/HS-ST ngày: 23/9/2010 của TAND huyện Mỹ Tú tỉnh Sóc Trăng
Sơn Kra SaNa, bản án số: 30/2010/HS-ST ngày: 15/11/2010 của TAND tỉnh Trà Vinh
Trần Hữu Thái, bản án số: 32/2010/HSST ngày 17/11/2010 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Anh Tuấn, bản án số: 61/2010/HS-ST ngày: 01/12/2010 của TAND Huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre
Lý Công Bình, bản án số: 35/2010/HS-ST ngày: 27/12/2010 của TAND tỉnh Trà Vinh
Trần Văn Phước, bản án số: 90/HS-ST ngày: 30/12/2010 của TAND tỉnh Bạc Liêu
Sơn Minh Trung, bản án số: 67/HSST ngày 30/12/2010 của TAND tỉnh An Giang
Nguyễn Thanh Thắng, bản án số: 03/2011/HSST ngày 18/01/2011 của TAND thành phố Tân An, tỉnh Long An
Huỳnh Văn Mỹ, bản án số: 03/2011/HSST ngày 20/01/2011 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Văn Thông, bản án số: 03/HS-ST ngày: 17/02/2011 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh An Giang
Pl.29
Huỳnh Văn Ninh, bản án số: 18/HS-ST ngày: 25/03/2011 của TAND huyện Trần Văn Thời, Tỉnh Cà Mau
Nguyễn Văn Dương, bản án số: 12/2011/HSST ngày 31/5/2011 của TAND tỉnh Trà Vinh
Phan Văn Miền, bản án số: 133/2011/HSST ngày 04/7/2011 của TAND tỉnh Trà Vinh
Bùi Vũ Luân, bản án số 27/2011/HSST ngày 15/8/2011 của TAND huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang
Kim Hoàng Phúc, bản án số 15/2011/HSST ngày 18/8/2011 của TAND Tỉnh Trà Vinh.
Dương Văn Chuyền, bản án số: 19/2011/HSST ngày 23/8/2011 của TAND tỉnh Trà Vinh
Lê Văn Kha, bản án số: 16/2011/HSST ngày 18/8/2011 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Văn Tuấn, bản án số: 26/2011/HSST ngày 08/12/2011 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Vũ Linh, bản án số 58/2011/HSST ngày 23/12/2011 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Bùi Tấn Giang, bản án số 03/2012/HSST ngày 16/2/2012 của TAND Tỉnh Tiền Giang
Huỳnh Văn Hoàng, bản án số: 04/2012/HSST ngày 22/02/2012 của TAND tỉnh Trà Vinh
Lê Văn Ngọt, bản án số 14/2012/HSST ngày 22/5/2012 của TAND Tỉnh Trà Vinh.
Cao Văn Vũ, bản án số: 15/2012/HSST ngày 22/5/2012 của TAND tỉnh Trà Vinh
Lê Thanh Hậu, bản án số 84/2012/HSST ngày 10/7/2012 của TAND Thành phố Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang
Bùi Ngọc Thanh Tùng, bản án số 44/2012/HSST ngày 13/7/2012 của TAND Tỉnh Long An
Nguyễn Văn Nhung, bản án số 49/2012/HSPT ngày 17/8/2012 của TAND tỉnh Long An
Kim Cân, bản án số: 25/2012/HSST ngày 18/7/2012 của TAND tỉnh Trà Vinh
Đào Tấn Nhất, bản án số 46/2012/HSST ngày 18/7/2012 của TAND tỉnh Long An
Thạch Sóc, bản án số 42/2012/HSST ngày 20/7/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Pl.30
Sơn Huỳnh, bản án số 47/2012/HSST ngày 22/8/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Ngô Tuấn Anh, bản án số 48/2012/HSST ngày 23/8/2012 của TAND Tỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Luân, bản án số 69/2012/HSST ngày 24/9/2012 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Huỳnh Văn Chung, bản án số 98/2012/HSST ngày 25/9/2012 của TAND tỉnh An Giang
Nguyễn Văn Ngọc Mản, bản án số 42/2012/HSST ngày 22/10/2012 của TAND Tỉnh Vĩnh Long.
Tô Tấn Hưng, bản án số 67/2012/HSST ngày 23/10/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Lâm Tấn Tài, bản án số 122/2012/HSPT ngày 22/11/2012 của TAND tỉnh An Giang
Đặng Văn Tròn, bản án số 139/2012/HSST ngày 22/11/2012 của TAND tỉnh Đồng Tháp
Đoàn Hưng, bản án số 48/2012/HSST ngày 23/11/2012 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Huỳnh Văn Hải, bản án số 142/2012/HSST ngày 23/11/2012 của TAND tỉnh Bến Tre
Lý Sinh, bản án số 73/2012/HSST ngày 23/11/2012 của TANDTỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Văn Tiền, bản án số 65/2012/HSST ngày 27/11/2012 của TAND tỉnh Long An
Nguyễn Văn Vĩnh, bản án số 75/2012/HSST ngày 27/11/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Trần Văn Dũng, bản án số 76/2012/HSST ngày 28/11/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Văn Hẹn, bản án số 69/2012 ngày 29/11/2012 của TAND tỉnh Long An
Hồ Văn Hùng Em, bản án số 219/2012/HSPT ngày 03/12/2012 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Nguyễn Minh Thảo, bản án số 49/2012/HSST ngày 04/12/2012 của TAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.
La Thành Nghiệp, bản án số 84/2012/HSST ngày 04/12/2012 của TAND tỉnh Kiên Giang
Huỳnh Toàn, bản án số 87/2012/HSST ngày 05/12/2012 của TAND tỉnh Kiên Giang
Pl.31
Nguyễn Hòa, bản án số 25/2012/HSST ngày 05/12/2012 của TAND tỉnh của TAND tỉnh Hậu Giang
Đinh Văn Lố, bản án số 26/2012/HSST ngày 11/12/2012 của TAND tỉnh Hậu Giang
Mai Phú, bản án số 229/2012/HSPT ngày 11/12/2012 của TAND tỉnh Tiền Giang
Lâm Luội, bản án số 80/2012/ST ngày 11/12/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng.
Ngô Văn Phi, bản án số 81/2012/HSST ngày 13/12/2012 của TAND Tỉnh Sóc Trăng
Trương Ngọc Thanh Phước, bản án số 83/2012/ST ngày 17/12/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Hồ Hoàng Phú, bản án số 49/2012/ST ngày 18/12/2012 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Thanh Hậu, bản án số 21/2012/HSST ngày 18/12/2012 của TAND tỉnh An Giang
Nguyễn Hồng Thắng, bản án số 28/2012/HSST ngày 19/12/2012 của TAND Tỉnh Hậu Giang
Lê Thanh Chung, bản án số 89/2012/HSST ngày 24/12/2012 của TAND tỉnh An Giang
Đặng Thiện, bản án số 50/2012/HSST ngày 27/12/2012 của TAND Tỉnh Vĩnh Long
Cao Văn Dũng, bản án số 10/2013/HSPT ngày 11/1/2013 của TAND
Nguyễn Thành Hưng, bản án số 04/2013/HSST ngày 16/1/2013 của TAND tỉnh An Giang
Nguyễn Văn Chung, bản án số 02/2013/HSST ngày 16/1/2013 của TAND tỉnh Kiên Giang
Nguyễn Miên, bản án số 17/2013/HSPT ngày 18/01/2013 của TAND tỉnh Kiên Giang
Tô Văn Định, bản án số 03/2013/HSST ngày 19/01/2013 của TAND tỉnh Tiền Giang
Đỗ Ngọc Hữu Nghĩa, bản án số 05/2013/HSST ngày 21/1/2013 của TAND thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang
Huỳnh Văn Thuận, bản án số 06/2013/HSST ngày 21/1/2013 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Phạm Văn Thương, bản án số 02/2013/HSST ngày 23/01/2013 của TAND tỉnh Long A
Pl.32
Lê Quốc Nhựt, bản án số 09/2013/HSST ngày 24/01/2013 của TAND tỉnh Tiền Giang
Trần Văn Phùng, bản án số 05/2013/HSST ngày 25/1/2013 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Phù Chí Tâm, bản án số 10/2013/HSST ngày 29/01/2013 của TAND tỉnh Kiên Giang
Đào Ngọc Lộc, bản án số 12/2013/HSST ngày 22/2/2013 của TAND Tỉnh An Giang
Nguyễn Tùng, bản án số 13/2013/HSST ngày 26/2/2013 của TAND tỉnh Kiên Giang
Phạm Minh Trí, bản án số 15/2013 HSST ngày 27/2/2013 của TAND Thành Phố Cần Thơ
Lý Vũ Hùng, bản án số 17/2013/HSST ngày 04/3/2013 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Bùi Văn My, bản án số 14/2013/HSST ngày 06/3/2013 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Trần Nhựt Thắng, bản án số 29/2013/HSPT ngày 06/3/2013 của TAND tỉnh Long An
Lê Văn Các, bản án số 17/2013/HSST ngày 07/3/2013 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Nguyễn Huy, bản án số 18/2013/ST ngày 07/3/2013 của TAND Tỉnh Tiền Giang
Nguyễn Văn Rô, bản án số 13/2013/HSST ngày 7/3/2013 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Lâm Thanh Lãm, bản án số 55/2013/HSPT ngày 11/3/2013 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Huỳnh Tấn Phát, bản án số 07/2013/HSST ngày 11/3/2013 của TAND Tỉnh Vĩnh Long
Kiên Minh Trí, bản án số 18/2013/HSST ngày 13/3/2013 của TAND tỉnh Kiên Giang
Đồng Văn Đợi, bản án số 31/2013/PT ngày 17/3/2013 của TAND tỉnh Long An
Nguyễn Văn Tân, bản án số 14/2013/HSST ngày 19/3/2013 của TAND tỉnh Long An
Lê Thanh Điền, bản án số 15/2013/HSST ngày 20/3/2013 của TAND tỉnh Long An
Lâm Chiên, bản án số 17/2013/HSST ngày 25/3/2013 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Pl.33
Đặng Ngọc Phước, bản án số 24/2013/HSST ngày 01/4/2013 của TAND Tỉnh Long An
Trần Quốc Tính, bản án số 10/2013/HSST ngày 02/4/2013 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Liêu Bảnh, bản án số 25/2013/HSST ngày 04/4/2013 của TAND tỉnh Kiên Giang
Nguyễn Phước Thiện, bản án số 11/2013/HSST ngày 05/4/2013 của TAND Tỉnh Vĩnh Long
Trần Minh Thanh, bản án số 05/2013/HSST ngày 08/4/2013 của TAND tỉnh Hậu Giang
Hồ Chí Cường, bản án số 06/2013/HSST ngày 09/4/2013 của TAND tỉnh Hậu Giang
Trương Khang, bản án số 27/2013/HSST ngày 09/4/2013 của TAND tỉnh Long An
Nguyễn Văn Do, bản án số 07/2013/HSST ngày 11/4/2013 của TAND tỉnh Hậu Giang
Nguyễn Tấn Dũng, bản án số 63/2013/HSST ngày 15/4/2013 của TAND thành phố Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang
Nguyễn Hận, bản án số 23/2013/HSST ngày 17/4/2013 của TAND Tiền Giang
Huỳnh Quang Trung, bản án số: 69/2013/HSST ngày 23/4/2013 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ
Thạch Dương, bản án số 22/2013/HSST ngày 13/6/2013 của TAND TP Cần Thơ
Bùi Quang Anh Tuấn, bản án số: 156/2013/HSST ngày 19/7/2013 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ
Huỳnh Thanh y, bản án số: 168/2013/HSST ngày 02/8/2013 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ
Phạm Thành Nghiệp, bản án số 41/2013/HSST ngày 20/9/2013 của TAND TP.Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
Phan Minh Sang, bản án số: 239/2013/HSST ngày 30/09/2013 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ
Thạch Minh, bản án số 01/2013/HSST ngày 30/9/2013 của TAND Tỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Hoàng Minh Tuấn, bản án số: 27/2013/HSST ngày 01/11/2013 của TAND tỉnh Trà Vinh
Dương Quốc Cường, bản án số 04/2013/HSST ngày 24/11/2013 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Pl.34
Nguyễn Văn Toàn, bản án số 179/2013/HSSt ngày 26/11/2013 của TAND thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
Lê Văn Sáu, bản án số: 02/2014/HSST ngày 09/01/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh
Huỳnh Tấn Lợi, bản án số 19/2014/HSST ngày 27/2/2014 của TAND tỉnh Kiên Giang
Thạch Sôc Khô, bản án số: 15/2014/HS-ST ngày: 19/3/2014 của TAND huyện Mỹ Tú, Tỉnh Sóc Trăng
Thạch Keo Sô Pha, bản án số: 07/2014/HSST ngày 21/03/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh
Trần Văn Kha, bản àn số 20/2014/HSST ngày 9/6/2014 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Ngọc, bản án số 09/2014/HSST ngày 4/6/2014 của TAND tỉnh Hậu Giang
Nguyễn Văn Tài, bản án số: 45/HS-ST ngày: 04/6/2014 của TAND huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang
Võ Minh Tiến, bản án số 16/2014/HSST ngày 26/6/2014 của TAND tỉnh Tiền Giang
Lê Văn Hoàng Sang, bản án số: 37/2014/HSST ngày 12/11/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh
Phan Quốc kha, bản án số: 14/2014/HSST ngày 02/6/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh
Trần Quốc Tuấn, bản án số 17/2014/HSST ngày 3/6/2014 của TAND tỉnh Tiền Giang
Chung Văn Rạch, bản án số: 15/2014/HSST ngày 04/6/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh
Trương Hoài Đức, bản án số 23/2014/HSST ngày 18/6/2014 của TAND Tỉnh Sóc Trăng.
Trương Minh Toàn, bản án số 11/2014/HSST ngày 18/6/2014 của TAND huyện Kế Sách tỉnh Sóc Trăng
Sơn Nuôi, bản án số: 26/2014/HSST ngày 04/7/2014 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Phạm Linh Tâm, bản án số 28/2014/HSST ngày 10/7/2014 của TAND Tỉnh Sóc Trăng.
Đỗ Văn Chẳng, bản án số 14/2014/HSST ngày 18/7/2014 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Thị Mỹ Châu, bản án số 28/2014/HSST ngày 18/7/2014 của TAND Tỉnh Đồng Tháp
Pl.35
Phan Hoàng Trọng, bản án số: 77/2014/HSST ngày 30/7/2014 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
Đoàn Minh Tài, bản án số: 81/2014/HSST ngày 04/8/2014 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
Nguyễn Tấn Được, bản án số: 82/2014/HSST ngày 05/8/2014 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
Thạch Ngọc Sơn, bản án số 32/2014/HSST ngày 6/8/2014 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Chí Vinh, bản án số 22/2014/HSST ngày 6/8/2014 của TAND huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp
Trần Kim Thanh, bản án số 42/2014/HSST ngày 26/8/2014 của TAND Tỉnh Sóc Trăng.
Mai Thanh Hải, bản án số: 24/2014/HSST ngày 08/9/2014 của TANND tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Văn Ánh, bản án số 46/2014/HSST ngày 09/9/2014 của TAND Tỉnh Sóc Trăng.
Hồ Duy Khánh, bản án số: 68/HS-ST ngày: 23/9/2014 của TAND huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang
Trần Văn Thăng, bản án số 32/HSST ngày 14/10/2014 của TAND huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ
Mai Trường Giang, bản án số: 28/2014/HSST ngày 13/10/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh
Đặng Thành Tân, bản án số: 23/2014/HSST ngày 27/11/2014 của TAND huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang
Nguyễn Thanh Nhàn, bản án số 37/2014/HSST ngày 27/11/2014 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vỉnh Long
Lê Văn Long, bản án số: 41/2014/HSST ngày 10/12/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh
Đặng Quách, bản án số: 93/2014/HS-ST ngày: 31/12/2014 của TAND huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang
Đỗ Văn Chẳng, bản án số 01/2015/HSST ngày 7/1/2015 của TAND huyện Tam Bình, tình Vỉnh Long
Kim Sang, bản án số: 02/HS-ST ngày: 19/01/2015 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang
Mã Văn Đầy, bản án số: 16/2015/HSST ngày 27/01/2015 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ
Pl.36
Tăng Văn Bốn, bản án số: 05/HS-ST ngày: 18/02/2015 của TAND huyện Thạnh trị , tỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Duy Luân, bản án số: 22/2015/HSST ngày 11/3/2015 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
Thạch Panh Nha, bản án số: 05/2015/HSST ngày 21/4/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh
Phạm Văn Phương, bản án số: 07/2015/HSST ngày 22/4/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh
Quốc Cường, bản án số: 32/2015/HS-ST ngày: 10/5/2015 của TAND Huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre
Nguyễn Chí Hữu, bản án số 21/2015/HSST ngày 11/5/2015 của TAND huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
Lê Phi Thông, bản án số: 12 /2015/HSST ngày 25/05/2015 của TAND huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang
Thạch Thanh Dũng, bản án số: 28/HS-ST ngày: 03/6/2015 của TAND huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng
Lê Duy Linh, bản án số: 94/2015/HSST ngày 04/6/2015 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ
Phan Văn Tuấn, bản án số: 52/2015/HSST ngày 19/06/2015 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
Lê Hồng Kông, bản án số 23/2015/HSST ngày 19/6/2015 của TAND huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
Nguyễn Văn Mành, bản án số: 18/2015/HSST ngày 10/7/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh
Đăng Minh Tâm, bản án số 27/2015/HSST ngày 13/7/2015 của TAND tỉnh Sóc Trăng.
Đặng Văn Nhàn, Phạm Ân Tình, bản án số 26/2015/HSST ngày 14/7/2015 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh
Long
Lưu Trần Hải Triều, bản án số: 67/2015/HSST ngày 08/8/2015 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
Nguyễn Tấn Yên, bản án số 24/2015/HSST ngày 19/8/2015 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Duy Khanh, bản án số: 66/2015/HSST ngày 19/8/2015 của TAND thành phố Tân An tỉnh Long An
Trần Văn Tính, bản án số: 44/2015/HS-ST ngày: 22/8/2015 của TAND tỉnh Long An
Pl.37
Lương Thanh Dương Linh, bản án số: 48/2015/HSST ngày 17/9/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh
Sơn Nhiên, bản án số: 22/2015/HSST ngày 18/9/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Văn Sửng, bản án số 27/2015/HSST ngày 18/9/2015 của TAND huyện Thới Lai, Thành phố Cần Thơ.
Nguyễn Văn Mười, bản án số 23/2015/HSST ngày 22/9/2015 của TAND huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
Nguyễn Văn Túy, bản án số: 55/HS-ST ngày: 29/9/2015 của TAND tỉnh Bến Tre
Lê Văn Hoài Vũ, bản án số: 88/2015/HSST ngày 29/9/2015 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
Nguyễn Văn Minh, bản án số: 238A/2015/HSST ngày 03/11/2015 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ
Nguyễn Chí Nghĩa, bản án số: 56/2015/HSST ngày 13/11/2015 của TAND huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang
Phạm Khắc Trung, bản án số: 59/HS-ST ngày 30/11/2015 của TAND tỉnh Đồng Tháp
Tiêu Văn Luận, bản án số 98/2015/HSST ngày 18/11/2015 của TAND tỉnh Cà Mau
Phan Thành Đạt, bản án số 41/2015/HSST ngày 19/11/2015 của TAND huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
Từ Quốc Triệu, bản án số: 62/HS-ST ngày: 01/12/2015 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Trang Công Đức, bản án số: 03/2015/HSST ngày 03/12/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh
Lê Minh Trung, bản án số: 66/HS-ST ngày: 04/12/2015 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang
Thạch Di Minh, bản án số 48/2015/HSST ngày 4/12/2015 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Trần Quốc Huy , bản án số: 267/2015/HSST ngày 29/12/2015 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ
Huỳnh Thanh Nam, bản án số: 32/2015/HSST ngày 31/12/2015 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Lê Minh Nhựt, bản án số: 06/2015/HSST ngày 31/12/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh
Thạch Trường, bản án số 25/2015/HSST ngày 07/7/2015 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Pl.38
Trần Giác Nhẹ, bản án số 26/2015/HSST ngày 13/7/2015 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Đặng Minh Tâm, bản án số 27/2015/HSST ngày 13/7/2015 của TAND Tỉnh Sóc Trăng
Điều Tiến Lên, bản án số: 02/2016/HSST ngày 11/01/2016 của TAND Tỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Văn Tôi, bản án số 03/2016/HSST ngày 11/01/2016 của TAND huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp
Lê Văn Kim, bản án số: 06/2016/HSST ngày 26/01/2016 của TAND huyện Bến Lức tỉnh Long An
Phan Ngọc Hiền, Hoàng Quốc Vương, Nguyễn Khắc Đình, Trần Quý Phong, bản án số 03/2016/HSST ngày
12/01/2016 của TAND huyện Tân Hiệp, Tỉnh Kiên Giang
Nguyễn Trường An, bản án số: 09/2016/HSST ngày 12/01/2016 của TAND huyện Tiểu Cần Tỉnh Trà Vinh.
Kiều Văn Thanh, bản án số 03/2016/HSST ngày 12/1/2016 của TAND huyện Mang Thít, Vĩnh Long
Lê Văn Sang, bản án số: 01/2016/HSST ngày 22/2/2016 của TAND huyện Cù Lao Dung tỉnh Sóc Trăng
Vương Duy Điện, bản án số 08/2016/HSST ngày 23/02/2016 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Triệu Thành Của, bản án số 11/2016/HSST ngày 25/2/2016 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Võ Xuân Cảnh, bản án số 19/2016/HSST ngày 25/2/2016 của TAND TP Sa Đéc, tình Đồng Tháp
Lê Thành Đô, bản án số 27/2016/HSST ngày 29/2/2016 của TAND Tỉnh Hậu Giang
Trần Thanh Nhân, bản án số: 14/2016/HSST ngày 29/02/2016 của TAND huyện Bến Lức tỉnh Long An
Trần Văn Minh, bản án số: 16/2016/HS-ST ngày: 09/3/2016 của TAND tỉnh Long An
Trần Phan Thụy Bình, bản án số 17/2016/HSST ngày 10/3/2016 của TAND tỉnh Đồng Tháp
Nguyễn Văn Vũ, bản án 12/2016/HSST ngày 10/3/2016 của TAND thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang
Ngô Vĩnh Tú, bản án số: 18/2016/HS-ST ngày: 10/3/2016 của TAND tỉnh Trà Vinh
Pl.39
Trần Minh cường, bản án số: 17/2016/HSST ngày 16/3/2016 của TAND thành phố Tân an tỉnh Long An
Nguyễn Chí Cường, bản án số: 06/2016/HSST ngày 21/4/2016 của TANND tỉnh Vĩnh Long
Huỳnh Văn Vương, bản án số: 73/2016/HSST ngày 21/4/2016 của TAND tỉnh An Giang
Dương Sanh, bản án số: 12/2016/HSST ngày 26/4/2016 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Văn Ấu, bản án số: 23/HS-ST ngày: 27/4/2016 của TAND huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng
Huỳnh Minh Vương, bản án số: 18/2016/HSST ngày 29/4/2016 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
Kim Dũng, bản án số 08/2017/HSST ngày 03/5/2017 của Tòa án nhân dân Tỉnh Sóc Trăng
Lê Văn Phước T, bản án số 12/2016/HS-ST ngày 10/6/2016 của TAND huyện Long Mỹ, Tỉnh Hậu Giang
Lương Trọng Tín, bản án số: 126/2016/HSST ngày 13/6/2016 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ
Thạch Minh, bản án số: 15/2016/HSST ngày 14/6/2016 của TAND tỉnh Trà Vinh
Bùi Văn Sơn, Nguyễn Văn Bạo, bản án số 27/2016?HSST ngày 16/6/2016 của TAND huyện An Phú, An Giang
Nguyễn Hồng Hòa, bản án số: 129/2016/HSST ngày 17/6/2016 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ
Nguyễn Tuấn Anh, bản án số 17/2016/HSST ngày 24/6/2016 của TAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.
Nguyễn Văn Quí, bản án số: 38/2016/HSST ngày 29/6/2016 của TAND thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang
Lý Quang Minh, bản án số 67/2016/HS-ST ngày 30/6/2016 của TAND Thành phố Vĩnh Long, Tỉnh Vĩnh Long.
Danh Hồng, Nguyễn Công Khanh, Thạch Vương Linh, bản án số 57/2016/HSST ngày 6/7/2016 của TAND Tỉnh
Kiên Giang
Trần Văn Danh, bản án số 59/2016/HSST ngày 7/7/2016 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Trần Thanh Nhân, bản án số 60/2016/HSST ngày 08/7/2016 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Pl.40
Lê Văn Phước T, bản án số 12/2016/HSST ngày 10/6/2016 của TAND Huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang
Ngô Hoàng Thăng, bản án số: 54/2016/HSST ngày 20/7/2016 của TAND tỉnh An Giang
Hồ Văn Giấy, bản án số: 118/2016/HSST ngày 22/7/2016 của TAND tỉnh An Giang
Danh Hiếu, bản án số 61/2016/HSST ngày 22/07/2016 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Nguyễn Tuấn Kiệt , bản án số: 61/2016/HSST ngày 03/8/2017 của TAND tỉnh An Giang
Hồ Nhân Hương, bản án số: 20/2016/HSST ngày 08/8/2016 của TAND thị xã Kiến Tường tỉnh Long An
Nguyễn Trường Giang, bản án số 48/2016/HSST ngày 8/8/2016 của TAND huyện Cái Bè, Tỉnh Tiền Giang
Nguyễn Phi Hùng, bản án số: 16/2016/HSST ngày 16/8/2016 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Lê Văn Bé Hai, bản án số 86/2016/HS-ST ngày 16/8/2016 của TAND Thành phố Vĩnh Long, Tỉnh Vĩnh Long.
Trương Khắc Cường, bản án số 26/2016/HSST ngày 25/8/2016 của TAND huyện Cần Đước tỉnh Long An
Nguyễn Văn Tâm, bản án số: 67/2016/HSST ngày 01/9/2016 của TAND tỉnh An Giang
Huỳnh Kim Châu, bản án số: 61/HS-ST ngày: 16/9/2016 của TAND huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng
Phạm Văn Khoa, bản án số: 91/2016/HSST ngày 27/9/2016 của TAND huyện Bến Lức tỉnh Long An
Nguyễn Văn Tròn Anh, bản án số: 81/2016/HSST ngày 02/11/2016 của TAND tỉnh An Giang
Trần Thành Minh Mẫn, bản án số: 21/2016/HSST ngày 03/11/2016 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Phan Hữu Thái, bản án số 58/2016/HS-ST ngày 20/12/2016 của TAND huyện Ba Tri – Tỉnh Bến Tre
Lê Thanh Phong, bản án số 42/2016/HSST ngày 21/12/2016 của TAND huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp
Trần Hữu Tài, bản án số 33/2016/HSST ngày 28/12/2016 củaTAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.
Huỳnh Văn Huy, bản án số: 93/2016/HSST ngày 29/12/2016 của TAND tỉnh An Giang
Pl.41
Trình Văn Tú, bản án số 35/2016/HSST ngày 29/12/2016 của TAND thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang
Đặng Châu Tuấn, bản án số 46/2016/HSST ngày 29/12/2016 của TAND huyện Cần Đước, tình Long An.
Nguyễn Thanh Sang, bản án số 07/2017/HSST ngày 17/4/2017 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Phan Thanh Tuấn, bản án số: 09/2017/HSST ngày 20/02/2017 TAND tỉnh An Giang
Võ Văn Thông, bản án số 05/2017/HSST ngày 20/2/2017 TAND huyện Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long
Ngô Phạm Thanh Liên bản án số 06/2017/HSST ngày 24/2/2017 TAND huyện Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Thanh Thảo, bản án số 06/2017/HSST ngày 24/2/2017 của TAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.
Phan Thanh Tuấn, bản án số: 06/2017/HSST ngày 06/02/2017 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
Nguyên Thanh Quốc, bản án số: 21/2017/HSST ngày 01/3/2017 của TAND tỉnh Tiền Giang
Huỳnh Thanh Hiếu, bản án số: 29/2017/HSST ngày 10/3/2017 của TAND tỉnh An Giang
Trần Lê Tuấn Anh, bản án số 19/2017/HSST ngày 10/3/2017 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Long An
Võ Hoàng Mến,bản án số: 05/2017/HSST ngày 15/3/2017 của TAND huyện Cù Lao Dung tỉnh Sóc Trăng
NguyễnVăn Luân, bản án số 19/2017/HSST ngày 31/3/2017 của TAND Thành phố Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang
Nguyễn Văn A, bản án số: 14/2017/HSST ngày 18/4/2017 của TAND tỉnh Long An
Đinh Minh T, bản án số 06/2017/HSST ngày 24/4/2017 của TAND Huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre
Nguyễn Hoàng T, bản án số 11/HS-ST ngày 26/4/2017 của TAND huyện Kiên Lương, Tỉnh Kiên Giang.
Giảng Trần Trường Sanh, bản án số: 48/2017/HSST ngày 28/4/2017 của TAND tỉnh An Giang
Kim Dũng, bản án số 08/2017/HSST ngày 3/5/2017 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Pl.42
Lê Văn Đầy, bản án số: 19/2017/HSST ngày 17/5/2017 của TAND thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang
Trần Văn N, bản án số 27/2017/HSST ngày 17/5/2017 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Ng. Ng. A, bản án số 17/2017/HSST ngày 16/5/2017 của TAND tỉnh Kiên Giang
Lý T, bản án số 18/2017/HSST ngày 13/6/2017 cũa TAND huyện Châu Thành, Tỉnh Sóc Trăng
Đỗ Văn T, bản án số 24/2017/HS-ST ngày 14/6/2017 của TAND Huyện Chợ Mới, Tỉnh An Giang
Phạm Thanh Q, bản án số 35/2017/HS-ST ngày 28/6/2017 cuả TAND huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre
Lê Hoàng P, bản án số 45/2017/HS-PT ngày 6/7/2017 của TAND Tỉnh Bến Tre
Nguyễn Văn Đ, bản án số 12/2017/HS-ST ngày 11/7/2017 của TAND Huyện U Minh, Tỉnh Cà Mau
Huỳnh Văn M, bản án 24/2017/HSST ngày 11/7/2017 của TAND huyện U Minh, Tỉnh Cà Mau
Nguyễn Hữu Tín, bản án 34/2017/HSST ngày 12/7/2017 TANS huyện Thới Lai, TP.Cần Thơ
Nguyễn Hoàng T, bản án số 34/2017/HS-ST ngày 11/7/2017 của TAND huyện Thới Lai – Thành phố Cần Thơ
Nguyễn Văn P, bản án số 17/2017/ HS-ST ngày 19/7/2017 của TAND Huyện D, Tỉnh Trà Vinh
Phạm Minh Trí, Phan Thành Dương, Nguyễn Thành Lâm, bản án số 39/2017/HSST ngày 20/7/2017 của TAND
TP Cần Thơ
Dương Thanh Phong, bản án số 42/2017/HSST ngày 01/8/2017 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Lê Huỳnh Thiên Phúc, bản án số 45/2017/HSST ngày 03/8/2017 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Vũ Văn Đ, bản án số 25/2017/HSST ngày 3/8/2018 của TAND huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang
Trần Quốc Hùng, bản án số: 54/2017/HSST ngày 07/8/2017 của TAND tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Văn N, bản án số 24/2017/HSST ngảy 10/8/2017 TAND huyện Cầu Ngang, Tỉnh Trà Vinh
Pl.43
Nguyễn Văn H, bản án số 12/2017/HS-ST ngày 8/8/2017 của TAND Huyện Mỹ Tú, Tỉnh Sóc Trăng
Phan Thanh Tuấn, bản án số 20/2017/HSST ngày 10/8 /2017 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Văn Đ, bản án số 24/2017/HSPT ngày 17/8/2017 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Huỳnh Văn M, bản án số 18/2017/HSST ngày 21/8/2017 của TAND huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau
Nguyễn Văn K, bản án số 16/2017/HSST ngày 22/8/2017 của TAND huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang
Trần Chấn P, bản án số 17/2017/HSST ngày 25/8/2017 của TAND huyện Cầu Kè, Tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Minh Cảnh, bản án số 22/2017/HSST ngày 25/8/2017 của TAND huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau
Trần Thanh Đ, bản án số 28/2017/HSST ngày 25/8/2017 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Văn Hoai, bản án số 26/2017/HSST ngày 28/8/2017 của TAND huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang
Trần Vũ Linh, bản án số 34/2017/HSST ngày 28/8/2017 của TAND Huyện Tân Hiệp, Tỉnh Kiên Giang
Nguyễn Chí C, bản án số 39/2017/HSST ngày 6/9/2017 của TAND Huyện Tháp Mười, Tỉnh Đồng Tháp
Đặng Vinh K, bản án số 55/2017/HSST ngày 6/9/2017 của TAND Quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ
Trần Minh Phương, bản án số 23/2017/HSST ngày 6/9/2017 của TAND huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp
Nguyễn Văn D, bản án số 61/2017/HSPT ngày 6/9/2017 của TAND tỉnh Bến Tre
Hồ Anh Hoàng, bản án số 55/2017/HSST ngày 7/9/2017 của của TAND Tỉnh Kiên Giang
Phan Thanh Sơn, bản án số 23/2017/HSST ngày 11/9/2017 của TAND tỉnh Vĩnh Long.
Trần Minh Vương, bản án số 59/2017/HSST ngày 12/9/2017 của TAND Tỉnh Kiên Giang
Võ Văn Phương, bản án số 25/2017/HSST ngày 12/9/2017 của TAND huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp
Nguyễn Văn T, bản án số 17/2017/HSST ngày 18/9/2017 của TAND huyện Thủ Thừa, Tỉnh Long An
Pl.44
Nguyễn Phú T1, bản án số 13/2017/HSST ngày 20/9/2017 của TAND thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Hồng T2, bản án số 14/2017/HSST ngày 21/9/2017 của TAND thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng
Dương Ngọc Thế, bản án số 19/2017/HSST ngày 22/9/2017 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Trần Văn Sang, Lê Phú Sơn Đa, Lê Đình Phú, bản án số 48/2017/HSST của TAND tỉnh Hậu Giang
Trịnh Thanh H, bản án số 35/2017/HSST ngày 25/9/2017 của TAND Huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng
Phan Văn Hậu, bản án số 29/HSST ngày 25/9/2017 của TAND huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp
Ngô Phạm Thanh Liêm, bản án 25/2017/ HSST ngày 26/9/2017 của TAND huyện Trà Ôn, Tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Vũ L, bản án số 34/2017/HSST ngày 29/9/2017 của TAND Huyện H, tỉnh Cà Mau
Trần Văn M, bản án số 130/2017/HSPT ngày 30/10/2017 của TAND tỉnh Cà Mau
Lê Hoàng T, bản án số 36/2017/HS-ST ngày 2/11/2017 của TAND Huyện Thoại Sơn, Tỉnh An Giang
Thạch Thanh N, bản án số 37/2017/HSST ngày 14/11/2017 TAND huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Văn Sang, bản án số 31/2017/HSST ngày 14/11/2017 TAND huyện Châu Thành, tỉnh Long An
Lý Tấp, bản án số 36/2017/HSST ngày 15/11/2017 của TAND huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng
Danh V, bản án số 37/2017/HSST ngày 13/11/2017 của TAND huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang
Nguyễn Văn Tấn, bản án số 25/2017/HSST ngày 17/11/2017 của TAND huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long
Huỳnh Thanh Trung, bản án số 19/2017/HSST ngày 22/11/2017 của TAND huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long
Lê Văn Hiếu, bản án số 27/2017/HSST ngày 19/12/2017 của TAND huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau
Trần Thành Minh M, bản án số 89/2017/HSST ngày 19/12/2017 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Thạch Nghĩa, bản án số 143/2017/HSST ngày 25/12/2017 của TAND tỉnh Cà Mau
Pl.45
Hồ Văn Hoàng, bản án số 23/2017/HSST ngày 26/12/2017 của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An
Lê Minh T, bản án số 64/2017/HSST ngày 26/12/2017 của TAND huyện Thới Lai, TP Cần Thơ
Huỳnh Văn B, bản án số 52/2017/HSST ngày 26/2/2017 của TAND thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu
Hồ Văn L, bản án số 43/2017/HSST ngày 26/12/2017 của TAND huyện Châu Thành, Tỉnh Long An
Huỳnh Văn D, bản án số 88/2017/HSST ngày 28/12/2017 của TAND thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
Phạm Văn Cư, bản án số 31/2017/HSST ngày 27/12/2017 của TAND Huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp
Nguyễn V H, bản án số 145/2017/HSST ngày 28/12/2017 của TAND huyện Nam Căn, Tỉnh Cà Mau
Võ Văn N, bản án số 02/2018/HSST ngày 8/1/2018 của TAND tỉnh Hậu Giang
Cao Văn Vẹn, bản án số 02/2018/HSST ngày 5/1/2018 của TAND TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
Nguyễn Thanh B, bản án số 01/2018/HSPT ngày 5/1/2018 của TAND Tỉnh Sóc Trăng
Trần Hoài Thanh, bản án số 02/2018/HSST ngày 5/1/2018 của TAND thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Tường S, bản án số 01/2018/HSST ngày 17/1/2018 của TAND huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
Hữu Bê, bản án số 09/2018/HSST ngày 22/1/2018 của TAND huyện Thới Bình, Tỉnh Cà Mau
Trần Văn M, bản án số 01/2018/HSST ngày 22/1/2018 của TAND huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng
Phùng Chí Kiên, bản án số 17/2018/HSST ngày 25/1/2018 của TAND tỉnh Long An
Trần Tấn TT, bản án số 3/2018/HSST ngày 26/1/2018 của TAND Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang
Ngô Phạm Thanh L, bản án số 2/2018/HSST ngày 25/1/2018 của TAND huyện Trà Ôn, Vĩnh Long
Trần Thanh T, bản án số 09/2018/HSPT ngày 2/3/2018 của TAND Tỉnh Cà Mau
Phạm Văn Th, bản án số 7/2018/HSST ngày 6/3/2018 của TAND huyện An Phú, tỉnh An Giang
Pl.46
Trần Văn T, bản án số 4/2018/HSST ngày 6/3/2018 của TAND Thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang
Lê Thành Nhi, bản án số 19/2018/HSST ngày 23/3/2018 của TAND tỉnh Hậu Giang
Bùi Văn Sơn, bản án số 17/2018/HSST ngày 4/4/2018 của TAND huyện An Phú, Tỉnh An Giang
Lê Trường G, bản án số 14/2018/HSPT ngày 9/4/2018 của TAND tỉnh Sóc Trăng
Nguyễn Thành T, bản án số 10/2018/HSST ngày 10/4/2018 của TAND Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang
Nguyễn Nhựt Anh, bản án số 19/2018/HSST ngày 10/4/2018 của TAND huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh
Nguyễn Thanh S, bản án 10/2018/HSST ngày 20/4/2018 của TAND thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang
Nguyễn Văn Phi Em, bàn án số 08/2018 ngày 26/4/2018 của TAND huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
Nguyễn Vũ L. Bản án số 18/2018/HSST ngày 21/6/2018 của TAND thị xã Long Mỹ, Tỉnh Hậu Giang
Nguyễn Văn T, bản án số 15/2018/HSST ngày 16/5/2018 của TAND thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang
Phạm Văn L, bản án số 12/2018/HSST ngày 23/5/2018 của TAND huyện Trà Ôn. Tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Khánh T, bản án số 21/2018 ngày 23/5/2018 của TAND huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Văn Y Sa, bản án số 31/2018, ngày 31/5/2018 của TAND Thành phố Trà Vinh, tỉnh trà Vinh
Lê Phát Đ, bản án số 34/2018/HSST ngày 10/6/2018 của TAND thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
Trần Hoài E, bản án số 11/2018/HSST ngày 8/6/2018 của TAND huyện T, Tỉnh Kiên Giang
Nguyễn Văn S, bản án số 15/2018/HSST ngày 8/6/2018 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Long An
Nguyễn Tấn Đạt, bản án số 20/2018/HSST ngày 10/6/2018 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long
Tiết Văn Tố, bản án số 48/2018/HSST ngày 13/9/2018 của TAND tỉnh Hậu Giang
Nguyễn Văn M, bản án số 36/2018/HSST ngày 13/9/2018 của TAND huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long
Pl.47
Lê Minh H, bản án số 32/2018/HSST ngày 13/9/2018 của TAND tỉnh Kiên Giang
Phan Thanh H, bản án số 35/2018/HSST ngày 27/9/2018 của TAND tỉnh Kiên Giang
Huỳnh Thanh T, bản án số 25/2018/HSST ngày 27/9/2018 của TAND huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long
Phan Văn L, bản án số 19/2018/HSST ngày 27/9/2018 của TAND huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long
Trịnh Lê Phúc Thịnh, bản án số 26/2018/HSST ngày 27/9/2018 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Anh Kiệt, bản án số 21/2018/HSST ngày 17/10/2018 của TAND thị xã Bình Minh, Tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Văn H, bản án số 37/2018/HSST ngày 22/10/2018 của TAND huyện Phú Tân, Tỉnh Cà Mau
Đặng Văn Thanh, bản số 19/2018/HSST ngày 25/10/2018 của TAND huyện Lai Vung, Tỉnh Đồng Tháp
Nguyễn Tấn Phát, bản án số 33/2018/HSST ngày 31/10/2018 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Văn Trường G bản án số 54/2018/HSST ngày 25/11/2018 của TAND Tỉnh Long An
Phạm Văn Tuấn, bản án số 21/2018/HSST ngày 13/12/2018 của TAND huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh
Tô Văn Long, bản án số 72/2018/HSST ngày 17/12/2018 của TAND tỉnh Bến Tre
Huỳnh Hoàng Tây, bản số 54/2018/HSST ngày 5/12/2018 của TAND huyện Thới Bình, Cà Mau
Nguyễn Văn Ba, bản án số 43/2018/HSST ngày 5/12/2018 của TAND huyện Tam Bình, Vĩnh Long
Nguyễn Công Nguyên, bản án số 33/2018/HSST ngày 6/12/2018 của TAND huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau
Ngô Thanh T, bản án số 67/2018/HSST ngày 6/12/2018 của TAND TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
Ngô Văn Đông, bản án số 41/2018/HSST ngày 19/12/2018 của TAND huyện Long Hồ, Tỉnh Vĩnh Long
Nguyễn Văn Dân, bản án số 34/2018/HSST ngày 20/12/2018 của TAND huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre
Pl.48