VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DIỆP HUYỀN THẢO CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG NGỪA LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DIỆP HUYỀN THẢO CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG NGỪA Ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm Mã số: 9.38.01.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học:1. TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

2. TS. NGUYỄN VĂN ĐIỆP

Hà Nội – 2020

LỜI CAM ĐOAN

T i xin ca oan y c ng tr nh nghi n c u c a

ri ng t i C c s i u k t qu n u trong u n n trung

th c c ngu n g c r r ng v ư c tr ch dẫn y theo

quy nh

Tác giả luận án

Diệp Huyền Thảo

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .............................................................................. 9

1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước ................................................................. 9

1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ............................................................. 24

1.3 Đánh giá về tình hình nghiên cứu: ............................................................. 30

Chương 2: TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM

TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ ............................................................... 33

2.1 Khái quát lý luận về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em .............. 33

2.2 Phần hiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn

miền Tây Nam Bộ ............................................................................................ 44

2.3 Phần ẩn của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ trên địa bàn miền

Tây Nam Bộ ..................................................................................................... 61

Chương 3: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC

TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY

NAM BỘ .................................................................................................................. 69

3.1 Khái quát lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội xâm

phạm tình dục trẻ em ........................................................................................ 69

3.2 Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em ... 71

Chương 4: DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA CÁC TỘI XÂM

PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ ............... 113

4.1 Dự báo tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền

Tây Nam Bộ ................................................................................................... 113

4.2 Giải pháp về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em

trên địa miền Tây Nam Bộ ............................................................................. 118

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU .......................................... 149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 150

PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

HSSV

Học sinh sinh viên

HVPT

Hành vi phạm tội

NXB

Nhà xuất bản

TAND

Tòa án nhân dân

THTP

Tình hình tội phạm

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TNXH

Tệ nạn xã hội

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHTD

Xâm hại tình dục

XPTDTE Xâm hại tình dục trẻ em

BLHS 1999 Bộ luật hình sự 1999

SĐBS 2009 Sửa đổi bổ sung 2009

BLHS 2015 Bộ luật hình sự 2015

SĐBS 2017 Sửa đổi bổ sung 2017

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây các vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em đã xảy ra

khá nhiều và ở mức độ đáng báo động trong phạm vi cả nước. Chỉ tính từ ngày

01/01/2008 đến ngày 31/12/2013: Tòa án các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm

9.683 vụ với 11.444 bị cáo. Trong đó, đưa ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm 8.772 vụ

với 10.265 bị cáo. Trong số các vụ án xâm phạm tình dục phụ nữ và trẻ em mà Tòa

án các cấp đưa ra xét xử, có 1.812 vụ với 2.641 bị cáo bị xét xử về tội “Hiếp dâm”,

3.276 vụ với 3.759 bị cáo bị xét xử về tội “Hiếp dâm trẻ em”, 31 vụ với 61 bị cáo bị

xét xử về tội “Cưỡng dâm”; 25 vụ với 30 bị cáo bị xét xử về tội “Cưỡng dâm trẻ

em”; 2.749 vụ với 2.878 bị cáo bị xét xử về tội “Giao cấu với trẻ em” và 879 vụ với

896 bị cáo bị xét xử về tội “Dâm ô với trẻ em”. Số liệu này cho thấy nạn nhân của

các vụ án xâm phạm tình dục là trẻ em chiếm tỷ lệ lớn (6.929 vụ với 7.563 bị cáo,

chiếm tỷ lệ 78,99% số vụ và chiếm 73,68% số bị cáo bị xét xử). Qua theo dõi số

liệu các vụ án xâm phạm tình dục phụ nữ và trẻ em Tòa án các cấp đã thụ lý, giải

quyết, thấy rằng tình trạng xâm phạm tình dục đối với phụ nữ và trẻ em có xu

hướng tăng lên trong những năm gần đây, cụ thể: Năm 2008: 1.494 vụ với 1.789 bị

cáo; năm 2012: 1.736 vụ với 2.039 bị cáo và năm 2013: 2.050 vụ với 2.330 bị

cáo.Các địa phương xảy ra nhiều vụ án hình sự xâm phạm tình dục phụ nữ và trẻ em

gồm có: Thành phố Hồ Chí Minh (815 vụ/935 bị cáo); Đồng Nai (615 vụ/681 bị

cáo), Cà Mau (384 vụ/406 bị cáo), Bình Dương (370 vụ/414 bị cáo), Đắk Lắk (287

vụ/332 bị cáo), Trà Vinh (194 vụ), Bình Thuận (166 vụ/224 bị cáo), Hòa Bình (121

vụ/142 bị cáo), Lâm Đồng (162 vụ/190 bị cáo), thành phố Cần Thơ (158 vụ/182 bị

cáo), Hậu Giang (136 vụ), Vĩnh Long (109 vụ/111 bị cáo), Tuyên Quang (111

vụ/130 bị cáo), Bình Định (102 vụ/123 bị cáo), Đắk Nông (108 vụ/110 bị cáo), Phú

Yên (98 vụ/139 bị cáo), Hải Phòng (91 vụ/97 bị cáo). [102, tr.5]. Theo báo cáo số

16/BC-TANDTC ngày 24 tháng 3 năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao; năm

2014 xét xử 1.825 vụ/1.976 bị cáo; năm 2015 xét xử 1.692 vụ/1798 bị cáo; năm

2016 xét xử 1.454 vụ/1528 bị cáo và theo báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao về

các tội xâm phạm tình dục trẻ em tính từ ngày 1.10.2017 đến 28.2.2019 Tòa án

1

nhân dân các cấp đã thụ lý sơ thẩm và phúc thẩm 2.719 vụ với 2.894 bị cáo. Với số

liệu được thống kê nêu trên phản ánh tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở

nước ta hiện nay điều này đã cho thấy Việt Nam đang đứng trước thực trạng về xâm

phạm tình dục, trong đó xâm phạm tình dục trẻ em ở nước ta đang diễn biến phức

tạp và có chiều hướng gia tăng. Vì vậy, việc bảo vệ trẻ em không còn là trách nhiệm

riêng của từng gia đình mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Tại khoản 1 Điều

37 Hiến pháp 2013 đã ghi nhận“ Trẻ e ư c Nh nước gia nh v xã hội b o v

chă s c v gi o dục; ư c tha gia v o c c vấn ề về trẻ e Nghi cấ x

hại h nh hạ ngư c ãi bỏ ặc ạ dụng b c ột s c ao ộng v những h nh vi

kh c vi phạ quyền trẻ e ”. Tiếp nối việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ trẻ em

trước nguy cơ bị lạm dụng, bạo hành và xâm hại tình dục, Luật trẻ em năm 2016

được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua vào ngày 5/4/2016, có hiệu lực kể

từ ngày 1/6/2017. So với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 thì Luật

Trẻ em 2016 đã ghi nhận và bảo vệ quyền trẻ em chặt chẽ hơn bằng việc mở rộng khái

niệm về “bạo c trẻ e ” “x hại trẻ e “X hại t nh dục trẻ e ” và quy định cụ

thể hơn về việc tổ chức phối hợp liên ngành trong việc thực hiện, bảo vệ trẻ em đáp

ứng nhu cầu phát triển của xã hội trong công cuộc bảo vệ thế hệ tương lai của đất nước.

Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 có hiệu lực thi hành 01/01/2018

được coi là một trong những công cụ hữu hiệu nhất để đấu tranh, phòng ngừa tội

phạm. Có thể thấy các hành vi xâm phạm tình dục trẻ em đều được thể hiện và quy

định trong BLHS với mức hình phạt cực kỳ nghiêm khắc có thể đến mức tử hình,

tuy nhiên công cuộc đấu tranh trong phòng chống loại tội phạm này cũng có nhiều

khó khăn xuất phát bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.

Miền Tây Nam Bộ cũng không nằm ngoài thực trạng chung của cả nước, với

mức độ nghiêm trọng của các vụ án xâm phạm tình dục và có xu hướng ngày càng

tăng lên. Nhiều vụ án xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra có tính chất đặc biệt nghiêm

trọng, thể hiện sự suy đồi đạo đức, coi thường tính mạng, sức khỏe và nhân phẩm

của con người gây bức xúc trong dư luận, điển hình như vụ án cha cùng ông ngoại

xâm hại tình dục con/cháu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long hoặc vụ án bố hiếp dâm con

gái trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, hay vụ án hiếp dâm trẻ em và giết người ở Bạc Liêu

2

gây bức xúc trong dư luận thời gian vừa qua, ngoài ra còn khá nhiều vụ án xâm

phạm tình dục trẻ em xảy ra trên địa bàn miền Tây Nam Bộ mà giữa người phạm tội

và nạn nhân có mối quan hệ gần gũi thân thích như anh trai hiếp dâm em gái, người

chồng hiếp dâm con riêng của vợ, ông ngoại hiếp dâm cháu, xâm hại tình dục làm

người bị xâm hại mang thai và sinh con, hiếp dâm rồi giết người nhằm trốn tránh sự

tố giác của người bị hại, trốn tránh sự phát hiện, trừng trị của pháp luật. Mặc dù

công tác phòng chống loại tội phạm này trên địa bàn miền Tây Nam Bộ được triển

khai thực hiện tuy nhiên tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em vẫn đang gia

tăng do nhiều nguyên nhân khác nhau như: vị trí địa lý, dân cư miền Tây Nam Bộ;

chính sách bảo vệ trẻ em khu vực nông thôn, đồng bào dân tộc chưa được quan tâm;

kỹ năng chăm sóc con cái của cha mẹ còn chưa đầy đủ; tư tưởng dễ thỏa hiệp và sự

hiểu biết vể pháp luật chưa cao. Những nguyên nhân này đang tác động đến tình

hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em nhưng lại chưa có công trình nghiên cứu

tổng thể tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên cơ sở kết hợp nghiên cứu

tổng thể 13 địa bàn của miền Tây Nam Bộ mà chỉ có các công trình nghiên cứu giới

hạn ở từng Tỉnh cụ thể. Do vậy, thực tiễn đòi hỏi phải có các công trình nghiên cứu tổng

thể tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ để đánh giá tình

hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em từ

đó đề xuất những giải pháp phòng ngừa để từ đó các cấp, các ngành, đặc biệt là lực

lượng công an, tòa án, viện kiểm sát từng bước khắc phục những nguyên nhân khách

quan, chủ quan bởi tính đặc thù của vùng và có những đánh giá cụ thể trong công tác đấu

tranh phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em đang được thực thi tại địa phương.

Công trình nghiên cứu này cũng là một công cụ hết sức quan trọng trong việc thực hiện

thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng ngừa tội phạm, đảm bảo sự ổn định về trật tự an toàn

xã hội, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của miền Tây Nam Bộ. Vì

thế đề tài “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ: tình

hình, nguyên nhân và phòng ngừa” đã được được tác giả nghiên cứu và thực hiện đáp

ứng nhu cầu của địa bàn miền Tây Nam Bộ trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa các

tội xâm phạm tình dục trẻ em.

3

2. Mục đích và nhiệm vụ của Luận án

2.1 Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận án là đưa ra được các giải pháp phòng ngừa

các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ, để kiềm soát sự

gia tăng của tội phạm và làm giảm dần các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa

bàn miền Tây Nam Bộ trong những năm tiếp theo.

2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, đề tài luận án cần giải quyết một số nhiệm vụ cụ

thể sau đây:

- Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước về những

công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, đánh giá khái quát những vấn

đề đã được thống nhất, những vấn đề nghiên cứu, xác định những vấn đề cần tiếp

tục nghiên cứu trong luận án.

- Khái quát lý luận về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, tình hình tội phạm,

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, phòng ngừa và dự báo tình hình tội

phạm, từ đó khái quát những vấn đề lý luận về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ

em như: khái niệm tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em, nguyên nhân và điều kiện

của tình hình các tội XPTDTE, dự báo và phòng ngừa các tội XPTDTE.

- Phân tích, đánh giá tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam

Bộ trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2018. Cụ thể luận án sẽ nghiên cứu đánh

giá phần hiện của tình hình các tội XPTDTE thông qua các chỉ số phản ánh mức độ,

động thái, cơ cấu, tính chất của tình hình các tội XPTDTE. Song song đó nghiên

cứu, đánh giá phần ẩn của tình hình các tội này trên thực tiễn hiện nay.

- Phân tích nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn

miền Tây Nam Bộ trong thời gian từ năm 2007 - 2018.

- Dự báo tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

- Đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình các tội XPTDTE

gắn kết với địa bàn miền Tây Nam Bộ

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em

trên địa bàn miền Tây Nam Bộ, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh,

4

phát triển loại tội phạm này, từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa các tội xâm

phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ .

3.2 Phạm vi nghiên cứu

- Luận án nghiên cứu với góc độ chuyên ngành: Tội phạm học và phòng

ngừa tội phạm.

- Về nhóm các tội XPTDTE được nghiên cứu trong luận án bao gồm 4 tội

được quy định trong BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009: Tội hiếp dâm trẻ

em (Điều 112), tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114), tội giao cấu với trẻ em (Điều

115), tội dâm ô trẻ em (Điều 116).

- Đối chiếu với quy định của Luật Trẻ Em 2016 và Bộ luật hình sự 2015 sửa

đổi bổ sung 2017 về các tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi (5 tội danh bao

gồm: hiếp dâm người dưới 16 tuổi; cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16

tuổi; giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi

đến dưới 16 tuổi; dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; sử dụng người dưới 16 tuổi vào

mục đích khiêu dâm)

- Về thời gian nghiên cứu: Thông qua số liệu thống kê của tòa án nhân dân

các tỉnh miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 đến năm 2018.

- Về địa bàn nghiên cứu, gồm 12 tỉnh và 01 thành phố trực thuộc trung ương

bao gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Hậu

Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Tp.Cần Thơ.

- Để công trình nghiên cứu được hoàn thiện, luận án tổng hợp số liệu thống

kê của Tòa án về các tội XPTDTE trên 13 địa bàn miền Tây Nam Bộ giai đoạn

2007 – 2018. Số liệu thống kê của tòa án nhân dân tối cao về số liệu tội phạm của cả

nước và số liệu các tội XPTDTE của cả nước.

Nghiên cứu điển hình 485 bản án ở 13 địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm

2007 – 2018 để thực hiện công trình nghiên cứu.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1 Phương pháp luận

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê

Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm của Đảng, Nhà nước, qui định của pháp

luật hình sự, chính sách pháp luật về bảo vệ trẻ em.

5

4.2 Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, luận án dự kiến sẽ sử dụng các phương pháp

nghiên cứu cụ thể sau đây:

- Trong chương 1, Luận án sử dụng phương pháp tổng hợp và phương pháp

phân tích để hệ thống các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, từ đó đánh giá

những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề còn tranh luận, những vấn đề đặt ra và

luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ.

- Trong chương 2, Luận án sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp

tổng hợp để trình bày những vấn đề lý luận về tình hình các tội XPTDTE, đánh giá

về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ; Luận

án sử dụng phương pháp thống kê số vụ phạm tội, số người phạm tội trong từng

thời gian, ở từng địa bàn; phương pháp so sánh để so sánh tình hình các tội

XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ với địa bàn giáp ranh như Đông Nam Bộ,

Tây Nguyên và so sánh tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn cả nước, so sánh tỷ

lệ các tội cụ thể trong nhóm các tội này để đánh giá tính chất, mức độ của tình hình

các tội xâm phạm tình dục trẻ em.

- Trong chương 3, Luận án sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để

trình bày những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội

XPTDTE; phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ sự tác động của các yếu

tố thuộc môi trường sống, các yếu tố thuộc về người phạm tội, các yếu tố tình

huống phạm tội. Phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng trong việc phân

tích một số đặc điểm nhân thân người phạm tội và nạn nhân của tội phạm dẫn chứng

nghiên cứu từ các bản án XPTDTE.

- Trong chương 4, Luận án sử dụng phương pháp dự báo khoa học nhằm dự báo

tình hình các tội XPTDTE trong thời gian tới, ngoài ra luận án còn sử dụng phương

pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để làm cơ sở xây dựng hệ thống các giải pháp nhần

tăng cường phòng ngừa tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ.

5. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

5.1. Giả thuyết nghiên cứu

Với đề tài như trên, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu như sau: Tình hình

các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ trong thời gian từ

6

2007 – 2018 đang gia tăng và có diễn biến phức tạp. Với những nguyên nhân và

điều kiện tác động đến tình hình các tội XPTDTE thì công tác phòng ngừa đối với

loại tội phạm này thời gian qua chưa đạt được những hiệu quả vẫn còn thiếu sự

đồng bộ ở các khu vực trên địa bàn. Do đó cần phải có những giải pháp thiết thực

nhằm kiểm soát và phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền

Tây Nam Bộ trong thời gian tới.

5.2 Câu hỏi nghiên cứu:

a. Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đang

diễn ra như thế nào trong khoảng thời gian từ năm 2007 - 2018 ?

b. Nguyên nhân và điều kiện trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đang tác động đến tình

hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em như thế nào?

c. Để thực hiện tốt công tác phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn

miền Tây Nam Bộ thì cần xây dựng hệ thống phòng ngừa tội phạm như thế nào?

6. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án

- Là công trình nghiên cứu các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở cấp độ luận

án tiến sĩ tập trung nghiên cứu đầy đủ các vấn đề về tình hình các tội xâm phạm tình

dục trẻ em, nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTDTE cũng như các

biện pháp phòng ngừa loại tội phạm này trên địa bàn miền Tây Nam Bộ.

- Là công trình nghiên cứu về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em,

kết hợp nghiên cứu nguyên nhân điều kiện đặc thù của miền Tây Nam Bộ như: đời

sống văn hóa, tín ngưỡng, yếu tố dân tộc; tính cách người dân miền Tây Nam Bộ,

tình trạng phụ nữ lấy chồng nước ngoài, tỉ lệ ly hôn ở địa bàn miền Tây Nam Bộ...

Để từ đó nêu ra được đặc điểm riêng biệt trong nguyên nhân và điều kiện của tình

hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em khác với các địa bàn nghiên cứu khác.

- Là công trình nghiên cứu đề xuất các giải pháp phòng ngừa các tội xâm

phạm tình dục trẻ em gắn liền với các địa bàn miền Tây Nam Bộ đáp ứng công cuộc

đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

7.1 Về mặt lý luận

- Luận án là công trình nghiên cứu đóng góp cho nền tảng lý luận về tình

hình tội phạm trong đó có các tội XPTDTE, lý luận về nguyên nhân và điều kiện

7

của tình hình các tội XPTDTE và phòng ngừa các tội XPTDTE. Luận án còn cung

cấp luận cứ góp phần xây dựng chính sách pháp luật và biện pháp phòng ngừa các

tội XPTDTE.

7.2 Về mặt thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là đóng góp cho công cuộc phòng ngừa

các tội xâm phạm tình dục trẻ em không chỉ ở khu vực miền Tây Nam Bộ mà còn

đóng góp cho việc phòng ngừa tội phạm này ở phạm vi cả nước. Luận án là tài liệu

hữu ích tiếp nối cho cho việc nghiên cứu tình hình các tội XPTDTE và là một công

trình có tính nối kết với các công trình nghiên cứu các tội XPTDTE ở khu vực Đông

Nam Bộ, Tây Nguyên... tạo thành một bức tranh tổng thể của tình hình các tội

XPTDTE. Từ những giải pháp của luận án sẽ là công trình tham khảo hữu ích cho

công cuộc đấu tranh phòng ngừa các tội XPTDTE.

Luận án sẽ là nguồn tham khảo hữu ích cho các cơ quan có thẩm quyền

nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn phòng ngừa tội phạm tại địa phương, nguồn

tham khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp xem xét, đánh giá thực tiễn pháp luật

Hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tình dục trẻ em để từ đó nghiên cứu bổ

sung những quy định pháp luật về các tội XPTDTE phù hợp với bối cảnh xã hội

hiện nay.

8. Cơ cấu của luận án

- Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án

- Chương 2: Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền

Tây Nam Bộ

- Chương 3: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình

dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

- Chương 4: Dự báo và các giải pháp phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục

trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ.

8

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Để nghiên cứu đề tài “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền

Tây Nam Bộ: tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa” thì việc nghiên cứu, phân

tích và đánh giá kết quả của các công trình có liên quan đến đề tài luận án là việc

làm có ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết. Thông qua việc tìm hiểu các công trình

nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong và ngoài nước, nhận diện

cách tiếp cận, hướng nghiên cứu, nội dung và kết quả đạt được của các công trình

nghiên cứu. Từ đó những nghiên cứu của luận án được dựa nền tảng kiến thức từ

tổng thể từ lý luận về tội phạm học, lý luận về các tội xâm phạm tình dục trẻ em cho

đến những phương thức và công cụ để phòng ngừa các tội phạm này. Kế thừa tri

thức khoa học pháp lý của các công trình nghiên cứu trước đó để định hướng nghiên

cứu cho công trình nghiên cứu của đề tài. Tác giả khái quát những công trình nghiên

cứu có liên quan đến các tội xâm phạm tình dục trẻ em cụ thể như sau:

1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước

1.1.1 Những công trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận của tội phạm học tạo

nền tảng lý luận cho đề tài luận án

“Tội phạ ở Vi t Na th c trạng nguy n nh n v gi i ph p”, đây là đề tài

cấp Nhà nước mã số KX – 04 - 14 do Bộ Nội vụ nay là Bộ Công an làm chủ đề tài,

Nxb Công an nhân dân, năm 1994 [16, tr19 - tr.24] công trình nghiên cứu về tình

hình tội phạm ở Việt Nam, nêu ra một số đặc điểm về tội phạm, chủ thể của tội

phạm, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa tội phạm nói chung. Đề tài chưa

nghiên cứu nguyên nhân cũng như các biện pháp phòng ngừa các tội xâm phạm tình

dục trẻ em.

“Giáo trình Tội phạm học” của Giáo Sư, Tiến sĩ Đỗ Ngọc Quang, Nxb Đại học

quốc gia Hà Nội, năm 1995. Cho rằng “Tội phạ học ng nh khoa học nghi n

c u những vấn ề i n quan n t nh trạng phạ tội v tội phạ ; nghi n c u về

nh n th n người phạ tội nguy n nh n iều ki n phạ tội v những bi n ph p

phòng ngừa tội phạ nhằ từng bước ngăn chặn hạn ch tội phạ trong cuộc

s ng xã hội” [106 tr8]. Công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận của tình hình tội

9

phạm, đã chia các biện pháp phòng ngừa tội phạm ra thành các nhóm sau: Nhóm

các biện pháp phòng ngừa chung; nhóm các biện pháp quản lý hành chính nhà nước

về an ninh trật tự; nhóm các biện pháp phòng ngừa xã hội; nhóm những biện pháp

phòng ngừa theo chức năng; nhóm những biện pháp phòng ngừa riêng. Mặc dù

công trình nghiên cứu này không đề cập đến biện pháp phòng ngừa các tội phạm cụ

thể, nhưng đây cũng là cơ sở để luận án tiếp cận và khai thác nghiên cứu trong nội

dung về phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em.

“Gi o tr nh tội phạ học” Võ Khánh Vinh, Nxb Giáo dục, 1999, tái bản

2009. Hay “Gi o tr nh tội phạ học” Võ Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân,

2003 và tái bản năm 2008, 2013. Đây là công trình nhiên cứu lý luận về tội phạm

học và xem “tội phạ học ng nh khoa học ph p ý – xã hội học nghi n c u

ngu n g c b n chất c c h nh th c biểu hi n v thay ổi c a t nh h nh tội phạ ..”

[148 tr5]. Công trình nghiên cứu các nhóm hiện tượng xã hội như: Tình hình tội

phạm, tính quyết định luận, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, nhân

thân người phạm tội, phòng ngừa tội phạm, hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng

chống tình hình tội phạm. Công trình nghiên cứu tuy không phân tích chuyên sâu về

tội phạm cụ thể nhưng công trình đã cung cấp nền tảng lý luận mang tính định

hướng lý luận cho luận án tiếp cận nghiên cứu chuyên sâu về các tội xâm phạm tình

dục trẻ em. Công trình đã đưa ra những kết luận nghiên cứu có liên quan đến đề tài

luận án “Trong cơ cấu t nh h nh tội phạ ở thời gian c c tội x phạ sở hữu

c a c ng d n chi tỷ cao nhất kho ng 47% ti p n c c tội x phạ t nh

ạng s c khỏe nh n phẩ danh d c a con người chi 19% c c tội x phạ

an to n c ng cộng x phạ tr t t qu n ý h nh ch nh chi 10% ” [148, tr71]

“Giáo trình Tội phạm học” của Trường Đại Học Luật Hà Nội, Nxb Công an

nhân dân, 2015 đã đưa ra định nghĩa “tội phạm học là khoa học liên ngành, th c

nghi m nghiên c u về tội phạm (hi n th c), nguyên nhân c a tội phạm và kiểm soát

tội phạm nhằm mục ch phòng ngừa tội phạ ” [139b tr17]. Trong giáo trình này

nhóm tác giả đã phân tích các nội dung về tình hình tội phạm, lý luận chung về

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, lý luận về nhân thân và phòng

ngừa tội phạm. Đây là cơ sở lý luận góp phần củng cố lý luận cho các nghiên cứu

của luận án.

10

Sách chuyên khảo “Tội phạm học và cấu thành tội phạm” tác giả GS.TS

Nguyễn Ngọc Hòa, xuất bản 2015, nhà xuất bản Tư Pháp. Đây là công trình nghiên

cứu về tội phạm dưới góc độ luật hình sự và tội phạm học, công trình đã trình bày

những quan điểm khoa học về khái niệm tội phạm, về phân loại tội phạm, nội dung

chủ yếu của bốn yếu tố cấu thành tội phạm, về tình hình tội phạm, nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm và phòng ngừa tội phạm.

Sách chuyên khảo “Bình lu n khoa học Bộ Lu t hình s nă 2015 – sửa ổi

bổ sung nă 2017” (phần chung và phần các tội phạm) chủ biên GS.TS Nguyễn

Ngọc Hòa, xuất bản 2017, nhà xuất bản Tư Pháp. Công trình nghiên cứu có giá trị

hữu ích cho luận án nghiên cứu các tội xâm phạm tình dục trẻ em thông qua nội

dung bình luận tại điều 142, 144,145,146, 147 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ

sung năm 2017)

Sách chuyên khảo “Tội phạ học Vi t Na : Một s vấn ề ý u n v th c

tiễn” xuất bản năm 2000 của tập thể tác giả Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp

Luật. Đây có thể xem là một công trình nghiên cứu điển hình về tội phạm học, nội

dung nghiên cứu từ quá trình hình thành và phát triển của tội phạm học, đối tượng

và phương pháp nghiên cứu của tội phạm học đến các vấn đề về phòng ngừa tội

phạm. Những kiến thức của công trình nghiên cứu này góp phần ảnh hưởng đến tư

duy và hướng nghiên cứu của luận án.

Sách chuyên khảo “Một s vấn ề ý u n về t nh h nh tội phạ ở Vi t Na ”

Tác giả PGS. Tiến sĩ Phạm Văn Tỉnh, Nxb Tư Pháp, 2007. Tác phẩm này nghiên

cứu cơ cấu về số lượng bị cáo và sự biến động của nó trong tình hình tội phạm. so

sánh với giai đoạn 1986 – 1988 theo số chương của Bộ Luật Hình sự cho thấy: nhóm

tội phạm về ma túy có cấp độ nguy hiểm cao nhất, nhóm tội xâm phạm an toàn, trật

tự công công và nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có cùng cấp độ nguy

hiểm thứ hai; nhóm xâm phạm tình mạng, sức khỏe, nhân phẩm của con người có

cấp độ nguy hiểm thứ ba. Trong công trình nghiên cứu này tác giả không nghiên cứu

nguyên nhân và các biện pháp phòng ngừa tội phạm.

Sách chuyên khảo “Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam” tác giả GS.TS

Nguyễn Văn Cảnh, PGS.TS Phạm Văn Tỉnh. Công trình nghiên cứu cho rằng “Tội

phạ học khoa học ph p ý h nh s phi quy phạ th c hi n vi c nghi n c u i

11

với kh ch thể cơ b n t nh h nh tội phạ v nghi n c u c c kh ch thể ph i sinh

bao g nh n th n người phạ tội; t nh h nh nạn nh n (người b hại) C a tội

phạ ; t c dụng c a h nh phạt i với t nh h nh tội phạ t c dụng c a những bi n

ph p phòng ngừa tội phạ v n ang ư c p dụng trong th c t v b n th n ch sử

ph t triển c a khoa học n y nhằ t ra quy u t c a hi n tư ng phạ tội trong xã

hội c i ư c thể hi n th ng qua c c phạ trù như b n chất c a t nh h nh tội phạ ;

nguy n nh n v iều ki n c a t nh h nh tội phạ hay t ra i i n h nh n qu

giữa t nh h nh tội phạ v c c hi n tư ng c c qu tr nh kinh t - xã hội kh c v ục

ch phòng ngừa tội phạ t c ngăn ngừa tội phạ v oại trừ tội phạ t c ngăn

ngừa tội phạ v oại trừ tội phạ ra khỏi ời s ng xã hội” [22 tr17]. Định nghĩa này

có nội dung báo quát hơn so với định nghĩa được đưa ra trước đây, và cũng bao quát

nhiều nội dung cụ thể hơn so với các định nghĩa của nhiều nhà khoa học khác. Từ đó

tác giả vận dụng để nghiên cứu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em cụ thể trong

chương 2 của luận án, và đánh giá công tác phòng ngừa cũng như nghiên cứu phòng

ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em thể hiện trong chương 4 của luận án.

Sách chuyên khảo “Nạn nh n c a Tội phạ ” tác giả PGS.TS Trần Hữu

Tráng, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2011. Tác giả đưa ra khái niệm về nạn nhân của tội

phạm, các yếu tố và hoàn cảnh cụ thể trở thành nạn nhân của tội phạm, nguyên nhân

của tình hình tội phạm trong đó có nguyên nhân từ phía nạn nhân. Vận dụng những

lý luận nêu trên, luận án cũng nghiên cứu về nạn nhân và vai trò của nạn nhân dưới

góc độ “nạn nh n ư c hiểu những c nh n tổ ch c b thi t hại về thể chất tinh

th n hoặc t i s n Nạn nh n bao g rất nhiều oại như nạn nh n c a chi n tranh

nạn nh n c a thi n tai nạn nh n b tai nạn ao ộng tai nạn giao th ng nạn nh n

t tử nạn nh n c a tội phạ … Trong c c oại nạn nh n kể tr n th nạn nh n c a tội

phạ dạng nạn nh n ặc bi t”. [135 tr12]

Sách chuyên khảo “Tội phạ học hi n ại v phòng ngừa tội phạ ” của GS.TS

Nguyễn Xuân Yêm, Nxb Công an nhân dân, 2001. Ở phần I công trình nghiên cứu lý

luận cơ bản về tội phạm học, ở phần II công trình nghiên cứu chuyên sâu về chuyên

ngành và phòng ngừa các tội phạm cụ thể. Tuy không có nội dung phân tích riêng về

nhóm tội xâm phạm tình dục nhưng công trình đã có những phân tích có đề cập đến các

tội xâm phạm tình dục. Ở trang 99 của giáo trình phân tích độ ẩn, tác giả có đề cập đến

các tội có độ ẩn lớn trong đó có một số tội phạm sinh lý (cưỡng dâm, giao cấu với trẻ

12

em dưới 16 tuổi). Ở trang 102 của giáo trình có phân tích “C c k t qu nghi n c u tội

phạ học c c vụ n cưỡng d cho thấy hơn 50% ch nh người phụ nữ ã tạo n n t nh

hu ng tạo iều ki n cho tội phạ x y ra” [151, tr102].

“Kh i ni phòng ngừa tội phạ dưới g c ộ tội phạ học” Trịnh Tiến Việt,

Tạp chí Khoa học xã hội Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật 24 (2008) trong bài

viết tác giả phân tích khái niệm tội phạm, các quan điểm về tội phạm, khái niệm về tội

phạm học, các quan điểm về tội phạm học, khái niệm phòng ngừa tội phạm. Trong bài

viết tác giả đưa ra khái niệm “tội phạ học ng nh khoa học xã hội – ph p ý h nh s

nghi n c u về tội phạ với tư c ch ột hi n tư ng xã hội nghi n c u về t nh h nh

tội phạ v c c oại tội phạ cụ thể về nguy n nh n v iều ki n phạ tội v tất c

c c i i n h c a tội phạ với những hi n tư ng xã hội v với qu tr nh diễn ra trong

xã hội ” [150, tr185-199]

“B n về kh i ni nạn nh n c a tội phạ ” Trần Hữu Tráng, tạp chí Luật học

số 01/2002. Trong bài viết tác giả đã đi sâu vào phân tích định nghĩa nạn nhân của

tội phạm, đặc điểm nạn nhân của tội phạm và phân biệt nạn nhân của tội phạm với

một số khái niệm khác trong luật hình sự và tố tụng hình sự như “Kh i ni nạn nh n

c a tội phạ còn ư c ph n bi t với kh i ni người b hại nguy n ơn d n s trong

t tụng h nh s Người b hại người b thi t hại về thể chất về tinh th n hay t i s n

do tội phạ g y ra Nguy n ơn d n s c nh n cơ quan hoặc tổ ch c b thi t hại về

v t chất do tội phạ g y ra v c ơn y u c u b i thường thi t hại”. [136 tr13]. Đây

cũng là một trong những lý luận cơ bản về nạn nhân góp phần vào việc nghiên cứu của

luận án về nạn nhân của các tội xâm phạm tình dục trẻ em

“Nạn nh n c a tội phạ ” Nguyễn Khắc Hải, tạp chí khoa học ĐHQGHN:

Luật học, số 2/2018. Bài viết của tác giả đã phân tích và giải thích sâu về khái niệm nạn

nhân dựa theo tiến trình lịch sử. Tác giả cho rằng “Dù ti p c n ở g c ộ n o th nạn

nh n học cũng vẫn c c ch hiểu chung khoa học nghi n c u về những tổn thương thể

chất tinh th n thi t hại t i ch nh c c c nh n – nạn nh n ph i g nh ch u do h nh

vi tr i ph p u t g y n n”[Tr86 87] Bài viết còn phân tích về nguyên nhân của nạn

nhân hóa, quyền của nạn nhân, vai trò của nạn nhân trong hệ thống tư pháp hình sự.

Nghiên cứu này đã củng cố thêm những lý luận cơ bản về nạn nhân, nạn nhân học của

tội phạm học góp phần vào nền tảng lý luận phục vụ cho nghiên cứu của luận án.

13

“Vấn ề ph n oại nh n th n người phạ tội trong tội phạ học”, Nguyễn

Thị Thanh Thủy, tạp chí luật học số 3/2003. Trong bài viết tác giả phân tích chuyên

sâu về phân loại người phạm tội như phân loại người phạm tội theo dấu hiệu nhân

khẩu học – xã hội, phân loại người phạm tội theo dấu hiệu pháp lý như: tính chất của

khuynh hướng chống lại xã hội và các định hướng giá trị của nhân thân (tính chất và

nội dung của mục đích và động cơ của hành vi phạm tội); mức độ nguy hiểm và bền

vững của tính chống đối xã hội đó (vị trí của các mục đích và động cơ trong cơ cấu

nhân thân, mức độ phát triển, độ sâu của các định hướng giá trị và các phẩm chất

đạo đức – tâm lý tương ứng). Bài viết cung cấp kiến thức lý luận chuyên sâu về phân

loại người phạm tội đưa ra những phân tích về người phạm tội “ngẫu nhiên” và “tình

huống” từ những kiến thức trên luận án đã tiếp cận và nghiên cứu phân loại nhân

thân người phạm tội XPTDTE dưới khía cạnh nhân khẩu học – xã hội.

“Đặc iể nh t nh c a t nh h nh tội phạ ở nước ta hi n nay” Phạm Văn

Tỉnh, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10/2005. Tác giả phân tích cơ cấu của tình

hình tội phạm bao gồm cơ cấu cơ bản, cơ cấu chuyên biệt, cơ cấu dữ liệu, bài viết

làm sáng tỏ cơ cấu trên hai bình diện dự liệu và thực tế, tác giả so sánh tổng hợp cơ

cấu dữ liệu và cơ cấu thực tế của tình hình tội phạm trên cơ sở của hình phạt trong

các thời kỳ của BLHS.

“Nguy n nh n v iều ki n c a t nh h nh tội phạ ở nước ta hi n nay – mô

h nh ý u n”, Phạm Văn Tỉnh, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 06/2008. Tác giả

phân tích khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, ảnh hưởng

của xu thế hội nhập đến nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm.

“Tổng quan về c ộ c a t nh h nh tội phạ ở Vi t Na qua s i u th ng

k từ nă 1986 – 2008”, Phạm Văn Tỉnh, 2011, Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà

nước và Pháp luật, số 4 (276), Tr 73- 80. Bài báo nghiên cứu về xu hướng của tình

hình tội phạm, các chỉ số khái quát, mức độ của tình hình tội phạm xét theo tội danh,

mức độ của tình hình tội phạm xét theo đơn vị hành vi phạm tội. Trong nhiều kết

quả nghiên cứu thì có kết quả nghiên cứu liên quan đến tội danh hiếp dâm và hiếp

dâm trẻ em (năm 2001 có 1.376 bị cáo; năm 2002 có 1.383 bị cáo; năm 2003 có

1.282 bị cáo) tổng cộng trong giai đoạn ba năm có 4.041 bị cáo (chiếm 2.16%)

14

Trong nghiên cứu này có giá trị tham khảo quan trọng trong công trình nghiên cứu

luận án của tác giả.

“Tội phạ học Vi t Na v phòng ngừa tội phạ ”, Phạm Văn Tỉnh, tạp chí

Nhà nước và pháp luật, 4/2009. Trong bài viết tác giả đã đi sâu vào phân tích về

tình hình tội phạm trên cơ sở lý giải nhiều luận điểm vả phòng ngừa tội phạm

“Phòng ngừa tội phạ ư c hiểu tổng thể c c bi n ph p do cơ quan tổ ch c v

ọi c ng d n ti n h nh dưới s ãnh ạo c a Đ ng c quyền nhằ t c ộng v o

c c y u t ph t sinh tội phạ cũng như oại trừ c c y u t n y v ục ch

ngăn chặn v ti n tới ẩy ùi tội phạ ra khỏi ời s ng xã hội” [120 tr59] - các hệ

thống của phòng ngừa tội phạm bao gồm các biện pháp loại trừ tội phạm vả các

biện pháp ngăn chặn tội phạm. Lý luận này được nghiên cứu sinh vận dụng vào quá

trình nghiên cứu của Luận án về phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em có

thể hiểu “ h th ng nhiều c ộ c c bi n ph p ang t nh ch ộng do cơ quan

tổ ch c v ọi c ng d n ti n h nh dưới s ãnh ạo c a Đ ng nhằ kh ng cho c c

tội x phạ t nh dục trẻ e diễn ra bằng c ch t c ộng hạn ch v bằng c ch

gi v d n d n oại bỏ t nh h nh tội phạ x phạ t nh dục trẻ e ‟

Trong các công trình nghiên cứu tội phạm học ở Việt Nam, có nhiều công

trình đưa ra định nghĩa về tình hình tội phạm có thể chia thành hai cách tiếp cận.

Một loại định nghĩa được xây dựng trên cách tiếp cận tình hình tội phạm là trạng

thái, xu hướng diễn biến của tội phạm nói chung và một loại định nghĩa được xây

dựng trên cách tiếp cận tình hình tội phạm như là một hiện tượng xã hội theo

GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm trong cuốn “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội

phạm” thì “Tình hình tội phạm là toàn bộ tình hình, cơ cấu, động thái, diễn biến của

các loại tội phạm hay từng loại tội phạm trong một giai đoạn nhất định xảy ra trong

một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm vi quốc gia, khu vực hoặc toàn thế giới

trong một khoảng thời gian nhất định” [151. tr88] Cùng với quan điềm này thì theo

TS. Nguyễn Ngọc Thế thì “Tình hình tội phạm chính là sự khắc họa tổng thể của

những hiện tượng tội phạm đã xảy ra. Nghiên cứu tình hình tội phạm và nghiên cứu

trạng thái của tội phạm và nghiên cứu xu hướng vận động của tội phạm”. [130.tr9]

PGS.TS Phạm Văn Tỉnh thì cho rằng “T nh h nh tội phạ ột hi n tư ng

15

xã hội ti u c c ang t nh ch sử v t nh ph p ý h nh s c t nh giai cấp v ư c

biểu hi n bằng tổng thể c c tội phạ cùng c c ch thể th c hi n c c tội phạ

trong ột ơn v h nh ch nh ãnh thổ nhất nh v trong ột thời gian cụ thể nhất

nh” [117 tr10] với những ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường sống, văn hóa, kinh tế

xã hội đã ảnh hưởng đến tình hình tội phạm phát sinh và tồn tại trong xã hội

Với những quan điểm trên đã cho thấy các công trình nghiên cứu tội phạm

học trong nước đã xây dựng nên một hệ thống lý luận về tội phạm học, lý luận về

tình hình tội phạm, nguyên nhân điều kiện của tình hình tội phạm, lý luận về nạn

nhân của tội phạm và phòng ngừa tội phạm là nền tảng kiến thức cho các công trình

nghiên cứu tiếp nối. Ngoài ra, các nghiên cứu về tội phạm học còn phân tích sâu về:

các thông số, chỉ số của tình hình tội phạm như là mức độ của tình hình tội phạm,

động thái của tình hình tội phạm, cơ cấu của tình hình tội phạm, tính chất của tình

hình tội phạm và khái niệm tội phạm ẩn. Những thông số, chỉ số này được phân tích

đánh giá dưới khía cạnh định tính và định lượng thông qua các số liệu thống kê tư

pháp. Các nghiên cứu lý luận về Tội phạm học đã cho thấy rằng tội phạm và tình

hình tội phạm là mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung, vì thế khi tiếp cận nghiên

cứu tội phạm học là sự tiếp cận về bản chất của tình hình tội phạm với tư cách là cái

được phản ánh thông qua các thông số định tính, định lượng của tình hình tội phạm và

cần phải xuất phát từ hành vi cụ thể của con người trong xã hội. Từ đó lý giải nguyên

nhân của tình hình tội và những biện pháp phòng ngừa tội phạm đạt hiệu quả.

Quan điểm của nghiên cứu sinh sẽ đi theo cách tiếp cận xem tình hình tội

phạm là một khách thể nghiên cứu cơ bản của tội phạm học, xem tình hình tội phạm

như là “ ột hi n tư ng xã hội ph p ý - h nh s ư c thay ổi về ặt ch sử ang

t nh chất giai cấp bao g tổng thể th ng nhất (h th ng) c c tội phạ th c hi n

trong ột xã hội (qu c gia) nhất nh v trong ột kho ng thời gian nhất nh”

[148. tr160]. Có thể thấy rằng, các công trình trên đã cung cấp kiến thức mang tính

tương đối toàn diện về tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, đồng thời cũng chỉ ra

phương pháp nghiên cứu, trang bị hệ thống các khái niệm và phương hướng nghiên

cứu khoa học về tình hình tội phạm cho luận án và cho các công trình nghiên cứu

tiếp nối.

16

1.1.2 Những công trình nghiên cứu có liên quan về các tội xâm phạm tình dục và

các công trình nghiên cứu tội phạm học về tình hình, nguyên nhân và phòng

ngừa tội phạm.

Các công trình nghiên cứu được thể hiện dưới dạng luận án, luận văn hay bài

báo nghiên cứu, tài liệu chuyên ngành sẽ là cơ sở dữ liệu hỗ trợ cho việc nghiên cứu

luận án được chuẩn xác phù hợp với thực tế hơn. Những công trình nghiên cứu về

các tội xâm phạm tình dục, hay các công trình nghiên cứu về tình hình, nguyên nhân

và phòng ngừa tội phạm hiện nay rất đa dạng, nghiên cứu từng tội phạm cụ thể hoặc

một nhóm tội phạm. Luận án chỉ khai thác những công trình nghiên cứu điển hình có

giá trị tham khảo hoặc liên quan đến đề tài của luận án bao gồm các công trình như sau:

Tài liệu chuyên ngành “Gi i p vướng ắc trong hoạt ộng th c h nh

quyền c ng t kiể s t vi c khởi t iều tra truy t xét xử c c vụ n vụ vi c x

hại phụ nữ trẻ e ” Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2019, Nhà xuất bản Tư pháp.

Tài liệu có nội dung liên quan đến luận án như: hướng dẫn và giải đáp thắc mắc của

Nghị quyết số 06/2019/NQ – HĐTPTANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định

tại điều 141,142,143,144,145,146,147 của Bộ luật hình sự và việc xét xử vụ án xâm

hại tình dục người dưới 18 tuổi và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về

phòng, chống xâm hại phụ nữ và trẻ em. [154, Phụ lục 1]

Luận án tiến sĩ luật học “C c tội x phạ t nh dục trong u t h nh s Vi t

Na ” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Linh năm 2019, Trường Đại học quốc gia Hà

Nội. Luận án nghiên cứu một cách hệ thống, đồng bộ những vấn đề lý luận và thực

tiễn về các tội xâm phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam. Xây dựng cơ sở lý

luận về các tội xâm phạm tình dục, phân tích nội dung quy định pháp luật về các tội

xâm phạm tình dục, đánh giá những điểm mới và đề xuất mô hình lập pháp về các

tội xâm phạm tình dục, kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng

quy định của các tội xâm phạm tình dục trong luật hình sự.

Luận án tiến sĩ luật học “Đấu tranh phòng ch ng tội ua b n phụ nữ ở Vi t

Na ” của tác giả Nguyễn Văn Hương, năm 2008, Trường Đại học Luật Hà Nội.

Luận án nghiên cứu về tội mua bán phụ nữ trong giai đoạn từ năm 1998 – 2007, có

1904 bị cáo phạm tội trong có có 697 bị cáo là nữ giới. Đối với tội mua bán phụ nữ

thì việc lợi dụng mối quan hệ quen biết, dụ dỗ về vật chất chiếm tỷ lệ cao trong cơ

17

cấu tình huống phạm tội. Đây cũng là tội phạm trực tiếp xâm hại đến quyền con

người và nạn nhân là nữ giới. Luận án cũng phân tích nguyên nhân và giải phòng

ngừa tội phạm này. Công trình nghiên cứu này cũng góp phần định hướng mở rộng

nghiên cứu các tội phạm mà chủ thể của tội phạm là nữ giới.

Luận án tiến sĩ luật học “Đấu tranh phòng ch ng tội phạ c sử dụng bạo c

ở Vi t Na hi n nay”, Nguyễn Ngọc Bình, năm 2010. Luận án phân tích lý luận về

phòng ngừa tội phạm và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm có sử dụng bạo lực.

Luận án phân tích thực trạng của tình hình tội phạm có sử dụng bạo lực ở Việt Nam giai

đoạn từ năm 1999 – 2008 thông qua số liệu thống kê, phân tích diễn biến, cơ cấu, tính

chất của tình hình tội phạm và đề xuất các giải pháp nhằm ngăn chặn và phòng, chống tội

phạm có sử dụng bạo lực. Tiếp cận nghiên cứu của luận án này trong việc phòng ngừa tội

phạm có hành vi dùng bạo lực để đạt mục đích, vận dụng các nghiên cứu này vào trong

việc phòng ngừa hành vi xâm hại tình dục trẻ em có xu hướng sử dụng bạo lực.

Luận án tiến sĩ luật học “Phòng ch ng tội phạ ua b n người tại Vi t Na ”

Nguyễn Mai Trâm, năm 2017, Học viện Khoa học Xã hội . Công trình nghiên cứu về

tình hình tội phạm mua bán người từ năm 2004 đến năm 2015, luận án phân tích tính

hình tội phạm mua bán người trên phạm vi toàn quốc, đánh giá nguyên nhân và điều

kiện của tình hình tội phạm, luận án tiếp cận dưới góc độ quyền con người đối với tội

phạm mua bán người, đưa ra các giải pháp căn bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong thực tiễn. Công trình nghiên cứu này cũng

là tài liệu tham khảo hữu ích để nghiên cứu tội phạm dưới góc độ tội phạm học theo

hướng đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Luận án tiến sĩ luật học “Tội gi t người trong Lu t h nh s Vi t na v ấu

tranh phòng ch ng tội phạ n y” Đỗ Đức Hồng Hà, 2007. Luận án nghiên cứu về tội

giết người theo quy định của Luật hình sự, thực tiễn tình hình tội giết người ở Việt

Nam từ giai đoạn 1996 – 2005, lý giải nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội giết

người, luận án đề xuất các giải pháp phòng ngừa và nâng cao hiệu quả của công tác

phòng, chống tội phạm này trên thực tế. Kế thừa thành quả nghiên cứu mà luận án đề

cập trong đó có hành vi giết người nhằm che dấu hành vi phạm tội, trong đó có hành

vi xâm phạm tình dục trẻ em. [75]

Luận văn thạc sĩ “C c tội phạ t nh dục v ấu tranh ch ng c c tội phạ

n y ở Vi t Na trong giai oạn hi n nay”, Trịnh Thị Thu Hương, 2004. Luận văn

18

nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn cả nước. Nạn nhân của tội

phạm phần lớn là nữ. Luận văn phân tích quy định của pháp luật hình sự về các tội

xâm phạm tình dục trẻ em và thực trạng của tình hình tội phạm. Tác giả đề xuất các

biện pháp đấu tranh và phòng ngừa loại tội phạm này trên thực tiễn. Với tính chất là

tài liệu tham khảo luận án sẽ tiếp cận các quan điểm của tác phẩm này như phân tích

pháp luật thực định và vận dụng kiến nghị đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Luận văn thạc sĩ “B o v quyền c a nạn nh n c c tội x phạ t nh dục trẻ

e dưới g c ộ quyền con người” Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh, 2011. Luận văn phân

tích quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, phân tích

nạn nhân của tội phạm và các quyền liên quan đến nạn nhân của tội phạm. Luận văn

phân tích quy định của pháp luật về bảo vệ quyền của nạn nhân trong đó có nạn

nhân của các tội xâm phạm tình dục và Quyền con người trong quy định của pháp

luật. Từ các kết quả của những nghiên cứu trên, luận án đã tiếp thu và nghiên cứu đề

xuất bảo vệ quyền nạn nhân các tội xâm phạm tình dục trẻ em dưới gốc độ quyền

con người.

“Một s kh khăn v gi i ph p n ng cao hi u qu phòng ch ng tội phạ x

hại t nh dục trẻ e ”, Nguyễn Văn Điền, 8/2019, tạp chí Tòa án nhân dân. Tác giả

phân tích lý luận về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, những khó khăn vướng mắc

khi giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em trên thực tiễn. Từ đó tác giả đề xuất

những giải pháp nhầm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em

và nâng cao công tác đấu tranh phòng ngừa.

“Những kh khăn vướng ắc c a cơ quan ti n h nh t tụng trong qu tr nh

iều tra c c vụ n x hại t nh dục trẻ e ” Trần Xuân Thiên An, 2018, tạp chí Kiểm

sát. Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc trong công tác giải quyết vụ án của

cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt công tác của Viện kiểm sát trong quá trình giải

quyết các vụ án về xâm hại tình dục trẻ em, từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể cho

việc phòng ngừa đối với các tội này trên thực tiễn trong thời gian tới.

“Th c trạng v gi i ph p ấu tranh phòng ch ng tội phạ x hại t nh dục

trẻ e ở nước ta hi n nay’ Đỗ Đức Hồng Hà, 19/2017, tạp chí Tòa án nhân dân. Bài

viết thống kê tình hình các tội XPTDTE diễn ra hiện nay ở các địa bàn như Thành phố

Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, An Giang, Long An, Tiền Giang, Kiên Giang, Cà Mau,

19

Đồng Nai, Tây Ninh... Từ đó tác giả cũng đề xuất các giải pháp đấu tranh phòng,

chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ em ở nước ta hiện nay.

1.1.3 Những công trình nghiên cứu về tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa các tội

xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn cả nước hoặc từng địa phương

Sách chuyên khảo “Phòng ch ng tội phạ x hại t nh dục trẻ e tr n a

b n tỉnh Đ ng Nai” Đồng Xuân Thọ, Nxb Công an nhân dân, 2011. Công trình

nghiên cứu chuyên sâu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, giai đoạn từ năm 1998

– 2007 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Công trình phân tích khái niệm về trẻ em và quy

định của pháp luật về trẻ em, phân tích quy định pháp luật về các tội xâm phạm tình

dục trẻ em. Quan điềm của Đảng và Nhà nước về công cuộc đấu tranh phòng, chống

các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Bằng phương pháp thống kê công trình cho thấy

thực trạng, diễn biến, cơ cấu và tính chất của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ

em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Các đặc điểm về địa lý, kinh tế, xã hội và dân cư ảnh

hưởng đến tình hình tội phạm. Công trình đưa ra dự báo và giải pháp phòng ngừa cụ

thể trên đại bàn tỉnh Đồng Nai. Kết quả nghiên cứu của công trình có giá trị tham

khảo cho các nghiên cứu tiếp theo và là tài liệu tham khảo hữu ích đối với việc

nghiên cứu về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em gắn với địa bàn cụ thể.

Luật án Tiến sĩ “Đấu tranh phòng ch ng tội hi p d trẻ e ở Vi t Na trong

giai oạn hi n nay” Lê Hữu Du, 2015, Học Viện Khoa học Xã hội. Luận án nghiên cứu

tình hình tội hiếp dâm trẻ em giai đoạn từ năm 2007 – 2013 trên địa bàn cả nước. Luận án

phân tích nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm dưới tác động của môi trường

sống, môi trường con người và tình huống phạm tội, từ đó đề xuất các giải pháp phòng

ngừa tội hiếp dâm trẻ em. Những kết quả của luận án là cơ sớ quý giá cho việc nghiên

cứu về các tội xâm phạm tình dục trong đó có tội hiếp dâm trẻ em. Luận án cũng kế thừa

kết quả của nghiên cứu này để tiếp nối nghiên cứu với giai đoạn tiếp theo.

Luận án Tiến sĩ luật học “C c tội x phạ t nh dục trẻ e tr n a b n iền

Đ ng Na Bộ: t nh h nh nguy n nh n v gi i ph p phòng ngừa” Trần Văn Thưởng,

Năm 2018, công trình nghiên cứu tình hình các tội XPTDTE từ năm 2008 – 2017 trên

địa bàn miền Đông Nam Bộ với 2064 vụ/2122 bị cáo. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy

các tỉnh Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố. Hồ Chí Minh có tỉ lệ phạm

tội cao nhất. Đa số đối tượng phạm tội trong độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi chiếm 54.8%,

20

đối tượng phạm tội có nghề nghiệp không ổn định chiếm 58,8%. Công trình đã phân

tích nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTDTE gắn với địa bàn miền

Đông Nam Bộ. Từ đó đề xuất các giải pháp thiết thực phòng ngừa tội phạm. Công

trình này là bước tiếp nối cho nghiên cứu tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền

Tây Nam Bộ của tác giả, so sánh đối chiếu đã cho thấy nguyên nhân điều kiện của

tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở cả hai địa bàn Đông Nam Bộ và Tây

Nam Bộ có nhiều nét tương đồng như điều kiện về phát triển kinh tế, Tuy nhiên giữa

hai địa bàn cũng có sự khác biệt đáng kể: như yếu tố về dân cư, thành phần dân tộc.

Dân cư ở khu vực cụm công nghiệp, tình trạng di cư ở địa bàn Đông Nam Bộ thì yếu

tố này Tây Nam Bộ không có sự tác động nhiều trong nguyên nhân và điều kiện của

tình hình tội phạm. Ngược lại đối với miền Tây Nam Bộ thì đời sống như hôn nhân

với thực trạng ly hôn cao ở các địa bàn cũng là nguyên nhân và điều kiện của tình

hình các tội XPTDTE, ngoài ra các yếu tố như: phụ nữ kết hôn nước ngoài, khu vực

dân cư sông nước sống thưa thớt, trẻ em người dân tộc Khơme chưa được cha mẹ

quan tâm đầy đủ đây là các nguyên nhân của tình hình các tội xâm phạm tình dục trên

địa bàn miền Tây Nam Bộ trong khi đó Đông Nam Bộ ít bị ảnh hưởng bởi những yếu

tố này. Do vậy luận án sẽ kế thừa và tiếp nối các công trình nghiên cứu trước đó để

phát triển từ đó nêu ra những giải pháp riêng cho địa bàn và các khu vực lân cận để

làm rõ hơn tình hình các tội XPTDTE của các khu vực và tình hình các tội XPTDTE

của cả nước.

Đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Tội phạ x phạ t nh dục trẻ e ở c c tỉnh

th nh ph ph a Na th c trạng v gi i ph p phòng ngừa ấu tranh” Vũ Đức

Trung, 2005, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân. Đề tài đã nghiên cứu thực tiễn

công tác phòng ngừa, đấu tranh các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn các

tỉnh, thành phố phía Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp phòng ngừa, đấu tranh của

lực lượng cảnh sát nhân dân. Trong đề tài có một số nội dung liên quan đến luận án

như tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh, thành phố phía

Nam, phân tích các yếu tố tác động đến tình hình tội phạm từ đó phân tích nguyên

nhân và điều kiện trực tiếp liên quan đến người phạm tội. Kết quả nghiên cứu này là

một trong những tài liệu tham khảo rất cần thiết cho nghiên cứu của luận án. Đặc

biệt là phần giải pháp phòng ngừa mang tính nghiệp vụ.

21

Đề tài nghiên cứu cấp Trường “Đấu tranh phòng ch ng c c tội x phạ

t nh dục người chưa th nh ni n tại c c Tỉnh Ph a Na ” Võ Thị Kim Oanh, Lê

Nguyên Thanh, Phạm Thái, 2008, Đại học Luật TP.HCM. Đề tài phân tích lý luận về

các tội xâm phạm tình dục người chưa thành niên, lý luận về phòng, chống các tội

xâm phạm tình dục và xâm phạm tình dục người chưa thành niên. Phân tích thực trạng

tình hình tội các tội xâm phạm tình dục người chưa thành niên tại các tỉnh phía Nam.

nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục người chưa thành

niên. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tại các tỉnh phía Nam, kiến nghị các

giải pháp cụ thể. Với tính chất là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu của Luận án, đề

tài cung cấp kiến thức lý luận làm nền tảng cho việc so sánh đối chiếu và kế thừa với

các công trình có cùng đối tượng nghiên cứu.

Luận văn thạc sĩ “Hoạt ộng phòng ngừa tội phạ hi p d trẻ e c a c

ư ng C nh s t iều tra tội phạ về tr t t xã hội C ng an th nh ph H Nội”

Nguyễn Thị Hương, 2012, Học viện CSND. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu hoạt

động phòng ngừa tội phạm hiếp dâm trẻ em do lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về

trật tự xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn phân tích khái niệm, vai trò,

trách nhiệm, nội dung, biện pháp phòng ngừa và công tác phối hợp của các chủ thể có

thẩm quyền. Qua công trình nghiên cứu này luận án tiếp cận tham khảo về công tác

nghiệp vụ trong điều tra và phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em và nghiên

cứu giải pháp phòng ngừa cụ thể.

Luận văn thạc sĩ “Đấu tranh phòng ch ng c c tội x phạ t nh dục trẻ e

tr n a b n Th nh ph H Nội” Hà Xuân Tùng (2010). Luận văn đã phân tích tình

hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Thành phố Hà Nội, giai đoạn 2004

– 2009 Tòa án đã xét xử 270 vụ/438 bị cáo, luận án còn phân tích nguyên nhân và

điều kiện cùa tình hình tội phạm này, đề xuất giải pháp phòng ngừa các tội xâm phạm

tình dục trẻ em trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

Luận văn thạc sĩ “C c tội x phạ t nh dục i với trẻ e tr n a b n tỉnh

Trà Vinh – T nh h nh nguy n nh n v gi i ph p phòng ngừa” Diệp Huyền Thảo

(2014) - Luận văn thạc sĩ - Học viện Khoa học. Đây là công trình nghiên cứu về

tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tình Trà Vinh giai đoạn

2004 – 2013. Công trình nghiên cứu về thực trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất của

22

tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, nguyên nhân

và điều kiện của tình hình tội phạm, dự báo tình hình tội phạm diễn ra trong thời

gian tới và giải pháp phòng ngừa loại tội phạm này trên địa bàn. Công trình này có ý

nghĩa nền tảng cho việc nghiên cứu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

địa bàn miền Tây Nam Bộ với tính chất là luận án tiến sĩ.

Luận văn thạc sĩ “Hoạt ộng c a c ư ng CSND trong phòng ngừa v iều

tra tội phạ hi p d trẻ e x y ra tr n a b n tỉnh Đ ng Th p” Võ Thành Tốt

(2002) - Học viện CSND; Công trình nghiên cứu về thực trạng, diễn biến, cơ cấu,

tính chất của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng

Tháp, nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội phạm tình dục trẻ em trên địa

bàn tỉnh Đồng Tháp trong đó yếu tố địa lý mang tính đặc thù của địa bàn, dự báo

tình hình tội phạm diễn ra trong thời gian tới và giải pháp phòng ngừa. Thành quả

nghiên cứu của luận văn là cơ sở tham khảo cho công trình nghiên cứu của Luận án.

Đồng Tháp là một trong các địa bàn của miền Tây Nam Bộ nên việc tiếp cận với các

công trình nghiên cứu chuyên sâu, phân tích vị trí địa lý, ảnh hưởng của vùng đến

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm có ý nghĩa hữu ích trong nghiên

cứu của Luận án.

Luận văn thạc sĩ “Đấu tranh phòng ch ng tội hi p d tr n a b n Tỉnh

S c Trăng” Phan Thị Ngoan (2013) - Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học Xã hội.

Luận văn nghiên cứu về phần hiện và phần ẩn của tình hình các tội xâm phạm tình

dục trẻ em. Công trình đã thống kê các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Sóc

Trăng từ năm 2007 – 2012 như sau: hiếp dâm (33 vụ/44 bị cáo); Hiếp dâm trẻ em (91

vụ/93 bị cáo); giao cấu với trẻ em (27 vụ/27 bị cáo); Dâm ô trẻ em (12 vụ/13 bị cáo);

cưỡng dâm và cưỡng dâm trẻ em (0 vụ/0 bị cáo). Công trình còn phân tích nguyên

nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Yếu tố về văn

hóa, dân tộc, trình độ dân trí được tác giả phân tích chuyên sâu. Luận văn nêu ra dự báo

tình hình tội phạm và phòng ngừa tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.

Lê Thị Linh Sương “Kh a cạnh nạn nh n trong nguy n nh n v iều ki n c a

c c tội x phạ t nh dục trẻ e tr n a b n Th nh ph H Ch Minh” luận văn

thạc sỹ (2015). Luận văn đã phân tích nạn nhân của các tội xâm phạm tình dục trẻ em

và có những kết luận đáng chú ý như sau: trẻ em cơ nhỡ, lang thang trên các địa bàn

23

quận 2, 10, 12 và quận Thủ Đức có nguy cơ cao trở thành nạn nhân của tội phạm này.

Trẻ em ở những khu trọ, có cha mẹ làm công nhân cũng dễ trở thành nạn nhân của các

tội xâm phạm tình dục trẻ em. Nguyên nhân về kinh tế, đời sống cũng có ảnh hưởng đến

việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, sự ít quan tâm của cha mẹ, sự dễ dãi của trẻ em gái

cũng là dễ dàng tạo điều kiện cho người phạm tội thực hiện hành vi xâm hại tình dục.

Bùi Bé Năm “N ng cao hi u qu hoạt ộng phòng ngừa iều tra xử ý tội

phạ x phạ t nh dục trẻ e tr n a b n tỉnh An Giang” (2007) Luận văn đã

phân tích về phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa các tội xâm phạm tình

dục trẻ em, phân tích tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh An Giang cụ thể như địa

bàn: Tri Tôn, Tịnh Biên, Tân Châu nơi giáp ranh khu vực biên giới, từ đó đề xuất các

giải pháp phòng ngừa, điều tra và xử lý các tội xâm phạm tình dục trẻ em.

Các công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em đã cho thấy

xu hướng ngày càng gia tăng của loại tội phạm này. Sự tăng giảm không điều của

tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em qua các năm cũng cho thấy những diễn

biến phức tạp của tình hình các tội xâm phạm tình dục trong thời gian tới. Trong

nhóm các tội xâm phạm tình dục thì tội hiếp dâm trẻ em chiếm tỉ lệ cao nhất. Các

công trình nghiên cứu có nhiều quan điểm về nguyên nhân của tình hình các tội xâm

phạm tình dục. Tuy nhiên đa số đều thống nhất các yếu tố phát sinh loại tội phạm

này là do các nguyên nhân về kinh tế, xã hội và nguyên nhân trong quản lý nhà nước

hoặc những nghiên cứu thiên về các như: yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống,

môi trường quản lý, giáo dục của gia đình, nhà trường, môi trường xã hội do Nhà

nước quản lý, hay các hiện tượng tiêu cực thuộc về chủ thể của tội phạm và tình

huống phạm tội, các hiện tượng về sự biến đổi tâm sinh lý,bệnh lý, các hiện tượng

tiêu cực do việc gia tăng tệ nạn xã hội. Các nghiên cứu cũng kiến nghị và đề xuất

các giải pháp phòng ngừa tội phạm gắn kết với từng nhóm nguyên nhân cụ thể như

giải pháp về kinh tế, xã hội, giáo dục, môi trường sống, về gốc độ nạn nhân. Những

giải pháp gắn liền với từng địa bàn cụ thể nhằm tăng cường biện pháp phòng ngừa

cho từng vùng trên địa bàn miền Tây Nam Bộ.

1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Tình hình tội phạm nói chung, tội phạm xâm hại tình dục trẻ em nói riêng

không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới cũng luôn có nhiều diễn biến phức tạp và có

24

xu hướng gia tăng. Chính vì vậy, nó đã thu hút nhiều sự quan tâm của cộng đồng

quốc tế và rất nhiều tổ chức, nhà nghiên cứu tội phạm học ở hầu hết các quốc gia với

nhiều cấp độ và khía cạnh nghiên cứu khác nhau

1.2.1 Những công trình nghiên cứu lý luận về tội phạm học

Trong cuốn sách “Criminology Today”, nhà xuất bản Prentice Hall năm

2002, Trường Đại học Bắc Cariolina ở Perbroke (Mỹ) của Tiến sĩ triết học Giáo sư

danh dự Frank – Schmalleger chủ biên. Trong quyển Sách Criminology Today khái

niệm về tội phạm học “Tội phạ học khoa học bao quanh chuy n n i n

ng nh nghi n c u về tội phạ v h nh vi phạ tội bao g c những biểu hi n c a

n nguy n nh n c c kh a cạnh ph p ý v s kiể so t” [164. tr10] tức là tội phạm

học là khoa học có tính liên ngành vì nghiên cứu về tội phạm phải hiểu biết các vấn

đề của các khoa học khác, nhằm để tổng hợp các vấn đề liên quan đến tội phạm tồn

tại trong xã hội và tìm ra các quy luật để có các giải pháp xử lý các vấn đề do tội

phạm gây ra.Ngoài ra, quan niệm về tội phạm học hiện đại thì tội phạm học là ngành

khoa học thực nghiệm độc lập nghiên cứu các sự việc thuộc các lĩnh vực của con

người, xã hội mà chúng liên quan đến sự hình thành tội phạm, việc phạm tội, hậu

quả của tội phạm và việc ngăn chặn tội phạm cũng như việc xử lý những người

phạm tội

Trong cuốn sách “On crime and punishment”, tác giả Cesare Beccaria. Đây

là sách chuyên khảo thuộc trường phái tội phạm học cổ điển xuất hiện từ giữa thế kỷ

XVIII. Công trình nghiên cứu của Cesare Beccaria đã cung cấp kế hoạch và giới hạn

trong hệ thống pháp luật, phân tích hệ thống tư pháp hình sự hiện đại, thừa nhận kẻ

phạm tội khi thực hiện tội phạm có cân nhắc đến yếu tố hậu quả. Theo công trình

nghiên cứu thì các cá nhân có tự nguyên lựa chọn những cách thức thực hiện hợp

pháp hoặc hoặc không hợp pháp để đạt mục đích và tâm lý lo ngại về hình phạt có

thể ngăn chặn hành vi phạm tội của con người.

Trong cuốn sách “Crime and Society” Fance Heidensohn. Tác giả cho rằng

“tội phạm học là khoa học nghiên cứu tội phạm, các dạng tội phạm, các nguyên

nhân của tội phạm và các mối quan hệ với các hiện tượng và quá trình khác; nghiên

cứu hiệu quả áp dụng các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm” Tội phạm và

xã hội là tổng quan nghiên cứu toàn diện xã hội học về tội phạm, mối quan hệ giữa

25

tội phạm và xã hội kết hợp phân tích lý thuyết với các khảo sát thực nghiệm. Bao

gồm các vấn đề: khái niệm tội phạm, tội phạm vị thành niên, nạn nhân của tội phạm

và chính sách kiểm soát tội phạm.

Trong cuốn sách “Crime and Criminology” Rob White Haines, Trường đại

học Oxford, xuất bản năm 2000. Tác giả viết “Tội phạm là một lĩnh vực nghiên cứu

độc lập, có phạm vi nghiên cứu của tội phạm học rất rộng liên quan đến khía cạnh xã

hội học pháp luật, nguyên nhân của tội phạm và sự phản ứng của xã hội đối với tội

phạm” tác già cho rằng tội phạm học với tư cách là một hiện tượng xã hội, mục tiêu

của tội phạm học là phát triển một hệ thống chung các nguyên tắc đã thực thi trên

thực tế thông qua thực trạng tội phạm và quá trình giải quyết tội phạm.

Trong cuốn sách “Cri ino ogy – The Core”, của tác giả Larry Siegel, Nhà

xuất bản Cengage Learning, năm 2014. Tác giả đã đưa ra những nghiên cứu một

cách tổng thể về lý thuyết cơ cấu xã hội, xung đột xã hội nghiêm trọng giữa tội

phạm và công lý, các lý thuyết phát triển về thiên hướng và quy luật tội phạm đây là

một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về tội phạm, đặc biệt là kết quả của

những nghiên cứu về mối quan hệ giữa nạn nhân và tội phạm, nạn nhân với nạn

nhân, dự báo về các nguy cơ tái phạm đối với một số loại tội phạm.

Trong tác phẩm “Cri e prevension theory and practice” của Stephen R.

Schneider giáo sư về lĩnh vực khoa học xã hội học và tội phạm, thuộc Đại học Saint

mary, Halifax, Nova Scotia, Canada. Tác giả nhấn mạnh các vấn đề lý luận về phòng

ngừa tội phạm, biện pháp phòng chống tội phạm thông qua thiết kế môi trường. Tác

phẩm đã đề cập đến việc phòng ngừa tội phạm với đối tượng thanh thiếu niên,

những người trưởng thành bằng việc thực hiện các hoạt động cộng đồng, hoạt động

hữu ích. Từ đó tác giả đã có những giải pháp phòng ngừa tội phạm bằng cách thức

thay đổi hành vi từ chính nạn nhân, giảm nguy cơ trở thành nạn nhân tiềm tàng, hay

giải pháp về việc giảm sát sự tiếp cận giữa nạn nhân với người phạm tội, hạn chế sự

tác động của nguyên nhân và điều kiện của việc hình thành động cơ phạm tội. Tác

giả cũng chỉ ra được những hạn chế và cách giải quyết những hạn chế của việc áp dụng

các giải pháp giải quyết vấn đề xã hội cho người phạm tội, tập trung vào công tác phòng

ngừa tái phạm, nâng cao trách nhiệm của cộng đồng trong phòng ngừa tội phạm.

26

Trong cuốn sách “Crimes and Justie in Contemporary Japa” 1989, Trường

Đại học Tổng hợp Ritsumeikan, tác phẩm do GS.TS Nguyễn Xuân Yêm và GS.TS

Hồ Trọng Ngũ dịch từ bản tiếng Nga của Nxb Tiến Bộ, Maxcova năm 1989. Công

trình nghiên cứu chỉ ra chủ thể của hoạt động phòng ngừa tội phạm bao gồm các cơ

quan nhà nước, các tổ chức xã hội, và các nhà khoa học. Nghiên cứu đề cập đến các

quan điểm về tội phạm, các biện pháp đấu tranh chống tội phạm, trong đó các chính

sách về kinh tế, văn hóa, xã hội là các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm. Với

công trình khoa học này, nhà tội phạm học người Nhật cho rằng tội phạm học không phải

là khoa học duy nhất nghiên cứu tội phạm, mà là đối tượng của một số ngành khoa học

khác như: Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Xã hội học, Tâm lý học, Thần kinh học.

Trong t c phẩ “Teoretichskiye osnovy preduprezhdeniya prestupnosti” d ch

“Cơ sở ý u n c a vi c phòng ngừa tội phạ ” Mikovskij G.M, Nxb.Max-xcơ-va,

Jurid, Literature, năm 1977, (bản dịch của Viện thông tin Khoa học xã hội, năm

1982). Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về cơ sở lý luận của phòng ngừa tội

phạm. Công trình chỉ rõ tội phạm là một hiện tượng xã hội và phương hướng đấu

tranh chống tội phạm cơ bản nhất là phòng ngừa tội phạm.

1.2.2 Những nghiên cứu chuyên sâu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em

Công trình “ Child Sexual Abuse: Crimes, Victims, Offender Characteristics,

and Recidivis ”, Anita Carlsteadt, 2012. Trung tâm Đạo đức, Pháp luật và Sức khỏe

Tâm thần Viện Khoa học thần kinh và Sinh lý học Học viện Sahlgrenska tại Đại học

Gothenburg. Công trình nghiên cứu đã phân tích hành vi lạm dụng tình dục được

hiểu là hành động tình dục giữa trẻ em và có mối tiếp xúc cơ thể với bộ phận sinh

dục của trẻ em hoặc có ý định ép buộc họ hoạt động tình dục. Theo nghiên cứu này

thì sử dụng trẻ em khiêu dâm được hiểu khác hơn và được định nghĩa trong Bộ luật

Hình sự Thụy Điển (Brottsbalken) là hành vi quấy rối tình dục. Nghiên cứu cũng nói

đến việc rối loạn tình dục đặc trưng DSM-IV cũng là nguyên nhân đến hành vi xâm

phạm tình dục trẻ em.

Công trình nghiên cứu “The Legal Process In Child Sexual Abuse-

Difficulties in confirming evidence and providing support” Master Thesis Christina

Back , Linköping University, Sweden, 2012. Công trình nghiên cứu về tình hình

nạn nhân của tội phạm (trẻ em bị xâm phạm tình dục) với độ tuổi từ 8 - 18 tuổi.

27

Nghiên cứu những nguyên nhân trẻ em bị lạm dụng tình dục thông qua nhiều kênh

thông tin như các nhà làm luật, công tố viên, cha mẹ của những trẻ em bị lạm dụng

tình dục, công trình nghiên cứu thông qua khảo sát, phỏng vấn để nghiên cứu về nạn

nhân của tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em.

Công trình nghiên cứu “United States child abuse prevention” by Prevent

child Abuse America, công bố năm 2000, GS David Frikelhor. Với công trình

nghiên cứu của Liên hiệp quốc gia về phòng ngừa lạm dụng tình dục và bóc lột trẻ

em Hoa kỳ: Nghiên cứu đánh giá rằng hệ thống pháp luật hiện tại phản ứng khá thụ

động với tội phạm lạm dụng trẻ em, thường chỉ là những phản ứng mang tính tức

thời sau khi tội phạm xảy ra hơn là những chương trình chiến lược lâu dài để phòng

ngừa. Công trình đề xuất sáu bước quan trọng để cải thiện tình hình gồm: nâng cao

khả năng nghiên cứu về loại tội phạm này, nâng cao nhận thức cộng đồng, ngăn

chặn nguyên nhân và điều kiện của tội phạm lạm dụng tình dục trẻ em, cải thiện

chính sách và năng lực hoạt động của các tổ chức, cuối cùng là sự hỗ trợ tài chính

vào các chương trình phát triển và phòng ngừa. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đưa ra rất

nhiều khuyến nghị để phòng ngừa và ngăn chặn ở cấp độ cá nhân, ở cộng đồng, và

cấp độ chính sách quốc gia đẩy mạnh các chương trình phòng ngừa, chuyển vai trò

phòng ngừa từ trẻ em qua người lớn, thăm dò và đẩy mạnh những cách tiếp cận mới

trong hệ thống tư pháp đó là tăng cường khả năng phòng ngừa lâu dài bằng cách tập

trung nhiều hơn vào trách nhiệm, cải tạo giáo dục và bồi thường hơn là sự trừng phạt

thông thường vốn chỉ giải quyết được vấn đề trước mắt chứ không có nhiều tác dụng

mang tính lâu dài

Trong tác phẩm “National Plan to Prevent the Sexual Abuse and

Exploitation of Children” của Liên hiệp quốc gia về phòng ngừa lạm dụng tình dục

và bóc lột trẻ em Hoa kỳ, xuất bản tháng 3/2012. Nghiên cứu được thực hiện bởi

một cơ quan độc lập không thuộc chính phủ đã có những đánh giá về tình hình tội

phạm lạm dụng và bóc lột tình dục ở trẻ em Nam Phi. Mục tiêu của nghiên cứu là

làm giảm tình hình tội lạm dụng tình dục trẻ em. Nghiên cứu cũng chỉ ra những

điểm chính cần lưu ý khi đấu tranh, phòng ngừa loại hình tội phạm này bao gồm:

tâm tư từ cả bé gái và bé trai đã bị lạm dụng, công lý cho trẻ em, vấn đề chia sẻ trách

nhiệm trong phòng ngừa lạm dụng tình dục ở trẻ em, nguyên nhân của tình trạng

28

lạm dụng và bóc lột tình dục ở trẻ em, sự tham gia của trẻ em trong một môi trường

giáo dục thân thiện…Nghiên cứu cũng đưa ra 10 khuyến nghị cơ bản xuất phát từ

bài học thực tiễn đã rút ra như: xây dựng đạo luật về tội phạm tình dục, xây dựng

chính sách quốc gia, xây dựng chiến lược quốc gia, tạo cho trẻ em nhiều cơ hội hơn

để bảo vệ mình, trẻ em nên được tham gia đóng góp những quy định liên quan đến

mình, những tác động về văn hóa, tín ngưỡng truyền thống cần được nghiên cứu sâu

hơn, khôi phục niềm tin cộng đồng vào hệ thống công lý, cải thiện chất lượng của

chứng cứ, phòng ngừa những tổn thương sau khi bị lạm dụng tình dục, tòa án nên

đứng về phía trẻ em, các nguồn lực phải được đầu tư nhiều hơn để bảo vệ trẻ em

trước tội phạm lạm dụng và bóc lột tình dục

Trong tác phẩm “The Epidemic of Rape and Child Sexual Abuse in the United

States” Diana E.H.Russell và Rebecca M.Bolen, Nxb Sage Publication Inc, 2000.

Công trình nghiên cứu về trẻ em bị lạm dụng ở 1 số quốc gia (Hoa Kỳ, Nam Phi,

Anh) đều cho thấy thực trạng của việc hiếp dâm và và lạm dụng tình dục trẻ em vẫn

tiếp tục diễn ra và có tình trạng gia tăng. Cộng trình nghiên cứu cũng kiến nghị

những giải pháp hữu hiệu để đấu tranh phòng, chống tình trạng lạm dụng tình dục

trẻ em và có những phương thức thực nghiệm cụ thể để phòng ngừa tội phạm.

Công trình nghiên cứu: “The Issue of Sexual Violence against women in

Contemporary India” – công bố ngày 7/2/2013 của tổ chức Human Rights Watch.

Công trình nghiên cứu về vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em ở Ấn Độ của tổ chức

giám sát nhân quyền quốc tế (Human Rights Watch). Nghiên cứu đưa ra nhiều

khuyến nghị đối với chính quyền địa phương cũng như chính quyền trung ương về

vấn đề bảo vệ trẻ em khỏi nguy cơ bị lạm dụng tình dục. Các học giả cũng chỉ ra

những điểm không phù hợp khi giải quyết vấn đề lạm dụng tình dục ở trẻ em ở cấp

độ cộng đồng, nhà trường, sự thiếu hiệu quả của hệ thống tư pháp (Cảnh sát, tổ chức

giám định, Tòa án). Ngoài ra nghiên cứu cũng đánh giá những nỗ lực trong đấu

tranh và phòng ngừa tội phạm lạm dụng tình dục trẻ em như các đạo luật bảo vệ trẻ

em, của Ủy ban quốc gia và địa phương, hệ thống bảo vệ trẻ em, ủy ban phúc lợi

dành cho trẻ em, Luật vị thành niên và luật pháp quốc tế liên quan trong giải quyết

tình trạng lạm dụng tình dục trẻ em

Công trình nghiên cứu “Sex offending against children : understanding the risk

29

” của tổng cục nghiên cứu phát triển và thống kê (Anh), xuất bản năm 1998, do Giáo

sư Don Grubin chủ trì, công trình nghiên cứu còn đề cập đến những luận thuyết liên

quan đến tội phạm hiếp dâm trẻ em, tập trung vào phản ứng của Cảnh sát đối với

người phạm tội, và bao hàm ba lĩnh vực nghiên cứu: phạm vi và bản chất của lạm

dụng tình dục trẻ em, đặc điểm người phạm tội và những nguy cơ từ những người

này và phương pháp khống chế những nguy cơ này. Công trình có một số điểm đáng

chú ý khác nữa mà tác giả đã tập trung đánh giá, đó là phân tích mối quan hệ giữa

nạn nhân và tội phạm, dự báo về nguy cơ tái phạm, xử lý nó và các chương trình

giúp nạn nhân vượt qua những tổn thất về tinh thần và thể xác. Nhìn chung đây là

công trình có ý nghĩa lớn trong phòng ngừa từ xa và ngăn chặn các nguy cơ tái phạm

mà các cơ quan chức năng có thể tham khảo.

1.3 Đánh giá về tình hình nghiên cứu:

Tổng kết các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về các tội xâm phạm

tình dục trẻ em, Nghiên cứu sinh có những kết luận như sau:

1.3.1 Những thành công của các công trình nghiên cứu đạt được:

Các công trình nghiên cứu khoa học đã nghiên cứu tội phạm dưới nhiều gốc

độ và cách tiếp cận khác nhau về thực trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất, của tình

hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em, nguyên nhân, điều kiện cũng như các giải

pháp phòng ngừa tội xâm phạm tình dục. Các công trình đã có những phân tích cụ

thể về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em (diễn biến, tính chất, cơ cấu,mức

độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em)

Các công trình đã có những phân tích nguyên nhân, điều kiện của các tội xâm

phạm tình dục trẻ em trên các địa bàn cụ thể, bên cạnh những nguyên nhân chung và

nguyên nhân đặc thù từng địa bàn và kiến nghị về các biện pháp phòng ngừa cho

từng địa bàn cụ thể

Các công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em dưới gốc độ

là nạn nhân của tội phạm, phân tích những hậu quả do hành vi xâm phạm tình dục

gây ra và tác động của nó đối với trẻ em. Từ đó có những giải pháp cũng như những

kinh nghiệm trong công tác bảo vệ trẻ em trước hành vi xâm hại.

1.3.2 Những vấn đề chưa được giải quyết và cần tiếp tục nghiên cứu

Các luận án nghiên cứu các tội xâm phạm tình dục trẻ em trước đây được

nghiên cứu trên cơ sở của Bộ Luật hình sự 1999 hoặc Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi

bổ sung 2009.

30

Luận án của tác giả sẽ nghiên cứu trên cơ sở Luật Hình sự 1999 (SĐBS

2009) và Bộ Luật Hình sự 2015 (SĐBS 2017): các vấn đề đặt ra trong nhiên cứu là

chủ thể của tội phạm, độ tuổi và khung hình phạt dành cho các tội xâm phạm tình

dục trẻ em, và tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em đang diễn ra trong giai

đoạn 2007 – 2018 tác giả chia 2 giai đoạn nghiên cứu: 2007 - 2017, số liệu thống kê

4 tội danh, năm 2018 số liệu thống kê 5 tội danh)

Luận án nghiên cứu chuyên ngành về tội phạm học trên cơ sở nghiên cứu đa

ngành về xã hội học, tâm lý học và vấn đề về quyền con người để đáp ứng cho việc

nghiên cứu về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em diễn ra ở địa bàn Tây

Nam Bộ.

Các công trình nghiên cứu trước đây tuy có nhiều thành tựu thành nhất định

trong nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em tuy nhiên chưa có các công trình

nghiên cứu loại tội phạm này trên địa bàn miền Tây Nam Bộ để tìm ra điểm khác biệt

của loại tội phạm này so với địa bàn khác. Trong nghiên cứu của Luận án sẽ phân tích

tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên cơ sở 13 địa bàn của vùng Tây Nam Bộ

với thời gian từ 2007 – 2017, 2018. Nghiên cứu và làm rõ phần ẩn và phần hiện của tình

hình tội phạm, so sánh tình hình tội phạm trong phạm vi các địa bàn.

Các công trình nghiên cứu trước đây đều nêu rõ nguyên nhân và điều kiện

của tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em nhưng với khía cạnh từng vùng, địa

bàn, các công trình đã phân tích nguyên nhân của từng vùng, từng địa bàn có đặc

điểm tương đồng nhau vì thế việc dự báo cũng trên từng địa bàn cụ thể. Ngoài ra các

nghiên cứu cũng chưa đi sâu về tâm lý người phạm tội và khía cạnh nạn nhân của tội

phạm, và chưa khai thác sâu mối quan hệ giữa nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em

với yếu tố xã hội học pháp luật, nhân học pháp luật cũng như yếu tố tác động của

yếu tố dân tộc đến sự thiên giảm loại tội phạm này. Luận án sẽ tiếp nối nghiên cứu

những vấn đề mà các công trình đi trước chưa hoàn thiện được.

Các giải pháp thiết thực trong các công trình nghiên cứu có giá trị tham khảo

cho luận án trong việc đề xuất các giải pháp phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên Luận

án sẽ có những giải phải pháp chung cho khu vực Tây Nam Bộ nói chung và từng

địa bàn nói riêng, những giải pháp ngắn hạn và lâu dài trong công cuộc đấu tranh

phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em

31

Kết luận chương 1

Trong chương 1, tác giả nghiên cứu lý luận nền tảng về tội phạm học, từ đó

nghiên cứu các công trình chuyên sâu về tội phạm học nói chung và các công trình

nghiên cứu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Từ đó tác giả có nền tảng lý

luận vững chắc hơn trong quá trình nghiên cứu. Thông qua các công trình nghiên

cứu đã cho thấy các tội xâm phạm về tình dục là các tội có tính chất nguy hiểm cho

xã hội cao không những xâm hại nghiêm trọng đến danh dự nhân phẩm của con

người mà nó biểu hiện ở sự suy đồi đạo đức một cách nghiêm trọng của một số

người trong giai đoạn hiện nay, còn gây ra những dư luận xã hội không tốt. Vì vậy

nhiều công trình khoa học trên phạm vi cả nước và trên thế giới đã viết rất nhiều về

các vấn đề này với nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Ở Việt

Nam, lịch sử phát triển của tội phạm học chưa có bề dày, nhưng với lượng lớn công

trình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài luận án. Sự xuất hiện của các

công trình nghiên cứu khoa học về xâm phạm tình dục trong đó có xâm phạm tình

dục trẻ em đã cho thấy sự tầm nhìn trong dự báo về tội phạm, sự quan tâm, đầu tư

của các nhà khoa học, các học giả trong nước đối với lĩnh vực khoa học này. Với số

lượng lớn các công trình nghiên cứu trong nước cũng như trên thế giới về những vấn

đề có liên quan đến đề tài luận án, mặc dù vẫn còn những điểm hạn chế, một số vấn đề

chưa thể giải quyết triệt để, nhưng có thể nói những công trình này chính là nguồn tư

liệu quý giá để nghiên cứu sinh tiếp thu những thành quả đó làm cơ sở dữ liệu để đưa

vào luận án, góp phần cho công trình nghiên cứu của luận án được hoàn thiện, với độ

tin cậy và tính ứng dụng cho các công trình nghiên cứu tiếp nối trong tương lai.

32

Chương 2

TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM

TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ

2.1 Khái quát lý luận về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em

2.1.1 Khái niệm các tội xâm phạm tình dục trẻ em

Theo Bình luận khoa học Luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 thì “Các tội

xâm phạm tính mạng sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người là hành vi nguy

hiểm cho xã hội do con người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, gây

tổn hại hoặc đe dọa đến quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe, nhân phẩm,

danh dự của con người” [97. tr53]

Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112): Tội hiếp dâm trẻ em được hiểu là hành vi một

người dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ

được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu trái ý muốn với nạn nhân là trẻ em

từ đủ 3 tuổi đến dưới 16 tuổi. Mặc dù pháp luật chưa qui định rõ chủ thể người thực

hiện hành vi này là nam hay nữ nhưng dựa trên thực tế xét xử thì chủ thể thực hiện

tội phạm thì là nam và nạn nhân là nữ. Đa số chủ thể nữ của tội phạm này bị truy tố

với góc độ là đồng phạm. Hành vi quan hệ tình dục của người nam đủ năng lực truy

cứu trách nhiệm hình sự với người nữ bị tâm thần thì hành vi này luôn được coi là

hiếp dâm dù nạn nhân đồng ý hay không đồng ý, do người bị tâm thần không làm

chủ được hành vi của mình

Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114) được hiểu là: hành vi của một người dùng

mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi lệ thuộc mình hoặc đang ở

trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu với mình. Về cơ bản các dấu

hiệu của tội cưỡng dâm trẻ em cũng tương tự như đối với tội cưỡng dâm quy định

tại Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân bị cưỡng dâm ở tội này

là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm

tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại Điều 112 Bộ

luật hình sự. Cũng tương tự như đối với các trường hợp hiếp dâm trẻ em, hiếp dâm

người chưa thành niên, trường hợp cưỡng dâm trẻ em, các cơ quan tiến hành tố tụng

chỉ cần xác định tuổi thật của nạn nhân là trẻ em từ 13 đến dưới 16 tuổi mà không

33

phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội có biết hay không biết người mà

mình cưỡng dâm là trẻ em.

Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115) được hiểu là hành vi của một người đã

thành niên giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi một cách hoàn toàn tự

nguyện của người bị hại. Người phạm tội phải là người đã thành niên, tức là người

đã đủ 18 tuổi trở lên. Chủ thể của tội phạm này có thể là nữ giới, nhưng đa số là

nam giới. Việc giao cấu với người dưới 16 là hoàn toàn có sự đồng tình của hai

người không bên nào ép buộc bên nào. Sự thoả thuận này có trường hợp là mối tình

yêu đương giữa hai người, nhất là ở một số vùng nông thôn, tệ tảo hôn còn phổ

biến, cũng có trường hợp do cuộc sống, do hoàn cảnh éo le của một số em gái chưa

đủ 16 tuổi đã bán dâm cho khách làng chơi để kiếm tiền. Người bị hại trong vụ án

giao cấu với người dưới 16 tuổi là người có độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi,

có thể là nam giới nhưng chủ yếu là nữ giới.

Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116) được hiểu là hành vi của người đã thành

niên dùng mọi thủ đoạn có tính chất dâm dục đối với người dưới 16 tuổi nhằm thoả

mãn dục vọng của mình nhưng không có ý định giao cấu với nạn nhân. Hành vi

dâm ô được thể hiện đa dạng như: sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục của nạn nhân;

dùng bộ phận sinh dục của mình chà xát với bộ phận sinh dục của nạn nhân hoặc

bắt nạn nhân sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục của mình nhằm thoả mãn dục vọng,

nhưng không có ý định giao cấu với nạn nhân. Nếu có ý định giao cấu với nạn nhân

nhưng không giao cấu được thì không phải là hành vi dâm ô mà tuỳ từng trường

hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ

em, tội cưỡng dâm trẻ em hoặc tội giao cấu với trẻ em. Người bị hại phải là người

dưới 16 tuổi, có thể là nữ hoặc là nam, nhưng chủ yếu là trẻ em nữ. Nạn nhân có thể

bị người phạm tội cưỡng ép buộc phải thực hiện hành vi dâm ô, nhưng cũng có thể

đồng tình với người phạm tội để người phạm tội thực hiện hành vi dâm ô hoặc tự

nguyện thực hiện hành vi dâm ô với người phạm tội.

Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về các tội xâm

phạm tình dục người dưới 16 tuổi: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em là hành vi

nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Chương XIV Bộ Luật Hình sự 2015 sửa

34

đổi bổ sung năm 2016 (sau đây gọi tắt là Bộ Luật Hình sự 2015) quy định các tội

xâm phạm tình dục trong đó có đối tượng là người dưới 16 tuổi bao gồm: Tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới

16 tuổi (Điều 144), Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với

người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145), Tội dâm ô đối với người dưới 16

tuổi (Điều 146), Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm. Pháp luật

hình sự Việt Nam dựa vào độ tuổi của nạn nhân để phân định mức độ bảo vệ. Nạn

nhân có độ tuổi khác nhau thì mức độ bảo vệ của pháp luật hình sự cũng khác nhau.

Bộ luật hình sự chia độ tuổi nạn nhân thành 3 mức độ chính: người từ đủ 16 tuổi,

người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi và người dưới 13 tuổi (qui định chung trong các

điều luật áp dụng cho nạn nhân là người dưới 16 tuổi)

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142): được hiểu là hành vi một người

“Dùng vũ c e dọa dùng vũ c hoặc i dụng t nh trạng kh ng thể t v ư c

c a nạn nh n hoặc th oạn kh c giao cấu hoặc th c hi n h nh vi quan h t nh dục

kh c với người từ 13 tuổi n dưới 16 tuổi tr i với ý u n c a họ” Mặc dù pháp

luật chưa qui định rõ chủ thể thực hiện hành vi này là nam hay nữ nhưng dựa trên

thực tế xét xử thì chủ thể thực hiện tội phạm là nam giới và nạn nhân là nữ giới. Đa

số chủ thể là nữ của tội phạm này thường bị truy tố với góc độ là đồng phạm của tội

hiếp dâm. Người phạm tội thực hiện các hành vi dùng vũ lực, dùng sức mạnh để tác

động lên thân thể của nạn nhân hoặc dùng lời nói để đe dọa. Người phạm tội còn có

thể lợi dụng tình trạng không tự vệ của nạn nhân như đau ốm, bệnh tật, tai nạn, bị

bất tỉnh, bị tâm thần để thực hiện hành vi giao cấu. Trong trường hợp 1 người có đủ

năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi quan hệ tình dục với nạn nhân nữ bị

tâm thần thì hành vi này luôn bị coi là hiếp dâm dù nạn nhân có đồng ý hay không

đồng ý. Trong trường hợp hành vi giao cấu với người từ dưới 13 tuổi có sự đồng

thuận của người đó thì hành vi này vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi vì việc đồng thuận của nạn nhân không có ý nghĩa trong

việc định tội đối với người thực hiện hành vi phạm tội.

Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144): được hiểu

là hành vi của một người “dùng ọi th oạn khi n người từ 13 tuổi n dưới 16

35

tuổi ang ở trong t nh trạng thuộc nh hoặc trong t nh trạng quẫn b ch ph i

iễn cưỡng giao cấu hoặc iễn cưỡng th c hi n h nh vi quan h t nh dục kh c”

Về cơ bản các dấu hiệu của tội cưỡng dâm người dưới 16 tuổi cũng tương tự

như đối với tội cưỡng dâm quy định tại Điều 143 Bộ luật hình sự. Người nào dùng

vũ lực hoặc lừa gạt, dụ dỗ, hứa hẹn, dọa nạt buộc người lệ thuộc mình hoặc đang

trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng chấp nhận cho người phạm tội giao cấu

hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục, mặc dù họ hoàn toàn không muốn điều đó.

Nạn nhân bị cưỡng dâm ở tội này là người có độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi,

nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội

hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 142 Bộ luật hình sự.

Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ

13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145): được hiểu là hành vi của một người“ 18 tuổi

trở n giao cấu hoặc th c hi n h nh vi quan h t nh dục kh c với người từ

13 tuổi n dưới 16 tuổi n u kh ng thuộc trường h p quy nh tại Điều 142 v

Điều 144 c a Bộ u t H nh s 2015 sửa ổi bổ sung 2017 Người phạm tội phải là

người đủ 18 tuổi trở lên, chủ thể của tội phạm này cũng có thể là nữ giới. Việc giao

cấu với người dưới 16 tuổi là hoàn toàn có sự đồng thuận của hai người không bên

nào ép buộc bên nào. Sự thoả thuận này có trường hợp là mối quan hệ yêu đương

giữa hai người, nhất là bối cảnh xã hội hiện nay nam, nữ yêu nhau từ rất sớm, ngoài

ra ở độ tuổi đang phát triển về mặt tâm sinh lý trẻ em thường dễ bị dụ dỗ, rủ rê, bị

lôi kéo, hoặc họ chưa nhận thức được sự việc một cách đúng đắng. Bên cạnh đó

cũng có trường hợp do cuộc sống, do hoàn cảnh một số em gái chưa đủ 16 tuổi đã

thực hiện hành vi bán dâm cho khách để kiếm tiền trang trải cuộc sống. Người bị

hại trong vụ án giao cấu với người dưới 16 tuổi là người có độ tuổi từ đủ 13 tuổi

đến dưới 16 tuổi. Hành vi giao cấu là hoàn toàn có sự tự nguyện, không hề có sự

cưỡng bức hay ép buộc nào. Mặc dù họ tự nguyện và có nhiều trường hợp họ yêu

cầu không xử lý đối với người phạm tội, nhưng yêu cầu này của họ không được

chấp nhận bởi vì họ là đối tượng mà Nhà nước buộc phải bảo vệ.

Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146): được hiểu là hành vi của

“người từ 18 tuổi trở n c h nh vi d i với người dưới 16 tuổi kh ng

36

nhằ ục ch giao cấu hoặc kh ng nhằ th c hi n c c h nh vi quan h t nh dục

kh c” Hành vi dâm ô là việc dùng mọi thủ đoạn có tính chất dâm dục đối với người

dưới 16 tuổi nhằm thoả mãn dục vọng của mình được thể hiện đa dạng như: sờ mó,

hôn hít bộ phận sinh dục của nạn nhân; dùng bộ phận sinh dục của mình chà xát với

bộ phận sinh dục của nạn nhân hoặc bắt nạn nhân sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục

của mình nhằm thoả mãn dục vọng, nhưng không có ý định giao cấu với nạn nhân.

Nếu có ý định giao cấu với nạn nhân nhưng không giao cấu được thì không phải là

hành vi dâm ô mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách

nhiệm hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm hoặc tội giao cấu

hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16

tuổi. Đối với tội này người bị hại phải là người dưới 16 tuổi, có thể là nữ hoặc là

nam, nhưng chủ yếu nạn nhân là nữ. Nạn nhân có thể bị người phạm tội cưỡng ép

buộc phải thực hiện hành vi dâm ô, nhưng cũng có thể đồng tình với người phạm tội

để người phạm tội thực hiện hành vi dâm ô hoặc tự nguyện thực hiện hành vi dâm ô

với người phạm tội.

Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147): được

hiểu là hành vi của” người từ 18 tuổi trở n i kéo dụ dỗ ép buộc người dưới

16 tuổi tr nh diễn khi u d hoặc tr c ti p ch ng ki n vi c tr nh diễn khi u d

dưới ọi h nh th c”. Đây là tội phạm mới, được quy định lần đầu tiên trong Bộ luật

Hình sự 2015. Hành vi khiêu dâm được hiểu là việc lôi kéo, rủ rê, xúi giục, hứa hẹn,

dụ dỗ, ép buộc hoặc dùng các lợi ích về vật chất để người dưới 16 tuổi trình diễn

hoặc thực hiện các động tác khiêu dâm nhằm thỏa mãn dục vọng của mình hoặc cho

người dưới 16 tuổi chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm nhưng không có hành vi

quan hệ tình dục với nạn nhân. Mọi hành vi khiêu dâm đối với người dưới 16 tuổi

đều bị coi là tội phạm và nạn nhân của tội phạm này cũng có thể là nam hoặc nữ.

Từ những lý luận nêu trên, các tội xâm phạm tình dục trẻ em có thể hiểu là:

“những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người c năng c trách nhi m hình s

th c hi n một cách c ý xâm phạ n quyền bất kh xâm phạm về tình dục, xâm

phạ n s phát triển b nh thường về thể chất, hoặc xâm phạ n s c khỏe, danh

d , nhân phẩm c a trẻ e ”

37

2.1.2 Khái niệm tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em

Tội phạm học là khoa học nghiên cứu về tình hình tội phạm, nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm, mối liên hệ của tội phạm với các hiện tượng phát

sinh trong xã hội, nhân thân người phạm tội và giải pháp phòng ngừa tội phạm... Do

đó khái niệm về tình hình tội phạm là một trong các khái niệm cơ bản của tội phạm

học. Theo từ điển Tiếng Việt thì “ tình hình“ được hiểu là trạng thái, xu thế phát

triển của sự vật, hiện tượng với tất cả những sự kiện diễn ra, biến đổi trong đó. Nói

đến tình hình tội phạm là gắn liền với một khoảng thời gian – không gian cụ thể vì

tội phạm luôn xảy ra trong không gian và thời gian xác định.

Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “ T nh h nh tội phạ ột hi n tư ng xã hội

pháp lý – h nh s ư c thay ổi về ặt ch sử ang t nh chất giai cấp bao g

tổng thể th ng nhất (h th ng) c c tội phạ th c hi n trong ột xã hội (qu c gia)

nhất nh v trong ột kho ng thời gian nhất nh” [146 tr160]

Trong cuốn “Một số vấn đề Tội phạm học Việt Nam” năm 2013, Học viện cảnh

sát nhân dân thì “T nh h nh tội phạ hi n tư ng t sinh ý – xã hội ti u c c vừa

ang t nh ch sử v ch sử cụ thể vừa ang t nh ph p ý h nh s với hạt nh n

t nh giai cấp ư c biểu hi n th ng qua tổng thể c c h nh vi phạ tội cùng với c c

ch thể ã th c hi n c c h nh vi trong ột ơn v thời gian v kh ng gian nhất

nh” [112 tr92]

Trong “Gi o tr nh tội phạ học” năm 2010, Trường Đại học Luật Hà Nội thì:

“T nh h nh tội phạ ột hi n tư ng xã hội ti u c c tr i ph p u t h nh s ang

t nh giai cấp v thay ổi theo qu tr nh ch sử; ư c thể hi n ở ột tổng h p c c

tội phạ cụ thể ã x y ra trong xã hội v trong ột kho ng thời gian nhất nh”

[139tr91]. Trong lần tái bản năm 2013 thì khái niệm tình hình tội phạm: “Tình hình

tội phạ th c trạng v diễn bi n c a tội phạ ã x y ra trong ơn v thời gian

v ơn v kh ng gian nhất nh” [139 tr99]

Để khái quát về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em thì luận án cần phải

tiếp cận với nhiều phương diện về khoa học pháp lý hình sự và các ngành khoa học

pháp lý khác có liên quan. Theo điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định “trẻ e

người dưới 16 tuổi” điều này có thể hiểu Trẻ em là người dưới 16 tuổi là công dân

Việt Nam hoặc nước ngoài cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Quy định này phù hợp

38

với quy định của Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam ký kết và phù

hợp với xu thế bảo vệ quyền con người của trẻ em trong bối cảnh hiện tại. Bên cạnh

đó tại điều 4 của Luật Trẻ em 2016 cũng quy định “X hại t nh dục trẻ e vi c

dùng vũ c e dọa dùng vũ c ép buộc i kéo dụ dỗ trẻ e tha gia v o c c

h nh vi i n quan n t nh dục bao g hi p d cưỡng d giao cấu d với

trẻ e v sử dụng trẻ e v o mục ch ại d khi u d dưới ọi h nh th c”.

So sánh các tội xâm phạm tình dục trẻ em được quy định trong Bộ luật hình sự

1999 SĐBS 2009 với Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 để thấy được sự

khác nhau khi xác định khái niệm trẻ em và xác định hành vi xâm hại tình dục, pháp

luật hình sự đã có sự thay đổi như sau: Tội hiếp dâm trẻ em (điều 112) đổi thành tội

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114) đổi

thành Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); Tội giao cấu

với trẻ em đổi thành Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với

người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); Tội dâm ô trẻ em đổi thành Tội

dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào

mục đích khiêu dâm (Điều 147) là tội danh được quy định mới trong Bộ luật hình

sự 2015 SĐBS 2017 trong chương XIV Các tội xâm phạm tình mạng sức khỏe,

nhân phẩm, danh dự của con người. Ngoài ra Bộ luật Hình sự 2015 SĐBS 2017 còn

đề cập đến các tội liên quan đến trẻ em như: Mua bán trẻ em để sử dụng vào mục

đích mại dâm (Điều 120), Tội chứa mại dâm đối với trẻ em (Điều 254), Tội môi

giới mại dâm (Điều 254), Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256). Mặc dù

phạm vi nghiên cứu của Luận án là các tội XPTDTE theo quy định BLHS 1999

SĐBS 2009 nhưng với sự thay đổi của quy định pháp luật hình sự cũng tác động

đến việc tăng hay giảm của tình hình tội phạm và cần đề cập so sánh trong quá trình

nghiên cứu. Từ những lý luận nêu trên, có thể khái quát tình hình các tội XPTDTE

như sau: “T nh h nh c c tội xâm phạm tình dục trẻ em là hi n tư ng xã hội, pháp lý

– hình s ư c thay ổi về mặt l ch sử, mang tính giai cấp, bao g m tổng thể các

trường h p phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em x y ra trên một a bàn nhất nh

và trong kho ng thời gian nhất nh”

39

2.1.3 Đặc điểm của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em

T nh h nh c c tội XPTDTE ột hi n tư ng xã hội vì nó tồn tại trong xã hội, có

nguồn gốc xã hội, có nội dung và nguyên nhân từ xã hội và những kết quả của nó cũng

mang tính xã hội. Đó là một hiện tượng xã hội bởi nó được hình thành từ hành vi của

chính con người sống trong xã hội đó, những hành vi đi ngược với chuẩn mực, đạo đức

của xã hội, gây nguy hại cho xã hội và trái với quy định của pháp luật.

T nh h nh c c tội XPTDTE hi n tư ng ph p ý h nh s các tội XPTDTE

được quy định trong BLHS bao gồm tất cả các tội hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm trẻ

em, giao cấu với trẻ em, dâm ô đối với trẻ em. Mặc dù pháp luật quy định hành vi

XPTDTE là tội phạm nhưng những nguyên nhân và điều kiện phát sinh các tội

XPTDTE vẫn còn tồn tại trong xã hội. Kinh tế các vùng chưa phát triển ổn định,

người dân không có việc làm, ý thức chấp hành pháp luật không cao, sự phân hóa

giai cấp và phân tầng xã hội chênh lệch, điều này cũng làm cho tình hình các tội

XPTDTE ngày càng gia tăng khi mà cha mẹ chỉ chú trọng công việc, kinh tế gia

đình, việc chăm sóc con cái chưa được quan tâm đúng mức, không nắm bắt tâm lý

của con, không phát hiện những mối nguy hại tiềm ẩn để phòng ngừa.

T nh h nh c c tội XPTDTE hi n tư ng thay ổi theo qu tr nh ch sử tình

hình tội phạm nói chung và các tội XPTDTE nói riêng không phải là hiện tượng bất

biến trong xã hội mà nó có sự thay đổi và mất đi trong những điều kiện lịch sử nhất

định. Tình hình các tội XPTDTE hiện tại ngày càng gia tăng, sự phát triển của xã

hội, công nghệ vượt bậc, cập nhật thông tin nhanh chóng, tin tức lan nhanh trên các

phương tiện. Mặt trái của tiến trình phát triển là sự lựa chọn và tiếp cận thông tin

chính thống, chuẩn xác ít hơn những thông tin, hình ảnh không chuẩn mực. Tiến

trình hội nhập đem lại sự phát triển mạnh mẽ hầu hết các lĩnh vực nhưng cũng có

nhiều hệ lụy về tội phạm : tội phạm công nghệ cao, tội phạm kinh tế, tội phạm môi

trường và cả các tội về XPTDTE.

T nh h nh c c tội XPTDTE kh i ni chung ư c h nh th nh từ tổng thể

th ng nhất c c tội phạ ã ư c th c hi n trong xã hội Sự thay đổi khi xác định

khái niệm trẻ em, xâm hại trẻ em, hành vi xâm hại tình dục trong quy định của Luật

trẻ em 2016 đã đẫn đến sự thay đổi của các tội danh xâm phạm tình dục người dưới

16 tuổi theo quy định của BLHS 2015 SĐBS 2017, việc xác định lại hành vi phạm

40

tội cũng làm thay đổi nội dung cấu thành tội phạm và sự thay đổi của một tội phạm

cụ thể cũng sẽ kéo theo sự thay đổi của nhóm tội phạm, mối quan hệ biện chứng

giữa cái chung và cái riêng trong một thể thống nhất. Có thế thấy hành vi XPTDTE

và tình hình các tội XPTDTE có mối quan hệ biện chứng với nhau. Khi nghiên cứu

tình hình các tội XPTDTE thì cần phải nghiên cứu các hành vi XPTDTE để có đánh

giá bao quát và tìm ra các đặc điểm của tình hình các tội XPTDTE.

T nh h nh c c tội XPTDTE t n tại tr n a b n v trong ột kho ng thời gian

x c nh Các tội XPTDTE không phải chỉ xảy ra chỉ riêng ở miền Tây Nam Bộ mà

ở khu vực cả nước và nằm trong trường hợp đáng báo động về hành vi XPTDTE.

Việc nghiên cứu tình hình các tội XPTDTE gắn với địa bàn xác định và thời gian cụ

thể để đảm bảo độ tin cậy và khả năng khả thi của việc nghiên cứu. Thế nên nghiên

cứu tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ là nghiên cứu các vụ

án XPTDTE xảy ra trên địa bàn này và trong phạm vi xét xử của tòa án các tỉnh

miền Tây Nam Bộ, nghiên cứu gắn liền với địa tình hình và địa tội phạm trong tổng

thể tình hình các tội XPTDTE trên phạm vi cả nước.

Để có thể đánh giá được tình hình các tội XPTDTE ngoài việc nghiên cứu về

khái niệm, đặc điểm của tình hình các tội XPTDTE còn phải nghiên cứu về phần ẩn

và phần hiện của tình hình các tội XPTDTE.

2.1.4 Phần hiện và phần ẩn của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em

2.1.4 1 Ph n hi n c a t nh h nh c c tội x phạ t nh dục trẻ e

Trong giáo trình “ Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam” của Học viện Cảnh

sát nhân dân cho rằng “ph n hi n c a t nh h nh tội phạ to n bộ những h nh vi

ã ư c xử ý theo quy nh c a ph p u t h nh s ở từng ơn v h nh ch nh –

ãnh thổ hay tr n phạ vi to n qu c trong những kho ng thời gian nhất nh v

ư c ghi nh n k p thời trong th ng k h nh s ” [112 tr138]. Như vậy phần hiện của

tình hình tội phạm được xác định thông qua số liệu thống kê, số tội phạm và người

phạm tội không qua xét xử và số tội phạm và người phạm tội đã qua xét xử.

Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì phần hiện của tình hình tội phạm được hiểu là

“S th ng nhất bi n ch ng c a tất c c c y u t cấu th nh t nh h nh tội phạ biểu

hi n ở c c th ng s ( ặc iể ) về ư ng v c c th ng s ( ặc iể ) về chất c a n

41

Tất c c c th ng s về ư ng v về chất c a t nh h nh tội phạ cũng ở trong s

th ng nhất bi n ch ng S thay ổi c a ột trong những th ng s ở dạng tổng

thể hay dạng từng ph n ều dẫn n s thay ổi c a t nh h nh tội phạ n i chung”

[146 tr60]. Như vậy, những thông số về lượng của tình hình tội phạm là thực trạng

(mức độ) và động thái (diễn biến), những thông số về chất của tình hình tội phạm là

cơ cấu và tính chất. Để xác định số lượng tội phạm thì cần phải tính tổng cộng các

số lượng: số lượng tội phạm và người bị tòa án xét xử, số lượng các vụ án hình sự bị

đình chỉ điều tra, truy tố, số lượng về các tội phạm không bị phát hiện, hệ số của

tình hình tội phạm, mức độ tái phạm.

Dựa theo quan điểm lý luận nêu trên cho thấy khi nghiên cứu phần hiện của tình

hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em cũng là những thông số phản ánh về mặt

định lượng được biểu hiện thông qua mức độ, diễn biến của tình hình các tội xâm

phạm tình dục trẻ em và những thông số phản ánh về mặt định tính được biểu hiện

thông qua các cơ cấu và tính chất của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em.

Thực trạng (mức độ) của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em được

nghiên cứu trên địa bàn Tây Nam Bộ là số lượng các tội XPTDTE đã được thực

hiện và những người thực hiện các tội xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra trên địa bàn

Tây Nam Bộ trong khoảng thời gian nhất định. Ngoài ra việc đánh giá mức độ của

tình hình tội phạm còn được thể hiện bao gồm tỷ trọng giữa các tội phạm nói chung

với tỷ trọng của nhóm tội XPTDTE và tỷ trọng của nhóm tội XPTDTE với tỷ trọng

của từng tội phạm cụ thể trong nhóm tội XPTDTE.

Động thái (diễn biến) của tình hình các tội XPTDTE nghiên cứu trên địa bàn

miền Tây Nam Bộ được hiểu là sự vận động, sự thay đổi của thực trạng và cơ cấu

của tình hình các tội XPTDTE diễn ra trên địa bàn miền Tây Nam Bộ trong khoảng

thời gian nhất định.

Cơ cấu của tình hình các tội XPTDTE là kết cấu bên trong của các con số tạo

nên tình hình các tội XPTDTE. Bao gồm cơ cấu cơ bản, là cơ cấu được xét theo

hành vi phạm tội, cơ cấu chuyên biệt là loại cơ cấu xét theo các tiêu chí đặc tính của

tình hình tội phạm như: lứa tuổi,nghề nghiệp, dân tộc...

42

Tính chất của tình hình các tội XPTDTE là mức độ nguy hiểm cho xã hội của số

lượng hành vi phạm tội XPTDTE. Thông qua nghiên cứu về cơ cấu của tình hình

các tội XPTDTE thì tính chất của nó sẽ được làm rõ.

2.1.4 2 Ph n ẩn c a t nh h nh c c tội x phạ t nh dục trẻ e

Theo PGS.TS Phạm Văn Tỉnh cho rằng: “T nh h nh tội phạ ẩn tổng qu t

những h nh vi phạ tội cùng c c ch thể c a những h nh vi th c t ã ư c

th c hi n v o ột kho ng thời gian nhất nh v trong ột vùng h nh ch nh – lãnh

thổ nhất nh chưa b cơ quan ch c năng ph t hi n chưa b xử ý h nh s hoặc

kh ng c trong th ng k h nh s ” [117 tr35].

Theo lý luận tội phạm học, tội phạm thực tế đã xảy ra nhưng không được vào

thống kê hình sự được phân loại như: Tội phạm ẩn tự nhiên, tội phạm ẩn nhân tạo,

tội phạm ẩn thống kê hoặc tội phạm ẩn khách quan, tội phạm ẩn chủ quan và sai số

thống kê. Tội phạm ẩn khách quan được hiểu là “những tội phạ ã x y ra trong

th c t song c c cơ quan c thẩ quyền khởi t vụ n h nh s kh ng c th ng tin

về chúng” [100 tr168] như vậy tội phạm ẩn khách quan có lý do ẩn từ phía chủ thể

của hành vi phạm tội hoặc xuất phát từ nhân thân người phạm tội hay từ phía người

bị hại. Tội phạm ẩn chủ quan được sử dụng thay thế cho “tội phạm ẩn nhân tạo” và

được khái quát là “toàn bộ các tội phạ ã x y ra mà thông tin về chúng ã ư c

các ch thể tr c ti p ấu tranh ch ng tội phạm nắ ư c, song vì những lý do khác

nhau, các tội phạ trong ột thời gian nhất nh hoặc vĩnh viễn không b xử lý

hoặc xử ý kh ng úng c a pháp lu t” [117,tr333]. Tội phạm ẩn chủ quan được

phân chia thành hai dạng : tội phạm ẩn chủ quan cố ý và tội phạm ẩn chủ quan vô ý.

Tội phạm ẩn thống kê là khái niệm còn gây bàn cải, có chuyên gia không thừa nhận

tội phạm ẩn thống kê vì không thể đánh giá đủ các tiêu chí về độ ẩn, thời gian ẩn

hay vùng ẩn. Một phần lớn các chuyên gia tội phạm học thừa nhận tội phạm ẩn

thống kê và cho rằng tội phạm ẩn thống kê “t n tại hay không t n tại phụ thuộc vào

kh năng c a công tác th ng kê ở mọi nước” [117, tr344]

Cũng như tình hình tội phạm ẩn nói chung thì tình hình tội phạm ẩn của các tội

XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ cũng phải được đánh giá trên nền tảng lý

luận về tội phạm ẩn khách quan, tội phạm ẩn chủ quan và tội phạm ẩn thống kê.

Trên cơ sở phân tích các tiêu chí về độ ẩn, thời gian ẩn, vùng ẩn, nguyên nhân ẩn

của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ. Phần hiện và phần

ẩn của tình hình các tội XPTDTE có mối quan hệ tác động lẫn nhau trong một chỉnh

43

thể. Do đó trong công tác phòng ngừa tội phạm ngoài việc tăng cường phòng ngừa

tội phạm còn phải hướng đến việc loại trừ tội phạm ẩn ra khỏi đời sống xã hội.

2.2 Phần hiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn

miền Tây Nam Bộ

2.2.1 Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền

Tây Nam Bộ

Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam

Bộ là tổng số hành vi phạm tội và số người phạm tội, xảy ra trên địa bàn Tây Nam Bộ

và được nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2018.

Theo thống kê của TAND các tỉnh trên địa bàn miền Tây Nam Bộ trong

khoảng thời gian từ 2007 đến 2017 đã xét xử sơ thẩm 3.793 vụ án về các tội

XPTDTE, với 3.844 bị cáo. Trung bình mỗi năm trên địa bàn tòa án đã xét xử

khoảng 316 vụ án XPTDTE với gần 320 bị cáo. Số liệu thống kê (xe b ng biểu

2.1 và 2.2– ph n phụ ục) cho thấy mức độ tình hình các tội XPTDTE như sau: Cà

Mau (558 vụ án/561 bị cáo); Kiên Giang (421 vụ án/426 bị cáo); Sóc Trăng (331 vụ

án/334 bị cáo); Đồng Tháp (307 vụ án/311 bị cáo); Hậu Giang (262 vụ án/266 bị

cáo); Vĩnh Long (284 vụ án/287 bị cáo); An Giang (286 vụ án/289 bị cáo); Cần Thơ

(257 vụ án/260 bị cáo); Trà Vinh (253 vụ án/260 bị cáo); Long An (232 vụ án/235

bị cáo); Bạc Liêu (211 vụ án/216 bị cáo); Tiền Giang (210 vụ án/214 bị cáo); Bến

Tre (181 vụ án/185 bị cáo).

Tính riêng năm 2018 (khi Bộ luật hình sự 2015 SĐBS 2017 có hiệu lực pháp

luật). Với năm tội danh về xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi được quy định

trong BLHS, tăng thêm một tội danh so với BLHS 1999, sửa đổi bổ sung 2009 thì

trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đã xét xử 520 vụ án/541 bị cáo. Số liệu thống kê

(xe b ng biểu 2 1 v 2 2 – ph n phụ ục) cho thấy tại Cà Mau (53 vụ án/56 bị

cáo); Kiên Giang (41 vụ án/44 bị cáo); Sóc Trăng (37 vụ án/40 bị cáo); Đồng Tháp

(28 vụ án/33 bị cáo); Hậu Giang (25 vụ án/27 bị cáo); Vĩnh Long (31 vụ án/32 bị

cáo); An Giang (43 vụ án/45 bị cáo); Cần Thơ (31 vụ án/33 bị cáo); Trà Vinh (38 vụ

án/40 bị cáo); Long An (34 vụ án/37 bị cáo); Bạc Liêu (32 vụ án/35 bị cáo); Tiền

Giang (27 vụ án/29 bị cáo); Bến Tre (31 vụ án/32 bị cáo). Thống kê tình hình các

tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ chỉ trong vòng 12 năm đã xét xử 4.244

vụ án/4.327 bị cáo phạm các tội về XPTDTE điều này cho thấy đây là loại tội phạm

phát sinh hầu hết ở các địa phương trên địa bàn Tây Nam Bộ, tuy số vụ án và số bị

44

cáo ở từng địa bàn có sự chênh lệnh cao thấp khác nhau nhưng điều này vẫn phản

ánh mức độ nguy hiểm của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em đang diễn ra

ở hầu hết các địa bàn trên khu vực miền Tây Nam Bộ.

Để làm rõ hơn mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

địa bàn Tây Nam Bộ ta cũng cần phải nghiên cứu mức độ phổ biến của loại tội

phạm này đang diễn ra trên thực tế. Theo số liệu phân tích (xe b ng biểu 2 3 –

ph n phụ ục) cho thấy, nếu như năm 2007 cứ 100.000 người dân thì sẽ có 1,86

người phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em, tuy nhiên giai đoạn từ năm 2008 –

2012 hệ số tội phạm thấp nhất là 1,61 và cao nhất chỉ ở mức 1,80 (có nghĩa là cứ

100.000 dân thì có 1,86 người phạm các tội XPTDTE) với hệ số tội phạm này vẫn

thấp hơn năm 2007. Tuy nhiên từ giai đoạn 2014 – 2018 thì hệ số tội phạm gia tăng

qua từng năm cụ thể: năm 2014 là 2,29; năm 2015 là 2,33; năm 2016 là 2,37; năm

2017 là 2,4 và đến năm 2018 cứ 100.000 người dân thì có 2,53 người phạm các tội

XPTDTE. Nếu so sánh hệ số tội phạm của năm 2018 với năm 2007 thì cao gấp 1,36

lần, so sánh tổng hệ số tội phạm XPTDTE giai đoạn 6 năm (2007 – 2012) là 10,5 và

giai đoạn (2013-2018) là 13,95 (cao gấp 1,32 lần). Từ những phân tích trên luận án

có thể đưa ra kết luận hệ số tội phạm XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đang

có chiều hướng ngày càng gia tăng. Hệ số tội phạm càng lớn thì mức độ nguy hiểm

của loại tội phạm này ngày càng cao.

Để làm rõ hơn mức độ của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây

Nam Bộ thì cần phải so sánh mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ

em với tình hình tội phạm xâm hại trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ từ năm 2007

đến năm 2018. Qua số liệu thống kê cho thấy trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đã xảy

ra 4684 vụ xâm hại trẻ em với 4781 bị cáo, trong đó các tội xâm phạm tình dục trẻ

em có 4244 vụ (chiếm 90,6%) với 4327 bị cáo (chiếm 90,5%), các tội xâm hại trẻ

em còn lại có 440 vụ án/ 454 bị cáo chiếm tỷ lệ 9,4% số vụ/ 9,5% số bị cáo.(xem

b ng 2 4 – ph n phụ ục). Điều này cho thấy trong tổng số các vụ án xâm hại trẻ em

trên địa bàn miền Tây Nam Bộ thì các vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em chiếm tỷ

lệ nhiều nhất.

Ngoài ra để làm rõ hơn mức độ của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn

Tây Nam Bộ ta cần phải đối chiếu so sánh với tình hình các tội XPTDTE ở các địa

bàn khác trong khu vực thông qua việc lựa chọn các khu vực có nhiều yếu tố tương

45

đồng về thành phần kinh tế, về dân cư, về điều kiện khí hậu hoặc về các yếu tố văn

hóa xã hội để việc nghiên cứu có tính đa chiều hơn, kết quả nghiên cứu sẽ mang lại

cái nhìn tổng quát hơn về mức độ của tình hình các tội XPTDTE. Từ đó độ tin cậy

của kết quả nghiên cứu trong luận án mới có tính thuyết phục hơn. So sánh các tội

phạm xâm hại tình dục trẻ em ở khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Tây Nam

Bộ đã thu được kết quả như sau: tính từ năm 2007 đến năm 2017 trên địa bàn Tây

Nam Bộ có 3.793 vụ án XPTDTE với 3.844 bị cáo phạm tội đã bị xét xử. Ở địa bàn

Đông Nam Bộ có 3.123 vụ án XPTDTE với 3.255 bị cáo. Khu vực Tây Nguyên có

1.072 XPTDTE với 1.189 bị cáo. Để làm rõ hơn về tình các tội XPTDTE ở các khu

vực nêu trên ta cần làm rõ mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em

trên cơ sở kết hợp giữa số dân và diện tích của cả 3 khu vực (xe b ng 2 5 v 2 6 –

ph n phục ục), dựa trên kết quả tính toán số dân trên một bị cáo và số bị cáo trên

1km² để xác định về hệ số tiêu cực, cấp độ nguy hiểm và sắp xếp thứ bậc kết quả

cho thấy: địa bàn Tây Nam Bộ cứ 4.557 người thì có 1 bị cáo phạm tội XPTDTE và

cứ 1km² có 0,094 bị cáo. Địa bàn Đông Nam Bộ cứ 4851 người thì có 1 bị cáo

phạm tội XPTDTE và cứ 1km² có 0.137 bị cáo, địa bàn Tây Nguyên thì 5.488 người

thì có 1 bị cáo phạm tội XPTDTE và cứ 1km² có 0,021 bị cáo. Điều này cho thấy

Tây Nam Bộ và Đông Nam Bộ là 2 khu vực có cấp độ nguy hiểm cao về các tội

XPTDTE và xếp sau đó là Tây Nguyên. Như vậy các tội XPTDTE xảy ra ở hầu hết

các địa bàn trong cả nước. Đều này cũng phản ánh được tính cấp thiết của việc

phòng ngừa loại tội phạm này trong đời sống xã hội.

Để phân tích mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa

bàn miền Tây Nam Bộ, luận án cần phải so sánh, đối chiếu với tình hình các tội

XPTDTE của cả nước để làm rõ hơn thực trạng của loại tội phạm này đang diễn ra

hiện nay. Trong giai đoạn 12 năm từ năm 2007 – 2018 trên cả nước đã xét xử

15.544 vụ/16.699 bị cáo, trong đó các tội XPTDTE trên địa bàn Tây Nam Bộ chiếm

4244 vụ (27,30%) và 4327 bị cáo (25,91%) (xe b ng biểu 2 7 v biểu 2 2 –

ph n phụ ục) Việc so sánh mức độ tình hình các tội XPTDTE ờ địa bàn Tây Nam

Bộ so với cả nước góp phần làm rõ hơn mức độ của loại tội phạm này ở khu vực, tỷ

lệ về số vụ và số bị cáo cũng cao hơn bình quân của cả nước. Tây Nam Bộ có 13 địa

bàn với 4244 vụ án XPTDTE, trung bình mỗi địa bàn có 326,4 vụ. Trong khi đó

trung bình cả nước (63 tỉnh thành) là 245,1 vụ. Như vậy Tây Nam Bộ có tỷ lệ về số

46

vụ và số bị cáo cũng cao hơn bình quân của cả nước (số vụ cao gấp 1,33 lần và số bị

cáo cao gấp 1,25 lần). Điều này cho thấy công tác đấu tranh và phòng ngừa các tội

XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đang là vấn đề cấp bách và cấp thiết.

2.2.2 Diễn biến của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn

miền Tây Nam Bộ

Diễn biến của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây

Nam Bộ là sự vận động và thay đổi của thực trạng và cơ cấu của tình hình các tội

xâm phạm tình dục trẻ em trong khoảng thời gian nhất định từ năm 2007 đến 2017.

Như vậy phân tích diễn biến của tình hình các tội XPTDTE để xác định quy luật

vận động của loại tội phạm này trong một khoảng thời gian nhất định từ đó đưa ra

được dự báo và xu hướng vận động của tội phạm trong những năm tiếp theo.

Diễn biến của tình hình các tội XPTDTE được thể hiện thông qua các kết

quả nghiên cứu sau đây:

Th 1 Nghiên cứu số liệu thống kê qua cho thấy từ năm 2007 – 2018 các tội

XPTDTE ở miền Tây Nam Bộ có diễn biến phức tạp. Xét trên tổng thể số vụ án và

số bị cáo thì các tội XPTDTE có xu hướng tăng lên năm 2007 có 325 vụ án/327 bị

cáo thì năm 2017 có 422 vụ/426 bị cáo (tăng 30,27% so với năm 2007)– (Xe b ng

biểu 2 8 - biểu 2 1 – ph n phục ục). Nếu lấy năm 2007 làm mốc 100% để so

sánh thì diễn biến tình hình các tội XPTDTE qua các năm 2007 – 2012 tội phạm có

chiều hướng giảm; năm 2008 tội phạm giảm rõ rệt 14,15% vụ, 12,53% bị cáo; năm

2009 giảm 12% vụ, 11% bị cáo; năm 2010 giảm 10,15% vụ, 9,48% bị cáo; năm

2011 giảm 4,3% vụ, 4,28% bị cáo; năm 2011 giảm 4,3% vụ, 4,28% bị cáo. Có thể

lý giải trong giai đoạn từ năm 2007 – 2010 đề án “Đấu tranh phòng ch ng c c oại

tội x hại trẻ e ; tội phạ trong a tuổi th nh ni n” đang được triển khai do đó

công tác phòng ngừa loại tội phạm này cũng mang lại nhiều kết quả khả quan. Tuy

nhiên trong tổng thể giai đoạn từ năm 2008 – 2017 thì tội phạm XPTDTE có diễn biến

chung là gia tăng theo từng năm và tăng mạnh trong những năm 2012 – 2014. So sánh

tình hình tội phạm của năm 2014 với năm 2007 cho thấy đến thời điểm này thì tỷ lệ

tội phạm gia tăng (22,4% số vụ, 22,9% số bị cáo) và so với năm 2017 thì tỷ lệ tội

phạm gia tăng (29,8% số vụ, 30,27% số bị cáo). Bình quân mỗi năm từ năm 2007 –

2017 diễn biến tội phạm XPTDTE gia tăng trung bình là 6.69 vụ, 7.54 bị cáo. Giai

đoạn khi Bộ Luật Hình sự 2015 SĐBS 2017 có hiệu lực thì diễn biến các tội

47

XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ năm 2018 vẫn đang gia tăng. So sánh năm

2018 với năm 2017 thì các tội XPTDTE tăng 6,8% số vụ/13,3% số bị cáo.

Th 2, tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây

Nam Bộ đang ngày càng gia tăng,so sánh diễn biến tình hình các tội XPTDTE qua

các giai đoạn (từ năm 2007 – 2009; từ năm 2010 – 2012; từ năm 2013 – 2015 và từ

năm 2016 – 2018) (xe b ng biểu 2 9 – ph n phụ ục). Nghiên cứu cho thấy: giai

đoạn từ năm 2007 – 2009 (giai đoạn 1) có 890 vụ án/904 bị cáo; giai đoạn từ năm

2010 – 2012 (giai đoạn 2) có 917 vụ án/928 bị cáo; giai đoạn từ năm 2013 – 2015

(giai đoạn 3) có 1147 vụ án/1167 bị cáo và giai đoạn từ năm 2016 – 2018 (giai đoạn

4) có 1290 bị cáo/1328 bị cáo. Nếu tính trung bình từng năm thì giai đoạn 1 có mức

trung bình 296,6 vụ án/301,3 bị cáo; giai đoạn 2 có mức trung bình 305,6 vụ

án/309,3 bị cáo; đến giai đoạn 3 có mức trung bình 382,3 vụ án/389,0 bị cáo; và giai

đoạn 4 thì số trung bình là 430 vụ án/422,6 bị cáo. Chỉ xem xét trên số liệu thống kê

đã cho thấy diễn biến tình hình các tội XPTDTE đang gia tăng về số vụ án, số bị

cáo và xét theo tính toán trung bình từng năm thì tình hình tội phạm này cũng đang

gia tăng.

Nếu lấy số liệu của giai đoạn 2007 – 2009 (giai đoạn 1) làm gốc để tính tỉ lệ

gia tăng của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ thì thu được

kết quả nghiên cứu như sau (xem bảng biểu 2.9 – phần phụ lục): Ở giai đoạn 2 thì

tình hình các tội XPTDTE tăng 3,03% số vụ và 2,65% số bị cáo; giai đoạn 3 tăng

28,87% số vụ và 29,09% số bị cáo; giai đoạn 4 tăng 44,94% số vụ và 46,9% số bị

cáo. Giai đoạn 3 và giai đoạn 4 có tỉ lệ gia tăng rất cao điều này cho thấy tình hình

các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đang gia tăng và có ti lệ gia tăng

khá cao (giai đoạn 3 so với giai đoạn 2 tỉ lệ gia tăng 18,12% số vụ án/25,7% số bị

cáo; giai đoạn 4 so với giai đoạn 3 tỉ lệ gia tăng 12,46% số vụ/13,7% số bị cáo). Có

thể thấy trong giai đoạn từ năm 2013 – 2018 công tác đấu tranh, phòng ngừa các tội

XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ không đạt được hiệu quả. Trong giai đoạn

2011 – 2015 không có đề án “Đấu tranh phòng ch ng c c oại tội x hại trẻ e ;

tội phạ trong a tuổi th nh ni n” vì thế việc huy động cá nguồn lực để triển khai

công tác phòng ngừa các tội XPTDTE ở nhiều địa phương ở địa bàn miền Tây Nam

Bộ còn hạn chế, và đặc biệt là các vùng xâu, vùng xa, vùng sông nước hẻo lánh và

vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống nhất.

48

Th ba tình hình các tội XPTDTE ở các địa bàn miền Tây Nam Bộ có

những diễn biến đáng chú ý như sau:Cà Mau (611 vụ/617 bị cáo); Kiên Giang (462

vụ/470 bị cáo); Sóc Trăng (368 vụ/374 bị cáo); Đồng Tháp (335 vụ/344 bị cáo); An

Giang (329 vụ/334 bị cáo); Vĩnh Long (315 vụ/319 bị cáo) đây là các địa bàn có tỷ

lệ tội phạm XPTDTE chiếm tỷ lệ cao nhất khu vực. Mặc dù đây mới chỉ là con số

thống kê trên cơ sở số vụ án và số bị cáo được đưa ra xét xử chưa có sự tính toán

trên cơ sở dân số và diện tích của từng địa bàn, tuy nhiên con số thống kê này sẽ

cho cái nhìn tổng quan về diễn biến của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn

miền Tây Nam Bộ hiện nay đang diễn ra với chiều hướng gia tăng và đặc biệt ở một

số địa bàn thì loại tội phạm này đang chiếm tỷ lệ rất cao.

Th tư Diễn biến tình hình các tội XPTDTE ở mỗi địa bàn qua từng năm

cũng có sự khác nhau điển hình như: (xe b ng biểu 2 1 2 2 v biểu 2 3 – ph n

phụ ục)

+ Cà Mau: từ năm 2007 – 2018 tỉnh Cà Mau đưa ra xét xử 611 vụ với 617 bị

cáo. Năm nhiều nhất xét xử 60 vụ với 61 bị cáo (2017); năm ít nhất xét xử 42 vụ với

44 bị cáo (2008)

+ Kiên Giang: từ năm 2007 – 2018 tỉnh Kiên Giang đưa ra xét xử 462 vụ với

470 bị cáo. Năm nhiều nhất xét xử 47 vụ với 49 bị cáo(2016); năm ít nhất xét xử 30

vụ với 33 bị cáo (2013)

+ Sóc Trăng: từ năm 2007 – 2018 tỉnh Sóc Trăng đưa ra xét xử 368 vụ với

374 bị cáo. Năm nhiều nhất xét xử 38 vụ với 38 bị cáo(2007); năm ít nhất xét xử 18

vụ với 19 bị cáo (2009)

+ Đồng Tháp: từ năm 2007 – 2018 tỉnh Đồng Tháp đưa ra xét xử 335 vụ với

344 bị cáo. Năm nhiều nhất xét xử 35 vụ với 36 bị cáo(2013); năm ít nhất xét xử 21

vụ với 22 bị cáo (2008)

+ Bến Tre: từ năm 2007 – 2018 tỉnh Bến Tre đưa ra xét xử 212 vụ với 217 bị

cáo. Đây là địa bàn có tỷ lệ các tội XPTDTE ít nhất trong khu vực miền Tây Nam

Bộ. Năm nhiều nhất xét xử 24 vụ với 24 bị cáo(2017); năm ít nhất xét xử 12 vụ với

12 bị cáo (2008)

49

2.2.3 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền

Tây Nam Bộ

Để nghiên cứu đặc điểm về lượng - chất của tính nguy hiểm cho xã hội của

tình hình tội phạm ta cần phải làm rõ các chỉ số về cơ cấu của tình hình tội phạm

“cơ cấu c a t nh h nh tội phạ tỷ trọng v i tương quan c a c c oại tội phạ

kh c nhau trong s ư ng chung c a chúng trong kho ng thời gian nhất nh v ở

ột ãnh thổ ( a b n) nhất nh [146 tr13] Như vậy có thể hiểu cơ cấu của tình

hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ là tỷ trọng và mối

tương quan của các loại tội phạm khác nhau trong số lượng tổng thể chung của các

tội xâm phạm tình dục trẻ em trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến năm 2017,

2018 trên địa bàn Tây Nam Bộ. Các chỉ số về cơ cấu tình hình các tội xâm phạm

tình dục trẻ em sẽ chỉ ra các đặc điểm về lượng – chất, tính nguy hiểm cho xã hội

của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn.

Nghiên cứu số liệu thống kê của TAND các tỉnh, thánh trên địa bàn miền

Tây Nam Bộ trong giai đoạn từ năm 2007 – 2018 và 485 bản án hình sự với 500 bị

cáo để xác định cơ cấu của tình hình các tội XPTDTE theo các tiêu chí như sau:

2.2.3.1 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội XPTDTE xét theo tội danh theo quy nh BLHS

1999 SĐBS 2009

Theo cơ cấu tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em theo tội danh trên địa

bàn miền Tây Nam Bộ (xe biểu 2 4- ph n phụ ục) thì tội Hiếp dâm trẻ em

chiếm tỷ lệ cao nhất có 2102 vụ án/2122 bị cáo (chiếm 55,42%/52,20%) chiếm hơn

phân nữa số vụ phạm tội XPTDTE xảy ra trên địa bàn. Tiếp đến là tội giao cấu với

trẻ em có 1397 vụ án/1418 bị cáo (chiếm 36,83%/36,89%. Tội dâm ô trẻ em có 291

vụ án/291 bị cáo (chiếm 7,58%/7,58%) và thấp nhất là tội cưỡng dâm trẻ em có 3

vụ án/3 bị cáo (chiếm 0,08%/0,07%) (xe b ng biểu 2 10 – ph n phục ục). Trong

nhóm tội XPTDTE thì tội hiếp dâm trẻ em có mức độ nghiêm trọng nhất lại chiếm

tỷ lệ nhiều nhất do đó cần phải nghiên cứu và tìm hiểu những nguyên nhân, điều

kiện làm phát sinh hành vi phạm tội để từ đó đưa ra những giải pháp thiết thực và

hữu hiệu hơn đối với loại tội phạm này.

50

2.2.3.2 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội x phạ t nh dục trẻ e xét theo a b n th c

hi n tội phạ

Cơ cấu của tình hình các tội XPTDTE ở những địa phương trên địa bàn miền

Tây Nam Bộ có phần khác nhau. Điều này được lý giải nhiều trong các công trình

nghiên cứu lý luận về tội phạm học, sự khác nhau về thành phần dân tộc, đặc điểm

lối sống, văn hóa bản sắc vùng miền cộng với các điều kiện về kinh tế, chính sách

phòng ngừa tội phạm cụ thể ở từng địa phương khác nhau cũng dẫn đến tỷ lệ tội

phạm có mức chênh lệch khác nhau. Tuy nhiên để xác định hệ số và cấp độ nguy

hiểm của tình hình các tội XPTDTE của từng địa bàn chỉ dựa vào số vụ và số bị

cáo phạm tội để kết luận thì chưa thể hiện đầy đủ bởi vì mỗi địa bàn khác nhau thì

sẽ có dân cư và diện tích khác nhau từ đó mức độ tội phạm nếu kết hợp trên cơ sở

dân cư và diện tích thì sẽ cho ra kết quả phù hợp hơn. Vận dụng phương pháp

nghiên cứu tội phạm học chuyên biệt của PGS.TS Phạm Văn Tĩnh, tính hệ số và cấp

độ nguy hiểm của các tội XPTDTE trên từng địa bàn miền Tây Nam Bộ thu được

các kết quả như sau:

Th nhất trên cơ sở số vụ án, số bị cáo kết hợp tính toán với số dân qua từng

năm (xe b ng biểu 2 11 - ph n phụ ục) có thể thấy các địa bàn có mật độ các tội

XPTDTE cao nhất là (Cà Mau 2.174 người, Hậu Giang 2.909 người, Vĩnh Long

khoảng 3.807 người dân) thì có 1 bị cáo phạm tội, trong khi đó thì ở Bến Tre

khoảng 6.821 người thì có 1 bị cáo phạm tội, An Giang khoảng 7.457 người thì có 1

bị cáo phạm tội và xếp thấp nhất là Tiền Giang khoảng 7.959 người thì mới có 1 bị

cáo phạm tội. Kết quả này cũng chưa phải là cơ sở đầy đủ để khẳng định địa bàn

nào có tỷ lệ tội phạm cao nhất hay thấp nhất.

Th hai phân tích tình hình các tội XPTDTE trên cơ sở kết hợp diện tích tự

nhiên của từng địa bàn để tính toán (xe b ng biểu 2 12 - ph n phụ ục ) kết quả cho thấy: xếp cao nhất là Vĩnh Long có 0,1945 bị cáo/1km2, tiếp đến là Cần Thơ có 0,1806 bị cáo/1km2, Hậu Giang có 0,1660 bị cáo/1km2, Trà Vinh có 0,1110 bị cáo/1km2, và xếp thấp nhất là Long An có 0,0523 bị cáo/1km2.

Như vậy, qua đánh giá cho thấy nếu chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu từng

bảng số liệu riêng lẻ thì sẽ cho ra những kết quả khác nhau về cơ cấu tình hình tội

51

phạm trên địa bàn. Vì thế để có sự đánh giá tổng thể về cơ cấu, mức độ của tình

hình tội phạm thì cần đánh giá thứ bậc về dân cư và diện tích của từng địa bàn để

tính toán hệ số tiêu cực (xe b ng biểu 2 13- ph n phục ục) kết quả nghiên cứu

cho thấy: Vĩnh Long, Hậu Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng (đây là

các địa bàn có hệ số tiêu cực cao nhất), xếp thứ tự sau đó là Đồng Tháp, Bạc Liêu,

Kiên Giang, Bến Tre, An Giang. Hệ số tiêu cực thấp nhất là địa bàn Tiền Giang và

Long An. Kết luận nêu trên đã cho cái nhìn toàn diện hơn về cơ cấu của tình hình

các tội XPTDTE xét theo địa bàn phát sinh tội phạm.

2 2 3 3 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội x phạ t nh dục trẻ e xét theo thời gian v

a iể g y n

* Về thời gian g y n: Nghiên cứu cho thấy nạn nhân bị xâm hại tình dục cao

nhất trong khoảng thời gian từ 11 giờ đến 16 giờ (chiếm 33,4%), kế đến là 6 giờ đến

11 giờ (chiếm 30,7%) điều này cho thấy trẻ em bị xâm phạm tình dục chủ yếu vào

ban ngày khi mà cha mẹ đi làm, hoặc lúc cha mẹ nghỉ ngơi, trẻ em đi chơi quanh

nhà. Bên cạnh đó thời gian từ 16 giờ đến 21 (chiếm 23,3%) thời gian này trẻ em đi

học thêm, đi chơi với bạn bè, đi liên hoan sinh nhật khoảng thời gian này nạn nhân

bị xâm hại tình dục ở khu vực vắng, ít người qua lại hoặc trẻ em yêu đương thường

chủ yếu bị xâm hại tình dục trong khoảng thời gian này. Nạn nhân bị xâm phạm tình

dục trong khoảng thời gian từ 21 giờ trở đi (chiếm 12,6%) (xe b ng biểu 2 14 –

ph n phụ ục) khoảng thời gian này ngoài vòng kiểm soát của cha mẹ, nạn nhân đi

chơi qua đêm hoặc có những trường hợp thừa lúc cha mẹ ngủ nạn nhân đã đưa bạn

trai vào ngủ cùng như vụ án Nguyễn Văn A, bản án số: 14/2017/HSST ngày

18/4/2017 của TAND tỉnh Long An. Nguyễn văn A phạm tội giao cấu với trẻ em,

do nạn nhân thừa lúc cha mẹ và các em ngủ say nên đã mở cửa cho bị cáo vào ngủ

cùng và thực hiện hành vi quan hệ tình dục, hành vi này diễn ra nhiều lần cho đến

khi bị phát hiện. Như vậy qua nghiên cứu về thời gian phạm tội có thể thấy người

phạm tội thường dựa vào thời gian thuận lợi khi mà nạn nhân ngoài vòng kiểm soát

của gia đình, người thân. Nạn nhân thường ở một mình hoặc với những đứa trẻ khác

mà không có người lớn bên cạnh. Có những trường hợp trẻ em bị xâm phạm tình

dục ngay cả khi có người lớn hoặc cha mẹ bên cạnh nhưng vì độ tuổi còn quá nhỏ

chưa biết nói hoặc lợi dụng lúc trẻ đang ngủ say nên người phạm tội đã lợi dụng các

52

điều kiện đó để thực hiện hành vi của mình. Ví dụ vụ án Nguyễn Vũ L, bản án số

34/2017/HS-ST ngày 29/9/2017 của TAND Huyện H, tỉnh Cà Mau. Nguyễn Vũ L

thực hiện hành vi dâm ô cháu Nguyễn K lợi dụng lúc K đang ngủ L có hành vi dâm

ô đối với K, K khóc nên L rời đi, sau đó K kể lại hành vi của L với gia đình. Từ đó

cho thấy mức độ cảnh giác của cha mẹ đối với con cái cần đặc biệt nâng cao hơn,

không loại trừ khả năng quan hệ thân thuộc hay quen biết, hành vi xâm phạm tình

dục trẻ em đều có thể xảy ra ngay cả khi cha mẹ đều có ở nhà.

* Đ a iể th c hi n tội phạ : Trong 485 vụ án xâm phạm tình dục trẻ em,

có 175 vụ án xảy ra ở tại nhà nạn nhân (chiếm 36,1%), 96 vụ án xảy ra tại nhà bị

cáo (chiếm 19,7%) , 85 vụ án xảy ra ở khách sạn, nhà trọ (chiếm 17,5%), 60 vụ án

xảy ra ở những khu vực đầm nước, chòi canh tôm, khu vực mương nước, vườn cây,

cồn cát, bãi biển, khu vực cách xa nhà dân và đường qua lại (chiếm 12,4%), 26 vụ

án xảy ra ở các phòng karaoke, tụ điểm vui chơi (chiếm 5,3%), có 43 vụ án xảy ra ở

khu vực nhà bỏ hoang, miếu hoang (chiếm 8,8 %) (xe b ng 2 15 – ph n phụ ục)

2 2 3 4 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội XPTDTE xét theo phương th c v th oạn

phạ tội

Qua nghiên cứu cho thấy người phạm tội sử dụng các phương thức, thủ đoạn

để XPTDTE như sau: (xe b ng biểu 2 17 – ph n phụ ục)

+ Lợi dụng trẻ em ở nhà một mình để khống chế tinh thần của trẻ chiếm tỷ lệ

cao nhất với 165 vụ án (34,1%)

+ Lợi dụng vào tâm lý yêu đương của tuổi mới lớn, lợi dụng nạn nhân có tình

cảm yêu dương với mình và thực hiện hành vi phạm tội có 115 vụ án (23,7%)

+ Dụ dỗ, cho tiền, cho quà bánh, mua quần áo để thực hiện hành vi XPTDTE

có 91 vụ án (chiếm 18,7% )

+ Lợi dụng nạn nhân có lối sống buông thả và dễ dãi, ham chơi, thích uống

rượu, sử dụng chất kích thích để thực hiện hành vi XPTDTE có 47 vụ (9,7%)

+ Dụ dỗ nạn nhân về nơi ở, nhà trọ để thực hiện hành vi phạm tội có 35 vụ

án (chiếm 16,5%)

+ Lợi dụng khu vực vắng người qua lại để thực hiện hành vi phạm tội có 28

vụ án (chiếm 5,7%).

53

+ Lợi dụng nạn nhân bị các bệnh về tâm thần hoặc có khó khăn trong nhận

thức để thực hiện hành vi XPTDTE có 4 vụ án chiếm tỷ lệ (0,82%)

2 2 3 5 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội x hại t nh dục trẻ e xét theo ặc iể nh n

th n c a nạn nh n

* Cơ cấu xét theo giới t nh c a nạn nh n:Qua thống kê cho thấy nạn nhân

của tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ trong thời gian

qua đa số đều là các nữ trẻ em, tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em đang giữ

chiều hướng gia tăng. Trong 3.793 vụ án về các tội XPTDTE thì có 3 trường hợp trẻ

em là nam giới bị xâm phạm về tình dục. Tuy số vụ xâm phạm tình dục trẻ em nam

rất ít so với trẻ em gái, tuy nhiên mức độ ẩn của tội phạm rất cao một phần do nạn

nhân hoàn toàn không khai báo, không có ý định khai báo, gia đình không hay biết,

không tố giác, hoặc với xu hướng tình yêu đồng giới người phạm tội đã dùng những

cám dỗ về vật chất để thực hiện hành vi lạm dụng tình dục, có hành vi diễn ra nhưng

không bị phát hiện và xử lý, mặt khác việc xâm phạm tình dục trẻ em nam thật sự chưa

được chú trọng phòng ngừa như các bé gái. Đây cũng là một trong những hạn chế cho

công tác nghiên cứu các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong đó trẻ em nam chưa được

chú ý và bảo vệ trước nguy cơ là nạn nhân của xâm phạm tình dục.

* Cơ cấu nạn nh n c a c c tội XPTDTE tr n a b n iền T y Na Bộ - xét

theo ộ tuổi c a nạn nh n: Nghiên cứu điển hình 485 vụ án về các tội xâm phạm

tình dục trẻ em với 501 nạn nhân: Độ tuổi bị xâm hại tình dục nhiều nhất là độ tuổi

từ đủ 6 tuổi đến dưới 13 tuổi chiếm tỷ lệ 55,7% (279/501 nạn nhân), kế đến là độ

tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi chiếm tỷ lệ 30,1% ( 151/501 nạn nhân với 148 nạn nhân

nữ và 03 nạn nhân nam) và thấp nhất là độ tuổi dưới 6 tuổi chiếm tỷ lệ 14,2%

(71/501 nạn nhân). – (Xe b ng biểu 2 16 v biểu 2 5 – ph n phụ ục)

* Cơ cấu t nh h nh c c tội x phạ t nh dục trẻ e xét theo i quan h giữa

nạn nhân với người phạ tội:

Qua phân tích cho thấy trong các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em trên địa

bàn miền Tây Nam Bộ thời gian vừa qua, giữa người phạm tội và nạn nhân có mối

quan hệ hàng xóm láng giềng và người có quen biết chiếm tỉ lệ khá cao (hàng xóm

láng giềng 75/485 vụ và người có quen biết 124/485 vụ. Chiếm tổng tỉ lệ 41% (xem

54

b ng 2 18 v biểu 2 6 – ph n phụ ục) Bên cạnh đó thì mối quan hệ giữa nạn

nhân và bị cáo là người yêu của nhau có 153 vụ chiếm tỉ lệ 31,5%; mối quan hệ

huyết thống, quan hệ họ hàng, quan hệ thân thích:có 77 vụ án chiếm tỉ lệ 15,9%;

quan hệ bạn bè có 30 vụ án chiếm tỉ lệ 6,2%; người phạm tội và nạn nhân không

quen biết nhau có 26 vụ án chiếm tỉ lệ 5,2%. Nếu phân loại mối quan hệ thành hai

trường hợp người quen biết (bao gồm họ hàng thân thích) và người không quen biết

thì người quen biết chiếm 94,6% trong khi đó người không quen biết chỉ chiếm

5,2%. Điều này cho thấy người phạm các tội XPTDTE phần lớn đều là người biết

đến nạn nhân và lợi dụng vào các mối quan hệ quen biết thân thiết để thực hiện

hành vi phạm tội, cũng như che dấu hành vi phạm tội của mình.

2.2.3.6 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội XPTDTE xét theo ặc iể nh n th n người

phạ tội tr n a b n iền T y Na Bộ

* Độ tuổi c a người phạ tội:

Độ tuổi là dấu hiệu sinh học cơ bản thể hiện sự phát triển về mặt thể chất và

khả năng nhận thức về sự vật hiện tượng cũng như sự kiểm soát về hành vi của con

người, độ tuổi còn là tiêu chí để phản ánh quá trình hình thành và phát triển nhân

cách trong đặc điểm nhân thân người phạm tội. Theo số liệu thống kê B ng biểu

2.19 v biểu 2 7 – ph n phụ ục cho thấy. Người phạm tội về XPTDTE có ở tất

cả các độ tuổi khác nhau: từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, từ 18 tuổi đến 30 tuổi, trên 30

tuổi đến 45 tuổi, trên 45 tuổi đến 70 tuổi, trên 70 tuổi. So sánh độ tuổi của người

phạm tội cho thấy, độ tuổi từ 18 tuổi đến 30 tuổi phạm các tội XPTDTE nhiều nhất

1.762 bị cáo (chiếm 45,8%); xếp sau đó là độ tuổi dưới 18 có 1.035 bị cáo (chiếm

27%); tiếp đến độ tuổi trên 30 đến 45 tuổi có 804 bị cáo(chiếm 21%); độ tuổi trên

45 đến 70 có 213 bị cáo (chiếm 5,6%); độ tuổi trên 70 có 30 bị cáo (chiếm 0,8%)

Tội phạm ở độ tuổi dưới 18 nếu so sánh năm 2017 với năm 2007 thì tỉ lệ phạm tội ở

độ tuổi này tăng 1,3 lần. Tội phạm từ độ tuổi trên 18 đến 30 tuổi tăng 1,1 lần, tội

phạm từ độ tuổi trên 30 đến 45 tăng 1,9 lần và tội phạm trên 45 tuổi đến 70 tuổi

tăng 0,5 lần so với năm 2007.

* Tr nh ộ học vấn c a người phạm tội:

Trình độ học vấn phản ánh sự phát triển của một người về lý trí và hình

thành nhân cách của một cá thể trong xã hội. Không phải người trình độ học vấn

55

càng cao thì sẽ không phạm tội, cũng không phải người có học vấn càng thấp thì sẽ

phạm tội. Trình độ học vấn có ảnh hưởng đến cách xử sự của con người đối với các

quan hệ xã hội, nghiên cứu về trình độ học vấn của người phạm tội chỉ để làm rõ

hơn vai trò của việc nâng cao dân trí, nâng cao nhận thức và hiểu biết của người dân

trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Qua nghiên cứu điển hình cho thấy

trong 500 bị cáo phạm các tội XPTDTE thì trình độ học vấn của người phạm tội

nhìn chung thấp hơn so với những người không phạm tội ở cùng độ tuổi. Người

không biết chữ tỉ lệ phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em là 33%, trình độ tiểu

học là 40,2%, trình độ trung học cơ sở là 23,2%, trung cấp, cao đẳng, đại học 3,6%

và sau đại học là 0%. (xem b ng 2.20 và biểu 2.8 – ph n phụ lục)

Như vậy, thực tế nghiên cứu cho thấy người có trình độ học vấn thấp sẽ tiềm

ẩn khả năng phạm tội khi có những tình huống thuận lợi cho việc phạm tội thì khả

năng nhận thức, khả năng kiểm soát hành vi sẽ không cao. Ngoài ra những người có

trình độ học vấn tương đối cao nhưng do lối sống, ham hưởng thụ bất chấp quy định

của pháp luật, lợi dụng sự non nớt và tâm lý yêu đương của trẻ em để thỏa mãn cho

nhu cầu sinh lý của mình. Do vậy đối với loại tội phạm này không chỉ có những

người có trình độ học vấn thấp mới chiếm tỉ lệ phạm tội cao mà những người có

trình độ học vấn, có sự hiểu biết pháp luật nhưng vẫn phạm tội này.

* Thành ph n xã hội và nghề nghi p c a người phạm tội::

Trong tổng số 500 bị cáo, có 73 bị cáo (chiếm 14,6%) không có nghề nghiệp,

số bị cáo làm nghề tự do là 187 (chiếm 37.4%), số bị cáo làm nông là 115 (chiếm

23%), bị cáo làm các nghề nuôi trồng liên quan đến thủy hải sản là 69 (chiếm

13,8%), là học sinh, sinh viên có 45 bị cáo (chiếm 9%), còn lại số bị cáo là cán bộ

công chức có 11 người (chiếm 2,2%). (xe b ng biểu 2 21 v biểu 2 9 – ph n

phụ ục)

* Thành ph n dân tộc c a người phạm tội :

Kết quả nhiên cứu trong 485 vụ án với 500 bị cáo đã cho thấy: Ở địa bàn

miền Tây Nam Bộ thì người dân tộc kinh chiếm tỉ lệ xâm phạm tình dục trẻ em có

nhất với 301 bị cáo (chiếm 60,2%), tiếp đến là người dân tộc Khmer với 178 bị cáo

(chiếm tỷ lệ 35,6%) mặc dù người dân tộc Khmer chỉ tập trung đông nhất ở Trà

Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Long An. Nhưng tỉ lệ phạm loại tội này cũng khá cao.

56

Có 20 bị cáo là người dân tộc Hoa (chiếm 4,0%) và có 1 bị cáo là dân tộc Chăm ở

An Giang (chiếm 0,2%) (xe b ng 2 22 – ph n phụ ục). Nghiên cứu này góp phần

cho việc tìm ra được các giải pháp phòng ngừa gắn với những yếu tố dân tộc đặc

trưng của vùng miền.

* Hoàn c nh gia nh c a người phạm tội :

Qua nghiên cứu cho thấy trong 500 bị cáo phạm các tội xâm phạm tình dục

trẻ em bị xét xử có 85 bị cáo còn cha mẹ (chiếm 17%), 54 bị cáo mất cha và mẹ

(chiếm 10,88%), 35 bị cáo mất cả cha lẫn mẹ (chiếm 7%), 87 bị cáo có hoàn cảnh

cha mẹ ly hôn (chiếm 17,4%). – (xem b ng biểu 2.23 – ph n phục lục).

Nghiên cứu trong 485 bản án với 500 bị cáo cũng cho thấy có 261 bị cáo

chưa từng lập gia đình (chiếm tỷ lệ 52,2%), số bị cáo còn lại đã từng kết hôn là 239

(chiếm tỷ lệ 47,8%)(xem b ng biểu 2.23 – ph n phục lục).

2 2 3 7 Cơ cấu theo ch tài hình s áp dụng i với người phạm tội

Nghiên cứu trong 500 bị cáo phạm các tội xâm hại tình dục trẻ em, cho thấy:

mức hình phạt được áp dụng nhiều nhất đối với người phạm tội XPTDTE là mức

hình phạt tù có thời hạn từ trên 7 năm đến 15 năm có 201 bị cáo (chiếm tỷ lệ

40,2%), mức hình phạt có tỷ lệ áp dụng nhiều thứ hai là hình phạt tù từ 3 năm đến 7

năm có 144 bị cáo (chiếm tỷ lệ 28,8%), mức hình phạt có tỷ lệ áp dụng nhiều thứ ba

là hình phạt dưới 3 năm tù có 77 bị cáo chiếm tỷ lệ 15,4% (trong đó có 15 hưởng án

treo chiếm tỷ lệ 3%), có 68 bị cáo (chiếm tỷ lệ 13,6%) bị áp dụng hình phạt tù trên

15 năm và thấp nhất có 10 bị cáo (chiếm tỷ lệ 2,0%) bị áp dụng mức hình phạt

chung thân (bảng biểu 2.24 – phần phụ lục). Các thông số về hình phạt chính được

áp dụng đối với bị cáo phạm các tội XPTDTE là rất nghiêm khắc. Đa số bị cáo phải

nhận hình phạt từ trên 7 năm đến 15 năm và từ 3 năm đến 7 năm tù (345 bị

cáo/chiếm 69%); số bị cáo bị áp dụng hình phạt dưới 3 năm tù (77 bị cáo/chiếm

15,4%) số bị cáo bị áp dụng hình phạt dưới 3 năm tù chiếm tỷ lệ không nhiều

thường thuộc các trường hợp phạm tội lần đầu, phạm tội không gây hậu quả lớn và

người phạm tội trong độ tuổi chưa thành niên. Với kết quả áp dụng các chế tài nói trên

phần nào phản ánh sự nghiêm khắc trong công tác xử lý, đấu tranh phòng ngừa các tội

xâm phạm tình dục trẻ em của các cơ quan, tổ chức thể hiện sự thống nhất ý chí của

Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ trẻ em trước nguy cơ bị xâm hại tình dục.

57

2 2 3 8 Cơ cấu c a t nh h nh c c tội XPTDTE xét theo trường h p phạ tội n u

t i phạ t i phạ nguy hiể

Nghiên cứu trong 500 bị cáo/485 vụ án có 45 bị cáo đã có tiền án tiền sự và

thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm tình dục (chiếm tỷ lệ 9%); có 424 bị cáo

phạm tội lần đầu (chiếm 84,8%), có 27 bị cáo tái phạm (chiếm tỷ lệ 5,4%) và 4 bị

cáo tái phạm nguy hiểm (chiếm 0,8%) (xe b ng 2 25 - ph n phụ ục)

Đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em hình phạt áp dụng cho loại tội này

rất cao, những người chấp hành hình phạt tù với thời gian khá dài, việc giáo dục cải

tạo trong môi trường nhà tù người phạm tội nhận thức được sự trừng phạt mang tính

răn đe của pháp luật nên việc tái phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em hầu như rất

ít xảy ra, thêm vào đó một tỉ lệ không nhỏ các bị cáo hiện vẫn còn phải đang chấp

hành hình phạt tù cụ thể: bản án số 13/2011/HSST ngày 04/7/2011 bị cáo Phan Văn

Miền phạm tội “Hiếp dâm trẻ em” và “dâm ô trẻ em” tổng hợp hình phạt là 16 năm

tù, tính từ ngày 30/1/2011.

Đối với tội phạm XPTDTE phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy

hiểm ảnh hưởng rất lớn đến mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Chẳng hạn như những người phạm tội XPTDTE lần đầu thì thường, có sự bộc phát

hành vi phạm tội, những tội phạm đã tái phạm nhiều họ có kinh nghiệm để đối phó

với cơ quan bảo vệ pháp luật, kinh nghiệm về xóa dấu vết phạm tội, đặc biệt là

những đối tượng có án tích về tội phạm XPTDTE nhưng vẫn tái phạm, những đối

tượng này sẽ gây khó khăn cho cơ quan CSĐT trong việc điều tra, khám phá với thủ

đoạn tinh vi này. Chính vì vậy, phân tích đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng đối

với cơ quan tư pháp trong việc xác định tỷ lệ tái phạm của tội phạm nói chung và

nhóm tội XPTDTE nói riêng để đánh giá được tổng thể tình hình nhân thân người

phạm tội XPTDTE, những sơ hở, thiếu xót của cơ quan tư pháp, sự quản lý của cơ

quan chức năng để từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa đối với từng đặc điểm

hành vi cụ thể hoặc nhóm hành vi phạm tội cho phù hợp và đạt hiệu quả.

2 2 3 9 Cơ cấu c a t nh h nh t nh h nh c c tội XPTDTE xét theo ặc iể người

phạ tội c s dụng bia rư u v c c chất k ch th ch khác

Nghiên cứu cho thấy trong 500 bị cáo phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em

trên địa bàn miền Tây Nam Bộ thì có đến 285 bị cáo (chiếm tỷ lệ 57,2%) sử dụng

58

bia, rượu và thực hiện hành vi phạm tội, có 84 bị cáo (chiếm tỷ lệ 16,8%) xem

phim, truyện, ảnh sex và thực hiện hành vi phạm tội. Có 131 bị cáo (chiếm tỷ lệ

26,2%) thực hiện hành vi phạm tội do ham muốn tình dục phát sinh không có sự tác

động của bia rượu hay các chất kích thích, ma túy (b ng biểu 2 26 – ph n phụ ục)

2.2.4 Tính chất của tình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây

Nam Bộ

Trên cơ sở lý luận tội phạm học, có thể hiểu tính chất của tình hình tội phạm

là kết quả phân tích, đánh giá về mức độ, diễn biến và cơ cấu về tình hình tội phạm

và các kết luận được rút ra từ việc phân tích, đánh giá đó. Qua nghiên cứu các thông

số về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

trong giai đoạn 2007 – 2017, 2018 có thể rút ra những đặc điểm về tính chất của các

tội xâm phạm tình dục trẻ em như sau:

Th nhất Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ 2007 – 2017 và năm 2018 xảy ra rất nghiêm trọng, hệ số và cấp độ nguy hiểm

cao. Trung bình mỗi năm trên địa bàn tòa án đã xét xử 353,6 vụ án với gần 360,5 bị

cáo. Đây là loại tội phạm phát sinh hầu hết ở các địa phương trên địa bàn miền Tây

Nam Bộ. Theo dữ liệu thì tính đến năm 2018 cứ 100.000 dân thì có 2,53 người

phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em.

Th hai Các tội xâm phạm tình dục trẻ em diễn ra trên phạm vi khắp các

tỉnh thành của miền Tây Nam Bộ. Trong đó tội hiếp dâm trẻ em chiếm tỷ lệ cao

nhất (2102 vụ án/2122 bị cáo), tiếp đến là tội giao cấu với trẻ em (1397 vụ án/1418

bị cáo), tội dâm ô trẻ em (291 vụ/291 bị cáo) và thấp nhất là tội cưỡng dâm trẻ em

có 3 vụ án/3 bị cáo.

Th ba Hệ số tiêu cực về các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên các địa bàn

theo thứ tự như sau: Vĩnh Long, Hậu Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc

Trăng (đây là các địa bàn có hệ số tiêu cực cao nhất) và tiếp đến là các địa bàn

Đồng Tháp, Bạc Liêu, Kiên Giang, Bến Tre, An Giang, Tiền Giang và Long An)

Th 4 Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ có

hệ số đồng phạm thấp, bình quân có 1,01 bị cáo tham gia trong một vụ xâm phạm

tình dục trẻ em.

59

Th 5 Đa số nạn nhân của các tội XPTDTE là nữ, ở độ tuổi từ đủ 6 tuổi đến

dưới 13 tuổi (chiếm 57,5%) tiếp đến là độ tuổi từ 13 – dưới 16 tuổi (chiếm 27,9%).

Nạn nhân dưới 6 tuổi (chiếm 14,6%). Độ tuổi nạn nhân càng nhỏ sẽ cho thấy tính

chất nguy hiểm càng cao của loại tội phạm này.

Th 6 Người phạm tội chủ yếu sử dụng phương thức đe dọa, dùng vũ lực, uy

hiếp tinh thần nạn nhân để thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, người phạm tội

còn lợi dụng sự non nớt của nạn nhân để dụ dỗ, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của nạn

nhân về quan hệ tình dục để thực hiện hành vi giao cấu. Phương thức phạm tội ngày

càng đa dạng, thực hiện hành vi tới điều này đã phản ánh tính chất nguy hiểm của

các tội XPTDTE ngày càng cao.

Th 7 Các tội xâm phạm tình dục diễn ra trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

thông qua nghiên cứu cùng có một đặc điểm chung là người phạm tội thực hiện

hành vi trong tình trạng say rượu hoặc đã uống rượu, bia (chiếm tỷ lệ 57%) đều này

cho thấy những ảnh hưởng không nhỏ của bia rượu đến việc phát sinh và hình thành

hành vi phạm tội do bản thân không thể làm chủ và kiểm soát hành vi.

Th 8 Người phạm tội các tội xâm phạm tình dục trẻ em đa số nằm trong độ

tuổi từ 18 đến 30 tuổi (chiếm tỷ lệ 45,8%), độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi (chiếm

tỷ lệ 27%). Người phạm các loại này đa phần còn rất trẻ bản năng và nhu cầu sinh

lý cao trong khi điều kiện để thỏa mãn cho nhu cầu tình dục còn hạn chế, tỷ lệ tội

phạm trẻ hóa cho thấy tính chất nguy hiểm của tội phạm này đối với xã hội. Vì nạn

nhân là trẻ em và người phạm tội cũng ở độ tuổi rất trẻ. Cả hai đều là đối tượng mà

xã hội phải quan tâm và bảo vệ.

Th 9 Tính chất của tình hình các tội XPTDTE còn được thể hiện thông qua

mối quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân. Trong tổng số 485 bản án với 500

bị cáo thì có 5,4% trường hợp nạn nhân không có quen biết với người phạm tội. Số

còn lại chiếm 94,6% với 451 vụ án đều có sự quen biết với nạn nhân. Điều này cho

thấy phần lớn người phạm tội xâm hại tình dục trẻ em đều là người quen vì thế với

sự cảnh giác và phòng ngừa không cao đã làm cho tình hình các tội XPTDTE ngày

càng trở nên phức tạp, việc phát hiện và xử lý tội phạm này càng trở nên khó khăn.

Th 10 Các tội XPTDTE xảy ra không chỉ tập trung vào đối tượng thất

nghiệp, không có việc làm ổn định, các vùng đồng bào dân tộc nông thôn sâu, trình

60

độ văn hóa thấp mà còn xảy ra ở các đối tượng lao động phổ thông, tầng lớp trí

thức, học sinh sinh viên.

Th 11 Các tội XPTDTE có mức hình phạt áp dụng cao, có 201 bị cáo bị

tuyên mức hình phạt tù có thời hạn từ trên 7 năm đến 15 năm có 201 bị cáo (chiếm

tỷ lệ 40,2%). Mức hình phạt tù từ 3 năm đến 7 năm có 144 bị cáo (chiếm tỷ lệ

28,8%), mức hình phạt dưới 3 năm tù có 77 bị cáo chiếm tỷ lệ 15,4% (trong đó có

15 hưởng án treo chiếm tỷ lệ 3%), có 68 bị cáo (chiếm tỷ lệ 13,6%) bị áp dụng hình

phạt tù trên 15 năm và thấp nhất có 10 bị cáo (chiếm tỷ lệ 2,0%) bị áp dụng mức

hình phạt chung thân.

Th 12 Các tội XPTDTE là loại tội phạm có độ ẩn cao, việc phát hiện, điều

tra và xử lý còn nhiều khó khăn từ đó công tác xử lý tội phạm còn nhiều hạn chế,

tính kịp thời và hiệu quả còn chưa cao.

Từ những nghiên cứu các thông số về mức độ, diễn biến, cơ cấu và tính chất của

tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đã cho thấy cần phải tăng

cường và nâng cao công tác đấu tranh và phòng ngừa loại tội phạm này trong thời gian

tới. Dù rằng kết quả của việc phòng ngừa tội phạm này trong những năm qua đã đạt

được những kết quả thiết thực, việc triển khai và thực hiện nghiêm túc đề án IV “Đấu

tranh phòng ch ng c c oại tội x hại trẻ e ; tội phạ trong a tuổi th nh ni n”

việc triển khai và thực hiện nghiêm túc đề án này đã góp phần không nhỏ trong việc

nâng cao ý thức và phòng ngừa loại tội phạm này trên các địa bàn của cả nước.

2.3 Phần ẩn của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ trên địa bàn miền Tây

Nam Bộ

2.3.1 Độ ẩn của các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ

“ Độ ẩn c a tội phạ ư c hiểu kh năng ẩn khuất kh c nhau c a từng

oại tội phạ hoặc từng nh tội phạ “ [144 tr38]. Đối với nhóm tội về xâm phạm

tình dục trẻ em thì độ ẩn của tội phạm cao, vì đây là nhóm tội xâm hại danh dự,

nhân phẩm và cá nhân bị xâm hại là trẻ em. Thực tiễn cho thấy bằng nhiều thủ đoạn

tinh vi người thực hiện hành vi phạm tội sẽ che giấu việc phạm tội của mình, trong

khi trẻ em lại thiếu hiểu biết, non nớt, nhận thức về việc xâm hại tình dục còn hạn

chế, tâm lý lo lắng, sợ sệt không dám tố cáo hành vi phạm tội, ý thức trách nhiệm

của gia đình, người làm chứng chưa cao từ đó rất nhiều trường hợp trên thực tiễn tội

61

phạm này đã thực hiện nhưng các cơ quan bảo vệ pháp luật không có thông tin về

chúng hoặc chưa phát hiện sự việc phạm tội cùng chủ thể thực hiện hành vi phạm tội

vì thế việc xử lý tội phạm còn gặp rất nhiều trở ngại và khó khăn.

Vì là tội phạm ẩn nên việc xác định chính xác và đầy đủ về độ ẩn của tội

phạm XPTDTE là điều không thể thực hiện. Để làm rõ về độ ẩn của tội phạm chủ

yếu nghiên cứu trên cơ sở kết quả của những nghiên cứu có liên quan từ đó phân

tích, tổng hợp, đánh giá và đưa ra kết luận phù hợp. Cụ thể:

Th nhất Đánh giá độ ẩn của các tội XPTDTE dựa theo số liệu tính từ từ

năm 2007 đến năm 2017 cho thấy: Cơ quan điều tra các cấp trên địa bàn miền Tây

Nam Bộ đã khởi tố 4221 vụ về các tội xâm phạm tình dục trẻ em với 4432 bị can.

Tòa án các cấp đã đưa ra xét xử 3793 vụ án với 3844 bị cáo (đạt tỷ lệ 89,86% số vụ,

86,73% số bị can). Như vậy, số vụ và bị can còn lại chưa hoặc không bị xét xử

trong giai đoạn trên là 428 vụ với 588 bị can (chiếm 10,14% số vụ, 13,27% số bị

can) (xe b ng biểu 2 27 – ph n phụ ục) có thể lý giải nhiều nguyên nhân khác

nhau, như: Thời hạn điều tra đã hết mà không chứng minh được bị can đã phạm tội

XPTDTE hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội

XPTDTE. Trong số các bị can phạm tội xâm hại tình dục trẻ em không bị xét xử nói

trên sẽ có nhiều trường hợp thuộc phần ẩn của tội phạm này.

Th hai Nghiên cứu số vụ án về các tội xâm hại tình dục trẻ em thông qua

số liệu thống kê B ng biểu 2 27 – ph n phụ ục cho thấy tính từ năm 2007 đến năm

2017 ở địa bàn miền Tây Nam Bộ cơ quan điều tra đã đình chỉ điều tra 207 vụ với

227 bị cáo (chiếm tỷ lệ 5,45% vụ, 5.91% bị can phạm tội XPTDTE đã khởi tố).

Viện kiểm sát đã đình chỉ 93 vụ phạm tội với 102 bị can (chiếm tỷ lệ 2.2% số vụ,

2,3% số bị can phạm tội đã bị truy tố). Theo thống kê cho thấy số bị can bị đình chỉ

trong giai đoạn điều tra, truy tố trong giai đoạn từ năm 2007 – 2017 là 141 người.

Trong số này cũng sẽ có một số trường hợp là tội phạm ẩn của các tội xâm phạm

tình dục trẻ em

Th ba Để đánh giá độ ẩn của các tội XPTDTE, luận án sử dụng phương

pháp phân tích điển hình các bản án đã xét xử cho thấy: rất nhiều vụ án có hành vi

xâm phạm tình dục trẻ em tái diễn nhiều lần nhưng sau đó mới bị phát hiện, cụ thể

với 485 bản án được nghiên cứu có 283 bản án (chiếm tỷ lệ 58,35%) hành vi phạm tội

62

bị phát hiện ngay sau khi gây án. Còn lại 202 bản án (chiếm tỷ lệ 41,65%) hành vi xâm

hại tình dục trẻ em không bị phát hiện ngay lần đầu thực hiện. Điều này cũng cho thấy

rất nhiều tội phạm về xâm phạm tình dục trẻ em đã xảy ra nhưng vì những lý do khác

nhau nên chưa được phát hiện, tình hình tội phạm ẩn đối với nhóm tội này khá cao và

thường xảy ra trong các mối quan hệ thân thuộc, họ hàng.

Với kết quả nghiên cứu về mức độ ẩn của các tội xâm phạm tình dục trẻ em

cho thấy đây là loại tội phạm có độ ẩn cao, đồng thời cũng phản ánh công tác phát

hiện và xử lý và phòng ngừa loại tội phạm này chưa đạt hiệu quả. Sự yếu kém trong

công tác phát hiện và xử lý đã làm cho các vụ phạm tội xảy ra nhưng không đủ

chứng cứ để xử lý hoặc xử lý không kịp thời đã dẫn đến sự ỷ lại, kích thích tội

phạm tái phạm nhiều lần, gây mất lòng tin trong nhân dân.

2.3.2 Thời gian ẩn của các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ

Thời gian ẩn của tội phạm“ kho ng thời gian từ khi th c hi n tội phạ cho

n khi tội phạ b ph t hi n’[144 tr40] Để làm rõ về thời gian ẩn của các tội xâm

phạm tình dục trẻ em trên cơ sở phân tích và đánh giá các bản án, thu được kết quả

như sau: b ng biểu 2 27 ph n phụ ục trong 485 bản án có 283 vụ án được phát

hiện ngay sau khi hành vi phạm tội số còn lại là 202 vụ có thời gian ẩn dài ngắn

khác nhau, thậm chí có những vụ thời gian ẩn kéo dài trên 3 năm mới bị phát hiện.

Trong số 202 vụ án có thời gian ẩn, có 29.28% số vụ ẩn từ 1 đến 6 tháng

(trong đó có 17,94% số vụ hành vi phát hiện lần đầu những đã bị ẩn một khoảng

thời gian mới bị phát hiện và 11,34% vụ có hành vi phạm tội được lập lại nhiều lần

sau đó bị phát hiện). Có 7.01% số vụ có thời gian ẩn từ 6 đến 12 tháng và 5,36% số

vụ có thời gian ẩn trên một năm (xe b ng biểu 2 28 – ph n phụ ục). Điển hình

như vụ án của Dương Ngọc Thế, sinh năm 1987 (Bản án số 19/2017/HS-ST ngày

22/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng). Dương Ngọc Thế thực hiện giao

cấu với em Lâm Thị Hồng N, Cao Thị Ra Ni và Lâm Thị Hồng M (các nạn nhân là

cháu vợ của bị cáo). Cả ba nạn nhân đều bị giao cấu nhiều lần từ khoản thời gian

năm 2015 đến 01/6/2017, thì hành vi phạm tội này mới bị gia đình nạn nhân phát

hiện và trình báo. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình, đối với Lâm Thị

Hồng N bị cáo thừa nhận quan hệ 7 – 8 lần (thời gian 12h trưa); đối với Lâm Thị

Hồng M bị cáo quan hệ 4 – 5 lần (khoảng thời gian 5h sáng); đối với Cao Thị RaNi

63

bị cáo giao cấu khoảng 4 – 5 lần, lần đầu tiên vào năm 2012. Bị cáo bị tuyên bố

phạm tội hiếp dâm trẻ em, hình phạt tù chung thân, thời gian tính từ ngày

04/6/2017. Mặc dù hành vi phạm tội của bị cáo đã bị xử lý nhưng qua bản án đã cho

thấy hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra quá lớn, ảnh hưởng đến tâm

sinh lý và danh dự của các nạn nhân, mà các nạn nhân đều là người thân của bị cáo.

Hành vi phạm tội xảy ra một thời gian khá dài từ năm 2012 nhưng không bị tố giác

kịp thời do đó nạn nhân đã phải chịu đựng và ám ảnh trong một thời gian khá dài.

2.3.3 Vùng ẩn của các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

Theo c c nh tội phạ học Macxit th vùng ẩn c a tội phạ “L ột ĩnh

v c kinh t - xã hội nhất nh vùng ẩn h ch a những iều ki n thu n i i với

vi c che dấu h nh vi phạ tội ã ư c th c hi n“[144 tr40] Như vậy, vùng ẩn

không chỉ giới hạn về không gian vùng địa lý mà còn bao gồm cả vùng trong lĩnh

vực kinh tế hoặc vùng trong lĩnh vực xã hội nào đó mà ở đó sẽ tạo ra những điều

kiện thuận lợi cho việc che dấu các tội XPTDTE. Nghiên cứu cơ cấu theo mối quan

hệ giữa nạn nhân và người phạm tội trong 485 bản án XPTDTE với 500 bị cáo cho

thấy có 26 bị cáo không quen biết với nạn nhân. Số còn lại 474 bị cáo đều có mối

quan hệ quen biết, gần gũi hoặc bà con với nạn nhân. Có 165 bị cáo có quan hệ tình

cảm với nạn nhân; 124 bị cáo có quen biết với nạn nhân (người cùng địa phương

hoặc người quen của cha mẹ nạn nhân); 75 bị cáo có quan hệ xóm làng; 45 bị cáo

có quan hệ bạn bè; 33 bị cáo có quan hệ anh em họ hàng; 27 bị cáo có quan hệ thân

thuộc (cậu, chú, ông bác...) và 5 bị cáo có quan hệ là bố đẻ, bố dượng với nạn nhân.

So sánh mức độ ẩn trong các vụ án XPTDTE cho thấy trường hợp phạm tội mà

người phạm tội và nạn nhân quen biết nhau sẽ có mức độ ẩn lớn hơn nhiều lần so

với trường hợp giữa họ không có sự quen biết. Trong số 26 bị cáo không có sự quen

biết với nạn nhân chỉ có 3/26 bị cáo (chiếm 11%) có trạng thái ẩn vì bị cáo không bị

phát hiện hành vi phạm tội ngay lần đầu thực hiện hành vi, 89% trường hợp còn lại

không có trạng thái ẩn, hành vi phạm tội đều bị phát hiện và xử lý. Trái lại, đối với

các vụ án mà giữa người phạm tội với nạn nhân có sự quen biết, gần gũi hoặc bà

con dòng họ thì có đến 206 bị cáo/199 vụ án có trạng thái ẩn (chiếm tỷ lệ 41.2%).

Số còn lại 268 bị cáo/260 vụ án không có trạng thái ẩn (chiếm tỷ lệ 53,6%). Sự khác

nhau về mức độ ẩn xét theo mối quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân đã cho

64

thấy với mối quan hệ càng gần gũi, càng thân thiết, người phạm tội càng hiểu rõ

hoàn cảnh gia đình, điều kiện thói quen sinh hoạt thì người phạm tội càng dễ dàng

che dấu hành vi phạm tội của mình. Bên cạnh đó với mối quan hệ huyết thống, họ

hàng thì nạn nhân và gia đình nạn nhân càng muốn và tìm cách che dấu hành vi

phạm tội, hoặc thỏa thuận từ phía các gia đình mà không tố giác tội phạm. Đây là

điều kiện thuận lợi làm tội phạm ẩn ngày càng gia tăng.

Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra kết luận vùng ẩn của các tội xâm

phạm tình dục trẻ em được luận án khai thác dưới góc độ là các “Mối quan hệ giữa

người phạm tội với nạn nhân của các tội XPTDTE“

2.3.4 Nguyên nhân ẩn của tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ

Nguyên nhân ẩn của các tội XPTDTE rất đa dạng, có thể chia thành các

nhóm nguyên nhân chính như sau:

* Nguy n nh n ch quan: Nguyên nhân chủ quan làm phát sinh phần ẩn của

các tội XPTDTE phát sinh một phần từ chủ thể có thẩm quyền trong việc tiếp nhận,

xử lý tội phạm (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án). Các cơ quan có thẩm quyền chủ

động trong công tác tiếp nhận tố giác và giải quyết vụ án hình sự, nhưng thụ động

trong việc phát hiện và xử lý kịp thời, các tội phạm về xâm phạm tình dục trẻ em là

loại tội có độ ẩn cao nên đa số các vụ án được phát hiện chủ yếu do nạn nhân khai báo,

gia đình tố giác, hoặc có người chứng kiến tường thuật lại. Những hạn chế trong nghiệp

vụ phòng ngừa tội phạm cũng là một trong các nguyên nhân đẫn đến phần ẩn của các

tội XPTDTE. Bên cạnh đó tuy có thông tin về tội phạm nhưng vì nhiều lí do như: quen

biết, họ hàng... đã đề xuất người phạm tội thỏa thuận với gia đình nạn nhân để họ

không tố giác tội phạm, do đó người phạm tội không bi xử lý theo quy định pháp luật.

Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến phần ẩn của các tội XPTDTE.

*Nguyên nhân khách quan: Nguyên nhân khách quan làm phát sinh phần ẩn

của tình hình các tội XPTDTE là những yếu tố tác động bên ngoài, không phụ thuộc

vào ý chí của các chủ thể có thẩm quyền trong việc tiếp nhận và xử lý tội phạm (ẩn

khách quan). Các yếu tố khách quan chủ yếu bắt nguồn từ chính nạn nhân, do người

phạm tội.

Về phía nạn nhân, có nhiều nguyên nhân trong các tội XPTDTE làm cho

mức độ tội phạm ẩn cao như:Trong các vụ XPTDTE nạn nhân là trẻ em còn rất nhỏ

65

không có khả năng tự bảo vệ mình trước sự tấn công của tội phạm, trẻ em chịu sự

uy hiếp và khiếp sợ nên đã không dám nói với gia đình, người thân, không đủ can

đảm để tố giác hành vi phạm tội, hay nguyên nhân do nạn nhân lo sợ, mặc cảm nên

đã không khai báo sự việc hoặc khi bị phát hiện nạn nhân mong muốn được giấu

kín. Gia đình nạn nhân và người phạm tội thỏa thuận giải quyết mà không tố cáo

hành vi phạm tội đến chính quyền địa phương. Hoặc nạn nhân và người phạm tội

trong các vụ án XPTDTE thường có mối quan hệ gần gũi thậm chí là thân thiết, ruột

thịt như anh em, chú bác, ông cháu, bố con... Việc tố giác tội phạm sẽ ảnh hưởng

đến tình cảm gia đình, sẽ làm cho nạn nhân càng thấy xấu hổ, dư luận đàm tiếu,

chính vì vậy mà họ không khai báo, không tố giác hành vi phạm tội. Nạn nhân và

người phạm tội có quan hệ tình cảm nam nữ, nạn nhân chủ động quan hệ tình dục

với người phạm tội, có một số trường hợp nạn nhân có thai hoặc bỏ trốn cùng người

phạm tội. Với tâm lý muốn giải quyết sự việc kín đáo, gia đình người phạm tội và

nạn nhân thương lượng cho cả hai chung sống với nhau, thậm chí kết hôn khi nạn

nhân chưa đủ tuổi. Ngoài rado chính nạn nhân có lối sống buông thả, hưởng thụ, với

thói quen uống rượu, đi bar và sử dụng các chất kích thích dẫn đến việc nạn nhân bị

xâm hại tình dục trong trạng thái say rượu hoặc sử dụng chất kích thích. Do ảnh

hưởng của lối sống buông thả nên mặc dù nạn nhân bị xâm hại tình dục nhưng vẫn

không tố giác hành vi phạm tội.

Về ph a người phạ tội: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em có khoảng thời

gian phạm tội diễn ra rất nhanh, hành vi phạm tội thực hiện rất “kín“ thường chỉ có

người phạm tội và nạn nhân biết. Người phạm tội chủ yếu lựa chọn và lợi dụng thời

gian và địa điểm thuận lợi cho việc thực hiện hành vi mà không bị phát hiện. Các

thủ đoạn mà người phạm tội thường dùng để đạt được mục đích giao cấu rất đa

dạng như: đe dọa, uy hiếp tinh thần, dùng vũ lực, mua chuộc, cho tiền, cho bánh kẹo

hoặc các lợi ích khác theo mong muốn nạn nhân. Nghiên cứu trong 485 vụ án cho

thấy có 215 vụ án (chiếm 44,3%) người phạm tội dùng vũ lực, đe dọa, uy hiếp, lợi

dụng nạn nhân ở nhà một mình để thực hiện hành vi phạm tội, 126 vụ án (chiếm

25,9%) người phạm tội có thủ đoạn dụ đỗ,cho tiền cho quà bánh đễ dễ dàng thực

hiện hành vi phạm tội, 135 vụ án (chiếm 27,8%) người phạm tội lợi dụng tâm lý yêu

đương để giao cấu với nạn nhân hoặc lợi dụng nạn nhân say rượu, bia để thực hiện

66

hành vi giao cấu, có 4 vụ án (chiếm 0,8%) người phạm tội lợi dụng với trẻ em bị

thiểu năng nhận thức kém để thực hiện hành vi giao cấu và dễ dàng che dấu hành vi

phạm tội.

*Nguy n nh n do quy nh ph p u t h nh s (tội phạ ẩn th ng k ): Ngoài

những nguyên nhân đã được phân tích làm cho tội XPTDTE có tình trạng ẩn thì còn

phải nói đến nguyên nhân khác đó là do quy định của pháp luật về thống kê “theo

tội danh nghi trọng nhất hoặc tội danh c h nh phạt cao nhất c a b can b c o

u vụ“[142] Việc thống kê vụ án như quy định nói trên sẽ dẫn đến kết quả nhiều

hành vi xâm hại tình dục trẻ em nhưng không được phản ánh trong thống kê tội

phạm, ví dụ bản án số 23/HSST ngày 20/5/2010 đối với bị cáo Thạch Thi Na, bị tòa

án nhân dân tỉnh Trà Vinh tuyên 18 năm tù về tội hiếp dâm trẻ em, chung thân về

tội giết người. Đối với vụ án này theo quy định về phương pháp thống kê tội phạm

“theo tội danh nghiêm trọng nhất” thì trong số liệu thống kê hình sự thì Thạch Thi

Na phạm tội giết người, vụ án HDTE bị ẩn và không được thống kê.

Như vậy, từ những phân tích đánh giá về phần ẩn của các tội xâm phạm tình

dục trẻ em, có thể kết luận bên cạnh số lượng các tội XPTDTE đã được cơ quan bảo

vệ pháp luật xử lý và ghi nhận trong thống kê hình sự nhưng vẫn còn một lượng ẩn

lớn của các tội XPTDTE chưa được phát hiện, xử lý hoặc chưa có trong số liệu

thống kê. Lượng tội phạm ẩn càng lớn càng chứng tỏ rằng công tác đấu tranh phòng

ngừa các tội XPTDTE chưa đạt được hiệu quả vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế.

67

Kết luận chương 2

Nghiên cứu đánh giá về mức độ, diễn biến và cơ cấu, tính chất của tình hình

các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2017,

luận án rút ra một số kết luận như sau:

1. Các tội XPTDTE đang diễn ra với mức độ nghiêm trọng, diễn biến phức

tạp và xảy ra ở khắp các tỉnh thành thuộc địa bàn miền Tây Nam Bộ. Trong nhóm

tội về xâm phạm tình dục trẻ em thì tội HDTE chiếm tỷ lệ cao nhất 2102 vụ/2122 bị

cáo. Mức độ nghiêm trọng của tội này chiếm tỷ lệ rất cao được thể hiện trên cơ sở

phân tích đánh giá khi so sánh số vụ, số người phạm tội trong nhóm tội XPTDTE.

2. Từ những phân tích các đặc điểm trong cơ cấu của tình hình các tội

XPTDTE đã cho thấy các đặc điểm bên trong, tỷ trọng và mối tương quan của các

yếu tố thể hiện tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em, cũng cho thấy tính chất

nguy hiểm cho xã hội của các tội XPTDTE.

3. Thủ đoạn sử dụng để phạm các tội XPTDTE là rất đa dạng, song một đặc

điểm chung nhất là tội phạm lợi dụng sự thiếu hiểu biết của trẻ em, lợi dụng vào

tình yêu của tuổi mới lớn để thỏa mãn nhu cầu tình dục. Xu hướng tội phạm là lợi

dụng nạn nhân càng nhỏ tuổi càng dễ che đậy hành vi phạm tội, sự non nớt của nạn

nhân vừa là điều kiện thuận lợi để tội phạm tấn công, vừa là rào cản gây khó khăn

cho công tác phát hiện và xử lý tội phạm.

4. Trong số các vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em được chọn lọc nghiên

cứu các vụ án xảy ra giữa nạn nhân và người phạm tội có mối quan hệ quen biết,

gần gũi hoặc thân tình chiếm đại đa số (chiếm 94%). Đây là đấu hiệu điển hình

trong cơ cấu tình hình các tội XTDTE, và là nguyên nhân dẫn đến mức độ ẩn của

tội phạm cao.

5. Do tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội nên bị cáo

thường bị áp dụng những hình phạt nghiêm khắc nhất (khung hình phạt từ trên 7

năm đến 15 năm tù chiếm tỷ lệ 40,2%) nhiều nhất so với các khung hình phạt khác.

6. Phân tích, đánh giá về mức độ diễn biến và cơ cấu tính chất của các tội

XPTDTE đã cho thấy bức tranh về tình hình các tội XPTDTE trong những năm qua

từ đó làm cơ sở cho việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm cung cấp cơ sở khoa học cho việc dự báo về các tội XPTDTE trong tương lai

68

Chương 3

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM

TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ

3.1 Khái quát lý luận về nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội xâm

phạm tình dục trẻ em

3.1.1 Khái niệm và mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

Trong giáo trình Tội phạm học GS. Võ Khánh Vinh khẳng định “Nguy n nh n

v iều ki n c a t nh h nh tội phạ ư c hiểu h th ng c c hi n tư ng xã hội ti u

c c trong h nh th i kinh t - xã hội tương ng quy t nh s ra ời c a t nh h nh tội

phạ như h u qu c a nh” và “C c nguy n nh n v iều ki n c a t nh h nh tội

phạ tạo th nh ột h th ng g nhiều bộ ph n cấu th nh n ”. [146 tr87]

Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là hai phạm trù khác nhau,

giữ vai trò khác nhau trong việc sinh ra kết quả của tình hình tội phạm. Nguyên

nhân là sự tác động qua lại cho nên điều kiện cũng góp phần vào các mối tương tác

này, vì thế khi nói nguyên nhân đã bao hàm cả điều kiện. Như vậy nguyên nhân và

điều kiện của các tội XPTDTE cũng được sinh ra theo quy luật chung, cũng là kết

quả của sự tương tác giữa các yếu tố thuộc môi trường sống và các yếu tố thuộc về

con người trong những hoàn cảnh và tình huống nhất định.

Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPTDTE nhằm

mục đích tìm ra nguyên nhân và điều kiện làm cơ sở cho việc xây dựng các giải

pháp phòng ngừa có hiệu quả tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây

Nam Bộ. Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu này, luận án sẽ nghiên cứu về mối quan

hệ nhân quả trên nền tảng lý luận của triết học Macxit.

Mối quan hệ nhân - quả là một cặp phạm trù mà chủ nghĩa duy vật biện

chứng của triết học Mac - Lenin dùng để chỉ mối quan hệ khách quan giữa các hiện

tượng sự phụ thuộc lẫn nhau của các hiện tượng, quá trình khác nhau. Ở nghĩa rộng,

mối quan hệ nhân quả bao gồm các khái niệm như nguyên nhân, điều kiện, hậu quả,

mối quan hệ nhân quả và ngược lại. Triết học Macxit khẳng định rằng nguyên nhân

là phạm trù chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật, một hiện tượng

hoặc giữa các sự vật, các hiện tượng với nhau gây ra sự biến đổi nhất định gọi là kết

quả. Như vậy về bản chất, nguyên nhân không phải là hiện tượng hay sự vật nào đó,

69

mà nguyên nhân chỉ có thể là sự tác động qua lại. Không có sự tác động qua lại thì

không có nguyên nhân. Để nguyên nhân sinh ra kết quả nhất định nào đó như THTP

thì quá trình tương tác phải diễn ra trong điều kiện nhất định. Điều kiện tuy không

sản sinh ra kết quả, song tạo thuận lợi, hỗ trợ, thúc đẩy sự tương tác sinh ra kết quả.

Vậy là, về bản chất, điều kiện là những sự kiện, hiện tượng, tình huống, hoàn cảnh

nhất định.

Theo lý luận tội phạm học, “k t qu ” không phải là cái gì khác ngoài tình

hình tội phạm hoặc hành vi phạm tội cụ thể. Còn “nguyên nhân” không thể là một

hiện tượng hay một yếu tố nào đó, mà chỉ có thể là sự tác động qua lại của nhiều

hiện tượng nhiều yếu tố. Sự tác động qua lại này không phải là sự tác động trực tiếp

mà là sự tác động gián tiếp, tức là phải thông qua đầu óc con người. Như vậy,

nguyên nhân của tình hình tội phạm phải là sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu

cực thuộc môi trường sống và yếu tố tâm - sinh - lý - xã hội tiêu cực thuộc cá nhân

con người trong những hoàn cảnh, tình huống nhất định đã dẫn tới việc thực hiện

một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà pháp luật hình sự đã quy định là tội phạm

Trong cơ chế nhân - quả, vị trí của nguyên nhân và điều kiện cũng khác

nhau. Về mặt lý thuyết, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là hai

phạm trù khác nhau trong việc sinh ra kết quả. Sự khác biệt giữa chúng hoàn toàn

có thể nhưng vì “nguy n nh n” là sự tác động qua lại cho nên “ iều ki n” không

thể không tham gia vào sự tương tác này. Do đó, khi nói nguyên nhân đã bao hàm

trong đó cả điều kiện. Trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm cần loại trừ cả

hai tức là loại trừ những gì thuộc về nguyên nhân và những gì thuộc về điều kiện.

3.1.2 Cách tiếp cận nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình các tội xâm

phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của các tội XPTDTE cần phải có

phương pháp luận và phương pháp cụ thể để tiến hành các hoạt động này. Nghiên

cứu nguyên nhân và điều kiện của các tội XPTDTE phải dựa trên chủ nghĩa duy vật

biện chứng của triết học Mac - Lenin và kết hợp với những phương pháp nghiên

cứu cụ thể (so sánh, đánh giá, phân tích, nghiên cứu lịch sử, thống kê, tổng hợp, suy

đoán..) một cách có hiệu quả. Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình

tội phạm XPTDTE dưới gốc độ đa ngành (kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, tâm

70

sinh lý…) Ngoài ra khi nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội

XPTDTE xảy ra trên địa bàn miền Tây Nam Bộ cũng cần phải đặt trong mối quan

hệ khác như nhân thân người phạm tội, nạn nhân của tội phạm, những nhóm tội

khác xảy ra trên địa bàn hay hậu quả của các loại tệ nạn xã hội đã ảnh hưởng đến

tình hình các tội XPTDTE (tệ nạn ma túy, mại dâm, say rượu, tệ nạn tín ngưỡng mê

tín dị đoan…)

Để nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của các tội xâm phạm tình dục

người chưa thành niên đồng thời thấy được mức độ tác động của nhân tố này đối

với việc làm phát sinh các tội xâm phạm tình dục người chưa thành niên trên địa

bàn các tỉnh miền Tây Nam Bộ thì cần phải phân tích và làm rõ mối quan hệ của nó

với nhiều yếu tố phức tạp cùng tồn tại trên địa bàn miền Tây Nam Bộ.

3.2 Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em

3.2.1 Nguyên nhân và điều kiện thuộc về môi trường sống

Trong mối liên hệ với nguyên nhân và điều kiện của tội phạm thì môi trường

sống luôn giữ vai trò quan trọng, luôn tác động và chi phối thường xuyên đến cá

nhân, định hướng việc hình thành và hoàn thiện nhân cách và những đặc điểm nhân

thân người phạm tội. Những yếu tố đặc thù về môi trường sống của địa bàn Tây

Nam Bộ cũng có thể là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh hành vi phạm tội,

trong đó có các tội về xâm hại tình dục trẻ em.

3 2 1 1 Nguy n nh n v iều ki n xuất ph t từ những hạn ch trong qu tr nh ph t

triển về kinh t - xã hội iền T y Na Bộ

Nghiên cứu tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ cho

thấy có nhiều nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và trong đó có nguyên nhân phát

sinh từ quá trình phát triển kinh tế- xã hội.

Tây Nam Bộ là vùng nông nghiệp trọng điểm, có vị trí rất thuận lợi để phát

triển kinh tế biển, với đóng góp của nông nghiệp trong GDP của vùng ở mức cao

với tỷ trọng 39,6% cơ cấu GDP của vùng (năm 2010). Với diện tích trên 40.000 km2, chiếm 12% diện tích cả nước; dân số chiếm khoảng 20% và đóng góp khoảng

27% GDP cả nước; trong lĩnh vực nông nghiệp, miền Tây Nam Bộ đáp ứng khoảng

trên 50% sản lượng trái cây, 70% diện tích nuôi trồng thủy - hải sản [61]. Có thể

thấy đây là khu vực được thiên nhiên ưu đãi, thuận lợi trồng trọt, chăn nuôi, phát

71

triển tài nguyên biển. Mặc dù vậy nhưng Tây Nam Bộ là một trong những địa

phương có tỉ lệ nghèo cao, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển,

trình độ dân trí còn thấp, so với những vùng khác thì hàng năm Tây Nam Bộ còn bị

ảnh hưởng bởi xâm ngập mặn, hạn hán nên số hộ nghèo và cận nghèo ở vùng Tây

Nam Bộ vẫn còn gần 19%. Thu nhập bình quân đầu người đạt mức 40,2% triệu

đồng, trong khi cả nước là 47,9 triệu đồng/người/năm. [71]

Theo số liệu điều tra cho thấy, tính đến hết năm 2008 tỉ lệ hộ nghèo: Đông

Bắc 25,9%, Đồng bằng sông Cửu Long (Tây Nam Bộ) 25,9%. Khu vực Tây Bắc

19,8%, tiếp đến là Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là 8,4%, Duyên Hải

Nam Trung Bộ 2,3% (thấp nhất cả nước). Như vậy Đông Bắc và Đồng bằng sông

Cửu long là hai khu vực có tỉ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước. Theo số liệu điều tra

đến cuối năm 2010 thì tỉ lệ hộ nghèo có sự thay đổi như sau: Khu vực Tây Bắc

39,16%, Đông Bắc 24,62%, Duyên hải Nam trung bộ 17,27%, Duyên hải Bắc trung

bộ 16,04%, Đồng bằng sông Cửu Long (Tây Nam Bộ) 13.48% tiếp đến là Đồng

bằng sông Hồng 8,3% , Đông Nam Bộ là 2,11% (thấp nhất cả nước) [71] Mặc dù có

những chuyển biến tích cực về kinh tế, khu vực Tây Nam Bộ không còn chiếm tỷ lệ

nghèo cao nhất cả nước nhưng vẫn còn nằm trong nhóm các khu vực có tỷ lệ hộ

nghèo cao. Bên cạnh đó theo số liệu báo cáo tại Hội nghị “Những chuyển bi n nổi

b t kinh t ng bằng S ng Cửu Long 6 th ng u nă 2017 xu hướng thay ổi

trước cuộc c ch ạng c ng nghi p 4 0” đã cho thấy : Trong những năm 2001 -

2005 tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng trên 10%, giai đoạn 2011 - 2015 tốc độ

tăng trưởng 8%, và năm 2016 giảm còn 7%. … Đối với nông nghiệp trước năm

2014 tăng trưởng nông nghiệp khoảng 6%, giai đoạn 2014 - 2015 còn 3%, và năm

2016 chỉ 0,6%” tốc độ tăng trưởng kinh tế ở miền Tây Nam Bộ đang ngày càng giảm

rõ rệt. Tây Nam Bộ đang đứng trước những thách thức lớn về phát triển kinh tế như:

Th nhất t c ộ tăng trưởng kinh t gi s ph t triển nhanh v ất c n i

c a ột s ng nh/nghề trong khu v c s ất c n i c a d n cư ở c c Tỉnh c c

khu v c

Các địa phương có cơ cấu nông nghiệp cao như: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc

Trăng, An Giang, Hậu Giang có lượng di dân lớn đến các tỉnh, thành phố khác để

72

tìm việc làm. Những địa phương như Tiền Giang, Long An nơi thu hút các nguồn

đầu tư, khu công nghiệp thì dân cư tập trung đông. Sự mất cân đối giữa nguồn lao

động ở các nơi cũng gây khó khăn cho phát triển ổn định của khu vực Tây Nam Bộ.

Trên địa bàn các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: Long An, Tiền Giang, Kiên Giang,

Hậu Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh... đang tập trung nguồn lực để phát triển mạnh về

kinh tế, mở rộng chính sách thu hút và đầu tư đã có nhiều khu chế xuất, khu công

nghiệp, khu công nghệ cao, cụm cảng biển, nhà máy nhiệt điện những nơi này đang

thu hút và tập trung đông nguồn lao động từ các nơi đỗ về. Từ đó kéo theo các loại

hình kinh doanh dịch vụ, nhà trọ, và các loại hình kinh doanh khác có điều kiện phát

triển mạnh, nhiều nhóm nghề nghiệp phát triển như: thiết bị, dịch vụ, sửa chữa lắp

ráp, vận hành máy móc, bảo vệ, bán hàng, phục vụ, môi giới việc làm, kinh doanh

nhỏ.... sự phát triển các ngành dịch vụ khác nhau ở khu vực này như: quán ăn, quán

cafe, các chợ tự phát, nhà nghỉ, tiệm massage, nhà cho thuê, tiệm gội đầu, bar, quán

nhậu, cầm đồ, tiệm Internet- game đáp ứng nhu cầu của người lao động. Bên cạnh

đó, việc phát triển kinh tế ở các khu vực thiếu vững chắc mặc dù là vùng trọng điểm

về nông nghiệp của quốc gia, là vựa lúa lớn thứ hai của cả nước nhưng hiện tại mức

đầu tư còn thấp, sản xuất nông nghiệp thiếu bảo đảm về điều kiện kinh tế - kỹ thuật,

công nghệ chế biến nhiều nơi còn khá lạc hậu, việc đầu tư và ứng dụng tiến bộ khoa

học và công nghệ vào sản xuất chưa cao, gây thất thoát sau thu hoạch và giá thành

thấp. Ngoài ra hệ thống hạ tầng về giao thông thủy lợi cũng là trở ngại lớn cho việc

phát triển kinh tế ảnh hưởng đến sức hút đầu tư trong và ngoài nước. Đây cũng là

thách thức lớn cho công cuộc phát triển kinh tế của khu vực Tây Nam Bộ.

Hiện nay với sự chuyển đổi kinh tế, người dân không còn giữ ruộng vườn,

không tập trung phát triển nông nghiệp mà chuyển hướng làm kinh tế theo thời vụ,

không có định hướng lâu dài, trồng trọt chăn nuôi theo thị hiếu (dưa hấu, thanh

long...) từ đó dẫn đến việc lượng cung sản phẩm nhiều hơn cầu, người dân được

mùa nhưng sản phẩm lại không có giá cao hoặc việc phát triển kinh tế theo số đông

cũng làm tăng nguy cơ rủi ro cao trong phát triển kinh tế. Biến đổi khí hậu ở Tây

Nam Bộ cũng là nguyên nhân dẫn đến việc mùa vụ thất thu, người dân bỏ ruộng, bỏ

vườn chuyển hướng làm các công việc kinh tế khác. Đất đai chưa được đầu tư khai

thác đúng mức, trong khi đó các tỉnh miền Tây Nam Bộ gánh thêm một lượng lớn

lao động thiếu việc làm vì những ảnh hưởng của thị trường, kinh tế của việc biến

73

đổi khí hậu. Song hành với những điều kiện thuận lợi hay khó khăn trong phát triển

kinh tế, xã hội thì cũng tìm ẩn nguyên nhân làm phát sinh tội phạm nói chung và tội

phạm XPTDTE nói riêng.

Th hai t c ộng c a t nh trạng thất nghi p thi u vi c ở những a b n

Tây Nam Bộ “đến năm 2010 nếu tính theo chuẩn nghèo mới thì tỷ lệ nghèo

thu n n ng nghi p iền T y Na Bộ

của vùng là 12,6%, cả nước là 14,2%. Nhiều tỉnh trong vùng có tỷ lệ nghèo khá cao

như Trà Vinh 23,2%, Sóc Trăng 22,1%, Hậu Giang 17,3%...” [63]. Tây Nam Bộ có

gần 2 triệu người nghèo sống trong vùng nông thôn sâu, do đó quá trình giảm nghèo

bền vững còn đặt ra cho vùng rất nhiều thách thức. Trong những năm qua miền Tây

Nam Bộ đã có những chuyển biến tích cực về kinh tế và đạt được nhiều thành quả

trong việc phát triển kinh tế xã hội: Các tỉnh như Cần Thơ, Long An, Vĩnh Long …

đã có được các trung tâm kinh tế lớn làm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho

người dân, tạo nhiều việc làm dẫn tới việc thu hút nhiều người lao động góp phần

hạn chế tình trạng thất nghiệp. Ngoài ra các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng,

Bến Tre, Trà Vinh… có vị trí thuận lợi trong phát triển kinh tế biển, khai thác và

nuôi trồng thủy sản phục vụ cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng cho trong nước và xuất

khẩu, 1 số tỉnh như Đồng Tháp, Hậu Giang, An Giang … cũng là trung tâm sản

xuất lúa gạo, các mặt hàng nông lâm khác để xuất khẩu. Theo kết quả rà soát hộ

nghèo cuối năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng giảm xuống còn 5,48% (giảm

1,93% so với năm 2013). Tổng hợp số liệu của các địa phương, cuối năm 2015 tỷ lệ

hộ nghèo toàn vùng giảm còn khoảng 3,54% (cả nước còn dưới 4,5%). Trong đó, có

8/13 địa phương có tỷ lệ hộ nghèo thấp (dưới 5%); một số tỉnh có mức giảm tỷ lệ hộ

nghèo đạt cao như Sóc Trăng (khoảng 4,5%), Bạc Liêu (khoảng 4,5%), Trà Vinh

(khoảng 3,3%). Tuy nhiên so với cả nước thì miền Tây Nam Bộ vẫn là khu vực phát

triển chậm hơn so với các khu vực lân cận như Đông Nam Bộ. Do đó khi nghiên

cứu nhân thân người phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây

Nam Bộ đã có sự khác biệt như sau: Độ tuổi từ 18 - 45 tuổi phạm tội nhiều nhất

(chiếm 45,8%). Người phạm các tội này phần lớn chưa kết hôn 261 bị cáo, đã ly

hôn 57 bị cáo (chiếm 63,6%). Nghiên cứu về nghề nghiệp của 500 bị cáo đã cho

thấy: người phạm các tội XPTDTE phần lớn có nghề nghiệp không ổn định, làm

74

nghề tự do, kinh doanh nhỏ (chiếm 37,4%), người không có việc làm (chiếm

14,6%), nông nghiệp (chiếm 23%), nuôi trồng thủy sản (13,8%, học sinh, sinh viên

(chiếm 9%), cán bộ, nhân viên (chiếm 2,2). Với k trên cho thấy ở độ tuổi từ 18 - 45

tuổi đây vừa là độ tuổi có sức khỏe lao động, vừa là độ tuổi có nhu cầu cao về sinh

lý nên việc nảy sinh nhu cầu tình dục ở độ tuổi này là điều hiển nhiên, nhưng do đời

sống ở miền Tây Nam Bộ còn khó khăn, kinh tế thiếu thốn, thu nhập thấp, phần lớn

người phạm các tội về XPTDTE là người chưa kết hôn hoặc đã ly hôn, có như cầu

về tình dục nhưng nhu cầu này không được đáp ứng, không thể thỏa mãn dẫn đến

người phạm tội có những hành vi xâm phạm về tình dục để nhằm thỏa mãn nhu cầu

riêng của bản thân, mà chủ thể dễ bị xâm hại, dễ bị lợi dụng lại là trẻ em. Thực tế

cho thấy, không phải những người không có việc làm, việc làm không ổn định, có

thu nhập thấp đều phạm tội, mà chỉ một phần và đây được xem là một trong các

nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội XPTDTE thông qua kết quả của việc nghiên

cứu điển hình.

Một thách thức của các tỉnh miền Tây Nam Bộ là quá trình giảm nghèo, giải

quyết việc làm đặt trong bối cảnh là sự phát triển của cả nước, việc duy trì tốc độ

tăng trưởng kinh tế của vùng vừa nâng cao thu nhập và tạo việc làm cho người dân.

Sự phát triển đô thị hóa, mở rộng đường xá đã dẫn đến thực trạng người dân bị thu

hồi ruộng đất, mặc dù địa phương có rất nhiều chính sách giải quyết việc làm nhưng

với trình độ dân trí thấp, tâm lý quen với công việc đồng áng không chịu được sự kỉ

luật của những công việc đòi hỏi việc tuân thủ giờ giấc. Vì vậy xã hội dư thừa một

lượng lớn lao động không có việc làm hoặc việc làm không ổn định. Bên cạnh đó sự

phân hóa giàu nghèo với những chênh lệch về điều kiện sống trong thời kỳ chuyển

đổi sang nền kinh tế thị trường, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, những rạn vỡ trong

gia đình và sự xói mòn những giá trị truyền thống đã dẫn tới con số trẻ em bị bỏ rơi,

bị sao nhãng ngày càng tăng từ đó trẻ em dễ dàng du nhập lối sống thực dụng chủ

động trong các mối quan hệ tình cảm và trở thành nạn nhân của các tội xâm phạm

tình dục trẻ em.

Th ba những t c ộng ti u c c c a nền kinh t s ph t triển nhiều ng nh

nghề kinh doanh d ch vụ du ch trong gia tăng ngu n ao ộng trẻ e .

Việc phát triển kinh tế đi kèm với phát triển du lịch biển, khu du lịch sinh thái,

75

miệt vườn ở miền Tây Nam Bộ nhằm giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và đời

sống cho người dân địa phương bên cạnh những thuận lợi nhất định về tiềm năng

khai thác du lịch thì còn có những hệ lụy phát sinh trong xã hội như bóc lột sức lao

động của trẻ em, không khó để thấy trên các đường phố ở miền Tây Nam Bộ, trẻ em

bán vé số, bán hàng rong, đi ăn xin ở những địa điểm quán nhậu, khu vực đông

khách du lịch, trẻ em phải kiếm tiền từ rất sớm đều này làm gia tăng nguy cơ trẻ em

bị xâm phạm tình dục và đặc biệt là trường hợp trẻ em tự nguyện bán dâm để lấy

tiền trang trải cuộc sống hoặc phải kiếm đủ tiền theo sự bắt buộc của gia đình. Theo

báo cáo của cơ quan Phòng chống ma túy và tội phạm (UNODC) cũng cảnh báo

Việt Nam bước vào giai đoạn đầu tiên của hiện tượng “ Du lịch tình dục” nhiều

khách du lịch đã dụng hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn này của các em đã dùng vật

chất để dẫn dụ các em đồng ý cho những kẻ đó quan hệ tình dục với những trường

hợp này rất khó phát hiện và xử lý, khách du lịch có thể rời đi sau khi thực hiện

hành vi XPTDTE. Các địa phương có lượng khách du lịch lớn như Kiên Giang, An

Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh Long... Mặc dù tính đến thời điểm hiện

tại Tòa án nhân dân các tỉnh trên địa bàn miền Tây Nam Bộ có xử lý các vụ án về

mua dâm trẻ em nhưng chưa có vụ án cụ thể nào có đối tượng phạm tội là khách du

lịch. Điều này không có nghĩa là thực tiễn thời gian tới sẽ không xảy ra. Vì thế trong

công tác phòng ngừa cũng cần có các biện pháp phòng ngừa các tội XPTDTE ở các địa

bàn tập trung đông khách du lịch trong và ngoài nước.

3 2 1 2 Nguy n nh n v iều ki n thuộc về i trường a ý t nhi n c a iền T y

Na Bộ

Về a ý: Tây Nam Bộ bao gồm 13 tỉnh, thành phố là Long An, Tiền Giang,

Vĩnh Long, Bến Tre, Đồng Tháp, Trà Vinh, An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc

Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang và Cà Mau. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt

Nam năm 2011 cho thấy diện tích 13 tỉnh, thành thuộc Đồng bằng sông Cửu Long

hơn 40.548,2 km² và tổng dân số của các tỉnh là 17.330.900 người. Phía Tây Bắc

giáp Campuchia. Phía Đông Bắc tiếp giáp Vùng Đông Nam Bộ. Phía Đông giáp

biển Đông. Phía Nam giáp Thái Bình Dương. Phía Tây giáp vịnh Thái Lan. Vị trí

địa lý đặc thù của Đồng bằng sông Cửu long: bao gồm quốc lộ 1A, 53, 54, 57, 60,

61, 62, 63, 80, 91, 91c và đường bờ biển dải 73,2 km [61] với các cảng biển khu

76

vực Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh...các dòng sông lớn như Sông Tiền,

sông Hậu, Sông Châu Đốc cùng với các hệ thống các kênh rạch chằng chịt, từ đó

các yếu tố địa lý đó đã hình thành thói quen sinh hoạt, buôn bán và cư trú trên sông

nước của người dân miền Tây. Ở một số khu vực của Tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bến

Tre, Trà Vinh, Đồng Tháp, Hậu Giang người dân vẫn còn vận chuyển và sinh hoạt

đi lại bằng ghe, xuồng. Một bộ phận dân cư sinh sống ở các khu vực cách xa thành

thị hoặc ở các cù lao, cồn nổi trên sông. Diện tích đất nông nghiệp, đất trồng trọt

khá lớn nên phần lớn người dân sống biệt lập, nông thôn Nam Bộ còn rất nhiều

những ngôi nhà lá, những nơi ở tạm bợ không kiên cố. Với điều kiện sinh sống cỏn

nhiều thiếu thốn việc tiếp cận thông tin còn hạn chế nên rất nhiều trường hợp trẻ em

bị xâm hại tình dục ngay tại nơi sinh sống nhưng cha mẹ và người thân điều không

hay biết. Theo nghiên cứu đã cho thấy: Vĩnh Long, Hậu Giang, Cà Mau, Trà Vinh,

Cần Thơ, Sóc Trăng (đây là các địa bàn có hệ số tiêu cực cao nhất), xếp thứ tự sau

đó là Đồng Tháp, Bạc Liêu, Kiên Giang, Bến Tre, An Giang. Hệ số tiêu cực thấp

nhất là địa bàn Tiền Giang và Long An. Những địa bàn có tình hình các tội

XPTDTE cao như Vĩnh Long, Hậu Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Sóc Trăng hầu như

đều có những yếu tố địa lý - kinh tế văn hóa tương đồng nhau, đều là vùng đồng

bằng sông nước, đời sống ở một số khu vực còn rất nhiều khó khăn, người dân chủ

yếu là ruộng, trồng trọt hoặc nuôi trồng thủy hải sản, tỉ lệ lao động không có việc

làm là rất cao, trình độ dân trí thấp. Vĩnh Long, Hậu Giang, Sóc Trăng là các địa

phương có tỷ lệ người dân đi xuất khẩu lao động cao, một số đi làm ở các thành phố

lớn như Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh hoặc các tỉnh thành khác. Trẻ em ở các

địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, vùng sông nước hẻo lánh chưa

được chăm sóc và bảo vệ đúng mức, trẻ em tự lập khi còn rất nhỏ, tự chăm sóc nhau

từ đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng xấu tấn công. Do đó cần phải nâng

cao công tác dự báo tội phạm ở từng địa bàn và công tác phòng ngừa loại tội phạm

này được triển khai hữu hiệu hơn ở từng địa bàn trong thời gian tới. Có thể thấy

điều kiện tự nhiên của miền Tây Nam Bộ vừa là yếu tố thuận lợi cho việc phát triển

kinh tế, nhưng cũng đồng thời là những thách thức đối với việc quản lý dân cư,

kiểm soát an ninh khu vực, kiểm soát các địa tội phạm trong đó có các tội về xâm

phạm tình dục trẻ em.

77

Về th nh ph n d n tộc v d n cư:

Dân cư sinh sống ở vùng Tây Nam Bộ bao gồm nhiều dân tộc khác nhau,

trong đó có 4 dân tộc chính là: Kinh (Việt), Hoa, Chăm và Khmer. Theo số liệu điều

tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số người Khmer ở Việt Nam có 1.260.640 người,

tập trung đông nhất ở các tỉnh thuộc khu vực Tây Nam Bộ. Trong đó tỉnh Trà Vinh

có 290.000 người (chiếm 30% dân số của toàn tỉnh); Sóc Trăng có 338.000 người

(chiếm 28,8% dân số toàn tỉnh); Kiên Giang có 182.000 người (chiếm 12,1% dân số

toàn tỉnh); Bạc Liêu có 58.000 người Khmer (chiếm 7,9% dân số toàn tỉnh) và An

Giang có 78.700 người Khmer (chiếm 3,8% dân số của tỉnh). Dân tộc Kinh chiếm

đại đa số 91,97% sống ở hầu hết các nơi trong vùng. Dân tộc Khmer chiếm 6,88%

sinh sống chủ yếu ở vùng nông thôn, miền núi khu vực: An Giang, Sóc Trăng, Trà

Vinh, Bạc Liêu, Kiên Giang. Dân tộc Hoa chiếm 1,03% sinh sống ở khắp các tỉnh

thành Tây Nam Bộ và dân tộc Chăm chiếm 0,09%, sinh sống chủ yếu ở An Giang

(Tân Châu, An Phú, Phú Tân, Châu Phú). Nghiên cứu trong 485 bản án với 500 bị

cáo phạm các tội về XPTDTE kết quả cho thấy người dân tộc kinh chiếm tỉ lệ cao

trong các tội về xâm phạm tình dục trẻ em với 301 bị cáo (chiếm 60,2%), tiếp đến là

người dân tộc Khmer với 178 bị cáo (chiếm tỷ lệ 35,6%), có 20 bị cáo là người dân

tộc Hoa (chiếm 4,0%) và có 1 bị cáo là dân tộc Chăm ở An Giang (chiếm 0,2%).

Hơn phân nửa người phạm tội là người dân tộc kinh, mặc dù phần lớn dân cư sinh

sống ở Nam Bộ là người dân tộc kinh nhưng đều này cho thấy một bộ phận dân cư

đang mất dần các tư tưởng văn hóa, truyền thống tốt đẹp của người Nam Bộ, coi

thường các giá trị về đạo đức, nhân phẩm và có lối sống lệch lạc về tình dục. Người

dân tộc Khmer chỉ tập trung sinh sống chủ yếu ở một số khu vực nhưng tỉ lệ phạm

loại tội này cũng khá cao (chiếm tỷ lệ 35,6%) đây cũng là một thực trạng đáng quan

tâm bởi phần lớn người dân tộc Khmer có đức tính thật thà, cần cù chất phát, có đời

sống văn hóa tín ngưỡng cao, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo Nam tông, đa

số người dân tộc Khmer từ khi sinh ra đã mặc định là người theo Phật giáo Nam

tông vì quan niệm “sống gửi thân chết gửi cốt” nên trong đời sống cũng như trong

thói quen sinh hoạt họ rất tôn trọng các giá trị có yếu tố truyền thống. Do đó việc

phạm các tội XPTDTE ở bộ phận dân cư này cần phải nghiên cứu nguyên nhân và

điều kiện phát sinh tội phạm dưới nhiều góc độ như kinh tế, thói quen sinh sống,

78

nghề nghiệp, trình độ dân trí, những ảnh hưởng của sự du nhập, giao thoa về đời

sống văn hóa đã làm một bộ phận người dân rời xa giá trị truyền thống tốt đẹp của

dân tộc, để từ đó đưa ra giải pháp phòng ngừa hiệu quả hơn. Ngoài ra kết quả

nghiên cứu cũng cho thấy bị cáo phạm tội là người dân tộc Hoa và Chăm tuy tỉ lệ

phạm tội thấp nhưng cũng cần đặc biệt quan tâm để từ đó loại trừ tội phạm này ra

khỏi đời sống xã hội.

3.2.1.3 Nguyên nhân và điều kiện về Đời sống - Văn hóa - Tính cách người dân miền Tây

Nam Bộ

* Về Đời sống – Văn Hóa

Trong những năm gần đây miền Tây Nam Bộ đã có những chuyển biến tích

cực về đời sống, người dân bắt kịp xu hướng tiến bộ của các nước, văn hóa thời kì

hội nhập, những tư tưởng hướng ngoại đã làm thay đổi mạnh mẽ đời sống văn hóa

con người Nam Bộ. Bên cạnh sự thay đổi tích cực thì cũng kéo theo nhiều ảnh

hưởng tiêu cực từ văn hóa xã hội đến tình hình tội phạm bao gồm cả các tội xâm

phạm tình dục trẻ em.

Th nhất Các phim ảnh, tạp chí, sách báo có nội dung đồi trụy, khiêu dâm từ

nước ngoài du nhập vào Việt Nam, cơ quan quản ký không thể kiểm soát được là

một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trẻ em ngày càng bình

thường hóa quan niệm tình dục và các tội phạm về xâm phạm tình dục trẻ em diễn

ra với mức độ nghiêm trọng hơn. Nghiên cứu trong 500 bị cáo cho thấy: có 84 bị

cáo phạm tội do ảnh hưởng của phim sex, ảnh sex, truyện sex ... chiếm 16,8 %.

Điều đáng quan tâm là những sản phẩm văn hóa độc hại, đồi trụy lại có khả năng

khích thích và lôi cuốn người tiêu dùng rất cao (đặc biệt là tầng lớp thanh niên mới

lớn), làm cho họ có những hành vi và tình dục lệch lạc. Sự lệch lạc về văn hóa và

nhận thức kéo theo sự khích thích và ham muốn dục vọng làm cho bản thân không

thể kiểm soát hành vi của mình, dù có thể biết hành vi thực hiện là trái pháp luật có

thể gây hậu quả cho người khác nhưng vẫn thực hiện hành vi. Điển hình như vụ

Phan Thanh Tuấn, sinh ngày 21/4/1998, Thường trú: xã Vĩnh Hanh, huyện Châu

Thành, Tỉnh An Giang (bản án số 06/2017/HSST). Tuấn có lối sống buông thả, sớm

tiêm nhiễm thói hư, tật xấu, thích xem phim sex mỗi lần xem phim xong, Tuấn lợi

dụng cha mẹ nạn nhân không thường xuyên ở nhà, nạn nhân lại là bà con với bị cáo

79

nên đã nhiều lần thực hiện hành vi xâm hại tình dục nạn nhân. Trong quá trình điều

tra Tuấn đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Sau khi xem xét các tình

tiết của vụ án, nhân thân người phạm tội. Hội đồng xét xử tuyên mức án 8 năm tù

giam với Tuấn về tội Hiếp dâm trẻ em.

Th hai Do ảnh hưởng bởi lối sống buông thả, thích hưởng thụ, lười lao động

xem thường các giá trị đạo đức, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội, đã làm cho

tệ nạn xã hội và tội phạm ngày càng gia tăng trong đó có các tội xâm phạm tình dục

trẻ em. Nhu cầu tình dục được coi là nhu cầu mang tính bản năng của con người,

tuy nhiên việc thỏa mãn cho nhu cầu này không được xâm hại đến sức khỏe, danh

dự, nhân phẩm của người khác cũng như không được xem nhẹ các giá trị về truyền

thống, đạo đức. Các vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em ở địa bàn miền Tây Nam

Bộ xảy ra trong thời gian vừa qua đa phần đều có mối quan hệ người thân, quen

biết. Điều này cho thấy sự xuống cấp trong văn hóa ứng xử, trẻ em không được bảo

vệ ngay cả khi sống bên người thân của mình.

Điển hình như vụ án hiếp dâm trẻ em tại Vĩnh Long gây phẫn nộ trong dư luận

một thời gian dài. Nạn nhân là em PTLĐ (11 tuổi) trú tại xã An Phước, huyện Mang

Thít, tỉnh Vĩnh Long bị cha là Phan Thanh Tuấn (36 tuổi) và ông nội là Phan Thanh

Sơn (62 tuổi) xâm phạm tình dục nhiều lần. Từ tháng 7/2016 đến tháng 3/2017

Tuấn đã thực hiện hành vi xâm hại tình dục với con 4 lần, từ tháng 3/2016 đến

tháng 2/2017 Sơn đã thực hiện hành vi xâm hại tình dục 3 lần. Cả hai điều khai

nhận hành vi phạm tội của mình tại Tòa. Xét tình chất nghiêm trọng của hành vi

phạm tội. Ngày 30/8/2017 TAND tỉnh Vĩnh Long đã tuyên phạt bị cáo Phan Thanh

Tuấn tù chung thân về tội hiếp dâm trẻ em và ngày 11/9/2017 TAND tỉnh Vĩnh

Long đã tuyên phạt bị cáo Phan Thanh Sơn tù chung thân về tội hiếp dâm trẻ em.

Th ba Miền Tây Nam Bộ với đa thành phần dân tộc và sự giao thoa văn hóa

vì thế lễ hội diễn ra quanh năm, bên cạnh những ngày lễ, tết của dân tộc Kinh, còn

có khá nhiều ngày lễ, hội, của dân tộc khác như: Lễ hội Ok Om Bok, Chol Chnam

Thmay, Sen Dolta, lễ hội đua bò bảy núi, lễ hội vía Bà Chúa núi Sam, Lễ hội Cúng

dừa ... cùng với sự phát triển của văn hóa tâm linh ở các khu vực An Giang, Sóc

Trăng, Trà Vinh những ngày cúng Trăng, các ngày vía Thần, vía Bà (chúa xứ) các

Phật tử từ các nơi đến rất đông. Đây là những nét đặc trưng về văn hóa dân tộc, văn

80

hóa tâm linh miền Tây Nam Bộ, tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những hạn chế Tây

Nam Bộ là những nơi có tỷ lệ người nghèo cao, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm

nhiều, người dân miền Tây Nam Bộ thích lễ hội, cúng viếng chùa miếu và hưởng

ứng rất tích cực hoạt động lễ hội, điều này cũng ảnh hưởng đến kinh tế, việc làm

của các hộ gia đình ở miền Tây Nam Bộ. Bên cạnh đó, rất nhiều gia đình khu vực

miền Tây Nam Bộ có truyền thống ủ rượu và uống rượu như một phần trong cuộc

sống hàng ngày, khác với những khu vực khác người dân miền Tây Nam Bộ vui

cũng uống rượu, buồn cũng uống rượu, uống đến khi thật say và có khi điều này

diễn ra thường xuyên ở hầu hết các gia đình. Từ người trẻ đến người già và nhất là

nam giới họ dùng rượu như là cách thức để thắt chặt tình thân, tình bằng hữu. Có

thể nói rượu là niềm tự hào của miền Tây Nam Bộ, đó là một văn hóa rất riêng, tuy

nhiên bên cạnh những nét đặc thù về văn hóa này thì cũng có rất nhiều tiêu cực xảy

ra từ việc uống rượu. Đa số các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền

Tây Nam Bộ đều có cùng một đặc điểm: đó là người phạm tội uống bia, rượu trước

khi thực hiện hành vi phạm tội. Nghiên cứu trong 485 vụ án/ 500 bị cáo thì có đến

281vụ án/285 bị cáo có sử dụng rượu bia trước khi thực hiện hành vi phạm tội

(chiếm tỷ lệ 57%). Điều này cho thấy sự tác động của rượu, bia đã ảnh hưởng rất

lớn đến nhận thức và hành vi của con người, trong đó có cả hành vi phạm tội.

Điển hình như vụ án Huỳnh Thanh Hiếu, sinh năm 1988, thường trú khóm 2,

thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang (bản án số 29/2017/HSST). Tại phiên tòa Hiếu

khai nhận sau khi uống rượu, cả nhóm bạn cùng say. Trong lúc Hiếu, Thọ, Dương ngồi

trong phòng nói chuyện thì Thọ ra ngoài đi vệ sinh, trong phòng chỉ còn Hiếu và Dương,

do đó Hiếu đã nảy sinh ý định giao cấu với nạn nhân, tại thời điểm thực hiện hành vi

phạm tội người bị hại chưa đủ 15 tuổi. Đây là một trong các vụ án điển hình cho thấy

các vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em diễn ra ở miền Tây Nam Bộ trong thời gian

vừa qua đều có những nguyên nhân do việc lạm dụng quá mức bia rượu, dẫn đến

việc thiếu kiểm soát, thiếu khả năng điều khiển hành vi, hình thành ý định phạm tội

do không thể kiềm chế được dục vọng. Rượu, bia cũng là một chất tác động đến

tinh thần, vừa khích thích hưng phấn vừa ức chế tế bào thần kinh dẫn đến việc thực

hiện hành vi phạm tội. Đây cũng là thách thức và khó khăn trong công tác phòng

ngừa tội phạm ở miền Tây Nam Bộ khi mà người dân sinh hoạt uống rượu vui chơi

81

tại nhà, thì việc kiểm soát, phòng ngừa tội phạm của cơ quan chức năng càng khó

khăn. Uống rượu, bia từ lâu đã được coi như là một văn hóa khó thay đổi, khó từ

bỏ, nhất là những vùng nông thôn, khu vực hẻo lánh miền Tây Nam Bộ. Tuy nhiên,

cần phải có những biện pháp phòng ngừa, lập phương án kiểm soát an ninh khu

vực, nhất là những khu vực nông thôn sâu.

* Về t nh c ch người d n iền T y Na Bộ

Th nhất, với điều kiện tự nhiên thuận lợi, ít thiên tai nên con người Tây Nam

Bộ không phải quá lo sợ về cái ăn, cái mặc, sống thoải mái, không suy tính lâu dài,

không cần xây dựng nhà kiên cố, chỉ cần đơn giản và nhiều khu vực nông thôn nơi

ở rất tạm bợ, ăn mặc cũng thoải mái từ những thói quen ảnh hưởng đến nhiều thế hệ

và trở thành đặc điểm, tính cách con người miền Tây Nam Bộ. Nghiên cứu trong

485 vụ án xâm phạm tình dục trẻ em đã cho thấy có 175 vụ án XPTDTE xảy ra ở

tại nhà nạn nhân (chiếm 36,1%), 96 vụ án xảy ra tại nhà bị cáo (chiếm 19,7%). Điều

này cho thấy phần lớn các vụ án XPTDTE xảy ra tại nơi nạn nhân sinh sống, những

ngôi nhà tạm bợ ở khu vực nông thôn, khu vực dân cư sinh sống cách xa nhau

không đảm bảo an toàn, khu vực sông nước vắng vẻ, địa hình đồng trống hoang

vắng, ít xe cộ qua lại càng tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm xảy ra trong đó có

cả các tội XPTDTE.

Th hai, Người Nam Bộ vốn tính cách hào phóng và rất hiếu khách, trọng

nghĩa và dễ thỏa hiệp vì thế có rất nhiều trường hợp có hành vi XPTDTE diễn ra

trên địa bàn nhưng do quan hệ quen biết, láng giềng thông thường họ có khuynh

hướng hòa giải, thương lượng, bồi thường, hoặc cho nạn nhân và người phạm tội

kết hôn với nhau như là một trong các biện pháp khắc phục hậu quả tốt nhất.

Điển hình như vụ án Kim Dũng, sinh năm 1995, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc

Trăng (bản án số 08/2017/HSST ngày 3/5/2017). Vào khoảng tháng 8/2015 Dũng

và T (sinh năm 2003) đi chơi, sau đó cả hai về nhà của Dũng, cả hai có quan hệ tình

dục với nhau và bị gia đình hai bên phát hiện. Gia đình hai bên thống nhất tổ chức

lễ cưới cho Dũng và T vào ngày 31/10/2015. Trong thời gian chung sống cả hai

thường xuyên mâu thuẫn dẫn đến đánh nhau. Ngày 4/10/2016 gia đình T đến cơ

quan công an trình báo sự việc, qua quá trình giải quyết mâu thuẫn, cơ quan điều tra

phát hiện T chưa đủ 13 tuổi. Dũng thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Tòa án

82

tuyên bố bị cáo Kim Dũng phạm tội “ hiếp dâm trẻ em“ hình phạt 7 năm tù giam.

Vụ án Lê Hoài Linh, sinh năm 1993, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang (bản án số

19/2017/HSST ngày 21/3/2017. Vào tháng 5/2015 Lê Hoài Linh quen với N (sinh

năm 2000) cả hai thực hiện hành vi giao cấu nhiều lần. Tháng 8/2015 cả hai đến

Thành phố Hồ Chí Minh tìm việc làm. Gia đình hai bên biết được sự việc nên yêu

cầu tổ chức đám cưới. Ngày 6/9/2015 hai bên gia đình tổ chức lễ cưới cho Linh và

N. Tháng 25/7/206 N sinh con. Trong quá trình chung sống giữa Linh và N phát

sinh mâu thuẫn nên ngày 20/7/2016 gia đình N đã làm đơn tố giác đến Công an xã

Hậu Mỹ Trinh, huyện Cái Bè. Tòa án tuyên bị cáo Lê Hoài Linh phạm tội “Giao cấu

với trẻ em“ xử phạt 3 năm tù giam cho hưởng án treo.

Đây là một trong số các vụ án điển hình cho thấy các vụ án về xâm phạm tình

dục trẻ em ở miền Tây Nam Bộ. Đa số người dân ở nông thôn với tâm lý lo ngại khi

phải tiếp xúc các vấn đề liên quan đến pháp luật, thưa kiện do đó gia đình có xu

hướng thỏa hiệp cho nạn nhân và người phạm tội lấy nhau và coi đó như là phương

thức giải quyết tốt nhất cho cả hai bên, giữ danh dự cho nạn nhân và gia đình cũng

như che giấu hành vi phạm tội. Với tư tưởng này đã dẫn tới những hệ lụy không nhỏ

cho xã hội, hành vi phạm tội không được pháp luật xử lý, con cái có cuộc hôn nhân

không hạnh phúc, phải sống với người xâm phạm tình dục hoặc dùng tiền thỏa hiệp

cho hành vi phạm tội.

Th ba, Một bộ phận người dân ở miền Tây Nam Bộ có tư tưởng thích con cái

lấy chồng nước ngoài, đi lao động nước ngoài hoặc đến các trung tâm thành phố lớn

sinh sống đây được coi là một trong các tiêu chí của gia đình muốn thay đổi thoát

nghèo. Theo thống kê của Bộ Công An trong 10 năm (tính đến năm 2018), riêng

khu vực miền Tây Nam Bộ có 70.000 phụ nữ lấy chồng nước ngoài, chiếm tỷ lệ

79% tổng số phụ nữ Việt Nam lấy chồng người nước ngoài và chủ yếu vì mục đích

kinh tế. Trong đó, Cần Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Hậu Giang là

những điểm nóng của tình trạng này. Sự mất cân đối về giới tính ở một số khu vực

đã dẫn đến thực trạng người nam khó lấy vợ dù đã đến tuổi kết hôn. Sự mất cân đối

về giới tính cũng gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội trong đó có các tội

về XPTDTE. Ngoài ra tâm lý của các bé gái mới lớn thích lấy chồng nước ngoài

nên có lối sống khá thoải mái, thích vui chơi không thích làm công việc đồng áng,

83

nặng nhọc, không quan tâm đến học hành, yêu đương khi tuổi còn rất nhỏ. Nghiên

cứu 485 bản án về XPTDTE thì có đến 153 vụ án (chiếm 31,5%) nạn nhân có quan

hệ yêu đương với người phạm tội, hầu hết nạn nhân tự nguyện quan hệ tình dục.

3 2 1 4 Nguy n nh n v iều ki n xuất ph t từ những hạn ch về i trường gia

nh v giáo dục ở a b n iền T y Na Bộ

* Những nh hưởng c a Gia nh trong qu tr nh h nh th nh nh n c ch

Trong các yếu tố từ môi trường sống thì gia đình là yếu tố có ảnh hưởng lớn

nhất đến việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân trong thời kì thơ ấu. Nghiên

cứu về hoàn cảnh gia đình của người phạm tội cho thấy trong 500 bị cáo/485 vụ án

thì có 87 bị cáo (chiếm 17,4%) có cha mẹ ly hôn; 54 bị cáo (chiếm 10,8%) mất cha

hoặc mẹ; 35 bị cáo (chiếm 7%) mất cha mẹ, trẻ em mồ côi; 85 bị cáo (chiếm 17%)

còn cha mẹ. Điều này cho thấy môi trường gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến việc

hình thành nhân cách người phạm tội. Kể từ khi mới sinh ra gia đình là môi trường

đầu tiên mà những đứa trẻ sinh sống, nhận thức của chúng mới bước đầu dần được

hình thành, do đó, những đứa trẻ sẽ học hỏi, bắt chước những hành vi của những

người xung quanh nó, bao gồm cả những hành vi tốt hay không tốt. Thông thường,

quá trình học hỏi, bắt chước hành vi xấu của trẻ diễn ra nhanh hơn, dễ dàng hơn so

với bắt chước hành vi tốt. Càng lớn, đứa trẻ càng khao khát khám phá thế giới xung

quanh, vì vậy quá trình nhận thức cũng như học hỏi, bắt chước dần dần mở rộng

phạm vi không còn dừng lại ở các thành viên trong gia đình nữa mà bắt đầu vươn ra

thế giới bên ngoài, tuy nhiên nhận thức, lối sống của trẻ vẫn mang dấu ấn của việc

ảnh hưởng từ các thành viên trong gia đình. Do đó, nếu như đứa trẻ sống trong môi

trường gia đình đẩy đủ cha mẹ, luôn chú trọng vào giáo dục nhân cách cho trẻ,

hướng trẻ sống thiện, trung thực, nhân hậu, vươn lên trong học tập, công việc thì sẽ

hạn chế hiệu quả việc hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân. Ngược lại, sống

trong môi trường gia đình không an toàn, không lành mạnh thì có thể tác động, ảnh

hưởng, dẫn đến việc hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân. Rất nhiều gia đình

cha, mẹ không gương mẫu trong lối sống có hành vi phạm tội, sa đà vào tệ nạn xã

hội như nghiện hút, cờ bạc, mại dâm hoặc có lối sống quá thực dụng chỉ biết coi

trọng đồng tiền mà coi nhẹ giá trị đạo đức; hoặc đứa trẻ lớn lên trong gia đình mà

bạo lực gia đình luôn tồn tại….

84

Ở miền Tây Nam Bộ trẻ em ở các gia đình nghèo phải lao động ở độ tuổi còn rất

nhỏ, dọc các tuyến đường ở miền Tây Nam Bộ có rất nhiều trẻ em (nam, nữ), người

già đi bán vé số hoặc đi ăn xin. Nhiều gia đình cho trẻ nhỏ đi bán vé số và coi đó là

thu nhập chính của gia đình, có những trường hợp trẻ không bán được hoặc không

xin được sẽ bị cha, mẹ đánh đập, không cho ăn hoặc không cho về nhà. Cũng từ

những hoàn cảnh đó trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục, hoặc bị xâm hại tình

dục nhưng cha mẹ không phát hiện, không quan tâm đầy đủ, một số gia đình trẻ em

sợ đòn roi của cha mẹ nhiều hơn cả hành vi bị xâm phạm tình dục. Sự suy thoái về

đạo đức đã hình thành lối sống thực dụng, ảnh hướng của văn hóa phẩm đồi trụy,

quan hệ gia đình có nhiều rạn nứt, không có sự yêu thương bảo bọc đó là nguyên

nhân trực tiếp của nhiều tội phạm, nhất là đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em.

Nghiên cứu cho thấy số lượng vụ án giữa nạn nhân và người phạm tội hoàn

toàn không quen biết chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ (5,2%). Số còn lại chiếm 94.8% vụ án

mà giữa người phạm tội với nạn nhân có sự quen biết, họ hàng, xóm làng, hoặc có

mối quan hệ huyết thống thực hiện hành vi phạm tội. Điều này cho thấy chính bởi

sự quen biết, thân thuộc đã làm cho chính nạn nhân, gia đình nạn nhân mất cảnh

giác, hầu như không có sự phòng ngừa tội phạm, do đó người phạm tội lợi dụng các

điều kiện thuận lợi dễ dàng thực hiện hành vi XPTDTE mà không bị phát hiện.

Ngoài ra, người phạm tội còn lợi dụng vào tình cảm của nạn nhân, những rung động

yêu đương của tuổi mới lớn để nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục của cá nhân.

Nghiên cứu trong 485 vụ án cho thấy có 91 vụ án (chiếm 18,7%) người phạm tội

dùng thủ đoạn cho tiền, quà bánh, quần áo, đồ chơi... để thực hiện hành vi phạm tội,

có 115 vụ án (chiếm 23,7%) người phạm tội lợi dụng quan hệ yêu đương , bạn bè,

quen biết qua mạng xã hội facebook, zalo, để thực hiện hành vi phạm tội và 47 vụ

(chiếm 9,7%) lợi dụng lối sống buông thả, lợi dụng vào việc nạn nhân say rượu bia

để thực hiện hành vi xâm phạm tình dục.

* Những nh hưởng từ gia nh khuy t thi u n vi c h nh th nh nh n c ch

Hiện tại một số gia đình ở nông thôn và thành thị có lối sống không chuẩn

mực, cha mẹ thường xuyên cãi vã, đánh đập nhau, cha hoặc mẹ có hành vi ngoại

tình dẫn đến ly hôn. Theo thống kê của Cục điều tra dân số cho thấy “Tỷ y

h n/Ly th n c a na giới ở vùng Đ ng Na Bộ v Đ ng bằng s ng Cửu Long cao

85

hơn c c vùng còn ại ộ tuổi y h n/ y th n cao nhất ở Đ ng Bằng s ng Cửu Long

là nhóm 20 – 24 tuổi” [93 tr104]. Tình trạng ly hôn/ ly thân diễn ra nhiều ở miền

Tây Nam Bộ do ảnh hưởng của tác động của việc di dân (phụ nữ đi tìm việc làm ở

các thành phố lớn, đi xuất khẩu lao động và đặc biệt có một số vùng ở Vĩnh Long,

Sóc Trăng, Trà Vinh, Tiền Giang có tỷ lệ nữ giới kết hôn với người nước ngoài rất

cao, bên cạnh đó còn có một số yếu tố đặc thù thuộc về đời sống và con người liên

quan đến tình trạng ly hôn, ly thân. Người Nam Bộ sống phóng khoáng nên họ

không cam chịu trước cuộc sống gò bó, hoặc môi trường sống khắc nghiệt từ đó dẫn

đến có những gia đình cha mẹ chỉ sống vì bản thân mình, vợ chồng bỏ mặc nhau

không quan tâm đến đời sống và con cái, từ những yếu tố trên đã ảnh hưởng rất lớn

đến con cái của họ. Trẻ em sinh ra và lớn lên không có đủ cha và mẹ, không được

yêu thương chăm sóc và dạy bảo đúng đắn. Hầu hết những đứa trẻ bất hạnh này

phải sống với ông bà hoặc với những người bà con, không có sự bảo bọc và quan

tâm đúng mức dễ bị tác động lây nhiễm thói hư thật xấu.

Điển hình như vụ án Trần Chấn P có hành vi giao cấu với em Trần Ngọc

Mai. Do quen biết nhau từ trước nên cả hai phát sinh quan hệ yêu đương trong

khoảng thời gian từ ngày 28/8/2016 đến 12/2016 bị cáo Phong đã 9 lần thực thiện

hành vi quan hệ tình dục với Mai ở nhiều địa điểm khác nhau. Các vụ án cho thấy

hành vi giao cấu tuy có sự đồng thuận của nạn nhân nhưng với độ tuổi còn nhỏ, tâm

lý yêu đương sớm, nạn nhân mồi côi mẹ từ khi lên 6 tuổi nếu thiếu đi tình thương

và dạy dỗ của cha mẹ. Nhìn chung, một số nạn nhân bị xâm hại tình dục thường

sống trong gia đình có cơ cấu không hoàn thiện như mồi côi cha mẹ, cha mẹ ly hôn

hoặc đời sống vật chất không được đảm bảo, dễ bị dụ dỗ về vật chất và ít được sự

quan tâm chăm sóc của cha mẹ

* Những nh hưởng từ gia nh thi u quan t v gi o dục ạo c cho con c i

Đứng trước những thay đổi của đời sống xã hội, cha mẹ thường xuyên dành

nhiều thời gian cho công việc đồng áng, công việc ở cơ quan, công việc khác nhằm

đảm bảo cuộc sống vì thế cha mẹ ít có thời gian chăm sóc trò chuyện với con cái,

phó mặc việc chăm sóc, giáo dục con cái cho trường học, hoặc tự con cái chăm sóc

lẫn nhau, cha mẹ không nắm được tâm tư, suy nghĩ cũng như những vướng mắc

thầm kín mà trường học không thể nào chia sẻ hoặc bản thân trẻ không thể nào hiểu

86

hết được. . Nghiên cứu cho thấy trong 485 vụ án xâm phạm tình dục trẻ em, có 175

vụ án xảy ra ở tại nhà nạn nhân (chiếm 36,1%), 96 vụ án xảy ra tại nhà bị cáo

(chiếm 19,7%); 60 vụ án xảy ra ở những khu vực gần nhà như đầm nước, chòi canh

tôm, khu vực mương nước, vườn cây, cồn cát, bãi biển, khu vực cách xa nhà và

đường xá (chiếm 12,4%); Điều này cho thấy trẻ em có thể bị xâm hại tình dục tại

chính nơi cư trú của mình. Ở các vùng nông thôn kinh tế khó khăn cùng với việc

việc sinh con đông, hầu như thời gian cha mẹ chỉ lao động kiếm sống phó mặc con

cái tự chăm sóc lẫn nhau, đứa lớn chăm sóc đứa nhỏ, đứa nhỏ chăm sóc đứa nhỏ

hơn. Ở khu vực nông thôn có những ngôi nhà được xây dựng tạm bợ, có một số địa

bàn như Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Vĩnh Long, khu vực sinh sống của đồng

bào dân tộc Khơme, dân tộc Chăm không đảm bảo sự kiên cố, cũng như thói quen

để con cái ở nhà khi cha mẹ đi làm không có người lớn trong coi bảo vệ, đây cũng

là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em dễ bị lạm dụng tình dục hầu hết ở tại nhà

của chính mình. Ở vùng thành thị cha và (hoặc) mẹ quá nuông chiều hoặc Cha, mẹ

buông lỏng việc giáo dục con cái, để mặc con cái phát triển tự nhiên hoặc phó thách

việc giáo dục trẻ con cho nhà trưởng và xã hội. Khi phát hiện trẻ có những biểu hiện

sai trái đã không uốn nắn kịp thời mà vẫn thờ ơ, không quan tâm, thậm chí còn

dung túng. Sự quá nuông chiều, thỏa mãn mọi nhu cầu con cái của bố mẹ sẽ tạo nên

thói quen đòi gì được nấy. Bên cạnh sự nuông chiều, cha mẹ bao bọc mọi việc khiến

con trẻ hình thành tính ỷ lại, dựa dẫm, sống ích kỷ, lười nhác, không ý thức về trách

nhiệm, luôn đòi hỏi được phục vụ, được hưởng thụ. Đến một lúc nào đó, khi gia

đình không thỏa mãn những yêu sách hoặc không có điều kiện phục vụ thì con cái

trở nên bất mãn, thậm chí thù ghét bố mẹ, nhân cách trẻ bị lệch lạc trong lối sống

ích kỷ và chỉ chú trọng lợi ích của bản thân sẵn sàng xâm hại lợi ích người khác để

phục vụ cho nhu cầu của bản thân mình

* Những hạn ch c a Nh trường trong vi c gi o dục phẩ chất ạo c i

s ng v qu n ý học sinh

Tây Nam Bộ tuy có một lực lượng dân cư có trình độ học vấn tương đối cao,

nhưng bên cạnh đó một bộ phận lớn dân cư, đặc biệt là đối tượng người lao động

nghèo ở các vùng nông thôn lại có trình độ học vấn và hiểu biết tương đối thấp. Sự

phát triển dân trí không đồng đều ở các khu vực cũng dẫn đến nhiều hệ lụy trong đó

87

có cả tệ nạn xã hội và tội phạm phát sinh. Hội nghị “Ph t triển gi o dục v o tạo

vùng ng bằng s ng Cửu Long n nă 2010 v nh hướng n nă 2020” được tổ

chức tại Cần Thơ đã đưa ra những kết luận như sau: Đây là vùng xếp ở vị trí cuối bảng

về tỷ lệ học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông trên 1.000 người dân và thấp

hơn nhiều so với bình quân cả nước; mạng lưới trường lớp còn thiếu và chưa hợp lý; số

lượng các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề quá ít; đội ngũ

giáo viên, cán bộ quản lý còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng... Giáo dục - đào tạo

vùng đồng bằng sông Cửu Long đã tụt hậu 05 năm so với mặt bằng chung của cả nước

và ít nhất 10 năm so với vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ; quy mô giáo

dục - đào tạo chưa tương xứng với tầm vóc và vị trí chiến lược của vùng.

Nghiên cứu trong 500 bị cáo phạm các tội XPTDTE thì có đến 336 bị cáo là

người không biết chữ hoặc có trình độ tiểu học (chiếm 67,2%). Điều này cho thấy

người phạm các tội XPTDTE không có điều kiện để tiếp xúc với các loại hình giáo

dục, sinh sống ở khu vực nông thôn, nhận thức và hiểu biết của họ về các vấn đề xã

hội và đặc biệt về pháp luật không rõ ràng. Chính từ nguyên nhân này dẫn đến sự

hạn chế về mặt hiểu biết pháp luật. Nạn nhân của các tội xâm phạm tình dục trẻ em

thường là con em của gia đình có hoàn cảnh khó khăn và không được chăm sóc hay

giáo dục đầy đủ. Sự im lặng của nạn nhân trước hành vi phạm tội cũng làm gia tăng

mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội xâm hại tình dục trẻ em. Xét về vai trò của

nhà trường ta thấy, nhà trường chỉ quan tâm đến việc giáo dục kiến thức cho trẻ em,

còn vấn đề đạo đức, các kỹ năng sống cần thiết thường ít được chú ý. Nhà trường cũng

không tạo được sự gắn kết chặt chẽ với gia đình để thực hiện tốt các chức năng quản lý

giờ giấc sinh hoạt và học tập của học sinh. Vấn đề giáo dục giới tính ở địa bàn miền

Tây Nam Bộ chưa được quan tâm và chú trọng đúng mức.

3.2 1 5 Nguy n nh n v iều ki n xuất ph t từ những hạn ch trong hoạt ộng qu n

ý nh nước về an ninh tr t t an to n xã hội ở iền T y Na Bộ

Những hạn chế trong quản lý nhà nước về trật tự xã hội, kiểm soát tình hình trị

an khu vực còn nhiều sơ hở, một số hoạt động còn nhiều yếu kém, buông lỏng quản

lý đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình các tội XPTDTE có chiều

hướng ngày càng gia tăng, cụ thể:

88

Miền Tây Nam Bộ đang trên đà phát triển mạnh, một số tỉnh thành xây dựng

nhà máy, khu công nghiệp với lượng công nhân lao động tăng, thu hút nguồn lao

động ở các địa phương khác, nhiều cảng biển được mở rộng ở các tỉnh Cà Mau, Bạc

Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh ... với qui mô lớn thu hút nhiều tàu bè,

người dân từ nơi khác đến. Một số địa phương mở rộng tìm năng khai thác du lịch

biển, du lịch sinh thái, du lịch sông nước miệt vườn, du lịch tâm linh ... từ đó thu

hút rất lớn lượng du khách đến tham quan nghỉ ngơi. Tuy nhiên công tác quản lý

nhân khẩu về tạm trú, lưu trú còn rất nhiều lỏng lẽo, chưa có sự chặt chẽ, công tác

quản lý xã hội, quản lý con người, quản ký kinh doanh ở một số địa phương còn

nhiều hạn chế, không có sự đồng bộ ở các khu vực. Vì thế khi có tội phạm xảy ra cơ

quan chức năng còn lúng túng trong quá trình điều tra nghi phạm khi có hành vi

phạm tội xảy ra. Công tác nắm bắt tình hình trị an khu vực còn nhiều thiếu sót,

nhiều địa bàn cơ quan chức năng chưa quản lý được những khu vực trọng điểm của

tội phạm. Công tác quản lý trật tự tại các khu vực tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tội

phạm còn nhiều hạn chế. Hoạt động tuần tra trên các địa bàn trọng điểm của tội

phạm cần phải tiến hành thường xuyên.

Việc quản lý, nắm bắt đối tượng có nhân thân xấu, có tiền án tiền sự, thường

xuyên gây rối trật tự công công cần phải có phương pháp giám sát, giáo dục nhắc

nhở. Qua nghiên cứu cơ cấu đặc điểm pháp lý hình sự của người phạm các tội

XPTDTE cho thấy có 45/500 bị cáo có tiền án tiền sự (chiếm 9%); 27/500 bị cáo

tái phạm (chiếm 5.4%), 4/500 bị cáo (chiếm 0,8%) tái phạm nguy hiểm. (B ng biểu

2.24 – ph n phụ ục)

Một nguyên nhân khác nữa đó các cơ quan chức năng không kiểm soát các

thông tin, hình ảnh tiêu cực từ mạng xã hội, facebook, zalo, các trang báo điện tử.

Những clip sex, film sex, truyện tranh khiêu dâm dễ dàng tìm thấy trên mạng

internet. Một bộ phận thanh thiếu niên hiện nay tiếp xúc sớm với các văn hóa phẩm

đồi trụy gây ảnh hưởng đến sự phát triển tâm sinh lý từ đó hình thành ý nghĩ lệch

lạc về tình dục và dẫn đến hành vi phạm tội XPTDTE. Nghiên cứu trong cơ cấu tình

hình các tội XPTDTE cho thấy có 84/500 bị cáo phạm các tội XPTDTE bị kích bởi

văn hóa phẩm đồi trụy. (b ng biểu 2 25 – ph n phụ ục)

89

Hạn chế trong công tác tuyên truyền, giáo dục: việc tuyên truyền, giáo dục

pháp luật trong cộng đồng xã hội rất là qua trọng, góp phần tác động rất lớn đến tâm

lý của người thực hiện phạm tội. Việc tuyên truyền cộng đồng có thể thực hiện dưới

rất nhiều hình thức như: băng rôn, biểu ngữ, tuyên truyền trên loa phát thanh của địa

phương, hay hiện nay rộng rãi nhất là trên các trang mạng xã hội. Hiện tại công tác

tuyên truyền về vấn nạn xâm phạm tình dục trẻ em có phần trọng rãi thực hiện trong

phạm vi cả nước, các chương trình về đời sống xã hội, về giáo dục, về tư vấn pháp

luật đều thể hiện tốt công tác tuyên truyền, đã có những chuyển biến tích cực của

người dân về phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Tuy nhiên, tâm lý chủ

quan của đại da số người dân cũng còn rất cao trong khi các tội XPTDTE phần lớn

người phạm tội có quen biết với nạn nhân, có mối quan hệ gần gũi hoặc có quan hệ

huyết thống, quan hệ bà con (chiếm 94,6%) các vụ án XPTDTE trên địa bàn miền

Tây Nam Bộ. Mặc khác trong những đợt tuyên tuyền, giáo dục pháp luật đang ở

những đợt cao điểm thì mức cảnh giác của người dân cũng tăng cao. Nhưng khi

chiến dịch tuyên truyền kết thúc hoặc một số nơi không thực hiện thường xuyên thì

sự cảnh giác của người dân cũng giảm tình trạng xâm hại tình dục trẻ em lại tiếp tục

diễn ra, thế nên công tác tuyên truyền không phải không đem lại những hiệu quả

tích cực mà cần thực hiện một cách nghiêm chỉnh và duy trì thường xuyên, không

chỉ tập trung ở thành thị mà ở cả những khu vực nông thôn.

3 2 1 6 Nguy n nh n v iều ki n xuất ph t từ những hạn ch trong hoạt ộng

phòng ngừa c c tội x phạ t nh dục trẻ e tr n a b n iền T y Na Bộ

Trong công tác đấu tranh phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em của

các tỉnh miền Tây Nam Bộ đã có nhiều chương trình phòng, chống tội phạm nhưng

có rất ít chương trình do địa phương chủ động khởi xướng mà hầu hết các chương

trình này chỉ được bắt đầu thực hiện khi có sự chỉ đạo của của các cơ quan cấp trên.

Một số địa phương thường tập trung vào tuần lễ phòng ngừa tội phạm hay tháng

phòng ngừa tội phạm mà không tổ chức công tác phòng ngừa đều đặn, thường

xuyên mặc dù biết tội xâm phạm tình dục trẻ em là hành vi hết sức nguy hiểm. Bên

cạnh đó, các chương trình này vẫn còn mang tính phong trào, thời vụ, không mang

tính thường xuyên xuất phát từ thực trạng của tình hình tội phạm tại địa phương nên

hiệu quả của công tác phòng ngừa không cao. Thêm vào đó các chương trình phòng

90

chống tội phạm, nhất là công tác tuyên truyền pháp luật cho người dân thường được

tập trung nhiều ở vùng thành thị, vùng ven hơn là ở các vùng nông thôn hẻo lánh

nơi mà các tội xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra phổ biến. Các hình thức, biện pháp

chưa tiếp cận đầy đủ các đối tượng cần được tuyên truyền, giáo dục. Tài liệu tuyên

truyền giáo dục còn thiếu, nội dung và biện pháp tuyên truyền, giáo dục chưa sáng

tạo, khô cứng, thiếu sức thu hút, chưa tạo ra động lực mạnh mẽ để thay đổi nhận

thức, từ đó tác động tích cực đến hành vi của mỗi người. Công tác tuyên truyền,

giáo dục, vận động quần chúng nhân dân phòng chống xâm hại tình dục trẻ em cũng

có nhiều hạn chế, hiệu quả thấp và chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh.

Chưa tạo ra được các phong trào toàn dân lên án và đấu tranh với tệ nạn xâm hại

tình dục trẻ em ở mọi lúc mọi nơi. Vẫn còn nhiều quần chúng chưa được trang bị

những kiến thức cơ bản về đấu tranh phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em cũng

như trách nhiệm công dân trong cuộc đấu tranh. Điều này dẫn đến một bộ phận

nhân dân lao động do thiếu hiểu biết hoặc vì mưu sinh mà không biết mình đang tạo

điều kiện cho bọn tội phạm gây tội ác với đồng bào, con em mình. Ngoài ra, sau khi

thực hiện các công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật việc không thu hồi kết quả

thu nhận sự chuyển biến trong nhận thức của người dân nên không chủ động vạch

ra các chương trình phòng ngừa tội phạm tiếp theo được nữa. Đôi khi hoạt động

tuyên truyền, phòng ngừa tội phạm chưa phát huy hiệu quả mà còn có tác động tiêu

cực, ảnh hưởng đến tâm lý cộng đồng, nhất là gây tổn thương cho nạn nhân, gia

đình nạn nhân khi mà đưa ra những thông tin quá chi tiết, không cần thiết về tên

tuổi, địa chỉ của nạn nhân, những thiệt hại về thể chất của nạn nhân, tạo nên tâm lý

cân nhắc e dè trong cộng đồng khi muốn tố giác tội phạm, tạo điều kiện cho tội

phạm ẩn tồn tại. Đây là hạn chế đầu tiên trong công tác phòng ngừa tội phạm xâm

phạm tình dục trẻ em.

Hạn chế thứ hai của công tác phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em là

hạn chế về các điều kiện bảo đảm cho các hoạt động phòng ngừa tội phạm. Những

yếu kém trong đội ngũ cán bộ, chuyên viên trực tiếp hoạt động phòng ngừa tội

phạm như cán bộ thực hiện việc tuyên truyền, chuyên viên nghiên cứu chuyên sâu

về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm là một trong những nguyên nhân ảnh

hưởng đến hiệu quả của hoạt động phòng ngừa tội phạm. Do sự chưa quan tâm

91

đúng mức tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, công tác tác động vào nguyên

nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể, chưa đầu tư xây dựng lực lượng cán bộ

chuyên nghiệp mà cụ thể là không khuyến khích sự tham gia của những người có

trình độ chuyên môn cao, chưa có chế độ đãi ngộ phù hợp, không tạo được động lực

phấn đấu, trao dồi của đội ngũ này. Nhiều cán bộ chuyên trách việc tuyên truyền

chuyển sang làm công tác khác, số người mới thay thế còn thiếu và chưa thành thạo

được việc này, một số nơi còn gặp khó khăn trong việc triển khai kế hoạch. Bên

cạnh đó, sự thiếu thốn về cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động phòng ngừa tội

phạm và sự khó khăn trong kinh phí hỗ trợ hoạt động cho đội ngũ cán bộ, chuyên

viên cũng đã ảnh hưởng đến rất nhiều hiệu quả hoạt động của các chủ thể phòng

ngừa tội phạm trong thời gian qua. Ở một số địa phương các chương trình tuyên

truyền, giáo dục pháp luật, các hoạt động tư vấn, giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó

khăn, trẻ em có nguy cơ bị xâm hại tình dục trong thời gian qua chưa được thực

hiện chuyên sâu, thường xuyên và chỉ điển hình trong một số nơi và thiếu sự hỗ trợ

từ các phương tiện tuyên truyền, các hình thức tuyên truyền chay, báo cáo suông

còn xảy ra phổ biến tại. Các hoạt động tác động vào nguyên nhân và điều kiện của

tội phạm chỉ chủ yếu là các biện pháp tác động về tinh thần, chưa có đủ điều kiện về

vật chất giúp đỡ, hỗ trợ cho các em có hoàn cảnh khó khăn, đó là những đối tượng

có nguy cơ cao trở thành nạn nhân của tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em. Các

phương tiện thiết bị phục vụ cho hoạt động tuyên truyền cũng như hoạt động tố tụng

khi vụ án xảy ra như khám nghiệm hiện trường, giám định gen hiện đại , các thiết bị

xét nghiệm tinh trùng còn thiếu thốn lạc hậu, chưa đáp ứng được nhu cầu đấu tranh

phòng chống các tội xâm phạm tình dục. Bởi vì thiếu thốn kinh phí, cơ sở vật chất

mà các hoạt động nghiên cứu chuyên sâu, khảo sát thực tiễn tình hình tội phạm, tìm

hiểu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm chưa được tiến hành thường xuyên, chưa

được khảo sát trên thực tế mà chỉ là các kết quả nghiên cứu trong báo cáo hay các bài

viết đơn lẻ trên các bài báo, tạp chí, một vài đề tài của từng ngành chưa tạo thành hệ

thống thống nhất cho các chủ thể vận dụng vào hoạt động phòng ngừa tội phạm.

Hạn chế cuối cùng là những hạn chế trong việc hợp tác quốc tế về phòng ngừa

tội phạm liên quan đến các tội xâm phạm tình dục trẻ em.Yêu cầu hợp tác quốc tế

trong hoạt động phồng chống tội phạm là yêu cầu rất cần thiết với tình hình tội phạm

92

đang diễn biến phức tạp mang tính xuyên quốc gia như hiện nay. Tuy nhiên vẫn còn

những khó khăn, vướng mắc trong phối hợp phòng, chống tội phạm có yếu tố nước

ngoài, tội phạm xuyên quốc gia ở Việt Nam đặc việt là các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Các

tỉnh phía miền Tây Nam Bộ là địa bàn giáp ranh với Thái Lan, Campuchia, những nước

đang diễn biến phức tạp về tệ nạn mại dâm trẻ em nhưng chúng ta vẫn chưa có thỏa

thuận vấn đề này do sự khác biệt về chính sách hình sự, mối quan hệ đối ngoại còn nhiều

điểm chưa tương đồng nên nhiều yêu cầu về tương trợ hình sự và dẫn độ còn khó khăn,

hiệu quả chưa cao đã gây ra những khó khăn nhất định cho việc đấu tranh phòng chống

các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Trong khi đó lực lượng chuyên trách về phòng, chống

tội phạm xuyên quốc gia ở Việt Nam chưa thật sự được các ngành quan tâm chỉ đạo một

cách tổng thể từ Trung ương đến lực lượng chức năng ở các địa phương hoặc nếu có thì

việc tổ chức lực lượng chức năng ở địa phương chưa thống nhất, còn chồng chéo, chưa

đáp ứng được yêu cầu thực tế. Hơn nữa kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm trong

hợp tác quốc tế, hiểu biết về pháp luật quốc tế, kiến thức ngoại ngữ và kỹ năng sử

dụng các loại phương tiện kỹ thuật hiện đại cùng với việc trang bị các phương tiện

kỹ thuật hiện đại phục vụ yêu cầu về hoạt động phòng, chống tội phạm mới nhất là

những tội phạm liên quan mật thiết với hành vi mua bán, mại dâm trẻ em của lực

lượng thực thi pháp luật nói chung còn hạn chế. Có thế thấy rằng những hạn chế

trong hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm tình trẻ em ở các tỉnh miền Tây Nam

Bộ cũng chính là những hạn chế chung đang gặp phải ở cả nước Việt Nam. Những

hạn chế này bắt nguồn từ những khó khăn trong đời sống xã hội và nhận thức chưa

đầy đủ về công tác phòng ngừa tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em.

3 2 1 7 Nguy n nh n v iều ki n xuất ph t từ những hạn ch trong chính sách

ph p u t v hoạt ộng th c thi ph p u t c a c c cơ quan ti n h nh t tụng v

người ti n h nh t tụng

Các yếu tố hạn chế trong chính sách pháp luật: Pháp luật là cơ sở pháp lý để

điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh, để đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Pháp

luật giúp các cơ quan chức năng duy trì trật tự xã hội, cân bằng quyền và lợi ích của

các chủ thể trong xã hội. Vì thế pháp luật là công cụ để bình ổn và duy trì trật tự xã

hội, nếu pháp luật bị thiếu sót, hạn chế hoặc không bao quát đến các quan hệ xã hội

cần điều chỉnh thì con người càng có nguy cơ bị xâm hại. Trong phạm vi nghiên

93

cứu, luận án đề cập đến các quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm

tình dục trẻ em để hướng kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng trong thực tiễn thời

gian tới. Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017), các tội xâm phạm tình dục

người dưới 16 tuổi tuy chưa được khái niệm cụ thể nhưng có thể hiểu là “những

hành vi nguy hiểm cho xã hội ư c quy nh tại Chương XIV Bộ Lu t Hình s 2015

sửa ổi bổ sung nă 2017 (sau y gọi tắt là Bộ Lu t Hình s 2015) do người có

năng c trách nhi m hình s th c hi n một cách c ý xâm phạ n quyền bất kh

xâm phạm về tình dục, xâm phạ n s phát triển b nh thường về thể chất, hoặc

xâm phạ n s c khỏe, danh d , nhân phẩm c a người chưa 16 tuổi” Bộ luật

Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) quy định các tội xâm phạm tình dục trong đó

có đối tượng là người dưới 16 tuổi bao gồm: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều

142), Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), Tội giao cấu

hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16

tuổi (Điều 145), Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), Tội sử dụng

người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm. Pháp luật hình sự Việt Nam dựa vào

độ tuổi của nạn nhân để phân định mức độ bảo vệ. Nạn nhân có độ tuổi khác nhau

thì mức độ bảo vệ của pháp luật hình sự cũng khác nhau. Bộ luật hình sự chia độ

tuổi nạn nhân thành 3 mức độ chính: người từ đủ 16 tuổi, người từ đủ 13 đến dưới

16 tuổi và người dưới 13 tuổi (qui định chung trong các điều luật áp dụng cho nạn

nhân là người dưới 16 tuổi). Những quy định của pháp luật về các tội XPTDTE khi

áp dụng còn nhiều quan điểm, đường lối xử lý chưa thống nhất, cách hiểu còn tùy

nghi, cách tiếp cận các quy định pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền còn nhiều

khác biệt. Điều này dẫn đến việc áp dụng pháp luật vào thực tế không thể hiện được

hết mức độ tương xứng giữa chế tài áp dụng với tính chất, mức độ nguy hiểm hay

hậu quả mà người phạm tội gây ra, chưa thể hiện đầy đủ tính nghiêm minh của pháp

luật. Đó cũng là một trong những nguyên nhân, điều kiện làm cho tình hình các tội

XPTDTE gia tăng. Những bất cập trong quy định pháp luật hình sự về các tội

XPTDTE có thể được hiểu như sau:

Th nhất, Nhiều quốc gia trên thế giới cũng như Công ước về quyền trẻ em

xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi, trong khi đó pháp luật Hình sự Việt Nam thì trẻ

em là người dưới 16 tuổi. Vấn đề này cần được cân nhắc để có chính sách phù hợp

94

trong tiến trình hội nhập quốc tế. Các văn bản pháp luật, các chính sách hình sự liên

quan đến nhóm tội này cần phải xác định chuẩn xác theo thuật ngữ “người dưới 16

tuổi” theo quy định mới của Luật Hình sự thay cho thuật ngữ “trẻ e ” như trước đây.

Th hai cần phải thống nhất cách hiểu về hành vi “giao cấu” và hành vi

“quan h t nh dục kh c” theo quy định của Luật Hình sự sửa đổi bổ sung 2017.

Hành vi “giao cấu” được hiểu theo nghĩa truyền thống là hành vi “cọ s t tr c ti p

dương v t v o bộ ph n sinh dục c a người phụ nữ (bộ ph n từ i ớn trở v o) với

ý th c nhấn v o trong kh ng kể s x nh p c a dương v t s u hay cạn kh ng

kể c xuất tinh hay kh ng là Tội hi p d ư c coi là hoàn th nh v khi nh n

phẩm danh d c a người phụ nữ ã b ch ạp” [20]. Còn thuật ngữ “hành vi quan

h tình dục khác” được quy định trong Bộ luật Hình sự” [40]. Vậy hành vi trình

diễn khiêu dâm theo quan điểm của tác giả có thể hiểu là “hành vi trình diễn những

ộng tác, những cử chỉ, những âm thanh mang tính khích thích về tình dục hoặc ng

phim với những hành vi, những biểu c m gây khích thích về tình dục”. Thế nên pháp

luật hình sự cần phải mô tả thế nào là hành vi “trình diễn khiêu dâm” Để việc vận dụng

quy định vào thực tế được thống nhất theo đúng tinh thần của pháp luật.

Th tư thực tiễn cho thấy chủ thể của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

thường chủ yếu là nam giới. Đa số các vụ án hình sự về tội phạm này chủ yếu diễn

ra ở nam giới. Nam giới đóng vai trò là người thực hành. Vai trò nữ giới trong tội

phạm này thường mang yếu tố đồng phạm. Tuy nhiên trẻ em là nam giới hiện nay

cũng là đối tượng có nguy cơ bị xâm hại tình dục bằng nhiều hình thức và thủ đoạn

khác nhau, nhưng thực tiễn qui định của pháp luật lại chưa bảo vệ đối tượng này

một cách có hiệu quả. Pháp luật hình sự cần phải mở rộng giới hạn phạm vi chủ thể

của điều luật này theo hướng “ch thể c a tội hi p d người dưới 16 tuổi không

ph i là ch thể ặc bi t” Điển hình như vụ: Phan Minh Sang (sinh năm 1985) và

Phạm Thanh Lý (sinh năm 1982) ngày 02/12/2012 sau khi cùng gia đình và người

thân uống rượu tại quán Lan, đường Đinh Tiên Hoàng, quận Ninh Kiều, TP. Cần

Thơ. Lúc ra về Nguyễn Thế Trường (sinh năm 1988) xin đi nhờ xe. Sang và Lý

không chở Trường về nhà mà chạy xe vào hẻm vắng Sang dừng xe cho Lý và

Trường đi bộ. Tại đây Lý thực hiện hành vi dùng tay và miệng kích thích bộ phận

sinh dục của Trường, thấy vậy Sang cũng dùng tay và miệng kích thích bộ phận

95

sinh dục của Trường, rồi cả hai cùng đè và cởi quần Trường và thực hiện quan hệ

qua đường hậu môn. Trong khi đang thực hiện hành vi thì Trường có điện thoại, sau

khi thực hiện xong hành vi, Sang và Lý đưa Trường về nhà. Nạn nhân tường thuận

lại với gia đình và trình báo cơ quan công an. Tại phiên tòa cả hai cùng thừa nhận

hành vi của mình. Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ tuyên bố

Phan Minh Sang và Phạm Thanh Lý phạm tội “Dâm ô đối với trẻ em” xử phạt Phan

Minh Sang 06 tháng tù cho hưởng án treo, Phạm Thanh Lý 01 năm tù cho hưởng án

treo. Có thể thấy mức hình phạt còn khá nhẹ so với hành vi phạm tội của các bị cáo

và mặc dù bị xâm phạm tình dục cũng ảnh hưởng đến sức khỏe, danh dự, nhưng

hành vi xâm hại trên chưa được xử lý đích đáng.

Cho đến nay Việt Nam đã có một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ với 22

văn bản luật khác nhau quy định về các vấn đề liên quan đến quyền trẻ em bao gồm:

Luật Hình Sự, Luật lao động, Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật giáo

dục tiểu học... các văn pháp pháp luật này là cơ sở để thực hiện và bảo vệ quyền trẻ

em trên mọi lĩnh vực, tuy nhiên thực tiễn cho thấy việc áp dụng các văn bản pháp

luật vẫn còn rất nhiều vướng mắc, gây ảnh hưởng không nhỏ cho công tác đấu tranh

phòng ngừa tội phạm trong đó có các tội xâm phạm tình dục trẻ em.

Các yếu tố hạn chế trong hoạt động thực thi pháp luật của các cơ quan tiến

hành tố tụng và người tiến hành tố tụng: Cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Lực

lượng Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân. Bên cạnh mặt tích cực quan tiến

hành tố tụng trong phòng ngừa tội phạm cũng tiềm ẩn nhiều nguyên nhân tác động

đến quá trình hình thành nhân thân tiêu cực phát sinh tội phạm nói chung và tội

phạm xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng, điển hình như: Sự yếu kém của cán bộ tư

pháp dẫn đến không xác định đúng người đúng tội, bỏ lọt tội phạm, không có sự răn

đe đối với người phạm tội; tham mưu ban hành các chế độ, chính sách pháp luật

không phù hợp; nhiều bản án có mức hình phạt chưa tương xứng với tính chất và

mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm tình dục trẻ em do người phạm tội gây ra;

do sự tha hóa về phẩm chất đạo đức, sự nể nang, bao che của một bộ phận cán bộ làm

việc trong ngành đã làm sai lệch sự việc, một số vụ án áp dụng hình phạt dưới khung

hoặc xử án treo… những sự việc như trên đã vô tình tiếp tay cho các đối tượng tiếp

tục phạm tội, coi thường kỷ cương pháp luật, làm cho lòng tin của quần chúng nhân

96

dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật bị giảm sút.

Bên cạnh những hạn chế nêu trên thì việc phối hợp giữa Tòa án các cấp với Cơ

quan điều tra với Viên kiểm sát cũng còn nhiều bất cập, nhiều vụ án do không được

phối hợp kịp thời nên những khúc mắc trong tố tụng không được giải quyết kịp thời

dẫn đến vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung làm cho vụ án bị kéo dài, ảnh hưởng

đến quá trình giải quyết vụ án. góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm nói

chung và tội tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng chưa được phối hợp tổ

chức thường xuyên. Công tác thống kê, phân tích số liệu nhằm rút ra những nguyên

nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống các

biện pháp phòng ngừa chưa được khoa học, nhận thức về tầm quan trọng của công

tác này chưa đầy đủ. Những hạn chế, thiết sót trên là một trong những nguyên nhân

và điều kiện của tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em.

3.2.2 Nguyên nhân và điều kiện thuộc về người phạm các tội xâm phạm

tình dục trẻ em

Tội phạm học Mác xít khẳng định: “Nh n th n con người s th ng nhất

giữa c c ặc t nh xã hội v ặc t nh sinh học trong ặc t nh xã hội c ý nghĩa

quy t nh” [183] những đặc điểm sinh học cũng góp phần không nhỏ trong việc

hình thành nên nhân thân của tội phạm. Nó thể hiện ở tính cách người phạm tội ví

dụ như: bản tính nóng nảy, hạn chế trí tuệ, …

3 2 2 1 Những biểu hi n thuộc về nh n th n người phạ tội nh hưởng n

nguy n nh n v iều ki n ph t sinh t nh h nh c c tội XPTDTE

+ Đặc iể sinh học c a người phạ tội: những đặc điểm sinh học của người

phạm tội như giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp ... Qua nghiên cứu các bị cáo phạm các

tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 : Hầu hết chủ thể

phạm các tội về xâm phạm tình dục trẻ em là nam giới, trong một số trường hợp nữ

giới cũng phạm các tội này nhưng chiếm con số rất ít. Xác định giới tính người

phạm tội cho chúng ta thấy tính chất, mức độ, đặc điểm tội phạm theo từng giới.

Theo số liệu thống kê hình sự, ở nước ta cũng như ở các nước khác trên thế nữ giới

phạm tội ít hơn nam giới. Ở khu vực miền Tây Nam Bộ trong số 500 bị cáo bị xét

xử về các tội xâm phạm tình dục với 485 bản án thì có 499 bị cáo phạm vào nhóm

97

tội này là nam giới và 1 bị cáo là nữ giới bị tuyên án hiếp dâm trẻ em với vai trò

đồng phạm

Về giới t nh:Việc nam giới phạm tội nhiều hơn nữ giới không phải do đặc

điểm sinh lý của nam giới khác với nữ giới, mà là do những điều kiện hình thành

phẩm chất cá nhân và sự thay đổi của môi trường sống, sự hội nhập của thế giới và

việc mở rộng nền công nghệ thông tin, nam giới dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tiêu

cực từ môi trường sống đó, việc hình thành thói hư tật xấu, tiêm nhiễm tệ nạn xã hội

và dễ hình thành phẩm chất cá nhân tiêu cực, trạng thái tâm lý lệch lạc hơn với các

giá trị truyền thống. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, tỉ lệ các tội phạm do nữ

giới thực hiện ngày càng đa dạng hơn, trong đó có hành vi các phạm tội xâm hại

tình dục trẻ em. Giải thích sự thay đổi của tội phạm do nữ giới thực hiện một phần

do sự tác động từ các yếu tố tiêu cực của môi trường sống và một phần sự thay đổi

tâm sinh lý của tuổi mới lớn, chưa có sự hướng dẫn đúng đắn từ phía gia đình, dẫn

đến sự lệch lạc từ trong nhận thức và thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi phạm tội.

Về ộ tuổi: Trong bảng 2.18 chương 2 cho thấy lứa tuổi phạm các tội

XPTDTE trong độ tuổi từ 18 – 30 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất 45,83%, tiếp theo là

người phạm tội trong độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi chiếm 27%, đứng thứ ba là

người phạm tội trong độ tuổi từ trên 30 tuổi đến 45 tuổi chiếm 21% và người phạm

tội trong độ tuổi trên 45 đến 70 tuổi chiếm 5,5% và ít nhất là độ tuổi 70 trở lên

chiếm 0,8%.Sự khác nhau của các yếu tố trong cơ cấu tội phạm là do những người

phạm tội ở độ tuổi khác nhau thực hiện sẽ có sự ảnh hưởng nhất định trong quá

trình xã hội hóa con người, sự hình thành nhân cách trong từng giai đoạn phát triển

của mỗi cá nhân. Đối với lứa tuổi khác nhau thì cơ cấu tội phạm được thực hiện

cũng khác nhau. Chẳng hạn, người chưa thành niên (từ 14 - 18 tuổi) với độ tuổi mới

lớn, tâm lý đang trong giai đoạn phát triển, muốn tìm hiểu về giới tính, muốn khẳng

định bản thân trưởng thành, ham muốn tình dục nảy sinh khi có yếu tố kích thích tác

động như (phim sex, truyện sex, tranh ảnh khiêu dâm..). Tội phạm có tuổi đời càng

trẻ thì mức độ của tội phạm càng cao sự tác động tiêu cực cho xã hội càng lớn. Thế

hệ trẻ là nền tảng phát triển của xã hội nếu nền tảng này thiếu ổn định các giá trị đạo

đức bị suy đồi, các chuẩn mực đạo đức trong xã hội sẽ bị xem nhẹ thì dẫn đến xã

hội thiếu bền chặt và khó phát triển. Người thành niên từ 18 - 30 tuổi, ở độ tuổi này

98

tâm sinh lý phát triển tương đối hoàn thiện, nhu cầu về tình dục và ham muốn tình

dục khá cao, đây là độ tuổi thích hợp để lập gia đình, có thể thấy nhu cầu tình dục

cũng gắn liền với cuộc sống của tuổi trưởng thành. Tuy nhiên, về tâm lý ở độ tuổi

này còn chưa chắn, kinh nghiệm sống chưa cao, yêu vội sống vội nhưng dễ thay

đổi, dễ bị kích thích do bị tác động của ngoại cảnh, ham muốn tình dục cao trong

khi bản thân thiếu dự kiểm soát. Chính những đặc điểm tâm sinh lý nêu trên làm

cho cá nhân trở nên dễ bị tác động thiếu khả năng kiềm chế và kiểm soát hành vi

trước những tác động từ đó đễ hình thành hành vi phạm tội. Ở độ tuổi càng cao trên

45 tuổi thì tỉ lệ phạm các tội XPTDTE có tỉ lệ thấp hơn vì ở độ tuổi này với những

thành quả đạt được trong sự nghiệp, địa vị trong xã hội, cuộc sống gia đình con cái,

sự chín chắn trong hành vi, các cá nhân lựa chọn cách thức xử sự đúng đắn hơn vì

thế ở độ tuổi này hành vi phạm tội cũng có phần ít hơn.

Về tr nh ộ văn h a v nghề nghi p: Trong bảng biểu 2.19 và 2.20 chương 2

cho thấy cơ cấu về trình độ văn hóa và nghề nghiệp của người phạm tội cho thấy

người phạm các tội XPDTE chủ yếu là người không biết chữ hoặc có trình độ tiểu

học (chiếm 67,2%), không nghề nghiệp hoặc làm nghề tự do (chiếm 51%). Phần lớn

các đối tượng phạm tội ở độ tuổi lao động, có mối quan hệ xã hội, nghề nghiệp chủ

yếu là nghề tự do hoặc không có nghề nghiệp, không có sự ổn định về kinh tế, thời

gian rảnh rỗi nhiều. Thông thường khi trình độ văn hóa thấp thì sẽ khó kiếm được

một công việc ổn định và có thu nhập ổn định. Không có tay nghề, chuyên môn thì

rất khó tìm được một công việc với những ưu đãi cao, nhất là trong cơ chế thị

trường hiện nay. Khi đã không có nghề nghiệp thì không có vị trí trong xã hội trong

485 vụ án về XPTDTE thì có đến 311 vụ án (chiếm 64,1%) có thời gian gây án chủ

yếu vào ban ngày từ 6h – 16h. Đây là khoảng thời gian mà cha mẹ, người thân của

trẻ em bận rộn với công việc lao động hàng ngày nên không chú tâm việc quản lý và

chăm sóc con cái. Trong khi đối tượng phạm các tội này lại có thời gian rảnh rỗi,

không có việc làm ổn định lợi dụng điều kiện thuận lợi này để thực hiện hành vi

phạm tội. Nghề nghiệp cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến

việc hình thành, phát sinh ý định, hành vi phạm tội. Quá rãnh rỗi về mặt thời gian,

quen với lối sống chỉ biết hưởng thụ, lười lao động, lười học tập, tiếp thu văn hoá

không chọn lọc, tiếp xúc phim, ảnh, nhiều loại hình khiêu dâm khác,… từ đó sẽ ảnh

99

hưởng đến tâm sinh lý, ham muốn hình thành lỗi suy nghĩ, hành động tiêu cực. Tuy

nhiên, không phải ai không có việc làm ổn định về kinh tế, quá rãnh rỗi về mặt thời

gian cũng là đối tượng phạm tội, thực tế nghiên cứu cho thấy rằng tội phạm xâm

phạm tình dục trẻ em còn là những người có việc làm ổn định, kinh tế khá giả, thậm

chí còn có địa vị cao trong xã hội, có vốn hiểu biết sâu rộng và có nhận thức nhất

định về pháp luật hiện hành nhưng vì ích kỷ, muốn thoả mãn ham muốn của bản

thân, lợi ích của bản thân mà thực hiện hành vi đồi bại. Do đó trong công tác phòng

ngừa tội phạm cũng cần phải lưu ý đến các đối tượng này thực hiện có hiệu quả

công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật cho người dân về phòng ngừa các tội

XPTDTE.

Về t i phạ t i phạ nguy hiể : Qua kết quả nghiên cứu cơ cấu tình hình

các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ xét theo khía cạnh về tiền án, tiền

sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm cho thấy, mặc dù tỉ lệ tái phạm 5,4%, tái phạm

nguy hiểm là 0,85%, bị cáo phạm tội có tiền án, tiền sự 9,0% chiếm tỉ lệ khá thấp so

với bị cáo phạm tội lần đầu 84,8%,. Tuy nhiên, việc tái phạm, tái phạm nguy hiểm

hoặc bị cáo đã có tiền án, tiền sự thì việc thực hiện hành vi phạm các tội XPTDTE

tính chất nghiêm trọng hơn.

Ví dụ vụ án tiêu biểu: Bị cáo Nguyễn Chí C (sinh năm 1986) đã từng có hai

tiền án, lần 01: Ngày 20/6/2006 bị Tòa án nhân dân tình Vĩnh Long xử phạt 05 năm

tù về tội “Hiếp dâm trẻ em”; lần 02: Ngày 27/9/2011 bị Tòa án nhân dân huyện

Long Hồ xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo Nguyễn Chí C bị

Viện kiềm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long truy tố về hành vi phạm tội như sau: Ngày

30/10/2015 ông Tâm (cha của nạn nhân) đi vắng nên Nguyễn Thanh T (sinh năm

2004) ở nhà một mình, khoảng 23 giờ đêm cùng ngày Nguyễn Chí C đi đến dùng

tay đập mạnh vào cửa phòng ngủ làm T giật mình thức giấc, C vào phòng bật đèn,

kêu T cởi đồ do T hoảng sợ nên làm theo, C thực hiện hành vi giao cấu mặc cho T

kháng cự. Sau khi thực hiện xong hành vi C kêu T vào nhà tắm, khi bước vào nhà

tắm T đẩy C, làm C loạng choạng, lợi dụng lúc này T đã chạy đến quán của chị

Huỳnh Thị Chát gần đó kêu cứu. Sự việc sau đó bị quần chúng nhân dân phát hiện,

bắt giữ C và báo cho Cơ quan Công an để xử lý. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Chí C

không thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo cho rằng mình say rượu không nhớ gì và

100

cũng không thực hiện hành vi phạm tội. Xét theo lời khai của người bị hại người

thực hiện hành vi xâm hại nạn nhân có vết xâm rất nhiều hình và chữ ở hai bên đùi

và chỉ mặc một quần dài. Xét theo lời khai của người làm chứng Nguyễn Thị Ngọc

Nga thì chỉ có một mình bị cáo từ nơi nạn nhân ở bước ra định lên xe chạy nhưng bị

bắt lại, lúc đó bản thân bị cáo mặc quần chưa kịp kéo dây kéo và thắt lưng chưa gài.

Dựa vào biên bản giám định số 3434/C54B ngày 18/11/2015 của Phân viện khoa học

hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thu được một kiều gen nam giới không đầy đủ.

Căn cứ vào giám định pháp y số: 139/BKLPY ngày 4/11/2015 của Trung tâm pháp y

tình Vĩnh Long kết luận đối với Nguyễn Thanh Trúc: màng trinh rách ở vị trí 1 giờ, 4

giờ, 7 giờ. Với tính chất của vụ án đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của bị cáo nguy hiểm

cho xã hội, lợi dụng đêm khuya, cha mẹ nạn nhân vắng nhà, bị cáo xông vào nhà và

thực hiện hành vi phạm tội. Theo bản án số 06/2016/HSST ngày 21/4/2016 Tuyên bố

Nguyễn Chí C, phạm tội “Hiếp dâm trẻ em”, xử phạt bị cáo Nguyễn Chí Cường 15

năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 31/10/2015

Đối với tội phạm XPTDTE phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy

hiểm ảnh hưởng rất lớn đến mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Chẳng hạn như những người phạm tội XPTDTE lần đầu thì thường, có sự bộc phát

hành vi phạm tội phương thức thủ đoạn che dấu tội phạm sẽ không tinh vi hơn

những tội phạm đã tái phạm nhiều lần bởi vi họ đã có kinh nghiệm để đối phó với

cơ quan bảo vệ pháp luật, kinh nghiệm về xóa dấu vết phạm tội, đặc biệt là những

đối tượng có án tích về tội phạm XPTDTE nhưng vẫn tái phạm, những đối tượng

này sẽ gây khó khăn cho cơ quan CSĐT trong việc điều tra, khám phá với thủ đoạn

tinh vi này. Chính vì vậy, phân tích đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng đối với cơ

quan tư pháp trong việc xác định tỷ lệ tái phạm của tội phạm nói chung và nhóm tội

XPTDTE nói riêng để đánh giá được tổng thể tình hình nhân thân người phạm tội

XPTDTE, những sơ hở, thiếu xót của cơ quan tư pháp, sự quản lý của cơ quan chức

năng để từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa đối với từng đặc điểm hành vi cụ

thể hoặc nhóm hành vi phạm tội cho phù hợp và đạt hiệu quả.

3 2 2 2 Đặc iể t ý c a người phạ c c tội x phạ t nh dục trẻ e

Đặc điểm tâm lý của con người được hình thành qua quá trình sống lâu dài và

tương tác với môi trường, đó là một quá trình phức tạp. Mỗi người có một đặc điểm

101

riêng biệt không lẫn vào nhau thì chính quá trình tác động lâu dài đó sẽ hình thành

nên. Do đó, đối với tội phạm xâm phạm tình dục ở trẻ em thì chính sự hình thành

tâm lý người phạm tội qua sự tác động của môi trường xã hội làm phát sinh động cơ

và mục đích của hành vi phạm tội. Ở đây con người là chủ thể của hành vi phạm tội

cho nên nó là yếu tố quan trọng và là điều kiện thúc đẩy hành vi phạm tội. Ý thức,

sai lệch về sở thích. Nhu cầu, sự thõa mãn, ý thức pháp luật, sự khiếm khuyết đạo

đức, sinh học, bất ổn tâm lý học,… đây là những yếu tố chủ quan có vai trò quan

trọng trong việc hình thành nhân thân người phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em.

Người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm tình dục trẻ em nhằm mục đích thoả

mãn nhu cầu về sinh lý của bản thân, giải toả căng thẳng, trầm cảm, hiện nay còn

xuất hiện một số trường hợp do bị ngược đãi hoặc gặp phải biến cố gây một cú sốc

lớn làm ảnh hưởng đến tinh thần hình thành chứng tâm thần phân liệt hay còn gọi là

đa nhân cách thực hiện hành vi xâm phạm tình dục trẻ em nhằm mục đích trả thù

hay trút những đau đớn mà mình đã từng phải chịu lên người khác người mà khả

năng phòng vệ kém hoặc không có khả năng phòng vệ có nhiều diễn biến tâm lý

xuất phát phỏng đoán từ những hành vi khác nhau. Đơn thuần là nhằm mục đích để

thoả mãn nhu cầu về tâm sinh lý của người phạm tội hoặc nhiều người phạm một tội

có cùng chung mục đích có thể xảy ra việc người phạm tội cảm thấy chưa thoả mãn

nhu cầu của bản thân sẽ tiếp tục tái phạm có thể tăng lên về số lần, hình thức, mức

độ của hành vi và người phạm tội. Vì vậy, trong việc này vừa có vấn đề về đạo đức

vừa có diễn biến tâm lý do môi trường bên ngoài tác động vào. Có thể nói rằng tâm

lý người phạm tội cũng rất phức tạp xuất phát từ những cơ chế hình thành nhân thân

của từng chủ thể trong môi trường sống.

Ví dụ như vụ án xâm phạm tình dục ở Vĩnh Long thì nạn nhân chính là con

gái và cháu nội của người phạm tội. Từ tháng 7/2016 đến gần ngày 23/3, T. đã thực

hiện hành vi đồi bại với con gái mình 4 lần [121] Còn S. từ khoảng tháng 3/2016

đến tháng 2/2017 đã quan hệ tình dục với cháu nội 3 lần [122]. Sự việc được phát

hiện khi Đ. kể với bà ngoại. Sau khi nghe cháu ngoại kể, bà M. đã đến cơ quan công

an trình báo. Qua xác minh và điều tra, cả T. và S đều thừa nhận hành vi phạm tội.

Thiết nghĩ, trong sự việc trên cha và ông nội của bé Đ đều nhận thức được hành vi

sai trái của mình, nhận thức được hành vi đó là trái với luân thường, đạo lý, suy đồi

102

về đạo đức, sẽ bị xã hội lên án và thậm chí bản thân sẽ phải vướng vào vòng lao lý

nhưng sự ích kỷ, ham muốn, nhu cầu về sinh lý của bản thân đã thúc đẩy họ thực

hiện hành vi phạm tội.

3.2.2.3 Sai ch c a ý th c c nh n về nh n th c v hiểu bi t ph p u t

Qua nghiên cứu trên địa bàn miền Tây Nam Bộ cho thấy có nhiều nhóm đối

tượng khác nhau:

+ Bản thân các đối tượng có động cơ phạm tội, coi thường nhân phẩm, danh

dự của người khác, nhu cầu tình dục lệch lạc đã thúc đẩy họ phạm tội để thỏa mãn

tình dục cá nhân. Điển hình như bản án số 02/2009/HSST ngày 8/1/2009 Lâm Văn

Dũng (sinh năm 1961) là cha đẻ của Lâm Thị Điệp (sinh năm 1993). Từ tháng 7

năm 2007, sau khi uống rượu về khoảng 15 giờ, Điệp đang quét nhà, Dũng nảy sinh

ý định giao cấu nên Dũng kêu “Điệp ơi cho ba lấy một cái” nhưng Điệp không trả

lời , Dũng nhặt khúc cây ném vào Điệp. Điệp bỏ chạy ra sau nhà thì bị vấp té, Dũng

đuổi kịp nắm tay kéo Điệp vào buồng thực hiện hành vi giao cấu cho tới khi thỏa

mãn. Từ đó cứ sau khi uống rượu về thì Dũng ép buộc, đánh đập Điệp để thực hiện

hành vi giao cấu. Đến tháng 7/2008 Điệp kể lại sự việc cho mẹ biết (nhưng mẹ Điệp

không tin). Sau đó Điệp nói với anh trai mình là Lâm Văn Tuấn. Tuấn đã khai báo

hành vi của Dũng đến cơ quan công an. Tại phiên tòa Dũng thừa nhận toàn bộ hành

vi phạm tội, Tòa án tuyên phạt bị cáo 20 năm tù về tội Hiếp dâm trẻ em. Từ đó cho

thấy đối tượng phạm tội xuất hiện nhu cầu về tình dục biến dạng, đi ngược lại

những chuẩn mực trên cả phạm vi đạo đức và pháp luật. Việc thực hiện hành vi

phạm tội phụ thuộc và chính chủ thể của tội phạm, thái độ thiếu tôn trọng pháp luật,

kỷ cương, đạo đức đã dẫn đến thái độ coi thường nhân phẩm của người khác, coi

thường pháp luật đã hình thành ở họ những nhu cầu thỏa mãn cá nhân một cách trái

đạo đức, trái quy định của pháp luật.

+ Đối tượng phạm tội về xâm phạm tình dục trẻ em nhận thức được hành vi

xâm phạm tình dục trẻ em là vi phạm đạo đức, trái pháp luật nhưng chưa nhận thức

rõ được tính nghiêm trọng của tội phạm do mình gây ra và mức hình phạt của nó.

Khi phạm tội chỉ chủ yếu để giải tỏa tâm lý, nhu cầu tình dục nhất thời mà trong

hoàn cảnh đó không có những điều kiện khác có thể đáp ứng được. Nhóm này

thường thực hiện hành vi xâm hại tình dục trẻ em bộc phát, thủ đoạn đơn giản, ít có

103

ý định che dấu hành vi nên công tác phát hiện, xử lý đối tượng này cũng thực hiện

nhanh chóng hơn. Điển hình như vụ án số 28/2014/HSST: Bị cáo Phạm Linh Tâm

(sinh năm 1997) là người cùng xóm với nạn nhân Nguyễn Thanh Thư (sinh ngày

19.5.2005) Khoảng 13h Thư đi tìm đôi dép ở Trường mẫu giáo Xã Liêu Tú, Huyện

Trần Đề, Tỉnh Sóc Trăng. Tâm nhìn thấy Thư ở khu vực phía sau trường học. Tâm

ôm hôn Thư, Tâm tiếp tục dùng tay cởi quần của Thư ra ngang đùi rồi dùng tay sờ

vào âm đạo của Thư, sau đó Tâm chủ động cởi quần của mình định thực hiện hành

vi giao cấu, thì bị bà Trần Thị Cúc ở gần đó phát hiện. Bà Cúc kể lại sự việc cho

cha mẹ bé Thư nghe, sau đó gia đình trình báo công an. Tại phiên tòa bị cáo thừa

nhận hành vi phạm tội, dựa vào các chứng cứ thể hiện trong hồ sơ, xét thấy bị cáo

khi phạm tội chưa thành niên, có nhân thân tốt. Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng

tuyên phạt Phạm Linh Tâm 7 năm tù giam về hành vi Hiếp dâm trẻ em. Mặc dù hậu

quả chưa xảy ra, tuy nhiên hành vi của bị cáo đặc biệt nguy hiểm, bị cáo biết rõ nạn

nhân còn rất nhỏ tuổi nhưng vẫn cố ý xâm hại để giải tỏa nhu cầu tình dục nhất thời

của mình.

+ Đối tượng phạm tội về xâm phạm tình dục trẻ em có kiến thức về pháp luật

nhưng ý thức tuân thủ kém, thậm chí sử dụng những hiểu biết của mình để tìm cách

thực hiện và che dấu tội phạm, lợi dụng trẻ em còn nhỏ, trẻ chậm phát triển, sẽ

không biết gì về hành vi của mình và hành vi xâm phạm tình dục sẽ không bị ai phát

hiện. Nhóm này chiếm tỷ lệ không cao, nhưng với thủ đoạn che dấu tội phạm tinh vi

nên gây khó khăn trong công tác điều tra tội phạm. Điển hình như vụ án số

81/2016/HSST: Nguyễn Văn Tròn Anh (sinh ngày 11/10/1980), khoảng tháng

9/2014 Tròn Anh có thuê Phạm Thị Ngọc Đào (sinh ngày 21/12/2001) cùng một số

người khác làm nhân công cho cơ sở bánh in của mình. Lợi dụng Đào bị chậm phát

triển về tâm thần nên Tròn Anh đã nhiều lần dụ Đào để thực hiện hành vi giao cấu và

Đào có thai. Khi gia đình hỏi thì Đào cho biết mình cùng Tròn Anh có thực hiện hành

vi giao cấu. Theo kết luận giám định pháp y tâm thần số 83 ngày 27/11/2015 của trung

tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ - Bộ y tế ghi nhận: Phạm Thị Ngọc Đào

chậm phát triển tâm thần (F70-ICD10), không đủ khả năng nhận thức và điều khiển

hành vi. Trong khi đó Nguyễn Văn Tròn Anh không thừa nhận hành vi phạm tội của

mình. Theo kết luận giám định số 975 ngày 01/4/2016 của Phân viện khoa học hình sự

104

- Tổng cục cảnh sát, tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Phạm Thị Ngọc Đào là mẹ

ruột của bé trai sinh ra ngày 29/2/2016 và Nguyễn Văn Tròn Anh là cha ruột bé trai do

Phạm Thị Ngọc Đào sinh ra, với xác xuất 99,999%. Viện Kiểm sát nhân dân Tỉnh An

Giang, đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Tròn Anh về tội „Hiếp dâm trẻ em” Tại phiên Tòa

Tròn Anh thừa nhận hành vi của mình phạm tội của mình, Tòa tuyên phạt bị cáo 12

năm tù về tội hiếp dâm trẻ em.

3 2 2 4 Sai ch trong i s ng b k ch th ch bởi văn h a phẩ i trụy v thói

quen sử dụng bia rư u

Bên cạnh các ảnh hưởng của nhân thân người phạm tội đối với cơ chế hình

thành hành vi phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em thì môi trường sống cũng giữ

một vai trò đáng kể. Con người hình thành cơ chế phạm tội xâm phạm tình dục trẻ

em có thể được bắt đầu bằng đời sống vật chất, tinh thần của gia đình, đến cơ cấu

của gia đình. Đặc biệt là phương pháp giáo dục của gia đình. Ở phương diện thứ

nhất nói về áp lực trong công việc, công việc, sinh hoạt gia đình, các mối quan hệ

khác mà không có cách nào giải toả căng thẳng, trầm cảm, không được thoả mãn

nhu cầu về sinh lý của bản đã dẫn đến những sai lệch trong nhu cầu thỏa mãn tâm

sinh lý,

Ví dụ trong vụ án về hiếp dâm trẻ em do bị cáo Nguyễn Thanh Q thực hiện

đối với Võ Thị Mỹ L, lợi dụng mối quan hệ bà con và sinh sống gần nhà bị hại, Q

đã cho L số tiền 2.000 đồng để được thực hiện hành vi giao cấu với nạn nhân. Hành

vi này bị gia đình nạn nhân phát hiện. Qua điều tra Q khai nhận đã nhiều lần thực

hiện hành vi nhiều lần. Có một lần bị gia đình nạn nhân phát hiện, nhưng do có

quan hệ bà con, bị cáo lại có bệnh lý tai biến mạch máu não, thể lực yếu, không bạn

bè nên gia đình nạn nhân không khai báo. Nhưng do bị cáo lại tiếp tục thực hiện

hành vi phạm tội nên gia đình nạn nhân mới trình báo. Theo bản án số

21/2017/HSST ngày 01/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã tuyên bố bị

cáo Nguyễn Thanh Q phạm tội “hiếp dâm trẻ em” xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh

Quốc 10 năm tù.

Ở phương diện thứ hai các đối tượng tiếp xúc nhiều với văn hoá phẩm đồi

truỵ, các loại hình khiêu dâm từ đó dẫn đến việc hình thành ý định xâm phạm tình

dục người khác nhưng lo sợ sự kháng cự nên tìm đến đối tượng là trẻ em sức kháng

105

cự, khả năng phòng vệ yếu, ví dụ điển hình Bản án số 29/2017/HSST ngày

10/3/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên tỉnh An Giang đã tuyên bị

cáo Huỳnh Thanh H phạm tội hiếp dâm trẻ em, xử phạt 7 năm tù (thời hạn tính từ

23/8/2016). Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình , từng có 01 tiền án về tội

“Cố ý gây thương tích” ra tù chưa bao lâu bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm

tội “hiếp dâm trẻ em” đối với Trịnh Thị Thùy D là em họ của H. Sau khi chấp hành

xong hình phạt tù H không có công việc ổn định có lối sống buông thả, Ngày

20/2/2015 sau khi uống rượu cùng nhóm bạn, xem phim ảnh văn hóa phẩm đồi trụy

lợi dụng bạn bè đã đi về chỉ còn T và D ở lại, H nảy sinh ý định giao cấu với D nên

đã lợi dụng lúc T ra ngoài đi vệ sinh. H đã khống chế D để thực hiện hành vi giao

cấu mặc dù D chống cự quyết liệt nhưng bị cáo không dừng lại mà dùng sức mạnh

vật ngã bị hại, lúc này T quay vào phát hiện hành vi của H và la lớn bị cáo không

thực hiện được hành vi nên bỏ chạy và bị bắt. Tại thời điểm phạm tội nạn nhân mới

15 tuổi, người phạm tội thuộc thành phần lao động nghèo, học vấn thấp đã thành

khẩn khai báo, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt chưa gây hậu quả nghiêm

trọng, bị hại cũng xin giảm nhẹ cho bị cáo nên tòa án xem xét tình tiết giảm nhẹ cho

bị cáo, mức án 7 năm tù giam tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm

mục đích răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội trước thực trạng trẻ em bị xâm hại

tình dục ngày càng gia tăng như hiện nay.

Ở phương diện thứ ba là nói đến cơ cấu gia đình. Một người sống trong gia

đình có cơ cấu gia đình không đầy đủ có thể hình thành nên yếu tố tiêu cực trong

nhân thân người phạm tội. Ví dụ như: chỉ có bố hoặc chỉ có mẹ, hoặc mồ côi cả cha

mẹ cũng có thể ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành nhân cách con người.

Con người khi lớn lên thiếu sự giáo dục, giám sát của bố mẹ, thiếu tình cảm dẫn đến

những sai lầm trong hành vi và xử sự. Nói về phương diện giáo dục của gia đình,

đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành nhân cách của từng cá nhân

trong xã hội. Xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau có thể là môi trường sống,

công việc, gia đình, xã hội, mối quan hệ cụ thể, tâm sinh lý sẽ có những ảnh hưởng

nhất định đến hành vi xâm phạm tình dục trẻ em của một chủ thể. Vụ án điển hình

như vụ án Lê Văn Hoài V thực hiện hành vi Giao cấu với trẻ em và cướp tài sản đối

với Đào Thị Mộng T. Vào lúc 15 giờ ngày 03/01/2015 Lê Văn Hoài V đến nhà

106

Nguyễn Hữu Nghĩa tại xã Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, Tỉnh Đồng Tháp tổ chức uống

rượu. Lúc này Đào Thị Mộng T (sinh năm 1999) là người chậm phát triển có bệnh

tâm thần đi ngang qua nên Nghĩa kêu vào chơi. Khoảng 16h, Nghĩa rủ T và V đi

uống nước. Nghĩa điều khiển xe đi trước, V chở T đi sau do V có ý định giao cấu

với T nên chở T đến quán nước ở Xã An Thái Trung huyện Cái Bè, để thực hiện

hành vi giao cấu với T, thấy T có đeo 2 chiếc bông tai nên V nói T tháo ra cho V

một chiếc. T đồng ý và gỡ bông tai đưa cho V. Lúc này nảy sinh ý định chiếm đoạt

chiếc bông tai còn lại để bán tiêu sài nhưng T không đồng ý. Vũ dùng hai vai đè hai

tay của T vào băng đá và dùng tay gỡ chiếc bông. Sau đó cất vào bóp. V quay về

nhà chuẩn bị quần áo đi Thành phố Hồ Chí Minh Thì bị bắt. Tại phiên tòa xét xử sơ

thẩm V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, hành vi phạm tội của bị cáo

là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến sự phát triển bình thường về thể chất và

tâm lý của nạn nhân, cố ý xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại, tuy

nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đã khắc

phục thiệt hại, bị cáo mồ côi mất cha mẹ, nên hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ

cho bị cáo. Theo bản án số 88/2015/HSST Ngày 29/9/2015 của Tòa án nhân dân

huyện Cái Bè, Tỉnh Tiền Giang tuyên bố bị cáo Lê Văn Hoài V phạm tội “Giao cấu

với trẻ em” và “Cướp tài sản” Tổng hợp hình phạt của 02 tội là 4 năm 06 tháng tù,

thời hạn tính từ ngày 03/01/2015.

Ở phương diện thứ tư, một số trường hợp người phạm các tội XPTDTE từng

gặp phải biến cố gây một cú sốc lớn làm ảnh hưởng đến tinh thần hình thành chứng

tâm thần phân liệt, đa nhân cách thực hiện hành vi xâm phạm tình dục trẻ em nhằm

mục đích trả thù hay trút những đau đớn hoặc có những sở thích quan hệ tình dục

với trẻ em (ấu dâm). Điển hình như vụ án xảy ra tại Vĩnh Long, bị cáo thực hiện

hành vi xâm hại tình dục đối với em Mai Gia H (sinh năm 2004) và Mai Kim Anh

(sinh năm 2005). Vào khoảng 13 giờ ngày 26 tháng 5 năm 2013 Mai Gia H sang

nhà H chơi (quan hệ cậu cháu). Mai Thanh H cùng Mai Gia H và Mai Kim A cùng

chơi đánh bài trong phòng ngủ của Mai Thanh H, lúc này Mai Thanh H nảy sinh ý

định quan hệ tình dục với H, nên dụ dỗ H bằng cách ai chơi đánh bài thua thì sẽ làm

bệnh nhân cho bác sĩ khám bệnh, do đánh thu nên Mai Thanh H thực hiện hành vi

107

quan hệ tình dục với H mặc dù H không đồng ý nhưng người phạm tội vẫn thực

hiện hành vi dâm ô. Do H chống cự nên người phạm tội không thực hiện tới cùng

hành vi của mình. Sau khi được Mai Thanh H cho ra khỏi phòng và về nhà đến 18

giờ do đi tiểu đau nên H nói với mẹ ruột biết và sau đó gia đình trình báo công an

xã Tân Hội, thành phố Vĩnh Long. Trong quá trình điều tra Mai Thanh H cũng khai

nhận hành vi phạm tội của mình và cũng thừa nhận do thích quan hệ tình dục với trẻ

con nên từ ngày 24/3/2013 đến 26/4/2013 đã xâm hại tình dục Mai Kim A (3 lần).

Hành vi của bị cáo rất nghiêm trọng, bị cáo đã lợi dụng vào mối quan hệ thân tình

và tin tưởng của hai bị hại để thực hiện hành vi xâm phạm tình dục. Bị cáo có một

tiền án chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới. Tuy nhiên trường hợp của bị cáo

phạm tội hiếp dâm trẻ em nhưng chưa đạt mục đích, bị cáo thuộc thành phần dân

tộc nghèo, học vấn thấp, gia đình nạn nhân xin giảm nhẹ cho bị cáo. Theo bản án số

24/2014/HSST ngày 08/9/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long tuyên bố bị

cáo Mai Thanh Hải phạm tội “Hiếp dâm trẻ em” và “dâm ô trẻ em” tổng hợp hình

phạt là 17 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 25 tháng 12 năm 2013.

3.2.3 Nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý, thể chất, trình

độ nhận thức của trẻ em.

Đặc điểm về tâm lý của nạn nhân cũng có những tác động cho việc hình

thành động cơ phạm tội. Trong các yếu tố tâm lý có những yếu tố xuất phát từ

phía nạn nhân đóng vai trò làm thúc đẩy hành vi phạm tội xâm hại tình dục trẻ

em. Ở nạn nhân thông thường tồn tại những tâm lý có lợi cho người phạm tội cụ

thể như sau:

Th 1 Do ặc iể về thể chất trẻ e còn y u ớt chưa ph t triển ho n

thi n chưa c kh năng ch ng c ại c c h nh vi x hại c a tội phạ

Người phạm tội lợi dụng tâm lý khiếp sợ trẻ em để thực hiện hành vi xâm phạm

tình dục, khống chế tinh thần của trẻ bằng thủ đoạn uy hiếp, đe dọa hoặc dùng vũ

lực khiến nạn nhân không dám chống cự, cũng không dám tố cáo hành vi vì lo sợ bị

đánh, bị giết vv..

Ví dụ trong vụ án: Nguyễn Văn A, bản án số 46/2014/HSST ngày

09/9/2014 của TAND Tỉnh Sóc Trăng. Bị hại: Lê Thị Thảo N (SN 2004). Nguyễn

108

Văn A thực hiện hành vi hiếp dâm Lê Thị Thảo N tại nhà của mình và đe dọa “mày

n i th tao sẽ gi t y ch t gi t u n ẹ c a y”

Vụ án Nguyễn Văn Q bản án số: 38/2016/HSST ngày 29/6/2016 của TAND

thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang. Nguyễn Văn Q thực hiện hành vi hiếp dâm em

Trần Thị Ngọc C tại khu vực cánh đống vắng với đe dọa “ y u n s ng hay

ch t” sau khi thực hiện hành vi hiếp dâm thì Quí lấy luôn điện thoại của nạn nhân

và bỏ đi. (đa số các trường hợp phạm tội hiếp dâm trẻ em, người phạm tội thường

de dọa sẽ giết chết nạn nhân hoặc gia đình nạn nhân để khống chế hành vi kháng cự

của nạn nhân và để dễ dàng thực hiện hành vi phạm tội)

Th 2 Do tr nh ộ nạn nh n còn nhiều hạn ch còn thi u ki n th c về xã

hội ki n th c về giới t nh người phạ tội i dụng v t chất ể th c hi n h nh vi

phạ tội

Nạn nhân chưa có những nhận thức chưa đầy đủ về hành vi xâm hại, trẻ em

có tâm lý nhẹ dạ, cả tin nên đã không có những phản ứng bảo vệ mình trước hành vi

xâm hại tình dục, thậm chí có em còn giấu đến khi người phạm tội bị phát hiện, nạn

nhân có thai hoặc khi đối tượng bị bắt nạn nhân mới khai đã bị xâm phạm tình dục

nhiều lần trước đó.

Ví dụ trong vụ án Trần Kim Th, bản án số: 42/2014/HSST ngày 26/8/2014

của TAND tỉnh Sóc Trăng. Trần Kim Th đã thực hiện hành vi hiếp dâm Đào Thị

Nhật T 5 lần thực hiện hành vi hiếp dâm nhưng không bị phát hiện. Ngày 24/5/2014

bị cáo gọi nạn nhân ra sau nhà “T ơi i ra nhà sau nè” và thực hiện hành vi hiếp

dâm thì bị phát hiện. Nạn nhân không tố cáo hành vi vì nạn nhân tin lời bị cáo nói

rằng “ai cũng th n y” và không nghĩ rằng mình đã bị xâm hại.

Nạn nhân bị đối tượng dụ dỗ, mua chuộc để thực hiện hành vi phạm tội. Sau

khi bị xâm phạm tình dục, các em sợ sệt không dám nói cho cha mẹ hoặc người lớn

biết. Một bộ phận không nhỏ các bé gái không được gia đình và nhà trường giáo

dục đầy đủ về giới tính nên không nhận thức được hậu quả của hành vi xâm phạm

tình dục. Ví dụ trong Vụ án Sơn N bản án số: 26/2014/HSST ngày 04/7/2014 của

TAND tỉnh Sóc Trăng. Sơn N thực hiện hành vi hiếp dâm em Lý Thị Xà Phe R, bị

cáo đã dụ dỗ nạn nhân “Cho tôi hôn, tôi cho tiền” nạn nhân đã đồng ý và được bị

cáo cho 8.000 đồng sau đó thực hiện hành vi hiếp dâm thì bị phát hiện. Có thể thấy

109

người phạm tội thường lợi dụng sự chưa nhận thức đầy đủ của nạn nhân về tình dục,

lợi dụng sự ngây thơ của bị hại, lợi dụng tâm lý thích được cho quà bánh, cho tiền

của nạn nhân để từ đó dễ dàng thực hiện hành vi giao cấu mà không cần uy hiếp hay

đe dọa. Đối với các trường hợp này thì mức độ ẩn của tội phạm cao vì sự nạn nhân

không hề khai báo với gia đình và người thân.

Th 3, Do ặc iể t sinh ý c a trẻ e b ng bột y u sớ thi u suy nghĩ

v cũng do những bi n chuyển về sinh ý

Nạn nhân có tình cảm yêu dương sớm, hoặc có lối sống buông thả bị đối

tượng lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Yếu tố này đóng vai trò của nạn nhân

trong cơ chế hình thành ý định phạm tội và thực hiện hành vi phạm tội được thể

hiện thông qua việc, nạn nhân có lối sống buông thả, mối quan hệ yêu đương bạn bè

phức tạp, yêu và quan hệ tình dục sớm, chính những điều này đã làm gia tăng nguy

cơ trở thành nạn nhân của loại tội phạm này. Ví dụ trong vụ án Nguyễn Văn Luân,

bản án số 19/2017/HSST ngày 31/3/2017 của TAND Thành phố Mỹ Tho, Tỉnh Tiền

Giang. Nguyễn Văn L có hành vi giao cấu với em Bùi Thị Ngọc T, bị cáo khai nhận

trong tháng 4/2016 bị cáo đã giao cấu với nạn nhân 04 lần, cụ thể: 03 lần tại phòng

ngủ nhà Luân, 01 lần tại phòng số 12 khách sạn Hoàng Lan với sự đồng thuận của

nạn nhân, cả hai có quan hệ yêu đương vào tháng 4/2016. Nạn nhân và bị cáo quan

hệ tình dục nhiều lần trong đó có 02 lần nạn nhân chủ động cởi đồ nhằm quan hệ

tình dục với bị cáo.

Trong vụ án Lý Quang M, bản án số 67/2016/HS-ST ngày 30/6/2016 của

TAND Thành phố Vĩnh Long, Tỉnh Vĩnh Long. Lý Quang M có hành vi giao cấu

với em Bùi Diễm M, bị cáo thừa nhận vì có quan hệ tình cảm với nhau nên cả hai

giao cấu nhiều lần dẫn đến việc nạn nhân có thai; hay vụ án Nguyễn Duy L, bản án

số: 22/2015/HSST ngày 11/3/2015 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

Nguyễn Duy L có hành vi giao cấu với em Huỳnh Ngọc Anh T, bị cáo phạm tội

trong trường hợp nhiều lần làm nạn nhân có thai và sinh con khi chưa đủ 15 tuổi. Các

vụ án trên cho thấy hành vi giao cấu tuy có sự đồng thuận của nạn nhân nhưng với độ

tuổi còn nhỏ, tâm lý yêu đương sớm, gia đình chưa có sự giáo dục và thờ ơ trong quản

lý con cái, khi có hành vi xâm hại xảy ra thì thiệt hại về sức khỏe về tinh thần của nạn

110

nhân khó mà khắc phục được. Hành vi phạm tội đã gây ra những dư luận xấu cho địa

phương và đặc biệt gây ảnh hưởng không nhỏ đối với gia đình bị hại.

Th 4 Do i s ng bu ng th u n khẳng nh b n th n theo phi nh

s ch b o i trụy sử dụng bia rư u

Nạn nhân có lối sống buông thả và dễ dãi, ham chơi cũng là một trong các

yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội xâm hại tình dục phát sinh như vụ án: Lương

Thanh Dương L, Dương Hoàng E và Lương Thanh P bản án số: 48/2015/HSST

ngày 17/9/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh. Lương Thanh Dương L phạm tội giao

cấu với em Trần Thị H và Dương Hoàng E và Lương Thanh P là đồng phạm trong

vụ án hiếp dâm trẻ em. Bị cáo với nạn nhân đã giao cấu nhiều lần trong đó có 3 lần

có sự đồng thuận của nạn nhân khi cả hai cùng đi uống rượu với bạn bè và 01 lần

nạn nhân không đồng ý quan hệ với bị cáo vì có nhiều người cùng muốn quan hệ

tình dục với nạn nhân.

Th 5, Do tr nh ộ nh n th c b hạn ch trong ột s trường h p trẻ e c

như c iể về tinh th n

Nghiên cứu trong 485 bản án với 487 nạn nhân thì có 9 nạn nhân bị mắc

các bệnh tâm thần, trẻ em bị xâm hại tình dục là do cha mẹ không quan tâm đúng

mức hoặc bỏ các em đi lang thang trong làng dẫn đến việc trẻ bị lạm dụng tình dục

và mang thai. Ví dụ vụ án Lê Thanh H, bản án số 84/2012/HSST ngày 10/7/2012

của TAND Thành phố Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang. Lê Thanh H thực hiện hành vi

giao cấu với em Lê Thị Kim H khi nạn nhân không nhận thức được hành vi xâm hại

tình dục sẽ gây nguy hại cho chính mình nên đã đồng ý cho bị cáo giao cấu nhiều

lần và tình cờ hành vi này bị người dân trong xóm phát hiện nên đã khai báo.

111

Kết luận chương 3

Nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội XPTDTE chính là

đi tìm các yếu tố tham gia quá trình tác động làm phát sinh các tội XPTDTE. Kết

quả nghiên cứu cho thấy có ba nhóm yếu tố cơ bản tham gia vào quá trình tương

tác, cụ thể:

1. Những yếu tố tác động thuộc về nguyên nhân, điều kiện môi trường sống

như: vị trí địa lý, văn hóa – đời sống, gia đình, nhà trường, kinh tế ..... môi trường

sống đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc hình thành tính cách, đời sống của

con người Nam Bộ, văn hóa tính ngưỡng hình thành nên thói quen thuộc về đời

sống tinh thần không thể thiếu của người dân miền Tây Nam Bộ, bên cạnh những

mặt thuận lợi thì cũng có những hạn chế, trong đó có cả những vấn đề thuộc về tội

phạm. Trong môi trường Gia đình và Nhà trường cũng có những tác động đến việc

hình thành nhân cách và các đặc điểm nhân thân xấu tạo tiền đề cho những hành vi

sai lệch, trong đó có cả những hành vi phạm tội XPTDTE. Bên cạnh đó các yếu tố

thuộc về kinh tế - xã hội, chính sách pháp luật như việc ban hành các quy định pháp

luật liên quan đến phòng ngừa các tội XPTDTE chưa được đồng bộ, kịp thời, có

nhiều nội dung còn nhiều cách hiểu gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng giải quyết

các vu án về XPTDTE. Những tác động từ việc quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực

như kinh tế, văn hóa, xã hội... có những hạn chế làm cho tình hình tội phạm gia tăng

trong đó có cả tình hình các tội XPTDTE. Những tác động từ trong công tác phát hiện,

xử lý các tội XPTDTE còn nhiều yếu kém gây mất niềm tin trong nhân dân.

2. Trong những nguyên nhân và điều kiện thuộc về các đặc điểm nhân thân

người phạm tội như: Đặc điểm về tâm, sinh lý – xã hội, những sai lệch trong quá

trình động cơ hóa, kế hoạch hóa cũng như hiện thực hóa hành vi đã thúc đẩy hành vi

phạm tội XPTDE

3. Những nguyên nhân, điều kiện thuộc về nạn nhân của các tội XPTDTE:

Những nhược điểm về của nạn nhân đã tạo điều kiện thuận lợi cho người phạm

tội thực hiện hành vi, tình huống phạm tội phần lớn do người phạm tội chủ động

tạo ra kết hợp với các yếu tố về thời gian, địa điểm thuận lợi để đạt được mục

đích phạm tội.

112

Chương 4

DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA CÁC TỘI XÂM PHẠM

TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ

4.1 Dự báo tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây

Nam Bộ

4.1.1 Khái niệm dự báo tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em

Trong lĩnh vực Tội phạm học, ở Việt Nam có rất nhiều tác giả đưa ra khái

niệm về dự báo tình hình tội phạm với những quan điểm khác nhau: Theo GS.TS

Võ Khánh Vinh thì cho rằng tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội nên dự báo

tình hình tội phạm là một phần, một bộ phận của dự báo xã hội... “ s ph n o n

về th c trạng diễn bi n cơ cấu t nh chất c a t nh h nh tội phạ c thể x y ra

trong tương ai về c c nguy n nh n v iều ki n về c c kh năng phòng ch ng n

trong từng giai oạn nhất nh v vi c nh gi về chất ư ng c a những thay ổi

trong t nh h nh tội phạ c c nguy n nh n v iều ki n c a n ” [146 tr147]

Theo PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm thì “D b o tội phạ th c chất “phỏng

o n” “ph n o n” t nh h nh tội phạ sẽ diễn ra trong tương ai kè theo

kh năng phòng ngừa ấu tranh”[150 tr338] Ngoài ra còn có quan điểm cho rằng

“D b o t nh h nh tội phạ ” đồng nghĩa với “d b o t nh trạng phạ tội về th c

chất ph n o n kh năng c a t nh h nh phạ tội trong tương ai” [143 tr108]

Từ kết quả nghiên cứu dựa trên các công trình khoa học tiêu biểu, trong

phạm vi nghiên cứu, luận án đưa ra khái niệm về dự báo tình hình các tội xâm phạm

tình dục trẻ em như sau: “D b o t nh h nh c c tội XPTDTE ch nh s ph n o n

về c ộ diễn bi n (xu hướng) về cơ cấu t nh chất c a t nh h nh c c tội XPTDTE

c thể x y ra trong tương ai”

Tình hình các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ở địa bàn miền Tây Nam

Bộ. Có liên quan chặt chẽ với tình hình phát triển kinh tế, xã hội và đặc điểm riêng

của địa bàn. Sự thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội trong những năm gần đây đã

kéo theo sự thay đổi trong xã hội, trong đó có tội xâm phạm tình dục trẻ em. Để dự

báo tình hình tội xâm phạm tình dục trẻ em trong những năm tới cần dựa vào những

cơ sở sau đây:

113

Trong những năm gần đây, miền Tây Nam Bộ đã có sự phát triển mạnh mẽ

trên tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là sự hình thành nhiều khu công

nghiệp có đến 74 KCN và 214 CCN được đưa vào quy hoạch, xây dựng với tổng

diện tích hơn 42.000 ha, tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Long An, Kiên Giang, Cà

Mau, Cần Thơ, Hậu trang, Trà Vinh, Sóc trăng, và khoảng 26 cảng lớn nhỏ ở Cần

Thơ Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau. Bên cạnh những thành tựu đạt được về kinh tế

thì hàng loạt các vấn đề bức xúc đang đặt ra dưới sự tác động của mặt trái nền kinh

tế thị trường như: sự phân hóa giàu nghèo, giữa đồng bào dân tộc và người dân khu

vực thành thị, những bất công xã hội, sự suy thoái về đạo đức, lối sống, số người

tỉnh khác về lao động, học tập và làm việc ngày càng tăng lên, các loại hình dịch vụ

ở những khu công nghiệp, khu vực cảng biển ngày càng nhiều hơn, tình hình đó làm

cho công tác quản lý nhà nước và an ninh trật tự trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

cũng có nhiều vấn đề cần phải quan tâm.

Điểm nổi bật ở địa bàn miền Tây Nam Bộ là còn phần lớn một bộ phận người

có trình độ dân trí thấp, mù chữ và trình độ tiểu học còn chiếm tỉ lệ khá cao, có một bộ

phận dân cư chỉ có khả năng nói tiếng dân tộc và không nói được tiếng Việt nên việc

trao đổi cũng như học hỏi kinh nghiệm, tuyên truyền vận động pháp luật cũng còn

nhiều hạn chế, với tâm lý ngại tiếp xúc và chỉ dành thời gian cho lao động nên việc vận

động, giáo dục ý thức, tuyên truyền pháp luật đối với họ cũng khó khăn. Thêm vào đó,

vì hạn chế về học vấn nên không thể đưa họ vào làm việc ở các khu công nghiệp từ đó

đời sống thiếu thốn cộng với sự thiếu hiểu biết pháp luật cũng phần nào làm gia tăng

tình trạng tội phạm nói chung và tội xâm phạm tình dục nói riêng.

Sự chuyên môn hóa về nghề nghiệp, mối quan hệ mở rộng, điều kiện và cơ

hội việc làm gia tăng đã làm nảy sinh những vấn đề liên quan đến sinh hoạt gia

đình. Các cặp vợ chồng và các thành viên gia đình ít có thời gian sinh hoạt cùng

nhau. Và đặt biệt ở khu vực nông thôn địa bàn người dân tộc sinh sống, sự quan tâm

chăm sóc của gia đình đối với trẻ em rất hạn chế, vai trò giáo dục của gia đình đối

với trẻ không nhiều. Bên cạnh đó nhận thức của trẻ về tình cảm gia đình cũng thay

đổi, ly hôn chiếm tỷ lệ cao đối với các gia đình thuộc thế hệ trẻ hiện nay, sự đỗ vỡ

của gia đình đã làm cho trẻ em thiếu đi nơi nương tựa, sự chăm sóc, nuôi dưỡng

114

giáo dục của gia đình. Tâm tư tình cảm thay đổi từ đó trẻ em dễ dàng trở thành nạn

nhân của tội xâm phạm tình dục.

Sự phát triển công nghệ, cũng là một vấn nạn cho xã hội, từ việc các cơ quan

chức năng không thể kiểm soát các trang web đồi trụy đã dẫn đến hệ quả một bộ

phận lớn thanh thiếu niên đã bị kích thích ham muốn tình dục mạnh bởi những gì họ

đã xem và thậm chí họ còn bị nghiện, tình dục để thỏa mãn nhu cầu nên sẵn sàng

thực hiện hành vi phạm tội, và trẻ em là đối tượng bị hướng tới nhiều nhất bởi sự

ngây thơ thiếu hiểu biết của trẻ.

4.1.2 Nội dung dự báo tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở địa bàn

miền Tây Nam Bộ trong thời gian tới

- Về c ộ diễn bi n c a t nh h nh c c tội XPTDTE

Tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ xảy ra với mức

độ nghiêm trọng, với chiều hướng gia tăng cả số vụ án và số người phạm tội. Gia

tăng tỷ lệ đồng phạm và tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Tình hình các tội XPTDTE

sẽ tiếp tục gia tăng và có những diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn

nhằm che dấu hành vi phạm tội. Các tội XPTDTE ở miền Tây Nam Bộ không giới

hạn ở những địa phương nhất định, tuy nhiên cần chú trọng công tác phòng ngừa ở

những nơi có điều kiện khó khăn, trình độ dân trí thấp, thấp nghiệp, những khu vực

người dân thường xuyên tụ tập uống rượu hoặc các đoạn đường nông thôn vắng khu

vực sông nước. Dự báo trong thời gian tới tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ

em sẽ có dấu hiệu tăng lên, diễn biến phức tạp, phương thức, thủ đoạn phạm tội

ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao, hậu quả

tác hại ngày càng lớn và đặc biệt ở các Tội như: tội hiếp dâm trẻ em, tội giao cấu trẻ

em và tiếp đến là tội dâm ô trẻ em. Và đặc biệt các tội mua dâm trẻ em tuy luận án

không nằm trong nhóm nghiên cứu ề các tội xâm phạm tình dục, nhưng trong số

liệu thống kê có ít nhất 8 vụ án về hành vi mua dâm trẻ em, vì thế cần phải phòng

ngừa tội phạm này trong thời gian tới.

- Về Cơ cấu t nh chất c a t nh h nh c c tội XPTDTE

Về cơ cấu tội phạm, cơ cấu tình hình các tội XPTDTE trong những năm tới

sẽ có sự chuyển dịch. Dưới sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế khu vực Tây Nam

Bộ, sự phát triển quá nhanh ở các khu vực nông thôn, khu cụm công nghiệp, thành

115

phần người dân tập trung đông (bao gồm có lao động trong và ngoài nước), những

khu kinh tế mũi nhọn của vùng, sự du nhập và phát triển nhanh chóng của văn hóa

ngoại lai đã tác động mạnh mẽ vào người dân Nam Bộ, làm cho một bộ phận dân

cư, trong đó chiếm đa phần là thanh thiếu niên bị tha hóa, biến chất sẵn sàng thực

hiện hành vi phạm tội. Đối với các tội XPTDTE sẽ ngày càng nhiều bị cáo phạm tội

có quan hệ thân thiết, gần gũi, họ hàng với nạn nhân, thậm chí là con ruột, cháu ruột

của mình (vì đối tượng này dễ tiếp cận và dễ che dấu hành vi phạm tội). Với lối

sống buông thả, ham chơi, không chịu sự quản lý của gia đình, gia đình không có

phương pháp giáo dục đúng đắn dẫn đến nhiều trường hợp trẻ yêu sớm và có quan

hệ tình dục rất sớm, mặc dù có sự đồng thuận nhưng việc quan hệ bừa bãi ảnh

hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như sức khỏe của trẻ em. Có trường hợp

xảy ra ở Vĩnh Long, hai bé gái lớp 7 có cùng bạn trai lớp 8. Gia đình chỉ phát hiện

sự việc khi một bé có thai và một em bị bệnh về tình dục mặc dù gia đình nạn nhân

có đơn tố cáo hành vi xâm hại tình dục nạn nhân, nhưng pháp luật không thể xử lý

hành vi này, do cả hai đều chưa thành niên và pháp luật đều cần bảo vệ họ trước

hành vi xâm phạm tình dục. Theo thống kê của Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt

Nam, trung bình mỗi năm cả nước có khoảng 320.000 ca nạo phá thai ở độ tuổi

thành niên, trong đó khoảng 70% là HSSV. Mặc dù tỉ lệ nạo phá thai ở Việt Nam

trong 10 năm trở lại đây giảm, nhưng tỉ lệ nạo phá thai ở trẻ chưa thành niên lại có

dấu hiệu gia tăng – chiếm hơn 20% các trường hợp nạo phá thai. Điều này cho thấy

xu hướng yêu đương sớm, quan hệ sớm có chiều hướng gia tăng trong thời gian tới.

Từ đó dẫn đến việc chuyển dịch tội phạm “giao cấu với người từ 13 tuổi đến dưới

16 tuổi” sẽ có tỷ lệ gia tăng trong thời gian tới.

Trong những năm qua TNXH và không có việc làm ổn định là một trong

những yếu tố tiêu cực tác động mạnh làm phát sinh tình hình các tội xâm phạm tình

dục trẻ em, trong đó phần lớn người phạm tội thực hiện hành vi xâm phạm tình dục

trẻ em sau khi uống rượu. Đây là điểm đặc thù của loại tội phạm này ở địa bàn miền

Tây Nam Bộ. Để khắc phục tình trạng trên thì các địa phương phải có giải pháp

hiệu quả làm giảm tỷ lệ người dân sử dụng rượu bia trên các địa bàn, vừa quản lý

trật tự trị an khu vực vừa phòng ngừa tội phạm xảy ra.

116

- Về quy c a tội phạ : Trong thời gian tới sẽ có các vụ án về xâm phạm

tình dục trẻ em có đồng phạm (hiếp dâm tập thể, dâm ô tâm thể và giao cấu tập thể).

Bởi thực trạng về giới trẻ sử dụng rượu bia, ma túy đá, thuốc lắc, dẫn đến hành vi

thác loạn tập thể, trong đó có cả hành vi xâm phạm tình dục tập thể.

- Về ch thể th c hi n tội phạ : tình hình tội phạm diễn ra trong thời gian

tới người phạm tội về xâm phạm tình dục trẻ em tập trung ở độ tuổi từ đủ 18 đến

dưới 30 tuổi, tiếp đến là độ tuổi người chưa thành niên từ đủ 14 đến chưa đủ 18

tuổi, người phạm tội ở độ tuổi này sẽ gia tăng trong thời gian tới.

- Về th oạn phạ tội:Với phương thức chính là lợi dụng lòng tin của trẻ

em và dùng vật chất dụ dỗ để thực hiện hành vi xâm phạm tình dục trẻ em, bên

cạnh đó người phạm tội còn lợi dụng sự quen biết và sự thiếu hiểu biết của trẻ để

thực hiện hành vi phạm tội và che dấu hành vi phạm tội của mình. Phương thức thủ

đoạn tuy không mới nhưng trong thời gian tới sẽ có những vụ đối tượng phạm tội sử

dụng vũ lực giết chết nạn nhân để thực hiện hành vi xâm phạm tình dục trẻ em hoặc

ngay sau khi thực hiện hành vi xâm phạm tình dục trẻ em đối tượng sẽ giết chết nạn

nhân để bịt đầu mối. Trong nhiều trường hợp có thể đối tượng sẽ cướp luôn tài sản của

nạn nhân. Ngoài ra, sẽ có những vụ thông qua việc mua bán dâm, mua bán trinh để

xâm phạm tình dục trẻ em.

- Về a b n v a iể g y n: Theo kết quả nghiên cứu thì Vĩnh Long,

Hậu Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Đồng Tháp, (đây là các địa

bàn có tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em có hệ số tiêu cực cao nhất) là nơi

có số vụ xâm hại tình dục trẻ em khá cao và là các địa bàn trọng điểm của loại tội

phạm này trong thời gian tới, với tình hình địa bàn phức tạp, vắng vẻ, vùng sâu,

vùng xa, người làm thuê đông, trình độ dân trí thấp, việc quản lý gặp nhiều khó

khăn. Đối tượng thực hiện hành vi phạm tội chủ yếu là ở trong nhà bị hại, điều này

đòi hỏi sự tăng cường công tác kiểm tra giám sát, ổn định trị an khu vực, trẻ em cần

phải có sự quan tâm chăm sóc đặc biệt từ gia đình và xã hội.

- Về ho n c nh gia nh: Người phạm các tội xâm hại tình dục trẻ em thường

có hoàn cảnh kinh tế, cuộc sống khó khăn, nhóm người có cuộc sống gia đình

không hạnh phúc như ly hôn hoặc mất vợ cũng chiếm tỷ lệ xâm phạm tình dục trẻ

em khá cao.

117

- Về Nạn nh n c a tội phạ : Qua thống kê cho thấy nạn nhân của loại tội

phạm này tập trung chủ yếu ở người có độ tuổi từ đủ 6 tuổi đến dưới 13 tuổi, kế đến

là độ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi và thấp nhất là độ tuổi dưới 6 tuổi. Trong thời gian

tới, trẻ em từ dưới 6 tuổi bị xâm hại tình dục có xu hướng tăng lên, nạn nhân vẫn

tập trung vào các em có hoàn cảnh gia đình không hòa thuận, khó khăn, trẻ em

không được quan tâm chăm sóc chu đáo từ gia đình, nhà trường và xã hội.

- Về D n tộc:Trong những năm qua, người phạm tội chủ yếu là người dân

tộc kinh, người phạm tội là người dân tộc khmer chiếm tương đối cao và người

phạm tội là dân tộc Hoa chiếm thấp nhất. Các tội xâm phạm tình dục trẻ em chủ yếu

tập trung ở những người mang dân tộc Kinh, với tuổi đời còn trẻ, chịu ảnh hưởng

của sự phát triển công nghệ, sự tác động của văn hóa phẩm đồi trụy, lối sống ích kỷ,

xem thường pháp luật.

4.2 Giải pháp về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

địa miền Tây Nam Bộ

4.2.1 Khái niệm phòng ngừa tội phạm và phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em

Phòng ngừa tội phạm phạm là một trong những nội dung nghiên cứu trọng tâm

và quan trọng của tội phạm học. Phòng ngừa tội phạm được nghiên cứu từ rất sớm

khi mà xã hội xuất hiện tư hữu và nhà nước đồng thời phát sinh tội phạm. Tuy nhiên

tư tưởng về phòng ngừa tội phạm bắt đầu được nói đến và nghiên cứu nhiều vào thế

kỷ XVII, XVIII, nhà triết học Montexke đã có quan điểm “Người u t giỏi c n

ph i quan t n phòng ngừa tội phạ hơn trừng phạt n ” [173 tr393].

Trong giáo trình Tội phạm học Xô Viết xuất bản lần đầu tiên vào năm 1966 đã

có định nghĩa về phòng ngừa tội phạm “ tổng h p c c bi n ph p c quan h t c

ộng ẫn nhau ư c ti n h nh bởi c c cơ quan nh nước v c c tổ ch c xã hội

nhằ ục ch ngăn chặn tội phạ v hạn ch oại trừ những nguy n nh n sinh ra

tội phạ ” [186 tr112]

Những công trình khoa học nêu trên đã tạo tiền đề cho sự phát triển của lý

luận về phòng ngừa tội phạm trong nước là bước tiếp nối trong công cuộc nghiên

cứu về phòng ngừa tội phạm sau này.

Khoa học về tội phạm học của Liên Xô trước đây, quan niệm về phòng ngừa

tội phạm trong hệ thống này được GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm dẫn ra như sau:

118

“Phòng ngừa tội phạ tổng h p c c bi n ph p c quan h t c ộng ẫn nhau

ư c ti n h nh bởi cơ quan nh nước v c c tổ ch c xã hội nhằ ục ch ngăn

chặn tội phạ v hạn ch oại trừ những nguy n nh n sinh ra tội phạ ” (Giáo

trình Tội phạm học năm 1966) hay còn được hiểu là “ ột phương ti n iều chỉnh

s ph t triển c c quan h xã hội nhằ ục ch hạn ch oại trừ c c nguy n nh n

tội phạ như s t c ộng ẫn nhau c a c c bi n ph p kinh t - xã hội gi o dục -

sư phạ tổ ch c v ph p u t như ột tổ h p c c bi n ph p kh c nhau c a

phòng ngừa tội phạ ”[150tr195]

Khái niệm này còn mang tính khái quát chưa thể hiện hết nội dung và ý nghĩa

của hoạt động phòng ngừa tội phạm, mục tiêu phòng ngừa tội phạm còn chưa mang

tính chủ động chỉ dừng ở việc “ngăn chặn hạn ch oại trừ” mục đích chỉ áp dụng

được đối với các tội phạm cụ thể và tội phạm đã được diễn ra. Tuy nhiên chưa khái

quát được việc phòng ngừa các tội phạm tiềm tàng và không để tội phạm được diễn

ra trên thực tế.

Ngoài ra một số công trình nghiên cứu khoa học về tội phạm học còn đưa ra

khái niệm về phòng ngừa tội phạm theo một cách hiểu khác cụ thể

Theo GS.TS Võ Khánh Vinh cũng có khái niệm hợp lý khi cho rằng “Vi c

phòng ngừa t nh h nh tội phạ h th ng nhiều c ộ c c bi n ph p mang tính

chất Nh Nước xã hội v Nh nước – xã hội nhằ khắc phục c c nguy n nh n v

iều ki n c a tội phạ hoặc v hi u h a ( y u; hạn ch ) chúng v bằng c ch

gi v d n d n oại bỏ t nh h nh tội phạ ” [148 tr150].

Theo GS.TS. Đỗ Ngọc Quang chỉ ra phòng ngừa tội phạm theo hai nghĩa:

Theo nghĩa rộng, phòng ngừa tội phạm bao hàm, một mặt không để cho tội phạm

xảy ra, thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Mặt khác, bằng mọi cách để

ngăn chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp

phạm tội và cuối cùng là cải tạo, giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những

công dân có ích cho xã hội; theo nghĩa hẹp, “phòng ngừa tội phạ kh ng ể cho

tội phạ x y ra kh ng ể cho tội phạ g y h u qu cho xã hội kh ng ể cho

th nh vi n c a xã hội ph i ch u h nh phạt c a ph p u t ti t ki ư c những chi

ph c n thi t cho Nh nước trong c ng t c iều tra truy t xét xử v c i tạo gi o

dục người phạ tội”[106 tr8]

119

PGS.TS Phạm Văn Tỉnh thì cho rằng “Phòng ngừa tội phạ ư c hiểu

tổng thể c c bi n ph p do cơ quan tổ ch c v ọi c ng d n ti n h nh dưới s ãnh

ạo c a Đ ng c quyền nhằ t c ộng v o c c y u t ph t sinh tội phạ

cũng như oại trừ c c y u t n y v ục ch ngăn chặn v ti n tới ẩy ùi tội phạ

ra khỏi ời s ng xã hội” [120 tr59]

Theo quan điểm của tác giả về lý luận về phòng ngừa các tội xâm phạm tình

dục trẻ em tác giả đồng thuận cách hiểu phòng ngừa là “Vi c phòng ngừa t nh h nh

c c tội XPTDTE h th ng nhiều c ộ c c bi n ph p ang t nh chất Nh

Nước xã hội v Nh nước – xã hội nhằ khắc phục c c nguy n nh n v iều ki n

c a t nh h nh c c tội XPTDTE hoặc v hi u h a ( y u; hạn ch ) chúng v

bằng c ch gi v d n d n kiể so t t nh h nh tội phạ ”

4.2.2 Nội dung các giải pháp phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

địa bàn miền Tây Nam Bộ

4 2 2 1 C c gi i ph p về kinh t - xã hội tr n a b n iền T y Na Bộ

Với chủ trương phát triển kinh tế khu vực Tây Nam Bộ, Thủ tướng Chính

phủ đã ký Quyết định 417/QĐ-TTg ngày 13/4/2019 ban hành Chương trình hành

động tổng thể thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền

vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Chương trình hành

động tổng thể đề ra 6 nhóm nhiệm vụ và giải pháp cụ thể chính, bao gồm: Rà soát,

hoàn thiện và bổ sung hệ thống cơ chế, chính sách; Cập nhật và hệ thống hóa số

liệu, dữ liệu liên ngành, tăng cường điều tra cơ bản; Xây dựng quy hoạch và tổ chức

không gian lãnh thổ; Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý thích ứng với biến đổi khí hậu;

Đầu tư và phát triển hạ tầng; Phát triển và huy động nguồn lực. Xuất phát từ yêu

cầu phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Chính trị đã có Kết

luận số 28-KL/TW ngày 14-8-2012 “Về phương hướng nhi vụ gi i ph p ph t

triển kinh t - xã hội v b o an ninh qu c phòng vùng ng bằng s ng Cửu

Long thời kỳ 2011 - 2020”. Theo đó, phương hướng, mục tiêu phát triển đồng bằng

sông Cửu Long đến năm 2020 được xác định là: “X y d ng v ph t triển vùng ng

bằng s ng Cửu Long trở th nh vùng trọng iể s n xuất n ng nghi p h ng h a

theo hướng hi n ại ph t triển c ng nghi p ch bi n v c ng nghi p phụ tr cho

120

n ng nghi p với t c ộ tăng trưởng cao bền vững Ph t triển ạnh kinh t biển

x y d ng ng nh th y s n trở th nh ng nh kinh t ũi nhọn c a qu c gia c quy

ớn hi n ại s c cạnh tranh cao… T p trung hi n ại h a n ng nghi p n ng th n

Ph t triển c ng nghi p năng ư ng sinh h a c ng nghi p ch t c tr c ti p phục vụ

s n xuất n ng nghi p H nh th nh cơ cấu h th ng iều c ng p ngăn ặn

ng ph với nước biển d ng v t c ộng c a thư ng ngu n s ng M C ng…”.[6]

Từ những chính sách phát triển kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng cùng trang thiết

bị đáp ứng nhu cầu phát triển của vùng từ đó loại trừ nguyên nhân và điều kiện phát

sinh tội phạm, cũng như các tội XPTDTE nói riêng, miền Tây Nam Bộ cần triển

khai thực hiện các vấn đề như sau:

Th nhất, quy hoạch ại s n xuất n ng nghi th y s n theo vùng, theo quy mô

i n k t c c khu v c c a iền T y Na Bộ

Các địa phương cần tạo môi trường thuận lợi để thiết lập và tăng cường các

mối liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với người dân,

giữa người dân với người dân, nhằm tổ chức, hình thành mối liên kết giữa sản xuất,

chế biến và bao tiêu sản phẩm chặt chẽ hơn, nhân rộng mô hình “Cánh đồng lớn”,

các vùng chuyên canh, nâng cao năng lực tổ chức và quản lý của nông dân. Để tái

cơ cấu ngành lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long, cần chú trọng giải quyết tốt vấn đề

thu nhập của người trồng lúa.

Th hai, th c hi n c ng t c x a i gi nghèo v ph t triển nền kinh t trọng

iể c a T y Na Bộ

Đây là một thách thức không chỉ riêng của các tỉnh miền Tây Nam Bộ mà còn

là vấn đề chung của cả nước. Quá trình giảm nghèo của miền Tây Nam Bộ được đặt

trong bối cảnh là sự phát triển của cả nước, việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế

của vùng vừa nâng cao thu nhập và tạo việc làm cho người dân nhằm thoát khỏi đói

nghèo là một trong những thách thức lớn mà các Tỉnh đã đề ra và là mục tiêu nhiệm

vụ cần phải đạt được. Nhà nước nói chung và các tỉnh miền Tây Nam Bộ nói riêng

cần thực hiện đồng bộ các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế để tạo công ăn

việc làm, nâng cao, thu nhập, giảm đói nghèo. Chú trọng phát triển các nhóm ngành

công nghiệp chế biến nông sản để gia tăng giá trị cho 3 nhóm ngành nông nghiệp

121

mũi nhọn của vùng là lúa gạo, thủy sản và trái cây. Đồng thời phát triển các lĩnh

vực dịch vụ phù hợp với lợi thế của vùng, đặc biệt là dịch vụ du lịch sông nước cần

phát triển ở Bến Tre, Cần Thơ, Hậu Giang. Huy động nguồn lực xã hội trên tinh

thần xã hội hóa trong giải quyết vấn đề nghèo đối với các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng,

Bến Tre, Bạc Liêu. Tăng cường nguồn lực xã hội trong hỗ trợ dạy nghề cho người

nghèo, hỗ trợ xuất khẩu lao động, hỗ trợ máy móc, vật tư cho sản xuất ở các tỉnh

Long An, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Tiền Giang, Cà Mau. Để sử dụng nguồn lực

giảm nghèo hiệu quả cần lồng ghép các dự án giảm nghèo ở các địa phương để hạn

chế sự trùng lắp trong đối tượng hưởng thụ và gia tăng sự phối hợp đồng bộ của các

chương trình quốc gia tại địa phương.

Th ba, mở rộng u tư ph t triển kinh t v gi i quy t nhu c u vi c cho

người ao ộng

Nhà nước với vai trò quản lí vĩ mô nền kinh tế cần có các chiến lược phát triển

kinh tế đi liền với các chiến lược phát triển kinh tế lúa nước đặc thù của vùng, phát

huy thế mạnh để tạo công ăn việc làm cho người lao động, hạn chế tình trạng người

dân bỏ đất, bỏ vườn để tập trung về các thành phố lớn. Tây Nam Bộ cần phải có

chính sách thu hút và giới thiệu việc làm cho người dân để tận dụng khai thác tiềm

lực sẵn có tại địa phương. Bên cạnh đó Tây Nam Bộ cũng cần phát triển mạnh mẽ

hơn các loại hình đào tạo nghề, đa dạng các ngành, nghề sản xuất, khai thác. Vấn đề

tạo thêm việc làm đang đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách vĩ mô để giải

phóng mọi năng lực sẵn có của nền kinh tế mà đi đầu là nguồn nhân lực. Nhà nước

cần sớm có chính sách và cơ chế thoả đáng để tăng cường hoạt động của các cơ sở

đào tạo nghề cũng như chính sách tạo việc làm để có thể giải phóng được nhiều nhất

các tiềm lực kinh tế, nâng cao chất lượng nguồn lao động thì mới có thể hạn chế và

xoá bỏ nguyên nhân của tội phạm có nguồn gốc từ thất nghiệp, nghèo đói, nên gắn

quá trình đào tạo nghề cho người nghèo với tạo việc làm tại chỗ để tạo động lực thu

hút người nghèo học nghề. Trong đào tạo nghề cần chú trọng đào tạo nghề theo nhu

cầu của xã hội để tránh lệnh pha trong cung ứng nguồn lực. Bên cạnh đó cần gắn

kết hoạt động đào tạo với xuất khẩu lao động để nâng cao thu nhập cho người

nghèo.Bên cạnh đó, công tác động viên, khuyến khích con em của đồng bào dân

122

tộc, trẻ em ở vùng sâu, vùng xa đi học hoặc giảm tỷ lệ trẻ em bỏ học của vùng cũng

cần được quan tâm.

Th tư, t p trung ngu n c gi i quy t c c nhu c u cơ b n cho người d n:

C c nhu c u ặc bi t i n nước sạch nh ở ường i c u ph cho ng b o

d n tộc v người nghèo khu v c n ng th n v cư d n ở vùng s ng nước

Nhà nước cần đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng ở khu vực miền Tây Nam Bộ,

chú trọng đầu tư vào hệ thống giao thông đường thủy và các dịch vụ hạ tầng cho

nông nghiệp, nông thôn. Giải quyết được vấn đề nhân lực và cơ sở hạ tầng vùng

Tây Nam Bộ thì mới mở ra nhiều cơ hội thu hút và kêu gọi đầu tư, tạo việc làm và

đặc biệt là trong phát triển các ngành phi nông nghiệp gắn với lợi thế đặc thù của

vùng.

Th nă , ph t triển kinh t song song với vi c ng ph bi n ổi kh h u c a

vùng T y Na Bộ c n ph i x y d ng chương tr nh h nh ộng cụ thể trong vi c ng

phó với bi n ổi kh h u nhằ gi thiểu r i ro trong s n xuất n ng nghi p v ngư

nghi p như hạn h n ng p ụt v ngu n nước b nhiễ ặn. Với thời tiết ngày càng

phức tạp và không còn theo qui luật tự nhiên đang là nguy cơ đe dọa cho kinh tế khu

vực. Vì thế Tây Nam Bộ cần qui hoạch và phân bố lại hệ thống thủy lợi nội đồng ở các

tỉnh hợp lý để tiết kiệm nước ngọt đáp ứng được thời tiết trong mùa khô thiếu nước

sinh hoạt và tưới tiêu. Thử nghiệm trên diện rộng giống lúa chịu mặn ở những nơi

không giải quyết được thủy lợi như Bạc Liêu, Cà Mau, Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh,

đồng thời xây dựng mô hình sản xuất để người dân có thể nhanh chóng thích nghi

những biến đổi khí hậu. Thực hiện các dự án xây dựng đê các tuyến bờ sông nhằm

chống nạn sụt lở đất các tỉnh Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cà Mau, An Giang, Hậu Giang.

Phát triển các hình thức bảo hiểm trong nông nghiệp để giảm thiểu rủi ro trong sản xuất

của nông dân. Khi sinh kế của người dân và người nghèo vùng Tây Nam Bộ còn gắn

với sản xuất nông nghiệp, cần chú trọng công tác dự báo và nghiên cứu thị trường để

cung ứng sản phẩm nông nghiệp có chất lượng và thu nhập cao. Tăng cường mối liên

kết vùng giữa các tỉnh trong vùng Tây Nam Bộ cũng như mối liên kết giữa Tây Nam

Bộ với các khu vực khác để phát triển thị trường hàng hóa nông sản và các hoạt động

công nghiệp chế biến để gia tăng giá trị sản phẩm, tạo việc làm, nâng cao cao thu nhập

cho người nghèo nói riêng và người dân vùng Tây Nam Bộ.

123

Th sáu, n ng cao tr nh ộ qu n kinh t v ph t triển ngu n nh n c c a vùng

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của vùng thông qua phát huy vai trò đầu

tàu của Cần Thơ, Trà Vinh, Vĩnh Long, Tiền Giang trong đào tạo nhân lực, đặc biệt

là nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế trọng điểm của khu vực, ứng phó với diễn

biến khí hậu và hội nhập kinh tế quốc tế. Nền kinh tế thị trường nước ta được xây

dựng theo hình mẫu nền kinh tế thị trường hiện đại. Điều đó đòi hỏi trình độ quản lí

kinh tế phải tương xứng với trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự không

phù hợp giữa trình độ quản lí kinh tế với trình độ phát triển của nền kinh tế sẽ tạo ra

nhiều kẽ hở để người phạm tội lợi dụng. Việc thực hiện các chính sách hoàn thuế

giá trị gia tăng hay chính sách hỗ trợ lãi suất đã cho chúng ta thấy hậu quả của sự

không phù hợp đó. Nâng cao trình độ quản lí kinh tế trước hết đòi hỏi cần hoàn

thiện khung pháp luật về kinh tế đồng bộ để đảm bảo sự vận hành tốt của nền kinh

tế. Cần có các chiến lược ngắn hạn và dài hạn trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ

quản lí kinh tế có đầy đủ đức tài để hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ của mình. Có

như vậy mới đảm bảo loại trừ các sơ hở trong quản lí kinh tế, ngăn ngừa các nguyên

nhân làm phát sinh tội phạm trong đó có các tội xâm phạm tình dục trẻ em.

Th b y, vi c ph t triển kinh t - xã hội ph i k t h p gi i quy t t t c c y u t

ti u c c ph t sinh từ qu tr nh th h a. Việc phát triển kinh tế - xã hội luôn đi

kèm với quá trình đô thị hóa. Quá trình đô thị hóa những năm gần đây diễn ra mạnh

mẽ dẫn đến tình trạng người lao động ở khu vực nông thôn bị mất ruộng đồng và rơi

vào tình trạng không có việc làm hoặc thiếu việc làm. Tình trạng không có việc làm,

thiếu việc làm kết hợp với những khó khăn về kinh tế, dẫn tới lang thang và tệ nạn

có thể trở thành nguyên nhân khiến một số người thực hiện hành vi XPTDTE. Vì

vậy, chính quyền địa phương và đặc biệt các chủ đầu tư, doanh nghiệp khi thu hồi

đất của người nông dân cần có chính sách và biện pháp tạo việc làm cho người lao

động, đặc biệt là những người bị thu hồi đất sản xuất để giảm bớt tình trạng không

có việc làm, thiếu việc làm vốn đã rất trầm trọng ở khu vực nông thôn hiện nay.

4 2 2 2 Gi i ph p về m i trường a ý – t nhi n T y Na Bộ

Theo kết quả nghiên cứu về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

địa bàn miền Tây Nam Bộ thống kê từ năm 2007 – 2018 cho thấy các tỉnh Vĩnh

Long, Hậu Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng là những địa bàn có hệ

số tiêu cực cao nhất khu vực, xếp theo sau là Đồng Tháp, Bạc Liêu, Kiên Giang,

124

Bến Tre, An Giang, Tiền Giang, Long An. Có thể khẳng định yếu tố về địa lý cũng

là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tình hình các tội XPTDTE ở địa bàn

miền Tây Nam Bộ. Các tỉnh như: Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Hậu Giang, Cà

Mau gắn với địa hình sông nước, kênh rạch, nhà cửa dân cư cũng cách xa nhau, đều

đặc biệt ở những khu vực này khá nhiều khu nhà tạm bợ. Qua nghiên cứu cho thấy

“do ặc thù c a vùng với ùa nước nổi kéo d i v hi n tư ng ng p ũ n n nh ở

c a c c hộ vùng ng bằng s ng Cửu Long vẫn còn rất nhiều nh tạ Nh ki n c

chỉ chi 11% tổng s hộ nh b n ki n c chi 51 4% nh thi u ki n c 20 8%

nh tạ chi 16 8% Đ y cũng vùng c tỷ nh ki n c thấp nhất c nước v

tỷ nh tạ cao nhất c nước” [63]. Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long ... đây là các

tỉnh có đông người dân tộc Khơme sinh sống, đời sống kinh tế khó khăn, gia đình

đông con, trình độ dân trí không cao, kiến thức phòng ngừa tội phạm xâm hại tình

dục trẻ em chưa được quan tâm đúng mức. Để phòng ngừa các tội xâm phạm tình

dục trẻ em các Tỉnh này phải có những hoạt động cụ thể như sau:

Th nhất Ở khu vực nông thôn sâu các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre,

Đồng Tháp, Cà Mau, An Giang ... cần tập trung xây dựng đường xá, cầu đường đi

lại cho người dân, giúp người dân đi lại thuận tiện vừa có thể nối kết được người

dân ở các khu vực.

Th hai Cần có quỹ vốn để xây dựng nhà tình thương, hỗ trợ xây dựng nhà

ở cho người nghèo, người dân tộc ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long,

Đồng Tháp, An Giang ... Điều chỉnh mức hỗ trợ từ ngân sách cho việc hỗ trợ về nhà

ở cho hộ nghèo để đảm bảo được chất theo tiêu chuẩn theo Quyết định

167/2008/QĐ-TTg, các Tỉnh xem xét hỗ trợ cho những hộ nghèo đang sống trên các

kênh, rạch, thuyền, không có đất nền (khá phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long;

Gắn hỗ trợ nhà ở với công tác di dân để đưa người dân ra khỏi những địa bàn có

nhiều rủi ro, nhất là rủi ro về tính mạng. Người dân có nơi ở an toàn từ đó hạn chế

tình hình các tội XPTDTE.

Th ba Cần một đội ngũ tuyên truyền pháp luật đến những vùng nông thôn

sâu, vùng đồng bào dân tộc, tuyên truyền về công tác văn hóa, công tác phòng ngừa

tội phạm nói chung và phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng.

Tăng cường công tác truyền thông về pháp lý để người dân được hiểu và phòng

125

ngừa tội phạm, đặc biệt chú trọng việc tuyên truyền bằng tiếng dân tộc ở các khu

vực có đông người dân tộc Khmer sinh sống để người dân biết, thực hiện nâng cao

nhân thức về pháp luật. Đa dạng hóa các hình thức trợ giúp pháp lý phù hợp với

điều kiện của các địa phương, phù hợp phong tục, văn hóa của từng dân tộc.

Th tư Ở những khu vực có hệ số tiêu cực cao về các tội xâm phạm tình dục

trẻ em, cần phải có biện pháp nghiệp vụ riêng, tăng cường kiểm tra giám sát ở các

khu vực này không chỉ thời gian ban đêm mà cả ban ngày khi mà người dân đi làm

và chủ yếu chỉ có trẻ em ở nhà.

Th nă Tăng cường công tác vận động cha mẹ khuyến khích đưa trẻ em

đến Trường, tránh bỏ học do những điều kiện khó khăn về đời sống, đi lại ở khu

vực nông thôn. Hạn chế tình trạng cha mẹ cho trẻ em nghỉ học và tham gia lao động

quá sớm không phù hợp với lứa tuổi. Vì mục tiêu giảm nghèo bền vững cho tương

lai thì cần xem xét xây dựng chính sách toàn diện hỗ trợ trẻ em nghèo, bảo đảm

mục tiêu trẻ em được đến trường, nâng cao dân trí, góp phần giảm nghèo trong

tương lai.

4.2.2.3 Giải pháp về đời sống – văn hóa- tính cách của người dân miền Tây Nam Bộ

Tây Nam Bộ có 12 tỉnh và 01 thành phố mặc dù có nét tương đồng về điều

kiện kinh tế, dân cư, con người, văn hóa miền Tây Nam Bộ. Tuy nhiên ở mỗi khu

vực khác nhau sự phát triển kinh tế cũng khác nhau, thành phần dân cư cũng có

phần khác nhau, vì thế đời sống - văn hóa ở mỗi khu vực này cũng mang màu sắc

khá nhau. Do vậy chính sách quản lý của các tỉnh ở địa bàn miền Tây Nam Bộ cũng

có phần khác nhau.

Th nhất Ở các địa phương như Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, Đồng Tháp,

Bến Tre, Bạc Liêu, Vĩnh Long... nơi có tập trung nhiều thành phần dân tộc Kinh,

Khmer, Hoa, Chăm sinh sống, truyền thống văn hóa lễ hội hàng năm rất đa dạng và

hầu như diễn ra quanh năm, những địa phương này cần có những hoạt động quản lý

an ninh thiết thực gắn liền với lễ hội truyền thống, để lễ hội vừa là môi trường văn

hóa lành mạnh vừa lồng ghép tuyên truyền giáo dục lối sống cho người dân, khuyến

khích người dân chuyên tâm canh tác, hạn chế bia rượu, phát triển loại hình văn hóa

gắn kết người dân, đoàn kết xây dựng và bảo vệ môi trường văn hóa, bảo vệ con

người và bảo vệ trẻ em. Đưa nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công

126

dân, bảo vệ trẻ em trước nguy cơ xâm hại tình dục vào các hoạt động giáo dục của

xã hội thông qua các hoạt động gắn liền với lễ hội.

Th hai ở những địa phương này phát triển mạnh văn hóa tâm linh tôn giáo

như : Sóc Trăng, An Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Vĩnh Long những nơi

này khá đông người dân theo đạo Phật. Người dân tộc Kinh phần lớn theo Phật giáo

Đại thừa và người dân tộc Khmer theo Phật giáo Tiểu thừa, với số lượng chùa,

miếu, tịnh thất, Am thờ khá lớn và như phần lớn người dân khu vực miền Tây Nam

Bộ thường xuyên đến nơi này vào ngày rằm, ngày cúng, vía, người dân chú trọng

việc nghe thuyết giảng. Một số địa phương như Trà Vinh, Sóc Trăng đã chú trọng

đưa môn pháp luật đại cương vào chương trình giảng dạy Trung cấp phật học, các

tăng ni tham gia học tập từ đó trong quá trình thuyết giảng cũng đưa pháp luật đến

các phật tử và người dân. Hướng sự tín ngưỡng của người dân không xa rời pháp

luật. Đây cũng là một kênh tuyên truyền pháp luật hữu hiệu góp phần cho công cuộc

phòng ngừa tội phạm cũng như phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em.

Bên canh đó, ở miền Tây Nam Bộ thì tín ngưỡng gắn liền với đời sống người

dân do vậy ở những ngày rằm, ngày cúng phật, ngày hội vía Bà... không chỉ là

người dân địa phương mà còn rất nhiều người dân trên khắp các nơi đỗ về các tỉnh

này. Sự tín ngưỡng và văn hóa tâm linh cũng trở thành điểm khác biệt với các địa

phương khác, bên cạnh sự thuận lợi trong phát triển du lịch, kinh doanh dịch vụ

nhưng cũng có những hạn chế trong việc quản lý trật tự của khu vực, vì thế ở những

địa bàn này cần phải có sự quan tâm triệt của Nhà nước, của lãnh đạo Tỉnh khắc

phục những tình trạng lợi dụng lễ hội văn hóa, lợi dụng tôn giáo, lợi dụng đức tin để

thực hiện hành vi phạm tội, trong đó có các tội XPTDTE. Điển hình như vụ án của

Huỳnh Minh Toàn (pháp danh Thích Phước Hoàng, ngụ xã Tịnh Thới, Thành phố

Cao Lãnh, Đồng Tháp) ngày 25/2/2020, TAND quận Ninh Kiều. Thành phố Cần

Thơ đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, tuyên phạt bị cáo 6 năm tù về Tội hiếp dâm

người dưới 16 tuổi.

Đối với thành phố Cần Thơ, Kiên Giang, Long An, Tiền Giang, Cà Mau. Hầu

hết các tỉnh, thành phố này đều có sự phát triển kinh tế nổi trội và là những địa bàn

tiềm năng cho phát triển kinh tế của vùng. Do đó ảnh hưởng của sự du nhập về văn

hóa, lối sống thể hiện rất rõ rệt. Kiên Giang nổi bật về du lịch biển, Cần Thơ, Hậu

127

Giang phát triển mạnh kinh tế và du lịch miệt vườn. Cần tăng cường mô hình phát

triển du lịch gắn với việc tuyên truyền văn hóa bản sắc dân tộc và khẩu hiệu nhằm

tuyên truyền pháp luật. Bên cạnh đó các tỉnh cần tăng cường phòng ngừa các tội

xâm phạm tình dục trẻ em thông qua hoạt động du lịch tại địa phương. Quản lý,

kiểm tra, giám sát các cơ sở kinh doanh dịch vụ nhà nghỉ, khách sạn để tăng cường

phòng ngừa tội phạm.

Th ba, các địa phương trên địa bàn miền Tây Nam Bộ cần phát huy giá trị

truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây

dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha

mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương

yêu nhau. Xây dựng mỗi trường học phải thực sự là một trung tâm văn hóa giáo

dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống; giáo dục

truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ. Xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn dân cư,

các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt chuẩn thực chất

về văn hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến

bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu

quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào "To n d n o n k t x y d ng ời s ng

văn hóa".

Th tư, đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật phải nắm

vững pháp luật nhất là pháp luật bảo vệ quyền bất khả xâm phạm tình dục của trẻ

em, của người chưa thành niên; có trình độ chuyên môn cao trong hoạt động tuyên

truyền, đặc biệt là những đặc điểm tâm lý ở mỗi đối tượng cụ thể. Ngoài ra, giáo

dục nâng cao phẩm chất cán bộ, đảng viên đang là yêu cầu cần thiết nhằm tăng

cường sức mạnh của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đảm bảo loại trừ các tư tưởng, lối

sống không lành mạnh, hình thành văn hoá công sở văn minh cũng chính là loại trừ

các nguyên nhân làm phát sinh tội phạm. Mỗi cán bộ, đảng viên có trách nhiệm

thực hiện và tuyên truyền, vận động gia đình thực hiện pháp luật liên quan đến công

tác phòng, chống tội phạm. Nâng cao tuyên truyền giáo dục trong mọi tầng lớp nhân

dân, loại bỏ những tư tưởng, nhân cách, phẩm chất lệch lạc trong các tầng lớp dân

cư cũng sẽ hạn chế và loại trừ được các nguy cơ nạn nhân hoá của nhiều người. Nếu

việc tuyên truyền giáo dục huy động được sức mạnh toàn dân thì hiệu quả phòng

128

ngừa tội phạm sẽ vô cùng lớn. Ngoài ra, tăng cường và đổi mới công tác cảm hóa,

giáo dục, giúp đỡ những người phạm tội được đặc xá, tha tù, người mắc tệ nạn xã

hội tại cộng đồng và tại các trại giam, cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, trường giáo

dưỡng với những hình thức phù hợp. Quan tâm hỗ trợ những người lầm lỗi đã cải

tạo tốt để sớm ổn định cuộc sống, tái hòa nhập với cộng đồng.

Đẩy mạnh phát triển phong trào thể dục, thể thao, xã hội hóa các hoạt động

văn hóa thể thao nhằm thu hút quần chúng vào các hoạt động văn hóa lành mạnh,

bổ ích, nâng cao thể lực, sức khỏe, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo

đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mặt khác, cần kiên

quyết đấu tranh bài trừ các hủ tục lạc hậu, các thói hư tật xấu còn tồn tại trong các

cộng đồng xã hội, ngăn chặn có hiệu quả các văn hóa phẩm độc hại xâm nhập từ

bên ngoài, đấu tranh phê phán, chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực làm

ảnh hưởng xấu đến môi trường văn hóa lành mạnh trên địa bàn.

4 2 2 4 Gi i ph p về m i trường gia nh – gi o dục

Đ i với i trường gia nh:

Th nhất, qua nghiên cứu cho thấy, những bị cáo phạm tội XPTDTE trên địa

bàn miền Tây Nam Bộ chủ yếu phải sống trong các gia đình có cha mẹ người thân

không gương mẫu, thường xuyên vi phạm pháp luật, gia đình có cấu trúc không

hoàn hảo, kinh tế khó khăn hoặc được gia đình giáo dục không đúng cách. Để xây

dựng gia đình văn hóa, bền vững và mẫu mực trước tiên gia đình đó phải được xây

dựng trên cơ sở của hôn nhân tiến bộ, tuân thủ pháp luật, kết hôn tự nguyện, một vợ

một chồng. Hôn nhân tiến bộ là cơ sở để đảm bảo gia đình bền vững, hạnh phúc,

mọi người yêu thương và chung thủy với nhau. Miền Tây Nam Bộ đang đứng trước

thực trạng tỷ lệ vợ chồng ly hôn cao, mặc dù tình trạng ly hôn xảy ra ở khắp các

nơi, nhưng ở miền Tây Nam Bộ thì lại cao hơn các nơi khác, lý giải vấn đề này cho

thấy sự cộng hưởng từ môi trường sống từ những yếu tố thuận lợi của thiên nhiên,

từ tính cách đặc trưng của vùng miền, người miền Tây sống phóng khoáng không

thích gò bó, không cam chịu những áp lực của đời sống, mặc dù đây vừa là ưu điểm

nhưng đồng thời cũng là khuyết điểm, sự nối kết hôn nhân không cao, giá trị gia

đình truyền thống chưa được coi trọng. Việc giải quyết nhanh chóng những vụ án ly

hôn bên cạnh những ưu điểm trong công tác xử lý nhanh các vụ án của Tòa án

129

nhưng cũng có những hạn chế cho xã hội, do vậy trong tiếp nhận những vụ án ly

hôn, tòa án cần tăng cường công tác hòa giải hơn nữa để các cặp vợ chồng muốn ly

hôn có cơ hội trở lại đoàn tụ, cùng nhau xây dựng gia đình và nuôi dạy con cái, giúp

các bên nhận thức giá trị gia đình, vai trò của cha mẹ đối với con để vợ chồng nhận

thức được trách nhiệm của trong việc chăm sóc giáo dục con các.

Th hai, lồng ghép và tổ chức tuyên truyền pháp luật, hôn nhân gia đình và

cách nuôi dạy con cái trong các cuộc họp tổ dân phố, hội phụ nữ, họp sinh hoạt chi

bộ tại địa phương, mục tiêu đề ra cho mỗi gia đình là hôn nhân tiến bộ, gia đình văn

hóa, bền vững, mẫu mực, các thành viên trong gia đình phải gắn kết với nhau, cùng

yêu thương, chia sẻ đùm bọc, cùng có trách nhiệm với nhau; mỗi cá nhân là thành

viên trong gia đình phải biết tự mình điều tiết cảm xúc, kiềm chế và kiểm soát hành

vi để tránh những lời nói hành động xúc phạm lẫn nhau.Trong gia đình, ông bà, cha

mẹ, anh chị luôn có tác động rất lớn đến sự hình thành nhân cách, phẩm chất của

đứa trẻ. Phương hướng trong các năm tới cần đề ra mục tiêu gia đình và trách nhiệm

của gia đình trong việc giáo dục con cái và bảo vệ con cái tránh nguy cơ bị xâm hại

tình dục.

Đ i với i trường nh trường: để thực hiện được vai trò quan trọng của

giáo dục các nhà trường trên địa bàn miền Tây Nam Bộ cần thực hiện một số biện

pháp cụ thể sau: Nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp,

lối sống văn hóa của người giáo viên. Đề cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ giáo

viên, tấm gương đạo đức của người thầy, xây dựng hình ảnh mẫu mực của người

thầy trong tâm hồn của học sinh. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của thầy cô giáo.

Thầy cô giáo phải đảm bảo luôn nắm bắt kịp thời những tâm tư, nguyện vọng của

học sinh, nắm bắt mọi diễn biến tâm lý của học sinh nhất là đối với những HSSV cá

biệt để kịp thời có biện pháp giáo dục uốn nắn phù hợp và có sự phối hợp cần thiết

với gia đình và xã hội trong việc giáo dục các em.

Tăng cường giáo dục toàn diện cho HSSV. Bên cạnh việc chú trọng vào

giảng dạy kiến thức văn hóa thì nhà trường cũng cần phải quan tâm đến việc giáo

dục phẩm chất đạo đức, giáo dục pháp luật và kỹ năng sống cho các em. Ngoài ra,

việc giáo dục, trang bị kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường cũng là hoạt

động cần thiết, để giúp các em ứng phó kịp thời với những hoàn cảnh bất lợi, nhất là

khi bị xâm phạm tình dục. Cần giáo dục, trang bị cho các em các kỹ năng, như:

130

thoát hiểm khi bị tấn công, cưỡng bức; xử lý các tình huống bất lợi thường gặp như:

khi đi đường vắng, đêm tối, ở nhà một mình, tiếp xúc với người lạ, người khác

giới…; đặc biệt, cần chú ý phổ biến, giáo dục, hướng dẫn các em những kiến thức

về giới tính, ý thức cảnh giác, về cách thức tố giác, thông tin cho người lớn, các cơ

quan chức năng những hiện tượng, hành vi liên quan đến xâm hại tình dục (như dụ

dỗ, lừa phỉnh, đe dọa, lợi dụng nghề nghiệp để có hành vi dâm ô…).Nhà trường cần

phối hợp với các tổ chức Đoàn, Đội, ban đại diện cha, mẹ học sinh tổ chức các hoạt

động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, giao lưu, sinh hoạt tập thể … để học sinh

có nhiều điều kiện gặp gỡ vui chơi giải trí cùng nhau sau những giờ học trên lớp,

tạo môi trường thân thiện, lành mạnh; chủ động kiến nghị với chính quyền địa

phương trong việc quản lý các hoạt động dịch vụ văn hóa, các hàng quán chung

quanh trường, ngăn chặn văn hóa phẩm độc hại và các tệ nạn xã hội xâm nhập vào

nhà trường, ngăn chặn bạo lực học đường…

4.2.2.5 Các giải pháp về hoạt động quản lý Nhà nước trên địa bàn Miền Tây Nam Bộ

* Trong hoạt ộng kiể soát t nạn xã hội:

Miền Tây Nam Bộ cần tăng cường kiểm soát các tệ nạn xã hội TNXH nhất là

tình trạng nghiện phim ảnh sex, nghiện rượu bia và mại dâm. Các ngành, các cấp

đặc biệt là ngành văn hóa thông tin, an ninh văn hóa tư tưởng, quản lý thị trường,

truyền thông... phải kiểm soát chặt chẽ các trang web đồi trụy, các khu vực bán

phim, ảnh, sách, báo, băng nhạc, băng hình có nội dung khiêu dâm, kích dục; quản

lý chặt chẽ khu vực nhà nghỉ, khách sạn tránh trường hợp lợi dụng trẻ em, tổ chức

quay phim khiêu dâm diễn ra trong thời gian tới. Cần kiên quyết ngăn chặn một

cách triệt để nguồn cung cấp các loại sản phẩm có nội dung đồi trụy trong nước

cũng như từ nước ngoài vào nước ta. Đây là biện pháp vừa mang tính cấp bách, vừa

mang tính chiến lược lâu dài nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của các sản phẩm này đối

với xã hội. Đối với nạn nghiện rượu bia, cần giao cho các địa phương chủ trì phối

hợp với các tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị một mặt tăng cường hoạt

động tuyên truyền bằng các hình thức sinh động, hiệu quả để người dân thấy rõ tác

hại của việc uống rượu bia. Đối với nạn mại dâm, để tình hình mại dâm được lắng

dịu Ủy ban Quốc gia phòng chống các TNXH cần tiếp tục xây dựng các chương

trình trọng điểm quốc gia về phòng, chống mại dâm cũng như tăng cường vai trò

131

quản lý nhà nước từ cấp cơ sở. Xử lý nghiêm minh những trường hợp có vi phạm,

thậm chí đề nghị khởi tố hình sự nếu có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự. Cần tạo

ra dư luận của quần chúng đấu tranh mạnh mẽ với các hiện tượng tiêu cực xã hội và

các TNXH. khắc phục tình trạng thờ ơ, vô trách nhiệm, không giám tố giác, không

giám lên án hành vi TNXH, hành vi sản xuất, lưu hành, tàng trữ các sản phẩm văn hóa

độc hại lưu hành trong cộng đồng dân cư. Phát động quần chúng thu gom các sản phẩm

văn hóa có nội dung đồi trụy; tố giác các cá nhân, tổ chức lưu hành, phát tán các sản

phẩm văn hóa có nội dung đồi trụy; tố giác các hành vi TNXH.

* Trong hoạt ộng tuy n truyền phổ bi n gi o dục ph p u t : Với xu hướng

hội nhập thế giới, bên cạnh những yếu tố tích cực, luôn kèm theo những tác động

tiêu cực, những ảnh hưởng từ sự du nhập lối sống phương Tây đã tác động đến một

bộ phận dân cư làm hình thành những phẩm chất tâm lí lệch lạc như sự xuống cấp

về đạo đức, coi trọng đồng tiền, sự hám lợi, làm giàu bất chính, thói quen ăn chơi

hưởng thụ, lười lao động... Vì vậy, vấn đề vô cùng quan trọng là phải luôn tăng

cường hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục. Các cấp Ủy đảng, chính quyền từ

tỉnh đến cơ sở phải quan tâm hơn nữa trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên

truyền phòng, chống tội phạm, xác định công tác này là một trong những nhiệm vụ

trọng tâm, thường xuyên của mình. Việc tuyên truyền giáo dục phải được thực hiện

thường xuyên, rộng rãi có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, cơ

quan, chính quyền các cấp cũng như các tổ chức Đảng, các tổ chức xã hội, xã hội

nghề nghiệp. Việc tuyên truyền, giáo dục cần tập trung vào việc giáo dục để hình

thành nhân cách con người hiện đại, có phẩm chất, lối sống tốt. Tôn trọng tuyệt đối

các lợi ích công cộng, lợi ích của người khác. Tuyên truyền giáo dục để hình thành

nếp sống kỉ luật, không xâm hại đến lợi ích của người khác. Việc tuyên truyền giáo

dục cũng cần tập trung giáo dục đạo đức trong sản xuất kinh doanh, coi trọng chữ

tín, coi trọng tính mạng sức khoẻ con người, loại bỏ các tư tưởng làm giàu bất

chính, sản xuất buôn bán bất chính, bất hợp pháp, hình thành nên trong mỗi người

thói quen cư xử, làm việc và kinh doanh văn hoá. Việc tuyên truyền giáo dục chỉ

thật sự phát huy tác dụng nếu chúng ta có những chiến lược phù hợp, huy động

được sức mạnh của đông đảo các tầng lớp dân cư, các cơ quan tổ chức xã hội tham

gia một cách nhiệt tình và có trách nhiệm. Kinh tế càng phát triển thì đòi hỏi con

132

người càng phải có trách nhiệm với xã hội, với người khác và với chính bản thân

mình. Chúng ta đã có những cuộc vận động nói không với mại dâm nhất là mại dâm

trẻ em hay việc trao các giải thưởng cho các sản phẩm vì sức khoẻ cộng đồng. Bên

cạnh đó cần hướng con người vào các hoạt động có ích như ca nhạc, thể thao, du

lịch... Việc tuyên truyền, giáo dục không chỉ nhằm vào một số đối tượng mà cần

nhằm vào nhiều đối tượng nhất là lớp trẻ để hình thành trong họ sự thay đổi cơ bản

về văn hoá ứng xử, văn hoá kinh doanh. Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí

đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Chú trọng công tác quản

lý các loại hình thông tin trên mạng Internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ

cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên. Đổi mới nội dung, phương thức

hoạt động và cơ chế đầu tư theo hướng ưu tiên các cơ quan báo chí, truyền thông

chủ lực. Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng

phục vụ chủ yếu; nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học, góp phần xây dựng

nền văn hóa và con người Việt Nam.

* Trong hoạt ộng qu n ý chung c a c c cơ quan c thẩ quyền:

Trước thực trạng về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em đang diễn ra

trên địa bàn miền Tây Nam Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh trên địa bàn miền Tây

Nam Bộ đã yêu cầu các cấp, các ngành hữu quan thực hiện quản lý Nhà nước về trẻ

em theo thẩm quyền một cách hiệu quả, đảm bảo thực hiện quyền trẻ em phù hợp

với đặc điểm, điều kiện của địa phương, tích cực phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý tội

phạm về xâm hại trẻ em trên địa bàn. Do vậy công tác phòng ngừa các tội xâm

phạm tình dục trẻ em phải được triển khai và thực hiện một cách đồng bộ ở các khu

vực và có hiệu. Các tỉnh tăng cường triễn khai thực hiện như: Kế hoạch 137/KH-

UBND năm 2018 thực hiện Dự án “Đấu tranh phòng ch ng tội phạ x hại trẻ

e v người chưa th nh ni n vi phạ ph p u t v phòng ch ng bạo c gia nh

ua b n người” giai đoạn 2018-2020 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang; Ủy ban nhân

dân tình Trà Vinh ban hành Quyết định số 1655/QĐ – UBND ngày 16 tháng 8 năm

2018 thực hiện kế hoạch “Đấu tranh phòng ch ng tội phạ x hại trẻ e v

người chưa th nh ni n vi phạ ph p u t v phòng ch ng bạo c gia nh ua

bán người”. Đối với Tỉnh Vĩnh Long thì Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định

số 1090/QĐ-UBND ngày 13 tháng 5 năm 2019 về việc Ban hành kế hoạch “Đấu

133

tranh phòng ch ng tội phạ x hại trẻ e v người chưa th nh ni n vi phạ

ph p u t v phòng ch ng bạo c gia nh ua b n người”. Đối với tỉnh Cà mau

thì Ủy ban nhân tỉnh ban hành Quyết định số 1165/QĐ – UBND ngày 25 tháng 7

năm 2019 Ban hành kế hoạch triển khai, thực hiện đề án này. Ngoài ra các tỉnh

thành ở địa bàn miền tây Nam Bộ cũng triển khai thực hiện chương trỉnh “Đấu

tranh phòng ch ng tội phạ x hại trẻ e v người chưa th nh ni n vi phạ

ph p u t v phòng ch ng bạo c gia nh ua b n người”. Tuy nhiên với định

hướng và mục tiêu bảo vệ trẻ em trước tình hình mới theo Quyết định số 1863/QĐ –

TTg ngày 23.12.2019 về việc phê duyệt “K hoạch h nh ộng qu c gia phòng

ch ng bạo c x hại trẻ e giai oạn 2020 – 2025“ với mục tiêu để ra phấn đấu

100% gia đình có trẻ em được cung cấp kiến thức, kỹ năng về bảo vệ trẻ em bằng

các hình thức khác nhau; 100% học sinh được hướng dẫn, giáo dục kiến thức, kỹ

năng sống và kỹ năng tự bảo vệ trước các hành vi bạo lực, xâm hại tình dục với nội

dung phù hợp với lứa tuổi; phấn đấu 100% cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em các

cấp, cộng tác viên, tình nguyện viên được nâng cao năng lực về bảo vệ trẻ em; dịch

vụ bảo vệ trẻ em, đặc biệt là dịch vụ bảo vệ trẻ em trong trường hợp khẩn cấp được

củng cố và phát triển ở tất cả các tỉnh, thành phố. Hiện tại các tỉnh, thành phố trên

địa bàn miền Tây Nam Bộ chưa ban hành kế hoạch hành động mới triển khai thực

hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra theo kế hoạch hành động quốc gia phòng, chống

bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2020 – 2025. Do vậy các tỉnh, thành phố trên địa

bàn miền Tây Nam Bộ cần nhanh chóng triển khai thực hiện và ban hành kế hoạch

theo mục tiêu đã được đề ra từ đó có những giải pháp thiết thực cho công cuộc

phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em theo đặc điểm của từng địa bàn.

Ngoài ra các cơ quan nhà nước, đoàn thể xã hội cần tích cực tăng cường cảnh

báo của cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ trẻ em nói chung và phòng chống

vấn nạn xâm hại tình dục trẻ em nói riêng. Các Trung tâm công tác xã hội cấp tỉnh

và một số địa phương đã triển khai mô hình cảnh báo về nạn xâm hại tình dục trẻ

em. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và truyền thông về bảo vệ trẻ em: truyền

thông, phổ biến các quy định về bảo vệ trẻ em trong Luật trẻ em và các văn bản

pháp luật có liên quan để Luật trẻ em và các quy định được triển khai thực hiện một

cách hiệu quả, hiệu lực từ ngày 01/06/2017. Tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ

năng bảo vệ trẻ em, đặc biệt là phòng ngừa xâm hại tình dục và bạo lực đối với trẻ

134

em cho cha mẹ, các thành viên trong gia đình, thầy cô giáo, người chăm sóc trẻ,

người trực tiếp làm việc với trẻ em. Tăng cường truyền thông về Đường dây tư vấn

và hỗ trợ trẻ em 18001567 để mọi trẻ em, cá nhân, cơ quan, tổ chức liên hệ miễn

phí khi có nhu cầu tìm kiếm thông tin, thông báo, phối hợp với Cục trẻ em và

Đường dây trong việc tư vấn, can thiệp, hỗ trợ trẻ em bị xâm hại. Thiết lập đầu mối

tiếp cận thông tin, thông báo, tố giác; xác lập cơ chế phối hợp phòng ngừa, xử lý vụ

việc xâm hại tình dục trẻ em tại địa phương

Trong giai đoạn 2020 – 2025, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ

Văn hóa, Thể thao và du lịch cần triển khai kế hoạch hành động quốc gia phòng,

chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2020 – 2025 ở một số địa phương. Về công

tác tổ chức bộ máy, bố trí nhân lực cho hoạt động cảnh báo của cơ quan có thẩm

quyền, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cần đề nghị Ủy ban nhân dân các

tỉnh, thành phố xây dựng và thực hiện Đề án thành lập tổ chức phối hợp liên ngành

về trẻ em theo quy định tại khoản 2 điều 94 Luật trẻ em đặc biệt ở cấp xã, theo quy

định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 90 Luật trẻ em để đến năm 2025 tất cả các xã,

phường, thị trấn đều có cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em. Có thể nói việc tăng

cường hoạt động cảnh báo của các cơ quan có thẩm quyền đóng một vai trò hết sức

quan trọng trong việc phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em tạo cho các em được

sống trong một môi trường an toàn, lành mạnh để các em có thể phát triển một cách

tốt nhất.

4 2 2 6 Gi i ph p về phòng ngừa nghi p vụ c c tội x phạ t nh dục trẻ e

Trong công tác phòng ngừa các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

cần phải thực hiện các biện pháp như sau

Th nhất Tổ chức tổng kết công tác điều tra trên toàn địa bàn miền Tây Nam

Bộ, rà soát các đối tượng, lập hồ sơ quản lý các đối tượng có liên quan đến tội phạm

xâm hại trẻ em

Nội dung cần thực hiện:

+ Xác định địa bàn trọng điểm xảy ra các tội XPTDTE

+ Thống kê và tổng hợp các nội dung: số vụ phạm tội xảy ra, đối tượng gây

án, số trẻ em bị xâm hại, đặc điểm của tội phạm, nạn nhân, tình huống phạm tội…

+ Xác định tội danh trong nhóm tội XHTDTE

135

Th hai Để chủ động phòng ngừa thì các địa bàn hành chính, các khu dân

cư, tổ dân phố phải có sự kiểm tra, rà soát, từ đó phân loại đối tượng và lập hồ sơ

quản lý đối tượng, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, các đối tượng có tiền án, tiền sự.

+ Những đối tượng có khả năng, điều kiện phạm các tội XPTDTE : cơ sở có

sử dụng lao động trẻ em, kinh doanh karaoke, quán nhậu, café sân vườn, kinh doanh

nhà trọ…

+ Những đối tượng có biểu hiện nghi vấn liên quan đến hoạt động xâm phạm

tình dục trẻ em cần tập trung những đối tượng từng có tiền án, tiền sự về hành vi

phạm tội XPTDTE.

+ Những đối tượng có nghi vấn phạm tội cụ thể cần điều tra, xác minh để

làm rõ hành vi phạm tội hay không phạm tội.

Th ba Tăng cường công tác điều tra tội phạm và phòng ngừa các tội

XPTDTE trên địa bàn

Thông qua hoạt động điều tra, phát hiện tội phạm, giúp cho công tác phòng

ngừa tội phạm ngày càng phát huy hiệu quả và hạn chế những thiếu sót, việc phòng

ngừa tội phạm mang tính chủ động hơn. Địa bàn cần xây dựng đường dây nóng, xử

lý kịp thời thông tin tố giác, tăng cường công tác tuần tra trên các địa bàn, các khu

vực nông thôn. Góp phần giữ vững an toàn, trị an khu vực ở các địa bàn vừa tăng

cường phòng ngừa các tội XPTDTE.

4.2 2 7 Những gi i ph p chung về c ng t c tổ ch c th c hi n c c hoạt ộng phòng

ngừa t nh h nh tội x phạ t nh dục trẻ e tr n a b n iền T y Na Bộ

Nhà nước ta đã và đang tích cực, chủ động trong việc phòng ngừa xâm hại

tình dục trẻ em, bảo vệ trẻ em trên mọi phương diện và hạn chế đến mức tối đa

những hậu quả không mong muốn xảy ra. Minh chứng cho điều đó, chúng ta có thể

thấy được rằng hiện nay các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đang ra sức thực

hiện rất nhiều giải pháp khác nhau nhằm phòng ngừa các vấn nạn xâm hại tình dục

trẻ em.

- Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương củng cố dịch vụ bảo vệ trẻ em: rà soát, đánh

giá hoạt động, quy hoạch các cơ sở cùng cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em công lập và

ngoài công lập theo quy định tại mục 2, chương IV Luật trẻ em. Đẩy mạnh việc

136

thành lập các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em chuyên biệt, Trung tâm công

tác xã hội hoặc Trung tâm công tác xã hội trẻ em cấp tỉnh hoặc cấp huyện. Phát

triển các mô hình, điểm tư vấn bảo vệ trẻ em tại cộng đồng, điểm tham vấn bảo

vệ trẻ em trong trường học. Khuyến khích các tổ chức xã hội, cá nhân tham gia

cung cấp dịch vụ, đăng kí hoạt động cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em theo

quy định của pháp luật.

- Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề nghị phân công cụ thể trách

nhiệm chủ trì, trách nhiệm phối hợp phòng ngừa, xử lý các vụ việc xâm hại trẻ em

cho các sở, cơ quan, đơn vị, UBND các cấp. Thực hiện quy trình hỗ trợ, can thiệp

đối với trẻ em bị xâm hại, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được quy định tại các văn

bản quy phạm pháp luật. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi xâm hại trẻ em;

xử lý nghiêm các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, cá nhân che giấu, không thông

báo, không tố cáo vụ việc, hành vi xâm hại trẻ em…

- Ngoài ra Nhà nước ta cũng đang xây dựng và hoàn thiện các quy trình, tiêu

chuẩn về bảo vệ trẻ em, tránh các trường hợp trẻ em bị xâm hại. Thống nhất hoạt

động phối hợp liên ngành để xác minh, điều tra, xử lý từng trường hợp trẻ em bị

xâm hại, trong đó quy định rõ các thủ tục, quy trình và trách nhiệm phòng ngừa,

phát hiện, tố giác, trợ giúp và giải quyết các trường hợp trẻ em bị xâm hại của các

cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình, cá nhân và trẻ em.

Chủ động xác minh, nắm tình hình, diễn biến hoạt động của tội phạm xâm

hại tỉnh dục trẻ em. Có kế hoạch phòng ngừa, ngăn chặn và quản lý chặt chẽ số

lượng thanh thiếu niên chậm tiến, có tiền án, tiền sự, các băng nhóm trên địa bàn là

những đối tượng có nguy cơ phạm tội xâm phạm tình dục. Đồng thời nâng cao hiệu

quả công tác điều tra, xử lý tội phạm xâm hại tình dục trẻ em, kết hợp chặt chẽ với

công tác đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật trong thanh thiếu niên, học sinh

và vận động quần chúng nhân dân tố giác kịp thời các hành vi xâm hại tình dục trẻ

em. Đối với người phạm tội cần xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật, kiên

quyết đấu tranh không để lọt tội phạm. Tổ chức tốt các phiên tòa xét xử lưu động

đối với các vụ án xâm hại tình dục trẻ em nhưng phải đảm bảo thuần phong mỹ tục.

Qua đó nhằm tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và nâng cao trách

nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội trong công tác

137

phòng chống xâm hại tình dục trẻ em, từng bước ngăn chặn, giảm dần và tiến tới

giảm cơ bản nguy cơ trẻ em trở thành nạn nhân của các tội xâm phạm tình dục.

Đồng thời nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ, công tác viên, tình nguyện

viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em; phát huy vai trò của trẻ em trong việc

thực hiện quyền cơ bản của trẻ em theo quy định của pháp luật hiện hành.

4 2 2 8 C c gi i ph p về ch nh s ch ph p u t v hoạt ộng th c thi ph p u t c a cơ

quan ti n h nh t tụng v người ti n h nh t tụng

* Gi i ph p ho n thi n c c quy nh c a Bộ u t h nh s về c c tội x phạ

t nh dục trẻ e

Thực hiện theo tinh thần của Nghị quyết số 06/2019/NQ - HĐTP của Hội

đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 01/10/2019 “Hướng dẫn áp dụng

một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự

và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi”

Nghị quyết đã hướng dẫn cụ thể các vấn đề như: tình tiết để định tội danh,

định khung hình phạt, những trường hợp loại trừ truy cứu tránh nhiệm hình sự,

những nguyên tắc xử lý hành vi phạm tội xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Nghị

quyết đã làm rõ hành vi dâm ô (khoản 1 điều 146 BLHS 2015 SĐBS 2017) đã liệt

kê cụ thể năm hành vi được xem là dâm ô như sau: là hành vi của những người

cùng giới hoặc khác giới

Thứ 1, dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (cọ xát, chà xát…với bộ

phận sinh dục, bộ phân nhạy cạm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi.

Thứ 2, dùng bộ phận khác trên cơ thể ( tay, chân, miệng… để tiếp xúc vuốt ve, sờ,

bóp, cấu véo, hôn) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi.

Thứ 3, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp

xúc với bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi.

Thứ 4, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp

xúc với bộ phận nhạy cảm của người phạm tội hoặc của người khác.

Thứ 5, các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục

người dưới 16 tuổi

Với hướng dẫn của Nghị quyết thì các hành vi như hôn vào miệng, cổ, vai, gáy, đùi

…. của người dưới 16 tuổi cũng là căn cứ để xác định hành vi dâm ô. Quy định trên

138

cũng đã giải quyết những thắc mắc trong dư luận thời gian vừa qua: điển hình như

vụ án Nguyễn Khắc Thủy (77 tuổi) ở chung cư Lakeside, phường Nguyễn An Ninh,

TP Vũng Tàu) xâm hại tình dục cháu N; vụ Cao Mạnh Hùng (Đông Hưng, Thái

Bình), từng là cán bộ ngân hàng xâm hại tình dục bé gái 8 tuổi ở phố Tân Mai, quận

Hoàng Mai, Hà Nội; vụ Nguyễn Văn Ba ở huyện Tam Bình, Vĩnh Long dâm ô với

chính con gái ruột; vụ Nguyễn Hữu Linh dâm ô bé gái 8 tuổi trong thang máy tại

chung cư Galaxy 9, đường Nguyễn Khoái, P.1, Quận 4. TPHCM.

Th 1 mặc dù Nghị quyết có hướng dẫn không xử lý hình sự với người trực

tiếp chăm sóc, giáo dục người dưới 10 tuổi, người bệnh, người tàn tật (như cha, mẹ,

giáo viên mầm non tắm rửa, vệ sinh cho trẻ) hay người làm công việc khám chữa

bệnh, chăm sóc y tế, người cấp cứu, sơ cứu người bị nạn... Nhưng thực tiễn cho

thấy hành vi (ông bà hôn cháu, cậu chú, cô, dì hôn cháu, có thể hôn ở những khu

vực nhạy cảm vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội dâm ô theo điều 146

BLHS 2015 SĐBS 2017, với quy định này thực tiễn cho thấy tình hình tội phạm ẩn

đối với tội dâm ô người dưới 16 tuổi sẽ có tỷ lệ cao bởi vì không phải mọi trường

hợp phạm tội đều có những biểu hiện kể trên, việc xác định hành vi dâm ô thường

khó hơn các hành vi xâm phạm tình dục khác, chứng cứ ít và gây khó khăn cho

công tác điều tra. Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao cũng xác định dâm ô

(khoản 1 Điều 146 BLHS) là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới

tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh

dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính

chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục. Thực tiễn giải quyết sẽ có những

khó khăn trong việc xác định chính xác hành vi này có nhầm mục đích xâm phạm

tình dục hay không xâm phạm tình dục (trẻ em chủ động ngồi trên đùi, trên bụng

người khác, trẻ em bị tác động bởi việc cha mẹ dạy và có những lời khai về hành vi

nựng nịu và cho rằng đó là hành vi xâm hại tình dục vì vậy việc điều tra hành vi

cũng là vấn đề khó khăn cho công tác thực tiễn khi xác định. Do vậy cần hoàn thiện

cách hiểu hướng dẫn giải quyết thống nhất về hành vi dụ dỗ trẻ em để đạt mục đích

phạm tội và hành vi hôn, hít … vào bộ phận khác của trẻ em nhưng không coi là hành

vi dâm ô, hành vi khác có mục đích tình dục mà không nhằm quan hệ tình dục để việc

truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội tránh oan sai trong xét xử.

139

Th 2, hành vi tấn công tình dục không nhằm mục đích giao cấu: những hành

vi sử dụng bạo lực tấn công hay tác động vào những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể

của phụ nữ và trẻ em (nam, nữ) nhằm thỏa mãn sở thích về tình dục (như cắn, đấm,

đá, cấu... vào ngực, mông hoặc bộ phận sinh dục của nạn nhân). Hành vi tấn công

này chưa đến mức gây ra tỷ lệ thương tích nhất định hoặc người phạm tội là người

dưới 16 tuổi thì không thể xử lý hình sự. Đều này dẫn đến những bất cập trên thực

tiễn đó là khi có hành vi tấn công tình dục xảy ra đối với trẻ em lại không thể xử lý

hình sự hoặc trường hợp bị xử lý hình sự nhưng với tội danh cố ý gây thương tích khi

hành vi tấn công gây ra tỷ lệ thương tích từ 11% trở lên, đều này chưa phù hợp với mục

đích và hành vi của người phạm tội. Thiết nghĩ cần nghiên cứu và bổ sung thêm hành

vi tấn công tình dục là một tội phạm riêng trong nhóm tội xâm phạm tình dục.

Th 3, hiện nay pháp luật của nước ta xử phạt về hành vi xâm hại tình dục trẻ

em tương đối nặng so với các nước vì đây là nhóm tội nghiêm trọng. Mức án thấp

nhất là 6 tháng và cao nhất là tử hình. Tuy nhiên, loại tội phạm này ngày càng xảy

ra nhiều vì lối sống lệch lạc về tình dục ngày càng trở nên phổ biến. Quan trọng

nhất là nhận thức của xã hội về vấn đề này còn thấp, cả người phạm tội và người bị

hại, nên hiện nay loại tội phạm này chưa bị phát hiện nhiều. Đa số nạn nhân bị xâm

hại tình dục là các em lang thang nên không khởi tố những người đã phạm tội. Còn

nạn nhân thuộc gia đình có giáo dục lại không dám tố cáo vì bị đe dọa, thường giấu

giếm do mặc cảm và lo ngại ảnh hưởng đến danh dự. Vì vậy, mặc dù luật pháp xử

phạt với mức án cao nhưng thái độ của nạn nhân không quyết liệt nên không đủ

cảnh báo xã hội và răn đe nhóm tội phạm này.

* Gi i ph p hoạt ộng th c thi ph p u t c a cơ quan ti n h nh t tụng v

người ti n h nh t tụng

Ở miền Tây Nam Bộ trong thời gian qua công tác điều tra thu thập chứng cứ,

chứng minh và kỹ năng giải quyết của cán bộ trực tiếp xử lý của các tội xâm phạm

tình dục trẻ em a cũng có những hạn chế và khó khăn, điều này cũng ảnh hướng đến

việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người phạm tội do vậy kiến nghị tăng cường

thực hiện các công tác như sau: Nhanh chóng và kịp thời thu giữ dấu vết tại hiện

trường, công tác này cần phải thực hiện tỉ mỉ, toàn diện để đánh giá lời khai của bị

hại, cần phối hợp với Bác sĩ phụ sản, chuyên gia tâm lý, cán bộ được đào tạo

140

chuyên môn về chăm sóc, giáo dục trẻ em để xử lý thông tin ban đầu, thăm khám,

thu thập dấu vết, vật chứng có liên quan trên thân thể nạn nhân. Bên cạnh đó, xây

dựng cơ chế nâng cao trách nhiệm, trình độ của đội ngũ cán bộ Cơ quan điều tra,

Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thông qua các lớp tập huấn, đào đạo

- bồi dưỡng chuyên môn. Bảo đảm để đội ngũ điều tra, truy tố, xét xử luôn được

đào tạo, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ, yên tâm công tác, phát huy tinh thần

công tâm, trách nhiệm và tinh thần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ

pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ban hành qui chế phối hợp, tổ chức họp rút kinh nghiệm

về kỹ năng chuyên môn giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các

vụ án về hiếp dâm trẻ em. Thường xuyên tổng kết, đánh giá việc áp dụng pháp luật

trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hiếp dâm trẻ em, thông qua các

Hội nghị chuyên đề, tham luận nghiên cứu khoa học điển hình như: Hội th o th c

trạng v gi i ph p n ng cao chất ư ng c ng t c ấu tranh phòng ch ng tội phạ

x hại t nh dục trẻ e tr n a b n th nh ph H Ch Minh, đã triển khai thực

hiện vì thế các tỉnh miền Tây Nam Bộ cần phải có những buổi hội thảo, tập huấn

công tác này như các tỉnh, thành phố khác, từ đó đề xuất, tổng hợp ý kiến, kiến nghị

đến các cơ quan hữu quan khác quy định bổ sung, sửa đổi những quy định trong

luật hình sự nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn hiện nay. Hiện nay, chính sách khen

thưởng, bồi dưỡng đối với cán bộ công tác trong các ngành tư pháp hình sự chưa

được coi trọng đúng mức, chế độ tiền lương, chế độ thưởng và các chế độ phụ cấp

khác còn thấp nên có thể dẫn đến những tiêu cực trong quá trình giải quyết vụ án,

không đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng, khách quan của vụ án.

Ngoài ra khi tiến hình tố tụng về các vụ án xâm hại tình dục trẻ em thì mọi

thông tin, thông báo, tố giác trong quá trình tiếp nhận, xác minh phải được bảo mật

vì lợi ích, sự an toàn của người cung cấp thông tin và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em

có liên quan. Quá trình cung cấp, trao đổi thông tin phục vụ cho việc bảo vệ trẻ em

giữa nơi tiếp nhận thông tin và cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, chức năng

bảo vệ trẻ em phải được bảo mật. Thông tin, báo cáo định kỳ, đột xuất của cơ quan,

tổ chức có thẩm quyền, chức năng bảo vệ trẻ em phải xác định mức độ bảo mật và

phạm vi cung cấp thông tin, báo cáo. Bên cạnh đó thông tin bí mật đời sống riêng

tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá

141

nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá

nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá

nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán; địa

chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em;

thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em đều phải được giữ bí mật.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên môi trường mạng phải phối

hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức, cá nhân khác trong việc bảo

đảm an toàn thông tin của trẻ em trên môi trường mạng; ngăn chặn thông tin gây hại

cho trẻ em theo quy định của pháp luật về an toàn thông tin mạng. Doanh nghiệp

kinh doanh, cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải có biện pháp sử dụng dịch

vụ bảo vệ người sử dụng là trẻ em. Doanh nghiệp kinh doanh, cung cấp dịch vụ trên

môi trường mạng phải cảnh báo hoặc gỡ bỏ thông tin, dịch vụ gây hại cho trẻ em,

thông tin, dịch vụ giả mạo, xuyên tạc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ

em. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên môi trường mạng phải có

công cụ kiểm soát thời gian, bảo vệ trẻ em khỏi tình trạng lạm dụng, nghiện trò chơi

điện tử. Tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân hoạt động, cung cấp dịch vụ trên môi

trường mạng phải xây dựng hoặc sử dụng, phổ biến phần mềm, các công cụ bảo vệ

trẻ em trên môi trường mạng. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên

môi trường mạng và cá nhân khi đưa thông tin bí mật đời sống riêng tư của trẻ em

lên mạng phải có sự đồng ý của cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và trẻ em từ đủ 7

tuổi trở lên; có trách nhiệm bảo đảm an toàn thông tin của trẻ em. Cơ quan, tổ chức,

doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải sử dụng các biện pháp,

công cụ bảo đảm an toàn về thông tin bí mật đời sống riêng tư của trẻ em, các thông

điệp cảnh báo nguy cơ khi trẻ em cung cấp, thay đổi thông tin bí mật đời sống riêng

tư của trẻ em. Cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em, trẻ em từ đủ 07 tuổi trở lên và cơ

quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ trẻ em theo quy định của pháp luật có

quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ và cá nhân tham gia hoạt động

trên môi trường mạng xóa bỏ các thông tin bí mật đời sống riêng tư của trẻ em để

bảo đảm sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em.

4.2.3 Những giải pháp tăng cường và bảo vệ trẻ em - nạn nhân của các tội xâm

phạm tình dục trẻ em.

Nhìn nhận lại các vụ án xâm hại tình dục trẻ em cho thấy đối tượng thực hiện

hành vi đa số có mối quan hệ quen biết với gia đình nạn nhân. Đó là hàng xóm, bạn

142

bè của bố mẹ, anh em, thậm chí là bố đẻ, bố dượng. Chính vì thế mà không mấy gia

đình cảnh giác, đề phòng trước những đối tượng này. Nạn nhân thường là các cháu

nhỏ không có đầy đủ khả năng tự bảo vệ mình trước sự xâm hại của các đối tượng

cũng như trước pháp luật. Nhiều cháu vì bị đối tượng đe dọa nên đã giấu gia đình và

mặc nhiên trở thành nạn nhân của các hành vi xâm hại tình dục trong một khoảng

thời gian rất dài. Vì vậy cha mẹ cần thường xuyên, quan tâm, chia sẻ với con cái và

cha mẹ cũng cần phải dạy cho con biết cách phòng vệ trước những đối tượng có ý

định thực hiện hành vi đồi bại. Bởi khả năng nhận thức và tự bảo vệ của trẻ em còn

nhiều hạn chế nên các em chính là đối tượng có nguy cơ bị lạm dụng, xâm hại tình

dục cao nhất.

Theo Tiến sĩ Vũ Thu Hương - Khoa giáo dục Tiểu học, Đại học Sư phạm Hà

Nội, đã đưa một số quy tắc giúp trẻ em tránh được nguy cơ bị xâm hại tình dục.

Trong đó quy tắc về 4 vòng tròn, với bố mẹ thì được ôm; ông bà anh chị em được

khoác tay, những người họ hàng được nắm tay, người lạ thi xua tay. Đây là quy tắc

khá đơn giản để cha mẹ trao đổi và giáo dục cho con biết tự bảo vệ bản thân, tránh

bị bắt cóc hoặc bị xâm hại tình dục.

Vi c u ti n c a Gia nh dạy trẻ: Biết những “chỗ riêng tư” trên cơ thể;

biết từ chối các hành động mà trẻ thấy khó chịu, sờ mó chỗ riêng tư, hay đưa dương

vật vào mồm; không bao giờ được đi vào chỗ kín, nơi vắng vẻ với một ai nếu không

có sự đồng ý của bố mẹ., biết hô to khi cần sự giúp đỡ hay để thoát nạn, biết không

phải lúc nào cũng nghe lời người lớn, tập cho trẻ thói quen kể cho phụ huynh nghe

khi có bất cứ ai làm điều gì khó chịu hay nguy hiểm cho trẻ...

Những dấu hiệu nghi ngờ trẻ bị xâm hại tình dục: Thấy vết thương, vết bầm

khó giải thích ở miệng, vùng kín của trẻ; trẻ sợ hãi một người hoặc một nơi đặc biệt

nào đó, phản ứng không bình thường khi trẻ được hỏi chúng có tiếp xúc đụng chạm

với một người nào đó không; trẻ đi tiêu, tiểu khó, ra máu; thấy vệt máu trên quần áo

trẻ; trẻ ít tắm, sợ tắm sợ thay đồ; trẻ khó ngủ, gặp ác mộng và hay tè dầm; trẻ hay vẽ

những hình vẽ liên quan đến hành vi tình dục; bỗng hiểu rõ bộ phận sinh dục, các

hoạt động tình dục cũng như các từ ngữ liên qua. Tuy nhiên, những biện pháp nêu

trên chỉ là những lời khuyên chung nhất. Cốt lõi của vấn đề là bố mẹ phải làm sao tạo

được một môi trường tin cậy lẫn nhau, quan tâm đến con cái, bình tĩnh trao đổi với trẻ,

và đặc biệt cho trẻ biết trẻ sẽ không bị bất cứ hình phạt nào khi kể ra với bạn. Điều

143

quan trọng nhất là sự nhạy cảm và tinh tế của phụ huynh cảm nhận được những bất

thường ở đứa con yêu quý của mình.

Bên cạnh đó, môi trường xã hội ngày càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến trẻ

em bị xâm hại tình dục. Những ấn phẩm đồi trụy, internet, phim ảnh ngoài luồng có

tính chất bạo lực, khiêu dâm... cha mẹ nên quản lý và quan tâm con cái trong việc

trẻ tiếp cận xử dụng trang thiết bị máy tính, điện thoại, truyền hình. Các bậc phụ

huynh nên dạy cho trẻ những kỹ năng phòng tránh xâm hại ngay từ khi trẻ còn nhỏ

để có thể hạn chế tối đa nguy cơ trẻ bị lạm dụng. Tùy theo độ tuổi và sự hiểu biết

của các em mà cha mẹ có thể dạy cho các em những kỹ năng dù đơn giản nhất

nhưng vẫn có thể tạo được hiệu quả bất ngờ giúp các bé tự bảo vệ mình. Chính vì

vậy để bảo vệ cho các em khỏi nguy cơ bị xâm hại, các bậc cha mẹ cần giáo dục

cho con em mình nâng cao ý thức cảnh giác, tăng cường bảo vệ danh dự, nhân

phẩm của cá nhân như:

Dạy trẻ về giới tính và các vùng nhạy cảm. Đó là kỹ năng đầu nên, là nền

móng cơ bản nhất để bảo vệ các em mà cha mẹ phải dạy cho trẻ kiến thức về giới

tính và các vùng nhạy cảm trên cơ thể. Nhiều trường hợp các em bị xâm hại không

thể tự nhận biết được sự nghiêm trọng của vấn đề do còn quá non nớt và thiếu hiểu

biết. Cha mẹ cần dạy cho trẻ nhận biết rằng các vùng nhạy cảm trên cơ thể chỉ có

thể là của riêng của các bé và dạy cho trẻ biết cách bảo vệ cơ thể trước sự động

chạm của người khác nếu trẻ không thích.

Cha mẹ nên dạy cho con mình là không cho người khác chạm vào vùng nhạy

cảm. Các bậc phụ huynh nên dạy cho trẻ biết cách bảo vệ cơ thể, không cho bất kì

người nào chạm vào vùng nhạy cảm hay có những hành động ôm ấp, vuốt ve nếu

trẻ không thích hoặc cảm thấy khó chịu. Vùng nhạy cảm là của riêng bé, kể cả bố

mẹ cũng không được chạm vào nếu không có sự đồng ý của trẻ. Hãy dạy cho trẻ

biết cách từ chối và phản ứng lại nếu có người cố tình đụng chạm vào cơ thể khiến

các em thấy khó chịu. Giống như việc dạy cho trẻ tự bảo vệ cơ thể của mình thì các bậc

huynh cũng nên dạy cho trẻ chú ý không nên chạm vào vùng nhạy cảm của người khác,

nhất là với những người khác giới. Đặc biệt không nên tò mò về cơ thể của người khác.

Dạy cho trẻ tránh xa người lạ mặt, không bắt chuyện hay làm quen với bất kì

ai mà các em gặp trên đường nếu không có sự đồng ý của cha mẹ. Đồng thời, cha

144

mẹ nên cảnh báo cho trẻ những nguy hiểm có thể gặp khi bé chơi một mình với

người lạ mặt hoặc đi đến những nơi vắng vẻ, những nơi tăm tối, kín đáo. Khi trẻ ở

nhà một mình, cần dạy trẻ lưu ý an toàn và tuyệt đối không được cho bất kì người lạ mặt

nào vào nhà. Cũng nên chú ý không cho trẻ đi chơi một mình dù là chỉ sang nhà hàng

xóm hay đến nhà người quen mà không có sự theo dõi của bố mẹ. Trong trường hợp có

kẻ xấu đe dọa ép buộc trẻ phải giữ bí mật thì trẻ nên thông báo cho cha mẹ và người

thân biết. Ngoài ra, khi các em không thích tiếp xúc với bất kì người nào, các em

cũng nên chia sẻ cho cha mẹ biết và tránh xa những người mà các em không thích

hay có những hành vi cố ý đụng chạm đến thân thẻ của các em. Đó cũng là những

giải pháp khắc phục cơ bản nhất để giúp trẻ tránh khỏi việc trở thành nạn nhân của

các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Hệ thống các cơ quan bảo vệ trẻ em ở nước ta

vẫn chưa được như các nước khác trên thế giới, do đó bên cạnh việc pháp luật xử lý

nghiêm minh các đối tượng phạm tội thì việc phòng ngừa, phát hiện sớm, can thiệp

kịp thời để giảm thiểu hoặc loại bỏ các nguy cơ trẻ bị xâm hại tình dục là việc phải

được đặt ra như một giải pháp cấp bách trước khi xảy ra những vụ án đau lòng

không mong muốn.

145

Kết luận chương 4

Các tội xâm phạm về tình dục là các tội có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao

không những xâm hại nghiêm trọng đến danh dự nhân phẩm của con người mà nó

biểu hiện ở sự suy đồi đạo đức một cách nghiêm trọng của một số người trong giai

đoạn hiện nay, còn gây ra những dư luận xã hội không tốt. Để không làm mất đi

những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc đã được gìn giữ, phát huy bao đời

nay và nhất là hiện nay đối tượng dễ bị xâm hại nhất về tình dục chính là lứa tuổi

thanh thiếu niên thế hệ tương lai, kế cận của cả nước rất cần được cả xã hội có sự

quan tâm, chăm sóc đặc biệt đến. Vì vậy, hiện nay cần phải được quan tâm hoàn

thiện, nâng cao hơn nữa việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Luận án đã đề ra

những giải pháp rất cụ thể nhằm nâng cao cho công tác đấu tranh, phòng ngừa các

tội xâm phạm tình dục trẻ em như đưa ra những giải pháp đóng góp cho công tác

đấu tranh, phòng ngừa các tội xâm hại về tình dục trên địa bàn các tỉnh miền Tây

Nam Bộ trong thời gian tới.

* Biện pháp kinh tế: Đây là biện pháp nhằm tác động loại bỏ hoặc hạn chế tác

động của những yếu tố tiêu cực nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội

như tình trạng thất nghiệp, đói nghèo, việc làm không ổn định... đã góp phần thúc

đẩy sự gia tăng tình hình tội phạm, trong đó có các tội về xâm phạm tình dục trẻ em.

* Biện Pháp Đời Sống – Văn hóa: hướng đến loại bỏ những hạn chế những tác

động từ môi trường văn hóa không lành mạnh, trái đạo đức, đi ngược lại truyền

thống dân tộc, mê tính dị đoan để từ đó loại trừ khả năng tìm ẩn hình thành nhân các

lệch lạc, lối sống không lành mạnh, nhân cách không tốt.

* Biện pháp giáo dục từ Gia đình và Nhà trường thông qua nhiều phương pháp

giáo dục tích cực để định hướng cho cá nhân được phát triển hoàn thiện về nhân

cách, chú trọng việc giáo dục đạo đức lối sống, tuyên truyền phổ biến pháp luật,

tuyên truyền về phòng ngừa các tội XPTDTE, tuyên truyền các thức ứng xử và giáo

dục con cái trong các bậc phụ huynh

146

KẾT LUẬN

Với những kết quả nghiên cứu của Luận án đã cho thấy tổng thể tình hình

các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ giai đoạn 2007 -

2018, nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em, từ

đó hướng đến giải pháp phòng ngừa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình hình các tội

xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ đang ngày càng gia tăng

và có tính chất nghiêm trọng, người phạm tội ngày càng trẻ hóa. Nguyên nhân của

tình hình tội phạm này có yếu tố đặc thù của vùng như : yếu tố về kinh tế khó khăn

cha mẹ đi làm ăn xa, trẻ nhỏ sống với ông bà và người thân, yếu tố về địa hình sông

nước cũng là một trong những nguyên nhân trẻ em bị xâm phạm tình dục nhưng gia

đình, hàng xóm không phát hiện, kết cấu gia đình không bền vững cha mẹ ly hôn,

với tỉ lệ ly hôn cao trẻ nhỏ thiếu thốn sự thương yêu chăm sóc, yếu tố về lối sống

phóng khoáng và dễ thỏa hiệp của cha mẹ, bên cạnh đó trẻ em cũng chưa được quan

tâm và giáo dục đầy đủ về kiến thức giới tính nên dẫn đến rất nhiều vụ án trẻ em bị

xâm phạm tình dục nhưng không dám nói với gia đình. Với những nguyên nhân,

điều kiện xuất phát từ tình hình của địa bàn miền Tây Nam Bộ, luận án cũng cần có

những giải pháp thiết thực để đáp ứng nhu cầu phòng ngừa các tội xâm phạm tình

dục trẻ em, kiểm soát tốt loại tội phạm này trên địa bàn. Vì Các tội xâm phạm về

tình dục là các tội có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao không những xâm hại

nghiêm trọng đến danh dự nhân phẩm của con người mà nó biểu hiện ở sự suy đồi

đạo đức một cách nghiêm trọng của một số người trong giai đoạn hiện nay, còn gây

ra những dư luận xã hội không tốt. Hiện nay không riêng địa bàn miền Tây Nam Bộ

mà cả nước cũng rất quan tâm đến việc phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ

em. Luận án đã đề ra những giải pháp rất cụ thể nhằm nâng cao cho công tác đấu

tranh, phòng ngừa các tội xâm phạm tình dục trẻ em như đưa ra những giải pháp

đóng góp cho công tác đấu tranh, phòng ngừa các tội xâm hại về tình dục trên địa

bàn các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Bảo vệ trẻ em không bị xâm hại nói chung và xâm

hại tình dục nói riêng là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài không chỉ ở Việt Nam mà

trên toàn cầu. Trên thế giới có hàng triệu trẻ em bị xâm hại tình dục. Ở Việt Nam

nói chung và ở miền Tây Nam Bộ nói riêng tình hình xâm phạm tình dục trẻ em

luôn chiếm tỷ lệ cao trong số tội phạm xâm hại trẻ em. Thành phần đối tượng xâm

147

hại tình dục trẻ em chủ yếu có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi, có trình độ học vấn thấp,

thường là lao động tự do hoặc không nghề nghiệp, nhận thức về pháp luật và các

chuẩn mực đạo đức xã hội kém. Động cơ phạm tội nhằm để thỏa mãn nhu cầu tình

dục cá nhân, thủ đoạn chủ yếu là lợi dụng sự thiếu hiểu biết của các em, lợi dụng sự

buông lỏng trong quản lý đối với các em để thực hiện hành vi phạm tội. Địa bàn gây

án chủ yếu ở nhà nạn nhân, nhà thủ phạm và khu vực vắng vẻ. Nạn nhân bị xâm hại

phần lớn ở độ tuổi từ 6 tuổi đến dưới 13 tuổi, tập trung trong những gia đình khó

khăn, cha mẹ thường xuyên vắng nhà, trẻ không được quan tâm chăm sóc chu đáo.

Nguyên nhân và điều kiện của tội xâm phạm tình dục trẻ em đó là sự sai lệch

trong nhân cách, đạo đức của người phạm tội cũng như ảnh hưởng của yếu tố kinh

tế, văn hóa, xã hội làm xuất hiện những lệch chuẩn về đạo đức chỉ biết thỏa mãn

nhu cầu cá nhân của mình. Trên cơ sở đánh giá hoạt động đấu tranh phòng ngừa tội

xâm phạm tình dục trẻ em của cơ quan chức năng tại địa bàn miền Tây Nam Bộ cho

thấy hoạt động này đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, qua kết quả

nghiên cứu cho thấy vẫn còn tồn tại, khuyết điểm trong công tác đấu tranh phòng,

chống đối với loại tội phạm này. Do vậy nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em là một yêu cầu cấp thiết. Căn cứ

vào kết quả khảo sát, đánh giá và dự báo về tình hình hoạt động của tội xâm phạm

tình dục trẻ em trong thời gian tới cho thấy loại tội phạm này vẫn diễn biến phức tạp

và tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn. Qua đánh giá tình hình và dự báo làm cơ sở đề xuất

một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa loại tội

phạm này tại địa bàn miền Tây Nam Bộ trong thời gian tới. Để ngăn chặn tội phạm

này có kết quả đòi hỏi phải làm tốt công tác phòng ngừa xã hội và phòng ngừa

nghiệp vụ, có sự phối hợp đồng bộ giữa những cơ quan chức năng trong việc ngăn

chặn, phát hiện xử lý tội phạm. Đấu tranh phòng, ngừa tội phạm xâm hại tình dục

trẻ em nói chung và tội phạm xâm hại tình dục trẻ em nói riêng là một trong những

điều kiện cơ bản để bảo đảm quyền trẻ em, tạo được môi trường sống an toàn và

lành mạnh, bảo đảm cho trẻ phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, góp phần ổn

định trật tự an toàn xã hội, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất

nước.

148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

1. Diệp Huyền Thảo (2018), Hoàn thi n chính sách hình s i với các tội

xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi theo quy nh c a BLHS 2015 sửa ổi bổ sung

2017 (2/2018), Tạp chí giáo dục và xã hội ISSN 1859 – 3917

2. Diệp Huyền Thảo (2018), Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

a bàn miền Tây Nam Bộ - các bi n pháp phòng ngừa (8/2018), Tạp chí giáo dục

và xã hội ISSN 1859 – 3917

3. Diệp Huyền Thảo (2018), Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em và

d báo tình hình tội phạ tr n a bàn miền Tây Nam Bộ (11/2018), Tạp chí giáo

dục và xã hội ISSN 1859 – 3917

149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu trong nước

1. Nguyễn Xuân Anh, “C c quy nh c a ph p u t Vi t Na b o v trẻ e khỏi

b ạ dụng t nh dục”, Sách chuyên đề về pháp luật Việt Nam và công ước quốc

tế bảo vệ trẻ em trước tệ nạn lạm dụng tình dục, Nxb giáo dục, Hà Nội.

2. Nguyễn Tuấn Anh - Đinh Duy Thịnh “X hại t nh dục trẻ e v ột s gi i

ph p phòng ngừa”, 17/3/2017.

3. Trần Xuân Thiên An (2018)“Những kh khăn vướng ắc c a cơ quan ti n

h nh t tụng trong qu tr nh iều tra c c vụ n x hại t nh dục trẻ e ” tạp chí

Kiểm sát.

4. Ban chấp hành Trung ương (2013), Ngh quy t s 28-NQ/TW ngày 25/10/2013

về Chi n ư c b o v tổ qu c trong t nh h nh ới, Hà Nội.

5. Ban chỉ đạo chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm (1999) Đề án IV

“Đấu tranh phòng ch ng c c oại tội phạ x hại trẻ e tội phạ trong a

tuổi chưa th nh ni n” Hà Nội Ban chấp hành Trung ương (2010)

6. Ban chấp hành Trung ương (2012), Bộ Chính trị đã có Kết luận số 28-KL/TW

ngày 14-8-2012 “Về phương hướng nhi vụ gi i ph p ph t triển kinh t - xã

hội v b o an ninh qu c phòng vùng ng bằng s ng Cửu Long thời kỳ

2011 - 2020”, Hà Nội.

7. Ban chấp hành Trung ương (2010), Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của

Bộ Chính trị về “tăng cường s ãnh ạo c a Đ ng i với c ng t c phòng

ch ng tội phạ trong t nh h nh ới”, Hà Nội.

8. Ban chấp hành Trung ương (2012), Chỉ thị số 20- CT/TW ngày 05/11/2012

của Bộ Chính trị về “tăng cường s ãnh ạo c a Đ ng i với c ng t c chă

s c gi o dục v b o v trẻ e trong t nh h nh ới” Hà Nội.

9. Ban chỉ đạo Chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm (1999), Đề án IV

“Đấu tranh phòng ch ng c c oại tội phạ x hại trẻ e tội phạ trong a

tuổi chưa th nh ni n”, Hà Nội.

10. Ban nội chính Trung ương (2014), “Th ng b o Hội ngh Ban Chấp h nh

Trung ương Đ ng n th ch n kh a XI”, Hà Nội.

150

11. Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử về Tội hiếp dâm và một số tội

phạm khác về mặt tình dục số 329 –HS2 ngày 11/5/1967 của Tòa án nhân dân

tối cao

12. Bộ Chính trị (2002), Ngh quy t 08/NQ-TW ng y 22/01/2002 về ột s nhi

vụ trọng t c ng t c c i c ch tư ph p trong thời gian tới, Hà Nội.

13. Bộ Chính trị (2005), Ngh quy t 49/NQ-TW ng y 02/6/2005 về chi n ư c c i

c ch tư ph p n nă 2020, Hà Nội.

14. Bộ Chính trị (2005), Ngh quy t s 48- NQ/TW ng y 24/5/2005 về Chi n ư c

x y d ng v ho n thi n h th ng ph p u t Vi t Na n nă 2010 nh

hướng n nă 2020, Hà Nội.

15. Bộ Chính trị (2010), Chỉ th 48/CT- TW ng y 22 th ng 10 nă 2010 về tăng

cường s ãnh ạo c a Đ ng với c ng t c phòng ch ng tội phạ trong t nh

h nh ới, Hà Nội.

16. Bộ Công an (1994), “Tội phạ ở Vi t Na th c trạng nguy n nh n v gi i

ph p” Đề t i cấp Nh nước KX – 04 – 14 – Nxb CAND

17. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công an (2009), Th ng tư i n t ch s

34/2009/TT-LT-BGDĐT-BCA ng y 20/11/2009 c a Bộ Gi o dục v Đ o tạo-

Bộ C ng an hướng dẫn ph i h p th c hi n c ng t c b o ANTT c c cơ sở

gi o dục trong h th ng gi o dục qu c d n, Hà Nội.

18. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2010), Th ng tư s 23/2010/TTLĐTBXH

ng y 16/8/2010 c a Bộ Lao ộng- Thương binh v Xã hội quy tr nh can thi p tr

giúp trẻ e b bạo c b x hại t nh dục, Hà Nội.

19. Phạm Tuấn Bình chủ nhiệm đề tài cấp Bộ “tội phạ ẩn ở Vi t na - Th c

trạng nguy n nh n v gi i ph p”, 2003, Bộ Công an

20. Nguyễn Ngọc Bình (2010) Luận án tiến sĩ luật học “Đấu tranh phòng ch ng

tội phạ c sử dụng bạo c ở Vi t Na hi n nay”

21. Lê Văn Cảm (chủ biên) (2007), ”Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các

tội phạm)”, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

22. Nguyễn Văn Cảnh - Phạm Văn Tỉnh (2013), Một s vấn ề tội phạ học Vi t

Nam, Học viện CSND.

151

23. Thái Riết “Đấu tranh phòng ch ng c c tội ạ dụng t nh dục trẻ e tr n a b n

tỉnh S c Trăng” (2008) - Luận văn thạc sĩ, Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh;

24. Phạm Minh Chiêu (2015), “Tội phạm xâm hại trẻ em- Thực trạng và giải

pháp phòng chống”, tạp chí Cảnh sát phòng, chống tội phạm, số 9/2015.

25. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP, ngày 31/7/1998 về chương

trình quốc gia phòng, chống tội phạm, Hà Nội.

26. Chính phủ (1998), Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg ngày 31.7.1998 phê

duyệt Chương trình quốc gia phòng chống tối phạm, Hà Nội.

27. Chính phủ (2001), Quyết định số 23/2001/QĐ-TTg ngày 26/2/2001 của Thủ

tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em

Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Hà Nội.

28. Chính phủ (2004), Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg ngày 8/11/2004 của Thủ tướng

Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết số 09 và chương trình quốc gia phòng

chống tội phạm đến năm 2020, Hà Nội.

29. Chính phủ (2004), Quyết định số 38/2004/QĐ-TTg ngày 7/3/2004 của Thủ

tướng Chính phủ về Chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá nhân nhận

nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi, Hà Nội.

30. Chính phủ (2004), Quyết định 130/2004/QĐ-TTg ngày 14/7/2004 của Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động phòng, chống tội phạm

buôn bán phụ nữ và trẻ em từ 2004 - 2010, Hà Nội.

31. Chính phủ (2004), Quyết định số 19/2004/QĐ-TTg ngày 12/2/2004 của Thủ

tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình

trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động

nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010, Hà Nội.

32. Chính phủ (2004), Quyết định số 62/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ

về Chính sách phổ cập giáo dục ở cơ sở (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em

nghèo được miễn học phí, trợ giúp sách giáo khoa, vở viết khi đến trường),

Hà Nội.

33. Chính phủ (2005), Quyết định 65/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về

Việc phê duyệt đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào

cộng đồng, Hà Nội.

152

34. Chính phủ (2009), Chỉ thị số 1408/CT-TTg ngày 01/9/2009 của Thủ tướng

Chính phủ về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, Hà Nội.

35. Chính phủ (2009), Quyết định số 84/2009/QĐ-TTg ngày 4/6/2009 của Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia vè trẻ em bị ảnh

hưởng bới HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, Hà Nội.

36. Chính phủ (2015), Quyết định số 2361/2015/QĐ-TTg ngày 22/12/2015 của

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn

20162020, Hà Nội.

37. Chính phủ (2011), Quyết định số 267/2011/QĐ-TTg ngày 22/2/2011 của Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn

2011-2015, Hà Nội.

38. Chính phủ (2015), Quyết định số 1614/QĐ của Thủ tướng Chính phủ về đề

án chuyển đổi tiếp cận đo lường từ nghèo đơn chiều sang đa chiều áp dụng

cho giai đoạn 2016 – 2020

39. Chính phủ (2012), Quyết định số 1217 ngày 6/9/2012 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm giai

đoạn 2012-2015, Hà Nội.

40. Chính phủ (2019), Quyết định số 1863/QĐ – TTg ngày 23.12.2019 về việc

phê duyệt kế hoạch hành động quốc gia phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em

giai đoạn 2020 – 2025.

41. Công an thành phố Cần Thơ (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm

2007 đến năm 2017, thành phố Cần Thơ.

42. Công an tỉnh Kiên Giang (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm

2007 đến năm 2017, Kiên Giang

43. Công an tỉnh Vĩnh Long (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007

đến năm 2016, Vĩnh Long.

44. Công an tỉnh Sóc Trăng (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007

đến năm 2016, Sóc Trăng.

45. Công an tỉnh Trà Vinh (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007

đến năm 2016, Trà Vinh.

153

46. Công an tỉnh Đồng Tháp (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007

đến năm 2016, Đồng Tháp.

47. Công an tỉnh Bạc Liêu (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007

đến năm 2016, Bạc Liêu.

48. Công an tỉnh Hậu Giang (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007

đến năm 2016, Hậu Giang.

49. Công an tỉnh Long An (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007

đến năm 2016, Long An.

50. Công an tỉnh Cà Mau (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007

đến năm 2016, Cà Mau.

51. Công an tỉnh Bến Tre (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007

đến năm 2016, Bến Tre.

52. Công an tỉnh Tiền Giang (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007

đến năm 2016, Tiền Giang.

53. Công an tỉnh An Giang (2007- 2018), Báo cáo tình hình ANTT từ năm 2007

đến năm 2016, An Giang.

54. Cơ quan cộng đồng về điều tra xã hội Nam Phi (2005), “Lạm dụng và sự bóc

lột tình dục trẻ em ở Nam Phi”, Tài liệu nghiên cứu

55. Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em, (2012), Tài liệu tham khảo Bảo vệ, chăm sóc trẻ

em (lưu hành nội bộ).

56. Cục Cảnh sát hình sự - Bộ Công an (2014), Báo cáo Kết quả thực hiện công

tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi

chưa thành niên năm 2013, Hà Nội.

57. Cục CSĐTTP về TTXH (2007-2014), Báo cáo kết quả phòng, chống tội phạm

xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên năm 2007 đến

2014, Hà Nội.

58. Cục CSĐTTP về TTXH (2007-2016), Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh

chống tội phạm hình sự năm 2007 đến 2016, Hà Nội.

59. Cục thống kê tội phạm và công nghệ thông tin Viện Kiểm sát nhân dân tối

cao, (2007- 2018), Số liệu thống kê tội phạm giai đoạn 2007-2018, Hà Nội.

154

60. Danh mục các bản án xâm phạm tình dục trẻ điển hình của của Tòa án nhân

dân các tỉnh Miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 -2018.

61. Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013,

2014, 2015, 2016, 2017, 2018 phân theo địa phương. Tổng cục thống kê Việt Nam.

62. Lê Hữu Du (2015), “Đấu tranh phòng ch ng tội hi p d trẻ e ở Vi t Na

trong giai oạn hi n nay”, luận án tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.

63. Phạm Mỹ Duyên (2014), “Gi nghèo bền vững vùng ng bằng s ng Cửu

Long trong qu tr nh c ng nghi p h a hi n ại h a” Tạp chí Cộng Sản.

64. Đỗ Tiến Dũng “C c tội x phạ t nh dục i với trẻ e tr n a b n tỉnh

B nh Dương – T nh h nh nguy n nh n v gi i ph p phòng ngừa”(2014) Luận

văn thạc sỹ- Học viện Khoa học Xã hội;

65. Bùi Văn Dũng (1999) “Giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội hiếp dâm” tạp

chí Công an nhân dân số 11/1999.

66. Bùi Văn De, Th ch th c i với Đ ng bằng s ng Cửu Long trong gi nghèo

theo c ch ti p c n gi nghèo a chiều, 08/08/2016

67. Đại hội đồng Liêp hiệp quốc (1989), Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

68. Đảng cộng sản (2012), Chỉ thị số 20/CT-TW ngày 05/11/2012 của Bộ chính

trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo

dục trẻ em trong tình hình mới, Hà Nội.

69. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Báo cáo tình hình, kết quả thực hiện Nghị

quyết 09/NQ-CP chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm năm 2010 của

Ban chỉ đạo 138/ CP, Hà Nội.

70. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

(2001), thứ X(2006); thứ XI(2011); thứ XII(2016), Hà Nội.

71. Nguyễn Duy Dũng “Gi i ph p gi nghèo bền vững i với c c d n tộc

người thiểu s ở khu v c T y Na Bộ hi n nay” 11/2018. Tạp chí Mặt Trận

Việt Nam.

72. Nguyễn Minh Đức “ M i quan h giữa ạ dụng t nh dục trẻ e tr c tuy n

với ạ dụng trẻ e th c t ” Kỷ yếu hội thảo “xâm hại tình dục trẻ em nguyên

nhân và giải pháp phòng chống” tháng 4/2015;

155

73. Thanh Đỗ “X hại t nh dục trẻ e ơ Vi t Na – Nguy n nh n v c c gi i

ph p phòng ch ng” Hội th o khoa học – Tạp chí nghiên cứu lý luận, nghiệp

vụ, khoa học của Học viện cảnh sát nhân dân (17/4/2015)

74. Đỗ Đức Hồng Hà (2010), “Th c trạng v gi i ph p ấu tranh phòng ch ng tội

phạ x hại t nh dục trẻ e ở nước ta hi n nay’ 19/2017, tạp chí Tòa án nhân

dân.

75. Đỗ Đức Hồng Hà, (2007) Luận án tiến sĩ luật học “Tội gi t người trong Lu t

h nh s Vi t na v ấu tranh phòng ch ng tội phạ n y”

76. Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.

77. Phạm Hồng Hải (chủ biên) (2003), “C c quy nh c a ph p u t về hoạt ộng

phòng ch ng tội phạ x hại trẻ e – th c trạng v phương hướng hoàn

thi n”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 5/2003.

78. Phạm Hồng Hải: “Tội phạ học Vi t Na - Một s vấn ề ý u n v th c

tiễn”, năm 2000, tr103

79. Nguyễn Ngọc Hòa (2015) “Tội phạm học và cấu thành tội phạm” nhà xuất bản

Tư Pháp.

80. Nguyễn Ngọc Hòa (2009), “Các khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm

trong tội phạm học”, tạp chí Luật học, tháng 6/2009.

81. Nguyễn Ngọc Hòa (2009), “Cấu thành tội phạm: lý luận và thực tiễn”, Sách

chuyên khảo, Nxb tư pháp, Hà Nội.

82. Nguyễn Ngọc Hòa – chủ biên (2017) “Bình lu n khoa học Bộ Lu t hình s

nă 2015 – sửa ổi bổ sung nă 2017” (phần chung và phần các tội phạm)

xuất bản 2017, nhà xuất bản Tư Pháp.

83. Học viện Cảnh sát nhân dân (2010), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

84. Phạm Quốc Huỳnh“Tội phạ hi p d th c trạng v gi i ph p” tạp chí Công

an nhân dân số 1/1999

85. Trịnh Thị Thu Hương (2004) Luận văn thạc sĩ “C c tội phạ t nh dục v ấu

tranh ch ng c c tội phạ n y ở Vi t Na trong giai oạn hi n nay” - Học

viện KHXH

156

86. Nguyễn Thị Hương (2012) “Hoạt ộng phòng ngừa tội phạ hi p d trẻ e

c a c ư ng C nh s t iều tra tội phạ về tr t t xã hội C ng an th nh ph

H Nội” Học viện CSND.

87. Nguyễn Văn Hùng (2015), “Hoạt động của lực lượng cảnh sát nhân dân trong

phòng ngừa tội hiếp dâm trẻ em tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ”, luận án tiến

sĩ, Học viện CSND.

88. Phạm Mạnh Hùng (2002), “Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về

các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2002.

89. Đỗ Ngọc Khanh và Anita Dodds (2011), “Phân tích về bóc lột tình dục trẻ em

vì mục đích thương mại ở Việt Nam”, Unicef Việt Nam.

90. Nguyễn Mạnh Kháng, Nh n th n người phạ tội – i tư ng nghi n c u c a

tội phạ học - trong sách Tội phạm học Việt Nam, NXBCAND, 2000, Tr99

91. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh (2011) Luận văn thạc sĩ “B o v quyền c a nạn

nh n c c tội x phạ t nh dục trẻ e dưới g c ộ quyền con người” Đại học

Luật. TPHCM;

92. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh (2004) luận văn “Vai trò c a c c ch thể trong

vi c phòng ngừa c c tội x phạ t nh dục người chưa th nh ni n phạ tội ở

c c tỉnh ph a Na ” Đại học Luật. TPHCM;

93. Kho dữ liệu dân số 2009 – số liệu mẫu của tổng điều tra dân số và nhà ờ

1/4/2009.

94. Đào Trí Úc, Tình hình nghiên cứu tội phạm học ở Việt Nam hiện nay, Trong

sách: Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập thể tác

giả do PGS.TS. Luật sư Phạm Hồng Hải chủ biên, NXB Công an Nhân dân,

Hà Nội, 2000.

95. Dương Tuyết Miên, Tội phạm học đại cương, (2013),Nxb. Chính trị - Hành

chính, Hà Nội, tr.47.

96. Dương Tuyết Miên “Về c c tội x phạ t nh dục trong u t h nh s Vi t

Nam”, 1998, Tạp chí Luật học số 06;

97. Nguyễn Đức Mai (chủ biên) (2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999,

SĐBS 2009, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội

157

98. Phan Thị Ngoan (2013) “Đấu tranh phòng ch ng tội hi p d tr n a b n

Tỉnh S c Trăng” Học vi n KHXH

99. Bùi Bé Năm “N ng cao hi u qu hoạt ộng phòng ngừa iều tra xử ý tội

phạ x phạ t nh dục trẻ e tr n a b n tỉnh An Giang” (2007) - Học viện

CSND;

100. “Một s vấn ề Tội phạ học Vi t Nam” Tài liệu tham khảo - Bộ Công An,

Học viện cảnh sát nhân dân, tr354, 2013, Hà Nội

101. Nguyễn Ngọc Minh (2014), “Quy nh c a ph p u t h nh s i với vi c xử ý

tội phạ x hại t nh dục trẻ e - Những vấn ề ý u n v th c tiễn”, kỷ yếu

hội thảo xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam- nguyên nhân và giải pháp phòng

chống, Học viện CSND tháng 4/2014.

102. Phòng xây dựng văn bản – vụ thống kê tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao

(2013) Giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm về

xâm hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em gái.

103. Nguyễn Thị Ngọc Linh “C c tội x phạ t nh dục trong u t h nh s Vi t

Na ” 2019, Trường Đại học quốc gia Hà Nội.

104. Võ Thị Kim Oanh, Lê Nguyên Thanh, Phạm Thái (2008) Đề tài nghiên cứu cấp

Trường “Đấu tranh phòng ch ng c c tội x phạ t nh dục người chưa th nh

ni n tại c c T nh Ph a Na ” Đại học Luật TP.HCM

105. Đỗ Ngọc Quang, Giáo trình Tội phạ học (biên soạn lần thứ ba có sửa đổi, bổ

sung) của Khoa Luật. Trường đại học KHXH và Nhân văn. NXB. Đại học

Quốc gia Hà Nội, 1992, tr.132

106. Đỗ Ngọc Quang, Giáo trình Tội phạ học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,

năm 1995, tr8

107. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt năm

1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

108. Quốc hội (2017), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt năm

2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

109. Quốc Hội (2016), Luật trẻ em, Hà Nội.

110. Quốc Hội (2013), Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 2013, Hà Nội.

158

111. Quốc Hội (2014), Nghị quyết số 76/2014/QH13 về việc đẩy mạnh thực hiện

mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020.

112. Học Viện Cảnh sát nhân dân (2013), „Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam”

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

113. Hồ Sỹ Sơn (2008), “Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật hình sự nước

ta với pháp luật hình sự của một số nước thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu

lục địa”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2008, tr.68-72

114. Lê Văn Tính (2009), “Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm tình dục trẻ

em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Thành

phố Hồ Chí Minh.

115. Phạm Văn Tỉnh (1996), Cơ chế hành vi phạm tội cơ sở để xác định nguyên

nhân và biện pháp phòng ngừa tội phạm, Tạp chí Kiểm sát, số 1/1996

116. Phạm Văn Tỉnh (2000), “Các phương pháp nghiên cứu tình hình tội phạm,

một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

117. Phạm Văn Tỉnh (2007), “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt

Nam”, Sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

118. Phạm Văn Tỉnh (2007), ”Khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm dưới góc

độ tội phạm học”, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2007.

119. Phạm Văn Tỉnh (2008), ”Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ở

nước ta hiện nay – Mô hình lý luận”, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số

6/2008.

120. Phạm Văn Tỉnh, “Tội phạm học Việt Nam và phòng ngừa tội phạm”, tạp chí

Nhà nước và pháp luật, 4/2009

121. Phạm Văn Tỉnh (2011), Phòng ngừa tội phạm và vấn đề bảo vệ quyền con

người – một nghiên cứu liên ngành tội phạm học và nhân quyền học, Tạp chí

Công an nhân dân, số 7/2011.

122. Phạm Văn Tỉnh (2013) Giáo trình Tội phạm học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

123. Hà Xuân Tùng (2010) “Đấu tranh phòng ch ng c c tội x phạ t nh dục trẻ e

tr n a b n Th nh ph H Nội” Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

124. Võ Thành Tốt (2002) sĩ “Hoạt động của lực lượng CSND trong phòng ngừa và

điều tra tội phạm hiếp dâm trẻ em xảy ra trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp”

159

125. Tòa án nhân dân Tối cao (1967), Bản tổng kết số 329/HS2 ngày 11/5/1967, Hà Nội.

126. Tòa án nhân dân Tối cao (2008- 2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2008

đến năm 2018

127. Lê Văn Thiệu (2015), “Đặc điểm nạn nhân trong các vụ án về xâm phạm tình

dục trên địa bàn tỉnh An Giang và giải pháp phòng ngừa”, tạp chí khoa học

giáo dục CSND, số 9/2015.

128. Trịnh Thị Thu Thủy (2015), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa

tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh An Giang”, tạp chí khoa

học giáo dục CSND, số 5/2015.

129. Diệp Huyền Thảo (2014) “Các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em trên địa

bàn tỉnh Trà Vinh – Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” - Luận

văn thạc sĩ - Học viện Khoa học Xã hội

130. Nguyễn Ngọc Thế “Tội phạ cấu th nh tội phạ Những vấn ề ý u n v

th c tiễn” 2013 Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – sự thật

131. Kiều Đình Thụ (2001) Chủ thể của tội phạm – Giáo trình: Luật hình sự Việt

Nam, ĐHQGHN, Hà Nội, 2001, tr92

132. Thống kê của Tòa án nhân dân tối cáo về các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em

trên cả nước giai đoạn 2008 -2013.

133. Thống kê của Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (Unicef) 15/5/2017: Những

thống kê đáng sợ về nạn xâm hại tình dục trẻ em

134. Nguyễn Ngọc Trai (2015), “Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm

xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền tây nam bộ và giải pháp phòng

ngừa”, tạp chí khoa học giáo dục CSND, số 6/2015.

135. Trần Hữu Tráng “Nạn nhân của Tội phạm”, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2011

136. Trần Hữu Tráng “Bàn về khái niệm nạn nhân của tội phạm” tạp chí Luật học

số 01/2002

137. Vũ Đức Trung “Tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ở các tỉnh, thành phố

phía Nam, thực trạng và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh”(2005) Trường Đại

học CSND;

138. Trường Đại học CSND (2004), Giáo trình tổ chức hoạt động phòng ngừa, phát

hiện và điều tra, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

160

139. a Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội., 139b Giáo trình tội phạm học, tái bản 2015, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

140. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2010), Giáo trình luật hình sự

Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

141. Vũ Xuân Trường (2002), “Hoạt động phòng ngừa tội phạm của lực lượng

CSND ở cơ sở hiện nay và những giải pháp hoàn thiện”, luận án tiến sĩ luật

học, Học viện CSND.

142. Viện Kiểm sát- Tòa án- Bộ Công an- Bộ Quốc phòng (2005), Thông tư liên

tịch số 01/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQPngày 01/7/2005 hướng dẫn

thi hành một số quy định của pháp luật trong công tác thống kê hình sự, thống

kê tội phạm, Hà Nội.

143. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam, một

số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

144. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1994), “Tội phạm học, Luật hình sự,

Luật tố tụng hình sự” Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

145. Võ Khánh Vinh (2000), “Dự báo tình hình tội phạm, Tội phạm học Việt

Nam”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

146. Võ Khánh Vinh (2011), “Giáo trình tội phạm học”, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội.

147. Võ Khánh Vinh (2014), “Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung)”,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

148. Võ Khánh Vinh (1999), “Gi o tr nh tội phạ học”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

149. Võ Khánh Vinh, Đào Trí Úc, Nguyễn Mạnh Kháng (2000), “Tội phạ học

Vi t Na : Một s vấn ề ý u n v th c tiễn”, Sách chuyên khảo, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội.

150. Trịnh Tiến Việt. 2008. Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội phạm

học, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, kinh tế - Luật (2008) 185 - 199

150 a.Trịnh Tiến Việt. 2013. Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị quốc gia.

151. Nguyễn Xuân Yêm (2001), “Tội phạ học hi n ại v phòng ngừa tội phạ ”,

Sách chuyên khảo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

161

152. Nguyễn Xuân Yêm (2005), “Phòng ch ng c c oại tội phạ ở Vi t Na thời

kỳ ổi ới”, Sách chuyên khảo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

153. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

154. “Gi i p vướng mắc trong hoạt ộng, th c hành quyền công t , kiểm sát vi c

khởi t , iều tra, truy t , xét xử các vụ án, vụ vi c xâm hại phụ nữ trẻ e ”

Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2019, Nhà xuất bản Tư pháp.

Tài liệu nước ngoài

155. Frank – Schmalleger (2002) Criminology Today, Nxb Prentice Hall, Perbroke,

Hoa Kỳ. (Sách Criminology Today, nhà xuất bản Prentice Hall năm 2002,

Trường Đại học Bắc Cariolina ở Perbroke (Mỹ) của Tiến sĩ triết học Giáo sư

danh dự Frank – Schmalleger chủ biên)

156. Casare Beccaria 5th.ed “On crimes and Punishments” Translation, annotations,

and introduction by Graeme R. Newman and Piertro Margongu.

157. Fance Heidensohn (31, Jan, 1989) “Crime and Society” ISBN - 13:

9780333435281

158. Rob White Haines (2000) “Crime and Criminology” , Trường đại học Oxford,

xuất bản năm 2000

159. Larry Siege (2014)“Cri ino ogy – The Core” Nhà xuất bản Cengage

Learning, năm 2014

160. Stephen R. Schneider “Cri e prevension theory and practice” khoa học xã

hội học và tội phạm, thuộc Đại học Saint mary, Halifax, Nova Scotia, Canada.

161. “ Crimes and Justie in Contemporary Japa” 1989, Trường Đại học Tổng hợp

Ritsumeikan, tác phẩm do GS.TS Nguyễn Xuân Yêm và GS.TS Hồ Trọng

Ngũ dịch từ bản tiếng Nga của Nxb Tiến Bộ, Maxcova năm 1989.

162. Mikovskij G.M, “Teoretichskiye osnovy preduprezhdeniya prestupnosti” d ch

“Cơ sở ý u n c a vi c phòng ngừa tội phạ ” , Nxb.Max-xcơ-va, Jurid,

Literature, năm 1977, (bản dịch của Viện thông tin Khoa học xã hội, năm

1982).

163. Anita Carlsteadt, “ChildSexual Abuse:Crimes, Victims, Offender

Characteristics and Recidivis ”, 2012. Trung tâm Đạo đức, Pháp luật và Sức

162

khỏe Tâm thần Viện Khoa học thần kinh và Sinh lý học Học viện Sahlgrenska

tại Đại học Gothenburg.

164. Christina Back “The Legal Process In Child Sexual Abuse-Difficulties in

confirming evidence and providing support”, Master Thesis , Linköping

University, Sweden, 2012.

165. GS David Frikelhor, “United States child abuse prevention” by Prevent child

Abuse America, công bố năm 2000.

166. “National Plan to Prevent the Sexual Abuse and Exploitation of Children ” của Liên hiệp quốc gia về phòng ngừa lạm dụng tình dục và bóc lột trẻ em Hoa kỳ, xuất bản tháng 3/2012.

167. Diana E.H.Russell và Rebecca M.Bolen “The Epidemic of Rape and Child Sexual Abuse in the United States” , Nxb Sage Publication Inc, 2000.

168. “The Issue of Sexual Violence against women in Contemporary India” – công

bố ngày 7/2/2013 của tổ chức Human Rights Watch.

169. Don Grubin “Sex offending against children : understanding the risk ” của tổng cục nghiên cứu phát triển và thống kê (Anh), xuất bản năm 1998. 170. Master Thesis: Sandra Neuman, Linnæus University. “The issue of sexual

vio ence agaist wo en in conte porary in India” (2013).

171. Ph.D (Doctor of Philosophy): Anna Michele Viviani - University of Iowa,

“Counselor meaning- aking: working with chi dhood sexua abuse survivors” (2011)

172. Master of Science Degree in Education: Kyrsha M. Dryden, “Chlid Abuse and

Neglect “(2009)

173. Katie Ann Martin, “Domestic Violence, Sexual Assault, and Sex Trafficking

in the Media: A Content Analysis “ (2013).

174. Ph. D Thesis: Kleijn, Amelia Ann, “ The demographic profile and

psychosocial history of a group of convicted perpetrators of the rape of children under the age of three years” (2010).

175. Lisa Korn, University of Wisconsin-Stout, “A Literature Review On School

Child Sexual Abuse Prevention Programs”, (May 2004).

176. Denise A. Hines, David Finkelhor (2006 ). “Statutory sex crime relationships between juveniles and adults: A review of social scientific research”, 12 : 300- 314 ( CV150 )

163

177. Diana E.H.Russell và Rebecca M.Bolen “ Nạn hiếp dâm và lạm dụng tình dục trẻ em ở Hoa Kỳ” Công trình nghiên cứu, Nxb Sage Publication Inc, 2000 (336tr)

178. Finkelhor, D, Ormrod , R. và Jones , L. (2009 ) “Violence, abure, and crime to

violence, 2003 - 2011. JAMA prediatris, 168 (6), 540 - 546.

179. Tội phạm học XôViết, Matxcova 1966, trang 112

164

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DIỆP HUYỀN THẢO CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN TÂY NAM BỘ: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG NGỪA PHỤ LỤC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2020

MỤC LỤC PHỤ LỤC

Trang

Bảng 2.1 Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2017 thống kê theo số vụ án Pl.1

Bảng 2.2 Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2017 thống kê theo số bị cáo Pl.2

Bảng 2.3 Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

Pl.3

Bảng 2.4

địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2017 tính trên 100.000 dân So sánh mức độ tình hình các tội XPTDTE với tình hình tội phạm xâm hại trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ từ năm 2007 đến năm 2017 Pl.4

Pl.5

Bảng 2.6

Bảng 2.5 Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ so với Đông Nam Bộ trên cơ sở dân số và diện tích. Cấp độ nguy hiểm của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích. Pl.5

Bảng 2.7 Mức độ tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa

Pl.6

Bảng 2.8

Pl.7

Bảng 2.9

bàn Tây Nam Bộ so với số liệu các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn cả nước từ năm 2007 – 2018. Diễn biến của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018. So sánh diễn biến tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 PL7

Bảng 2.10 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

địa bàn miền Tây Nam Bộ xét theo tội danh – QĐ BLHS1999 – SĐBS 2009 Pl.7

Pl.8

Bảng 2.11 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên cơ sở dân số của các tỉnh thành thuộc địa bàn Tây Nam Bộ. Bảng 2.12 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên cơ

sở diện tích của các tỉnh thành thuộc địa bàn Tây Nam Bộ. Pl.9

Bảng 2.13 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích trên địa bàn Tây Nam Bộ Pl.10

Bảng 2.14 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo thời gian gây án Pl.11

Bảng 2.15 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 theo địa điểm phát sinh tội phạm Pl.12

Bảng 2.16 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo độ tuổi của nạn nhân Pl.12

Bảng 2.17 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo thủ đoạn phạm tội Pl.13

Bảng 2.18 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo mối quan hệ giữa nạn nhân với người phạm tội Pl.13

Bảng 2.19 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo độ tuổi của người phạm tội Pl.14

Bảng 2.20 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo độ tuổi của người phạm tội Pl.15

Bảng 2.21 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo nghể nghiệp của người phạm tội. Pl.15

Bảng 2.22 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo cơ cấu dân tộc của người phạm tội Pl.16

Bảng 2.23 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo hoàn cảnh gia đình Pl.16

Bảng 2.24 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo hình phạt áp dụng đối với người phạm tội Pl.17

Pl.17 Bảng 2.25 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo đặc điểm pháp lý – hình sự

Bảng 2.26 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo đặc điểm người phạm tội sử dụng bia, rượu và các yếu tố kích thích khác. Pl.18

Pl.18 Bảng 2.27 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét thống kê theo số vụ, số bị can phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em bị đình chỉ điều tra, truy tố, xét xử

Bảng 2.28 Cơ cấu của tình hình xâm phạm tình dục trẻ em xét theo vụ án có hành vi xâm phạm tình dục nhiều lần trước khi bị phát hiện trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét

PHỤ LỤC BIỂU ĐỒ Pl.19 Trang

Biểu đồ 2.1 So sánh tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây

Nam Bộ với tình hình XPTD trẻ em của cả nước từ năm 2007 – 2018 Pl.20

Biểu đồ 2.2 Diễn biến tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

địa bàn Miền Tây Nam Bộ Pl.20

Biểu đồ 2.3 Diễn biến tình hình các tội về xâm phạm tình dục trẻ em

trên các địa bàn miền Tây Nam Bộ Pl.21

Biểu đồ 2.4 Diễn biến tình hình các tội về xâm phạm tình dục trẻ em

trên các địa bàn xét theo tội danh Pl.22

Biểu đồ 2.5 Cơ cấu theo độ tuổi của nạn nhân bị xâm phạm tình dục

trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

Pl.22 Pl.23

Biểu đồ 2.6 Cơ cấu về mối quan hệ giữa nạn nhân với người phạm tội Biểu đồ 2.7 Cơ cấu về độ tuổi của người phạm tội XPTDTE trên địa

bàn miền Tây Nam Bộ Pl.23

Biểu đồ 2.8 Cơ cấu theo trình độ văn hóa của người phạm tội về xâm

phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ Pl.24

Biểu đồ 2.9 Cơ cấu theo nghề nghiệp của người phạm tội về xâm phạm

tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ Pl.24

PHỤ LỤC

Bảng 2.1 : Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 - 2018 thống kê theo số vụ án [100]

Kiên Giang số vụ Bạc Liêu số vụ Cà Mau số vụ Trà Vinh số vụ Bến Tre số vụ Long An T.Giang Tổng số vụ số vụ Cần thơ số vụ Sóc Trăng số vụ

Hậu Giang số vụ 22 18 19 21 20 23 25 30 30 28 26 262 25 287 19 16 20 18 22 24 27 25 27 30 29 257 31 288 Đồng Vĩnh Long Tháp số vụ số vụ 28 21 24 22 27 24 35 30 35 32 29 307 28 335 25 20 22 23 25 25 28 30 29 30 27 284 31 315 An Giang số vụ 23 18 22 17 20 20 27 32 35 34 38 286 43 329 38 25 18 27 27 28 30 35 31 37 35 331 37 368 Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 TC 2018 TC 14 13 15 14 19 19 21 23 18 25 30 211 32 243 45 42 48 51 53 47 45 55 55 57 60 558 53 611 20 18 15 17 14 19 25 39 36 24 26 253 38 291 17 15 13 14 11 12 15 18 20 22 24 181 31 212 21 19 16 19 21 23 20 24 21 23 25 232 34 266 38 42 40 35 37 32 30 35 40 47 45 421 41 462 15 12 14 14 15 18 20 22 24 28 28 210 27 237 325 279 286 292 311 314 348 398 401 417 422 3793 451 4244

Pl.1

Bảng 2.2 : Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 - 2018 thống kê theo số bị cáo [100]

Cà Mau Trà Vinh Bến Tre Long An Tiền Giang Tổng Cần thơ

Hậu Giang 22 19 19 21 20 23 26 30 31 28 27 266 27 293 Sóc Trăng 38 25 19 27 28 28 31 35 31 37 35 334 40 374 Vĩnh long 25 20 23 23 25 26 28 31 29 30 27 287 32 319 Đồng Tháp 28 22 24 22 27 25 35 31 35 32 30 311 33 344 An Giang 23 19 22 17 20 21 27 33 35 34 38 289 45 334 Kiên Giang 38 42 41 35 37 32 32 35 42 47 45 426 44 470 Bạc Liêu 15 13 15 14 20 19 21 23 19 25 32 216 35 251 19 17 20 19 22 24 28 25 27 30 29 260 33 293 Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 TC 2018 TC 45 42 49 51 53 48 45 55 56 57 60 561 56 617 21 20 15 17 14 19 25 40 38 25 26 260 40 300 17 16 13 15 11 13 15 18 20 23 24 185 32 217 21 19 17 19 21 23 21 24 22 23 25 235 37 272 15 12 14 16 15 18 21 22 25 28 28 214 29 243 327 286 291 296 313 319 355 402 410 419 426 3844 483 4327

Pl.2

Bảng 2.3 : Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 – 2018 tính trên 100.000 dân [100]

Năm Bị Cáo

2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 327 286 291 296 313 319 355 402 410 419 426 483 Dân số (nghìn người) 17.524.000 17.695.000 17.213.400 17.272.200 17.330.900 17.390.500 17.478.900 17.517.600 17.590.400 17.660.700 17.710.000 19.030.780 Hệ số tội phạm XPTDTE 1,86 1,61 1,69 1,71 1,80 1,83 2,03 2,29 2,33 2,37 2,40 2,53

Pl.3

Bảng 2.4 So sánh mức độ tình hình các tội XPTDTE với tình hình tội phạm xâm hại trẻ em trên địa bàn miền Tây

Nam Bộ - từ năm 2007 - 2018 [100]

Năm Tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn TNB Tình hình tội phạm XHTE trên địa bàn TNB Tỷ lệ %

2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 TC 2018 TC số vụ (1) 325 279 286 292 311 314 348 398 401 417 422 3793 451 4244 số bị cáo (2) 327 286 291 296 313 319 355 402 410 419 426 3844 483 4327 số vụ (3) 345 321 332 336 334 385 368 432 415 453 447 4198 486 4684 số bị cáo (4) 352 338 343 341 345 391 371 441 453 461 453 4289 492 4781 (1)/(3) 94,2 86,9 86,1 86,9 93,1 81,5 94,6 92,1 90,1 92,0 94,4 90,3 92,7 90,6 (2)/(4) 92,8 84,6 84,8 86,8 90,7 81,5 95,7 91,1 90,5 90,8 94,1 89,6 98,1 90,5

Pl.4

Bảng 2.5. Mức độ của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ với Tây Nguyên và Đông

Nam Bộ trên cơ sở dân số và diện tích từ năm 2007 - 2017 [100]

STT Khu Vực Số vụ Số bị cáo Dân số (người) Số dân/bị cáo Số bị cáo/diện tích

Diện tích (Km2) 40.576.00 1 Tây Nam Bộ 17.517.600 3793 3844 4.557 0,094

2 Đông Nam Bộ 15.790.400 23.590,70 3.123 3255 4.851 0,137

3 Tây Nguyên 6.525.800 54.691,00 1072 1189 5.488 0,021

Bảng 2.6 Cấp độ nguy hiểm của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Tây Nam Bộ, Tây Nguyên và Đông

Nam Bộ trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích. [100]

Hệ số tiêu cực Cấp độ nguy hiểm Khu Vực

STT 1 Tây Nam Bộ Thứ bậc đã xác định theo dân số 1 Thứ bậc đã xác định theo diện tích 2 3 1

2 Đông Nam Bộ 2 1 3 2

3 Tây Nguyên 3 3 6 3

Pl.5

Bảng 2.7 Mức độ tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ so với

số liệu các tội xâm phạm tình dục của cả nước từ năm 2007 - 2018 [100]

Tỷ lệ % Tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn Miền Tây Nam Bộ Tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn cả nước Năm

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ

2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 TC 2018 TC 325 279 286 292 311 314 348 398 401 417 422 3793 451 4244 Số bị cáo 27,6 30,4 25,7 27,1 26,9 29,4 28,9 31,7 25,4 27,6 23,1 24,6 21,1 22,5 28,1 28,8 26,25 27,13 25,25 26,61 24,60 25,58 25,50 27,07 29,47 29.81 27,30 25,911 327 286 291 296 313 319 355 402 410 419 426 3844 483 4327 1.068 1.028 970 921 1.127 1.278 1.545 1.382 1.478 1.567 1.650 14.014 1.530 15.544 1.181 1.113 1.082 1.023 1.230 1.381 1.683 1.433 1.562 1.659 1.732 15.079 1.620 16.699

Pl.6

Bảng 2.8 Diễn biến của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 – 2018 [100]

Vụ án Bị cáo Tỷ lệ % vụ án So với năm 2007 Tỷ lệ % bị cáo So với năm 2007 Năm

2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 BQDBTP 325 279 286 292 311 314 348 398 401 417 422 451 + 21,8 327 286 291 296 313 319 355 402 410 419 426 483 + 24,7 100 85,8 (-14,15%) 88 (-12%) 89,8 (-10,15%) 95,7 (- 4,3%) 96,7 (-3,3%) 107,07 (+7,07%) 122,4 (+22,4%) 123,3 (+23,3%) 128,3 (+28,3%) 129,8 (+29,8%) 138,7 (+38,7%) + 6,69 100 87,4 (-12,53%) 89 (-11%) 90,5 (-9,48%) 95,72 (-4,28%) 97,6 (-2,4%) 108,56(+8,56%) 122,9 (+22,9%) 125,3 (+25,3%) 128,1 (+28,1%) 130,2 (+30,2%) 147,7 (+47,2%) +7,54

Bảng 2.9 So sánh diễn biến tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 [100]

Giai đoạn Tổng số án XPTDTE đã xét xử Số trung bình năm Tỉ lệ gia tăng

2007 - 2009 2010 - 2012 2013 - 2015 2016 - 2018 Số vụ 890 917 1147 1290 Số Bị cáo 904 928 1167 1328 Số vụ 296,6 305,6 382,3 430 SốBị cáo 301,3 309,3 389,0 442,6 Tỉ lệ bị cáo/vụ % 1,57 1,19 1,74 2,94 số vụ 100% 100+ 3,03% 100+ 28,87% 100+ 44,94% Số bị cáo 100% 100+2,65% 100+29,09% 100+46,9%

Pl.7

Bảng 2.10 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em của các tỉnh thành thuộc địa bàn miền Tây Nam Bộ

xét theo tội danh – theo quy định BLHS 1999 – SĐBS 2009 [100]

Xâm hại tình dục trẻ em Dâm ô trẻ em Hiếp dâm trẻ em Năm Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Cưỡng dâm trẻ em Giao cấu với trẻ em Bị cáo Bị cáo Vụ Vụ Vụ Bị cáo

2007 325 327 212 213 0 102 103 11 11 0

2008 279 286 146 151 0 115 117 18 18 0

2009 286 291 160 161 0 109 113 17 17 0

2010 292 296 149 150 1 120 123 22 22 1

2011 311 313 163 164 0 130 131 18 18 0

2012 314 319 170 171 1 123 117 20 20 1

2013 348 355 190 192 0 135 140 23 23 0

2014 398 402 215 216 0 143 146 40 40 0

2015 401 410 219 223 0 140 145 42 42 0

2016 417 419 233 234 1 146 147 37 37 1

2017 422 426 245 247 0 134 136 43 43 0

3 3 TC 3793 3844 2102 2122 1397 1418 291 291

Tỷ lệ % 55,42 55,20 0,08 0,08 36,83 36,89 7,58 7,58

Pl.8

Bảng 2.11 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên cơ sở dân số của các tỉnh, thành phố thuộc

địa bàn Tây Nam Bộ [100]

Số dân/1 bị cáo STT Địa bàn Dân số

Cà Mau Số BC XPTDTE 561 1 1.219.900 2.174

Hậu Giang 2 266 773.800 2.909

Vĩnh Long 3 287 1.092.730 3.807

Trà Vinh 4 260 1.012.600 3.894

Sóc Trăng 5 334 1.308.300 3.917

Kiên Giang 6 426 1.738.800 4.081

Đồng Tháp 7 311 1.680.300 5.402

Cần Thơ 8 260 1.450.000 5.576

Bạc Liêu 9 216 1.262.000 5.842

Long An 10 235 1.490.600 6.342

Bến Tre 11 185 1.262.000 6.821

An Giang 12 289 2.155.300 7.457

Tiền giang 13 214 1.703.400 7.959

Tổng 3844 18.149.730 4.721

Pl.9

Bảng 2.12 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên cơ sở diện tích của các tỉnh, thành phố

thuộc địa bàn miền Tây Nam Bộ [100]

STT Địa bàn

Số BC XPTDTE 287 Diện tích 1.475 Số bị cáo/1km2 0,1945 1 Vĩnh Long

260 1.439,2 0,1806 2 Cần Thơ

266 1.602,4 0,1660 3 Hậu Giang

260 2.341,2 0,1110 4 Trà Vinh

561 5.294,9 0,1059 5 Cà Mau

334 3.311,6 0,1008 6 Sóc Trăng

311 3.378,8 0,0920 7 Đồng Tháp

216 2.526 0,0855 8 Bạc Liêu

214 2.508,6 0,0853 9 Tiền giang

289 3.536,7 0,0817 10 An Giang

185 2.359,5 0,0784 11 Bến Tre

426 6.348,5 0,0671 12 Kiên Giang

235 4.491,9 0,0523 13 Long An

3844 40.614,3 0,0946 Tổng

Pl.10

Bảng 2.13 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em của các tỉnh thành thuộc địa bànTây Nam Bộ

trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích. [100]

STT Địa bàn

Thứ bậc xác định theo dân cư và diện tích 3+1 Hệ số tiêu cực 4 Cấp độ nguy hiểm 1 1 Vĩnh Long

2+3 5 2 2 Hậu Giang

1+5 6 3 3 Cà Mau

4+4 8 4 4 Trà Vinh

8+2 10 5 5 Cần Thơ

5+6 11 6 6 Sóc Trăng

7+7 14 7 7 Đồng Tháp

9+8 17 8 8 Bạc Liêu

6+12 18 9 9 Kiên Giang

11+11 22 10 10 Bến Tre

12+10 22 11 11 An Giang

13+9 22 12 12 Tiền Giang

10+13 23 13 13 Long An

Pl.11

Bảng 2.14 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 - 20182007 - 2018 xét theo thời gian gây án [100]

Thời gian gây án trong các vụ xâm phạm tình dục trẻ em

Từ 11 -16 giờ Từ 16 đến 21 giờ Từ 21 giờ hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau Tổng số vụ án

Từ 6 - 11giờ số vụ tỷ lệ % số vụ tỷ lệ % số vụ tỷ lệ % số vụ tỷ lệ %

149 30,7 162 113 23,3 61 12,6 485

33,4

Bảng 2.15: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 – 2018 xét theo địa điểm phát sinh tội phạm [100]

Địa điểm gây án trong các vụ xâm phạm tình dục trẻ em

Nhà nạn nhân tại nhà bị cáo nhà trọ, khách sạn Tổng số vụ án khu vực vắng, đền chùa, nhà bỏ hoang, khu vực ít người quán karaoke, tụ điểm vui chơi khu vực đầm nước, chòi canh tôm, khu vực mương nước, vườn cây, cồn cát, bãi biễn....

số vụ tỷ lệ tỷ lệ tỷ lệ tỷ lệ số vụ tỷ lệ số vụ tỷ lệ

485 175 36,1% số vụ 43 8,8% số vụ 96 19,7% số vụ 26 5,3% 85 17,5% 60 12,4%

Pl.12

Bảng 2.16: Cơ cấu về nạn nhân của các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 – 2018 xét theo độ tuổi và giới tính của nạn nhân [100]

Tỷ lệ % Tổng số nạn nhân Độ tuổi

Số nạn nhân (nam) 0 0 03 0 0 0,6 501 Dưới 6 tuổi Từ 6 đến dưới 13 tuổi Trên 13 đến dưới 16 tuổi Tỷ lệ % 14,2 55,7 29,5

số nạn nhân (nữ) 71 279 148

Bảng 2.17: Cơ cấu của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 – 2018 xét theo thủ đoạn phạm tội [100]

Thủ đoạn gây án trong các vụ xâm phạm tình dục trẻ em

Uy hiếp tinh Dụ dỗ cho tiền, Quan hệ yêu Lối sống buông Địa hình vắng, Dụ dỗ về nơi Hạn chế về Tổng

thần, vũ lực quà bánh, đồ đương, bạn bè thả/say rượu bia, hẻo lánh ở của đối nhận thức số vụ

chơi, quần áo mạng xã hội ma túy tượng án

485 165 34,1% 91 18,7% 115 23,7% 47 9,7% 28 5,7% 35 16,5 4 0,82%

Pl.13

Bảng 2.18: Cơ cấu của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 – 2018 xét theo mối quan hệ giữa nạn nhân với người phạm tội [100]

Tổng số vụ Mối quan hệ với nạn nhân số bị cáo tỷ lệ %

Bố đẻ, bố dượng 5 1,0

485 Quan hệ thân thích (ông bác,chú, cậu, dượng.. 27 5,6

Bạn bè quen biết 30 6,2

Anh em, họ hàng 45 9,3

Người Yêu 153 31,5

Hàng xóm 75 15,5

Người quen biết 124 25,5

Không quen biết 26 5,4

Pl.14

Bảng 2.19: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 – 2018 xét theo độ tuổi của người phạm tội [100]

Độ Tuổi

2007 87 2008 76 2009 78 2010 2011 2012 90 86 82 2013 94 2014 108 2015 109 2016 111 2017 Tổng 1.035 114

Tỉ lệ % 26,9 45,8

Dưới 18 tuổi Từ đủ 18 đến 30 tuổi Trên 30 đến 45 tuổi Trên 45 đến 70 tuổi Trên 70 tuổi 163 56 19 2 143 49 17 1 141 53 16 3 139 57 14 4 150 59 16 2 154 60 15 0 163 73 23 2 172 92 25 5 174 97 27 3 180 101 21 6 183 107 20 2 1.762 804 213 30 21,0 5,5 0,8

Bảng 2.20: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 – 2018 xét theo trình độ học vấn của người phạm tội [100]

Tổng số bị cáo Trình độ học vấn số bị cáo Tỷ lệ %

500 không biết chữ 165 33

Tiểu học 201 40,2

Trung học cơ sở 116 23,2

Trung cấp, cao đẳng, đại học 18 3,6

Sau đại học 0 0

Pl.15

Bảng 2.21: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ từ năm 2007 – 2018 xét theo nghể nghiệp của người phạm tội [100]

Nghề nghiệp của bị cáo số bị cáo Tỷ lệ % Tổng số bị cáo

Không nghề nghiệp 14,6 73 500

Nghề tự do 37,4 187

Nông dân 23 115

Nuôi trồng thủy sản 13,8 69

Học sinh, sinh viên 9 45

Cán bộ, công nhân viên chức 2,2 11

Bảng 2.22: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 – 2018 xét theo cơ cấu dân tộc của người phạm tội [100]

Cơ cấu dân tộc

Kinh Hoa Khmer Khác Tổng số đối tượng

Số ĐT Tỷ lệ % Số ĐT Tỷ lệ% Số ĐT Tỷ lệ% Số ĐT Tỷ lệ%

500 301 60,2 20 178 35,6 1 0,2 4,0

Pl.16

Bảng 2.23: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 – 2018 xét theo hoàn cảnh gia đình [100]

Tổng số bị cáo Hoản cảnh người phạm tội

Đã từng kết hôn Người phạm tội chưa từng kết hôn

Đã kết hôn Ly hôn Còn Cha mẹ Mất cha hoặc mẹ Mất cha và mẹ/ mồ côi cha mẹ Cha mẹ ly hôn

182 57 85 54 35 87

36,4% 11,4% 17% 10,8% 7% 17,4%

47,8% 500 52,2%

Bảng 2.24 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 – 2018 xét theo hình phạt áp dụng đối với người phạm tội [100]

Tổng số bị cáo

Trong đó hưởng án treo Hình phạt được Tòa án áp dụng Tù trên 7 năm đến 15 năm Tù từ 3 năm đến7 năm dưới 3 năm tù Tù trên 15 năm Tù chung thân

68 10 62 15 144 201

13,6% 2% 500 12,4% 3% 28,8% 40,2%

Pl.17

Bảng 2.25: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 – 2018 xét theo đặc điểm pháp lý – hình sự [100]

Tổng số bị cáo Phạm tội

Tiền án, tiền sự Phạm tội lần đầu Tái phạm Tái phạm nguy hiểm

45 424 27 4

500 9% 84,8% 5,4% 0,8%

Bảng 2.26: Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

từ năm 2007 – 2018 xét theo người phạm tội sử dụng bia, rượu và các yếu tố kích thích khác. [100]

Tổng số bị cáo Tình trạng số bị cáo Tỷ lệ %

Có sử dụng rượu/ bia 285 57%

Xem phim/truyện sex, văn hóa phẩm đồi 500

trụy 84 16,8 %

Không sử dụng rượu, bia 131 26,2%

Pl.18

Bảng 2.27: Cơ cấu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ thống kê theo số vụ, số bị can

phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em bị đình chỉ điều tra, truy tố, xét xử. [100]

Số bị can Tỷ lệ % số vụ Tỷ lệ % số bị can Tiêu chí Số vụ

Cơ quan điều tra khởi tố 4221 4432 100 100

Cơ quan điều tra đình chỉ 207 227 5,45 5,91

Viện kiểm sát đình chỉ 93 102 2,2 2,3

Tòa án đã xét xử 3793 3844 bị cáo 89,86 86,73

Bảng 2.28: Cơ cấu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em xét theo vụ án có hành vi xâm phạm tình dục nhiều lần trước

khi bị phát hiện trên địa bàn miền Tây Nam Bộ [100]

số vụ 283 Tỷ lệ % 58,35

87 17,94

Thời gian ẩn Phát hiện lần đầu sau khi gây án Phát hiện lần đầu sau khi gây án từ 1 đến 6 tháng Phát hiện hành vi thực hiện nhiều lần trong thời gian từ 1 - 6 tháng Phát hiện trong thời gian từ 6 - 12 tháng Phát hiện từ 12 tháng trở lên 55 34 26 11,34 7,01 5,36

Pl.19

Miền Tây Nam Bộ

27,07%

Cả nước

72,93%

Biểu đồ 2.1: So sánh tình hình biến tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ với tình hình XPTD trẻ em của cả nước

483

417 422

451

398 401

348

314

325

410 419 426

279 286 292 311

402

355

327

Số vụ

296 313 319

286 291

Số bị cáo

550 500 450 400 350 300 250 200 150 100 50 0

2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Biểu đồ 2.2 Diễn biến tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Miền Tây Nam Bộ - từ năm 2007 - 2018

Pl.20

Biểu đồ 2.3 Cơ cấu của tình hình các tội về xâm phạm tình dục trẻ em trên các địa bàn miền Tây Nam Bộ

600

500

400

300

200

100

0

Cần Thơ Số vụ án 257 Số bị cáo 260

Hậu Giang 262 266

sóc Trăng 331 334

Vĩnh Long 284 287

Đồng Tháp 307 311

Kiên Giang 421 426

Bạc Liêu 211 216

Cà Mau 558 561

Trà Vinh 253 260

Bến Tre 181 185

Long An 232 235

Tiền Giang 210 214

xét theo số vụ án và số bị cáo - từ năm 2007 - 2018

An Giang 286 289

Pl.21

Biểu đồ 2.4 Cơ cấu của tình hình các tội về xâm phạm tình dục trẻ em trên các địa bàn xét theo tội danh

7.58

36.83

Hiếp dâm trẻ em Cưỡng dâm trẻ em Giao cấu với trẻ em Dâm ô trẻ em

55.42

0.08

từ năm 2007 - 2018

Biểu đồ 2.5 Cơ cấu theo độ tuổi của nạn nhân bị xâm phạm tình dục trên địa bàn miền Tây Nam Bộ

14.6%

Dưới 6 tuổi

27.9%

Từ 6 đến dưới 13 tuổi

57.5%

Trên 13 đến dưới 16 tuổi

từ năm 2007 - 2018

Pl.22

Biểu đồ 2.6 Cơ cấu tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam Bộ xét theo mối

Bố đẻ, bố dượng

1% 5,6%

5,4%

9,3%

6.2%

Quan hệ thân thích (ông bác,chú, cậu, dượng.. Anh em họ

25,5%

Bạn bè

Người Yêu

15,5%

33%

Hàng xóm

Người quen biết

quan hệ giữa nạn nhân với người phạm tội - từ năm 2007 - 2018

Biểu đồ 2.7 Cơ cấu tình hình các tội XPTDTE xét theo độ tuổi của người phạm tội trên địa bàn

5.5 0.8

26.9%

21%

45.8%

Dưới 18 tuổi

Từ đủ 18 đến 30 tuổi Trên 30 đến 45 tuổi

Trên 45 đến 70 tuổi

Trên 70 tuổi

miền Tây Nam Bộ - từ năm 2007 - 2018

Pl.23

Biểu đồ 2.8 Cơ cấu theo trình độ văn hóa của người phạm tội về xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền

3.6% 0%

Không biết chữ

23.2%

33%

Tiểu học

Trung học cơ sở

Trung cấp, cao đẳng, đại học

Sau đại học

40.2%

Tây Nam Bộ- từ năm 2007 - 2018

Biểu đồ 2.9 Cơ cấu theo nghề nghiệp của người phạm tội về xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền

Không nghề nghiệp

9% 2.2%

14.6%

Nghề tự do

13.8%

Nông dân

Nuôi trồng thủy sản

37.4%

Học sinh, sinh viên

23%

Cán bộ, công nhân viên chức

TâyNam Bộ - từ năm 2007 - 2018

Pl.24

THỐNG KÊ CÁC BẢN ÁN ĐIỂN HÌNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM

TRÊN ĐỊA BÀN MIỂN TÂY NAM BỘ - TỪ NĂM 2007 – 2018

Huỳnh Cẩm Tú, bản án số: 01/2007/HS-ST ngày 12/01/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Xuân Thiện, bản án số 05/2007/HSST ngày 19/1/2007 của TAND tỉnh Đồng Tháp

Nguyễn Văn Rơi, bản án số: 05/2007/HSST ngày 24/01/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Văn Linh, bản án số: 08/22007/HSST ngày 26/01/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Hồ Văn Lâm, bản án số: 09/2007/HSST ngày 26/01/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Hồ Hoàng Minh, bản án số: 15/2007/HSST ngày 10/4/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Lê Văn Thảo, bản án số: 24/2007/HSST ngày 16/4/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Trần Văn Hùng, bản án số: 24/2007/HS-ST ngày: 24/4/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Văn Thọ, bản án số: 28/2007/HS-ST ngày: 26/4/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn VĂn Tiếp, bản án số: 24/2007/HSST ngày 10/5/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Trần Văn Cường, bản án số: 25/2007/HSST ngày 11/5/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Kiên Sa Mi, bản án số: 29/2007/HSST ngày 17/5/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Trần Văn Cọp, bản án số: 35/2007/HSST ngày 11/6/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Biện Quốc Việt, bản án số: 37/2007/HSST ngày 12/6/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Danh Phước Long, Nguyễn Quốc Trí, bản án số: 34/2007/HSST ngày 11/6/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Thanh Hải, bản án số: 44/2007/HS-ST ngày: 16/6/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Pl.25

Nguyễn Văn Phụng, bản án số: 55/2007/HS-ST ngày: 10/8/2007của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Văn Hà, bản án số: 62/2007/HS-ST ngày: 14/8/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Dương Văn Diện, bản án số: 60/2007/HSST ngày 28/8/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Văn Lâm, bản án số 31/2007/HSST ngày 28/8/2007 của TAND tỉnh Đồng Tháp

Trần Minh Tuấn, bản án số 28/2007/HSST ngày 5/9/2007 của TAND tỉnh Bến Tre

Trần Văn Tuấn, Phạm Văn Vững, Nguyễn Hoàng Tiên, Ngô Bảo Anh, Phan Phú Lộc, bản án số 37/2007/HSST

của TAND tỉnh Hậu Giang

Trần Văn Phục, bản án số: 74/2007/HS-ST ngày: 25/10/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Lê Văn Trung, bản án số 20/2007/HSST ngày 26/10/2007 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp

Mạch Phước Lộc, bản án số: 80/2007/HS-ST ngày: 22/11/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Kiên Tân, bản án số 72/2007/HSST ngày 4/12/2007 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Văn Khe, bản án số: 75/2007/HS-ST ngày: 04/12/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Trần Tài Đức, bản án số: 90/2008/HSST ngày 01/9/2008 của TAND thị xã Tân An tỉnh Long An

Nguyễn Văn Hận, bản án số 05/2008?HSST ngày 22/01/2008 của TAND thị xã Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang

Hồ Huy Khánh, bản án số 68/HSST ngày 23/9/2007 của TAND tỉnh Trà Vinh

Kiên Tô La, bản án số: 08/2008/HSST ngày 22/01/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh

Dương Thanh Điền, bản án số: 08/2008/HS-ST ngày: 28/01/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh

Sơn Linh, bản án số: 13/2008/HSST ngày 18/3/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh

Kiên Minh, bản án số 14/2008/HSST ngày 18/3/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh

Pl.26

Thạch Nhanh, bản án số: 14/2008/HSST ngày 20/3/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh

Thạch Thảo, bản án số: 19/2008/HSST ngày 16/5/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh

Thạch Dươnl, bản án số: 20/2008/HSST ngày 16/6/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh

Hồ Quốc Tài, bản án số: 27/2008/HSST ngày 18/6/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh

Kim Son, bản án số: 29/2008/HSST ngày 22/6/2008 của TAND tỉnh An Giang

Dương Văn Hai, bản án số 33/2008/HSST ngày 22/6/2008 của TAND tỉnh Đồng Tháp

Nguyễn Thành Chia, bản án số: 30/2008/HSST ngày 31/7/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh

Lê Văn Tuyền, bản án số: 49/2008/HS-ST ngày: 09/8/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh

Lê Văn Kim, bản án số 32/2008/HSST ngày 9/8/2008 của TAND tỉnh Vĩnh Long

Dương Văn Phương bản án số 29/2008/HSST ngày 20/8/2009 của TAND tỉnh Đồng Tháp

Võ Văn Chiều, bản án số: 23/2008/HSST ngày 25/8/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh

Viên Vinh Hận, bản án số: 39/2008/HSST ngày 01/9/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh

Thạch Thanh Trà, bản án số: 41/2008/HSST ngày 03/9/2008 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Văn Mãi Em, bản án số: 03/2009/HSST ngày 09/01/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh

Lâm Văn Dũng, bản án số: 02/2009/HSST ngày 08/01/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh

Trương Minh Hải, bản án số: 01/HS-ST ngày: 12/02/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh

Thạch Trung Thành, bản án số: 09/HS-ST ngày: 20/02/2009 của TAND huyện Châu Phú, tỉnh An Giang

Hồng Văn Chiến, bản án số: 09/2009/HSST ngày 25/02/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh

Danh Chí Cường, bản án số: 16/2009/HSST ngày 20/4/2009/HSST của TAND tỉnh Trà Vinh

Pl.27

Trương Văn Phương, bản án số: 18/2009/HSST ngày 21/4/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Văn Kê, bản án số: 21/2009/HSST ngày 28/4/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh

Thạch Ngọc Liên, bản án số: 22/2009/HSST ngày 18/5/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh

Thạch Hải. Bản án số: 47/HS-ST ngày: 04/8/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh

Trương Dũng Sỹ, bản án số: 35/2009/HSST ngày 25/8/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh

Trương Văn Công, bản án số: 36/2009/HSST ngày 09/11/2009 của TAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.

Nguyễn Văn Sinh, bản án số: 25/2009/HSST ngày 12/11/2009 của TAND huyện Châu Phú, Tỉnh An Giang

Trần Minh Kiên, bản án số 20/2009/HSST ngày 16/11/2009 của TAND huyện Ba Tri. Tỉnh Bến Tre

Trần Văn Trưởng, bản án số 33/2009/HSST ngày 17/11/2009 của TAND huyện Tân Phú, tỉnh Cà Mau

Nguyễn Văn Tình, bản án số 19/2009/HSST ngày 22/11/2009 của TAND thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang

Lê Vũ Toàn, bản án số: 56/2009/HSST ngày 03/12/2009 của TAND tỉnh Trà Vinh

Lê Thanh Ngà, bản án số 04/2010/HSST ngày 14/01/2010 của TAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.

Lê Chanh Thi, bản án số 04/2010/HSST ngày 12/3/2010 của TAND Tỉnh Trà Vinh.

Kim Tha, bản án số 11/2010/HSST ngày 12/3/2010 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Văn Huệ, bản án số 13/2010/HSST ngày 26/5/2010 của TAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.

Thạch Nhựt Sa Mươn, bản án số: 07/2010/HSST ngày 31/5/2010 của TAND tỉnh Trà Vinh

Dương Hồng Dương, bản án số: 10/2010/HSST ngày 01/6/2010 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Văn Sang, bản án số: 39/HS-ST ngày: 01/06/2010 của TAND huyện Trần Đề, tỉnh Trà Vinh

Trần Văn Tàu, bản án số: 29/HS-ST ngày: 03/6/2010 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang

Pl.28

Nguyễn Hoàng Nam, bản án số: 40/HS-ST ngày: 13/7/2010 của TAND Huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau

Lê Thành Tài, bản án số: 49/HS-ST ngày: 04/08/2010 của TAND huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau

Trương Ngọc Phi, bản án số: 13/2010/HS-ST ngày: 10/8/2010 của TAND tỉnh Trà Vinh

Đoàn Văn Lắm, bản án số 15/2010/HSST ngày 13/8/2010 của TAND Tỉnh Trà Vinh.

Nguyễn Anh Tuấn, bản án số 12/2010/HSST ngày 19/8/2010 của TAND huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau

Kim Binh Tha, bản án số: 42/2010/HS-ST ngày: 19/8/2010 của TAND huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng

Kim Thanh Hùng, bản án số 19/2010/HSST ngày 30/8/2010 của TAND Tỉnh Trà Vinh.

Kim Thi, bản án số 20/2010/HSST ngày 31/8/2010 của TAND Tỉnh Trà Vinh.

Lê Tấn Quân, bản án số: 66/HS-ST ngày: 20/9/2010 của TAND huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre

Thạch Phép, bản án số: 69/HS-ST ngày: 23/9/2010 của TAND huyện Mỹ Tú tỉnh Sóc Trăng

Sơn Kra SaNa, bản án số: 30/2010/HS-ST ngày: 15/11/2010 của TAND tỉnh Trà Vinh

Trần Hữu Thái, bản án số: 32/2010/HSST ngày 17/11/2010 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Anh Tuấn, bản án số: 61/2010/HS-ST ngày: 01/12/2010 của TAND Huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre

Lý Công Bình, bản án số: 35/2010/HS-ST ngày: 27/12/2010 của TAND tỉnh Trà Vinh

Trần Văn Phước, bản án số: 90/HS-ST ngày: 30/12/2010 của TAND tỉnh Bạc Liêu

Sơn Minh Trung, bản án số: 67/HSST ngày 30/12/2010 của TAND tỉnh An Giang

Nguyễn Thanh Thắng, bản án số: 03/2011/HSST ngày 18/01/2011 của TAND thành phố Tân An, tỉnh Long An

Huỳnh Văn Mỹ, bản án số: 03/2011/HSST ngày 20/01/2011 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Văn Thông, bản án số: 03/HS-ST ngày: 17/02/2011 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh An Giang

Pl.29

Huỳnh Văn Ninh, bản án số: 18/HS-ST ngày: 25/03/2011 của TAND huyện Trần Văn Thời, Tỉnh Cà Mau

Nguyễn Văn Dương, bản án số: 12/2011/HSST ngày 31/5/2011 của TAND tỉnh Trà Vinh

Phan Văn Miền, bản án số: 133/2011/HSST ngày 04/7/2011 của TAND tỉnh Trà Vinh

Bùi Vũ Luân, bản án số 27/2011/HSST ngày 15/8/2011 của TAND huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang

Kim Hoàng Phúc, bản án số 15/2011/HSST ngày 18/8/2011 của TAND Tỉnh Trà Vinh.

Dương Văn Chuyền, bản án số: 19/2011/HSST ngày 23/8/2011 của TAND tỉnh Trà Vinh

Lê Văn Kha, bản án số: 16/2011/HSST ngày 18/8/2011 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Văn Tuấn, bản án số: 26/2011/HSST ngày 08/12/2011 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Vũ Linh, bản án số 58/2011/HSST ngày 23/12/2011 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Bùi Tấn Giang, bản án số 03/2012/HSST ngày 16/2/2012 của TAND Tỉnh Tiền Giang

Huỳnh Văn Hoàng, bản án số: 04/2012/HSST ngày 22/02/2012 của TAND tỉnh Trà Vinh

Lê Văn Ngọt, bản án số 14/2012/HSST ngày 22/5/2012 của TAND Tỉnh Trà Vinh.

Cao Văn Vũ, bản án số: 15/2012/HSST ngày 22/5/2012 của TAND tỉnh Trà Vinh

Lê Thanh Hậu, bản án số 84/2012/HSST ngày 10/7/2012 của TAND Thành phố Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang

Bùi Ngọc Thanh Tùng, bản án số 44/2012/HSST ngày 13/7/2012 của TAND Tỉnh Long An

Nguyễn Văn Nhung, bản án số 49/2012/HSPT ngày 17/8/2012 của TAND tỉnh Long An

Kim Cân, bản án số: 25/2012/HSST ngày 18/7/2012 của TAND tỉnh Trà Vinh

Đào Tấn Nhất, bản án số 46/2012/HSST ngày 18/7/2012 của TAND tỉnh Long An

Thạch Sóc, bản án số 42/2012/HSST ngày 20/7/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Pl.30

Sơn Huỳnh, bản án số 47/2012/HSST ngày 22/8/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Ngô Tuấn Anh, bản án số 48/2012/HSST ngày 23/8/2012 của TAND Tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Luân, bản án số 69/2012/HSST ngày 24/9/2012 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Huỳnh Văn Chung, bản án số 98/2012/HSST ngày 25/9/2012 của TAND tỉnh An Giang

Nguyễn Văn Ngọc Mản, bản án số 42/2012/HSST ngày 22/10/2012 của TAND Tỉnh Vĩnh Long.

Tô Tấn Hưng, bản án số 67/2012/HSST ngày 23/10/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Lâm Tấn Tài, bản án số 122/2012/HSPT ngày 22/11/2012 của TAND tỉnh An Giang

Đặng Văn Tròn, bản án số 139/2012/HSST ngày 22/11/2012 của TAND tỉnh Đồng Tháp

Đoàn Hưng, bản án số 48/2012/HSST ngày 23/11/2012 của TAND tỉnh Vĩnh Long

Huỳnh Văn Hải, bản án số 142/2012/HSST ngày 23/11/2012 của TAND tỉnh Bến Tre

Lý Sinh, bản án số 73/2012/HSST ngày 23/11/2012 của TANDTỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Văn Tiền, bản án số 65/2012/HSST ngày 27/11/2012 của TAND tỉnh Long An

Nguyễn Văn Vĩnh, bản án số 75/2012/HSST ngày 27/11/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Trần Văn Dũng, bản án số 76/2012/HSST ngày 28/11/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Văn Hẹn, bản án số 69/2012 ngày 29/11/2012 của TAND tỉnh Long An

Hồ Văn Hùng Em, bản án số 219/2012/HSPT ngày 03/12/2012 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Nguyễn Minh Thảo, bản án số 49/2012/HSST ngày 04/12/2012 của TAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.

La Thành Nghiệp, bản án số 84/2012/HSST ngày 04/12/2012 của TAND tỉnh Kiên Giang

Huỳnh Toàn, bản án số 87/2012/HSST ngày 05/12/2012 của TAND tỉnh Kiên Giang

Pl.31

Nguyễn Hòa, bản án số 25/2012/HSST ngày 05/12/2012 của TAND tỉnh của TAND tỉnh Hậu Giang

Đinh Văn Lố, bản án số 26/2012/HSST ngày 11/12/2012 của TAND tỉnh Hậu Giang

Mai Phú, bản án số 229/2012/HSPT ngày 11/12/2012 của TAND tỉnh Tiền Giang

Lâm Luội, bản án số 80/2012/ST ngày 11/12/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng.

Ngô Văn Phi, bản án số 81/2012/HSST ngày 13/12/2012 của TAND Tỉnh Sóc Trăng

Trương Ngọc Thanh Phước, bản án số 83/2012/ST ngày 17/12/2012 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Hồ Hoàng Phú, bản án số 49/2012/ST ngày 18/12/2012 của TAND tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Thanh Hậu, bản án số 21/2012/HSST ngày 18/12/2012 của TAND tỉnh An Giang

Nguyễn Hồng Thắng, bản án số 28/2012/HSST ngày 19/12/2012 của TAND Tỉnh Hậu Giang

Lê Thanh Chung, bản án số 89/2012/HSST ngày 24/12/2012 của TAND tỉnh An Giang

Đặng Thiện, bản án số 50/2012/HSST ngày 27/12/2012 của TAND Tỉnh Vĩnh Long

Cao Văn Dũng, bản án số 10/2013/HSPT ngày 11/1/2013 của TAND

Nguyễn Thành Hưng, bản án số 04/2013/HSST ngày 16/1/2013 của TAND tỉnh An Giang

Nguyễn Văn Chung, bản án số 02/2013/HSST ngày 16/1/2013 của TAND tỉnh Kiên Giang

Nguyễn Miên, bản án số 17/2013/HSPT ngày 18/01/2013 của TAND tỉnh Kiên Giang

Tô Văn Định, bản án số 03/2013/HSST ngày 19/01/2013 của TAND tỉnh Tiền Giang

Đỗ Ngọc Hữu Nghĩa, bản án số 05/2013/HSST ngày 21/1/2013 của TAND thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang

Huỳnh Văn Thuận, bản án số 06/2013/HSST ngày 21/1/2013 của TAND tỉnh Vĩnh Long

Phạm Văn Thương, bản án số 02/2013/HSST ngày 23/01/2013 của TAND tỉnh Long A

Pl.32

Lê Quốc Nhựt, bản án số 09/2013/HSST ngày 24/01/2013 của TAND tỉnh Tiền Giang

Trần Văn Phùng, bản án số 05/2013/HSST ngày 25/1/2013 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Phù Chí Tâm, bản án số 10/2013/HSST ngày 29/01/2013 của TAND tỉnh Kiên Giang

Đào Ngọc Lộc, bản án số 12/2013/HSST ngày 22/2/2013 của TAND Tỉnh An Giang

Nguyễn Tùng, bản án số 13/2013/HSST ngày 26/2/2013 của TAND tỉnh Kiên Giang

Phạm Minh Trí, bản án số 15/2013 HSST ngày 27/2/2013 của TAND Thành Phố Cần Thơ

Lý Vũ Hùng, bản án số 17/2013/HSST ngày 04/3/2013 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Bùi Văn My, bản án số 14/2013/HSST ngày 06/3/2013 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Trần Nhựt Thắng, bản án số 29/2013/HSPT ngày 06/3/2013 của TAND tỉnh Long An

Lê Văn Các, bản án số 17/2013/HSST ngày 07/3/2013 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Nguyễn Huy, bản án số 18/2013/ST ngày 07/3/2013 của TAND Tỉnh Tiền Giang

Nguyễn Văn Rô, bản án số 13/2013/HSST ngày 7/3/2013 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Lâm Thanh Lãm, bản án số 55/2013/HSPT ngày 11/3/2013 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Huỳnh Tấn Phát, bản án số 07/2013/HSST ngày 11/3/2013 của TAND Tỉnh Vĩnh Long

Kiên Minh Trí, bản án số 18/2013/HSST ngày 13/3/2013 của TAND tỉnh Kiên Giang

Đồng Văn Đợi, bản án số 31/2013/PT ngày 17/3/2013 của TAND tỉnh Long An

Nguyễn Văn Tân, bản án số 14/2013/HSST ngày 19/3/2013 của TAND tỉnh Long An

Lê Thanh Điền, bản án số 15/2013/HSST ngày 20/3/2013 của TAND tỉnh Long An

Lâm Chiên, bản án số 17/2013/HSST ngày 25/3/2013 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Pl.33

Đặng Ngọc Phước, bản án số 24/2013/HSST ngày 01/4/2013 của TAND Tỉnh Long An

Trần Quốc Tính, bản án số 10/2013/HSST ngày 02/4/2013 của TAND tỉnh Vĩnh Long

Liêu Bảnh, bản án số 25/2013/HSST ngày 04/4/2013 của TAND tỉnh Kiên Giang

Nguyễn Phước Thiện, bản án số 11/2013/HSST ngày 05/4/2013 của TAND Tỉnh Vĩnh Long

Trần Minh Thanh, bản án số 05/2013/HSST ngày 08/4/2013 của TAND tỉnh Hậu Giang

Hồ Chí Cường, bản án số 06/2013/HSST ngày 09/4/2013 của TAND tỉnh Hậu Giang

Trương Khang, bản án số 27/2013/HSST ngày 09/4/2013 của TAND tỉnh Long An

Nguyễn Văn Do, bản án số 07/2013/HSST ngày 11/4/2013 của TAND tỉnh Hậu Giang

Nguyễn Tấn Dũng, bản án số 63/2013/HSST ngày 15/4/2013 của TAND thành phố Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang

Nguyễn Hận, bản án số 23/2013/HSST ngày 17/4/2013 của TAND Tiền Giang

Huỳnh Quang Trung, bản án số: 69/2013/HSST ngày 23/4/2013 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ

Thạch Dương, bản án số 22/2013/HSST ngày 13/6/2013 của TAND TP Cần Thơ

Bùi Quang Anh Tuấn, bản án số: 156/2013/HSST ngày 19/7/2013 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ

Huỳnh Thanh y, bản án số: 168/2013/HSST ngày 02/8/2013 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ

Phạm Thành Nghiệp, bản án số 41/2013/HSST ngày 20/9/2013 của TAND TP.Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu

Phan Minh Sang, bản án số: 239/2013/HSST ngày 30/09/2013 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ

Thạch Minh, bản án số 01/2013/HSST ngày 30/9/2013 của TAND Tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Hoàng Minh Tuấn, bản án số: 27/2013/HSST ngày 01/11/2013 của TAND tỉnh Trà Vinh

Dương Quốc Cường, bản án số 04/2013/HSST ngày 24/11/2013 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Pl.34

Nguyễn Văn Toàn, bản án số 179/2013/HSSt ngày 26/11/2013 của TAND thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang

Lê Văn Sáu, bản án số: 02/2014/HSST ngày 09/01/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh

Huỳnh Tấn Lợi, bản án số 19/2014/HSST ngày 27/2/2014 của TAND tỉnh Kiên Giang

Thạch Sôc Khô, bản án số: 15/2014/HS-ST ngày: 19/3/2014 của TAND huyện Mỹ Tú, Tỉnh Sóc Trăng

Thạch Keo Sô Pha, bản án số: 07/2014/HSST ngày 21/03/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh

Trần Văn Kha, bản àn số 20/2014/HSST ngày 9/6/2014 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Ngọc, bản án số 09/2014/HSST ngày 4/6/2014 của TAND tỉnh Hậu Giang

Nguyễn Văn Tài, bản án số: 45/HS-ST ngày: 04/6/2014 của TAND huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang

Võ Minh Tiến, bản án số 16/2014/HSST ngày 26/6/2014 của TAND tỉnh Tiền Giang

Lê Văn Hoàng Sang, bản án số: 37/2014/HSST ngày 12/11/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh

Phan Quốc kha, bản án số: 14/2014/HSST ngày 02/6/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh

Trần Quốc Tuấn, bản án số 17/2014/HSST ngày 3/6/2014 của TAND tỉnh Tiền Giang

Chung Văn Rạch, bản án số: 15/2014/HSST ngày 04/6/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh

Trương Hoài Đức, bản án số 23/2014/HSST ngày 18/6/2014 của TAND Tỉnh Sóc Trăng.

Trương Minh Toàn, bản án số 11/2014/HSST ngày 18/6/2014 của TAND huyện Kế Sách tỉnh Sóc Trăng

Sơn Nuôi, bản án số: 26/2014/HSST ngày 04/7/2014 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Phạm Linh Tâm, bản án số 28/2014/HSST ngày 10/7/2014 của TAND Tỉnh Sóc Trăng.

Đỗ Văn Chẳng, bản án số 14/2014/HSST ngày 18/7/2014 của TAND tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Thị Mỹ Châu, bản án số 28/2014/HSST ngày 18/7/2014 của TAND Tỉnh Đồng Tháp

Pl.35

Phan Hoàng Trọng, bản án số: 77/2014/HSST ngày 30/7/2014 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang

Đoàn Minh Tài, bản án số: 81/2014/HSST ngày 04/8/2014 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang

Nguyễn Tấn Được, bản án số: 82/2014/HSST ngày 05/8/2014 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang

Thạch Ngọc Sơn, bản án số 32/2014/HSST ngày 6/8/2014 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Chí Vinh, bản án số 22/2014/HSST ngày 6/8/2014 của TAND huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp

Trần Kim Thanh, bản án số 42/2014/HSST ngày 26/8/2014 của TAND Tỉnh Sóc Trăng.

Mai Thanh Hải, bản án số: 24/2014/HSST ngày 08/9/2014 của TANND tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Văn Ánh, bản án số 46/2014/HSST ngày 09/9/2014 của TAND Tỉnh Sóc Trăng.

Hồ Duy Khánh, bản án số: 68/HS-ST ngày: 23/9/2014 của TAND huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang

Trần Văn Thăng, bản án số 32/HSST ngày 14/10/2014 của TAND huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ

Mai Trường Giang, bản án số: 28/2014/HSST ngày 13/10/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh

Đặng Thành Tân, bản án số: 23/2014/HSST ngày 27/11/2014 của TAND huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang

Nguyễn Thanh Nhàn, bản án số 37/2014/HSST ngày 27/11/2014 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vỉnh Long

Lê Văn Long, bản án số: 41/2014/HSST ngày 10/12/2014 của TAND tỉnh Trà Vinh

Đặng Quách, bản án số: 93/2014/HS-ST ngày: 31/12/2014 của TAND huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang

Đỗ Văn Chẳng, bản án số 01/2015/HSST ngày 7/1/2015 của TAND huyện Tam Bình, tình Vỉnh Long

Kim Sang, bản án số: 02/HS-ST ngày: 19/01/2015 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang

Mã Văn Đầy, bản án số: 16/2015/HSST ngày 27/01/2015 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ

Pl.36

Tăng Văn Bốn, bản án số: 05/HS-ST ngày: 18/02/2015 của TAND huyện Thạnh trị , tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Duy Luân, bản án số: 22/2015/HSST ngày 11/3/2015 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang

Thạch Panh Nha, bản án số: 05/2015/HSST ngày 21/4/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh

Phạm Văn Phương, bản án số: 07/2015/HSST ngày 22/4/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh

Quốc Cường, bản án số: 32/2015/HS-ST ngày: 10/5/2015 của TAND Huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre

Nguyễn Chí Hữu, bản án số 21/2015/HSST ngày 11/5/2015 của TAND huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

Lê Phi Thông, bản án số: 12 /2015/HSST ngày 25/05/2015 của TAND huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang

Thạch Thanh Dũng, bản án số: 28/HS-ST ngày: 03/6/2015 của TAND huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng

Lê Duy Linh, bản án số: 94/2015/HSST ngày 04/6/2015 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ

Phan Văn Tuấn, bản án số: 52/2015/HSST ngày 19/06/2015 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang

Lê Hồng Kông, bản án số 23/2015/HSST ngày 19/6/2015 của TAND huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp

Nguyễn Văn Mành, bản án số: 18/2015/HSST ngày 10/7/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh

Đăng Minh Tâm, bản án số 27/2015/HSST ngày 13/7/2015 của TAND tỉnh Sóc Trăng.

Đặng Văn Nhàn, Phạm Ân Tình, bản án số 26/2015/HSST ngày 14/7/2015 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh

Long

Lưu Trần Hải Triều, bản án số: 67/2015/HSST ngày 08/8/2015 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang

Nguyễn Tấn Yên, bản án số 24/2015/HSST ngày 19/8/2015 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Duy Khanh, bản án số: 66/2015/HSST ngày 19/8/2015 của TAND thành phố Tân An tỉnh Long An

Trần Văn Tính, bản án số: 44/2015/HS-ST ngày: 22/8/2015 của TAND tỉnh Long An

Pl.37

Lương Thanh Dương Linh, bản án số: 48/2015/HSST ngày 17/9/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh

Sơn Nhiên, bản án số: 22/2015/HSST ngày 18/9/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Văn Sửng, bản án số 27/2015/HSST ngày 18/9/2015 của TAND huyện Thới Lai, Thành phố Cần Thơ.

Nguyễn Văn Mười, bản án số 23/2015/HSST ngày 22/9/2015 của TAND huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp

Nguyễn Văn Túy, bản án số: 55/HS-ST ngày: 29/9/2015 của TAND tỉnh Bến Tre

Lê Văn Hoài Vũ, bản án số: 88/2015/HSST ngày 29/9/2015 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang

Nguyễn Văn Minh, bản án số: 238A/2015/HSST ngày 03/11/2015 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ

Nguyễn Chí Nghĩa, bản án số: 56/2015/HSST ngày 13/11/2015 của TAND huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang

Phạm Khắc Trung, bản án số: 59/HS-ST ngày 30/11/2015 của TAND tỉnh Đồng Tháp

Tiêu Văn Luận, bản án số 98/2015/HSST ngày 18/11/2015 của TAND tỉnh Cà Mau

Phan Thành Đạt, bản án số 41/2015/HSST ngày 19/11/2015 của TAND huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

Từ Quốc Triệu, bản án số: 62/HS-ST ngày: 01/12/2015 của TAND tỉnh Vĩnh Long

Trang Công Đức, bản án số: 03/2015/HSST ngày 03/12/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh

Lê Minh Trung, bản án số: 66/HS-ST ngày: 04/12/2015 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang

Thạch Di Minh, bản án số 48/2015/HSST ngày 4/12/2015 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Trần Quốc Huy , bản án số: 267/2015/HSST ngày 29/12/2015 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ

Huỳnh Thanh Nam, bản án số: 32/2015/HSST ngày 31/12/2015 của TAND tỉnh Vĩnh Long

Lê Minh Nhựt, bản án số: 06/2015/HSST ngày 31/12/2015 của TAND tỉnh Trà Vinh

Thạch Trường, bản án số 25/2015/HSST ngày 07/7/2015 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Pl.38

Trần Giác Nhẹ, bản án số 26/2015/HSST ngày 13/7/2015 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Đặng Minh Tâm, bản án số 27/2015/HSST ngày 13/7/2015 của TAND Tỉnh Sóc Trăng

Điều Tiến Lên, bản án số: 02/2016/HSST ngày 11/01/2016 của TAND Tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Văn Tôi, bản án số 03/2016/HSST ngày 11/01/2016 của TAND huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp

Lê Văn Kim, bản án số: 06/2016/HSST ngày 26/01/2016 của TAND huyện Bến Lức tỉnh Long An

Phan Ngọc Hiền, Hoàng Quốc Vương, Nguyễn Khắc Đình, Trần Quý Phong, bản án số 03/2016/HSST ngày

12/01/2016 của TAND huyện Tân Hiệp, Tỉnh Kiên Giang

Nguyễn Trường An, bản án số: 09/2016/HSST ngày 12/01/2016 của TAND huyện Tiểu Cần Tỉnh Trà Vinh.

Kiều Văn Thanh, bản án số 03/2016/HSST ngày 12/1/2016 của TAND huyện Mang Thít, Vĩnh Long

Lê Văn Sang, bản án số: 01/2016/HSST ngày 22/2/2016 của TAND huyện Cù Lao Dung tỉnh Sóc Trăng

Vương Duy Điện, bản án số 08/2016/HSST ngày 23/02/2016 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Triệu Thành Của, bản án số 11/2016/HSST ngày 25/2/2016 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Võ Xuân Cảnh, bản án số 19/2016/HSST ngày 25/2/2016 của TAND TP Sa Đéc, tình Đồng Tháp

Lê Thành Đô, bản án số 27/2016/HSST ngày 29/2/2016 của TAND Tỉnh Hậu Giang

Trần Thanh Nhân, bản án số: 14/2016/HSST ngày 29/02/2016 của TAND huyện Bến Lức tỉnh Long An

Trần Văn Minh, bản án số: 16/2016/HS-ST ngày: 09/3/2016 của TAND tỉnh Long An

Trần Phan Thụy Bình, bản án số 17/2016/HSST ngày 10/3/2016 của TAND tỉnh Đồng Tháp

Nguyễn Văn Vũ, bản án 12/2016/HSST ngày 10/3/2016 của TAND thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang

Ngô Vĩnh Tú, bản án số: 18/2016/HS-ST ngày: 10/3/2016 của TAND tỉnh Trà Vinh

Pl.39

Trần Minh cường, bản án số: 17/2016/HSST ngày 16/3/2016 của TAND thành phố Tân an tỉnh Long An

Nguyễn Chí Cường, bản án số: 06/2016/HSST ngày 21/4/2016 của TANND tỉnh Vĩnh Long

Huỳnh Văn Vương, bản án số: 73/2016/HSST ngày 21/4/2016 của TAND tỉnh An Giang

Dương Sanh, bản án số: 12/2016/HSST ngày 26/4/2016 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Văn Ấu, bản án số: 23/HS-ST ngày: 27/4/2016 của TAND huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng

Huỳnh Minh Vương, bản án số: 18/2016/HSST ngày 29/4/2016 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang

Kim Dũng, bản án số 08/2017/HSST ngày 03/5/2017 của Tòa án nhân dân Tỉnh Sóc Trăng

Lê Văn Phước T, bản án số 12/2016/HS-ST ngày 10/6/2016 của TAND huyện Long Mỹ, Tỉnh Hậu Giang

Lương Trọng Tín, bản án số: 126/2016/HSST ngày 13/6/2016 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ

Thạch Minh, bản án số: 15/2016/HSST ngày 14/6/2016 của TAND tỉnh Trà Vinh

Bùi Văn Sơn, Nguyễn Văn Bạo, bản án số 27/2016?HSST ngày 16/6/2016 của TAND huyện An Phú, An Giang

Nguyễn Hồng Hòa, bản án số: 129/2016/HSST ngày 17/6/2016 của TAND quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ

Nguyễn Tuấn Anh, bản án số 17/2016/HSST ngày 24/6/2016 của TAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.

Nguyễn Văn Quí, bản án số: 38/2016/HSST ngày 29/6/2016 của TAND thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang

Lý Quang Minh, bản án số 67/2016/HS-ST ngày 30/6/2016 của TAND Thành phố Vĩnh Long, Tỉnh Vĩnh Long.

Danh Hồng, Nguyễn Công Khanh, Thạch Vương Linh, bản án số 57/2016/HSST ngày 6/7/2016 của TAND Tỉnh

Kiên Giang

Trần Văn Danh, bản án số 59/2016/HSST ngày 7/7/2016 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Trần Thanh Nhân, bản án số 60/2016/HSST ngày 08/7/2016 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Pl.40

Lê Văn Phước T, bản án số 12/2016/HSST ngày 10/6/2016 của TAND Huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang

Ngô Hoàng Thăng, bản án số: 54/2016/HSST ngày 20/7/2016 của TAND tỉnh An Giang

Hồ Văn Giấy, bản án số: 118/2016/HSST ngày 22/7/2016 của TAND tỉnh An Giang

Danh Hiếu, bản án số 61/2016/HSST ngày 22/07/2016 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Nguyễn Tuấn Kiệt , bản án số: 61/2016/HSST ngày 03/8/2017 của TAND tỉnh An Giang

Hồ Nhân Hương, bản án số: 20/2016/HSST ngày 08/8/2016 của TAND thị xã Kiến Tường tỉnh Long An

Nguyễn Trường Giang, bản án số 48/2016/HSST ngày 8/8/2016 của TAND huyện Cái Bè, Tỉnh Tiền Giang

Nguyễn Phi Hùng, bản án số: 16/2016/HSST ngày 16/8/2016 của TAND tỉnh Vĩnh Long

Lê Văn Bé Hai, bản án số 86/2016/HS-ST ngày 16/8/2016 của TAND Thành phố Vĩnh Long, Tỉnh Vĩnh Long.

Trương Khắc Cường, bản án số 26/2016/HSST ngày 25/8/2016 của TAND huyện Cần Đước tỉnh Long An

Nguyễn Văn Tâm, bản án số: 67/2016/HSST ngày 01/9/2016 của TAND tỉnh An Giang

Huỳnh Kim Châu, bản án số: 61/HS-ST ngày: 16/9/2016 của TAND huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng

Phạm Văn Khoa, bản án số: 91/2016/HSST ngày 27/9/2016 của TAND huyện Bến Lức tỉnh Long An

Nguyễn Văn Tròn Anh, bản án số: 81/2016/HSST ngày 02/11/2016 của TAND tỉnh An Giang

Trần Thành Minh Mẫn, bản án số: 21/2016/HSST ngày 03/11/2016 của TAND tỉnh Vĩnh Long

Phan Hữu Thái, bản án số 58/2016/HS-ST ngày 20/12/2016 của TAND huyện Ba Tri – Tỉnh Bến Tre

Lê Thanh Phong, bản án số 42/2016/HSST ngày 21/12/2016 của TAND huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp

Trần Hữu Tài, bản án số 33/2016/HSST ngày 28/12/2016 củaTAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.

Huỳnh Văn Huy, bản án số: 93/2016/HSST ngày 29/12/2016 của TAND tỉnh An Giang

Pl.41

Trình Văn Tú, bản án số 35/2016/HSST ngày 29/12/2016 của TAND thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang

Đặng Châu Tuấn, bản án số 46/2016/HSST ngày 29/12/2016 của TAND huyện Cần Đước, tình Long An.

Nguyễn Thanh Sang, bản án số 07/2017/HSST ngày 17/4/2017 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Phan Thanh Tuấn, bản án số: 09/2017/HSST ngày 20/02/2017 TAND tỉnh An Giang

Võ Văn Thông, bản án số 05/2017/HSST ngày 20/2/2017 TAND huyện Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long

Ngô Phạm Thanh Liên bản án số 06/2017/HSST ngày 24/2/2017 TAND huyện Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Thanh Thảo, bản án số 06/2017/HSST ngày 24/2/2017 của TAND huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre.

Phan Thanh Tuấn, bản án số: 06/2017/HSST ngày 06/02/2017 của TAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang

Nguyên Thanh Quốc, bản án số: 21/2017/HSST ngày 01/3/2017 của TAND tỉnh Tiền Giang

Huỳnh Thanh Hiếu, bản án số: 29/2017/HSST ngày 10/3/2017 của TAND tỉnh An Giang

Trần Lê Tuấn Anh, bản án số 19/2017/HSST ngày 10/3/2017 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Long An

Võ Hoàng Mến,bản án số: 05/2017/HSST ngày 15/3/2017 của TAND huyện Cù Lao Dung tỉnh Sóc Trăng

NguyễnVăn Luân, bản án số 19/2017/HSST ngày 31/3/2017 của TAND Thành phố Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang

Nguyễn Văn A, bản án số: 14/2017/HSST ngày 18/4/2017 của TAND tỉnh Long An

Đinh Minh T, bản án số 06/2017/HSST ngày 24/4/2017 của TAND Huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre

Nguyễn Hoàng T, bản án số 11/HS-ST ngày 26/4/2017 của TAND huyện Kiên Lương, Tỉnh Kiên Giang.

Giảng Trần Trường Sanh, bản án số: 48/2017/HSST ngày 28/4/2017 của TAND tỉnh An Giang

Kim Dũng, bản án số 08/2017/HSST ngày 3/5/2017 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Pl.42

Lê Văn Đầy, bản án số: 19/2017/HSST ngày 17/5/2017 của TAND thành phố Châu Đốc tỉnh An Giang

Trần Văn N, bản án số 27/2017/HSST ngày 17/5/2017 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Ng. Ng. A, bản án số 17/2017/HSST ngày 16/5/2017 của TAND tỉnh Kiên Giang

Lý T, bản án số 18/2017/HSST ngày 13/6/2017 cũa TAND huyện Châu Thành, Tỉnh Sóc Trăng

Đỗ Văn T, bản án số 24/2017/HS-ST ngày 14/6/2017 của TAND Huyện Chợ Mới, Tỉnh An Giang

Phạm Thanh Q, bản án số 35/2017/HS-ST ngày 28/6/2017 cuả TAND huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre

Lê Hoàng P, bản án số 45/2017/HS-PT ngày 6/7/2017 của TAND Tỉnh Bến Tre

Nguyễn Văn Đ, bản án số 12/2017/HS-ST ngày 11/7/2017 của TAND Huyện U Minh, Tỉnh Cà Mau

Huỳnh Văn M, bản án 24/2017/HSST ngày 11/7/2017 của TAND huyện U Minh, Tỉnh Cà Mau

Nguyễn Hữu Tín, bản án 34/2017/HSST ngày 12/7/2017 TANS huyện Thới Lai, TP.Cần Thơ

Nguyễn Hoàng T, bản án số 34/2017/HS-ST ngày 11/7/2017 của TAND huyện Thới Lai – Thành phố Cần Thơ

Nguyễn Văn P, bản án số 17/2017/ HS-ST ngày 19/7/2017 của TAND Huyện D, Tỉnh Trà Vinh

Phạm Minh Trí, Phan Thành Dương, Nguyễn Thành Lâm, bản án số 39/2017/HSST ngày 20/7/2017 của TAND

TP Cần Thơ

Dương Thanh Phong, bản án số 42/2017/HSST ngày 01/8/2017 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Lê Huỳnh Thiên Phúc, bản án số 45/2017/HSST ngày 03/8/2017 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Vũ Văn Đ, bản án số 25/2017/HSST ngày 3/8/2018 của TAND huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang

Trần Quốc Hùng, bản án số: 54/2017/HSST ngày 07/8/2017 của TAND tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Văn N, bản án số 24/2017/HSST ngảy 10/8/2017 TAND huyện Cầu Ngang, Tỉnh Trà Vinh

Pl.43

Nguyễn Văn H, bản án số 12/2017/HS-ST ngày 8/8/2017 của TAND Huyện Mỹ Tú, Tỉnh Sóc Trăng

Phan Thanh Tuấn, bản án số 20/2017/HSST ngày 10/8 /2017 của TAND tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Văn Đ, bản án số 24/2017/HSPT ngày 17/8/2017 của TAND tỉnh Vĩnh Long

Huỳnh Văn M, bản án số 18/2017/HSST ngày 21/8/2017 của TAND huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau

Nguyễn Văn K, bản án số 16/2017/HSST ngày 22/8/2017 của TAND huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang

Trần Chấn P, bản án số 17/2017/HSST ngày 25/8/2017 của TAND huyện Cầu Kè, Tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Minh Cảnh, bản án số 22/2017/HSST ngày 25/8/2017 của TAND huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau

Trần Thanh Đ, bản án số 28/2017/HSST ngày 25/8/2017 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Văn Hoai, bản án số 26/2017/HSST ngày 28/8/2017 của TAND huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang

Trần Vũ Linh, bản án số 34/2017/HSST ngày 28/8/2017 của TAND Huyện Tân Hiệp, Tỉnh Kiên Giang

Nguyễn Chí C, bản án số 39/2017/HSST ngày 6/9/2017 của TAND Huyện Tháp Mười, Tỉnh Đồng Tháp

Đặng Vinh K, bản án số 55/2017/HSST ngày 6/9/2017 của TAND Quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ

Trần Minh Phương, bản án số 23/2017/HSST ngày 6/9/2017 của TAND huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp

Nguyễn Văn D, bản án số 61/2017/HSPT ngày 6/9/2017 của TAND tỉnh Bến Tre

Hồ Anh Hoàng, bản án số 55/2017/HSST ngày 7/9/2017 của của TAND Tỉnh Kiên Giang

Phan Thanh Sơn, bản án số 23/2017/HSST ngày 11/9/2017 của TAND tỉnh Vĩnh Long.

Trần Minh Vương, bản án số 59/2017/HSST ngày 12/9/2017 của TAND Tỉnh Kiên Giang

Võ Văn Phương, bản án số 25/2017/HSST ngày 12/9/2017 của TAND huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp

Nguyễn Văn T, bản án số 17/2017/HSST ngày 18/9/2017 của TAND huyện Thủ Thừa, Tỉnh Long An

Pl.44

Nguyễn Phú T1, bản án số 13/2017/HSST ngày 20/9/2017 của TAND thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Hồng T2, bản án số 14/2017/HSST ngày 21/9/2017 của TAND thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng

Dương Ngọc Thế, bản án số 19/2017/HSST ngày 22/9/2017 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Trần Văn Sang, Lê Phú Sơn Đa, Lê Đình Phú, bản án số 48/2017/HSST của TAND tỉnh Hậu Giang

Trịnh Thanh H, bản án số 35/2017/HSST ngày 25/9/2017 của TAND Huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng

Phan Văn Hậu, bản án số 29/HSST ngày 25/9/2017 của TAND huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp

Ngô Phạm Thanh Liêm, bản án 25/2017/ HSST ngày 26/9/2017 của TAND huyện Trà Ôn, Tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Vũ L, bản án số 34/2017/HSST ngày 29/9/2017 của TAND Huyện H, tỉnh Cà Mau

Trần Văn M, bản án số 130/2017/HSPT ngày 30/10/2017 của TAND tỉnh Cà Mau

Lê Hoàng T, bản án số 36/2017/HS-ST ngày 2/11/2017 của TAND Huyện Thoại Sơn, Tỉnh An Giang

Thạch Thanh N, bản án số 37/2017/HSST ngày 14/11/2017 TAND huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Văn Sang, bản án số 31/2017/HSST ngày 14/11/2017 TAND huyện Châu Thành, tỉnh Long An

Lý Tấp, bản án số 36/2017/HSST ngày 15/11/2017 của TAND huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng

Danh V, bản án số 37/2017/HSST ngày 13/11/2017 của TAND huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang

Nguyễn Văn Tấn, bản án số 25/2017/HSST ngày 17/11/2017 của TAND huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long

Huỳnh Thanh Trung, bản án số 19/2017/HSST ngày 22/11/2017 của TAND huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long

Lê Văn Hiếu, bản án số 27/2017/HSST ngày 19/12/2017 của TAND huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau

Trần Thành Minh M, bản án số 89/2017/HSST ngày 19/12/2017 của TAND tỉnh Vĩnh Long

Thạch Nghĩa, bản án số 143/2017/HSST ngày 25/12/2017 của TAND tỉnh Cà Mau

Pl.45

Hồ Văn Hoàng, bản án số 23/2017/HSST ngày 26/12/2017 của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An

Lê Minh T, bản án số 64/2017/HSST ngày 26/12/2017 của TAND huyện Thới Lai, TP Cần Thơ

Huỳnh Văn B, bản án số 52/2017/HSST ngày 26/2/2017 của TAND thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu

Hồ Văn L, bản án số 43/2017/HSST ngày 26/12/2017 của TAND huyện Châu Thành, Tỉnh Long An

Huỳnh Văn D, bản án số 88/2017/HSST ngày 28/12/2017 của TAND thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

Phạm Văn Cư, bản án số 31/2017/HSST ngày 27/12/2017 của TAND Huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp

Nguyễn V H, bản án số 145/2017/HSST ngày 28/12/2017 của TAND huyện Nam Căn, Tỉnh Cà Mau

Võ Văn N, bản án số 02/2018/HSST ngày 8/1/2018 của TAND tỉnh Hậu Giang

Cao Văn Vẹn, bản án số 02/2018/HSST ngày 5/1/2018 của TAND TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

Nguyễn Thanh B, bản án số 01/2018/HSPT ngày 5/1/2018 của TAND Tỉnh Sóc Trăng

Trần Hoài Thanh, bản án số 02/2018/HSST ngày 5/1/2018 của TAND thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Tường S, bản án số 01/2018/HSST ngày 17/1/2018 của TAND huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp

Hữu Bê, bản án số 09/2018/HSST ngày 22/1/2018 của TAND huyện Thới Bình, Tỉnh Cà Mau

Trần Văn M, bản án số 01/2018/HSST ngày 22/1/2018 của TAND huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng

Phùng Chí Kiên, bản án số 17/2018/HSST ngày 25/1/2018 của TAND tỉnh Long An

Trần Tấn TT, bản án số 3/2018/HSST ngày 26/1/2018 của TAND Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang

Ngô Phạm Thanh L, bản án số 2/2018/HSST ngày 25/1/2018 của TAND huyện Trà Ôn, Vĩnh Long

Trần Thanh T, bản án số 09/2018/HSPT ngày 2/3/2018 của TAND Tỉnh Cà Mau

Phạm Văn Th, bản án số 7/2018/HSST ngày 6/3/2018 của TAND huyện An Phú, tỉnh An Giang

Pl.46

Trần Văn T, bản án số 4/2018/HSST ngày 6/3/2018 của TAND Thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang

Lê Thành Nhi, bản án số 19/2018/HSST ngày 23/3/2018 của TAND tỉnh Hậu Giang

Bùi Văn Sơn, bản án số 17/2018/HSST ngày 4/4/2018 của TAND huyện An Phú, Tỉnh An Giang

Lê Trường G, bản án số 14/2018/HSPT ngày 9/4/2018 của TAND tỉnh Sóc Trăng

Nguyễn Thành T, bản án số 10/2018/HSST ngày 10/4/2018 của TAND Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang

Nguyễn Nhựt Anh, bản án số 19/2018/HSST ngày 10/4/2018 của TAND huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh

Nguyễn Thanh S, bản án 10/2018/HSST ngày 20/4/2018 của TAND thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang

Nguyễn Văn Phi Em, bàn án số 08/2018 ngày 26/4/2018 của TAND huyện Châu Phú, tỉnh An Giang

Nguyễn Vũ L. Bản án số 18/2018/HSST ngày 21/6/2018 của TAND thị xã Long Mỹ, Tỉnh Hậu Giang

Nguyễn Văn T, bản án số 15/2018/HSST ngày 16/5/2018 của TAND thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang

Phạm Văn L, bản án số 12/2018/HSST ngày 23/5/2018 của TAND huyện Trà Ôn. Tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Khánh T, bản án số 21/2018 ngày 23/5/2018 của TAND huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Văn Y Sa, bản án số 31/2018, ngày 31/5/2018 của TAND Thành phố Trà Vinh, tỉnh trà Vinh

Lê Phát Đ, bản án số 34/2018/HSST ngày 10/6/2018 của TAND thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

Trần Hoài E, bản án số 11/2018/HSST ngày 8/6/2018 của TAND huyện T, Tỉnh Kiên Giang

Nguyễn Văn S, bản án số 15/2018/HSST ngày 8/6/2018 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Long An

Nguyễn Tấn Đạt, bản án số 20/2018/HSST ngày 10/6/2018 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long

Tiết Văn Tố, bản án số 48/2018/HSST ngày 13/9/2018 của TAND tỉnh Hậu Giang

Nguyễn Văn M, bản án số 36/2018/HSST ngày 13/9/2018 của TAND huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long

Pl.47

Lê Minh H, bản án số 32/2018/HSST ngày 13/9/2018 của TAND tỉnh Kiên Giang

Phan Thanh H, bản án số 35/2018/HSST ngày 27/9/2018 của TAND tỉnh Kiên Giang

Huỳnh Thanh T, bản án số 25/2018/HSST ngày 27/9/2018 của TAND huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long

Phan Văn L, bản án số 19/2018/HSST ngày 27/9/2018 của TAND huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long

Trịnh Lê Phúc Thịnh, bản án số 26/2018/HSST ngày 27/9/2018 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Anh Kiệt, bản án số 21/2018/HSST ngày 17/10/2018 của TAND thị xã Bình Minh, Tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Văn H, bản án số 37/2018/HSST ngày 22/10/2018 của TAND huyện Phú Tân, Tỉnh Cà Mau

Đặng Văn Thanh, bản số 19/2018/HSST ngày 25/10/2018 của TAND huyện Lai Vung, Tỉnh Đồng Tháp

Nguyễn Tấn Phát, bản án số 33/2018/HSST ngày 31/10/2018 của TAND huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Văn Trường G bản án số 54/2018/HSST ngày 25/11/2018 của TAND Tỉnh Long An

Phạm Văn Tuấn, bản án số 21/2018/HSST ngày 13/12/2018 của TAND huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh

Tô Văn Long, bản án số 72/2018/HSST ngày 17/12/2018 của TAND tỉnh Bến Tre

Huỳnh Hoàng Tây, bản số 54/2018/HSST ngày 5/12/2018 của TAND huyện Thới Bình, Cà Mau

Nguyễn Văn Ba, bản án số 43/2018/HSST ngày 5/12/2018 của TAND huyện Tam Bình, Vĩnh Long

Nguyễn Công Nguyên, bản án số 33/2018/HSST ngày 6/12/2018 của TAND huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau

Ngô Thanh T, bản án số 67/2018/HSST ngày 6/12/2018 của TAND TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

Ngô Văn Đông, bản án số 41/2018/HSST ngày 19/12/2018 của TAND huyện Long Hồ, Tỉnh Vĩnh Long

Nguyễn Văn Dân, bản án số 34/2018/HSST ngày 20/12/2018 của TAND huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre

Pl.48