
triển. Các nghiên cứu đánh giá phúc lợi động vật ở lợn nái sử dụng các chỉ số
từ nhiều khía cạnh các quan sát tập tính, các chấn thương và stress sinh lý để
đánh giá phúc lợi của lợn nái (Schneider et al., 2007; Turner et al., 2006) chủ
yếu tập trung vào nghiên cứu về ảnh hưởng của chuồng nuôi cũi và nuôi nhóm
với các phương thức chăn nuôi khác nhau sử dụng (Barnett et al., 2001; Fraser,
2008; Nicol et al., 2011). Hầu hết các nghiên cứu cho đến nay đã chỉ ra rằng
mức độ stress sinh lý khi so sánh giữa lợn nái nuôi trong cũi cá thể trong suốt
thời gian thai kỳ với những lợn nuôi trong nhóm là không khác nhau (Rhodes
et al., 2005). Nồng độ cortisol huyết giữa lợn nuôi cũi tương đương với lợn
nuôi nhóm (Barnett et al., 1989; Tsuma et al., 1996).
Đánh giá về thể chất, các nhà nghiên cứu cho thấy, một tỷ lệ lớn những vết
loét do nằm, các tổn thương ở bờ vai và chân của lợn nái nuôi cũi xảy ra
thường xuyên hơn so với lợn nuôi nhóm do tiếp xúc với sàn chuồng xi măng
cứng và thành cũi. Lợn nái nuôi cũi vận động kém dẫn đến què, viêm khớp và
các vấn đề về móng. Cơ bắp chân giảm trọng lượng, yếu và độ dài xương giảm
được quan sát ở nái nuôi cũi trong suốt thời gian mang thai so với những nái
được nuôi trong nhóm (Marchant and Broom, 1996).
Về năng suất sinh sản giữa lợn nái nuôi cũi và lợn nái nuôi nhóm, phần lớn
những dữ liệu cho rằng không có ảnh hưởng của kiểu chuồng đến số con đẻ ra,
khối lượng sơ sinh (Karlen et al., 2007; Kongsted, 2005; Peltoniemi et al.,
1999)... Tuy nhiên, lại có những nghiên cứu cho thấy năng suất những lợn nái
nuôi cũi cao hơn nuôi nhóm (Karlen et al., 2007; Salak-Johnson et al., 2007),
Barnett et al. (1991) nhận thấy trong 15 nghiên cứu được xem xét có 8
nghiên cứu chỉ ra rằng năng suất sinh sản lợn nuôi nhóm tốt hơn, trong khi chỉ
có 4 nghiên cứu chỉ ra năng suất của lợn nái nuôi cũi cá thể tốt hơn. Các kết
quả khác nhau đó có thể do việc áp dụng các biện pháp quản lý chỗ ăn, nghỉ và
nghiên cứu tiến hành ở các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ mang thai, đặc
biệt là trong khi phối giống và thời kỳ đầu mang thai.
Một trong những phương pháp nghiên cứu đánh giá phúc lợi động vật là sử
dụng quan sát tập tính. Lợn nái nuôi cũi thường biểu hiện tập tính gây hấn trực
tiếp với những con lợn bên cạnh. Thời gian những tập tính này được quan sát
là cao tuy nhiên không có các vết thương do những tương tác này nhưng lợn
nái sẽ trải qua trạng thái lo lắng, sợ hãi và thất vọng bởi vì chúng hầu như
không có khả năng để giải quyết thoả đáng những cuộc chạm trán như vậy
(Broom et al., 1995). Lúc này lợn nái sẽ chuyển sang gặm những thanh cũi
ngang, nhai bã trầu, uốn lưỡi... giảm hành vi gây hấn (Bartussek, 1999). Ngược
lại, với hệ thống nuôi nhóm, tập tính gây hấn là một trong những vấn đề gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến phúc lợi động vật của lợn nái nhiều nhất. Vì vậy,
đã có rất nhiều nghiên cứu liên quan đến việc xác định khoảng thời gian cho
nhóm ổn định thứ bậc bầy đàn đã được thực hiện.