HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ PHƢƠNG GIANG
ẢNH HƢỞNG CỦA PHƢƠNG THỨC CHĂN NUÔI LỢN
ĐẾN CHẤT LƢỢNG PHÚC LỢI ĐỘNG VẬT
VÀ NĂNG SUẤT CHĂN NUÔI Ở MỘT SỐ TỈNH
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Chuyên ngành : Chăn nuôi
Mã số : 09 62 01 05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN
HÀ NỘI - 2018
Công trình hoàn thành tại:
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. VŨ ĐÌNH TÔN
Phn bin 1: PGS.TS NGUYỄN VĂN ĐỨC
Hội Chăn nuôi
Phn bin 2: PGS.TS. TRN HUÊ VIÊN
Trƣờng Đại hc ng Lâm, Đại hc Thái Nguyên
Phn bin 3: TS. LÊ TH THANH HUYN
Viện Chăn nuôi
Lun án sđược bo vtrước Hội đồng đánh giá lun án cp Học viện hp tại:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi giờ, ngày tháng năm 2018
thể tìm hiểu luận án tại thƣ viện:
- Thƣ viện Quốc gia Việt Nam
- Thƣ viện Học viện Nông nghiệp Việt Nam
1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIT CỦA ĐỀ TÀI
Trong chăn nuôi lợn công nghiệp, chuồng trại lợn nái mang thai một
trong những vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất tại các cuộc thảo luận về phúc lợi
động vật. Chuồng cũi cá thể để nuôi lợn nái mang thai được cho là có liên quan
đến các vấn đề phúc lợi kém. Nhiều nhà khoa học, nhà quản cho rằng
chuồng nuôi nhóm là giải pháp thay thế tốt nhằm cải thiện phúc lợi cho lợn nái
mang thai. Chính vì vậy, lệnh cấm nuôi nhốt lợn nái trong cũi đã dần được đưa
vào luật các nước phát triển như Thụy Điển, Anh, New Zealand... K từ
01/01/2013 Liên minh Châu Âu đã ra chỉ thị từ bắt buộc tất cả các trang trại
phải sử dụng hệ thống nuôi lợn nái theo nhóm, chỉ cho phép nuôi lợn nái trong
cũi 4 tuần sau khi phối giống (EU, 2001). Ở Việt Nam, năm 2015 đã ban hành
Luật thú y đầu tiên, trong đó tại điều 21 đã quy định về việc đảm bảo phúc lợi
động vật, nhưng vấn đề này vẫn chưa được quy định một cách chi tiết, đặc biệt
không đề cập đến vấn đề chuồng trại cho lợn nái mang thai (Nghị Quyết
79/2015/QH13, 2015).
vậy để hướng tới một nền chăn nuôi bền vững, đáp ứng được yêu cầu
hội nhập quốc tế cần phải có những nghiên cứu cụ thể làm cơ sở khoa học cho
người chăn nuôi, các nhà làm luật, các nhà hoạch định chính sách, người tiêu
dùng cùng chung tay thực hiện các biện pháp nâng cao phúc lợi cho động vật
nói chung và cho lợn nái nói riêng.
Vấn đề nghiên cứu được đặt ra hiện nay thực trạng phúc lợi của lợn nái
ở Việt Nam như thế nào? Phương thức chăn nuôi nào đảm bảo phúc lợi cho lợn
nái hiện nay? Giả thiết đưa ra phương thức chăn nuôi lợn nái theo nhóm
trong chuồng có sân đảm bảo phúc lợi hơn chuồng không có sân. Phương thức
chăn nuôi lợn nái theo nhóm đảm bảo phúc lợi hơn nuôi ln nái trong cũi?
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở đánh giá mức độ ảnh hưởng của các phương thức chăn nuôi đến
phúc lợi của lợn nái ở một số tỉnh Đồng bằng sông Hồng, đề xuất các giải pháp
chăn nuôi vừa đảm bảo phúc lợi động vật, vừa đáp ứng được mục tiêu về năng
suất, nâng cao giá trị sản phẩm.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được mức độ ảnh hưởng của các phương thức chăn nuôi tại các
nông hộ và trang trại đến phúc lợi của lợn nái.
- Đánh giá phúc lợi năng suất chăn nuôi lợn nái với các phương thức
chăn nuôi theo mô hình thực nghiệm. Từ đó đưa ra những khuyến cáo cho từng
phương thức chăn nuôi vừa cải thiện chất lượng phúc lợi động vật, vừa đáp
ứng được mục tiêu về năng suất và giá trị sản phẩm chăn nuôi.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Tình hình chăn nuôi đánh giá thực trạng phúc lợi động vật lợn nái
2
nuôi tại các nông hộ, trang trại tại Nội, Hưng Yên Hải Dương thuộc
Đồng bằng Sông Hồng từ tháng 6/2014 đến tháng 6/2016.
- Thực nghiệm được tiến hành nghiên cứu trên đàn lợn nái F1(LxY) nuôi
tại Trại thực nghiệm, Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo nghChăn nuôi, Khoa
Chăn Nuôi, Học viện Nông nghiệp Việt Nam từ tháng 4/2015 đến tháng 3/2017.
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Đánh giá được thực trạng phúc lợi động vật của lợn nái nuôi một số
tỉnh Đồng bằng Sông Hồng.
- Đưa ra được những sở khoa học đối việc xây dựng hệ thống chuồng
trại, phương thức chăn nuôi nhằm nâng cao chất lượng phúc lợi cho lợn cái
giai đoạn hậu bị và mang thai.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.5.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu đã đóng góp thêm liệu cho giảng dạy, nghiên cứu
khoa học về ảnh hưởng của các phương thức chăn nuôi tới phúc lợi động vật và
năng suất sinh sản của lợn nái.
- Có thêm định hướng mới trong nghiên cứu chăn nuôi lợn nái vừa đảm bảo
phúc lợi động vật vừa nâng cao năng suất sinh sản.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Cung cp c thông tin và thực trạng pc li động vật đàn ln nái đưc ni
với các quy mô và phương thức khác nhau một số tnh Đồng bằng Sông Hồng.
- Đưa ra được minh chứng với điều kiện thời tiết khí hậu miền Bắc Việt
Nam, để đảm bảo phúc lợi cho lợn cái không cần thiết phải nuôi lợn cái theo
nhóm trong chuồng có sân.
- Cung cấp các thông tin căn cứ khoa học chứng minh lợn nái nuôi theo
kiểu chuồng nhóm nhiều chtiêu đánh giá phúc lợi động vật tốt hơn lợn nái
nuôi trong cũi. Trong giới hạn thời gian nghiên cứu của đề tài cho thấy nuôi lợn
nái theo nhóm chưa cải thiện được năng suất sinh sản so với lợn nái nuôi cũi.
- Với những ý nghĩa thực tiễn trên thể đưa ra những khuyến cáo cho
người dân trong việc xây dựng hình chuồng trại, phương thức chăn nuôi
lợn nái vừa đảm bảo phúc lợi động vật, vừa đảm bảo năng suất sinh sản cho
lợn nái.
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Phúc lợi động vật hay "animal welfare" một thuật ngữ tả khả năng
đánh giá chất lượng sống của động vật một thời điểm cụ thể. Trong những
thảo luận về phúc lợi động vật, các nhà khoa học thường đưa ra 3 khái niệm
liên quan đến trạng thái thể chất, trạng thái tinh thần tập tính tự nhiên
(Fraser, 2008).
Trong suốt hơn 50 năm qua, đã rất nhiều nghiên cứu về vấn đề phúc lợi
động vật được công bố trên thế giới, đặc biệt Châu Âu các nước phát
3
triển. Các nghiên cứu đánh giá phúc lợi động vật lợn nái sử dụng các chỉ số
từ nhiều khía cạnh các quan sát tập tính, các chấn thương stress sinh để
đánh giá phúc lợi của lợn nái (Schneider et al., 2007; Turner et al., 2006) chủ
yếu tập trung vào nghiên cứu về ảnh hưởng của chuồng nuôi cũi và nuôi nhóm
với các phương thức chăn nuôi khác nhau sử dụng (Barnett et al., 2001; Fraser,
2008; Nicol et al., 2011). Hầu hết các nghiên cứu cho đến nay đã chỉ ra rằng
mức độ stress sinh khi so sánh giữa lợn nái nuôi trong cũi thể trong suốt
thời gian thai kỳ với những lợn nuôi trong nhóm không khác nhau (Rhodes
et al., 2005). Nồng độ cortisol huyết giữa lợn nuôi cũi tương đương với lợn
nuôi nhóm (Barnett et al., 1989; Tsuma et al., 1996).
Đánh giá về thể chất, các nhà nghiên cứu cho thấy, một tỷ lệ lớn những vết
loét do nằm, các tổn thương bờ vai chân của lợn nái nuôi cũi xảy ra
thường xuyên hơn so với lợn nuôi nhóm do tiếp xúc với sàn chuồng xi măng
cứng thành cũi. Lợn nái nuôi cũi vận động kém dẫn đến què, viêm khớp
các vấn đề về móng. Cơ bắp chân giảm trọng lượng, yếu và độ dài xương giảm
được quan sát nái nuôi cũi trong suốt thời gian mang thai so với những nái
được nuôi trong nhóm (Marchant and Broom, 1996).
Về năng suất sinh sản giữa lợn nái nuôi cũi và lợn nái nuôi nhóm, phần lớn
những dữ liệu cho rằng không có ảnh hưởng của kiểu chuồng đến số con đẻ ra,
khối lượng sinh (Karlen et al., 2007; Kongsted, 2005; Peltoniemi et al.,
1999)... Tuy nhiên, lại những nghiên cứu cho thấy năng suất những lợn nái
nuôi cũi cao hơn nuôi nhóm (Karlen et al., 2007; Salak-Johnson et al., 2007),
Barnett et al. (1991) nhận thấy trong 15 nghiên cứu được xem xét 8
nghiên cứu chỉ ra rằng năng suất sinh sản lợn nuôi nhóm tốt hơn, trong khi chỉ
4 nghiên cứu chỉ ra năng suất của lợn nái nuôi cũi thể tốt hơn. Các kết
quả khác nhau đó có thể do việc áp dụng các biện pháp quản lý chỗ ăn, nghỉ và
nghiên cứu tiến hành các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ mang thai, đặc
biệt là trong khi phối giống và thời kỳ đầu mang thai.
Một trong những phương pháp nghiên cứu đánh giá phúc lợi động vật là sử
dụng quan sát tập tính. Lợn nái nuôi cũi thường biểu hiện tập tính gây hấn trực
tiếp với những con lợn bên cạnh. Thời gian những tập tính này được quan sát
cao tuy nhiên không các vết thương do những tương tác y nhưng lợn
nái sẽ trải qua trạng thái lo lắng, sợ hãi thất vọng bởi chúng hầu như
không khả năng để giải quyết thoả đáng những cuộc chạm trán như vậy
(Broom et al., 1995). Lúc này lợn nái sẽ chuyển sang gặm những thanh cũi
ngang, nhai bã trầu, uốn lưỡi... giảm hành vi gây hấn (Bartussek, 1999). Ngược
lại, với hệ thống nuôi nhóm, tập tính gây hấn một trong những vấn đề gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến phúc lợi động vật của lợn nái nhiều nhất. Vì vậy,
đã rất nhiều nghiên cứu liên quan đến việc xác định khoảng thời gian cho
nhóm ổn định thứ bậc bầy đàn đã được thực hiện.