o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸ o dôc vµ ®µo t¹o o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸ Bé gi¸
Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n ------(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)------
MAI YAYONGYIA
CHÝNH S¸CH NHµ N¦íC Hç TRî XUÊT KHÈU
HµNG HO¸ CñA N¦íC CéNG HOµ D¢N CHñ
NH¢N D¢N LµO
Hµ néi - 2016
o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸ o dôc vµ ®µo t¹o o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸ Bé gi¸
Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n ------(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)------
MAI YAYONGYIA
CHÝNH S¸CH NHµ N¦íC Hç TRî XUÊT KHÈU
HµNG HO¸ CñA N¦íC CéNG HOµ D¢N CHñ
NH¢N D¢N LµO
: KINH TÕ Vµ QU¶N Lý TH¦¥NG M¹I
: 62 34 0121
Chuyªn ngµnh M· sè
Ng−êi h−íng dÉn khoa häc:
PGS.TS. Phan Tè Uyªn
TS. NguyÔn ViÖt C−êng
Hµ néi - 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và trích
dẫn nêu trong luận án hoàn toàn trung thực. Các kết quả nghiên cứu của luận án chưa
từng được người khác công bố trong bất kỳ công trình nào.
tháng Hà Nội, ngày năm 2016
Tác giả luận án
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................................................... v DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ ............................................................................... viii LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA CÁC QUỐC GIA ................. 10 1.1Những vấn đề cơ bản về chính sách Nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia .................................................................................................................. 10 1.1.1Khái niệm, căncứhình thành chính sách và sự cần thiết khách quancủa chính sách Nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia .................................... 10 1.1.2Cơ sở lựa chọn chính sách ................................................................................ 20 1.1.3Vai trò của chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa ............................ 25 1.2Các chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia ............ 28 1.2.1Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa ................................................ 28 1.2.2Chính sách thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa ...................................................... 31 1.2.3 Chính sách phát triển thị trường, xúc tiến thương mại hỗ trợ xuất khẩuhànghóa32 1.2.4Chính sách thương nhân hỗ trợ xuất khẩuhàng hóa .......................................... 34 1.2.5Chính sách đầu tư hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa ................................................... 36 1.2.6Chính sách ruộng đất hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa .............................................. 37 1.2.7Chính sách mặt hàng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa .............................................. 38 1.3Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốcgia ............................................................................................................ 40 1.3.1 Nhân tố về chính trị .......................................................................................... 40 1.3.2 Nhân tố về kinh tế ............................................................................................ 41 1.3.3 Nhân tố về xã hội ............................................................................................. 42 1.3.4 Nhân tố bối cảnh kinh tế quốc tế và thị trường xuất khẩu ............................... 43 1.4Kinh nghiệm quốc tế về chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho CHDCND Lào .................................. 44 1.4.1 Kinh nghiệm của Thái Lan về chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa . 44 1.4.2Kinh nghiệm của Việt Nam............................................................................... 46 1.4.3Kinh nghiệm của Trung Quốc ........................................................................... 49 1.4.4Kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc ......................................................... 52 1.4.5Bài học rút ra cho nước CHDCND Lào ............................................................ 53 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .............................................................................................. 56
iii
CHƯƠNG2:THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ XUẤT KHẨUHÀNG HÓA CỦA NƯỚC CHDCNDLÀO ................................................... 57 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của nước CHDCND Lào .......................... 57 2.1.1Đặc điểm về điều kiện tự nhiên của nước CHDCND Lào ................................ 57 2.1.2Đặc điểm kinh tế - xã hội của nước CHDCND Lào ......................................... 58 2.2 Thực trạng xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào ................................ 60 2.2.1 Tình hình xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào ................................. 60 2.2.2Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực ....................................................................... 64 2.2.3Thực trạng thị trường xuất khẩu hàng hóa của CHDCND Lào ........................ 69 2.3 Phân tích thực trạng chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào .................................................................................................... 75 2.3.1 Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCNDLào ....... 75 2.3.2Chính sách thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào ............. 79 2.3.3Chính sách phát triển thị trường, xúc tiến thương mại hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào .................................................................................... 82 2.3.4Chính sách thương nhân hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào 90 2.3.5Chính sách đầu tư hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào .......... 93 2.3.6Chính sách ruộng đất hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào ..... 95 2.3.7 Chính sách mặt hàng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào .... 97 2.4Phân tích kết quả điều tra mức độ ảnh hưởng của chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào ........................................................ 100 2.4.1Kích thước mẫu điều tra .................................................................................. 101 2.4.2Phân tích thống kê mô tả ................................................................................. 101 2.5Những kết luận đánh giá qua phân tích thực trạng chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào ........................................................ 103 2.5.1Kết quả đạt được của chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCNDLào .......................................................................................................... 103 2.5.2 Những hạn chế của chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCNDLào .......................................................................................................... 106 2.5.3Nguyên nhân của những hạn chế .................................................................... 110 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 113 CHƯƠNG 3:ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCHNHÀ NƯỚC HỖ TRỢ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA NƯỚC CHDCND LÀO TRONG ĐIỀU KIỆN LÀ THANH VIÊNCỦATỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) ......................................................................... 114 3.1Những quy định của WTO về hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa và những cam kết của CHDCND Lào với WTO về hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa ................................ 114
iv
3.1.1Những quy định của WTO về hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa .............................. 114 3.1.2 Những cam kết của nước CHDCND Lào với WTO về hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa ........................................................................................................................... 115 3.2Quan điểm và định hướng hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào đến năm 2025 .................................................. 119 3.2.1Quan điểm hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào trong điều kiện là thành viên củaWTO ................................. 119 3.2.2Định hướng hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào trong điều kiện là thành viên của WTO ................................ 121 3.3Giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào tầm nhìn đến năm 2025 ......................................................... 124 3.3.1Xây dựng và triển khai hiệu quả các chính sách tín dụng xuất khẩu phù hợp .... 124 3.3.2Hoàn thiện chính sách thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa phù hợp với những cam kết của WTO ........................................................................................................... 126 3.3.3Xây dựng chương trình nhận dạng thương hiệu hàng hóa xuất khẩu của Lào trên thị trường thế giới thông quaxúc tiến thương mại hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa 127 3.3.4Hoàn thiện chính sách phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa và xây dựng chính sách bán hàng ................................................................................................ 131 3.3.5Hoàn thiện chính sách quản lý xuất khẩu hàng hóa phù hợp với điều kiện hội nhập và cam kết của WTO ...................................................................................... 134 3.3.6Xây dựng chiến lược mặt hàng xuất khẩu chủ lực, xác định đúng đắn các mặt hàng xuất khẩu chiến lược qua từng thời kỳ ........................................................... 136 3.4Một số kiến nghị về điều kiện thực hiện các giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào ............................ 140 3.4.1Một số điều kiện để thực hiện giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào ......................................................... 140 3.4.2Một số khuyến nghị với các doanh nghiệp ..................................................... 144 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .......................................................................................... 148 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tên đầy đủ tiếng Việt Tên đầy đủ tiếng Anh
AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ASEAN Free Trade Area
APEC Asia-Pacific Economic
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương Cooperation
CEPT Common Effective
Biểu thuế quan ưu đãi hiệu lực chung preferential Taxes
CHDCND Lào Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Lao PDR
CHXHCN Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Socialist Republics
CNH - HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa Industrialization –
Modernization
CSTMQT Chính sách thương mại quốc tế International Trade Policy
ĐNDCM Lào Đảng Nhân dân cách mạng Lào
Lao Peoples’ Revolutionary Party
Chương trình thu hoạch sớm Early Harvest Program EHP
Integrated EIF
Dự án hội nhập quốc tế về thương mại giai đoạn cải thiện The Enhance Framework
Liên minh Châu Âu European Union EU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài Foreign Direct Investment FDI
Hình thức bán giao hàng Free On Board FOB
GATT
Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch General Agreement on Tariff and Trade
Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Production GDP
Tổng sản phẩm quốc gia Gross National Production GNP
Trade Analysis GTAP
Dự án phân tích thương mại toàn cầu Global Project
Trade Analysis GTAP
Dự án phân tích thương mại toàn cầu Global Project
Giá trị gia tăng Value added Tax GTGT
Hợp tác xã Cooperative HTX
Hệ thống Hài hòa Harmonized System HS
Intergrated Framework IF
Dự án hội nhập quốc tế về thương mại
Quỹ tiền tệ quốc tế International Money Fund IMF
vi
Hiệp hội Tiêu chuẩn quốc tế Standard International ISO
Organization
Trung tâm thương mại quốc tế International trade Center ITC
Khoa học công nghệ Science and Technology KH&CN
Kinh tế quốc tế International Economy KTQT
Kinh tế - Xã hội Socio – Economics KT - XH
Thanh toán tín dụng thư Letter of Credit L/C
Quốc gia kém phát triển Low development country LDC
Quy chế tối huệ quốc Most Favored Nation MFN
MUTRAP Dự án hỗ trợ thương mại đa biên Multilateral Trade Assistance
Project
NAFTA Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ North American Free Trade
Agreement
Quy chế thương mại bình thường Normal Trade Relations NTR
Viện trợ phát triển chính thức Development ODA
Official Assistance
Lợi thế so sánh hiện hữu Revealed Comparative RCA
Advantage
Supply Chain Management SCM
Trợ cấp và các biện pháp đối kháng
Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong Technical Barriers to trade TBT
thương mại
Thương mại quốc tế International Trade TMQT
Thuế tiêu thụ đặc biệt Special Consumption Tax TTĐB
Hiệp định về các biện pháp đầu tư Trade – Related Investment TRIMs
liên quan đến thương mại Measures
UNCTD Tổ chức Liên Hiệp quốc về thương United Nations Conference
mại và phát triển on Trade and Development
Đô la Mỹ United Dollar USD
Thuế giá trị gia tăng Value added tax VAT
Ngân hàng thế giới World Bank WB
Tổ chức Thương mại thế giới World Trade Organization WTO
Xuất nhập khẩu Im port – Export XNK
vii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG LÀO DỊCH SANG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH
Tiếng Lào Tiếng Việt Tiếng Anh
Bộ Tài chính Ministry of Finance ¡¤
Quốc Hội National Assembly of Lao -¦-²-§
Công hòa Dân chủ Nhân dân Lào Lao People’s Democratic -¦-¯ -¯ 쾸
Republic
Prime Minister Thủ tướng Chính phủ ߨ
Bank of Lao Ngân hàng nhà nước Lào -ê-¹ì
Government Chính phủ ì®
Ministry of Commerce and Bộ Công thương º-£
Industry
Domestic Trade Thương mại trong nước £-²ß
Export – Import Xuất – nhập khẩu
¡-¢-º
viii
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu và tốc độ tănggiai đoạn 2001-2014 của
nước CHDCND Lào ...................................................................................................... 61
Bảng 2.2: Tình hình xuất khẩu một số hàng hóa chủ lực của Làogiai đoạn từ 2002 đến
2014 ............................................................................................................................... 64
Bảng 2.3: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của nước CHDCND Lào giai đoạn 2005 - 2014 ....... 71
Biểu đồ 2.l: Kim ngạch xuất khẩu dệt may qua các năm .............................................. 66
Biểu đồ 2.2: Kim ngạch xuất khẩu Cà phê của CHDCND Làogiai đoạn 2006-2014 ........ 67
Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu Lúa gạo của CHDCND Làogiai đoạn 2006-2014 ...... 69
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài luận án
Quá trình quốc tế hóa tiếp tục diễn ra với quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày
càng cao trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới: trong sản xuất, thương
mại, đầu tư, tài chính, các hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hóa...
Thông qua các hoạt động trên các nước xích lại với nhau hơn, gắn bó với nhau nhiều
hơn.Chính điều đó làm cho nền kinh tế thế giới trở thành một chỉnh thể thống nhất,
trong đó mỗi quốc gia là bộ phận không tách rời và tùy thuộc vào nhau.Sự biến động
xảy ra ở bất kỳ nước nào đó tất yếu sẽ dẫn tới sự tác động tới các quốc gia khác trên
thế giới. Đặc điểm này đặt ra một yêu cầu tất yếu là mỗi quốc gia cần phải mở cửa ra
thị trường thế giới và chủ động tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển
kinh tế đối ngoại để có được một khuôn khổ phù hợp cho sự phát triển.
Từ một nền kinh tế “tự cung, tự cấp”, đến nay nền kinh tế CHDCND Lào đã có
những bước phát triển vượt bậc, trong năm năm trở lại đây, Lào là một trong số ít các
quốc gia liên tục đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao(hơn 7% một năm). Trong năm
2013 với tốc độ phát triển kinh tế đạt được 7,9%/năm, trong đó lĩnh vực nông lâm
3,6%, công nghiệp 13,7%, dịch vụ 7,8%. Bên cạnh đó tổng sản phẩm quốc nội đầu
người năm 2013 – 2014 đạt 1.628 USD/năm, cơ cấu kinh tế có sự phát triển vượt bậc,
trong năm 2014 ngành nông – lâm chiếm 23,5% của GDP, ngành công nghiệp chiếm
33,2% của GDP, ngành dịch vụ chiếm 37,4% của GDP, và kim ngạch xuất khẩu năm
2014 đạt3.433.709.669 USD và năm 2015 là 3.426.070.504 USD. Cơ cấu hàng hóa
xuất khẩu cũng đã có sự thay đổi đáng kể, trong đó các mặt hàng xuất khẩu truyền
thống trước kia như lương thực, thực phẩm thô chưa qua chế biến, đồ hút, đồ uống,
nguyên liệu thô và khoáng sản có sức cạnh tranh kém và ngày càng mất giá nay đã
giảm dần tỷ trọng, tăng dần tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến, có hàm
lượng khoa học công nghệ cao, sức cạnh tranh mạnh mẽ. Trong đó các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực là Cà phê, hàng nông sản, điện, khoáng sản, sản phẩm gỗ, dệt may và
mặt hàng khác.
Để hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước có thể phát huy hết
nội lực thì các công cụ chính sách của nhà nước là vô cùng cần thiết và đặc biệt là các
chính sách hỗ trợ xuất khẩu, có thể thấy rằng mục tiêu các chính sách hỗ trợ và định
hướng phát triển của nước CHDCND Lào ngày càng dần được hoàn thiện phù hợp với
2
sự phát triển của đất nước và với thông lệ quốc tế. Hiện nay, nhiều chính sách đưa ra
từ khi đất nước đi vào đổi mới đã bộc lộ nhiều hạn chế chưa thực sự phù hợp với sự
phát triển không ngừng của thế giới, và các chính sách đòi hỏi phải cần được bổ sung
và điều chỉnh để thích hợp với xu hướng phát triển của thế giới. Trong khi kinh tế
trong nước và thế giới luôn luôn biến động không ngừng, thì không thể duy trì mãi
một chính sách, mỗi thời kì hay giai đoạn nhất định thì đất nước lại theo đuổi những
mục tiêu khác nhau, mỗi mục tiêu yêu cầu có những chính sách phù hợp hơn. Đặc biệt
trong bối cảnh CHDCND Lào đã trở thành thành viên của WTO; nhận thức được vấn
đề này, CHDCND Lào đã hình thành một hệ thống chính sách và chương trình hỗ trợ
xuất khẩu hàng hóa phù hợp với hoàn cảnh đất nước nhằm thúc đẩy xuất khẩu của
doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, xây dựng hệ thống chính sách phù hợp, hiệu quả
cao là công việc khá phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và sự nỗ lực của nhiều
ngành, nhiều cấp, nhiều tổ chức và nhiều người cùng tham gia với sự quan tâm hỗ trợ
đặc biệt của Nhà nước. Những khía cạnh này có ảnh hưởng nhiều tới sự phát triển kinh
tế và xã hội, có ý nghĩa lớn với các hoạt động thực tiễn. Vì vậy, việc tiếp tục hoàn
thiện chính sách nhà nước nhằm hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa ở nước CHDCND Lào là
một vấn đề cấp bách hiện nay.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại hiện nay, hoạt động xuất
khẩu đã và đang là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của mọi quốc gia,
từ các nước đang phát triển đến các nước phát triển. Có thể nói, đẩy mạnh xuất khẩu
trở thành mục tiêu sống còn của tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu
này, sự can thiệp của nhà nước thông qua các chính sách hỗ trợ xuất khẩu là nhu cầu
tất yếu. Nếu không có sự hỗ trợ, định hướng và khuyến khích của nhà nước thì các
doanh nghiệp, đặc biệt của các nước đang phát triển khó có thể thành công trên thị
trường thế giới. Nhưng chính sách hỗ trợ xuất khẩu của các quốc gia, một mặt vừa
phải đáp ứng mục tiêu quốc gia trong việc định hướng thị trường và mặt hàng, vừa
không được trái với các cam kết và thông lệ quốc tế. Đối với nước CHDCND Lào, là
một nước đi sau mới gia nhập WTO, kinh nghiệm chưa nhiều nhưng lại có nhiều
hạn chế về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ xuất khẩu của
chính phủ Lào càng trở nên khó khăn. Do đó, đề tài nghiên cứu luận án có ý nghĩa
cấp bách vả về lý luận và thực tiễn Vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: “Chính sách nhà
nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào” làm nghiên cứucho
luận án tiến sỹ của mình.
3
2 Tổng quan các công trình khoa học liên quan đến đề tài
2.1 Các công trình trên thế giới
Phát triển hoạt động xuất khẩu hàng hóa và những chính sách của nhà nước hỗ trợ
xuất khẩu hàng hóa đã được nhiều công trình trong nước và trên thế giới nghiên cứu liên
quan đề cập tới các mức độ và nội dung khác nhau cả về mặt lý luận và thực tiễn.
“The key issues of the improvement of export promotion policy at the macro-
and micro levels “ của tác giả Karen Grigoryan (năm 2008 Armenian State University
of Economics, Yerevan, Armenia). Đề tài nghiên cứu chính sách hỗ trợ xúc tiến hoạt
động xuất khẩu hàng hóa ở cấp vĩ mô và vi mô. Những vấn đề còn tồn tại trong hoạt
động xúc tiến thương mại của chính phủ ảnh hưởng đến hiệu quả hỗ trợ của hoạt động
xuất khẩu. Tìm ra nguyên nhân. Tuy nhiên nghiên cứu không tiếp tục đưa ra những
kiến nghị về mặt giải pháp để hoàn thiện chính sách hỗ trợ xúc tiến hoạt động xuất
khẩu hàng hóa.
Sách tham khảo về “Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế“ (2003) của GS.TS Chu Văn Cấp (chủ biên), đã
nghiên cứu khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu như gạo, chè, cà phê,
thủy sản cho đến năm 1999 dựa trên các tiêu chí về chi phí sản xuất, giá xuất khẩu,
chất lượng và uy tín sản phẩm, thị trường tiêu thụ v.v..
Cuốn sách “ phát huy lợi thế so sánh để đẩy mạnh tăng trưởng của Việt Nam
trong điều kiện hiện nay “ của PGS.TS Võ Văn Đức – nhà xuất bản chính trị quốc gia
năm 2004. Phân tích lợi thế của Việt Nam và đề xuất những giải pháp để đẩy mạnh
xuất khẩu của Việt Nam. Tác giả đã hệ thống hóa các lý thuyết về lợi thế so sánh, như
lý thuyết lợi thế tuyệt đối, lý thuyết H-O và một số lý thuyết thương mại quốc tế hiện
đại, phân tích những lợi thế tuyệt đối của Việt Nam trong xuất khẩu. Kết quả của hoạt
động xuất khẩu và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
“Hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế” luận án tiến sỹ của TS. Mai Thế Cường (2006); luận án đã trình
bày khái quát những cải cách về thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
của Chính phủ Việt Nam. Luận án đã đề cập đến chính sách thương mại quốc tế nói
chung của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, còn đi nghiên cứu sâu về chính sách
thúc đẩy sang một thị trường cụ thể trong bối cảnh hội nhập vào Tổ chức Thương mại
thế giới thì luận án chưa đề cập tới.
Luận án tiến sĩ của TS. Nguyễn Thị Thúy Hồng (2014) “Chính sách thúc đẩy
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU trong điều kiện tham gia vào
4
WTO”. Trong đó, đã nghiên cứu và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về chính sách
thức đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU trong điều kiện tham gia
vào WTO, phân tích đúng và khách quan hiện trạng chính sách thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian qua. Từ đó, đề xuất một số
quan điểm và giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam vào thị trường EU.
Luận án tiến sĩ của TS. Lê Thanh Bình (2010) “Công nghiệp hóa hướng về xuất
khẩu của Thái Lan, kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam”, Luận án làm rõ
thực trạng quá trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của Thái Lan, qua đó rút ra bài
học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào tiến trình công nghiệp hóa của Việt Nam. Luận
án đã chỉ ra được mô hình công nghiệp hóa của Thái Lan từ một nước nông nghiệp phát
triển theo hướng chuyên canh và hướng vào xuất khẩu và nhà nước luôn đóng vai trò quan
trọng trong quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 1998 “Cơ sở khoa học về chiến lược
hỗ trợ xuất khẩu cho các hợp tác xã và các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt
Nam”,Tác giả Vũ Lưu. Đề tài đã khái quát thực trạng hoạt động xuất khẩu nói chung
và hoạt động xuất khẩu nói riêng của các hợp tác xã và doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
Việt Nam. Cơ sở khoa học về chiến lược hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa, từ đó đưa ra
những kiến nghị nhằm thực hiện thành công chiến lược hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa.
Ngoài ra, còn rất nhiều các công trình nghiên cứu khoa học khác đã nghiên cứu
từng loại nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua như: “Nâng cao sức
cạnh tranh một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế” – Luận án tiến sỹ của PGS.TS Ngô Thị Tuyết Mai. “Lúa gạo
Việt Nam trước thiên niên kỷ mới – hướng xuất khẩu” của TS. Nguyễn Trung Văn;
“Cà phê Việt Nam và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới” của TS. Nguyễn
Tiến Mạnh; “Cây chè Việt Nam: Năng lực cạnh tranh xuất khẩu và phát triển” của TS.
Nguyễn Hữu Khai; “Một số giải pháp phát triển xuất khẩu cao su tự nhiên của Việt
Nam đến năm 2010”, của Bộ Công thương v.v..
2.2 Các công trình trong nước
Trong nhiều năm trở lại đây đã có nhiều đề tài, dự án của các Bộ, ngành, viện
nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu các vấn đề thuộc về chính sách hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa trên những khía cạnh và mức độ khác nhau. Trong đó trước hết phải kể
đến các công trình nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển thương mại trong giải
đoạn 2001-2005, 2010 – 2020 với chiến lược đẩy mạn xuất khẩu và hợp tác quốc
5
tế CHDCND Lào, chiến lược thương mại biên giới, chiến lược dịch vụ tạm nhập,
tái xuất.
Luận án tiến sỹ: “Hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào đến năm 2020”(2011) của tác giả TS. Phongtisouk
Siphomthaviboun. Luận án đã nghiên cứu một cách hệ thống chính sách thương mại
quốc tế của Lào trong điều kiện hội nhập KTQT, và đề xuất một số quan điểm và giải
pháp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Lào, luận án thực hiện hệ thống
hóa các vấn đề lý luận trong đó chú trọng xây dựng một khung phân tích thống nhất;
nghiên cứu thực trạng hoàn thiện chính sách TMQT của Lào; xem xét kinh nghiệm
hoàn thiện chính sách này của một số quốc gia.
Luận án tiến sỹ “Phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND
Lào đến năm 2020” (2011) của tác giả TS. Phoxay Sitthisonh. Từ việc nghiên cứu và
đánh giá thực trạng thị trường xuất khẩu hàng hóa của Lào những năm gần đây luận
án đã chỉ ra một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những bất cập trong phát triển thị
trường xuất khẩu hiện nay của Lào. Luận án đã đề ra bốn nhóm giải pháp có tỉnh
bản lề nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững các thị trường xuất khẩu
hàng hóa của Lào.
Luận án tiến sỹ “Chính sách xuất khẩu các mặt hàng chiến lược của nước
CHDCND Lào” (2012) của tác giả TS. Khamphet Vongdala. Luận án đã nhằm hệ
thống hóa những vấn đề cơ bản về chính sách xuất khẩu các mặt hàng chiến lược, mặt
hàng xuất khẩu chiến lược. Tham khảo một số kinh nghiệm nước ngoài trong chính
sách xuất khẩu mặt hàng chiến lược vừa qua, để rút ra các bài học mà của Lào có thể
nghiên cứu và áp dụng, phân tích thực trạng việc tổ chức và thực thi chính sách xuất
khẩu các mặt hàng chiến lược của nước CHDCND Lào giai đoạn vừa qua (2006 –
2010), các kết quả đạt được, những tồn tại và yếu kém và nguyên nhân của những tồn
tại, yếu kém cần khắc phục và đã đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện việc xây dựng
và thực thị chính sách xuất khẩu các mặt hàng chiến lược của CHDCND Lào trong
giai đoạn tới (2011 – 2020).
Tuy nhiên cho đến nay các công trình nghiên cứu chưa đề cập đầy đủ, một cách
toàn diện về vấn đề chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước
CHDCND Lào trong điều kiện là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Hầu hết các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở chính sách thương mại, hay chính sách xuất
khẩu hàng hóa. Một số luận án đi sâu vào phân tích chính sách và giải pháp thúc đẩy
xuất khẩu một số mặt hàng cụ thể, đơn lẻ, từ đó đưa ra giải pháp nhằm phát huy lợi thế
6
cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, hoàn thiện chính sách thương
mại, chính sách hướng vào xuất khẩu.
Do đó cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể, thông qua hệ thống
hóa lý luận, lựa chọn mô hình để phân tích các chính sách và hướng tác động của các
chính sách nhà nước hỗ trợ hoạt động xuất khẩu của nước CHDCND Lào, phân tích rõ
thực trạng việc thực hiện các chính sách này từ đó đề xuất được những giải pháp cơ
bản có tính khả thi, bộ chính sách hỗ trợ hợp lý nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
hàng hóa trong điều kiên hội nhập kinh tế quốc tế và là thành viên của tổ chức thương
mại thế giới (WTO) của nước CHDCND Lào đến năm 2025.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cơ bản, phân tích thực trạng chính sách nhà nước
hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào, luận án đề xuất định hướng và
giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước
CHDCND Lào
Để thực hiện mục tiêu tổng quát nêu trên, luận án có những nhiệm vụ cụ thể sau:
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa của các quốc gia. Đồng thời chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách nhà
nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia.
- Nghiên cứu một số kinh nghiệm quốc tế về chính sách nhà nước hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa và rút ra bài học cho nước CHDCND Lào.
- Phân tích thực trạng chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa và ước
lượng cảm tính qua điều tra những chính sách hỗ trợ đối với xuất khẩu hàng hóa của
nước CHDCND Lào.
- Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào trong điều kiện là thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO).
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận vàthực tiễn về chính sách
nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu chính sách nhà nước hỗ trợ xuất
7
khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào trong thời gian 10 năm từ 2001 đến 2014.
- Phạm vi thời gian: Chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước
CHDCND Lào từ 2001-2014. Để phù hợp với tình hình thực tế khi Lào đã gia nhập
WTO vào tháng 2 năm 2013, luận án phân tích theo hai giai đoạn từ 2001-2013 là giai
đoạn trước khi Lào gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và giai đoạn từ 2013
trở đi sau khi Lào gia nhập WTO.Đồng thời luận án đề xuất định hướng và giải pháp
hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa đến năm 2025.
5 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau
bao gồm phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương
pháp phân tích và tổng hợp để luận giải thực tiễn.
Phương pháp thống kê: Luận án sử dụng các số liệu thống kê thích hợp để phục
vụ cho việc phân tíchthựctrạnghoạt động xuất khẩu hàng hóa, thực trạng áp dụng chính
sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nhà nước.
Phương pháp phân tích, Tổng hợp: trên cơ sở đánh giá thực trạng chính sách
nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nhà nước, đề tài sẽ đưa ra những đánh giá
chung có tính khái quát về toàn bộ chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của
nhà nước và hiệu quả của nó cũng như những hạn chế còn tồn tại.
Luận án sử dụng các phương pháp thu thập thông tin truyền thống, phương
pháp chuyên gia, phương pháp phân tích ngành sản phẩm, phương pháp phân tích kinh
doanh để tập hợp và phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tác động
và ảnh hưởng của các chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước
CHDCND Lào. Phương pháp so sánh được sử dụng phổ biến để làm sáng tỏ hơn các kết
luận trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Luận án sử dụng các số liệu thống kê phù hợp trong quá trình phân tích và tổng
hợp thực tiễn vận dụng để khuyến nghị về hoàn thiện chính sách nhà nước trong việc
hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào, phân tích và tổng hợp kinh
nghiệm của các nước trong việc thực hiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng
hóa. Luận án tổng hợp lý luận về chính sách và chiến lược xuất khẩu trong điều kiện là
thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước CHDCND Lào.
Phương pháp điều tra nghiên cứu định lượng được sử dụng để đánh giá mức độ hỗ
trợ của các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nhà nước tới hoạt động xuất khẩu
hàng hóa của nước CHDCND Lào thông qua thiết kế bảng hỏi lấy ý kiến của các
doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa tại Lào, và cán bộ quản lý sau đó sử dụng phần mềm
8
SPSS 20.0 để phân tích dữ liệu.
Nguồn dữ liệu:
Nguồn thứ cấp: Đề tài sử dụng nguồn dữ liệu thu thập được từ các báo cáo của
các bộ ngành như: Báo cáo Bộ Công Thương, Bộ Nông Nghiệp và Lâm nghiệp, Bộ
Tài Chính. Nguồn dữ liệu thu thập từ các nguồn báo chí, internet, …
Nguồn sơ cấp: Tiến hành điều tra khảo sát các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa
tại Lào hiện nay sử dụng bảng hỏi cấu trúc câu. Bảng hỏi được xây dựng dựa trên 6
chính sách được đưa ra nghiên cứu về mức độ hỗ trợ của các chính sách đối với hoạt
động xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào hiện nay.
Phương pháp định lượng nhằm lượng hóa mức độ tác động của từng chính sách
hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào.
6 Ý nghĩa khoa học của luận án
Luận án đã hệ thống hóa một cách khoa học những cơ sở lý luận về chính sách
nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa. Từ kết quả nghiên cứu lý luận về chính sách nhà
nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào, luận án đã khẳng định,
chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa là kết quả của các giải pháp về cơ chế,
chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa tầm vĩ mô. Đồng thời luận án đã hệ
thống được nhân tố có ảnh hưởng tới chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
của các quốc gia và hướng tác động của từng nhân tố đó.
Luận án đã chỉ ra rằng, việc xây dựng chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa trong điều kiện hội nhập toàn cầu cần phải được thực hiện nhất quán, trên
nhiều phương diện.
7 Những đóng góp mới của luận án
7.1 Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
Từ lý luận về chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa, Luận án đã phân
tích làm sáng tỏ những tác động to lớn của chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng
hóa của các quốc gia nói chung và đối với CHDCND Lào nói riêng cụ thể là :
(1) Chỉ ra sự cần thiết của chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa và
những tác động của chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia,
làm nổi bật, vai trò và tầm quan trọng của chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng
hóa, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển như CHDCND Lào trong điều kiện là
thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
(2) Xuất phát từ bối cảnh quốc tế và trong nước, Luận án đã chỉ rõ chính sách nhà
nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa phải theo kịp quá trình tự do hóa thương mại toàn cầu
9
với sự gia tăng các yếu tố tri thức trong sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó việc xây
dựng triển khai quy hoạch, kế hoạch phát triển xuất khẩu trên thực tế của CHDCND
Lào còn chậm trễ dẫn đến bị động, lúng túng trong việc xây dựng quy trình chính sách,
thực thi chính sách và đánh giá chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu của Lào.
(3) Luận án đã chỉ rõ những điểm hợp lý trong việc hoàn thiện và thực thi chính
sách của Lào đã được điều chỉnh từng bước và đáp ứng với yêu cầu phát triển của đất
nước, phù hợp với các quy định của WTO và thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó luận án
cũng chỉ ra những bất cập trong hoạch định chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu của
Lào có tính rõ ràng, minh bạch không cao. Việc xây dựng triển khai quy hoạch, và
thực thi chưa gắn kết chặt chẽ.
7.2 Những đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu
(1) Luận án xác định cần đẩy nhanh quá trình đàm phán để ký kết Hiệp định
thương mại Lào với các nước để tận dụng ưu đãi chính sách nhập khẩu của các nước
xuất khẩu tới trong việc giảm và xóa bỏ rào cản thuế quan với một số mặt hàng chủ
lực của Lào như dệt may, nông sản, thủ công mỹ nghệ… khi xuất khẩu sang các nước.
Đây là điều kiện tiên quyết để hoàn thiện và đổi mới chính sách nhà nước hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa của Lào trong thời gian tới.
(2) Luận án cho rằng, việc hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa của Lào cần phải tạo ra cơ chế phối hợp chặt chẽ và hiệu quả giữa các Bộ,
Ban, Ngành từ Trung ương đến địa phương trong xây dựng, hoạch định và thực thi
chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa.
(3) Giám sát chặt chẽ và tạo sự phối hợp giữa xây dựng chính sách và thực thi
chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa theo hướng tuân thủ các nguyên tắc thị
trường, phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
8 Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận án được chia thành 3 chương như sau:
Chương 1:Những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách nhà nước hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa của các quốc gia.
Chương 2:Thực trạng chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước
CHDCND Lào.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào trong điều kiện là thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO).
10
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA CÁC QUỐC GIA 1.1 Những vấn đề cơ bản về chính sách Nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia 1.1.1 Khái niệm, căncứhình thành chính sách và sự cần thiết khách quancủa chính sách Nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia
Trên thế giới hiện nay, tình hình kinh tế của một số nước phát triển rất cao, đó
là những nước đã phát triển như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp, Australia,
Canada v.v.. Nhiều nước đang phát triển như: Thái Lan, Singapore, Nga, Hàn Quốc,
Đài Loan v.v.. Kết quả của sự thành công đó một phần quan trọng là sự phát triển quan
hệ thương mại quốc tế, trong đó, chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa đóng
vai trò quan trọng trong việc thu nhập ngoại tệ, thúc đẩy sản xuất trong nước, phát huy
thương mại quốc tế, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Vậy, chính sách nhà nước hỗ
trợ xuất khẩu hàng hóa là chính sách gì, được khái niệm như thế nào. Việc đề ra chính
sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu các mặt hàng trong các giai đoạn phát triển kinh tế - xã
hội có tầm quan trọng và cần thiết như thế nào. Ta có thể hiểu chính sách nói chung và
chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa như sau.
a. Khái niệm chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa.
Thuật ngữ “chính sách”được sử dụng phổ biến trên sách báo, các phương tiện
thông tin và đời sống xã hội. Mọi chủ thể kinh tế- xã hội đều có những chính sách của
mình. “Theo quan niệm phổ biến, chính sách là phương thức hành động được một chủ
thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại”, (theo
Richard C.Remy trong cuốn United States Government-democracy in actio. Glencoe
Mcgră-Hill,2000). Chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết
định. Chúng vạch ra phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở
các nhà quản lý những quyết định nào là có thể và những quyết định nào là không
thể. Bằng cách đó, các chính sách hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên
trong tổ chức vào việc thực hiện các mục tiêu chung của tổ chức. Cũng theo ông
“chính sách công là một hành động nào đó mà Nhà Nước lựa chọn thực hiện hoặc
không thực hiện”.
11
Theo James Anderson, chính sách là một quá trình hành động có mục đích được
theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vân đề mà họ quan tâm.
Theo William N.Dunn. Public Policy Analysis.Prentical Hall,1981”Chính sách công là
phương thức hành động được Nhà Nước tuyên bố và thực hiện nhằm giải quyết những
vấn đề lặp đi lặp lại”.
Một số tác giả khác cho rằng, chính sách là phương thức hành động được một
chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại. Chính
sách có ba đặc trưng đó là: chính sách là hệ thống các hoạt động có mục đích của chủ
thể quản lý trong việc giải quyết một vấn đề nào đó của hệ thống, tổ chức, chính sách
là một tập hợp các bước giải quyết những vấn đề của hệ thống tổ chức, chính sách luôn
gắn với mục tiêu do chủ thể quản lý đặt ra. Như vậy có thể coi chính sách là phương
thức hành động được chủ thể quản lý lựa chọn thực hiện nhằm đạt được một hoặc
nhiều mục tiêu mà họ xác định cho hệ thống quản lý của mình. Mọi tổ chức đều có
chính sách riêng áp dụng trong phạm vi hoạt động của mình. Như vậy nếu căn cứ vào
chủ thể ra quyết định chính sách có thể phân thành hai loại: chính sách công và chính sách
tự do của các tổ chức không thuộc bộ máy nhà nước ban hành.
Theo Frank Ellis, chính sách công bao gồm đường lối hành động của chính phủ,
mục tiêu và các phương pháp mà chính phủ lựa chọn đối với một lĩnh vực nào đó của
nền kinh tế. “chính sách là phương thức hành động của Nhà nước để tác động tới kết
quả của các sự kiện kinh tế - xã hội, bao gồm một tập hợp mục tiêu của Nhà Nước và
các phương pháp được lựa chọn để theo đuổi các mục tiêu đó”. J.Tinbergen một nhà
kinh tế nổi tiếng người Hà Lan, người đầu tiên đưa ra lý thuyết về chính sách kinh
tế(năm 1936,1956, 1961) đã xác định cấu trúc chính sách của nhà nước bao gồm công
cụ, mục tiêu và và các ràng buộc (các giới hạn nguồn lực hiện có, những yếu tố mà
người ra chính sách không kiểm soát được, những ảnh hưởng phụ, từng mặt phải được
hạn chế đến mức thấp nhất nếu bản thân chúng gây ra những ảnh hưởng bất lợi với
mục tiêu thực hiện).
Theo Phạm Ngọc Côn trong Đổi mới các chính sách kinh tế - NXB Nông nghiệp
(1996) thì “ chính sách là những hành động của Nhà nước nhằm hướng tới những mục
tiêu của đất nước”. Với quan niệm này, chính sách công là một bộ phận của chiến
lược, bao gồm những giải pháp và công cụ để thực hiện mục tiêu chiến lược “. Cũng
theo Phạm Ngọc Côn: “ chính sách là phương thức hành động được Nhà Nước tuyên
bố và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại.”
12
Chính sách là tổng thể các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực, các giải pháp,
công cụ, nguồn lực mà nhà nước sẽ sử dụng để giải quyết một vấn đề đặt ra của xã hội
thông qua các mục tiêu phải đạt theo định hướng phát triển chung của nhà nước.[18]
Đoàn Thị Thu Hà, PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2006), Giáo trình kinh tế - xã
hội, tr.8-24, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật [11]. Kinh tế các nước Đông Nam Á
(1997), Tr. 40-70, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội. [13] Lê Chi Mai (2001), Những vấn
đề cơ bản về chính sách và quy trình chính sách, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.
Hồ Chí Minh, tr. 10,15,38.
Như vậy chính sách kinh tế xã hội là tổng thề các quan điểm, các chuẩn mực,
các biện pháp và các thủ thuật mà Nhà Nước sử dụng để tác động lên các đội tượng
và khách thể quản lý nhằm đạt đến một số mục tiêu bộ phân theo định hướng mục tiêu
chung của đất nước.
Từ khái niệm về chính sách của các tác giả trong và ngoài nước, có thể đưa ra
các đặc trưng cơ bản về chính sách là: chủ thể ban hành chính sách là nhà nước, chính
sách là một thế thống nhất, một tập hợp các hoạt động của chủ thể chính sách, mục
đích ban hành chính sách là một hoặc một số mục tiêu ngắn hạn hoặc dài hạn, chính
sách phải ảnh hưởng rộng lớn đến đối tượng tác động của chính sách, chính sách
không mâu thuẫn với hệ thống pháp luật hiện hành. Chính sách kinh tế- xã hội được
Nhà nước đề ra nhằm phục vụ lợi ích của nhiều người hoặc cả xã hội. Thước đo chính
để đánh giá, so sánh và lựa chọn chính sách phù hợp là lợi ích mang tính xã hội mà
chính sách đó đem lại. Đây cũng chính là lý do để các chính sách kinh tế- xã hội được
gọi là chính sách công. Trong thực tế có tình trạng một chính sách đem lại lợi ích cho
nhóm xã hội này nhiều hơn nhóm xã hội khác khác, thậm chí có nhóm còn bị thiệt
thòi. Khi đó chính sách kinh tế- xã hội phải đứng trên lợi ích của đa số, của xã hội để
giải quyết vấn đề. Nhiều người thường hiểu chính sách kinh tế- xã hội một cách đơn
giản là những chủ trương, chế độ mà Nhà Nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa
đủ. Nếu không có việc thực thi chính sách để đạt những kết quả nhất định thì những
chủ trương, chế độ đó chỉ là những khẩu hiệu mà thôi.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa là một bộ phận của chính sách công, nó
khác biệt với các chính sách công khác duy nhất ở đối tượng chính sách. Xuất khẩu là
lĩnh vực quan trọng, mang tính nhạy cảm cao, lại có nhiều đặc điểm riêng so với các
lĩnh vực hoạt động kinh tế khác.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu là hành động can thiệp của Nhà Nước nhằm hỗ trợ
13
hoạt động xuất khẩu hàng hóa. Đây là vấn đề lớn, có tầm ảnh hưởng rộng, mang tính
bức xúc trong đời sống kinh tế xã hội. Nó giải quyết những mục tiêu bộ phận có thể
mang tính dài hạn, trung hạn hoặc ngắn hạn, nhưng nó hướng vào việc thực hiện mục
tiêu chung, mang tính tối cao của đất nước.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nhà nước trước hết thể hiện kế hoạch
của Nhà Nước nhằm thay đổi và phát triển, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, nó bao gồm
các hành vi thực hiện kế hoạch đó và đưa lại những kết quả thực tiễn.
Chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa là một hệ thống các nguyên tắc,
biện pháp kinh tế, hành chính và pháp luật thích hợp mà Nhà nước áp dụng nhằm tạo
điều kiện và giúp đỡ các doanh nghiệp thông qua các chính sách trợ giúp về mặt tài
chính và hỗ trợ khác để thực hiện các mục tiêu xác định trong lĩnh vực xuất khẩu của
một nước trong một thời kỳ nhất định. Chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu bao gồm
các mục tiêu dài hạn, sự phân tích đánh giá thực trạng và tiềm năng xuất khẩu của
quốc gia cũng những cơ hội và thách thức trong môi trường kinh doanh quốc tế đầy
biến động, từ đó xây dựng hệ thống các chính sách, giải pháp và nhiệm vụ cần phải
thực hiện để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu, nâng cao uy tín và ảnh
hưởng của quốc gia, mở rộng và củng cố thị trường, nâng cao kim ngạch xuất khẩu.
Chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa là sự cụ thể hóa chiến lược kinh doanh
của một quốc gia. [2] Đỗ Đức Bình, TS. Nguyễn Thường Lạng (2004), Giáo trình kinh
tế quốc tế, tr. 33,36. Nhà xuất bản lao động – xã hội, Hà Nội, [35] Bộ trưởng Bộ tài
chính (1994), Sắc lệnh về chuyển đổi kinh tế tự nhiên – nửa tự nhiên sang nền kinh tế
thị trường và thúc đẩy xuất khẩu số 14295, 22/8/1994, Viêng Chăn.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu là một bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế
của nhà nước. Nó góp phần thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của đất nước
trong từng thời kỳ cụ thể. Mục tiêu phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong từng
thời kỳ là khác nhau do đó mục tiêu của chính sách hỗ trợ xuất khẩu phải thay đổi
cho phù hợp. Và nhiệm vụ của chính sách hỗ trợ xuất khẩu là bảo vệ thị trường trong
nước, tạo mọi điều kiện giúp các doanh nghiệp trong nước phát triển và xâm nhập thị
trường thế giới.
b. Căn cứ hình thành chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các
quốc gia
Thứ nhất:Năng lực tài chính của chính phủ
Việc hình thành chính sách nhà nước về hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa đòi hỏi phải
14
có nguồn lực tài chính nhất định. Trong quá trình hình thành và thực thi chính sách,
quốc gia cần phải khai thác triệt để các nguồn đầu tư, cũng như nguồn vốn tự có của
quốc gia. Việc hình thành chính sách phải đi liền với việc đảm bảo đủ ngân sách tài
chính để thực hiện chính sách đó. Ngay từ khi xây dựng và thông qua chính sách phải
dự tính trước nguồn lực tài chính cả về mặt số lượng cũng như các nguồn lực tài chính.
Nguồn lực tài chính của quốc gia sẽ là giới hạn ngân sách mà mỗi chính sách
được hoạch định phải nằm trong khuôn khổ của ngân sách tài chính đó.
Thứ hai: Năng lực hoạch định chính sách của chính phủ
Hoạch định chính sách là giai đoạn đầu tiên, có ý nghĩa quyết định đối với toàn
bộ chu trình chính sách. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích tình hình thực tiễn của địa
phương, quá trình hoạch định sẽ xác định trước mục tiêu cần đạt được, cách thức, biện
pháp tiến hành và công cụ cần thiết để đạt mục tiêu dó. Giai đoạn hoạch định chính
sách là cơ sở, tiền đề để tiến hành các giai đoạn sau của chu trình chính sách. Vì thế,
người hoạch định chính sách cần hiểu rõ về quy trình hoạch định chính sách. Cán bộ
quản lý cần có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có kiến thức hiểu về đặc điểm phát
triển kinh tế của đất nước, những điều kiện đặc thù của về tình hình xuất khẩu của đất
nước, để từ đó có kỹ năng hoạch định chính sách cho phù hợp.
Do đó năng lực hoạch định chính sách của chính phủ là một căn cứ quan trọng
quyết định việc thành công của chính sách hỗ trợ hay không. Người hoạch định chính
sách là những người có tầm nhìn chiến lược, am hiểu thị trường xuất khẩu trong và
ngoài nước, am hiểu được thế mạnh của quốc gia với từng mặt hàng xuất khẩu thì sẽ
xây dựng hoạch định được chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa với hiệu lực và hiệu
quả chính sách cao. Thành công của một chính sách phụ thuộc rất nhiều vào năng lực
hoạch định của chính phủ và cán bộ hoạch định chính sách. Nếu người hoạch định
thiếu năng lực, trách nhiệm, thiếu sự hiểu biết thì sẽ gây khó khăn cho thực hiện chính
sách, ngăn cản không cho chính sách phát huy tác dụng trên thực tế, bóp méo các mục
tiêu của chính sách.
Thứ ba: Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội nói chung và xuất khẩu hàng hóa
của quốc gia đó nói riêng
Thực tế cho thấy, chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu
hàng hoá nhằm tạo lập môi trường pháp lý, phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cạnh
tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới vừa phải phù hợp với điều kiện kinh tế của
đất nước, vừa phù hợp với các thông lệ quốc tế, các hiệp định, điều ước quốc tế…Một
15
chính sách hỗ trợ xuất khẩu hợp lý sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước
mở rộng thị trường ra nước ngoài nhằm tăng quy mô xuất khẩu và khả năng cạnh
tranh trên thị trường thế giới, đồng thời bảo hộ hợp lý thị trường trong nước trước sự
thâm nhập của hàng hoá nước ngoài. Một chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa được
coi là hợp lý khi chính sách đó vừa phù hợp với bối cảnh kinh tế thế giới và tình hình
trong nước.
Bối cảnh quốc tế, khi toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại là một xu thế khách
quan của thời đại ngày nay. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu
thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ
quốc tế, bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động
quốc tế. Trong bối cảnh đó, sức ép cạnh tranh ngày càng tăng, cạnh tranh không chỉ
mang tính khu vực mà còn mở rộng trên phạm vi toàn cầu.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế toàn cầu biến động phức tạp với sự thay
đổi chóng mặt của giá năng lượng, lương thực và nhiều loại nguyên liệu khác, sự
khủng hoảng của hệ thống tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu ở cấp độ rộng.
Nhưng cho đến nay, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã được kiểm soát nhờ Chính
phủ các nước đã can thiệp kịp thời bằng nhiều biện pháp tích cực khiến nền kinh tế
toàn cầu trở nên khả quan hơn.
Hội nhập góp phần mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới,
tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu
kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế trong nước. Trong bối cảnh đó, chính sách hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa của mỗi quốc gia phải phù hợp với các thông lệ, quy định quốc tế, phù
hợp với bối cảnh kinh tế trong nước để vừa tranh thủ những cơ hội mà hội nhập mang
lại đồng thời tận dụng tối đa lợi thế so sánh và tiềm năng của đất nước. Chính sách hỗ
trợ xuất khẩu cũng phải được xây dựng và hoàn thiện đáp ứng yêu cầu này.
Thực trạng xuất khẩu hàng hóa. Thực trạng xuất khẩu hàng hóa là cơ sở đầu
tiên và quan trọng để làm tiền đề xây dựng và hoàn thiện các chính sách nhà nước hỗ
trợ xuất khẩu hàng hóa. Thực trạng về thị trường xuất khẩu, về cơ cấu hàng hóa xuất
khẩu, đặc điểm, kim ngạch, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa là những khía cạnh trong
thực trạng xuất khẩu hàng hóa đầu tiên mà nhà lập chính sách phải quan tâm tới khi
ban hành các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa.
Thị trường xuất khẩu hàng hóa bao gồm cả thị trường xuất khẩu hàng hóa trực
tiếp (người tiêu thụ cuối cùng) và thị trường xuất khẩu hàng hóa gián tiếp (xuất khẩu
16
qua trung gian), thị trường hóa hóa được tính tới thị phần hàng hóa xuất khẩu trên thị
trường được đánh giá dựa trên doanh thu về sản phẩm của nền kinh tế trên một thị
trường nhất định và tỷ lệ doanh thu so với các đối thủ cùng xuất khẩu vào một thị
trường, hay căn cứ vào giá trị hàng hóa xuất khẩu vào một thị trường nào đó so với đối
thủ cạnh tranh. Quy mô của thị trường bao gồm quy mô khách hàng, số lượng và khối
lượng đơn hàng nhập khẩu. tốc độ tăng trưởng xuất khẩu phản ánh mức độ phát triển
và mở rộng thị trường xuất khẩu trong những khoảng thời gian nhất định. Sức hấp dẫn
của thị trường thể hiện qua đối thủ cạnh tranh, đối thủ tiềm ẩn, vấn đề đối với nhà sản
xuất, nhà cung ứng, về sản phẩm thay thế. Tỷ trọng của từng thị trường xuất khẩu.
Thực trạng về thị trường xuất khẩu này là một trong những yếu tố để xây dựng chính
sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa. Yếu tố về kim ngạch xuất khẩu của từng mặt hàng,
điểm mạnh, điểm yếu của từng mặt hàng xuất khẩu, giá trị xuất khẩu, giá trị gia tăng
xuất khẩu, giá cả của hàng hóa xuất khẩu cũng là căn cứ để hình thành chính sách hỗ
trợ xuất khẩu hàng hóa.
Tất cả các quốc gia đều nằm trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế
với các nước trong khu vực và trên thế giới, trong bối cảnh đó, chính sách hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa của mỗi nước không thể đi ngoài xu hướng chung của khu vực. Chính
sách chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hàng hóa phải gắn liền với chính sách chuyển dịch
cơ cấu thị trường cho phù hợp với yêu cầu khách quan của thị trường.
Thứ tư: Các cam kết của quốc gia với các hiệp định thương mại thế giớivà quy
tắc ngoại thương quốc tế.
Xu hướng phát triển của thương mại quốc tế cũng là nhân tố quan trọng trong
việc hình thành chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của chính phủ. Nó chính là nhân
tố bên ngoài tác động đến việc điều chỉnh chính sách. Những diễn biến và xu hướng
của thương mại quốc tế sẽ tạo ra những ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế thế giới
nói chung và kinh tế của từng quốc gia đó nói riêng. Nhìn chung là thương mại quốc tế
có xu hướng không ngừng và ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Các
quốc gia ngày càng bị lôi cuốn vào “sân chơi” chung của quốc tế, tạo ra vô vàn những
thời cơ và thách thức cho các quốc gia tham gia.
Khi gia nhập vào tổ chức thương mại quôc tế WTO, thì quốc gia đó phải có những
cam kết hết sức chặt chẽ và phải thực hiện nghiêm túc những cam kết đó theo trình tự thời
gian và theo những quy định hết sức ngặt nghèo theo luật của WTO.
Để được gia nhập WTO, các quốc gia đã phải có những thay đổi về điều kiện
17
cơ sở kinh tế, cơ chế, chính sách nói chung. Sau gia nhập WTO, phải tiếp tục thực hiện
đúng các cam kết đó cả về nội dung thực hiện và điều khoản đã cam kết, cả về trình tự
thời gian thực hiện các cam kết. Do đó các cam kết của quốc gia đó với WTO là cơ sở
để xây dựng chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của quốc gia đó.
c. Sự cần thiết khách quan của chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng
hóa của các quốc gia
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa đóng vai trò quan trọng, nó không chỉ liên quan
đến một quốc gia nào đó mà liên quan đến cả quốc gia mà nước này thiết lập mối quan
hệ thương mại quốc tế với những đặc điểm về luật pháp, chính trị, kinh tế, văn hoá...
khác với nước mình. Có những lĩnh vực mà không một doanh nghiệp nào tự mình có
thể làm được trong hoạt động buôn bán với nước ngoài mà đòi hỏi phải có sự tham gia
can thiệp của Chính phủ. Đặc biệt với các quốc gia đang phát triển, khi các doanh
nghiệp xuất khẩu có quy mô còn nhỏ bé thì sự hỗ trợ của chính phủ thông qua các
chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa càng có ý nghĩa quan trọng.
1) Khó khăn trong mở rộng và thâm nhập thị trường xuất khẩu hàng hóa.
Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi đơn vị thì điều kiện để tồn tại
và phát triển lâu dài là nhân tố thị trường. Thị trường mang yếu tố tổng hợp nhất, là
nhân tố quan trọng hàng đầu tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh
nghiệp. Trong đó điều kiện về thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường đầu ra là yếu tố
quan trọng bậc nhất quyết định sự thành bại, tồn tại, phát triển thịnh vượng hay thua lỗ
phá sản của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Đối với các doanh nghiệp
xuất khẩu còn khó khăn trong việc còn thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu nước
ngoài thì sự hỗ trợ của nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp là hết
sức cần thiết.
Bên cạnh đó thị trường yếu tố đầu vào, thị trường cung ứng nguyên vật liệu,
thiết bị, công nghệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động thậm trí bào hàm cả thị
trường về bất động sản, ruộng đất, mặt bằng. Tuy không phải là khó khăn bậc nhất, tuy
nhiên các doanh nghiệp xuất khẩu cũng có thể gặp những khó khăn đối với thị trường
yếu tố đầu vào, cản trở không ít tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa. Khắc phục khó
khăn này cũng là đòi hỏi cần thiết để tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
các doanh nghiệp của xuất khẩu. Để giải quyết những khó khăn này cần có sự hỗ trợ
của nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa hiện nay đối với các yếu tố
đầu vào như vốn, công nghệ, lao động, mặt bằng...
18
2) Hạn chế về vốn
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đểu cần có vốn tài chính. Điều kiện về vốn
của các doanh nghiệp xuất khẩu còn hạn hẹp và gặp nhiều khó khăn. Quy mô vốn tự
có còn nhỏ, không đủ khả năng tài trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng
xuất khẩu có quy mô, chất lượng và hiệu quả, đặc biệt đối với các doanh nghiệp muốn
mở rộng, phát triển quy mô và đổi mới nâng cấp thiết bị công nghệ, sản phẩm. Đồng
thời khả năng về tiếp cận các nguồn vốn trên thị trường tín dụng đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu còn bị hạn chế và gặp khó khăn lớn, là do: không đủ tài sản thế chấp,
mức lãi suất cho vay còn cao, khối lượng cho vay nhỏ, thời gian cho vay không phù
hợp với chu kì kinh doanh, hình thức và thể chế tín dụng còn nghèo nàn, đơn điệu.
Những khó khăn này cần có những hỗ trợ của nhà nước để giải quyết, tháo gỡ để tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
3) Hạn chế về kiến thức, năng lực quản lý kinh doanh nói chung và xuất khẩu
hàng hóa nói riêng của các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay.
Hoạt động sản xuất kinh doanh trên trường quốc tế với sự cạnh tranh khốc liệt,
đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải có trình độ kiến thức cao, năng lực quản lý giỏi,
mới có thể thành đạt trong kinh doanh, đưa doanh nghiệp của mình ngày càng phát
triển. Mỗi một chủ doanh nghiệp, phải biết thu thập, tổng hợp, phân tích đánh giá các
loại thông tin kinh tế kỹ thuật, biết đề ra những chiến lược đúng đắn và đưa ra những
quyết định sáng suốt kịp thời. Do những hạn chế về kiến thức, năng lực quản lý kinh
doanh hiện nay của các doanh nghiệp xuất khẩu, cần có sự giúp đỡ khắc phục tích cực
của nhà nước.
4) Hạn chế về khả năng tiếp cận thông tin kinh tế, thị trường quốc tế.
Hệ thống thông tin kinh tế và khả năng tiếp cận thông tin, nhất là những thông
tin về thị trường, giá cả, công nghệ, sản phẩm là hết sức quan trọng đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hệ thống thông tin của lào hiện nay mặc dù
so với trước đã được phổ biến khá rộng rãi, các phương tiện thông tin tương đối phong
phú và hiện đại, phương pháp thu thập và cung cấp thông tin có nhiều tiến bộ... song
nhìn chung tính chất thương mại, kịp thời, chính xác và đầy đủ của hệ thống thông tin
chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất, kinh doanh trong điều kiện thị trường và
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Do đó để có thể tiếp cận thông tin kinh tế về
thị trường quốc tế cần có sự hỗ trợ của nhà nước.
19
5) Hoạt động hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nhà nước đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế không ngừng của đất nước.
CHDCND Lào đã thiết lập được những yếu tố cơ bản hệ thống kinh tế định
hướng thị trường, bao gồm: hệ thống giá cả tự do, khu vực tư nhân năng động tuy chưa
phát triển mạnh mẽ nhưng đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế, chế độ
ngoại thương mở cửa, tích cực hội nhập với kinh tế bên ngoài. Việt Nam cũng đã
nhanh chóng thực hiện được toàn diện các chính sách kinh tế vĩ mô kết hợp với một số
biện pháp cơ cấu then chốt để giảm nhanh lạm phát trong một thời gian tương đối
ngắn. Những cải cách kinh tế kể từ khi mở cửa cũng đã góp phần vào việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và phân bổ lại những nguồn lực. Lào đã phối hợp hài hoà các
chính sách tài chính đi kèm với những đổi mới hệ thống để đạt được mục tiêu ổn
định và phát triển.
Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ chỗ bị bao vây, cô lập, Lào đã bắt đầu hội
nhập với nền kinh tế bên ngoài. Môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt cả ở thị
trường trong nước và nước ngoài, đồng thời, thời hạn thực hiện những cam kết của
Lào với các nước, các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới đang đến gần. Vì vậy, để
tiếp tục duy trì và phát huy đà phát triển kinh tế đã đạt được, Nhà nước cần có chính
sách hỗ trợ hoạt động xuất khẩu hàng hóa, chính sách quản lý xuất khẩu nói riêng
nhằm tạo môi trường tốt cho hoạt động xuất khẩu trong điều kiện mới.
Các chính sách của Chính phủ nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi cho hoạt
động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, như đã khẳng định ở trên, xuất
khẩu là một lĩnh vực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của bất kỳ một quốc gia
nào, chính vì vậy, làm thế nào để đẩy mạnh xuất khẩu luôn là một vấn đề được đặt ra
không chỉ cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu mà còn cho cả phía Nhà nước.
Để tăng cường hoạt động xuất khẩu nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế,
Chính phủ nước nào cũng đưa ra những chính sách phù hợp với nước mình nhằm
khuyến khích, hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước
là rất quan trọng, là yếu tố cần thiết không thể thiết được để thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu hàng hoá phát triển và tăng trưởng mạnh. Kinh nghiệm của nhiều nước thành
công trong phát triển kinh tế cho thấy: muốn thực hiện được các mục tiêu chiến lược
đề ra, Nhà nước phải nhất quán trong việc sử dụng các công cụ, chính sách của mình
để tác động vào nền kinh tế. Vì vậy, chiến lược hướng xuất khẩu đòi hỏi sự tác động
20
cùng chiều của mọi công cụ chính sách có lợi cho xuất khẩu.
Đối với nước CHDCND Lào, trong giai đoạn hiện nay và sắp tới, tuy hoạt động
xuất khẩu bước đầu đã thu được những kết quả khả quan, nhưng năng lực xuất khẩu,
khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu chưa tốt. Các doanh nghiệp xuất khẩu chưa
thực sự vững mạnh và có khả năng cạnh tranh trên thị trường hàng hóa thế giới. Chính
vì vậy, để tối ưu hoá hoạt động xuất khẩu và sử dụng triệt để tiềm năng kinh tế trong
nước, thương mại Lào cần được tập trung, hỗ trợ, làm tốt các giai đoạn hỗ trợ xuất
khẩu ở cấp vĩ mô và cấp doanh nghiệp. Nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của khu
vực thương mại Lào là củng cố thị trường cũ, mở rộng thị trường mới và nâng cao vị
thế của sản phẩm Lào trên thị trường quốc tế. Để làm được điều này, bên cạnh những
chính sách về xuất khẩu, Lào cần có một hệ thống chính sách hỗ trợ hoạt động xuất
khẩu phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu của Lào nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập dần với hệ thống
thương mại toàn cầu.
Như vậy, chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của mỗi quốc gia là cần thiết
khách quan để hỗ trợ hoạt động xuất khẩu của mỗi quốc gia, từ đó thúc đẩy mạnh mẽ
sự phát triển nền kinh tế.
1.1.2 Cơ sở lựa chọn chính sách
Đánh giá và lựa chọn chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu là việc xem xét,
nhận định về giá trị các kết quả thực thi của chính sách, điều đó có nghĩa là việc xem
xét nhận định về những giá trị này sẽ được đo lường theo những thước đo nhất định.
Việc đưa ra các thước đo đúng đắn và có thể chấp nhận được để đánh giá và lựa chọn
chính sách là một việc khó khăn. Bởi vì cùng một kết quả thực thi có thể nhìn nhận
khác nhau dưới các góc độ khác nhau: dưới đây là một số tiêu chí đánh giá để lựa chọn
chính sách được thừa nhận rộng rãi nhất: Tính hiệu lực của chính sách, tính hiệu quả
của chính sách, tính hữu dụng của chính sách, tính công bằng của chính sách, tính đáp
ứng yêu cầu của đối tượng chính sách, kết hợp hợp lý giữa hiệu quả và công bằng hay
là tính thích đáng của chính sách.
a) Tính hiệu lực của chính sách
Tính hiệu lực của chính sách phản ánh mức độ tác động, ảnh hưởng của chính
sách đó trên thực tế, làm biến đổi hoặc duy trì thực tế theo mong muốn của chính phủ.
Đánh giá hiệu lực của chính sách là trả lời cho câu hỏi: chính sách có đạt được các kết
quả có giá trị hay không, đánh giá tính hiệu lực của chính sách thường đòi hỏi nhiều
21
thông tin và phương pháp tiến hành phức tạp, song nó rất có ích đối với các nhà hoạch
định chính sách để xem xét cần tiếp tục duy trì hay thay đổi chính sách hiện hành.
Khi nói đến hiệu lực của một chính sách, người ta thường phân ra: hiệu lực lý
thuyết và hiệu lực thực tế. Một chính sách sau khi được ban hành sẽ có hiệu lực lý
thuyết, đó là hiệu lực được nhà nước công nhận để đưa chính sách vào vận hành. Hiệu
lực thực tế là hiệu lực có được khi chính sách tác động đến thực tế làm biến đổi có
được khi chính sách tác động đến thực tế làm biến đổi thực tế theo mong muốn của
chính phủ – chính sách chỉ đạt được hiệu lực thực tế khi nó được áp dụng và đem lại
kết quả nhất định, cần lưu ý rằng,một chính sách chỉ đạt được hiệu lực tốt đẹp nếu nó
hoạch định đúng đắn về lý thuyết. Đương nhiên, một số chính sách có hiệu lực lý
thuyết đôi khi lại không có hiệu lực trên thực tế do những thiếu sót, khó khăn trong
khâu thực thi – song, khó có thể nói một chính sách thất bại trên thực tế hoàn toàn
đúng đắn về lý thuyết. Chính sách chỉ có thể được coi là đúng đắn về lý thuyết khi nó
tính đến những yếu tố thực tiễn để đảm bảo sự thực thi thành công.
Như vậy: hiệu lực của một chính sách là kết quả tác động tổng hợp của cả hiệu
lực lý thuyết cũng như hiệu lực thực tế. Khả năng thành công hay thất bại của một
chính sách phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Nhà hoạch định và nhà thực thi chính sách
phải biết phân tích, lựa chọn phương án tối ưu nhất để thực hiện chính sách thành
công. Hiệu lực của một chính sách phản ánh tính đúng đắn về lý thuyết cũng như hoạt
động thực tế. Làm giảm hiệu lực của một chính sách đó là tình trạng các chính sách đề
ra nhiều nhưng không có sự đánh giá, phán xét nghiêm minh. Điều đó dẫn đến chỗ
người dân mất lòng tin vào chính sách và chính sách vừa ra đời bị mất hiệu lực một
b) Tính hiệu quả của chính sách
cách vô hình.
Tính hiệu quả của chính sách để trả lời cho câu hỏi: cần bao nhiêu nỗ lực để đạt
được các kết quả có giá trị.
Tính hiệu quả của chính sách công là tương quan so sánh giữa kết quả do chính
sách đó đưa lại so với chi phí và công sức đã bỏ ra cho kết quả đó.
Khi đánh giá hiệu quả của một chính sách, về nguyên tắc, người ta phải xác
định hiệu quả tổng hợp của chính sách. Đó là kết quả cả về kinh tế – xã hội của chính
sách đó. Hiệu quả tổng hợp phản ánh mức độ đạt được các kết quả về kinh tế và về tác
động xã hội theo mục tiêu đã đề ra với một chi phí và công sức nhất định. Tuy nhiên,
nhiều chỉ tiêu không thể lượng hóa được, nhất là những tác động xã hội. Do đó hiệu
22
quả xã hội thường chỉ có thể xác định về mặt định tính. Còn hiệu quả kinh tế có thể
đánh giá bằng chỉ tiêu định lượng, thể hiện tương quan so sánh giữa kết quả thu được
với chi phí bỏ ra. Trong kinh tế học, hiệu quả kinh tế thị trường được đo bằng hiệu quả
Pareto. Hiệu quả Pareto là một thuật ngữ dùng để chỉ hiệu quả kinh tế mang tên nhà
toán học- kinh tế học Vilfredo Domaso Pareto. Theo nguyên lý Pareto, một sự di
chuyển làm cho hoàn cảnh của người này tốt lên mà không làm cho hoàn cảnh của
người khác bị tồi đi được gọi là một hoàn thiện Pareto. Do đó một thị trường cạnh
tranh hoàn hảo sẽ dẫn đến hiệu quả Pareto (một sự di chuyển làm cho hoàn cảnh của
người này tốt lên mà không làm hoàn cảnh người khác bị tồi đi được gọi là một hoàn
thiện Pareto). nhưng trong thực tế, nền kinh tế hoạt động một cách không hoàn hảo,
nên sự phân bố các nguồn lực không dẫn đến hiệu quả Pareto. Đây là lý do để nhà
nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả. Sự can thiệp của nhà nước chỉ
đạt hiệu quả kinh tế khi đem lại phúc lợi xã hội cao hơn. Nhà nước có thể sử dụng một
tập hợp các chính sách để tạo nên một hoàn thiện Pareto, làm tăng hiệu quả kinh tế và
tăng phúc lợi xã hội. Các chính sách trợ giúp của chính phủ cho tiến bộ kho học mới
c) Tính hữu dụng của chính sách Tính hữu dụng của chính sách phản ánh mức độ vấn đề chính sách đã được giải
hay để truyền bá các biện pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng là những hoàn thiện Pareto.
quyết đến đâu. Đánh giá hữu dụng của chính sách trả lời cho câu hỏi: việc đạt được
các kết quả đã giải quyết được vấn đề ở mức độ nào. Qúa trình hoạch định chính sách
đó là quá trình để cho ra đời một chính sách kể từ khi lựa chọn được vấn đề chính
sách. Mục đích là phải lựa chọn được bộ chính sách với những kết luận khoa học về
tính khả thi của phương án chính sách được lựa chọn ban hành để đạt được mục tiêu
đề ra, và giải quyết được vấn đề đó ở mức độ thế nào. Mục tiêu chính sách được lựa
chọn để khẳng định được tính hữu dụng của chính sách đó hay không đối với yêu cầu
của vấn đề chính sách và phù hợp với định hướng phát triển chung của đất nước.Vì
mục tiêu của chính sách thể hiện tính hữu dụng của chính sách hay không được coi là
cốt lõi của chính sách. Nó hướng mọi nội dung của chính sách vào việc thực hiện ý chí
của chủ thể hoạch định.
Như vậy, tính hữu dụng của chính sách là cơ sở cho sự lựa chọn chính sách
được đánh giá là sự phù hợp giữa nội dung của chính sách đề ra với các điều kiện
kinh tế- xã hội mà chính sách đó được thiết kế ra. Nếu chính sách đó phản ảnh được
chính xác, kịp thời những vấn đề đặt ra từ thực tiễn, chứa đựng nội dung phù hợp với
23
các điều kiện phát triển kinh tế- xã hội và yêu cầu của quản lý trong lĩnh vực đó sẽ
góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế đó phát triển, giải quyết được những vấn đề mà
nó đặt ra.
Tính hữu dụng này của chính sách gắn liền với toàn bộ quá trình hoạch định,
ban hành, thực thi và đánh giá chính sách thuế. Vì vậy, các tiêu thức đánh giá tính hữu
dụng của chính sách thuế cũng được xem xét trên góc độ nội dung các văn bản quy
định của chính sách, quá trình thực hiện chính sách và hiệu quả của chính sách trong
đời sống kinh tế, xã hội.
Ví dụ như một chương trình nâng cao khả năng tiếp cận với hệ thống giáo dục phổ
thông đối với các dân tộc thiểu số cũng sẽ khó đạt được mục tiêu đề ra nếu không quan
tâm đến các yếu tố như khó khăn về ngôn ngữ, chương trình giảng dạy phù hợp, công tác
d) Tính công bằng Tính công bằng của chính sách thể hiện ở chỗ, các chi phí và lợi ích có được
đào tạo cũng như chế độ đối với giáo viên và cơ sở vật chất cần thiết.
phân bổ công bằng giữa những cá nhân và các nhóm người khác hay không. Công
bằng bao gồm công bằng theo chiều dọc và công bằng theo chiều ngang. Công bằng
theo chiều dọc là sự đối xử khác nhau đối với những người khác nhau, đối xử với
người giàu khác với người nghèo. Do đó, một chương trình sẽ tăng tính công bằng nếu
nó tiến hành chuyển dịch nguồn lực từ những người giàu hơn sang những người nghèo
hơn. Công bằng theo chiều ngang là sự đối xử như nhau đối với những người như
nhau. Điều này có nghĩa là những người có kết quả hoạt động như nhau, không phân
biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, màu da...đều được đối xử như nhau.
Một trong những khiếm khuyết đáng kể của nền kinh tế thị trường nó luôn tạo
ra sự bất bình đẳng trong xã hội, theo simon kuzntes trong lịch sử phát triển kinh tế,
mỗi quốc gia trải qua ba hoạt động khác nhau của sự bất bình đẳng. Thứ nhất, giai
đoạn đầu, khi kinh tế chưa phát triển, thu nhập và phân phối tương đối đồng đều,
tương đối công bằng, nhưng đó là công bằng trong nghèo khổ. Thứ hai, khi nền kinh
tế thị trường phát triển, sự bất bình đẳng trong thu nhập và phân phối tăng lên. Tại
những thời điểm tăng trưởng càng nhanh thì sự bất bình đẳng càng gia tăng. Thứ ba,
khi nền kinh tế phát triển cao, bất bình đẳng trong phân phối và thu nhập sẽ giảm dần.
Việc nhà nước thực hiện công bằng đến đâu là tùy thuộc vào sự đúng đắn và
hợp lý của chính sách đề ra. Tuy nhiên dù nhà nước tác động tích cực như thế nào
trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường thì cũng không thể đạt được sự
bình đẳng tuyệt đối. Vì vậy, sự công bằng ở đây chỉ được hiểu một cách tương đối.
24
Việc thực hiện nguyên tắc công bằng, bất chấp chất lượng và hiệu quả sản xuất, kinh
doanh và sự đóng góp của mỗi người cho sự phát triển chung của cộng đồng. Công
bằng trong chính sách của nhà nước chủ yếu là tạo ra những co hội ngang nhau cho
e) Tính đáp ứng yêu cầu của đối tượng chính sách Tính đáp ứng yêu cầu của đối tượng chính sách trả lời cho câu hỏi: việc thực thi
các đối tượng khác nhau.
chính sách đề ra có đáp ứng mong muốn, nguyện vọng của các nhóm đối tượng của
chính sách hay không. Trên thực tế, có nhiều chính sách của chính phủ đề ra nhưng
không đáp ứng được đầy đủ nguyện vọng của nhóm đối tượng chính sách.
Chính sách ưu đãi xã hội của một số nước có số lượng đối tượng hưởng thụ khá
f) Tính thích đáng của chính sách Tính thích đáng của chính sách trả lời cho câu hỏi: các kết quả mong muốn kết
lớn do điều kiện lịch sử để lại.
hợp giữa tính hiệu quả và tính công bằng như nào. Thông thường, khi đề ra và thực thi
một chính sách, người ta thường gặp sự mâu thuẫn giữa hiệu quả kinh tế và yêu cầu
công bằng xã hội, phần lớn, các chính sách của nhà nước phải cân nhắc cả hai mặt:
công bằng và hiệu quả. Trong các chính sách, một số thuộc về hoàn thiện Pareto, một
số khác thuộc về phân phối lại thu nhập. Vấn đề đặt ra là phải hy sinh bao nhiêu phúc
lợi của nhóm dân cư này để đổi lấy việc gia tăng phúc lợi của nhóm dân cư khác. Do
đó phải đánh giá tác động của chính sách đến các đối tượng trong mối quan hệ giữa
tính hiệu quả và tính công bằng. Thông thường, sự can thiệp của chính phủ nhằm tạo
ra sự công bằng trong xã hội sẽ được đánh đổi bằng một sự kém hiệu quả về mặt kinh
tế. Khi định ra chính sách, cần lưu ý về sự đánh đổi giữa công bằng và hiệu quả, cũng
như đến các hậu quả do sự đánh đổi đó gây ra.
Mối quan hệ giữa tính hiệu quả và tính công bằng được thể hiện trong mối
tương quan giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội của chính sách, cũng như trong
mối tương quan giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Việc đánh giá một chính sách theo các tiêu chí nói trên, cho phép đưa ra những
nhận định về giá trị của chính sách đó. Đây là những căn cứ quan trọng để các nhà
phân tích chính sách phán xét về các hành vi được tiến hành trong suốt quy trình chính
sách. Tìm ra những khiếm khuyết cần hoàn thiện. Có thể nói, đánh giá chính sách cung
cấp cho các nhà hoạch định những chính sách căn cứ để lựa chọn chính sách, điều
chỉnh, bổ sung. Hoàn thiện chính sách, tiếp tục duy trì hay chấm dứt chính sách đó.
25
1.1.3 Vai trò của chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa quyết định những định hướng
hoạt động xuất khẩu dài hạn, là cơ sở vững chắc cho triển khai hoạt động hỗ trợ
xuất khẩu hàng hóa tầm cỡ một quốc gia. Thiếu vắng chính sách nhà nước hỗ trợ
xuất khẩu hàng hóa hoặc chính sách không được thiết lập rõ ràng, không có luận cứ
sẽ làm cho hoạt động xuất khẩu mất phương hướng, chỉ thấy trước mắt, không gắn
được với dài hạn.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa là một bộ phận quan trọng của chính sách
kinh tế của một quốc gia. Trước hết nó hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa của
quốc gia đó, từ đó phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, hỗ trợ mạnh
mẽ cho quá trình tái sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Nó góp phần
thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ cụ thể, do
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước trong từng thời kỳ là khác nhau cho
nên mục tiêu của chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa phải thay đổi cho phù hợp, tạo
điều kiện giúp các doanh nghiệp trong nước phát triển và xâm nhập thị trường thế giới.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa đóng vai trò hỗ trợ phát triển và mở
rộng thị trường ra nước ngoài: Đối với mỗi một hoạt động sản xuất kinh doanh của
đơn vị, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu hàng hóa thì điều kiện để tồn tại và phát triển
đầu tiên đó là thị trường, thị trường đầu ra là yếu tố quan trọng bậc nhất quyết định sự
thành bại, sự ổn định, tồn tại hay phát triển thịnh vượng, hay thua lỗ phá sản của mỗi
doanh nghiệp xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường. Thị trường tiêu thụ sản phẩm là
điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước xâm nhập và mở
rộng thị trường ra nước ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế và
mậu dịch quốc tế.
Chính sách hỗ trợ hoạt động xuất khẩu hàng hóa hỗ trợ những khó khăn về
tài chính: Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần có vốn tài chính. Khả năng về
vốn của các doanh nghiệp xuất khẩu còn nhiều hạn chế, sự thiếu vốn đã và đang diễn
ra trên bình diện khá rộng , quy mô vốn tự có của các doanh nghiệp còn nhỏ, hạn hẹp,
không đủ sức tài trợ cho các hoạt động kinh doanh có chất lượng và hiệu quả, đặc biệt
đối với các doanh nghiệp muốn mở rộng, phát triển quy mô và đổi mới chất lượng
thiết bị, công nghệ sản phẩm. Đồng thời điều kiện và khả năng tiếp cận các nguồn vốn
trên thị trường tín dụng còn hạn chế và gặp khó khăn lớn.
26
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa có vai trò hỗ trợ khả năng tiếp cận
thông tin kinh tế, thị trường quốc tế: Hệ thống thông tin kinh tế và khả năng tiếp cận
thông tin, nhất là những thông tin về thị trường, giá cả, công nghệ, sản phẩm là hết sức
quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hệ thống
thông tin của Lào hiện nay mặc dù so với trước đã được phổ biến khá rộng rãi song
nhìn chung tính chất thương mại , kịp thời, chính xác và đầy đủ của hệ thống thông tin
chưa đáp ứng được những yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong điều kiện thị trường
và cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Kích thích tăng trưởng kinh tế: Các chính sách hỗ trợ xuất khẩu trước hết thúc
đẩy gia tăng sản lượng và đẩy mạnh xuất khẩu, qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế.
Đặc trưng chung của các nước bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa là tăng năng suất lao
động và tốc độ tăng trưởng thấp. Do đó vấn đề là cần tìm ra những yếu tố kích thích
tăng trưởng kinh tế nhanh hơn. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu sẽ mang lại những lợi ích,
từ đó khuyến khích làm gia tăng nhanh hơn sản lượng hàng hóa của các ngành kinh tế
hướng đến xuất khẩu ( do hỗ trợ xuất khẩu làm giảm chi phí sản xuất, tạo điều kiện
thuận lợi cho sản xuất và lưu thông hàng hóa ), góp phần làm tăng tổng sản phẩm xã
hội, thúc đẩy kinh tế trong nước, tăng trưởng. Mặt khác, chính sách hỗ trợ xuất khẩu
không chỉ giúp tăng trưởng các ngành sản xuất hàng xuất khẩu mà còn cả các ngành
khác. Sự phát triển của các ngành sản xuất hàng xuất khẩu sẽ làm tăng nhu cầu sản
xuất đối với các ngành có liên quan khác trong nền kinh tế. Sản xuất trong nước phát
triển làm tăng thu nhập dân cư dẫn tới cầu tiêu dùng trong nước sẽ tăng lên, và kích
thích các ngành kinh tế trong nước phát triển. Hơn nữa sự phát triển của các ngành sản
xuất trong nước sẽ góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất nghiệp,
đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: chính sách hỗ trợ xuất khẩu bên cạnh
việc khuyến khích khai thác tiềm năng sẵn có, tăng kim ngạnh xuất khẩu còn gián tiếp
khuyến khích hình thành các ngành công nghiệp mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với nền kinh tế đang
trong quá trình công nghiệp hóa, số lượng mặt hàng có thể xuất khẩu, cũng như khả
năng tạo ra các mặt hàng mới. Chính vì vậy để giảm bớt những khó khăn này, nhà
nước cần thực thi các chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng
các mặt hàng xuất khẩu.
Đối với các ngành công nghiệp còn non trẻ, bước đầu quy mô còn nhỏ bé, năng
27
lực cạnh tranh còn yếu kém thì những chính sách hỗ trợ xuất khẩu từng bước góp phần
khởi động và phát triển các ngành đó.
Hỗ trợ xuất khẩu tạo điều kiện cho hàng hóa được lưu thông, tìm được những thị
trường tiêu thụ tiềm năng. Hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh nhờ đó mà cán cân thương
mại giảm dần mức thâm hụt, cán cân thanh toán được cải thiện, góp phần giữ vững ổn định
tỷ giá. Hàng hóa xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường được thực hiện thường xuyên, liên
tục góp phần tăng tính năng động của nền kinh tế và ổn định thị trường.
Đẩy mạnh xuất khẩu của đất nước: Mục đích lớn nhất của việc thực hiện các
chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu là nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Hỗ trợ xuất khẩu
một phần giúp các doanh nghiệp giảm bớt những khó khăn khi thực hiện các hợp đồng
xuất khẩu như thiếu vốn, thiếu thông tin về thị trường, cũng như khuyến khích các
doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu. Vấn đề vốn và thông tin thị trường xuất khẩu có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Có vốn thì mới thực
hiện được các hợp đồng xuất khẩu nhất là những hợp đồng có giá trị lớn. Thông qua
các chính sách hỗ trợ, các doanh nghiệp được đảm bảo có đủ vốn, đồng thời cũng giúp
họ an tâm hơn (thông qua các hình thức bảo lãnh xuất khẩu, bảo hiểm xuất khẩu) khi
bán chịu hàng hóa. Nhờ đó mà kim ngạch xuất khẩu tăng lên nhanh chóng và thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu tăng trưởng. Ngoài ra, hỗ trợ xuất khẩu của chính phủ qua miễn
giảm thuế cũng tạo động lực khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, tăng
cường khả năng xuất khẩu.
Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu trên trường
quốc tế: Các chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu làm giảm giá cả hàng hóa trên thị
trường xuất khẩu và tiêu cực của nó. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa cần thể hiện
được vai trò của mình trong việc sử dụng các công cụ biện pháp để hạn chế những biểu
hiện không lành mạnh trong sản xuất kinh doanh, kìm hãm sự phát triển trong sản xuất và
kinh doanh hàng hóa xuất khẩu thông qua chính sách thuế, chính sách tín dụng, hay các
chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa khác như sau:làm tăng khả năng cạnh tranh của
hàng xuất khẩu. Nhờ đó giúp các doanh nghiệp Lào có thể cạnh tranh với các doanh
nghiệp nước khác trên thế giới. Việc miễn giảm thuế làm giảm một cách trực tiếp giá
cả hàng hóa. Những hỗ trợ về mặt kỹ thuật giúp cải thiện chất lượng hàng hóa. Điều
này là hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay bởi vì trong cuộc cạnh tranh giữa
các nước xuất khẩu ngày càng gay gắt thì hàng hóa có chất lượng cao hơn sẽ dần
chiếm ưu thế trên thị trường cũng như nhận được sự ủng hộ của người tiêu dùng.
28
1.2 Các chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia
Chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu định hướng cho hoạt động xuất khẩu phù
hợp với mong muốn mà nhà nước theo đuổi. Mục tiêu của chính sách nhà nước hỗ trợ
xuất khẩu hàng hóa là khuyến khích hoạt động xuất khẩu phát triển cũng có nghĩa là
hoạt động xuất khẩu sẽ nhận được những ưu đãi của nhà nước như việc quan tâm, tạo
điều kiện thuận lợi và giúp đỡ hoạt động xuất khẩu phát triển với các mục tiêu, các
biện pháp của chính sách có vai trò định hướng cho hoạt động xuất khẩu.
Chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa cần tạo lập được một môi
trường pháp lý thuận lợi, điều đó thể hiện trong sự thống nhất cao độ giữa các mục tiêu
thực hiện và sự phong phú đa dạng của các biện pháp thực thi chính sách. Chính sách
nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa cần góp phần phát huy những mặt tốt của nền
kinh tế thị trường đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của nó. Chính sách nhà nước
hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa cần thề hiện được vai trò của mình trong trong việc sử dụng
các công cụ các biện pháp để hạn chế những biểu hiện không lành mạnh trong sản xuất
kinh doanh hàng xuất khẩu dẫn đến hạn chế sự phát triển của xuất khẩu hàng hóa của
quốc gia đó thông qua các chính sách thuế, chính sách tín dụng, hay các chính sách ưu
đãi đặc biệt như: 1.2.1 Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
a. Mục tiêu chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa:
Là một chính sách kinh tế, chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu được nhiều
quốc gia sử dụng nhằm hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh
hàng xuất khẩu. Chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng
xuất khẩu trong nước về vốn để sản xuất kinh doanh, trong đó có các mức hỗ trợ về
thời gian hay lãi suất vay vốn. Không chỉ ưu đãi về vốn, tín dụng xuất khẩu hiện nay
còn bao hàm cả những hỗ trợ về bảo hiểm, bảo lãnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp trong nước có lợi thế cạnh tranh và chỗ đứng trên thị trường quốc tế.
Điều đặc biệt, hiện nay để đáp ứng yêu cầu hội nhập và có những hình thức hỗ trợ đa
dạng hơn, chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ về
vốn cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu trong nước. Chính
sách hỗ trợ của các quốc gia còn hỗ trợ vay vốn cho các tổ chức nước ngoài nhập khẩu
hàng hóa của các tổ chức, doanh nghiệp trong nước. Đây là hình thức hỗ trợ gián tiếp
nằm trong chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa.
Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia trước hết nhằm
29
mục tiêu trực tiếp là hỗ trợ về vốn và tín dụng cho các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh hàng xuất khẩu, đưa ra mức hỗ trợ cho các tổ chức nhập khẩu nhằm gia tăng
khả năng nhập khẩu hàng xuất khẩu trong nước. Từ đó hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu
hàng hóa của quốc gia. Từ mục tiêu đó nhằm thực hiện mục tiêu gián tiếp đó là tăng
trưởng kinh tế, mở rộng sản lượng tiềm năng của nền kinh tế trong nước, tạo công ăn
việc làm cho người lao động. Đó là những mục tiêu chung mà chính sách hỗ trợ tín
dụng xuất khẩu của mỗi quốc gia thường hướng tới. Và theo tình hình thực tế của mỗi
quốc gia, chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của mỗi quốc gia ngoài các
mục tiêu chung đó còn bao hàm các mục tiêu riêng khác mà nhà nước muốn đặt ra
trong chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa.
b. Nội dung chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu là ưu đãi của Nhà nước nhằm hỗ trợ các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá nhân phát triển sản xuất - kinh doanh hàng
xuất khẩu theo chính sách khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước. Chính sách tín
dụng hỗ trợ xuất khẩu hỗ trợ về vốn, cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá
nhân, phát triển sản xuất kinh doanh xuất khẩu, giúp chính sách tín dụng hỗ trợ xuất
khẩu cho các doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào từ đó tăng khả năng cạnh tranh,
giúp doanh nghiệp giảm thiểu được rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
xuất khẩu.
Các hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hiện nay bao gồm:
Cấp tín dụng xuất khẩu: nhà nước cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất khẩu
trong nước: trong hoạt động xuất khẩu, lượng vốn mà các doanh nghiệp phải bỏ ra để
sản xuất và thực hiện hợp đồng thường là rất lớn. Người xuất khẩu cần có một số vốn
trước khi giao hàng và cả sau khi giao hàng, ngoài ra cũng cần có thêm vốn để kéo dài
các khoản tín dụng ngắn hạn mà họ giành cho người mua nước ngoài. Vì vậy trong
chính sách hỗ trợ xuất khẩu không thể thiếu được các chính sách cấp tín dụng của
chính phủ cho các nhà xuất khẩu theo những điều kiện ưu đãi. Tín dụng xuất khẩu theo
mức lãi suất ưu đãi không chỉ đơn giản là giúp người xuất khẩu thực hiện được hợp
đồng xuất khẩu mà còn giúp họ giảm chi phí về vốn cho hàng xuất khẩu cũng như
giảm giá thành hàng xuất khẩu. Do đó tín dụng xuất khẩu làm cho nhà xuất khẩu có
khả năng bán được hàng của mình theo điều kiện có lợi và hàng hóa có sức cạnh tranh
hơn trước đối thủ cạnh tranh.
30
Nhà nước cấp tín dụng cho nước ngoài: Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay
tiền với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền do mua hàng của nước cho vay.
Nguồn vốn cho vay thường lấy từ ngân sách Nhà nước. Việc cho vay này thường kèm
theo các điều kiện kinh tế và chính trị cho nước cho vay. Hình thức này có tác dụng:
- Giúp cho doanh nghiệp thúc đẩy mạnh xuất khẩu vì có sẵn thị trường.
- Các nước cho vay thường là những nước có tiềm lực kinh tế. Hình thức Nhà
nước cấp tín dụng cho nước ngoài trên khía cạnh nào đó giúp các nước này giải quyết
tình trạng dư thừa hàng hóa ở trong nước.
Nhà nước cấp tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp trong nước:
a) Vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu thường là
rất lớn. Người xuất khẩu cần có được một số vốn cả trước khi giao hàng và sau khi
giao hàng để thực hiện một số hợp đồng xuất khẩu. Nhiều khi người xuất khẩu cũng có
thêm vốn để kéo dài các khoản tín dụng ngắn hạn mà họ dành cho người mua nước
ngoài. Đặc biệt, khi bán hàng theo phương thức bán chịu thu tiền hàng xuất khẩu sau
thì việc cấp tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng hết sức quan trọng.
Nhiều chương trình phát triển xuất khẩu không thể thiếu được việc cấp tín dụng
của chính phủ theo những điều kiện ưu đãi. Điều đó càng giảm được các chi phí xuất
khẩu. Các ngân hàng thường hỗ trợ cho các chương trình xuất khẩu bằng cách cung
cấp tín dụng ngắn hạn trong giai đoạn trước khi giao hàng.
b)Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu: Nhà nước bảo lãnh ngân hàng cho nhà xuất
khẩu: Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thuộc các nước đang phát
triển như Lào khi thực hiện xuất khẩu đều phải vay vốn các ngân hàng thương mại.
Nhưng muốn ngân hàng cấp tín dụng cần phải thể chấp hoặc cần phải có sự bảo lãnh
nào đó. Trong trường hợp này nhà nước đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp vay, nếu
có rủi ro gì đối với khoản tín dụng đó, nhà nước sẽ chịu, nhà nước bảo lãnh trước
khoản tín dụng mà nhà xuất khẩu thực hiện cấp cho nhà nhập khẩu : để chiếm lĩnh thị
trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp thực hiện việc bán chịu hoặc trả chậm với lãi
suất ưu đãi đối với người mua hàng nước ngoài. Việc bán hàng như vậy thường có
những rủi ro do nguyên nhân kinh tế hoặc nguyên nhân chính trị dẫn đến mất vốn.
Trong trường hợp đó để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu hàng
bằng cách bán chịu, nhà nước đứng ra bảo lãnh, đền bù nếu bị mất vốn.
c)Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: Nhà nước sẽ hỗ trợ về lãi suất vay ưu đãi sau các
dự án đầu tư để mở rộng hay sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
31
d) Bảo hiểm tín dụng: Là hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu đã được áp dụng
phổ biến ở các quốc gia trên thế giới. Bảo hiểm tín dụng là hình thức bảo đảm tài
chính cho nhà xuất khẩu trong các hợp đồng xuất nhập khẩu có điều kiện thanh toán
theo hình thức tín dụng mở trước những rủi ro nợ xấu, mất khả năng thanh toán của
nhà nhập khẩu do mất khả năng thanh toán hoặc phá sản hoặc vì bất ổn chính trị tại
quốc gia nhập khẩu.
1.2.2 Chính sách thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
a) Mục tiêu của chính sách thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Chính sách thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia có thể được các
quốc gia áp dụng mức thuế ưu đãi đối với hàng xuất khẩu hoặc áp dụng mức thuế ưu
đãi đối với nguyên liệu đầu vào để sản xuất hàng xuất khẩu. Hoặc mức ưu đãi về thuế
giá trị gia tăng hay thuế thu nhập. Mục tiêu trực tiếp của chính sách thuế hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa này đó là nhằm làm giảm chi phí, giá thành sản phẩm xuất khẩu, từ đó
tạo cho hàng xuất khẩu có lợi thế hơn và cạnh tranh mạnh hơn trên thị trường nhập
khẩu quốc tế. Từ đó đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa. Đây là mục tiêu trực tiếp mà
chính sách thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia hướng tới.
b)Nội dung chính sách thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa.
Trong nhiều năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, chính sách thuế luôn
là một trong những vấn đề trung tâm. Việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động
xuất khẩu của chính sách thuế được thể hiện như sau: như áp dụng thuế suất ưu đãi đối
với hàng xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu, cho các nhà xuất khẩu được hưởng giá ưu đãi cho đầu vào sản xuất hàng xuất
khẩu như điện, nước, thông tin liên lạc. Biện pháp khuyến khích xuất khẩu thông qua
thuế thường được thực hiện dưới hai hình thức: trực tiếp và gián tiếp. Các chế độ ưu
đãi trực tiếp cho hoạt động xuất khẩu bao gồm: thuế xuất khẩu và các loại phí, lệ phí
liên quan tới xuất khẩu. Các ưu đãi gián tiếp bao gồm thuế nhập khẩu, thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt.
c) Thuế suất ưu đãi: Nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp thông qua ưu đãi
mức thuế suất thấp. Tùy theo từng sắc thuế, biểu thuế có thể bao gồm các thuế suất từ
0% đến hàng chục hoặc thậm chí hàng trăm phần trăm. Do đó thuế suất thấp là mức
thuế từ 0% đến dưới mức thuế suất trung bình trong từng biểu thuế. Thông thường
trong các nền kinh tế định hướng xuất khẩu, để khuyến khích xuất khẩu nhà nước
thường áp dụng mức thuế suất thấp đối với hàng hóa dịch vụ cần khuyến khích, xuất
32
khẩu có tác dụng duy trì giá xuất khẩu ở mức thấp. Do đó đây là biện pháp quan trọng
để thực hiện định hướng pháp triển các ngành, lĩnh vực xuất khẩu của nền kinh tế.
Thuế xuất hàng xuất khẩu ở mức cao hơn thường giành cho các mặt hàng không
khuyến khích xuất khẩu nhằm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và một số mặt hàng, từ đó
nhà nước đã tạo một ưu đãi lớn cho các doanh nghiệp trong việc xuất khẩu hàng hóa ra
nước ngoài.
d) Miễn giảm thuế: Miễn giảm thuế là một trong những nội dung chủ yếu cấu
thành một sắc thuế. Trong một sắc thuế, chế độ miễn giảm thuế được quy định áp dụng
khi hoàn cảnh khách quan gây ra khó khăn làm giảm thu nhập của đối tượng nộp thuế,
hoặc áp dụng đối với một số ngành nghề cần khuyến khích. Quy định chế độ miễn
giảm thuế bao gồm: quy định các trường hợp được xét miễn giảm thuế, thẩm quyền
của từng cấp được xét miễn giảm thuế.như vậy việc quy định chế độ miễn giảm thuế
trong sắc thuế đối với lĩnh vực xuất khẩu không chỉ có tác dụng khuyến khích mà còn
giúp doanh nghiệp vượt qua những khó khăn khách quan để tiếp tục trong lĩnh vực
xuất khẩu.
e) Hoàn thuế: Hoàn thuế là việc nhà nước sẽ hoàn trả lại một phần hoặc toàn bộ
số thuế đã nộp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu khi các đơn vị này
chứng minh được họ có đủ tiêu chuẩn được hoàn trả theo quy định trong sắc thuế.
Trong các nền kinh tế đang thực hiện công nghiệp hóa, nhà nước thường áp dụng thuế
suất nhập khẩu cao nhưng điều này lại có tác dụng hạn chế xuất khẩu do phải nhập
khẩu nguyên liệu. Muốn thúc đẩy xuất khẩu cùng với việc bảo hộ thị trường trong
nước, nhà nước thực hiện chính sách hoàn thuế đối với đầu vào nhập khẩu (đã tính
thuế nhập khẩu) được dùng để sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Bên cạnh đó, nhà nước
cũng áp dụng chính sách hoàn thuế các loại thuế trong nước khác như thuế giá trị gia
tăng, thu nhập doanh nghiệp, tiêu thụ đặc biệt. Việc hoàn thuế cho các sản phẩm xuất
khẩu là một thông lệ quốc tế nói chung mức hoàn thuế phụ thuộc vào tỷ lệ do luật thuế
quy định.
1.2.3 Chính sách phát triển thị trường, xúc tiến thương mại hỗ trợ xuất
khẩuhànghóa
a. Mục tiêu của chính sách phát triển thị trường, xúc tiến thương mại hỗ trợ
xuất khẩu hàng hóa
Chính sách phát triển thị trường, xúc tiến thương mại hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
nhằm mục tiêu chung đó là thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu hàng
33
hóa, kích thích đầu tư và tiêu dùng, tạo công ăn việc làm, tạo sự ổn định và tăng
trưởng kinh tế.
Chính sách phát triển thị trường hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa nhằm mục tiêu cụ
thể đó là tạo điều kiện tăng cường khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu
hàng hóa cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu và doanh
nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm.
b. Nội dung chính sách phát triển thị trường, xúc tiến thương mại hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa
Tất cả các quốc gia đều nằm trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế
với các nước khác trên thế giới, trong bối cảnh đó, chính sách phát triển thị trường của
mỗi nước không thể đi ngoài xu hướng chung của khu vực và thế giới.
Chính sách thị trường đóng vai trò hết sức quan trọng trong chính sách hỗ trợ
xuất khẩu hàng hóa, việc định hướng đúng thị trường sẽ quyết định tốc độ cũng như sự
thành công của nước công hòa dân chủ nhân dân Lào trên con đường hội nhập kinh tế
thế giới.
Củng cố vị trí ở các nước quen thuộc, khôi phục quan hệ với thị trường truyền
thống, tìm hiểu thị trường và bạn hàng mới, giảm sự tập trung quá mức vào một thị
trường, tạo một số thị trường và bạn hàng lâu dài về nhưng mặt hàng xuất khẩu chủ
yếu, giảm xuất khẩu qua các thị trường trung gian. Tránh mở rộng những thị trường có
tiềm ẩn nguy cơ bất lợi, và tăng cường về phía những thị trường ổn định và bền vững.
Chính phủ thiết lập Quan hệ hợp tác thương mại với các nước, các thị trường khu vực
và quốc tế gắn với xuất khẩu hàng hóa. Điều chính hợp lý chính sách xuất khẩu hàng
hóa và chính sách nhập khẩu hàng hóa ở cùng một thị trường.Chính phủ mở rộng các
cam kết song phương và đa phương cấp chính phủ về xuất khẩu hàng hóa từ đó mở
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Gia tăng vai trò đại diện của các cơ quan ngoại giao
và thương mại ở nước ngoài để khai thác, mở rộng quan hệ thương mại nói chung,
xuất khẩu hàng hóa nói riêng.
Công tác thu thập thông tin, dự báo về khả năng thị trường trong nước và nước
ngoài để cung cấp cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là phát triển thương mại
điện tử trong việc cung cấp các cơ hội thị trường xuất khẩu là hướng đi đúng đắn và
hiệu quả nhất hiện nay trong việc phát triển thị trường xuất khẩu.
Hỗ trợ thông tin bằng việc xây dựng website, phổ biến thông tin, về thị trường
trong và ngoài nước và các văn bản pháp quy mới.
34
Tổ chức các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài. Giới thiệu hoặc tổ chức (hay
phối hợp tổ chức) các hội trợ quốc tế, tạo điều kiện cho các cơ quan, doanh nghiệp,
của quốc gia đối tác giao lưu, xúc tiến mua bán hàng hóa, dịch vụ.
Tổ chức các chương trình tập huấn về kỹ năng, cách thức tiếp cận các thị
trường nước ngoài. Cho gắn logo quảng cáo trên website của mình.
Cử cán bộ ra nước ngoài nghiên cứu thị trường hàng hóa, thương nhân và chính
sách nhập khẩu của nước mua hàng.
Lập văn phòng đại diện ở nước ngoài hay các trung tâm thương mại quốc tế tại
các thị trường trọng điểm.
Trợ cấp xuất khẩu là những khoản hỗ trợ của Chính phủ (hoặc một cơ quan Nhà
nước) cho các khoản thu hay giá cả trực tiếp hoặc gián tiếp có tác động làm tăng xuất
khẩu một sản phẩm xuất khẩu.
Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là giúp xuất khẩu tăng thu nhập , nâng cao khả
năng cạnh tranh của hàng hóa, do đó đẩy mạnh xuất khẩu. Các biện pháp hỗ trợ xuất
Bên cạnh đó hoạt động đánh giá và dự báo về các thị trường và ngành hàng
khẩu hàng hóa:
xuất khẩu, từ đó nâng cao hiệu quả của các chương trình xúc tiến thương mại, hỗ trợ
các tổ chức và doanh nghiệp biết và tiếp xúc với các chương trình một cách rộng rãi
nhằm giới thiệu các hoạt động tiêu biểu và hiệu quả, đồng thời gợi mở các phương
hướng thúc đẩy hoạt động và đóng góp của hoạt động xúc tiến thương mại cho xuất
khẩu. Đây là vấn đề được các quốc gia hết sức coi trọng, không chỉ dừng lại ở việc
thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại đơn thuần, mà phải dựa trên cơ sở dự báo
chính xác và phù hợp để các các hoạt động xúc tiến thương mại phù hợp với từng thị
trường và từng mặt hàng xuất khẩu riêng biệt.
1.2.4 Chính sách thương nhân hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
a. Mục tiêu của chính sách thương nhân hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Chính sách thương nhân hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của mỗi quốc gia nhìn
chung đều nhằm mục đích hỗ trợ các doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp vừa
và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng hóa xuất nhập khẩu. Đó
có thể là hỗ trợ về mặt thủ tục, về mặt công nghệ sản xuất. Từ đó giúp các doanh
nghiệp xuất khẩu thích nghi nhanh chóng với thị trường.
b.Nội dung của chính sách thương nhân hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Hiện nay, đa số các quốc gia trên thế giới đều có chính sách thị trường, chính
sách đầu tư trong đó hướng tới đơn giản hóa thủ tục cho doanh nghiệp. Đẩy mạnh thu
35
hút đầu tư của các doanh nghiệp vào sản xuất trong nước, đặc biệt là sản xuất hàng
hóa hướng tới xuất khẩu. Luật đầu tư nước ngoài và luật đầu tư trong nước và luật
doanh nghiệp được Quốc hội của các nước thông qua và ban hành đều hướng tới mục
tiêu thúc đẩy đầu tư, xúc tiến và sản xuất trong nước cũng như khuyến khích và thu
hút vốn và công nghệ bên ngoài, trong đó đã dành nhiều ưu đãi cho những doanh
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Chính sách thương nhân của các nước đã có tác dụng
tích cực, tạo môi trường thuận lợi để thu hút được một lượng vốn đầu tư, đóng góp
đáng kể vào tăng trưởng xuất khẩu. Trong đó cải thiện và hoàn thiện môi trường pháp
lý đã tạo điều kiện thuận lợi, sự ổn định, yên tâm và khuyến khích các doanh nghiệp,
các thành phần kinh tế phát triển sản xuất hàng xuất khẩu. Độc quyền sản xuất kinh
doanh theo xu hướng chung của luật pháp quốc tế và luật pháp của mỗi quốc gia đều
hướng tới dần xóa bỏ, tạo môi trường kinh tế bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc
kinh tế, trong đó có cả khu vực kinh tế như nhân dân được tham gia xuất khẩu. Do đó,
số lượng các doanh nghiệp xuất khẩu đã tăng lên nhanh chóng, hoạt động xuất khẩu
trở lên sôi động, tính cạnh tranh đã đòi hỏi các doanh nghiệp phải vươn lên. Những
điều đó có tác động tích cực tới phát triển xuất khẩu.
Những quy định thủ tục rườm rà đã từng bước được bãi bỏ. Chính phủ của các
nước hầu hết đều đã cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được
xuất khẩu hàng hóa thuộc đăng ký kinh doanh .
Dưới sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường trong nước và quốc tế, việc quản
lý và điều hành của cơ quan nhà nước tới sự hoạt động của các doanh nghiệp cũng có
sự thay đổi mạnh mẽ, trong đó hướng tới khuyến khích hoạt động của các doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả, có thể mở rộng thị trường hàng hóa không chỉ trong nước
mà còn ra quốc tế. Xóa bỏ độc quyền nhằm tạo môi trường đầu tư, kinh doanh minh
bạch, hiệu quả cho nền kinh tế, trên cơ sở hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Các quốc gia hiện nay triển khai thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp cải thiện
môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; đặc biệt là cải cách
hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Tiến hành rà soát, chuẩn hóa
công khai niêm yết thủ tục hành chính. Đơn giản hóa đối các thủ tục hành chính liên
quan đến quản lý biên giới trong xuất cảnh, nhập cảnh tại cửa khẩu cảng biển và cửa
khẩu biên giới đất liền.
Gắn với cải cách hành chính là công tác hiện đại hóa ngành, triển khai Hệ thống
thông quan tự động nhằm mang lại hiệu quả rõ nét và lợi ích thiết thực cho các doanh
36
nghiệp xuất khẩu, và nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước về hải quan, nhất
là rút ngắn thời gian làm thủ tục hải quan, tiết kiệm chi phí và đồng thời góp phần
nâng cao năng lực, hiệu quả công tác quản lý hải quan hiện đại. Thực hiện thanh toán
điện tử, các ngân hàng thương mại tham gia thanh toán điện tử. Cùng với việc thực
hiện thủ tục hải quan điện tử, việc áp dụng thanh toán điện tử góp phần giảm thời gian
thông quan, đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong quá trình thông quan. Doanh
nghiệp có thể nộp tiền tại nhiều điểm khác nhau, trong và ngoài giờ hành chính, nộp
vào ngày nghỉ, được sử dụng các dịch vụ thanh toán hiện đại do ngân hàng cung cấp.
Công khai, minh bạch quy trình, thủ tục hành chính hải quan. Hiện đại hóa
trang thiết bị như: sử dụng hệ thống ca-mê-ra giám sát hải quan tại một số chi cục hải
quan; đưa vào sử dụng hệ thống thí điểm ứng dụng công nghệ định vị trong giám sát
hải quan đối với hàng hóa tạm nhập tái xuất, chuyển cửa khẩu và quá cảnh vận chuyển
bằng công-ten-nơ. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính, phòng ngừa tiêu cực,
tham nhũng; ngăn chặn và chấm dứt phiền hà, sách nhiễu của cán bộ công chức.
1.2.5 Chính sách đầu tư hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
a.Mục tiêu của chính sách đầu tư hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Để tạo đà phát triển đối với hàng hóa xuất khẩu rất cần có chính sách đầu tư, tín
dụng thích hợp cho quá trình kinh doanh, nhằm chuyển hóa các yếu tố lợi thế, nâng
cao hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Do đó đây là mục tiêu
chính của chinh sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia. Thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa, tăng tổng thu nhập của quốc gia, dẫn tới tăng trưởng nền kinh tế là mục tiêu
lâu dài mà chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa hướng tới.
b.Nội dung của chính sách đầu tư hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Chính sách đầu tư của các quốc gia hiện nay hướng tới việc xây dựng và phân
bố sử dụng các nguồn vốn quốc gia vào đầu tư nhằm đầu tư, nhằm thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu hàng hóa. Để chính sách đầu tư có hiệu quả, mỗi quốc gia đều kêu gọi các
nguồn vốn từ nhiều thành phần kinh tế, và cần phải có một quy hoạch sử dụng vốn
hiệu quả. Mỗi quốc gia đều đã xác định được ngành nghề, lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa
trong từng thời kỳ để có thể đầu tư có trọng tâm trọng điểm, và hỗ trợ có hiệu quả cho
hoạt động xuất khẩu.
Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn và đặc biệt là cơ sở hạ tầng, xúc tiến thương
mại hàng xuất khẩu trong nước là những lĩnh vực mà đầu tư quốc gia hướng tới, để từ
đó tạo nên môi trường và những điều kiện thuận lợi, công bằng cho các doanh nghiệp
xuất khẩu hàng hóa của quốc gia đó.
37
Chính sách đầu tư tiếp tục được điều chỉnh theo hướng đầu tư tập trung, cắt
giảm các khâu đầu tư kém hiệu quả hoặc chưa bức xúc. Điểm mới trong chính sách
đầu tư của Nhà nước ở giai đoạn này là ngoài các khâu đầu tư xây dựng cơ bản từ
ngân sách Nhà nước đã có thêm nhiều nguồn vốn khác được huy động vào khu vực
nông nghiệp và nông thôn.
Bên cạnh nguồn vốn đầu tư do ngân sách Nhà nước cấp, các địa phương còn bổ
sung thêm một số khâu đầu tư vào sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội.
1.2.6 Chính sách ruộng đất hỗ trợ xuất khẩu hànghóa
a. Mục tiêu của chính sách ruộng đất hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa.
Chính sách đất đai, ruộng đất là chính sách quan trọng tác động tới mức hỗ trợ
của nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Bởi khi các doanh nghiệp quyết
định đầu tư sản xuất và kinh doanh xuất khẩu đều phải đầu tư lượng tài sản lớn, do đó
cần phải được sự ủng hộ của nhà nước trong chính sách ruộng đất về mặt giá cả và
thời gian sử dụng. Điều đó tạo được niềm tin, tâm lý ổn định cho các doanh nghiệp
trong các quyết định đầu tư và sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
b.Nội dung của chính sách ruộng đất của nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Chính phủ đề ra những chính sách khuyến khích, hỗ trợ người dân hay các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tổ chức sản xuất kinh doanh hàng xuất
khẩu. Đất đai là những tài sản của nhà nước, do vậy quy định về việc sử dụng đất đai
để phát triển kinh tế đều được các quốc gia cân nhắc và hướng tới những mục tiêu, các
lĩnh vực kinh tế mà quốc gia đó ưu tiên trong từng thời kỳ.
Đối với các quốc gia hướng tới phát triển hàng hóa xuất khẩu, chính phủ quốc
gia đó thường thực hiện những chính sách miễn giảm tiền sử dụng đất, ưu đãi về thuế
đất, mặt nước. Về chính sách ruộng đất tạo ra sự ưu tiên hàng đầu cho người dân để
tạo ra động lực khuyến khích nông dân phát triển sản xuất làm cho người dân gắn với
ruộng đất hơn. Chính phủ đưa đến sự thay đổi trong chính sách ruộng đất, giao cho
người sản xuất quyền sử dụng đất lâu dài ổn định căn cứ vào lĩnh vực, ngành nghề
kinh doanh và thành phần kinh tế đó trong nền kinh tế. Từ đó, nhờ chính sách ruộng
đất mà sẽ làm cho các loại sản phẩm xuất khẩu không ngừng tăng về năng suất, sản
lượng, hiệu quả sản xuất… Bên cạnh những tác động tích cực đó việc giao đất, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm, manh mún, phân tán, thiếu minh bạch
gây khó khăn cho quá trình tích tụ, tập trung, đầu tư cho sản xuất theo tiêu chuẩn hàng
hóa, mất lòng tin của nhà đầu tư và sản xuất. Sự chậm trễ trong việc giao đất và cấp
38
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm quá chậm quá trình tích tụ và tập trung ruộng
đất, mặt khác làm xuất hiện những khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc gom đất.
Việc chậm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm cho người sản xuất hàng hóa
xuất khẩu chưa thực sự yên tâm đầu tư phát triển sản xuất và kinh doanh, có xu hướng
khai thác đất có tính chất bóc lột nhằm kiếm lợi trước mắt các nhân tố ảnh hưởng đến
chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia.
1.2.7 Chính sách mặt hàng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
a.Mục tiêu của chính sách mặt hàng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Trong nền kinh tế hội nhập, cạnh tranh toàn cầu thì mặt hàng xuất khẩu phải có
sức cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả lớn, tức là phải chọn đúng mặt hàng xuất khẩu
chiến lược, thể hiện tập trung trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu.
Nhân tố quyết định quy mô, nhịp độ xuất khẩu hàng hóa là cơ cấu hàng xuất
khẩu, xác định chính sách mặt hàng xuất khẩu phù hợp là một nội dung quan trọng
của chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
b. Nội dung của chính sách mặt hàng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường, việc đổi mới chính sách cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu phải căn cứ vào thị trường xuất khẩu, điều kiện và khả năng sản xuất trong nước,
hiệu quả. Ba yếu tố này, thì hiệu quả là yếu tố quan trọng nhất trong sự lựa chọn cơ
cấu và mặt hàng xuất khẩu chiến lược.
Để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu cần có chính sách
xây dựng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng hàng thô và sơ chế đi
đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Giảm tỷ
trọng các sản phẩm xuất khẩu truyền thống đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm xuất
khẩu mới, tăng tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao trong giá trị kim ngạch
xuất khẩu.
Không chỉ có cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng
chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu, tạo ra các mặt hàng xuất khẩu chiến lược,
mà còn tiến tới tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chiến lược, nâng cao sức cạnh tranh của
hàng xuất khẩu trên thị trường, giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản
phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu, tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ.
Do đó nội dung của chính sách mặt hàng xuất khẩu bao gồm những nội dung cơ
bản sau:
39
- Giảm tỷ trọng xuất khẩu thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến ngày
càng sâu và tinh, giảm tỷ trọng xuất khẩu nông sản, lâm sản thô. Hạn chế và cấm xuất
khẩu các sản phẩm từ nguyên liệu tự nhiên chưa qua chế biến. Chuyển từ xuất khẩu
nông sản thô sang thực phẩm chế biến có bao bì hiện đại, mẫu mã đẹp, thuận lợi cho
bảo quản và sử dụng.
- Tăng cường đầu tư cho công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu để một mặt nâng
cao giá trị hàng xuất khẩu, mặt khác tận dụng được lao động trong nước. Kêu gọi vốn
đầu tư nước ngoài vào những ngành sản xuất hàng xuất khẩu cần nhiều vốn để một
phần thay thế hàng nhập khẩu.
- Nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu nói chung và hàng xuất khẩu chiến lược
nói riêng để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Lào trên thị trường quốc tế.
- Tạo ra những ngành hàng xuất khẩu mới có giá trị cao, mạnh dạn đào thải
những mặt hàng xuất khẩu không mang lại hiệu quả kinh tế hoặc hiệu quả giảm sút
dần. Tiến hành phát triển quy hoạch các mặt hàng xuất khẩu chiến lược.
Xây dựng chính sách các mặt hàng xuất khẩu chiến lược tốt sẽ phát triển mạnh
hoạt động xuất khẩu dẫn đến tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức
sống của người dân từ đó góp phần thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nước
theo hướng công nghiệp hóa. Mức sống của người dân sẽ được cải thiện sẽ làm cho hoạt
động thương mại trong nước sôi động hơn và làm phong phú thị trường nội địa hơn.
Việc xây dựng chính sách xuất khẩu các mặt hàng chiến lược có ý nghĩa vô
cùng to lớn đối với hoạt động xuất khẩu nói riêng và nền kinh tế Lào nói chung. Trong
điều kiện hiện nay, việc xây dựng mặt hàng xuất khẩu chiến lược là mang tính tất yếu
đối với các quốc gia đang phát triển theo chiến lược hướng về xuất khẩu.
Xác định chính sách mặt hàng xuất khẩu có thể dùng một số tiêu chí như sau:
đó là mặt hàng có sức cạnh tranh lớn, thể hiện thông qua các khách hàng quen thuộc
lớn, có nhu cầu mua lâu dài, ổn định. Đó là các mặt hàng có doanh số lớn, lợi nhuận
cao, có chất lượng cao. Là các mặt hàng mà khả năng đáp ứng trong nước là khá lâu
dài (trên 5-10 năm), cho bởi nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất là lâu dài và ổn
định, có công nghệ sản xuất đặc thù (mà các đối thủ cạnh tranh khó có thể loại bỏ), có
một đội ngũ lao động mang tính chuyên biệt phục vụ. Đó là các mặt hàng có khả năng
lôi cuốn thêm các khách hàng tiềm năng khác. Đối với một đất nước không nhất thiết
phải sản xuất ra đầy đủ sản phẩm mà mình cần.
40
Chính sách mặt hàng xuất khẩu cần phải được xác định rõ ràng và có mục tiêu
cụ thể trong từng giai đoạn xuất khẩu. Bởi các mặt hàng xuất khẩu chiến lược có vai
trò lớn trong nền kinh tế nên nếu xác định sai thì sẽ dẫn đến tổn thất cho nền kinh tế.
Phương hướng chủ đạo để phát triển xuất khẩu là tạo dựng những mặt hàng xuất khẩu
chiến lược, nhưng không giới hạn vào những mặt hàng cố định mà linh hoạt đáp ứng
nhu cầu thị trường và biến động giá cả, ở đây trọng tâm cần đặt vào các mặt hàng chế
biến và hàng công nghiệp nhẹ, công nghiệp lắp ráp, sử dụng nhiều lao động có tay
nghề cao (đối với các quốc gia đang phát triển như CHDCND Lào). Đồng thời cần
tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao, nhiều chất xám,
có công nghệ mới để tạo cho nhóm hàng này có vị trí quan trọng trong cơ cấu hàng
xuất khẩu.
1.3Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng
hóa của các quốc gia
1.3.1 Nhân tố về chính trị
Quyền lực chính trị là khả năng của một giai cấp, một liên minh giai cấp hay
một tập đoàn xã hội hướng đến việc giành, giữ, sử dụng hoặc chi phối quyền lực nhà
nước nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ thể đó. Những chủ thể hoạt động trong bộ máy
quản lý công có thể là những cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy nhà nước. Các
chủ thể quản lý công chịu sự điều chỉnh, chi phối bởi các yếu tố quyền lực chính trị.
Bản thân các cán bộ, công chức nhà nước làm việc trong lĩnh vực chính trị. Vì vậy,
điều tất yếu là họ chịu sự chi phối của đảng, của các quyết sách chính trị... Chính sách
nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa chịu sự ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố chính trị.
Khi đảng đưa ra một quyết sách quan trọng.
Chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của bất kì quốc gia nào đều
phải dựa trên thể chế chính trị và phục vụ mục đích chính trị của quốc gia đó. Từ mục
tiêu và chiến lược phát triển kinh tế xã hội, nhà nước sẽ xây dựng các chính sách hỗ
trợ xuất khẩu phù hợp. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa với tư cách là một công
cụ quản lý của Nhà nước, do đó nó phải hướng vào thực hiện những mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, mà bản chất của những mục tiêu này luôn thể hiện
bản chất và đường lối của Đảng cầm quyền. Hiệu quả chính sách nhà nước hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa chịu ảnh hưởng rất lớn bởi thể chế chính trị. Một nền chính trị ổn định
sẽ tạo điều kiện cho chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa phát triển và ngược lại.
Quyết sách chính trị với tính chất là những chủ trương, chính sách lớn của đảng cầm
41
quyền cũng có tác động rất lớn đến chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa. Một quyết
sách phù hợp thúc đẩy hiệu quả của chính sách hỗ trợ và ngược lại.
Ý chí của đảng và nhà nước luôn được thể hiện rõ trong chính sách hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa. Nếu như là quan điểm mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách hỗ
trợ sẽ là bộ chính sách thể hiện rõ quan điểm mở cửa hội nhập, tạo điều kiện thuận lợi
cho các tổ chức kinh doanh tham gia sâu vào sự phân công lao động quốc tế, mở mang
hoạt động xuất khẩu và bảo vệ thị trường nội trường và ngược lại.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của mỗi quốc gia do chính phủ của quốc
gia đó hoạch định, phục vụ những mục tiêu về phát triển văn hóa xã hội do chính phủ
đó đặt ra. do đó các chính sách này đều phụ thuộc vào tình hình chính trị của quốc
gia đó.
Có thể nói, chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa gắn bó chặt chẽ với
hệ thống chính trị, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho nhau.
Không thể xây dựng một hệ thống chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa trái với hệ
thống pháp luật hiện hành. Mặt khác các chính sách phải được thể chế hóa thành các
quy phạm pháp luật, vừa khuyến khích, vừa cưỡng chế đối với việc thi hành chính
sách.
Các quy phạm pháp luật cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách nhà nước
hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa những quy tắc hành động, những tiêu chuẩn xây dựng chính
sách, những ràng buộc và khuôn khổ đối với chính sách (những điều được phép và
những điều không được phép).
1.3.2 Nhân tố về kinhtế
Đây là nhân tố quan trọng nhất ảnh hướng tới chính sách hỗ trợ của nhà nước
tới xuất khẩu hàng hóa. Quá trình hoạch định bộ chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa phải dựa trên cơ sở các điều kiện kinh tế cụ thể. Ở tầm vĩ mô, các điều kiện
kinh tế đó là : các nguồn lực, tiềm năng, trình độ phát triển của mỗi nền kinh tế, mức
độ tăng trưởng kinh tế. Rõ ràng là việc xác định các mục tiêu, giải pháp và đặc biệt là
nguồn lực cho chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của mỗi quốc gia không
thể vượt quá xa những điều kiện kinh tế hiện có của đất nước.
Thực trạng xuất khẩu hàng hóa của mỗi quốc gia là một nhân tố được xem xét
đặc biệt quan trọng trong bối cảnh điều kiện kinh tế của quốc gia đó để hoạch định
chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nhà nước. Thông qua các mục tiêu và chiến
lược phát triển kinh tế thì chính phủ có thể đưa ra các chính sách khuyến khích hay
42
hạn chế xuất nhập khẩu, trên cơ sở đó gây ra ảnh hưởng tới chính sách hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa.
Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa thì sự phụ thuộc giữa các nước ngày
càng tăng. Chính vì thế mỗi biến động của tình hình kinh tế xã hội trên thế giới đều ít
nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước. Lĩnh vực xuất
khẩu hơn bất cứ hoạt động nào khác bị chi phối mạnh mẽ nhất. Ngày nay, đã và đang
hình thành rất nhiều liên minh kinh tế ở các mức độ khác nhau, nhiều hiệp định thương
mại song phương, đa phương được ký kết với mục tiêu đẩy mạnh hoạt động thương
mại quốc tế. Nếu quốc gia nào tham gia vào các liên minh kinh tế này thì hoặc ký kết
các hiệp định thương mại thì sẽ có nhiều thuận lợi trong hoạt động xuất khẩu của quốc
gia đó. Ngược lại, đó chính là rào cản trong việc thâm nhập vào thị trường khu vực đó.
Điều đó lại gây ra những ảnh hưởng tới lựa chọn chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa của mỗi quốc gia.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách quản lý của nhà nước phải
phù hợp với các thông lệ, quy định quốc tế, phù hợp với bối cảnh kinh tế trong nước
để vừa tranh thủ những cơ hội mà hội nhập mang lại đồng thời tận dụng tối đa lợi thế
so sánh và tiềm năng của đất nước. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu cũng phải được xây
dựng và hoàn thiện đáp ứng yêu cầu này.
1.3.3 Nhân tố về xãhội
Các điều kiện xã hội cũng có ảnh hưởng tới quá trình hoạch định chính sách
nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa, đó là cơ cấu và mức sống của dân cư, tình trạng
công ăn việc làm, công bằng xã hội, trình độ dân trí, chất lượng giáo dục, y tế, tình
hình an ninh, trật tự lòng tin của nhân dân vào chế độ, văn hóa dân tộc...nếu các điều
kiện xã hội ở mức tiến bộ thì việc đề ra các giải pháp của một chính sách có thể dựa
vào ý thức tự giác của nhân dân, sự hiểu biết, ủng hộ của nhiều người mà ít bị những
yếu tố xã hội tiêu cực cản trở.
Các yếu tố mức sống của dân cư ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh
xuất khẩu, hơn nữa các yếu tố này rất rộng nên khi đưa ra các chính sách hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa cần phân tích các yếu tố thiết thực nhất để đưa ra các biện pháp tác
động cụ thể. Các yếu tố về cơ sở hạ tầng sẵn có như hệ thống giao thông đặc biệt là hệ
thống cảng biển, mức độ trang bị, hệ thống xếp dỡ, kho hàng, nếu hiện đại giảm bớt
thời gian bốc dỡ, giao nhận cũng như đảm bảo an toàn cho hoạt động xuất khẩu. Hệ
thống ngân hàng, hệ thống báo hiểm càng hiện đại thì các hoạt động xuất khẩu được
43
thực hiện một cách an toan hơn, đồng thời giảm bớt được mức độ thiệt hại khi có rủi
ro xảy ra, những điều đó làm cho hoạt chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
càng dễ thực hiện hơn, tính khả thi và hiệu quả cao hơn nhiều.
Để thực hiện được chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa cần có cả các
giải pháp và công cụ về giáo dục, truyền thông, tư vấn, hướng dẫn để chính sách có thể
được thực hiện nhanh chóng trong đời sống.
1.3.4 Nhân tố bối cảnh kinh tế quốc tế và thị trường xuất khẩu
Bối cảnh kinh tế quốc tế có ảnh hưởng lớn tới các chính sách nhà nước hỗ trợ
xuất khẩu hàng hóa của chính phủ. Trong trường hợp nền kinh tế thế giới phát triển,
nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu hàng hóa lớn, khi đó hoạt động xuất khẩu có những
thuận lợi, đòi hỏi các chính sách của chính phủ là quản lý hợp lý đồng thời tạo điều
kiện cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp diễn ra đơn giản thuận lợi.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới gặp khó khăn, khủng hoảng hoặc suy thoái. Dẫn
tới nhu cầu nhập khẩu hàng hóa giảm, từ đó chính phủ mỗi quốc gia khi đó muốn đẩy
mạnh xuất khẩu thì đòi hỏi những chính sách hỗ trợ xuất khẩu quyết liệt hơn.
Tất cả các quốc gia đều nằm trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế
với các nước trong khu vực, trong bối cảnh đó, chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
mỗi nước không thể đi ngoài xu hướng chung của khu vực và quốc tế. Môi trường
kinh doanh quốc tế, hay môi trường kinh doanh của thị trường xuất khẩu là nói đến hệ
thống pháp luật, chính sách chung và chính sách đặc thù của nước đó đối với hàng
hóa, trong đó đặc biệt quan tâm tới đánh giá mức độ tăng trưởng GDP, mức lạm phát
tiền tệ và ngân hàng, vận tải và thông tin liên lạc, sự tăng trưởng và dân số của nước
đó. Sự nhanh chóng gia nhập và rút lui dễ dàng khỏi thị trường của doanh nghiệp xuất
khẩu là một tiêu chí quan trọng đánh giá sự thông thoáng của môi trường kinh doanh.
Các yếu tố xã hội như: an ninh trật tự cũng có ảnh hưởng mạnh đến môi trường kinh
doanh. Ngoài ra các yếu tố về văn hóa, phong tục tập quán.. cũng là những yếu tố
không thể thiếu được khi xem xét môi trường kinh doanh của một nước. Để chiếm lĩnh
được thị trường quốc tế doanh nghiệp cần có môi trường thông thoáng do nhà nước tạo
ra, hỗ trợ cho doanh nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa. Từ đó đòi hỏi chính
sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của chính phủ sử dụng như thương mại, thuế, tín dụng,
nhằm giảm chi phí sản xuất, sử dụng chi ngân sách cho đầu tư nghiên cứu khoa học –
công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng nhằm hỗ trợ cho hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp.
44
Quan hệ kinh tế quốc tế có tác dụng và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các chính sách
hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa. Đó là rào cản các loại thuế như thuế bảo hộ, sự phân biệt
đối xử với các nhà kinh doanh nước ngoài đặc biệt là hạn ngạch nhập khẩu, các liên
minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành và nhiều hiệp định thương mại song
phương, đa phương giữa các quốc gia được ký kết.
1.4 Kinh nghiệm quốc tế về chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho CHDCND Lào
Rất nhiều nước trên thế giới có một nền kinh tế phát triển vững mạnh là nhờ
Nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ một cách hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu
hàng hóa. Do có nhiều điểm tương đồng do cùng ở khu vực Châu Á nên nước
CHDCND Lào có thể học tập những kinh nghiệm trong hỗ trợ xuất khẩu của các nước
có nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu phát triển, trong đó điển hình là Thái
Lan, Việt Nam…
1.4.1 Kinh nghiệm của Thái Lan về chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa
Chính phủ Thái Lan đã đưa ra các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu như: cắt giảm và
miễn thuế đối với nguyên liệu thô, miễn thuế nhập và giảm thuế nhập khẩu, thuế kinh
doanh đối với các thiết bị máy móc. Chính sách tỷ giá linh hoạt và hệ thống thanh toán
tự do đã đóng góp đáng kể vào phát triển thị trường. Chính phủ Thái Lan đã xác định
được một chiến lược đúng đắn, đưa ra được các chính sách và kế hoạch rất cụ thể
trong từng thời kỳ, cho tổng thể cả nền kinh tế: Chính sách công nghiệp hóa thay thế
nhập khẩu và ưu tiên xuất khẩu dựa trên nguồn vốn, công nghệ của nước ngoài và
nguồn nhân lực rẻ trong nước; Lấy xuất khẩu và dịch vụ làm đầu tàu cho tăng trưởng
kinh tế; Chính sách khai hoang, phục hóa và đa dạng hóa cây trồng vật nuôi phục vụ
cho xuất khẩu.
Thái Lan là một nước đã làm rất tốt việc phát triển thị trường xuất khẩu.
Trong những năm gần đây, Chính phủ Thái Lan đã thể hiện quyết tâm trong việc
hợp tác chặt chẽ với khu vực tư nhân để thực hiện các chiến lược phát triển, tạo
điều kiện cho hàng hóa từ Thái Lan xâm nhập vào thị trường mới.
Chính phủ Thái Lan cũng đưa ra các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu hữu hiệu đó là
kế hoạch cắt giảm và miễn thuế đối với nguyên liệu thô, miễn và giảm thuế nhập khẩu,
thuế kinh doanh đối với các thiết bị máy móc.
Thái Lan hỗ trợ sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân phục vụ sản xuất
45
hàng xuất khẩu vào việc phát triển xuất khẩu, đa dạng hóa cơ cấu xuất khẩu cả về sản
phẩm lẫn thị trường. Thái Lan đã mạnh dạn thực hiện chính sách tự do hóa thương
mại, chính sách tỷ giá linh hoạt và hệ thống thanh toán tự do. Những chính sách này đã
đóng góp đáng kể vào việc phát triển thị trường ngoài nước.
Khi thực hiện chính sách hỗ trợ, các cơ quan hoạch định chính sách của chính
phủ, nhà khoa học và ngân hàng thế giới tích cực ủng hộ và tham gia tìm kiếm các
biện pháp hỗ trợ cho việc mở rộng thị trường về tăng trưởng thương mại quốc tế cho
Thái Lan. Về cơ bản các biện pháp hỗ trợ bao gồm: Ưu tiên cho các khoản vay đối
với công nghiệp chế tạo định hướng xuất khẩu. Cải cách toàn diện cơ chế và hệ
thống xuất nhập khẩu của đất nước. Giảm bớt hàng rào thuế quan và phi thuế quan.
Khuyến khích chế biến nông sản xuất khẩu và những mặt hàng truyền thống mà Thái
Lan có thế mạnh.
Đối với các hàng hóa xuất khẩu chỉ có một số loại thuế nhất định, bên cạnh đó
chính phủ Thái Lan còn áp dụng nhiều quy định mang tính khuyến khích để thúc đẩy
các hoạt động xuất khẩu. Đối với chính thương nhân của Thái Lan quy định các thành
phần kinh tế được phép xuất khẩu rất đa dạng: công ty công cộng hoặc trách nhiệm
hữu hạn, các tổ chức kinh doanh nhà nước hoặc tư nhân, các hợp tác xã.
Chính phủ Lào và Thái Lan đã được thỏa thuận sẽ tăng gấp đôi kim ngạch trao
đổi thương mại hai chiều giữa hai nước trong hai năm tới; 4,7 tỷ USD là mục tiêu phấn
đấu vào năm 2016. Mới đây quan chức thương mại 9 tỉnh của Lào và 11 tỉnh của Thái
Lan là những tỉnh có chung đường biên giới đã cùng nhau đánh giá tình hình hợp tác,
trao đổi thương mại, đầu tư, du lịch, vận tải giữa hai bên. Năm 2014, giá trị trao đổi
thương mại trên 3.5 tỷ USD; xuất khẩu của Lào sang Thái Lan tang 53% so với cùng
kỳ năm ngoái, tương đương 557,8 USD; Thái Lan xuất khẩu sang Lào đạt 1,5 tỷ USD,
tang 45%.
Kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan đã tăng đến 26 % trong năm 2014, đây là
mức tăng trưởng rất ấn tượng. Đây được xem là “cú hích” đáng mừng cho nền kinh tế
Thái Lan. Góp phần vào thành công đó là lĩnh vực nông nghiệp và nông phẩm chế
biến (vốn là 2 khu vực cực kỳ quan trọng) với tốc độ tang trưởng 49,2% nhờ vào việc
giá cả các mặt hàng này tăng và khối lượng xuất khẩu các mặt hàng như gạo, bột sẵn,
đường, hải sản đông lạnh và rau quả tang. Kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường
chính yếu của Thái Lan như Hoa kỳ, EU, ASEAN và Nhật Bản tang hơn 50%. Về mặt
xuất khẩu gạo Thái Lan sẽ hợp tác chặt chẽ với các nước láng giềng như Việt Nam,
46
Lao và Campuchia để kiềm chế không cho giá giảm, xuất khẩu đạt chất lượng, không
phải số lượng, đặc biệt là gạo cao cấp. Về xuất khẩu tôm của Thái Lan năm 2010 đạt
trên 3 tỷ USD. Để tang trưởng xuất khẩu trong năm 2010, Chính phủ Thái Lan cũng
phải giải quyết rất nhiều vấn đề của ngành, đặc biệt là các rào cản thương mại như
thuế chống bán phá giá và các cáo buộc sử dụng lao động trẻ em trong ngành chế
biến tôm.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tích to lớn trong xuất khẩu hàng hóa từ đầu
thập niên 1970 nhưng Thái Lan vẫn chưa thành công trong việc xuất khẩu hàng hóa có
hàm lượng công nghệ cao, như: ô tô, xe máy, hàng điện tử, điện lạnh, máy tính, TV,
v.v… Khiếm khuyết này thể hiện ở tỷ lệ xuất khẩu hàng hóa ở Thái Lan những mặt
hàng này trong cơ cấu xuất khẩu hàng năm chưa đóng vai trò nổi bật. Thái Lan vẫn
còn cố gắng để thay đổi cơ cấu xuất khẩu theo hướng xuất khẩu hàng hóa có hàm
lượng chất xám cao.
Những khuyến khích về tài khóa và tài chính của Chính phủ là không hiệu quả
trong việc kích thích nhu cầu của khu vực tư nhân đầu tư phát triển công nghệ trong sản
xuất hàng hóa và hàng xuất khẩu. Không có nhiều doanh nghiệp đã sử dụng ưu đãi tài
khóa và tài chính của chính phủ. Khả năng tạo ra giá trị gia tăng cho một sản phẩm xuất
khẩu, một việc do năng lực phát triển công nghệ quyết định lại khá nghèo nàn. Xuất khẩu
của đất nước phụ thuộc nặng nề vào linh kiện và vật liệu công nghiệp nhập khẩu.
1.4.2 Kinh nghiệm của Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia có chính sách hỗ trợ xuất khẩu hợp lý và
đạt hiệu quả cao, sau khi mở cửa nền kinh tế, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam liên
tục tăng cao và giữ nhịp độ tương đối ổn định. Nếu năm 1996, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam chỉ đạt 7.256 triệu USD, đến năm 2010, con số này đã tăng gấp đôi đạt
14.449 triệu USD, năm 2005 đạt 32.442 triệu USD, tháng 1/2007 Việt Nam là thành
viên chính thức của WTO, kim ngạch xuất khẩu trong năm này tăng gần 10 tỷ USD,
đạt 48.561 triệu USD, năm 2008 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 62.685 triệu
USD, năm 2013 đạt 132.033 triệu USD, năm 2014 tăng 13.7% so với năm 2013, đạt
150.190 triệu USD, trong khi đó nhập khẩu chỉ tăng 12,1% đạt 148.050 triệu USD, cán
cân thương mại đạt mức thặng dư 2,14 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay của
Việt Nam. Trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng, máy vi tính , sản phẩm điện
tử và linh kiện, xăng dầu, khí đốt, sắt thép là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của
việt Nam.
47
Việt Nam đã có kinh nghiệm thành công trong việc gia tăng kim ngạch xuất
khẩu. Giá trị xuất khẩu trong năm 2001 chiếm đến 50% GDP. Ngay cả khi không tính
dầu mỏ thì tỷ lệ xuất khẩu so với GDP cũng ở mức gần 40% GDP. Một số kinh
nghiệm của Việt Nam mà Lào cần nghiên cứu học tập như:
- Cơ chế thị trường đã khắc phục được tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”, hình
thành thị trường thống nhất, khá ổn định và thông suốt trong cả nước.
- Quản lý nhà nước về thương mại có sự đổi mới từ trung ương đến địa phương.
Nhà nước thiết lập và tạo môi trường pháp lý đảm bảo sản xuất, lưu thông hàng hóa
nội địa và xuất nhập khẩu, quy định những mặt hàng, dịch vụ kinh doanh có điều kiện
và hạn chế kinh doanh.
- Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách
khuyến khích phát triển các hợp tác xã, chính sách phát triển thương nghiệp miền núi,
hải đảo và vùng đồng bào dân tộc...
- Chính sách thương nhân đã từng bước hình thành các kênh lưu thông của một
số mặt hàng chủ yếu: với sự tham gia đông đảo của các loại hình thương nhân thuộc
các thành phần kinh tế, hợp tác xã sản xuất kinh doanh, làng nghề sản xuất thủ công
hàng hóa chiến lược xuất khẩu v.v... góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, gắn sản
xuất với tiêu thụ, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế, góp phần đẩy mạnh
xuất khẩu và đảm bảo các nhu cầu trong nước. Mạng lưới kinh doanh thương mại, dịch
vụ tiếp tục được mở rộng trên cả ba địa bàn: thành thị, nông thôn và miền núi, với sự
tham gia của các chủ thể kinh doanh.
- Kết cấu hạ tầng thương mại ngày càng phát triển theo hướng văn minh, hiện
đại: Năm 1996 cả nước có gần 5.000 chợ đến cuối năm 2004 tăng lên 8.751 chợ với sự
đa dạng về loại hình kinh doanh và quản lý, xuất hiện một số chợ đầu mối nông sản và
chợ chuyên doanh. Các hình thức Trung tâm thương mại, siêu thị và cửa hàng tự phục
vụ, hội chợ - triển lãm thương mại, trung tâm giao dịch hàng hóa... đang hình thành và
phát triển ở khu vực thành thị, các vùng kinh tế trọng yếu. Năm 1997 cả nước mới có
một số ít siêu thị, cửa hàng tự chọn thuộc sở hữu nhà nước, tư nhân, hợp tác xã (HTX)
với sự phong phú và đa dạng về mẫu mã chủng loại, chất lượng đảm bảo, phương thức
phục vụ văn minh, hấp dẫn đối với khách hàng.
- Hiện nay, Việt Nam đã có chính sách cho các doanh nghiệp và tư nhân vay tín
dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, với nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Trong đó có
3 hình thức tín dụng chủ yếu là:
48
- Tín dụng Ngân hàng
- Tín dụng thương mại
- Tín dụng tài chính
Trong 3 loại tín dụng trên Việt Nam đã áp dụng thành công trong việc xúc tiến
đầu tư sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Các hình thức tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp sản
xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu của Việt Nam đã thực hiện ở cả các ngân hàng của
nhà nước và các ngân hàng thương mại cổ phần. Chính sách này đã có tác dụng hỗ trợ
rất tốt cho các doanh nghiệp xuất khẩu, giúp doanh nghiệp giải được bài toán khó khăn
về vốn luôn là gánh nặng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay.
-Đặc biệt chính sách thuế hiện nay của Việt Nam đã và đang hỗ trợ rất tốt tới
hoạt động xuất khẩu. Trong đó hàng xuất khẩu ra nước ngoài hay hàng xuất khẩu tại
chỗ đều được nhà nước áp dụng chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng. Chính sách này
áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài kể cả ủy thác xuất khẩu, hàng hóa
bán vào khu phi thuế quan theo quy định của nhà nước, hàng hóa bán cho cửa hàng
miễn thuế. Các trường hợp được coi là xuất khẩu như : hàng hóa gia công chuyển tiếp
theo quy định của pháp luật thương mại về hoạt động mua và bán hàng hóa quốc tế và
các hoạt động đại lý mua, bán gia công hàng hóa với nước ngoài, hàng hóa gia công
xuất khẩu tại chỗ, hàng hóa xuất khẩu để bán tại hội chợ, triển lãm ở nước ngoài cũng
được áp dụng chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng về mức 0%. Hoạt động xây dựng,
lắp đặt công trình của doanh nghiệp khu chế xuất, vận tải quốc tế bao gồm vận tải
hành khách, hành lý, hàng hóa theo chặng quốc tế, dịch vụ sửa chữa tàu bay, tàu biển
cung cấp cho tổ chức cá nhân nước ngoài cũng được hoàn thuế.
Từ những kinh nghiệm của Việt Nam, Lào cần rút ra một số bài học kinh
nghiệm như sau: Thực hiện các chính sách sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tổ chức các
khu kinh tế chế xuất, các khu đô thị, siêu thị, xây các khu chợ trao đổi hàng hóa,
khuyến khích thương mại nhà nước và tư nhân, mở rộng thị trường trong và ngoài
nước, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc sản xuất và xuất khẩu. Khai thác
tiềm năng, trí tuệ, tay nghề trong nước, thu hút đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Nâng
cao trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, tăng cường sức cạnh tranh sản xuất
hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới. Dùng chỉ số lựa chọn hàng xuất
khẩu. Về tín dụng thương mại mà Việt Nam đã áp dụng phổ biến và thành công tương
đối tốt, Lào có thể áp dụng chính sách tín dụng này rộng rãi trong xuất khẩu hàng hóa
trong tương lai.
49
Là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, một trong những lợi ích quan trọng
mà Việt Nam hướng tới trong quá trình gia nhập WTO cũng như ký các cam kết mở
cửa thương mại khác là quyền tiếp cận bình đẳng, và/hoặc ưu đãi về thuế quan ở các
thị trường xuất khẩu quan trọng. Trên thực tế, Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu
này ở tất cả các nước thành viên WTO và nhờ đó, cùng với nhiều yếu tố khác, đã đạt
được những thành tựu về xuất khẩu đáng kinh ngạc. Tuy nhiên trong số các thị trường
trọng điểm của xuất khẩu Việt Nam, EU và Hoa Kỳ là hai thị trường có tần suất sử
dụng các công cụ phòng vệ thương mại và cũng là hai thị trường đã kiện chống bán
phá giá, chống trợ cấp đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam nhiều nhất. Theo quy
định của WTO, hiệp định về chống bán phá giá đối với trường hợp sản phẩm đến từ
các nước có nền kinh tế phi thị trường như Việt Nam. Điều này dẫn tới mức thuế
chống bán phá giá/chống trợ cấp trong các vụ điều tra đối với sản phẩm của Việt Nam
thường là cao và phải chịu mức thuế cao trừng phạt tương ứng. Do đó, trong chính
sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nhà nước, chính phủ cần có những hướng dẫn,
tuyên truyền cụ thể tới các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa về những quy định, cam
kết của đất nước khi tham gia tổ chức thương mại WTO, để các doanh nghiệp xuất
khẩu muốn kinh doanh, mở rộng thị trường xuất khẩu thì phải có kiến thức đầy đủ,
chủ động phòng tránh và đối phó, thông qua tìm hiểu bản chất, thủ tục tiến hành, sử
dụng các biện pháp ứng phó thích hợp khi có tình huống kiện tụng xảy ra.
1.4.3Kinh nghiệm của Trung Quốc
Hơn 30 năm cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã thu được những thành tựu to
lớn, đưa Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trên thế giới. Từ năm 2006– 2014,
GDP bình quân hàng năm của Trung Quốc tăng trên 9,6%, đạt mức cao nhất thế giới.
Chỉ tính riêng năm 2014, GDP đạt 17.8 nghìn tỷ USD tăng 7,4% ( đây là mức tăng
trưởng thấp nhất trong những năm qua ); tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 23,8%
(là năm thứ 5 liên tiếp tăng trên 20%); FDI thực tế đạt 69,5 tỷ USD; tạo thêm 11,84
triệu việc làm mới; thu nhập bình quân cư dân ở thành thị đạt 11.759 NDT (khoảng
1.500 USD), tăng 10,4%; thu nhập bình quân ở nông thôn đạt 3.587 NDT (khoảng 460
USD), tăng 7,4%; sản lượng lương thực đạt 497,4 triệu tấn; dự trữ ngoại tệ hơn 1.200
tỷ USD.
Đạt được những kết quả trên, là nhờ Trung Quốc đã áp dụng một loạt các chính
sách, trong đó có chính sách cải cách thương mại hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất
hàng hóa và thúc đẩy xuất khẩu, cụ thể thông qua các chính sách như:
50
- Xác định việc nâng cao giá trị gia tăng hàng hóa xuất khẩu là tiêu điểm xây
dựng các chính sách
- Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất hàng
hóa và chế biến sản phẩm.
- Chính sách hỗ trợ xuất khẩu có sự thay đổi qua từng giai đoạn, phù hợp với
tình hình kinh tế trong nước và quốc tế.
Những chính sách hỗ trợ xuất khẩu cơ bản của Trung Quốc:
- Chính sách hoàn thuế xuất khẩu;
- Thực hiện chế độ thưởng xuất khẩu;
- Chính sách giá cả;
- Chính sách ngoại hối;
- Chính sách tỷ giá;
- Thực hiện cơ chế bảo hiểm tính dụng xuất khẩu;
- Thắt chặt việc kiểm soát ngoại thương, đặc biệt là nhập khẩu;
- Điều chỉnh chiến lược ngoại thương cho phù hợp.
Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục mở rộng thị phần xuất khẩu của mình trên thế giới.
Giá trị xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc tháng 12/2009 tăng cao hơn cùng kỳ năm
ngoái. Trong giai đoạn 11 tháng của năm 2009, Trung Quốc đã vượt Đức và trở
thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới. Trong 11 tháng của năm 2009, tổng kim
ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đạt 1,07 nghìn tỷ USD.
Kim ngạch XNK khoáng sản trong 9 tháng đầu năm 2010 tăng 49% so với cùng
kỳ năm trước, đạt 524 tỷ USD. GDP Trung Quốc tăng 10,3% trong năm 2010, vượt dự
báo của giới phân tích và cao hơn co số 9,2% của năm 2009. Đó là tốc độ tăng trưởng
cao nhất trong vòng 3 năm trở lại đây.
Trung Quốc, một thị trường tiềm năng về XNK hàng hóa. Trong những năm
qua, thực hiện cơ chế thị trường, Trung Quốc đã ban hành nhiều quy định về việc
XNK và tiêu thụ hàng hóa tại thị trường nội địa. Trong đó có thuế suất, trị giá tính
thuế, luật dán nhãn thực phẩm…
Lượng hàng hóa Trung Quốc được xuất khẩu và tiêu thụ ngày càng tăng ở các
nước là do chính phủ Trung Quốc đã triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
xuất khẩu như chính sách hoàn thuế, chính sách tiền tệ, hỗ trợ lãi suất...
Chính sách hoàn thuế xuất khẩu là hình thức nhà nước bù đắp tài chính cho
doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng hóa. Từ năm 2008 đến nay, Trung Quốc đã 7 lần
51
thay đổi mức hoàn thuế xuất khẩu, ban đầu, tỷ lệ hoàn thuế xuất khẩu được quy định là
9,8%, hiện nay tăng lên 13,5%. Theo đó có hơn 2600 sản phẩm chịu thuế suất được áp
dụng tỷ lệ hoàn thuế mới, bao gồm các sản phẩm cần nhiều sức lao động, sản phẩm
công nghệ cao, và sản phẩm hoàn thiện. Trong đó, riêng tỷ lệ hoàn thuế đối với một số
sản phẩm từ đồ gỗ nguyên chất tăng đến 15%. Năm 2009, bộ tài chính Trung Quốc đã
thực hiện việc tăng mức hoàn thuế đối với 553 sản phẩm cơ khí và điện tử từ 14% lên
17% đối với thiết bị rô bốt sử dụng trong công nghiệp, từ 11% và 13% lên 14% với
máy khâu và xe máy, ngoải ra, bộ tài chính , tổng cục hải quan và cục quản lý thuế
Trung Quốc đã phê duyệt đề án thí điểm hoàn thuế tại Cảng xuất khẩu, được chính
thức triển khai tại thành phố Thượng Hải.
Giảm thuế xuất khẩu: để khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu, bộ Tài
chính Trung Quốc đã áp dụng chính sách thuế khích lệ đối với hơn 600 mặt hàng xuất
khẩu. Thuế xuất khẩu được chiết khấu trên các sản phẩm bao gồm giầy dép, đồ chơi,
đồ lưu niệm trong phạm vi từ 5-17%. Các sản phẩm từ công nghiệp nhẹ phục vụ tiêu
dùng. Hàng điện tử nghe nhìn, đồ điện gia dụng các loại, đồ chơi trẻ em, hàng may
mặc, giầy dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ. Các mặt hàng thuộc nhóm vật tư, nguyên
liệu: phân bón hóa học, các loại thuốc bảo vệ thực vật, và bảo quản rau quả, thực
phẩm, các loại tấm lợp (tôn, nhựa) , các sản phẩm nông nghiệp.
Chính sách tín dụng: các ngân hàng thương mại Trung Quốc đã cấp các khoản
vay ngắn hạn cho các doanh nghiệp xuất khẩu được hưởng mức lãi suất ưu đãi, với lãi
suất chỉ ở mức 4-5%/ năm. Với lãi suất thấp, lượng hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu
ngày càng tăng. Các doanh nghiệp nước ngoài chỉ cần mua hàng, nguyên vật liệu của
Trung Quốc thì được hỗ trợ lãi suất 0% cho 30% giá trị đơn hàng. Ngoài ra các ngân
hàng thương mại Trung Quốc cũng hỗ trợ cho vay vốn với lãi suất chỉ từ 1-2% để
khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu đầu tư xây dựng nhà máy, công xưởng. Những
điều kiện đó đã giúp doanh nghiệp Trung Quốc có thể sản xuất ra những sản phẩm có
số lượng lớn với chi phí rẻ nhất.
Chính sách đầu tư: chinh phủ Trung quốc thực hiện từ việc hỗ trợ cơ sở hạ tầng
(được đầu tư thông qua các tập đoàn kinh tế thuộc sự quản lý của chính quyền trung
ương), hỗ trợ cơ sở pháp lý, linh hoạt trong điều hành chính sách tài chính thông qua
vận hành các quỹ hỗ trợ xuất khẩu và chính sách ngoại hối, tỷ giá trong hỗ trợ và tạo
điều kiện xuất khẩu.
52
1.4.4 Kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc
a) Kinh nghiệm của Nhật Bản
Là một trong những cường quốc kinh tế, Nhật Bản luôn được thế giới nhắc
đến với “sự thần kỳ” của mình. Để có được vị trí cao như ngày hôm nay, Chính phủ
Nhật Bản đã có những chính sách hỗ trợ rất hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu của
nước mình.
Chính sách khoa học công nghệ
Với yêu cầu xây dựng Nhật Bản thành một “xã hội thông tin” trong tương lai,
Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện phát triển khoa học công nghệ một cách rất hiệu quả.
Chính sách này được thực thi theo các khía cạnh sau:
- Hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai: Thực hiện các chính sách
thuế ưu đãi. Sự ưu đãi này hướng tới hai loại hình hoạt động, đó là khuyến khích các
hoạt động đầu tư cho nghiên cứu và triển khai; và khuyến khích nhập khẩu các phát
minh sách chế từ nước ngoài. Đồng thời, Nhà nước còn trợ cấp trực tiếp cho các dự án,
chương trình nghiên cứu.
- Tài trợ và khuyến khích hoạt động nghiên cứu tại các Viện nghiên cứu quốc gia
và công cộng: Bên cạnh việc cấp ngân sách và tài trợ cho các dự án nghiên cứu, Chính
phủ Nhật Bản còn hỗ trợ cho các cơ sở nghiên cứu khoa học cải tạo và nâng cấp cơ sở
vật chất, trang thiết bị nghiên cứu phù hợp với nhu cầu nghiên cứu khoa học của các
cơ sở này.
Chính sách tín dụng
Trong chính sách tín dụng, công cụ lãi suất được áp dụng triệt đề với mục tiêu
kích thích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư, mở rộng sản xuất nhằm phục hồi mức
tăng trưởng kinh tế và chống lại tình trạng lạm phát. Tháng 2/1999, ngân hàng Trung
ương Nhật Bản đã thực hiện chính sách lãi suất bằng 0. Chính sách lãi suất bằng 0,
ngoài mục tiêu kích thích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư, còn nhằm giảm đi số
tiền lãi cần phải trả khi nợ của Chính phủ và nợ của các công ty đã tính ra tới mức phá
vỡ nền kinh tế Nhật Bản.
b) Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Chính sách trợ cấp xuất khẩu
Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện hỗ trợ về tài chính bằng cách ưu tiên cho các
công ty và xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được vay vốn với lãi suất thấp và miễn
53
hoặc giảm thuế cho các khoản thu nhập từ xuất khẩu. Thực chất đây chính là hình thức
trợ cấp xuất khẩu một cách gián tiếp.
Hình thức trợ cấp xuất khẩu cũng rất phong phú như việc thiết lập các tổ chức
các tổ chức tài chính tín dụng cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, miễn thuế công ty
cho các doanh nghiệp trong 4 năm đầu hoạt động từ 50 – 100%, 2 năm tiếp là 20 – 30%.
Các hình thức tín dụng lãi suất với lãi suất thấp cũng được áp dụng. Trong giai đoạn
1961 – 1965, trong khi lãi suất cho vay chung là 18,2%, lạm phát 8,9% thì lãi suất cho
vay xuất khẩu là 9,3%. Kể từ năm 1982, trợ cấp lãi suất được xoá bỏ, tuy nhiên so với
lãi suất cho vay chung, lãi suất cho vay xuất khẩu vẫn thấp hơn từ 1 – 2,5%.
Chính sách thuế quan
Biện pháp tài chính được sử dụng lâu dài hơn cả là chính sách giảm hoặc miễn
thuế xuất khẩu. Theo biện pháp này, khi các xí nghiệp Hàn Quốc nhận được đơn đặt
hàng của nước ngoài, họ sẽ được nhập khẩu nguyên liệu không bị đánh thuế nếu toàn
bộ số hàng sản xuất sau đó sẽ được xuất khẩu, hơn nữa họ còn được giảm hoặc miễn
các khoản thuế thu nhập từ xuất khẩu hoặc các khoản thu nhập gia tăng do xuất khẩu.
Chính sách đầu tư
Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành các đạo luật cho phép có thể vay vốn nước
ngoài. Luật thúc đẩy nhập khẩu vốn nước ngoài của Hàn Quốc được ban hành vào năm
1960 và sửa đổi vào các năm 1962 và 1966 với mục tiêu ưu tiên cho các xí nghiệp xuất
khẩu được quyền trực tiếp vay vốn nước ngoài. Điều này tạo cho các công ty sự chủ
động hơn trong việc sản xuất kinh doanh và chính vì thế hoạt động xuất khẩu của họ
đã được đẩy mạnh.
1.4.5 Bài học rút ra cho nước CHDCND Lào
Qua nghiên cứu các bài học kinh nghiệm của ba quốc gia trên về hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho CHDCND Lào như sau:
Thứ nhất, Chính phủ Lào cần sớm định hình một hệ thống văn bản pháp quy
đầy đủ và chi tiết để tạo lập cơ sơ hoạt động cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng
hóa ra thi trường quốc tế;
Các chính sách, hệ thống văn bản pháp lý bao gồm như chính sách thi trường,
chính sách mặt hàng, hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp như hình thức tín dụng xuất khẩu,
hỗ trợ tông tin thị trường, hỗ trợ nghiên cứu, phát triển, và mở rộng thị trường mới.
54
Thứ hai, sản xuất ra các sản phẩm phù hợp với thị hiếu, và nhu cầu của người
tiêu dùng nước xuất khẩu tới;
Muốn thâm nhập vào bất kỳ thị trường nào, điều cốt lõi các doanh nghiệp Lào,
và nước CHDCND Lào phải xây dựng, và sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng nước xuất khẩu, đồng thời giá cả và chất lượng phải hợp lý. Đây
là bài học đặc biệt qua trọng từ các doanh nghiệp Trung Quốc và Việt Nam mà các
doanh nghiệp Lào có thể học hỏi được. Ngoài ra, các doanh nghiệp Lào cũng có thể
học tập từ đồng nghiệp Việt Nam, Trung Quốc trong việc năng động, sáng tạo, nắm
bắt được yếu tố tôn giáo, văn hóa của thị trường mà mình hướng tới để tạo cho sản
phẩm có độ hấp dẫn khác biệt so với các sản phẩm cạnh tranh của các nước khác. Tuy
nhiên, một vấn đề hiện nay đối với hàng hóa xuất khẩu của Lào nói chung và các
doanh nghiệp Lào nói riêng, khả năng cạnh tranh về giá là khá yếu và đang yếu; thế
khi cạnh tranh với các doanh nghiệp tại các quốc gia khác, đặc biệt là các doanh
nghiệp đến từ Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam.
Ba là, tạo sự liên kết các doanh nghiệp Lào cùng xuất khẩu hàng hóa và liên kết
giữa doanh nghiệp Lào với các đối tác;
Các doanh nghiệp Lào cần sớm hình thành và tạo lập được những liên kết với
nhau trên cùng thị trường hoặc với các đối tác tại thị trường kinh doanh. Có thể sử
dụng kinh nghiệm của Hoa kiều để hình thành những liên kết theo nhiều hình thức
để tăng cơ hội và hợp tác lẫn nhau giữa các doanh nghiệp Lào với các bạn hàng trên
thế giới.
Bốn là, tích cực, chủ động tham gia vào các diễn đàn khu vực và thế giới
Việc tham gia vào các diễn đàn khu vực và thế giới sẽ giúp cho các doanh
nghiệp của Lào có nhiều cơ hội tiếp cận với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên thế
giới. Bởi các cuộc hội thảo, hội nghị quốc tế thường là nơi tự họp của nhiều các doanh
nghiệp đi tìm bạn hàng, đối tác kinh doanh. Thêm vào đó, việc mở ra các diễn đàn
quốc tế cũng chính là mục tiêu của nhiều quốc gia trong việc tạo một nơi gặp gỡ, thiết
lập, và tìm kiếm thị trường cho doanh nghiệp quốc gia mình trong quá trình nền kinh
tế hội nhập khu vực và thế giới hiện nay.
Năm là, thực hiện chính sách hỗ trợ đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các
doanh nghiệp trong nước;
Cùng với sự nỗ lực của các doanh nghiệp xuất khẩu, Chính phủ Lào cũng nên
55
có các chính sách ưu tiên, hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa. Các hỗ trợ
về thuế, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ về thông tin thị trường và nhiều các hình thức hỗ
trợ khác.
Sáu là, Chính phủ và các cơ quan ban ngành của nước CHDCND Lào nên thường
xuyên tổ chức các chuyến thăm cấp cao tới các quốc gia trên thế giới;
Đây là hình thức vừa tạo điều kiện nâng cao mối quan hệ thâm giao giữa các
quốc gia với Lào, mà còn là cơ sở để thiết lập các quan hệ thương mại song phương
giữa Lào và các quốc gia đối tác.
Bảy là, tổ chức nhiều hội chợ triển lãm quốc tế
Đây sẽ là nơi quảng bá hình ảnh đất nước, con người và hàng hóa Lào dễ tiếp cận
nhất đối với người tiêu dùng nước sở tại nói riêng và các doanh nghiệp quốc tế nói chung.
Tám là, coi chất lượng hàng hóa là tiêu chí hàng đầu để chinh phục các thị
trường xuất khẩu;
Ngoài yếu tố về giá cả, mẫu mã, chất lượng hàng hóa là một yếu tố vô cùng
quan trọng, nó sẽ là nền tảng vững chắc nhất để các bạn hàng tiếp tục ký kết các hợp
đồng xuất khẩu tiếp theo.
Chín là, xác định rõ thị trường mục tiêu, để từ đó đưa ra chiến lược xuất khẩu
phù hợp, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu trên thị trường
thế giới;
Cần đánh giá rõ thị trường mục tiêu của quốc gia mình là gì và trên cơ sở các
mục tiêu quốc gia đó, các doanh nghiệp Lào sẽ xây dựng chính sách mục tiêu mở rộng,
phát triển thị trường của doanh nghiệp mình. Qua việc chỉ rõ thị trường mục tiêu, xây
dựng các chiến lược kinh doanh cụ thể của mình, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tạo ra
sản phẩm xuất khẩu, đồng thời nâng cao khả năng chinh phục thị trường xuất khẩu
bằng các sản phẩm phù hợp được tạo ra trên cơ sở nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng.
56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Đã hệ thống hoá và phân tích những lý luận cơ bản về xuất khẩu hàng hóa và
chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia. Thông qua đánh giá
vai trò của xuất khẩu hàng hóa đối với sự phát triển nền kinh tế của một quốc gia, sự
tất yếu khách quan phải có những chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với xuất khẩu
hàng hóa của nước CHDCND Lào hiện nay. Trong điều kiện hội nhập KTQT, gia
nhập tổ chức thương mại thế giới, hoạt động hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của Lào bao
gồm các chính sách hỗ trợ: chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa, chính sách
thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa, chính sách phát triển thị trường hỗ trợ xuất khẩu hàng
hóa, chính sách thương nhân hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa, chính sách đầu tư hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa và chính sách ruộng đất hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa. Trong chương một,
tác giả đã đưa ra những nhân tố ảnh hưởng của các chính sách tới xuất khẩu hàng hóa
của các quốc gia hiện nay.
Các chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của quốc gia phụ thuộc vào
thực trạng xuất khẩu hàng hóa của quốc gia đó, môi trường kinh tế quốc tế, môi trường
kinh tế trong nước ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa và mục tiêu của chính
phủ và nhà nước trong các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa. Tác giả đã phân tích
từng yếu tố này có tác động đến việc hoạch định các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng
hóa của nhà nước như thế nào.
Trong chương một, tác giả cũng phân tích kinh nghiệm xuất khẩu hàng hóa của
một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Những nước đã rất thành công với
chiến lược xuất khẩu hàng hóa của mình, và có sự tương đồng với nước CHDCND
Lào về cơ cấu và thị trường xuất khẩu hàng hóa hiện nay. Từ đó tác giả rút ra những
bài học kinh nghiệm trong việc hoàn thiện các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
của nước CHDCND Lào.
Toàn bộ những lý luận cơ bản về xuất khẩu hàng hóa và và chính sách nhà nước
hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa cùng với những bài học kinh nghiệm rút ra từ hoạt động
xuất khẩu của các quốc gia đã thành công trong việc phát triển xuất khẩu hàng hóa ra
thị trường thế giới là cơ sở quan trọng để phân tích và đánh giá trong chương 2.
57
CHƯƠNG2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ XUẤT KHẨU
HÀNG HÓA CỦA NƯỚC CHDCNDLÀO
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của nước CHDCND Lào
2.1.1 Đặc điểm về điều kiện tự nhiên của nước CHDCND Lào
CHDCND Lào có đường biên chung với năm quốc gia, phía Bắc có biên giới
với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa có chiều dài 416km và Myanma với chiều
dài 230km, phía tây giáp với vương quốc Thái Lan có chiều dài 1.754km, phía Đông
giáp với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với chiều dài 2.310 km, phía Nam giáp
với Cam pu chia có chiều dài là 492km, không có cảng biển nhưng Lào là quốc gia có
sông suối nhiều và phân bố tương đối đồng đều trên toàn bộ lãnh thổ, trong đó dòng
sông Mê Kông là một dòng chảy chính suốt từ bắc đến nam Lào, đồng thời là một
dòng sông lớn và được coi là con sông quốc tế vì nó chảy qua nhiều nước. Lào có tổng
diện tích 236.800km2, được chia thành 18 tỉnh và thành phố, trong đó diện tích đất
rừng là 230.800km2 chiếm 97,47% diện tích cả nước và mặt nước là 6.000km2, có
chiều dài từ Bắc đến Nam là 1.799km2 và chiều rộng từ 100-400km. Do những nét địa
hình trên đây, có thể phân nước Lào thành ba vùng lớn: vùng miền Bắc, vùng miền
Trung và vùng miền Nam. Miền Bắc nói chung là một vùng miền núi trùng điệp, bình
độ tương đối cao, địa hình hiểm trở và chia cắt, có nhiều thung lũng. Vùng này đi lại
rất khó khăn, miền Trung và miền Nam tương đối thấp hơn, ít núi hơn, có đồng bằng
và thung lũng rộng hơn, giao lưu, giao dịch thuận lợi hơn.
Về khí hậu, nước CHDCND Lào nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới bắc bán
cầu, do vậy khí hậu mang tính chất nhiệt độ gió mùa nóng ẩm là chủ yếu. Mặt khác, do
lãnh thổ Lào kéo dài theo hướng kinh tuyến, có địa hình đa dạng và lại nằm sâu trong
lục địa nên khí hậu không thuần nhất từ Bắc đến Nam, từ vùng đồng bằng đến vùng
cao nguyên miền núi. Tuy nhiên do khối lượng không khí có độ dày lớn và ảnh hưởng
có tính liên tục từ các nước xung quanh, nên Lào một năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa
và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng năm đến tháng 10 với gió mùa Tây nam nóng
ẩm từ Ấn độ dương thổi qua địa phận Thái Lan, mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau với gió mùa Đông Bắc khô lạnh. Lượng mưa trung bình khoảng
1.600-1.800mm/năm và nhiệt độ trung bình từ 22 – 42độC.
58
Về đất đai, Lào là một nước có đất đai tương đối rộng và phong phú, khí hậu
tương đối ẩm, phù hợp với các loại cây công nghiệp. Địa hình ở Lào có những nét đặc
biệt, núi cao tập trung ở miền Bắc và miền Đông, núi thấp dần khi xuống những
đồng bằng dọc sông Mê kông. Mạng lưới sông suối của Lào khá lớn và phân bổ
tương đối đồng đều, mang nhiều đặc điểm của sông suối vùng núi, lắm thác, nhiều
ghềnh, mặt khác lại là điều kiện thuận lợi quan trọng để xây dựng các công trình
thủy điện và thủy lợi.
Lào có tiềm năng rất lớn về việc trồng rừng, trồng cây công nghiệp, trồng rừng
để làm giấy hoặc để chế biến gỗ hoặc những sản phẩm từ gỗ. Tài nguyên khoáng sản
tại Lào đặc biệt phong phú như các mỏ sắt, than đá, bô xít, đồng, kali, vàng, chì, kẽm
thạch anh, thạch cao, đá vôi có quy mô công nghiệp, có một số mỏ quan trọng với quy
mô lớn, có thể cho phép phát triển công nghiệp cơ bản như công nghiệp thép, đồng,
nhôm, xi măng.
Về dân số, CHDCND Lào có khoảng6,7 triệu người, tính trung bình là 28
người/km2 (năm 2015), phần lớn theo đạo Phật (chiếm 85% dân số), có ba khối dân
tộc chính là Lào Lum (chiếm 67%), Lào Thơng (chiếm 23%), Lào Sủng (chiếm 10
%)và có 49 Bộ tộc. Ở Lào 85% dân số sinh sống ở vùng nông thôn, và 80% lao động
làm việc ở ngành nông – lâm nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp là 1,72%, CHDCND Lào ra đời
sau bao thế kỷ xây dựng và bảo vệ đất nước. Tháng 12 năm 1975, chế độ quân chủ
thực sự được xóa bỏ và thành lập một nhà nước dân chủ nhân dân hoạt động theo cơ
chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,Nhân dân làm chủ.
2.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội của nước CHDCND Lào
Nước CHDCND Lào được thành lập từ 02/12/1975, là một quốc gia nằm ở khu
vực Đông Nam Á, ở giữa bán đảo Đông Dương, là một nước có điểm xuất phát thấp,
cơ sở hạ tầng giao thông còn yếu kém, là nước nghèo, thị trường nhỏ bé, sức mua thấp.
Các điều kiện đó đã ảnh hưởng rất lớn đến quy mô và sự hoạt động cũng như đến hiệu
quả của ngành kinh tế nói chung và ngành xuất nhập khẩu nói riêng.
Từ khi đất nước hoàn toàn giải phóng, đã mở ra một kỷ nguyên mới, huy
hoàng, phồn vinh và tiến bộ xã hội cho nhân dân các bộ tộc Lào. Nhà nước xác định
hai nhiệm vụ chiến lược là: bảo vệ vững chắc chính quyền dân chủ, hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế- xã hội của chế độ mới, từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Qua nhiều năm xây dựng
và phát triển, tuy đã có khá nhiều thay đổi nhưng nền kinh tế Lào vẫn ở trình độ thấp,
59
mang nặng tính tự nhiên và nửa tự nhiên. Đại hội lần thứ IV của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào tháng 11 năm 1986 đã vạch ra đường lối “đổi mới kinh tế” nhằm chuyển
nền kinh tế còn mang nặng tính tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hóa, nền kinh tế thị
trường, xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp. Trong thời kỳ đổi
mới, nền kinh tế có nhiều thuận lợi và triển vọng, nhưng CHDCND Lào đã gặp không
ít khó khăn và có nhiều thách thức đặt ra trước mắt. Từ Đại hội IV (1986) Đảng
NDCM Lào đã đề ra đường lối đổi mới, cụ thể hóa và bắt tay thực hiện Đại hội V
(1991) tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi mới với chủ trương tiếp tục xây dựng và phát
triển chế độ Dân chủ Nhân dân, từng bước tiến tới mục tiêu XHCN. Đại hội VI (1996)
tổng kết 5 bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn 10 năm lãnh đạo thực hiện đổi mới
và đánh giá đó là thành quả lịch sử quan trọng. Đại hội VII (2001) đã triển khai đường
lối đổi mới thành chiến lược phát triển đất nước đến năm 2020; đề ra chỉ tiêu phấn đấu
khắc phục tình trạng đói nghèo, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng chậm phát triển.
Đại hội VIII (3/2006) tiếp tục khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược là bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc và đường lối đổi mới để phát triển đất nước vững chắc hơn, đưa Lào ra
khỏi tình trạng kém phát triển, tạo tiền đề vững chắc cho công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, hướng tới CNXH".
Lào có nguồn tài nguyên phong phú về lâm, nông nghiệp, khoáng sản và thuỷ
điện. Nhìn chung, kinh tế Lào tuy phát triển song chưa có cơ sở bảo đảm ổn định; chủ
yếu là do sức sản xuất thấp; nguồn vốn dựa vào bên ngoài còn lớn, trong khi nội lực
còn yếu (trong tổng số vốn đầu tư của Nhà nước, Lào chiếm 20%, nước ngoài chiếm
80% ).
Nhìn chung, Lào đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài, ổn định
kinh tế quốc dân. Nền kinh tế Lào không chỉ phát triển về lượng mà còn về chất và đa
dạng hóa. Việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường đã làm thay đổi cách tư duy, nhìn nhận của các nhà hoạch định chính sách cũng
như của mỗi người dân về ý nghĩa và vai trò của các khu vực thương mại. Song song
với việc duy trì mức tăng trưởng trong thời gian dài là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng tỷ trọng xuất khẩu, giải quyết thị trường đầu ra của hàng hóa.
- Nền kinh tế trong những năm gần đây có nhiều tiến bộ. Các mục tiêu kinh tế-
xã hội do các kỳ Đại hội và các chương trình kế hoạch 5 năm được triển khai thực hiện
có hiệu quả. Phần lớn các mục tiêu kinh tế đều đạt. Về lương thực, năm 1986 đạt chỉ
tiêu 1,6 triệu tấn. Các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2005-2010 về sản xuất lương thực,
60
xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nông thôn, phát triển hàng hóa, dịch vụ, đào tạo
nguồn nhân lực đều đạt kế hoạch.
- Nhịp độ tăng trưởng trung bình 6,45% trong những năm 2005-2013 năm 2011
tăng 7,2%. Tăng trưởng GDP năm 2013 đạt 6,5%, năm 2014 ước đạt 6,7%. Thu nhập
bình quân đầu người tăng dần, năm 2000 đạt 298 USD/người/năm; năm 2005 đạt 491
USD/người/năm, năm 2006 đạt 546 USD/người/năm, năm 2007 đạt 678
USD/người/năm, năm 2013 đạt 837 USD/người/năm và năm 2014 đạt tới 965
USD/người/năm.
- Kinh tế đối ngoại: đến năm 2006, Lào có quan hệ thương mại với 60 nước, ký
hiệp định thương mại với 19 nước, 39 nước cho Lào hưởng quy chế GSP. Tổng kim
ngạch thương mại giai đoạn 1991-2000 đạt 1 tỷ USD, giai đoạn 2001-2005 đạt khoảng
1 tỷ USD, năm 2006 tăng lên đạt trên 1,5 tỷ USD. Hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là
khoáng sản và hàng nguyên vật liệu. Đến năm 2015 nước CHDCND Lào đã hợp tác
quan hệ với 138 nước và quan hệ về Đảng là 130 Đảng trên thế giới.
- Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ VIII (3/2006) đề ra mục tiêu đến năm 2020:
Xây dựng vững chắc hệ thống chính trị dân chủ nhân dân, trong đó Đảng là hạt nhân
lãnh đạo, giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự an toàn xã hội; đưa đất nước thoát
khỏi tình trạng kém phát triển; kinh tế phát triển dựa trên sự phát triển nông nghiệp
vững chắc và lấy phát triển công nghiệp làm cơ sở, tạo tiền đề cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, tạo chuyển biến cơ bản về chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
tích cực; phát triển nhịp nhàng các thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế
Nhà nước và kinh tế tập thể được củng cố và phát triển vững mạnh. GDP tăng gấp 3
lần năm 2000; chủ động mở rộng hợp tác quốc tế.
2.2Thực trạng xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào
2.2.1Tình hình xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào
Những năm gần đây nước CHDCND Lào đã có nhiều cố gắng trong việc đẩy
mạnh xuất khẩu hàng hóa. Bảng 2.1 dưới đây là Tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu và
tốc độ tăng trưởng của Lào thời kỳ 2001 – 2015. Còn bảng 2.2 là tình hình xuất khẩu
một số mặt hàng chủ lực của CHDCND Lào giai đoạn 2001 – 2015. Qua bảng này,
chúng ta có thể thấy rằng, tuy kim ngạch xuất khẩu của mỗi nhóm hàng trên các thị
trường chưa lớn, nhưng đây là một sự đổi mới, tiến bộ đáng kể so với thời kỳ bao cấp.
Trong đó các mặt hàng xuất khẩu đã chiếm tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu
cả nước góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế phát triển.
61
Bảng 2.1: Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu và tốc độ tăng giai đoạn 2001-2015 của nước CHDCND Lào
Năm
Chỉ tiêu
2001 2002
2003
2004 2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
324,9 322,6
352,5
374,6 455,6
878,1
921,5 1.370,5 1.124,4 1.281,8 1.636,017
1.696,862
3.645,857
3.433,709
3.426,070
Kim ngạch xuất khẩu
0,29
-0,7
9,25
6,29 21,62
92,70
5,43
48,05
-17,95
13.99
14,00
4
115,54
-6
-2
Tốc độ tăng (%) so với năm
315,9 331,8
292,8
548,2 719,6 1.338,9 844,4 1.729,6 1.853,9 1.946,5
2.342,5
2.143,7
3.649,759
4.680,862
4.407,722
Kim ngạch nhập khẩu
5,26
5,26
-11,74 87,19 31,27
86,06
-36,93 104,84
7,18
5,00
4
-8,49
67,09
27,12
-5,8
Tốc độ tăng (%) so với năm
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Báo cáo xuất nhập khẩu năm 2001-2015 của Bộ Công thương Lào
62
Trong những năm gần đây, mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn do chịu ảnh
hưởng của cuộc suy thoái toàn cầu bắt đầu từ năm 2008 nhưng tổng giá trị xuất nhập
khẩu của CHDCND Lào vẫn giữ được tăng trưởng khá.Do Tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu hàng hóa tương đối cao nên đã đưa quy mô xuất khẩu hàng hóa tăng gấp nhiều
lần trong thời gian qua. So với một nền kinh tế có quy mô còn nhỏ như Lào, thì đây là
mức tăng trưởng tương đối cao. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đã tăng đáng kể, năm
2001 kim ngạch xuất khẩu của Lào đạt con số xấp xỉ 325 Triệu USD. Những năm tiếp
theo, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng đến năm 2010 đã tăng lên gần gấp 4 lần,
đạt mức 1.282 Triệu USD, đặc biệt trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu đạt mức
1.370 Triệu USD. Vượt qua những khó khăn của nền kinh tế và cuộc suy thoái chung
toàn cầu, sau khi gia nhập WTO ngày 2/2/2013, kim ngạch xuất khẩu của Lào đã tăng
ấn tượng, năm 2013 đạt mức 3.645 Triệu USD, mức tăng trưởng là 115%, đây là mức
tăng trưởng kỷ lục của Lào trong giai đoạn 2001 đến năm 2014. Khác với một số quốc
gia trong khu vực như Việt Nam hay Trung Quốc không có sự thay đổi rõ rệt sau khi
gia nhập WTO, việc Lào gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã có tác động
mạnh đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Lào, bằng chứng là kim ngạch xuất khẩu
đã tăng mức kỷ lục so với trước khi gia nhập WTO.
Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2004 có thể thấy rằng tăng trưởng thấp,
thậm chí có năm mức tăng trưởng âm, kim ngạch xuất khẩu của giai đoạn này cao nhất
cũng chỉ đạt 375 triệu USD.Bốn năm tiếp theo từ 2005-2008 đã đạt mức tăng trưởng
cao, với mức tăng trưởng trong giai đoạn này là 40%/năm, mức tăng cao nhất là năm
2006 với mức tăng trưởng đạt 96%. Trong 5 năm từ 2001 đến 2005, đây là giai đoạn
thị trường thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, kinh tế của các nước có dấu hiệu tăng
trưởng chậm lại, ảnh hưởng tới sức tiêu thụ hàng hóa. Năm 2003 tình hình kinh tế thế
giới có chiều hướng suy giảm. Tuy nhiên trong năm 2004 2005 nền kinh tế thế giới bắt
đầu hồi phục nhưng vẫn còn những bất ổn. Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt
gần 1.8 tỷ USD trong giai đoạn này, trong hai năm đầu, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
trung bình đạt mức thấp, thậm chí năm 2002 còn tăng trưởng âm 0.7% trong hai năm
tiếp theo đã có sự bứt phá mạnh mẽ với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu tăng dần,
mức tăng trung bình trong giai đoạn này là 8%/năm, tính chung trong cả giai đoạn tốc
độ tăng trưởng bình quân đạt 5,5%/năm. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người
của năm 2005 đạt 75USD, tăng 16,5% so với năm 2000, tuy nhiên so sánh với các
nước trong khu vực thì còn ở mức thấp.
63
Giai đoạn 2006-2009, là giai đoạn đầy biến động và khó khăn đối với nền kinh tế thế giới. khủng hoảng tài chính đã nhanh chóng tác động vào các ngành sản xuất, xuất khẩu và dịch vụ. Vào cuối năm 2008, giá của một loạt mặt hàng giảm một cách đột ngột. Giá thép, nguyên liệu, lương thực thực phẩm, dịch vụ giảm hơn 50%. Nền kinh tế Lào giai đoạn này gặp khá nhiều khó khăn. Trong giai đoạn này, xuất khẩu hàng hóa của Lào tăng với tốc độ trung bình là 29%/ năm ,do tốc độ xuất khẩu hàng hóa tăng cao từ năm 2009 tăng hơn 200% so với năm 2001 đã đưa quy mô xuất khẩu kim ngạch xuất khẩu năm 2010 tăng cao gấp 4 lần so với năm 2001, trong khoảng thời gian 9 năm. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa theo đầu người cũng tăng đáng kể, nếu năm 2001 đạt 56 USD, năm 2010 đã đạt 201 USD, tăng lên 145 USD. Như vậy nhìn chung trong giai đoạn này, về quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa của Lào còn tăng nhưng vẫn còn chưa ổn định. Khối lượng hàng hóa xuất khẩu tăng cùng với giá thành xuất khẩu tăng là lý do làm tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong giai đoạn này.
Giai đoạn từ năm 2011-2012, hoạt động xuất khẩu của Lào đã có sự thay đổi đáng kể so với năm 2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2011 đạt 14%, và giữ được mức ổn định trong năm tiếp theo 2012%, và đạt mức tăng trưởng 4%. Đây là giai đoạn Lào hoàn tất những thủ tục để gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Về bối cảnh nền kinh tế thế giới, đây là thời gian nền kinh tế thế giới phải đối mặt với nhiều khó khăn và tiềm ẩn nhiểu rủi ro. Tăng trưởng tại một số quốc gia sụt giảm mạnh, tỷ lệ thất nghiệp luôn ở mức cao. Khủng hoảng nợ công ngày càng nghiêm trọng đã tác động đến tất cả các nước trong khu vực EU, lan sang cả khu vực ngân hàng, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. Suy thoái kinh tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu đã thu hẹp và làm giảm bớt mức cầu hàng hóa đáng kẻ. Do những ảnh hưởng trên, giai đoạn này hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Lào gặp những khó khăn do thị trường giảm sút, cầu về hàng hóa xuất khẩu cũng giảm. Tuy nhiên thông qua những con số về về kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn này có thể thấy, nền kinh tế vượt qua khó khăn, đạt mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tương đối ấn tượng, và giữ vững ổn định trong giai đoạn này.
Từ năm 2013 Lào bắt đầu gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, trở thành thành viên thứ 158 của tổ chức thương mại đa phương này, đây là một thời gian đánh giấu một bước ngoặt quan trọng trong hoạt động ngoại thương của Lào, đã tạo cơ hội cho Lào mở rộng quan hệ thương mại và thu hút thêm các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Việc gia nhập WTO giúp Lào mở rộng quan hệ thương mại, tạo ra các động lực tăng trưởng cho hoạt động xuất khẩu. Các cam kết gia nhập WTO giúp cho Lào đa
64
dạng hóa và giảm dần sự phụ thuộc vào xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên, thu hút vốn đầu tư vào các ngành hàng xuất khẩu, có lợi thế so sánh. Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng là xấp xỉ 80%, đạt hơn 3 Tỷ đô la Mỹ. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu năm 2015đạt hơn 3,426Triệu USD, giảm 2% so với năm 2014. 2.2.2 Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Lào đã có xu hướng chuyển dịch theo đà tăng dần lên của các sản phẩm chế biến, và giảm dần việc xuất khẩu các sản phẩm thô, chưa qua chế biến, và nguyên liệu như giai đoạn trước đây. Trong tương lai, với xu hướng xuất khẩu theo hướng xuất các sản phẩm chế biến thay vì nguyên liệu thô, sẽ tạo điều kiện cho việc tăng giá trị mặt hàng xuất khẩu, và tăng nguồn ngoại tệ cho quốc gia. Điều này, tạo cơ sở ổn định, phát triển hoạt động sản xuất, đồng thời tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp, và tiến tới tiếp tục mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu ra các thị trường mới và thị trường tiềm năng.
Bảng 2.2: Tình hình xuất khẩu một số hàng hóa chủ lực của Lào giai đoạn từ 2002 đến 2015
Đơn vị tính: USD Gỗ và sản Hàng nông Năm Khoáng sản Dệt may Điện năng lâm sản phẩm gỗ
2002 3.845.180 1.477.412 92.694.000 6.890.268 61.613.636
2003 46.502.906 87.115.268 97.360.000 22.039.083 69.950.206
2004 67.435.528 99.134.385 86.295.857 30.239.587 71.443.411
2005 128.353.401 107.582.471 94.629.997 32.352.561 72.129.382
2006 492.598.504 126.169.176 101.170.281 43.424.106 96.962.305
2007 545.830.904 132.286.664 72.110.283 70.284.390 72.529.432
2008 774.239.181 255.011.287 97.133.745 63.654.246 59.328.271
2009 523.610.734 141.705.033 274.592.635 90.989.621 46.016.358
2010 549.791.270 147.790.284 288.322.266 95.539.102 48.317.176
2011 1.079.128.073 141.620.023 178.429.517 140.310.815 51.291.949
2012 981.686.032 161.092.098 252.699.870 184.271.139 72.046.964
2013 1.766.934.035 289.876.260 546.558.351 328.550.452 129.584.189
2014 1.325.419.046 310.568.760 586.117.905 239.535.769 159.907.992
2015 1.259.129.435 321.547.041 495.559.486 319.882.731 144.689.305
Nguồn: Bộ Công thương: Thông kê thương mại xuất - nhập khẩu
năm 2002- 2015, Viêng Chăn
65
Cơ cấu mặt hàng trong giai đoạn này tiếp tục chuyển biến theo hướng tăng tỷ
trọng mặt hàng công nghiệp chế biến, và giảm tỷ trọng xuất khẩu thô, nhưng sự
chuyển dịch trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu còn chậm. Nhóm hàng khoáng sản năm
2009 chiếm tỷ trọng xuất khẩu đạt 46,59%, giảm nhẹ so với tỷ trọng xuất khẩu mặt
hàng này của năm 2008. Trong khi đó, nhóm hàng công nghiệp tỷ trọng xuất khẩu chỉ
chiếm 14,91% và cũng giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2008. Trên cơ sở này cho thấy rõ
ràng xu hướng chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu mặc dù chậm nhưng đã có chiều
hướng tích cực
Các mặt hàng chủ yếu xuất khẩu sang các nước láng giềng như Thái Lan và
Việt Nam chủ yếu là ngô, cà phê, gạo, đậu vàng, sợi, trâu bò, cánh kiến, trong đó
chiếm tỷ trọng nhiều nhất là mặt hàng ngô. Bên cạnh đó, khoáng sản là mặt hàng có
giá trị xuất khẩu lớn nhất của Lào, với kim ngạch hơn hai trăm Triệu USD được xuất
cho Thái Lan và hơn một trăm Triệu USD vào Việt Nam. Đứng thứ hai là điện xuất
khẩu sang Thái Lan với kim ngạch năm 2010 lên tới xấp xỉ 288Triệu USD và năm
2014 lên tới 586Triệu USD. Hiện nay Lào tiếp tục xây dựng nhiều nhà máy thủy điện
và có tiềm năng về thủy điện rất lớn, nhất là phía Bắc và phía Nam.
Xuất khẩu đã đạt được mục tiêu đề ra, và đóng góp một phần đáng kể vào việc
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 1986 đến nay. Hoạt động xuất
khẩu chính là yếu tố phát huy nội lực rất quan trọng, tạo thêm vốn đầu tư công nghệ,
tăng thêm việc làm, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa đất nước.
Mặt hàng xuất khẩu đã chiếm tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa đã được thay
đổi theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản
phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định.
Thứ nhất, Xuất khẩu mặt hàng dệt may
Dệt may là một ngành đóng góp rất nhiều giá trị trong tổng giá trị xuất khẩu của
Lào. Không những thế đây còn là lĩnh vực thu hút nhiều lao động, góp phần vào việc
giải quyết công ăn việc làm cho người dân địa phương, làm ổn định tình hình xã hội.
66
Dệt may
350,000,000
300,000,000
250,000,000
200,000,000
150,000,000
100,000,000
50,000,000
0
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Biểu đồ 2.l: Kim ngạch xuất khẩu dệt may qua các năm
Nguồn: Bộ Công thương: Thống kê thương mại xuất - nhập khẩu
năm 2002- 2015, Viêng Chăn
Qua bảng trên có thể thấy tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu của CHDCND
Lào nói chung là tăng đều qua các năm. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu dệt may mới
đạt 1.477.412 USD. Tới năm 2008, con số này đã lên tới 255.011.287 USD. Năm
2009, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 141.705.033 USD, năm 2010 đạt 147.790.284
USD, năm 2013 kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 289.876.260 USD và năm 2014 kim
ngạch xuất khẩu dệt may đã giảm tới 212.173.712 USD và năm 2015 đã giảm nhẹ
199.370.420 USD .
Thứhai, Xuất khẩu mặt hàng cà phê.
Cà phê là mặt hàng mà Lào mới phát triển trong một vài năm trở lại đây. Tuy
nhiên, sản lượng cà phê được sản xuất ra lại chiếm một vị trí quan trọng góp phần
đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Lào. Đa phần lượng cà phê được sản
xuất ra phục vụ cho hoạt động xuất khẩu đến 90% sản lượng cà phê hàng năm. Đây là
một trong những mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Lào. Kim ngạch xuất khẩu cà phê
chiếm giá trị lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Việc trồng cà phê đã tạo
ra nhiều công ăn việc làm cho người dân trên cả nước. Đây là một mặt hàng được ưa
chuộng của Lào trên trường quốc tế.
67
Mặc dù, mặt hàng cà phê mới được phát triển trồng và chế biến tại Lào, nhưng
do chất lượng cà phê tốt, nên loại sản phẩm này đang ngày càng chinh phục được các
thị trường quốc tế khó tính. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu cà phê của Lào đạt 9,713
Triệu USD, năm 2007 đạt 33,237 Triệu USD, năm 2008 đạt 15,656 Triệu USD, năm
2009 kim ngạch xuất đạt 13,821 Triệu USD và đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu cà
phê đã tăng mạnh và đạt 15,756 Triệu USD và đã tăng lên từng năm đến năm 2013
kim ngạch xuất khẩu cà phê đã lên tới 36,364 Triệu USD và năm 2014 kim ngạch xuất
khẩu cà phê đã tăng lên tới50,089Triệu USD và năm 2015 kim ngạch xuất khẩu đã lên
tới 54,766 Triệu USD.
Triệu USD
Cà phê
60,000
50,000
40,000
30,000
20,000
10,000
0
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Biểu đồ 2.2: Kim ngạch xuất khẩu Cà phê của CHDCND Lào
giai đoạn 2006-2015
Nguồn: Bộ công thương CHDCND Lào
Có thể nói chỉ trong thời gian ngắn, ngành cà phê Lào đó có những bước phát
triển mạnh mẽ và đó dần dần thâm nhập được vào nhiều thị trường lớn.Tuy nhiên, thị
trường xuất khẩu cà phê Lào chưa thật ổn định về số lượng hàng xuất khẩu, về giá cả,
cũng như về phía bạn hàng hay đối tác phân phối sản phẩm. Một trong những vấn đề
mà Lào cần phải giải quyết trong giai đoạn hiện nay đối với hoạt động xuất khẩu và
mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê đó chính là nâng cao chất lượng của cà phê xuất
khẩu, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm cafe xuất khẩu của Lào trên thị trường thế
giới. Hướng tới xuất khẩu trực tiếp cà phê tới tay người tiêu dùng, thay vì phải qua quá
nhiều khâu trung gian như giai đoạn hiện nay. Đây chính là một hạn chế, làm giảm
68
kim ngạch và giá trị xuất khẩu mặt hàng này của Lào. Các mặt hàng thực phẩm khi
xuất khẩu đi các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt các thị trường khó tính như: Châu
Âu, Mỹ hay Nhật thì tiêu chuẩn chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm đóng vai trò rất
quan trọng, quyết định phần lớn giá bán của sản phẩm. Một sản phẩm có thương hiệu
tốt trên thị trường quốc tế có thể bán với giá cao hơn nhiều lần so với những sản phẩm
cùng loại chưa có thương hiệu. Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ Lào cần có chính
sách tuyên truyền và khuyến khích các doanh nghiệp chú trọng nâng cao chất lượng
cà phê xuất khẩu để tăng thêm giá trị gia tăng. Đồng thời tích cực kêu gọi các nhà đầu
tư nước ngoài tham gia vào các dự án trồng và chế biến cà phê tại Lào. Kim ngạch
xuất khẩu năm 2013 đạt 36,364 Triệu USD, tăng 18 % so với năm 2012 và năm 2014
kim ngạch xuất khẩu cà phê đã tăng lên tới50,089Triệu USD và năm 2015 là 54,766
Triệu USD.
Thứba,Xuất khẩu mặt hàng lúa gạo
Do xuất phát từ một nước nông nghiệp, sản xuất nông sản chủ yếu, do đó tình
hình xuất khẩu nông sản của Lào trong những năm qua đã có những bước phát triển
nhanh, ổn định, diện tích và sản lượng đều tăng, an ninh lương thực thực phẩm được
đảm bảo... tạo điều kiện cho xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Tuy nhiên, các mặt
hàng nông sản của Lào chưa được phong phú và đa dạng so với tiềm năng của đất
nước. Phần lớn các thị trường xuất khẩu là các nước láng giềng và một số nước khác.
Trong đó một mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng đó là gạo.
Xuất khẩu lúa gạo của Lào trong giai đoạn 2001-2005 có trị giá không đáng kể.
Năm 2007, xuất khẩu lúa gạo của Lào đạt 13.016 tấn về lượng và 3.921.135USD. Năm
2008, xuất khẩu lúa gạo của Lào đạt 15.141 tấn về lượng và 5.314.199 USD. Năm
2009, xuất khẩu lúa gạo của Lào đạt 21.171 tấn về lượng và 6.795.428 USD về giá
trị, tăng 39,83% về lượng và 27,87 % về giá trị so với năm 2008 và năm 2010 đạt
7,74 Triệu USD, năm 2013 xuất khẩu lúa gạo của Lào đạt 26.245 tấn về lượng và
9.850.382 USD về giá trị và năm 2014 kim ngạch xuất khẩu lúa gạo tăng nhẹ đạt
10.218Triệu USD và năm 2015 kim ngạch xuất khẩu lúa gạo của Lào đã lên tới
12.688 Triệu USD.
69
Triệu USD
Lúa gạo
14,000
12,000
10,000
8,000
6,000
4,000
2,000
0
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu Lúa gạo của CHDCND Lào
giai đoạn 2006-2015
Nguồn: Bộ công thương CHDCND Lào
Phạm vi thị trường xuất khẩu gạo của Lào từ năm 2006 đến nay hầu như không thay đổi có khoảng 3-4 thị trường. Trong các thị trường nhập khẩu chính gạo của Lào năm 2009 là Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu gạo và thóc của Lào sang các thị trường có tăng so với những năm trước, nhưng vẫn còn ở mức thấp so với các nước có kim ngạch xuất khẩu lớn trên thế giới như Mỹ, Việt Nam, và Thái Lan. Một nguyên nhân khác liên quan tới hoạt động xuất khẩu của Lào, đó chính là do chất lượng và kênh phân phối của Lào chưa tốt nên các sản phẩm gạo và thóc của Lào chưa thể thâm nhập sâu vào các thị trường có tiềm năng trên thế giới. 2.2.3 Thực trạng thị trường xuất khẩu hàng hóa của CHDCND Lào
Một trong những khâu then chốt của Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu đến
năm 2025 là mở rộng và đa dạng hoá thị trường. Quan điểm chủ đạo là:
- Tích cực, chủ động tranh thủ mở rộng thị trường, nhất là sau khi tham gia WTO. - Đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ với các đối tác. - Mở rộng tối đa việc tiếp cận các thị trường có sức mua lớn, các thị trường
cung ứng công nghệ nguồn.
- Tìm kiếm các thị trường mới ở Mỹ Latinh, Châu Phi. Xuất phát từ các phương châm chung nói trên, có thể nhìn thấy bức tranh thị
trường xuất khẩu hàng hóa của Lào như sau:
Tính đến năm 2005, thị trường xuất khẩu của Lào đã được mở rộng đến 64 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, từ trước năm 2000, thị trường xuất khẩu của
70
Lào còn khá hẹp, chủ yếu là một số nước ở khu vực Châu Á, thì từ năm 2001 đến nay, thị trường này đã được mở rộng và đa dạng hoá cùng với chính sách hướng tới xuất khẩu, mở rộng thiết lập các quan hệ kinh tế đối ngoại với nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới. Trong đó có thể kể tới những thành tựu quan trọng như kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc và các nước ASEAN. Thị trường các nước ASEAN đạt 590,039 triệu USD. Thêm vào đó, thị trường các nước ASEAN vẫn là thị trường xuất khẩu chính của Lào chiếm 67,20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của CHDCND Lào trong năm 2005.
Mặc dù, gặp nhiều khó khăn trong xuất khẩu may mặc, nhưng Lào không những vẫn duy trì được tỷ trọng mà còn mở rộng thị trường xuất khẩu sang các quốc gia thuộc liên minh Châu Âu - EU. Năm 2005, tỷ trọng xuất khẩu may mặc của Lào sang thị trường Châu Âu đạt 124,167 Triệu USD tăng 3,64% so với năm 2004.
Thị trường xuất khẩu hàng hóa của Lào hiện nay tương đối phong phú, đa dạng. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế là sự chuyển đổi về thị trường xuất khẩu hàng hóa Lào từ khu vực thị trường truyền thống sang thị trường các nước Châu Á, đặc biệt là các nước ASEAN chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ở Lào trong thời kỳ đầu của giai đoạn (2005-2010). Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2005 đến nay đã có sự thay đổi theo hướng địch chuyển thị trường, giảm tỷ lệ xuất khẩu các mặt hàng thô sang thị trường các nước ASEAN và tăng tỷ lệ xuất khẩu sang thị trường các nước Châu Âu như Thụy sỹ, Anh, Đức, Pháp, Hà Lan và các thị trường khác như Châu Đại Dương, Châu Á, Châu Mỹ, Châu Phi.
Sau khi gia nhập ASEAN, thị trường xuất khẩu của Lào đã đa dạng hơn và hàng hoá của Lào đã thâm nhập tốt hơn, đứng vững hơn tại các thị trường thuộc các nước thành viên ASEAN và một số nước khác. Những thị trường truyền thống tiếp tục tăng mạnh. Điều này có thể lý giải bới nguyên nhân do Lào đã trở thành thành viên của ASEAN, một số rào cản về hạn ngạch bị dỡ bỏ, rào cản về thuế suất nhập khẩu vào các nước được cắt giảm và một số các nguyên nhân khác. Bên cạnh đó, do nhận thức tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đem lại cho doanh nghiệp, cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp xuất khẩu Lào đã tận dụng tốt cơ hội hội nhập kinh tế quốc tế khu vực này để tăng cường hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang các nước khác đặc biệt là các quốc gia trong khu vực ASEAN.
Mặc dù, trong giai đoạn từ 2006 tới nay, bối cảnh kinh tế ảm đạm bao trùm toàn bộ nền kinh tế thế giới, nhưng nhìn chung các thị trường xuất khẩu truyền thống của Lào vẫn được duy trì, mặc dù có sự giảm sút nhẹ trong giá trị xuất khẩu tới các thị trường này.
71
Bảng 2.3: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của nước CHDCND Lào giai đoạn 2005 - 2015
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
KN
KN
KN
KN
KN
KN
KN
KN
KN
KN
KN
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Khu vực thị trường
Châu Á
6,974
1, 53
63,486
7,23 183,413 19,82
188,311
14,40
109,166
9,71
124,449
9,71
147,59
9,71
108,534
9,71
195,261
9,71
668,463
9,34 1,007,885
19,82
ASEAN
230,204
50, 52
590,040
67,20 485,452 52,45
592,409
45,31
678,190
60,32
773,136
60,32 960,365
60,32 1,116,741 60,32 2,010,033 60,32 2,190,864 59,65 2,123,991
52,45
Châu Mỹ
6,254
1, 37
6, 935
0,79
16,334 1,76
39,486
3,02
10, 240
0, 91
11,674
0, 91
41,672
0, 91
5,585
0, 91
9,535
0,91
36,316
0,29
45,093
1,76
Châu Âu
129,046
28, 32
124,690
14,20 154,344 16,68
353,718
27,06
233,368
20,75
266,040
20,75
235,89
20,75
130,436
20,75
234,684
20,75
257,848 11,25
238,167
16,68
Châu Đại dương
83,144
18, 25
92,704
10,56 86,024 9,29
133,535
10,21
93,438
8,31
106,519
8,31
231,91
8,31
334,756
8,31
602,460
8,31
277,631 19,31
4,336
9,29
Châu Phi
2
0
153
0,02
0
0
0
0
0
0,00
0
0,00
0,59
0,00
0,81
0,00
0,45
0,00
3,312
13,78
0
0
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Bộ Công thương Lào
72
Tại thị trường Châu Á (gồm cả các nước ASEAN), tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa
của Lào tới khu vực này vẫn chiếm tỷ trọng lớn (74,43% năm 2006; 72,27% năm
2007; 59,71% năm 2008; 70,02% năm 2010 và năm 2013 là 73,45%). Tuy nhiên do
những tác động xấu của tình hình kinh tế thế giới, cuộc suy thoái kéo dài, nên thị
trường xuất khẩu của Lào tại khu vực Châu Á đang có xu hướng chống lại và giảm
dần, trong đó có thị trường ASEAN, Trung Quốc, Malaysia và Nhật Bản.
Tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu tới thị trường Châu Âu năm 2006 chiếm tỷ trọng
14,20% năm 2007 chiếm 16,67%, năm 2008 chiếm 27,05%, và năm 2009 chiếm
20,75% và năm 2010 chiếm ở mức 20,75%. Đến năm 2009 tỷ trọng xuất khẩu sang thị
trường Châu Âu cũng suy giảm 34,02% so với năm 2008, các mặt hàng như dệt may,
cà phê gặp khó khăn khi xuất khẩu sang thị trường EU do thị trường này cũng đang bất
ổn về tài chính. Tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu tới thị trường Châu Âu tăng 14% trong
năm 2014 so với cùng kỳ năm 2013.
Thị trường Châu Mỹ và Châu Đại dương là hai thị trường mà từ trước đến nay
Lào chưa có khả năng khai thác cũng đã bắt đầu có những tín hiệu tích cực. Các doanh
nghiệp của Lào đã quan tâm tới việc xuất khẩu hàng hoá vào hai thị trường mới này
với hy vọng đây là những thị trường hấp dẫn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các nhà
xuất khẩu hàng hoá.
ASEAN là một thị trường khá lớn với trên 600 triệu dân. Tuy nhiên, do cơ cấu
hàng hóa của Lào và ASEAN có nhiều điểm giống nhau, Lào lại ở trình độ phát triển
thấp hơn nên thời gian qua hàng hóa của Lào chưa thâm nhập được nhiều vào thị
trường này. Kim ngạch xuất khẩu vào ASEAN có xu hướng tăng chậm, trong khi kim
ngạch nhập khẩu từ ASEAN tăng tương đối nhanh nên nhập siêu từ khu vực này đang
có xu hướng tăng mạnh. Các mặt hàng hóa xuất khẩu chủ yếu của Lào vào ASEAN
hiện nay vẫn là khoáng sản, năng lượng điện, hàng nông lâm, gỗ và sản phẩm gỗ là
chủ yếu.
Thị trường xuất khẩu liên tục được mở rộng và đa dạng hoá: Tăng trưởng xuất
khẩu và hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu đã trở thành động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế của Lào, góp phần tạo việc làm cho hàng trăm ngàn lao động và
nâng cao thu nhập cho người nông dân và các lao động khác nhờ hàng hoá nông
nghiệp, công nghiệp, thủ công, dệt may và nhiều sản phẩm khá đã được xuất khẩu
ngày một tăng.
Với những thành tựu đạt được cho thấy chính sách mở rộng thị trường xuất
73
khẩu mà Lào đang thực hiện là rất phù hợp và đúng đắn. Chất lượng và hiệu quả kinh
tế của hoạt động xuất khẩu ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, vấn đề cơ bản mà
Chính phủ Lào cần tiếp tục quan tâm là phải thực hiện phát triển xuất khẩu ổn định và
bền vững.
Phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Xuất
khẩu tăng trưởng nhưng chưa thực sự bền vững và còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố
bên ngoài. Điều đó thể hiện rõ nét nhất trong việc ứng phó với các rào cản thương mại
mới của nước ngoài (tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường và các tiêu
chuẩn khác).
Mặc dù Lào đã phát triển được thị trường xuất khẩu, nhưng quy mô xuất khẩu
của Lào so với các nước trong khu vực thì vẫn ở còn nhỏ. Về tổng kim ngạch, năm
2014 xuất khẩu hàng hoá của Lào đạt 3.433.709.669 USD và năm 2015 tổng kim
ngạch xuất khẩu đã giảm nhẹ tới 3.426.070.504 USD. Sự chuyển dịch cơ cấu hàng hoá
xuất khẩu giai đoạn 2001 -2015 chưa đáp ứng được yêu cầu của xu thế công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu còn phụ thuộc nhiều vào một số mạt hàng chủ
lực như: khoáng sản chiếm đến 43,12%, gỗ chiếm đến 17,57% tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hoá của Lào năm 2001-2015.
Ngoài ra, cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Lào mới chỉ phát triển theo chiều rộng
mà chưa có chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế sẵn có mà chưa
khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp. Bên
cạnh đó khả năng đa dạng hoá thị trường, thâm nhập thị trường mới và duy trì, mở
rộng thị phần trên các thị trường hiện có cũng còn nhiều hạn chế. Đây chính là những
thách thức đối với chiến lược phát triển xuất khẩu hàng hoá của Lào.
Những thành tựu đạt được về xuất khẩu trong những năm qua đã thể hiện:
- Đã đạt được mục tiêu nêu ra và đã góp phần đáng kể vào việc thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ 1996-2005, thời kỳ 2006-2010 và thời kỳ 2011-
2015. Hoạt động xuất nhập khẩu chính là yếu tố phát huy nội lực rất quan trọng, tạo
thêm vốn đầu tư, đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.
- Đã thực hiện nhiệm vụ “cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt
hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn
và thị trường tương đối ổn định”.
- Về cơ bản đã thực hiện chủ trương “nhập khẩu phải phục vụ có hiệu quả cho
74
phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh
tranh của hàng hóa, đáp ứng nhu cầu cần thiết của đời sống”.
- Đổi mới một cách cơ bản cơ chế xuất nhập khẩu theo hướng xóa bỏ chế độ
“độc quyền ngoại thương”, ngày càng mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho
các ngành sản xuất, các địa phương, các thành phần kinh tế, trong đó có cả doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, giảm thiểu và xóa bỏ hạn ngạch, giấy phép từng
chuyến, từ đó góp phần hạn chế cơ chế “xin cho”, cơ chế chính sách để khuyến khích
xuất khẩu nhận được sự quan tâm ngày càng lớn, các công cụ tiền tệ vĩ mô như lãi
suất, tỷ giá được sử dụng nhuần nhuyễn hơn để khuyến khích xuất khẩu và định hướng
nhập khẩu, hành lang pháp lý từng bước được hoàn thiện, đặc biệt là lần đầu tiên thông
qua luật thương mại, chế độ tối huệ quốc, mã số hàng hóa, giảm dần hàng rào thuế
quan và phi thuế quan, tới chế độ “đãi ngộ quốc gia”.
- Thể hiện ở các chỉ tiêu: doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách nhà nước, tăng
thêm vốn kinh doanh, tài sản cố định. Việc làm của người lao động được giữ vững, thu
nhập và đời sống không ngừng được tăng lên.
- Thế và lực của ngành xuất khẩu ngày càng phát triển, vị thế uy tín của ngành
ngày càng tăng lên, tạo được lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau trong quan hệ làm ăn
với các đối tác trong nước và nước ngoài cũng như với các cấp, các ngành, các tỉnh
và các Bộ.
- Đã tạo lập được thị trường, những bạn hàng truyền thống tin cậy, hiểu biết lẫn
nhau ở nước ngoài để xuất khẩu sản phẩm. Đã tạo lập được nguồn hàng để cung cấp
cho xuất khẩu.
- Có bộ máy quản lý năng động hơn trước kể cả năng lực và trình độ quản lý
kinh tế, kinh doanh và trình độ nhân lực. Đội ngũ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu
có phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình, nhanh nhậy trong nắm bắt các thông tin về thị
trường, giá cả mặt hàng.
- Tình hình thị trường xuất khẩu được mở rộng, thực hiện nhiệm vụ cải tiến cơ
cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô,
tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định.
- Đã vượt qua được khủng hoảng thị trường vào đầu những năm 90 do Liên
Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bị xóa bỏ, về cơ bản thực hiện được chủ
trương đa dạng hóa thị trường và đa dạng hóa quan hệ kinh tế, tích cực thâm nhập, tạo
chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới.
75
Nhìn chung, trong thời kỳ 2001-2014, lĩnh vực xuất khẩu của nước CHDCND
Lào đã đạt được những thành tựu to lớn, về cơ bản đã thực hiện được những chủ
trương nêu ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, góp phần đáng kể
vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
2.3Phân tích thực trạng chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
của nước CHDCND Lào
2.3.1Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCNDLào
a. Mục tiêu của chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của Lào nhằm mục tiêu hỗ trợ
về vốn cho các đối tượng là nhà xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu, nhà nhập khẩu có
hợp đồng nhập khẩu hàng hoá sản xuất tại Lào thuộc Danh mục mặt hàng vay vốn tín
dụng xuất khẩu do Thủ tướng Chính phủ quy định từng thời kỳhoặc nhà nhập khẩu
nước ngoài khi vay vốn tín dụng xuất khẩu phải được Chính phủ hoặc Ngân hàng
trung ương của nước bên nhà nhập khẩu bảo lãnh vốn theo quy định. Chính sách tín
dụng nhằm mục tiêu hỗ trợ về nguồn vốn cho doanh nghiệp kinh doanh và xuất khẩu
hàng hóa của Lào, đồng thời hỗ trợ cả bên nhập khẩu nguồn vốn để giúp sản phẩm
xuất khẩu của Lào có sức cạnh tranh lớn hơn trên thị trường.
b.Nội dung của chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Tại Lào, với mục tiêu tạo ra một hệ thống chính sách đồng bộ về hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa, Thủ Tướng Chính phủ Lào đã có Nghị định số 34/ນຍ, ngày
14/2/2006, ban hành quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Đây là văn bản pháp lý tương
đối hoàn chỉnh về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, được ban hành trên cơ sở kế thừa nghị
định số 43/ນຍ,năm 1999 và Quyết định số 02/ນຍ, năm 2001 đồng thời bổ sung thêm
những hình thức ưu đãi mới là cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu và bảo lãnh dự thầu,
bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Đối tượng áp dụng nghị định34/ນຍ, ngày
14/2/2006 là các doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ gia
đình và các cá nhân có đăng ký kinh doanh. Như vậy, trừ các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài không được hưởng ưu đãi về tín dụng của Nhà nước, các thành phần
kinh tế còn lại đều được hưởng tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, từ các doanh nghiệp đến các
cá nhân, hộ gia đình.
Theo quy định tại nghị định của Thủ tướng chính phủ Lào số 123/ນຍ,ngày
76
3/3/2010 về quỹ hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối tượng của chính
sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa đó là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có dự
án thuộc diện vay vốn đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, hỗ trợ sau đầu tư; các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế trong nước có hợp đồng xuất khẩu hoặc các tổ chức nước ngoài
nhập khẩu hàng hoá thuộc diện có vay vốn, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu; Ngân hàng
Phát triển Lào và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong quá trình thực hiện tín
dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
Mức cho vay tối đa bằng 85% giá trị hợp đồng xuất khẩu đã ký hoặc giá trị L/C
(thư tín dụng) đối với cho vay trước khi giao hàng hoặc trị giá hối phiếu hợp lệ đối với
cho vay sau khi giao hàng. Thời hạn cho vay xác định theo khả năng thu hồi vốn phù
hợp với đặc điểm của từng hợp đồng xuất khẩu và khả năng trả nợ của nhà xuất khẩu
hoặc nhà nhập khẩu nhưng không quá 12 tháng. Trường hợp cần thiết, thời hạn cho
vay trên 12 tháng thì nhà xuất khẩu mới đủ điều kiện thực hiện hợp đồng xuất khẩu,
Ngân hàng Phát triển Lào đề nghị Bộ Tài chính xem xét, quyết định. Việc cho vay
bằng ngoại tệ được thực hiện bằng đồng ngoại tệ tự do chuyển đổi đối với hợp đồng
xuất khẩu có nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu mà nhà xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ
để trả nợ. Lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu bằng KipLào và bằng ngoại tệ tự do chuyển
đổi, do Bộ Tài chính quyết định theo nguyên tắc phù hợp với lãi suất thị trường. Nguồn
vốn cho vay chủ yếu là vốn từ ngân sách nhà nước, ngân sách nhà nước cấp bù chênh lệch
lãi suất và hỗ trợ sau đầu tư. Ngoài ra có một phần nguồn vốn huy động từ phát hành trái
phiếu chính phủ, các nguồn vốn khác theo quy định của chính phủ.
Như vậy, có thể thấy các quy định và chính sách liên quan đến tín dụng xuất
khẩu đã được ban hành, bổ sung và sửa đổi qua từng giai đoạn, phù hợp với tình hình
thực tiễn cũng như tuân thủ cam kết WTO của Lào và ngày càng hoàn thiện hơn.
Hoạt động hỗ trợ tín dụng xuất khẩu đã giúp các doanh nghiệp nâng cao khả
năng cạnh tranh hàng hoá của mình trên thị trường thế giới, giúp cho các nhà sản xuất
bán được sản phẩm và mở rộng thị trường. Như vậy, việc cho vay thông qua tín dụng
xuất khẩu đã có một sự khởi đầu tích cực. Để tạo thuận lợi hơn nữa trong việc cấp tín
dụng xuất khẩu, đồng thời phù hợp với nguyên tắc của WTO, Ngân hàng phát triển
Lào đã được thành lập trên cơ sở quỹ hỗ trợ xuất khẩu với chức năng tiếp tục thực hiện
chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu theo các quy định của Chính phủ.
Nhà nước CHDCND Lào chưa có vốn để cho nước ngoài vay với khối lượng
lớn. Tuy nhiên, khi có điều kiện, Chính phủ không nên bỏ qua hình thức cấp tín dụng
77
gắn với việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của mình. Một vấn đề cần lưu ý ở đây là:
Nếu tiếp nhận vay của nước ngoài mà phải mua hàng của họ thì phải cân nhắc đến việc
bảo hộ sản xuất nội địa, không vì mua hàng bằng vốn đi vay dẫn tới phá hoại sản xuất
trong nước và những ràng buộc chính trị bất lợi.
Do phần lớn các doanh nghiệp của Lào là doanh nghiệp vừa và nhỏ, số vốn tự có
của họ là quá nhỏ nên không thể tự đầu tư đổi mới công nghệ, không đáp ứng được yêu cầu
về sản xuất hàng hóa xuất khẩu, Luật khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ số 11/-ສພຊ,
ngày 21 tháng 12 năm 2011, và quyết định của ngân hàng nhà nước Lào số 928/ທຫລ,
ngày 20/9/2012 về hoạt động tín dụng đã có những hoạt động hỗ trợ vốn cố định và vốn
lưu động cho các doanh nghiệp thực hiện khâu sản xuất , chế biến, thu mua vận chuyển và
thanh toán hàng xuất khẩu. Các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay vốn đối với mọi khách
hàng thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên chính sách hỗ trợ này chưa được thực hiện
rộng rãi mà chủ yếu tập trung vào các mặt hàng nông sản về dệt may, chưa tập trung vào
các ngành nghề và mặt hàng có giá trị cao khác. Để việc thực hiện có hiệu quả hơn trong
việc hỗ trợ, khuyến khích đầy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa, mở rộng thị trường xuất
khẩu, tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu, quỹ hỗ trợ xuất khẩu đã được thành lập theo
quyết định số 31/ນຍ, ngày 1/2/1996 (thay thế cho quỹ khen thưởng trước đây), và được
sửa đổi bổ sung ở nghị định của Thủ tướng Chính phủ về Quỹ hỗ trợ xuất khẩu số
34/ນຍ, ngày 14/2/2006, quỹ hỗ trợ này được sử dụng vào mục đích: hỗ trợ toàn bộ hoặc
một phần lãi suất vay vốn ngân hàng để mua và dự trữ hàng nông sản xuất khẩu. Hỗ trợ
tài chính có thời hạn đối với một số mặt hàng khi gặp rủi ro trong xuất khẩu. Hỗ trợ tìm
kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu.
Theo nghị định số 151/ນຍ, ngày 20/12/2006 của Chính Phủ Lào về tín dụng
đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày
đăng công báo và theo thông tư số 69/ນຍ, ngày 25/06/2007, Hướng dẫn một số điều
của Nghị định số 151/ນຍ, ngày 20/12/2006 của Chính phủ Lào về tín dụng đầu tư và
tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. Trong đó quy định các đối tượng áp dụng Đối tượng
cho vay là nhà xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu, nhà nhập khẩu có hợp đồng nhập
khẩu hàng hoá sản xuất tại Lào thuộc Danh mục mặt hàng vay vốn tín dụng xuất khẩu
do Thủ tướng Chính phủ quy định từng thời kỳ.
Để thuận lợi hơn cho việc cấp tín dụng xuất khẩu, đồng thời phù hợp với
78
nguyên tắc của WTO, ngân hàng phát triển Lào đã được thành lập (trên cơ sở quỹ hỗ
trợ xuất khẩu). Với chức năng của mình, ngân hàng phát triển Lào đã tiếp tục thực hiện
chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu theo quy định của chính phủ.
Theo nghị định Số 75/ນຍ/2011 của Thủ Tướng Chính phủ Lào về tín dụng đầu
tư và tín dụng xuất khẩu của nhà nước ban hành ngày 30/08/2011 và thông tư số
35/ກງ của Bộ Tài chính ban hành ngày 02/03/2012 về Hướng dẫn một số điều của
Nghị định số 75/ນຍ, ngày 30/08/2011 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng
xuất khẩu của Nhà nước sửa đổi một số quy định như Mức cho vay tối đa bằng 85%
giá trị hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu đã ký hoặc giá trị L/C đối với cho vay trước khi
giao hàng hoặc trị giá hối phiếu hợp lệ đối với cho vay sau khi giao hàng, đồng thời
phải đảm bảo mức vốn cho vay tối đa đối với mỗi nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu nước
ngoài không vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của Ngân hàng Phát triển Lào. Thời
hạn cho vay xác định theo khả năng thu hồi vốn phù hợp với đặc điểm của từng hợp
đồng xuất khẩu và khả năng trả nợ của nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu nước ngoài
nhưng thời hạn cho vay của từng khoản vay không quá 12 tháng.
Theo quyết định số 195/ນຍ, ngày 27/9/1999 của Thủ tướng Chính phủ Lào về
việc lập và sử dụng Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu để hỗ trợ,
khuyến khích, đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng
sức cạnh tranh hàng xuất khẩu Lào, quỹ hỗ trợ toàn bộ, hoặc một phần lãi suất vay vốn
ngân hàng. Đây là quỹ hỗ trợ xuất khẩu được sử dụng nhằm mục đích một phần hỗ trợ
về lãi suất vay vốn để thu mua hàng nông sản hàng nông sản xuất khẩu khi giá cả thị
trường thế giới giảm không có lợi cho sản xuất trong nước; dự trữ hàng nông sản để
chờ xuất khẩu theo chỉ đạo, điều hành của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ.
Sau khi Lào gia nhập WTO năm 2013, nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn của WTO,
thay đổi các chính sách, cơ chế hiện hành nhằm thúc đẩy phát triển xuất khẩu phù hợp
các cam kết trong WTO, Thủ tướng Chính phủ Lào đã ban hành quyết định số 124/ߨ,
ngày 8/9/2009 về việc việc bãi bỏ Quyết định số 195/ນຍ, ngày 27 tháng 9 năm 1999
của Thủ tướng Chính phủ Lào về việc lập, sử dụng và quản lý Quỹ hỗ trợ xuất khẩu.
Để phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, thủ tướng chính phủ giao bộ tài chính và ngân
hàng phát triển Lào tiếp tục thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ tín dụng đối với các doanh
79
nghiệp xuất khẩu thông qua ngân hàng phát triển Lào. Với chức năng của mình, ngân
hàng Phát triển Lào sẽ tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ tín dụng xuất khẩu theo quy
định của chính phủ.
2.3.2 Chính sách thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóacủa nước CHDCND Lào
a. Mục tiêu của chinh sách thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Chính sách thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa, nhằm mục đích quy định mức thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu phù hợp và công bằng với luật pháp trong nước và quốc tế
và hỗ trợ được hoạt động đầu tư vào sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu.
b. Nội dung chính sách thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Trong nhiều năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, chính sách thuế luôn
là một trong những vấn đề trung tâm. Một trong những đạo luật đầu tiên được ban
hành và áp dụng khi chuyển sang cơ chế thị trường trong điều kiện mở cửa thương mại
là luật thuế (năm 1994 và đã sửa lại năm 2005 và đến nay là Luật thuế số 04/ສພຊ,
ngày 20/11/2011) Thông báo của Bộ Tài chínhLào số 1119/ກງ, ngày 8/6/2009 về việc
thực hiện ưu đãi thuế xuất - nhập khẩu theo quyết định đã ký vào ngày 17 tháng 1 năm
2012. Hệ thống thuế có sự cải cách cơ bản chuyển từ ba hệ thống thu sang một hệ
thống thuế thống nhất cho tất cả những thành phần kinh tế, làm cho thuế trở thành một
công cụ chính trong việc thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp, làm công cụ khuyến khích
các ngành nghề phát triển.
Tác động của thuế tới hoạt động xuất khẩu là tác động xuôi chiều, khi thuế thấp
kích thích xuất khẩu (thuế ưu đãi). Phần lớn các nước hiện nay có xu hướng khuyến
khích xuất khẩu nên việc đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu hay đầu vào dùng để xuất
khẩu đều được hưởng những ưu đãi nhất định. Đặc biệt là ở Lào khi mà thiếu ngoại tệ
để nhập công nghệ mới, cải tiến kỹ thuật thì những chính sách thuế đối với hàng hoá
xuất khẩu được các nhà lập chính sách cân nhắc rất kỹ sao cho có lợi nhất cho doanh
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, tham gia hoạt động xuất khẩu.
Việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu của chính sách thuế
trong thời gian qua được thể hiện như sau:
Thứ nhất,Tùy từng trường hợp,từng ngành nghề mà trong thời gian qua Nhà
nước đã hỗ trợ cho doanh nghiệp như hoàn thuế giá trị gia tăng, không thu thuế thu
nhập doanh nghiệp, kéo dài thời hạn nộp thuế, miễn thuế, áp dụng mức thuế thấp nhất.
Cụ thể trong trường hợp ngành dệt may xuất khẩu, để tạo vốn đầu tư cho doanh nghiệp
dệt may, Nhà nước hỗ trợ miễn giảm thuế doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, cho vay
80
vốn ưu đãi từ 12 đến 15 năm, ghi nợ thuế xuất khẩu từ 3 đến 9 tháng; thoái thu thuế
nhập khẩu nguyên liệu gia công. Đối với ngành chế biến sản phẩm xuất khẩu thì chình
sách thuế hỗ trợ thuế khấu trừ 5% đối với đầu vào nguyên liệu, không thu thuế thu
nhập doanh nghiệp bổ sung đối với doanh nghiệp nếu xuất khẩu trên 50% sản phẩm
hoặc có giá trị xuất khẩu chiếm 50% doanh thu.
Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định việc
áp dụng thuế suất 0% không theo mặt hàng hay nhóm hàng như các mức thuế suất 5%,
10% hoặc 20% được quy định theo mục đích và hàng hoá xuất khẩu. Luật thuế giá trị
gia tăng quy định việc áp dụng thuế suất 0% không theo mặt hàng hay nhóm hàng như
các mức thuế suất 5%, 10% hoặc 20% được quy định theo mục đích và hàng hoá xuất
khẩu. Điều này có nghĩa là bất cứ mặt hàng nào thuộc đối tượng chịu thuế VAT khi
đem xuất khẩu đều được áp dụng thuế suất 0% và được hoàn thuế VAT đầu vào. Như
vậy cùng với việc khuyến khích xuất khẩu, kích thích sản xuất cùng với vấn đề giải
quyết việc làm, hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu được bình đẳng với hàng hoá khác khi
xuất khẩu .
Thứ hai, hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp sản xuất ra nguyên vật
liệu, phụ liệu và bán thành phẩm cho các đơn vị khác để sản xuất ra hàng xuất khẩu.
Đây là một biện pháp có tính chất tích cực trong chính sách thuế hỗ trợ hàng xuất
khẩu, bởi vì các doanh nghiệp của Lào hiện nay do còn yếu kém về công nghệ sản xuất
hàng xuất khẩu, thị trường tiêu thụ nên sản phẩm của các doanh nghiệp lại phục vụ
làm đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất đầu ra.
Thứ ba, kéo dài thời hạn nộp thuế nhập khẩu vật tư, nguyên vật liệu, phụ liệu
phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu (hiện nay thời hạn là 9 tháng). Áp dụng thuế xuất
thấp nhất (0%) cho một số mặt hàng.
Tuy nhiên, chính sách thuế ưu đãi ở CHDCND Lào vẫn chủ yếu hướng vào
vùng, sản phẩm và thành phần kinh tế. Chính sách này không khuyến khích theo quy
mô doanh nghiệp, và như vậy hoàn toàn chưa khuyến khích được các doanh nghiệp.
Thuế xuất khẩu còn chiếm tỷ trọng tương đối cao đã làm cho tổng thu ngân sách lệ
thuộc quá nhiều vào kim ngạch xuất khẩu. Khi thị trường biến động, nguồn thu ngân
sách giảm, một mặt ảnh hưởng đến nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp. Đồng thời, mặt
khác các cơ quan tài chính sẽ tìm cách để tăng thuế hoặc thêm các hình thức thu mới,
làm cản trở các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, theo luật thuế giá trị gia tăng, mọi hàng
hóa nhập khẩu đều phải nộp thuế giá trị gia tăng trong vòng 30 ngày sau khi nhập
81
khẩu. Mặc dù, về nguyên tắc thuế giá trị gia tăng là loại thuế thu trước, song trong tình
hình hiện nay, khi các doanh nghiệp, đang khó khăn về vốn thì cùng một lúc phải
thanh toán tiền mua hàng, thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng là một trở ngại hết
sức lớn cho công cuộc kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. Trong suốt thời
gian thực hiện luật thuế giá trị gia tăng vừa qua, một trong những khó khăn lớn nhất
đối với các doanh nghiệp là công tác hoàn thuế. Trước hết, nhiều doanh nghiệp đã gặp
khó khăn trong việc có được hóa đơn thuế giá trị gia tăng khi nhập khẩu. Việc này đã
được Bộ Tài chính xử lý bằng cách khấu trừ 3% giá trị vật tư đầu vào. Tuy vậy, thời
gian khấu trừ quá dài, gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp. Một khó khăn nữa
là, trong khi các doanh nghiệp khác, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đâu tư nước
ngoài được miễn thuế nhập khẩu trang thiết bị thì các doanh nghiệp, vốn đã ít nhưng
vẫn phải nộp thuế nhập khẩu trang thiết bị cho đổi mới công nghệ. Một điều dễ nhận
thấy rằng trong thời gian vừa qua Chính phủ nước CHDCND Lào ưu đãi các doanh
nghiệp nhà nước hơn là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay, để khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu thì một sự hỗ
trợ về chính sách thuế là rất cần thiết.
Theo thông tư số 75/ກງ, ban hành ngày 13/12/1998 về hướng dẫn quản lý
thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng đối với loại hình nhập khẩu nguyên liệu vật
liệu để sản xuất hàng hóa, quy định loại hình nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất
hàng xuất khẩu được xét hoàn thuế nhập khẩu và xét hoàn thuế giá trị gia tăng bao
gồm: vật liệu, nguyên liệu trực tiếp cấu thành thực thể sản phẩm xuất khẩu và các
loại vật liệu, nguyên liệu tham gia vào quá trình sản xuất hàng hóa xuất khẩu nhưng
không trực tiếp cấu thành thực thể sản phẩm xuất khẩu . nguyên vật liệu nhập khẩu
để sản xuất hàng xuất khẩu là đối tượng chịu thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng
và được hoàn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng tương ứng với tỷ lệ sản phẩm
xuất khẩu trên cơ sở định mức sử dụng nguyên liệu.
Theo Nghị định số 362/ນຍ, ban hành ngày 19/10/2007 Quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu số 04/ສພຊ, hiệu lực thi
hành kể từ ngày 20 tháng 12 năm 2011 và thay thế Nghị định số 149/ນຍ, ngày 08
tháng 12 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu,
Thuế nhập khẩu quy định Hàng hoá nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu hoặc
82
xuất vào khu phi thuế quan nếu đã nộp thuế nhập khẩu thì được hoàn thuế tương ứng với
tỷ lệ sản phẩm thực tế xuất khẩu và không phải nộp thuế xuất khẩu đối với hàng hoá
xuất khẩu có đủ điều kiện xác định là được chế biến từ toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu.
Hàng xuất khẩu của Lào có tỷ trọng nguyên liệu nhập khẩu tương đối lớn, đặc
biệt là với các mặt hàng gia công như dệt may thì quy định này đã hỗ trợ cho việc
giảm chi phí sản xuất hàng xuất khẩu của Lào từ đó dẫn tới giảm giá thành của hàng
xuất khẩu, giúp cho hàng hóa của Lào có tính cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên việc đủ điều kiện xác định là được chế biến từ toàn bộ nguyên liệu nhập
khẩu còn gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất của Lào hiện nay.
Theo thông tư số 90/ນຍ, ban hành ngày 10/11/2010 của Bộ tài chính Lào về
hướng dẫn về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng đối với hàng
hóa bán cho thương nhân nước ngoài nhưng giao hàng cho doanh nghiệp khác tại
Lào theo chỉ định của thương nhân nước ngoài để làm nguyên liệu sản xuất, gia công
hàng xuất khẩu. Trong đó quy định hàng hóa do doanh nghiệp tại Lào (bao gồm cả
doanh nghiệp Lào và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) sản xuất ban cho
thương nhân nước ngoài theo hợp đồng mua bán ngoại thương, được thương nhân
nước ngoài thanh toán tiền mua hàng bằng ngoại tệ nhưng giao hàng cho doanh
nghiệp sản xuất khác tại Việt Nam theo chỉ định của thương nhân nước ngoài để tiếp
tục sản xuất, gia công hàng xuất khẩu hay hàng hóa được xuất khẩu tại chỗ, nhập
khẩu tại chỗ được áp dụng mức thuế giá trị gia tăng là 0%. Quy định này vừa hỗ trợ
hoạt động xuất khẩu hàng hóa, vừa thúc đẩy các hình thức xuất khẩu hàng hóa đa
dạng và hiệu quả hơn.
2.3.3 Chính sách phát triển thị trường, xúc tiến thương mại hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa của nước CHDCND Lào
a. Mục tiêu của chính sách phát triển thị trường, xúc tiến thương mại hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa
Mục tiêu của chính sách phát triển thị trường, xúc tiến thương mại hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa là việc thực hiện tìm kiếm mở rộng thị trường, quảng bá hình ảnh của
sản phẩm xuất khẩu Lào tới các quốc gia khác, hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin
thị trường, về phát triển và mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại. Từ đó thúc đẩy
xuất khẩu hàng hóa ra thị trường quốc tế.
83
b. Nội dung của chính sách phát triển thị trường, xúc tiến thương mại hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa
Chính sách thị trường, xúc tiến thương mại đóng vai trò hết sức quan trọng
trong chính sách thương mại, việc định hướng thị trường sẽ quyết định tốc độ cũng
như sự thành công của nước CHDCND Lào trên con đường hội nhập kinh tế thế giới.
Với chính sách thâm nhập thị trường tương đối mạnh dạn, hàng hóa của Lào đã có chỗ
đứng tại nhiều nước trên thế giới, trong đó Mỹ và EU là thị trường yêu cầu chất lượng
cao, phong cách hoạt động và tâm lý kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc EU, Mỹ
cũng khác nhiều với các doanh nghiệp ở Châu Á.
Để sản xuất đạt hiệu quả cao cần đầu tư vào những lĩnh vực thị trường thực sự
có nhu cầu. Người sản xuất đòi hỏi phải có nhu cầu thường xuyên về thông tin thị
trường tiêu thụ để có quyết định đầu tư sản xuất hợp lý. Tuy vậy, người sản xuất không
thể tự giải quyết vấn đề này cho mình, mà đòi hỏi có sự hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức
kinh tế và các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu.Chính sách tự do lưu thông hàng hóa và
phát triển thị trường đã phát huy được sức mạnh của các thành phần kinh tế tham gia sản
xuất lưu thông tiêu thụ hàng hóa trên thị trường trong và ngoài nước.
Từ đầu những năm 90, chính sách thị trường xuất khẩu đã được Nhà nước định
hướng là việc mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời duy trì và phát triển quan hệ
với thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng các thị trường mới, tìm thị trường tiêu
thụ lớn, ổn định, lâu dài cho những mặt hàng xuất khẩu quan trọng.
Về cơ bản từ năm 1995 đến nay, thị trường trong cả nước Lào đã tự do hóa. Các
hàng hóa cũng như hàng hóa công nghiệp tiêu dùng và tư liệu sản xuất được tự do lưu
thông rộng rãi trong cả nước. Giá cả được hình thành khách quan trên cơ sở quan hệ
cung – cầu trên thị trường. Tình trạng sản xuất khép kín, tự túc được khắc phục dần,
sản xuất đã bước đầu hướng ra thị trường, phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, từng
địa phương. Trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa, thực hiện chính sách mở cửa, thị
trường được hội nhập và phát triển theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa. Bên cạnh
những thị trường xuất khẩu. Tuy lĩnh vực tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu
chưa đạt được kết quả mong muốn, những bước đầu đã định hướng cho người sản xuất
tập trung vào những hàng hóa có ưu thế. Thực hiện các biện pháp mở rộng thị trường
xuất khẩu, có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các đơn vị sản
xuất thuộc các thành phần kinh tế đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Thực hiện các
phương châm đa dạng hóa thị trường, đa phương hóa đối tác, hạn chế việc xuất khẩu
84
một mặt hàng bị phụ thuộc vào một số ít thị trường. Trên cơ sở đó duy trì và mở rộng
xuất khẩu hàng hóa của Lào vào các thị trường sẵn có, đồng thời có biện pháp phù hợp
để thâm nhập các thị trường mới, chú trọng các thị trường có khả năng và dung lượng
lớn như thị trường Châu Á, Nga, EU, tìm cách gia nhập ở các thị trường mới như Châu
Phi và châu Mỹ La Tinh. Tạo một số thị trường và bạn hàng lâu dài về những mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu , giảm xuất khẩu qua các thị trường trung gian.
Thực hiện chỉ thị của ThủTướng chính phủ Lào số 24/ນຍ, ngày 22/09/2010 về
việc tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu – Xuất khẩu và lưu thông hàng hóa trong
nước, nếu thấy khâu nào chưa hợp lý – trái với Luật pháp thì cần phải để trình lên để
điều chỉnh ngay và thông qua một cửa, một chữ ký, một hai ngày. Do việc triển khai
công tác xác khẩu và lưu thông hàng hóa trong nước có bước tiến rất đáng khích lệ.
Để mở rộng, phát triển thị trường, Chính phủ Lào đã ra chiến lược “ổn định thị
trường trong nước, giá cả hàng hóa bình ổn hay giao dịch có thể kiểm soát được, điều
chỉnh việc cung – cầu phần lớn cho phù hợp với thị trường trong nước, bảo vệ người
tiêu thụ, làm cho cuộc sống của nhân dân ngày một khá, trong đó là:
- Xây dựng cơ chế để dự báo thị trường, hàng hóa và giá cả.
- Sửa đổi và điều chỉnh cơ chế quản lý thị trường và giá cả cho phù hợp với hệ
thống thị trường theo hướng “Đánh giá thị trường, quản lý và giải quyết vấn đề thị
trường bằng biện pháp của thị trường”.
- Quản lý việc lưu thông hàng hóa bằng hình thức điều chỉnh hay cân đối mặt
hàng có thể thu hút và xúc tiến ở mức độ cao hơn.
Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2009 cũng đã khẳng định một trong những khâu
then chốt của chiến lược phát triển xuất khẩu đến năm 2025 là mở rộng và đa dạng
hóa, đa phương hóa thị trường trên cơ sở cân bằng lợi ích giữa các đối tác, tận dụng
mọi khả năng để xuất khẩu sang các thị trường. Quan điểm chủ đạo là “ tạo thị trường
ổn định cho một số loại nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh
tranh, tìm kiếm thị trường cho hàng xuất khẩu mới, tăng thêm thị phần ở các thị trường
truyền thống, tiếp cận và mở rộng các thị trường mới. Cụ thể quan điểm trên là 2025.
-Tích cực tranh thủ mở rộng thị trường nhất là sau khi gia nhập WTO.
- Đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ với các đối tác, phòng ngừa và hạn
chế rủi ro khi có những chấn động đột ngột.
Trong thời gian sau khi gia nhập WTO, hoạt động tìm kiếm khai thác thị trường
được quan tâm đặc biệt trong hoạt động đối ngoại. Bộ công thương đã xây dựng đề án
85
phát triển thị trường xuất khẩu, các Bộ, ngành có liên quan có những chinh sách, biện
pháp cụ thể ưu đãi, khuyến khích xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm. Đến nay,
thị trường xuất khẩu hàng hóa của CHDCND Lào đã được mở rộng sang các nước và
vùng lãnh thổ. Bộ công thương đã đưa ra chính sách và những biện pháp cụ thể nhằm
thực hiện chính sạch thị trường, theo đó: tiếp tục đa dạng hóa thị trường, tuy trọng tâm
vẫn đặt vào thị trường châu Á – Thái Bình Dương còn nhiều tiềm năng, song chú ý
nâng cao tỷ trọng các thị trường khác để đẩy mạnh xuất khẩu đi đôi với việc phòng
ngừa biến động đột ngột. Tiếp tục đẩy mạnh buôn bán làm ăn với thị trường EU trên
cả cơ sở song phương lẫn đa phương, cố gắng gia tăng quan hệ với thị trường Nga,
Đông Âu phù hợp với cơ chế mới, một phần tận dụng khả năng của cộng đồng người
Lào trong nước. Phấn đấu đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Việt Nam, Trung Quốc
và Thái Lan, những nước có chung biên giới, và là những quốc gia nhập khẩu lớn hàng
đầu thế giới với nhu cầu rất đa dạng. Cố gắng tiếp cận, và xây dựng các thị trường
Trung – Cận Đông, châu Phi và châu Mỹ La Tinh.
Tuy nhiên, chính sách phát triển thi trường, xúc tiến thương mại còn nhiều hạn
chế như:
- Công tác dự báo thị trường, tổ chức thu nhập và xử lý thông tin đã có những
tiến bộ đáng kể nhưng còn rời rạc, chậm thời gian, thiếu hệ thống từ cơ sở vật chất đến
phương thức tổ chức, nghèo nàn về nội dung, chưa thực sự trở thành một công cụ
mạnh để chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất. Do thiếu thông tin về thị trường nên người sản
xuất lúng túng trong việc quyết định đầu tư loại cây trồng cũng như quy mô. Thị
trường chưa thực sự hướng dẫn sản xuất, chưa có tác động tích cực đổi mới cơ cấu sản
xuất hướng theo nhu cầu của thị trường. Công tác dự báo thị trường, thu nhập xử lý
thông tin chậm về thời gian, mức độ tin cậy không cao, trên thực tế chưa trở thành
công cụ mạnh hướng dẫn sản xuất.
- Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng hóa còn xem nhẹ
công tác tiếp thị, đầu tư cho hoạt động này chưa đáp ứng được để thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp chưa có bộ phận chuyên trách nghiên cứu thị trường,
chưa làm tốt công tác thu nhập, nghiên cứu thị xử lý thông tin về thị trường nên chưa
phản ứng nhanh nhạy với diễn biến cung - cầu trên thị trường để chủ động điều chỉnh
sản xuất. Các doanh nghiệp còn non kém về kinh nghiệm tiếp thị, về tạo lập và ổn định
thị trường xuất khẩu.
86
- Tầm vĩ mô, hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xây dựng
và phát triển thị trường, xúc tiến thương mại, xây dựng các quan hệ song phương và đa
phương, tạo điều kiện xuất khẩu hàng hóa còn rất hạn chế, thiếu chủ động. Hoạt động
nghiên cứu tiếp thị thuộc các tổ chức kinh tế, chuyên môn chậm phát triển còn bị xem
nhẹ, chưa trong xứng với yêu cầu phát triển ngành sản phẩm nói chung, đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hóa nói riêng. Sự yếu, kém trong việc xác định hệ thống thị trường xuất
khẩu chủ lực và những mặt hàng sản phẩm xuất khẩu trọng điểm là một trong những
nguyên nhân hạn chế quá trình phát triển sản xuất – lưu thông – xuất khẩu hàng hóa.
Bên cạnh đó, nhà nước thực hiện các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại
nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu. Xúc tiến thương mại là những hoạt động hỗ trợ
kinh doanh, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hóa, cung ứng dịch vụ. Hỗ trợ xúc tiến thương mại có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với các doanh nghiệp Lào trong việc tìm kiếm thị trường, tìm kiếm khách hàng.
Chính phủ đã giao Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Công thương và các Bộ liên
quan nghiên cứu, cải tiến chế độ chi hỗ trợ phát triển thị trường và xúc tiến thương mại
cho các chương trình trọng điểm, nhất là những chương trình khuyếch trương mặt
hàng xuất khẩu mới hoặc thâm nhập thị trường mới. Đây là chủ trương rất đúng đắn
bởi nguồn kinh phí dành cho hoạt động này của nước CHDCND Lào còn rất nhỏ, nếu
rải đều cho các doanh nghiệp thì hiệu quả không lớn.
Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (thuộc Bộ Công thương) trong năm
2011 đã giới thiệu chương trình hỗ trợ phát triển xuất khẩu hàng hóa. Theo đó, tất cả
các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc mọi thành phần kinh tế sẽ được hỗ trợ xúc tiến
xuất khẩu, trong đó 70% kinh phí được lấy từ quỹ hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước và
30% còn lại do doanh nghiệp đóng góp. Chương trình này được thực hiện với ba nội
dung: tổ chức cho các doanh nghiệp đi khảo sát, học tập, trao đổi và tham dự hội chợ,
triển lãm giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài. Xây dựng một số chính sách tạo điều kiện
cho doanh nghiệp tham gia các chương trình xuất khẩu nhà nước. Tổ chức hội thảo,
triển lãm giới thiệu sản phẩm trong nước cho các doanh nghiệp xuất khẩu, có sự tham
gia của các đối tác nước ngoài. Thành lập Cục xúc tiến thương mại thuộc Bộ Thương
mại. Một trong những nhiệm vụ, chức năng của cục xúc tiến thương mại là giúp bộ
trưởng bộ thương mại định hướng công tác xúc tiến thương mại, hướng dẫn và kiểm
tra thực hiện chính sách xúc tiến thương mại, nghiên cứu dự báo và định hướng thị
trường trong và ngoài nước để phát triển thị trường trong và ngoài nước để phát triển
87
thị trường, sản phẩm thương mại, thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thương mại, hỗ
trợ các doanh nghiệp xúc tiến thương mại.
Để thực hiện chính sách xúc tiến thương mại, chính phủ đã cho phép thành lập
thí điểm các trung tâm môi giới thiệu sản phẩm xuất khẩu của Lào tại một số nước,
cho phép sử dụng quỹ hỗ trợ xuất khẩu để hỗ trợ các doanh nghiệp và các hiệp hội
trong phát triển thị trường và đẩy mạnh xúc tiến thương mại.
Bộ tài chính Lào đã ban hành thông tư số 88/ກງ, ngày 17/03/2011 về hướng
dẫn cơ chế tài chính hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để thực hiện chương trình xúc tiến
thương mại quốc gia và Quyết định 72/ນຍ, ngày 15/11/2010 của Thủ tướng Chính
phủ Lào về việc ban hành Quy chế xây dựng, quản lý và thực hiện chương trình Xúc
tiến thương mại quốc gia. Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia được xây dựng
trên cơ sở định hướng phát triển xuất khẩu. Thông tin thương mại, nghiên cứu thị
trường, xây dựng cơ sở dữ liệu các thị trường xuất khẩu trọng điểm theo các ngành
hàng; Tuyên truyền xuất khẩu: Quảng bá hình ảnh ngành hàng, chỉ dẫn địa lý nổi tiếng
của vùng, miền ra thị trường nước ngoài; mời đại diện cơ quan truyền thông nước
ngoài đến Lào để viết bài, làm phóng sự trên báo, tạp chí, truyền thanh, truyền hình,
internet nhằm quảng bá cho xuất khẩu Lào theo hợp đồng trọn gói. Thuê chuyên gia
trong và ngoài nước để tư vấn phát triển sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm,
phát triển xuất khẩu, thâm nhập thị trường nước ngoài. Đào tạo, tập huấn ngắn hạn
trong và ngoài nước nhằm nâng cao nghiệp vụ xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp,
hợp tác xã; các tổ chức xúc tiến thương mại Chính phủ và phi Chính phủ. Tổ chức,
tham gia hội chợ triển lãm thương mại tại nước ngoài, hội chợ triển lãm định hướng
xuất khẩu tại Lào. Tổ chức đoàn giao dịch thương mại tại nước ngoài. Tổ chức hoạt
động xúc tiến tổng hợp (thương mại kết hợp đầu tư và du lịch) nhằm đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hóa, dịch vụ của Lào ra nước ngoài, đồng thời thu hút đầu tư, khách du lịch
nước ngoài đến Lào. Tổ chức đoàn doanh nghiệp nước ngoài vào Lào giao dịch mua
hàng. Tổ chức hội nghị quốc tế ngành hàng xuất khẩu tại Lào. Các hoạt động xúc tiến
thương mại đã thực hiện và có hiệu quả trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu.
Quảng bá, hỗ trợ thâm nhập thị trường nước ngoài đối với thương hiệu các hàng hóa,
dịch vụ đặc trưng thuộc Chương trình thương hiệu quốc gia. Các hoạt động xúc tiến
thương mại khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Để hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu về thông tin xuất khẩu Bộ Công thương Lào
88
có chỉ thị 14/ອຄ, ngày 20/9/2009 về việc tăng cường công tác cung cấp thông tin hỗ
trợ xuất khẩu trên cổng thông tin thị trường nước ngoài. Thành lập cổng thông tin cung
cấp thông tin hỗ trợ xuất khẩu trên công thông tin thị trường nước ngoài. Cổng thông
tin thị trường nước ngoài là một kênh trực tiếp và hiệu quả để các đơn vị và thương vụ
cung cấp thông tin thị trường nước ngoài phục vụ hoạt động xuất khẩu hàng hóa của
các doanh nghiệp.
Trợ cấp xuất khẩu là những khoản hỗ trợ của Chính phủ (hoặc một cơ quan Nhà
nước) cho các khoản thu hay giá cả trực tiếp hoặc gián tiếp có tác động làm tăng xuất
khẩu một sản phẩm xuất khẩu.
Ở CHDCND Lào ngày 10/10/2001 Chính phủ Lào đã ra Nghị định số 205/ນຍ
và nghị định số 34/ນຍ, ngày 14/2/2006 về thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu để khuyến
khích và hỗ trợ xuất khẩu dưới hình thức: bù lãi suất dự trữ hàng hóa xuất khẩu, cấp bù
lỗ khi cần thiết, thưởng tìm kiếm thị trường và mở rộng thị trường xuất khẩu. Quỹ hỗ
trợ xuất khẩu đã đi vào hoạt động, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất
khẩu.
Các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa:
Để khuyến khích xuất khẩu, các doanh nghiệp chuyên trách quảng cáo của Bộ
công thương đã tiến hành các cuộc hội chợ triển lãm trong nước và nước ngoài nhằm
hỗ trợ cho các doanh nghiệp Lào đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Có rất nhiều các đơn
vị tổ chức hội chợ triển lãm, các tổ chức làm dịch vụ quảng cáo, các văn phòng quảng
cáo của nước ngoài tại Lào và các thương vụ Lào ở nước ngoài, các vụ hợp tác quốc
tế… Thông qua các tổ chức này, doanh nghiệp đã tiếp nhận được các dịch vụ như triển
lãm sản phẩm của mình, tham gia trao đổi thông tin tại các cuộc hội thảo liên doanh,
liên kết để tìm cơ hội xúc tiến xuất khẩu giúp cho đối tác nước ngoài nắm bắt được
thông tin về doanh nghiệp, qua đó thúc đẩy hợp tác và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Tuy nhiên, so với các nước ASEAN, Lào vẫn còn yếu kém trong lĩnh vực này.
Như vậy, một số tổ chức tham gia hỗ trợ cho việc mở rộng các mối quan hệ với
bạn hàng cho các doanh nghiệp đang cung cấp các dịch vụ của mình. Tuy nhiên, tình
hình hiện nay cho thấy công tác xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ các doanh nghiệp còn lúng
túng và bị động, hệ thống thương vụ của Lào tại nước ngoài chưa làm tốt vai trò tìm
kiếm, giới thiệu thị trường và bạn hàng để cung cấp thông tin kịp thời hỗ trợ cho các
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Do đó, các doanh nghiệp vẫn đang dựa vào chủ
89
yếu mạng lưới các nhân viên của mình để tìm thị trường xuất khẩu. Vì vậy, nhiều
doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động xuất khẩu do không tự mở rộng quan hệ với
các khách hàng nước ngoài nên họ phải bán sản phẩm của mình cho các công ty
thương mại của nước ngoài và cũng chỉ có cách này họ mới có thể xuất khẩu sản phẩm
của mình cho các thị trường trên thế giới.
Có thể nói ở CHDCND Lào hiện nay, công tác xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ các
doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Để thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế thì
một trong những vấn đề cấp bách là phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện một hệ thống
hỗ trợ xuất khẩu toàn diện, các chính sách và biện pháp đồng bộ của nhiều ngành,
nhiều cấp và từng doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực của các cấp các ngành và
mỗi doanh nghiệp. Nhưng chắc chắn rằng trong xu hướng đổi mới kinh tế hiện nay
ngoại thương thực sự là sức mạnh tổng hợp, thì hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp
càng chứng tỏ vai trò quan trọng của nó trong điêu kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ 27/09/1999 Thủ tướng chính phủ Lào đã ra Quyết định số Số 195/-ນຍ về
việc lập sử dụng và quản lý Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. trong đó Quỹ hỗ trợ xuất khẩu do
Bộ Tài chính quản lý và mở tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà nước. Quỹ hỗ trợ xuất
khẩu được hình thành từ các nguồn: Khoản thu chênh lệch giá hàng nhập khẩu, xuất
khẩu theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Ngân sách nhà nước cấp bổ sung
hàng năm, Lệ phí cấp hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, Lệ phí cấp giấy chứng nhận
xuất xứ hàng hóa, lệ phí cấp giấy phép đặt và hoạt động của Văn phòng đại diện các tổ
chức kinh tế tại Lào, mở chi nhánh công ty nước ngoài tại Lào, Đóng góp của các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đối với mặt hàng có chênh lệch giá hàng
xuất nhập khẩu nhưng chưa áp dụng chế độ thu chênh lệch giá. Bộ Tài chính, Bộ
Thương mại quy định cụ thể nguồn thu này, Các khoản thu từ các nguồn khác theo
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu được sử dụng vào các
mục đích: Hỗ trợ tài chính có thời hạn đối với một số mặt hàng xuất khẩu bị lỗ do
thiếu sức cạnh tranh, hoặc gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan gây ra, Thưởng về
tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, mặt hàng mới sản xuất lần đầu tiên tham
gia xuất khẩu, xuất khẩu sản phẩm đạt chất lượng cao được tổ chức quốc tế công nhận
bằng văn bằng, đạt kim ngạch xuất khẩu lớn và hiệu quả cao, Hỗ trợ khác theo Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ.
Sau khi gia nhập WTO năm 2013, để điều chỉnh, thay đổi các chính sách, cơ
90
chế hiện hành nhằm thúc đẩy phát triển xuất khẩu phù hợp các cam kết trong WTO,
Thủ tướng Chính Phủ Lào đã ra quyết định số 124/ນຍ, Ngày 08/09/2013 có hiệu lực
thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo Về việc bãi bỏ Quyết định số
195/ນຍ,ngày 27 tháng 9 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ Lào về việc lập, sử dụng
và quản lý Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Trước khi gia nhập WTO, Chính phủ đã thực thi hỗ
trợ kinh phí cho chương trình cho chương trình xúc tiến thương mại và các chính sách
ưu đãi về thuế thông qua quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Theo cam kết với WTO, Lào phải bỏ
toàn bộ trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản ngay sau khi gia nhập. Trong lĩnh vực
nông nghiệp các chính sách hỗ trợ của nhà nước được điều chỉnh theo hướng giảm sự
can thiệp của Nhà nước và thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa nông
lâm sản. Các văn bản về thưởng xuất khẩu trái với cam kết gia nhập WTO đã được bãi
bỏ. Trong công nghiệp, các hình thức trợ cấp phải xóa kể từ thời điểm gia nhập như trợ
cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế hàng nhập khẩu, những khoản trợ cấp chi trực tiếp từ
ngân sách nhà nước.
2.3.4 Chính sách thương nhân hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước
CHDCND Lào
a. Mục tiêu của chính sách thương nhân hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Chính sách thương nhân hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa đưa ra những chính sách về
việc thành lập doanh nghiệp, quy định về đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp trong
lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa. Chính sách dần tạo điều kiện thông thoáng và tạo sự bình
đẳng cho các doanh nghiệp trong sản xuất và kinh doanh hàng hóa xuất khẩu. Thúc
đẩy sức sản xuất tiềm tàng của nền kinh tế Lào thông qua hoạt động sẩn xuất kinh
doanh hàng xuất khẩu.
b. Nội dung của chính sách thương nhân hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
Trước năm 1986, bằng chế độ độc quyền ngoại thương, chỉ có một số ít doanh
nghiệp nhà nước tại Lào được quyền xuất khẩu hàng hóa. Sau khi thực hiện cải cách
năm 1986, quyền tham gia hoạt động ngoại thương của cả doanh nghiệp tại Lào ngày
càng được mở rộng. Cụ thể đó là:Luật kinh doanh số 005/ສພຊ, ngày 18/7/1994 và
hiện nay đã sửa đổi là Luật doanh nghiệp số 11/ສພຊ, ngày 9/11/2005, Viêng Chăn,
theo đó cho phép mở rộng quyền xuất khẩu cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu nếu
có đủ điều kiện. Trích dẫn điều 19 của luật này : các tổ chức kinh doanh hàng xuất
91
nhập khẩu chuyên nghiệp của nhà nước, các cơ sở sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu
thuộc mọi thành phần kinh tế quốc doanh có đủ tư cách pháp nhân, thực hiện hạch
toán kinh tế độc lập, có đủ đội ngũ am hiểu nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu được
quyền trực tiếp xuất nhập khẩu. Đối với các đơn vị sản xuất không phân biệt cấp quản
lý và thành phần kinh tế, nếu đủ các điều kiện sau đây được bộ công thương cấp đăng
ký kinh doanh xuất nhập khẩu thường xuyên, sản phẩm xuất khẩu do đơn vị sản xuất
ra hoặc do liên doanh, hợp tác đầu tư sản xuất, chấp hành tốt chính sách và luật pháp
của Nhà nước. Có thị trường tiêu thụ ổn định và xuất khẩu có hiệu quả. Có cán bộ hiểu
biết nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, trước hết là thông thạo việc giao dịch ký
kết hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu và thanh toán đối ngoại. Đạt kim ngạch xuất khẩu
từ 5 Triệu Đô la Mỹ một năm trở lên.
Năm 1999, theo sắc lệnh của thủ tướng chính phủ số 24/ນຍ, thì quyền kinh
doanh xuất nhập khẩu trực tiếp đã được mở rộng. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế đều được phép tham gia xuất nhập khẩu nếu đáp ứng được điều kiện về
vốn lưu động và nhân sự. Năm 2010, nghị định 25/ນຍ, ngày 25/3/2010 đã cho phép
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tham gia hoạt động xuất nhập khẩu
nhưng chỉ được trực tiếp xuất khẩu những sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra chứ
không được mở rộng kinh doanh sang lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa.
Nghị định của Thủ tướng Chính phủ Lào số 34/ນຍ, ngày 14/ 2/2006 đã xóa bỏ
hoàn toàn chế độ đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu mà các nghị định trước đây đã
ban hành. Nghị định đã nêu rõ: “Doanh nghiệp là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật được phép xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa đã đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Như vậy mọi điều
kiện kinh doanh xuất nhập khẩu được nêu tại nghị định số 180/ນຍ, ngày 7/7/2011 đã
được định số vốn lưu động và xóa bỏ. Tuy nhiên lúc này các doanh nghiệp chỉ được
phép kinh doanh xuất nhập khẩu những hàng hóa theo ngành nghề đăng ký trong giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Còn nếu kinh doanh xuất nhập khẩu những loại hàng
hóa khác ngoài danh mục đã đăng ký thì phải xin phép mở rộng lĩnh vực hoạt động, và
được bộ công thương cho phép thì mới được tiến hành.
Như vậy, thông qua các nghị định trên, từng bước quyền kinh doanh xuất khẩu
ngày càng mở rộng. Đến nay bằng quyết định số 78/ນຍ (2009) thì quyền thương mại
đã được tự do, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều thực sự được bình
92
đẳng trước pháp luật, đều được quyền trực tiếp tham gia vào hoạt động xuất nhập
khẩu. Việc mở rộng quyền thương mại đã thúc đẩy nhanh chóng các doanh nghiệp
tham gia vào hoạt động xuất khẩu hàng hóa.
Việc nới lỏng quy định quyền tham gia xuất khẩu trực tiếp có tác động trực tiếp
đến số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, góp phần quan trọng vào tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu.
Từ năm 1989, luật đầu tư nước ngoài và luật đầu tư trong nước đã được Quốc
hội thông qua và ban hành nhằm thúc đẩy đầu tư, xúc tiến và sản xuất trong nước cũng
như khuyến khích và thu hút vốn và công nghệ bên ngoài, trong đó đã dành nhiều ưu
đãi cho những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Từ khi ban hành đến nay, để
phù hợp thực tiễn phát triển đất nước và xu thế phát triển của thế giới, hai luật này đã
được sửa đổi và bổ sung một số điều (1994 và 2004), hai luật đầu tư này đã có tác
dụng tích cực, tạo môi trường thuận lợi để thu hút được một lượng vốn đầu tư khá lớn,
đóng góp đáng kể vào tăng trưởng xuất khẩu của Lào những năm qua, tỷ lệ phần trăm
trong tổng giá trị vốn đầu tư đã tăng từ 21,3% năm 2001 lên tới 29% năm 2005 và tính
bình quân 5 năm qua tỷ lệ vốn đầu tư chiếm 27.8% của GDP (theo giá hiện hành),
trong đó vốn đầu tư của nhân dân, của các doanh nghiệp và đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) chiếm 17%. Đạt được kết quả trên là do môi trường pháp lý ngày càng hoàn
thiện đã tạo điều kiện thuận lợi, sự ổn định, yên tâm và khuyến khích các doanh
nghiệp, các thành phần kinh tế phát triển sản xuất hàng xuất khẩu. Năm 1994 Chính
phủ ban hành Nghị định miễn phí đặc biệt về xuất khẩu hàng hóa, số 187/ນຍ, ngày
2/12/2004. Ngoài ra Chính phủ Lào còn ban hành Nghị định vốn xúc tiến xuất nhập
khẩu, số 34/ນຍ, ngày 14/02/2012. Nhà nước đã xóa bỏ độc quyền sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp thuộc kinh tế, trong đó có cả khu vực kinh tế như nhân dân được
tham gia xuất khẩu. Do đó, số lượng các doanh nghiệp xuất khẩu đã tăng lên nhanh
chóng, hoạt động xuất khẩu trở lên sôi động, tính cạnh tranh đã đòi hỏi các doanh
nghiệp phải vươn lên. Những điều đó có tác động tích cực tới phát triển xuất khẩu.
Năm năm qua, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 1,83 tỷ USD, bình quân tăng
7,1%/năm…
Những quy định thủ tục rườm rà đã từng bước được bãi bỏ. Đầu những năm 90,
doanh nghiệp muốn được tham gia xuất khẩu còn phải đáp ứng các điều kiện tối thiểu
về vốn, phải có giấy phép kinh doanh, giấy phép xuất khẩu … Năm 1996 Nhà nước đã
bãi bỏ giấy phép xuất khẩu chuyến. Chính phủ cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi
93
thành phần kinh tế được xuất khẩu hàng hóa thuộc đăng ký kinh doanh mà không cần
giấy phép xuất khẩu, trừ một số mặt hàng cần quản lý đặc biệt của Nhà nước theo Kiến
nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính Lào về hướng dẫn thực hiện miễn phí thuế hải quan
và thuế quan, số 230/ກງ, ngày 04/03/1995, sửa đổi bổ sung bằng Luật thuế hải quan
số 04/ສພຊ, ngày 20 tháng 12 năm 2011.
2.3.5 Chính sách đầu tư hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào
Để tạo đà phát triển đối với hàng hóa xuất khẩu rất cần có chính sách đầu tư, tín
dụng thích hợp cho quá trình kinh doanh, nhằm chuyển hóa các yếu tố lợi thế, nâng
cao hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, chính sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn
tiếp tục được điều chỉnh theo hướng đầu tư tập trung, cắt giảm các khâu đầu tư kém
hiệu quả hoặc chưa bức xúc. Điểm mới trong chính sách đầu tư của Nhà nước ở giai
đoạn này là ngoài các khâu đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước đã có thêm
nhiều nguồn vốn khác được huy động vào khu vực nông nghiệp và nông thôn.
Bên cạnh nguồn vốn đầu tư do ngân sách Nhà nước cấp, các địa phương còn bổ
sung thêm một số khâu đầu tư vào sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội.
Đặc biệt từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Lào được bổ sung và sửa đổi và
nghị định của Chính phủ Lào số 119/ນຍ, ngày 20 tháng 4 năm 2011, về việc thực hiện
sắc lệnh của chủ tịch nước về tạo điều kiện chính sách khuyến khích đầu tư trong nước
và đầu tư nước ngoài đến nay, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nông thôn Lào tuy
còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn đầu tư chiếm khoảng 28% GDP, 13,88%
huy động của nước ngoài 500 triệu USD. Đầu tư của tư nhân trong nước và ngoài
nước là 18,2% và 9,9%. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong 5 năm (FDI) có 585 dự
án với tổng vốn đầu tư đăng ký 2,8 tỷ USD. Vốn thực hiện đạt 1,07 tỷ USD. Trong đó
đầu tư vào công nghiệp và xây dựng 69%, nông – lâm nghiệp 4%, dịch vụ 27%. Thu
hút vốn ODA, trong 5 năm có 935 triệu USD, bình quân 187 triệu USD/năm và trong
đó có vốn phối hợp của Chính phủ 115 triệu USD. Những khoản vốn này đã đóng góp
quan trọng vào tăng trưởng kinh tế nông thôn trong những năm qua.
Tiếp theo đó, Bộ Tài chính Lào đã ra thông tư số 150/ກງ, ngày 21 tháng 12
năm 2009 và hướng dẫn thi hành quyết định số 195/ກງ, năm 2013 về lập, sử dụng và
quản lý quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Thông tư này hướng dẫn chi tiết về việc sử dụng Quỹ hỗ
94
trợ xuất khẩu như sau:
Hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ lãi suất vay ngân hàng cho doanh nghiệp xuất
nhập khẩu mua hàng nông sản xuất khẩu theo giá sàn hoặc giá đảm bảo kinh doanh
cho người sản xuất được Thủ tướng Chính phủ quy định.
- Hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ phần chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho vay
ngắn hạn của ngân hàng thương mại và lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp xuất nhập
khẩu mua hàng nông sản chờ xuất khẩu theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
- Hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ lãi suất vay ngân hàng cho các doanh nghiệp làm
nhiệm vụ dự trữ lưu thông theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
- Hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho vay ngắn hạn
của ngân hàng thương mại và lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp thu mua, chế biến và
trực tiếp xuất khẩu đối với hàng nông sản xuất khẩu theo thời vụ, theo chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ.
- Hỗ trợ một phần tài chính có thời hạn đối với một số mặt hàng xuất khẩu bị lỗ
do thiếu sức cạnh tranh, hoặc gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan gây ra làm cho
doanh nghiệp xuất nhập khẩu bị lỗ tạm thời hoặc gặp khó khăn về tài chính trong các
trường hợp:
+ Hàng hoá lần đầu tiên xuất khẩu
+ Hàng hoá xuất khẩu đối với thị trường mới tìm kiếm và chưa ổn định.
+ Hàng hoá đã thu mua nhưng chưa xuất khẩu được do giá thế giới giảm đột
biến
+ Hàng hoá xuất khẩu trực tiếp sản xuất bị lỗ tạm thời vì thiếu sức cạnh tranh do
huy động đầu tư mới.
- Hỗ trợ một phần cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã đóng góp vào Quỹ hỗ
trợ xuất khẩu nay gặp khó khăn về tài chính do giá cả thị trường biến động.
- Thưởng về tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, mặt hàng mới sản xuất
lần đầu tiên tham gia xuất khẩu; xuất khẩu sản phẩm đạt chất lượng cao được tổ chức
quốc tế công nhận bằng văn bằng; xuất khẩu sản phẩm sử dụng nhiều nguyên liệu, lao
động trong nước; đạt kim ngạch xuất khẩu lớn và hiệu quả cao.
- Hỗ trợ khác theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Ngay sau khi gia nhập WTO, Lào cam kết xoá bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu
trực tiếp. Tuy nhiên, theo khuôn khổ hiệp định nông nghiệp, Lào đang bảo lưu hai hình
thức: trợ cấp để giảm chi phí tiếp thị bao gồm cả chi phí xử lý, nâng cấp, tái chế sản
95
phẩm, chi phí vận tải quốc tế, cước phí vận chuyển và ưu đãi về cước phí vận tải trong
nước và quốc tế đối với hàng xuất khẩu hơn hàng nội địa. Việc cam kết trong các lĩnh
vực này có tác động đối với ngành sản xuất nông lâm thuỷ sản vì một số nông sản
chưa tiếp cận được cơ chế tự bảo vệ chống lại biến động bất lợi trong nhập khẩu.
Nhà nước đầu tư vốn vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đòi hỏi vốn lớn,
khó và lâu thu hồi vốn như cơ sở hạ tầng, cầu cảng, bến cá…, mua sắm thiết bị phục
vụ nghiên cứu khoa học điều tra nguồn lợi đào tạo khuyến ngư.
Nhà nước hỗ trợ và cung cấp thông tin liên quan đến thiết bị, công nghệ, đổi
mới công nghệ để tạo ra các sản phẩm xuất khẩu có giá trị; được mời tham gia miễn
phí các Hội thảo khoa học; tham gia các hội chợ công nghệ, thiết bị trong và ngoài
nước; được tư vấn về các công nghệ nhập và xuất khẩu đối với các nhà đầu tư trong và
ngoài nước về các công nghệ đó; hỗ trợ 50% kinh phí thực hiện công tác đăng ký tiêu
chuẩn chất lượng sản phẩm xuất khẩu theo HACCP và ISO…
Khi đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất hàng hoá, chế biến sản phẩm, phát triển
vùng nguyên liệu theo hướng tập trung hàng hoá phục vụ xuất khẩu sẽ được hỗ trợ
tiền đào tạo chuyển giao KH&CN, quảng bá và giới thiệu sản phẩm, mức hỗ trợ sẽ
được tính cụ thể cho từng loại sản phẩm, nhưng tối đa không quá 30 triệu đồng/nhà
máy và 50 triệu đồng/50 hạ vùng nguyên liệu.(tùy theo quy mô nhà máy và giá trị
nguyên liệu).
Việc du nhập các công nghệ để tạo ra sản phẩm xuất khẩu sẽ được hỗ trợ chi
phí chuyển giao công nghệ, mức hỗ trợ tối đa không quá 50 triệu đồng/dự án.
Hỗ trợ doanh nghiệp cải tiến công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm phục vụ cho xuất khẩu với mức tối đa không quá 20 triệu đồng/sản phẩm.
Hỗ trợ du nhập và chuyển giao công nghệ cho các làng nghề để nâng cao chất lượng
sản phẩm hàng hoá xuất khẩu với mức tối đa không quá 50 triệu đồng/1 loại sản phẩm.
2.3.6 Chính sách ruộng đất hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào
Về chính sách ruộng đất Nhà nước Lào đã tạo ra sự ưu tiên hàng đầu cho người
dân để tạo ra động lực khuyến khích nông dân phát triển sản xuất làm cho người dân
gắn với ruộng đất hơn. Chính phủ đưa đến sự thay đổi trong chính sách ruộng đất, giao
cho hộ nông dân quyền sử dụng đất lâu dài ổn định. Từ đó, nhờ chính sách ruộng đất
mà sẽ làm cho các loại sản phẩm nông sản của Lào không ngừng tăng về diện tích,
năng suất, sản lượng… Bên cạnh những tác động tích cực đó việc giao đất, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm, manh mún, phân tán, gây khó khăn cho quá
96
trình tích tụ, tập trung, đầu tư cho sản xuất theo tiêu chuẩn hàng hóa. Sự chậm trễ
trong việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân
một mặt làm quá chậm quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất, mặt khác làm xuất hiện
những khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc gom đất. Việc chậm cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất làm cho nông dân chưa thực sự yên tâm đầu tư phát triển sản
xuất, có xu hướng khai thác đất có tính chất bóc lột nhằm kiếm lợi trước mắt.
Về vị trí đất xây dựng: Ưu tiên cho thuê đất theo quy mô và năng lực tài chính
của doanh nghiệp.
Về hỗ trợ đầu tư xây dựng, cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào dự án; san lấp bồi
thường, GPMB, rà phá bom mìn trong hàng rào dự án; thu tiền sử dụng đất; thuế thu
nhập doanh nghiệp; hoạt động khoa học công nghệ; tín dụng ưu đãi… thực hiện theo
Điều 1 Quy định này.Trong năm 2008, luật đất đai đã khẳng định quyền sử dụng đất
lâu dài, tùy từng loại đất, được cấp giấy chứng nhận đất lâu dài. Nghị định số 101/ນຍ,
ngày 20/4/2005 về đất đai, Chính phủ quy định nhà đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, chế
biến nông sản xuất khẩu được nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc nhượng quyền sử
dụng đất từ người khác, có các quyền theo quy định của pháp luật về đất đai. Năm
2003, luật đất đai mới được ban hành thay cho luật đất đai năm 1998, trong đó có quy
định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Xây dựng cụm khu công nghiệp thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước
sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp xuất khẩu khi có dự án sẽ được ủy ban nhân
dân tại tỉnh đó hỗ trợ khâu tổ chức xác định chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
theo chính sách chung và tổ chức giải phóng mặt bằng. Trong đó chi phí lập phương
án bồi thường giải phóng mặt bằng được hỗ trợ 100%, và 40% chi phí lập dự án đầu
tư hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp. Đặc điểm của CHDCND Lào là nhiều đồi núi,
diện tích đất mặt bằng ít, do đó việc hỗ trợ về giải phóng mặt bằng cho các doanh
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có ý nghĩa lớn. Trường hợp các tổ chức, hay cá nhân
được nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất ứng trước tiền bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư và kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng theo phương án
được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì được ngân sách nhà nước hoàn trả dưới hình
thức trừ toàn bộ số tiền đã ứng trước theo phương án được duyệt vào tiền sử dụng đất
phải nộp. Điều này giúp các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có cơ chế mở để
chủ động trong tiến hành các hoạt động đầu tư, sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu
của mình.
97
Đơn giá thuê đất cũng được hỗ trợ với giá thuê từ 0.25% đến 0.5% trên giá đất
theo mục đích sử dụng đất thuê. Miễn tiền thuê đất trong thời gian đầu có thời hạn.
Đối với hoạt động xuất khẩu là hoạt động được khuyến khích đầu tư, thời gian miễn
thuê đất có thể lên tới 11 năm. Đối với những công ty khó khăn , tạm ngừng hoạt động
được miễn tiền thuê đất trong thời gian tạm ngừng theo sự xác nhận của ban quản lý
khu công nghiệp, hoặc ủy ban nhân dân tỉnh.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có vốn đầu tư từ 4 triệu USD
trở lên được tỉnh bố trí cho thuê đất để làm nhà ở cho chuyên gia, và xây dựng nhà ở
cho công nhân. Được cung cấp miễn phí các thiết kế mẫu, thiết kế điển hình về nhà ở
cũng như các tiến bộ khoa học kỹ thuật về thi công, xây lắp, nhằm giảm giá thành xây
dựng công trình.
2.3.7 Chính sách mặt hàng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào
Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu là một phần quan trọng trong chính sách nhà
nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của Lào. Đòi hỏi sự phối hợp từ hai phía: Nhà nước và
các doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, Lào đã xác định rõ chiến lược xuất khẩu
là phải tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong lượng xuất khẩu các
mặt hàng xuất khẩu chiến lược. Tăng cường đầu tư máy móc công nghệ chế biến chế
tạo cho các sản phẩm xuất khẩu nhằm tạo ra lượng giá trị gia tăng cao hơn, đáp ứng
ngày một tốt hơn những yêu cầu của thị trường và người tiêu dùng quốc tế. Nhưng
việc sản xuất hàng hóa xuất khẩu của Lào so với các nước còn kém xa cả về số lượng
và chất lượng, dẫn đến sức cạnh tranh của các mặt hàng Lào trên thị trường quốc tế rất
thấp. Để khắc phục vấn đề này Lào phải xác định một số mặt hàng có thể thu hút được
sự ưa thích của khách hàng, có sức cạnh tranh cao và có thể bán được trên thị trường
quốc tế, đó là mặt hàng xuất khẩu chiến lược. Các mặt hàng xuất khẩu chiến lược của
Lào gồm các mặt hàng mà nhiều nước có nhu cầu cao, chất lượng tốt, giá thấp có thể
bán chạy ở một số nước và thu được ngoại tệ cao như: các mặt hàng công nghệ thủ
công, nông sản, lâm sản, điện, khoáng sản...Các mặt hàng này được coi là mặt hàng
chiến lược xuất khẩu của Lào. Mặt khác các mặt hàng này có thể khai thác và sản xuất
trong nước có ưu thế thuận lợi về thiên nhiên, khí hậu, đất đai phù hợp, nhân dân chịu
khó, giá thấp... là cơ sở tốt để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Quyết định số 1064/ອຄ.ຄພນ, ký ngày 4 tháng 6 năm 2012và thông báo số
0973/ອຄ.ກຊອ, ngày 25/5/2011 của Bộ trưởng công thương, quy định các mặt hàng
98
nhà nước quản lý, cho phép và cấm xuất-nhập khẩu. Trong đó cấm nhập 5 loại mặt
hàng, cấm xuất 9 loại mặt hàng. Và có 25 mặt hàng phải xin phép trước khi nhập khẩu
và 7 mặt hàng phải xin phép trước khi xuất khẩu.
Thông tư trên có mục đích quy định việc xuất-nhập khẩu các loại mặt hàng mà
nhà nước cho phép, cấm nhập một số mặt hàng gây ô nhiễm môi trường, chất hóa học,
vũ khí, ma túy...Cấm xuất khẩu một số mặt hàng chưa chế biến như: gỗ, khoáng sản và
cấm xuất một số thú rừng quý hiếm và các loại ma túy...Ngoài ra còn một số mặt hàng
muốn xuất-nhập khẩu phải xin phép cơ quan có quyền hạn. Đây là một chính sách
thương mại nhằm tăng cường việc quản lý xuất-nhập khẩu các mặt hàng có lợi cao
nhất cho việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, tránh tình trạng xuất-nhập khẩu
bừa bãi gây tổn hại cho nền kinh tế.
Hướng dẫn thực hiện hiệp định số 1785/ນຍ, ký ngày 06 tháng 09 năm 2010 của
Bộ Công thương về thuế nhập ưu đãi đối với hàng hóa của hai nước Lào- Việt Nam,
hai Bộ công thương Lào- Việt Nam thống nhất quy định không thu thuế nhập khẩu
một số mặt hàng (0%) và thu thuế nhập khẩu một số mặt hàng 50%, còn lại các mặt
hàng thì thực hiện như cũ.
Nghị định số 114/ລບ, ký ngày 06 tháng 04 năm 2011, về việc quy định các
doanh nghiệp nhập khẩu và hỗ trợ các mặt hàng xuất khẩu.
Theo Luật doanh nghiệp số 11/-ສພຊ, ngày 9/11/2005 muốn hoạt động xuất
nhập khẩu các doanh nghiệp phải đăng ký và xin phép hoạt động xuất-nhập khẩu các
mặt hàng theo quy định. Nghị định 180/ນຍ, ngày 07/07/2009 quy định rõ nhiệm vụ,
quyền hạn và nghĩa vụ của các doanh nghiệp xuất – nhập khẩu và các mặt hàng theo
quy định trong nghị định. Có nghĩa là doanh nghiệp nào đăng ký xuất- nhập khẩu mặt
hàng nào thì sẽ hoạt động xuất – nhập khẩu mặt hàng đó để tăng cường việc quản lý
việc xuất nhập khẩu và các mặt hàng xuất nhập khẩu.
Chiến lược phát triển xuất khẩu đến năm 2020 ban hành năm 2010, đã nêu rõ
không ngừng gia tăng tỉ trọng mặt hàng xuất khẩu chế biến. Mặt hàng gia công xuất
khẩu có tỉ lệ nội địa hóa cho sản phẩm gia công (vẫn tăng xuất khẩu) đạt hiệu quả quá
trình sản xuất.nhóm mặt hàng nông, lâm, thủy sản phải chú ý đến cây giống, con
giống,công nghệ sản xuất chế biến để có được cạnh tranh cao hơn (có tiêu chuẩn ISO)
đáp ứng tốt thâm nhập thị trường có tiềm năng, quy mô lớn.
99
Cùng với quá trình phát triển hoạt động ngoại thương, hội nhập với nền kinh tế
bên ngoài nhằm góp phần thúc đẩy quá trình CNH – HĐH đất nước, chỉ thị của Thủ
tướng chính phủ số 24/ນຍ, ngày 22/9/2004 đã xác định định hướng cho chính sách
mặt hàng XNK là “Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng
sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám
cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ. về nhập khẩu: chú trọng nhập thiết bị và nguyên liệu
phục vụ cho sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến”.
Để triển khai Chiến lược phát triển XNK hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2010 –
2015 và đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các
Bộ, ngành, Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các doanh
nghiệp XNK phải quán triệt những nội dung cơ bản và thúc và xúc tiễn thực hiện
chính sách mặt hàng, với mục tiêu cơ bản là: Trong thời kỳ 2010 – 2015, tiếp tục gia
tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến, chế tạo giảm dần tỷ trọng hàng thô. Theo hướng
đó đến năm 2015, tỷ trọng của nhóm hàng nông – lâm sản sẽ chỉ còn 13,7% so với con
số trên 39% như hiện nay. Tỷ trọng các mặt hàng chế biến, chế tạo sẽ tăng từ 31% lên
khoảng 53% bao gồm hàng công nghiệp và công nghệ cao.
Bộ Công thương đã đưa ra Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia,
hàng năm ban hành Danh mục hàng hóa trọng điểm. Theo hướng này, Các Bộ, Ngành có
những chính sách ưu tiên, tạo mọi thuận lợi cho những mặt hàng đó phát triển.
Bộ Công thương cũng đã xây dựng chiến lược phát triển ngành theo hướng
chuyển sang sản xuất các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch,
công nghiệp có hàm lượng trí tuệ cao. Theo mục tiêu này, ngành công nghiệp sẽ tập
trung phát triển 3 nhóm hàng: nhóm đang có lợi thế cạnh tranh gồm chế biến nông –
lâm sản, dệt may, giày dép, cơ khí, chế tạo thiết bị, lắp ráp cơ điện tử, xe máy, đồ gỗ,
nhóm hàng tư liệu sản xuất, nhóm hàng công nghiệp tiềm năng và áp dụng công nghệ
tiết kiệm năng lượng, công nghệ vật liệu, công nghệ thong tin.
Bên cạnh đó sẽ tiếp tục tập trung phát triển xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế
về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động sẵn có như thủy sản, nông sản, dệt may, điện
tử, các sản phẩm chế tác công nghệ trung bình... Trong đó, tăng dần tỷ trọng các mặt
hàng công nghiệp mới có giá trị gia tăng cao, trên cơ sở thu hút mạnh đầu tư trong
nước và nước ngoài vào lĩnh vực này.
Ngoài ra, sẽ không khuyến khích và có lộ trình phù hợp hạn chế đầu tư sản xuất
và xuất khẩu các mặt hàng có giá trị gia tăng thấp hoặc lĩnh vực sản xuất gây ô nhiễm
100
môi trường… Việc nhập khẩu sẽ được điều hành theo hướng khuyến khích nhập khẩu
công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ nguồn; hạn chế nhập hàng xa xỉ, ngăn
chặn hàng hóa nhập lậu, tranh thủ mở cửa thị trường trong các hiệp định thương mại tự
do mới để đa dạng hóa thị trường nhập khẩu và nhập khẩu công nghệ nguồn…
Việc hoàn thiện chính sách mặt hàng xuất khẩu của Lào nhằm hỗ trợ, thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu hàng hóa phát triển mạnh mẽ luôn là mối quan tâm của Đảng,
chính phủ, các cấp và các ngành liên quan. Hàng năm, Chính phủ và Bộ công thương
luôn tổ chức các buổi gặp gỡ các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu để lắng nghe những
ý kiến phản hồi về hiệu quả của những bộ luật, văn bản thông tư dưới luật đã ban
hành để kịp điều chỉnh những tồn tại hạn chế của các văn bản đó.
Mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã chiếm tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa đã được
thay đổi theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng sản
phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định.. tuy
nhiên việc chuyển dịch cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu chưa bám sát tín hiệu của thị
trường thế giới, do đó nhiều sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được, năng suất, chất
lượng, giá thành không đủ sức cạnh tranh, trong đó quy mô đầu tư vào khâu nâng cao
khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản chưa thỏa đáng. Cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu tuy có thay đổi nhưng chủ yếu vẫn lạc hậu. Tuy có đa dạng hóa nhưng không thật
rõ nét theo chiều hướng tích cực. Các sản phẩm chiến lược về cơ bản vẫn thuộc nhóm
nguyên – nhiên liệu- khoáng sản, trên cơ sở khai thác tài nguyên sẵn có. Trên 50% kim
ngạch xuất khẩu của Lào thuộc các loại sản phẩm mà nhu cầu thị trường không ổn
định như mặt hàng điện và dệt may hoặc có khối lượng xuất khẩu giảm như sản phẩm
chế biến từ gỗ, hoặc giá cả biến động mạnh như nông sản. Các sản phẩm chế biến chỉ
ở mức đơn sơ như sản phẩm gỗ, hàng may mặc, lâm sản, các sản phẩm kim ngạch nhỏ
thì biến động thất thường.
2.4 Phân tích kết quả điều tra mức độ ảnh hưởng của chính sách nhà nước
hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào
Tác giả tiến hành điều tra mức độ ảnh hưởng của chính sách nhà nước hỗ trợ
xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào. Đối tượng điều tra các quản lý và giám
đốc của các doanh nghiệp đang có hoạt động xuất khẩu hàng hóa tại Lào và các cán bộ
quản lý liên quan tới xuất khẩu.
Mức độ ảnh hưởng của chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu khẩu hàng hóa
101
của Lào được đánh giá theo thang điểm từ 1-5 (theo mức độ tăng dần về mức hỗ trợ).
2.4.1 Kích thước mẫu điều tra
Số phiếu phát ra:300 phiếu (trong đó 270 phiếu điều tra doanh nghiệp, và 30
phiếu điều tra cán bộ quản lý)
Số phiếu thu vào: 260 phiếu.
Số phiếu hợp lệ: 205 phiếu.
Đối tượng khảo sát:Các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa tại Lào và và các cán bộ quản lý liên quan tới ngành xuất nhập khẩu.
Địa điểm: Các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu có địa bàn đóng tại thủ đô
Viêng Chăn và các tỉnh lân cân. Các doanh nghiệp sẽ đánh giá mức độ tác động của các
chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nhà nước theo thang đo từ 1 đến 5, trong đó 1 là
có mức độ tác động thấp nhất và 5 là mức độ tác động lớn nhất.
Thời gian khảo sát: từ 01/05/2013 đến 31/12/2014.
2.4.2 Phân tích thống kê mô tả
Tiến hành phân tích mô tả để xác định tần suất xuất hiện của các yếu tố so sánh
với mức trung bình của từng thành phần, nhằm khái quát mức độ tác động của các
chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa này.
Kết quả phân tích thống kê mô tả
Descriptive Statistics
N
Minimum Maximum
Mean
Variance Kurtosis
Statistic
Statistic
Statistic
Statistic
Statistic
Statistic
Std. Deviation Statistic
Std. Error
205 205
1 1
1.156 1.099
1.337 1.209
-.766 -.802
.081 .077
3.39 3.61
5 5
205
1
1.156
1.336
-.939
.081
3.39
5
205
1
1.152
1.326
-.691
.080
3.44
5
1 1
1.131 1.111
1.280 1.234
-.821 -.852
.079 .078
3.47 3.41
5 5
Chính sách thuế Chính sách tín dụng Chính sách phát triển thị trường, xúc tiến TM Chính sách thương nhân Chính sách đầu tư Chính sách ruộng đất Mức hỗ trợ Valid N (listwise)
205 205 0 0
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS )
Từ kết quả trên có thể thấy các doanh nghiệp xuất khẩu được điều tra đánh giá
mức độ tác động của các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nhà nước ở mức
trên trung bình.Trong đó các doanh nghiệp này đánh giá cao mức độ tác động của
chính sách phát triển thị trường xúc tiến thương mại và chính sách tín dụng của chính
phủ đang hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa.Chính sách ruộng đất và chính sách
thuế chưa được đánh giá cao về mức độ tác động của các chính sách này tới hoạt động xuất
khẩu hàng hóa của Lào.
102
Bảng tần suất đánh giá
Chính sách thuế
Frequency
Percent
Valid Percent
Valid
5.9 17.1 29.3 27.8 20.0 100.0
12 35 60 57 41 205 3
1 2 3 4 5 Total System
Missing
208
Total
5.8 16.8 28.8 27.4 19.7 98.6 1.4 100.0
Chính sách tín dụng
Frequency
Percent
Valid Percent
Valid
2.4 15.1 26.8 29.8 25.9 100.0
5 31 55 61 53 205 3
1 2 3 4 5 Total System
Missing
208
Total
2.4 14.9 26.4 29.3 25.5 98.6 1.4 100.0
Chính sách phát triển thị trường, xúc tiến TM
Frequency
Percent
Valid Percent
4.3
9
4.4
1
20.7
43
21.0
2
26.4
55
26.8
3
Valid
26.9
56
27.3
4
20.2
42
20.5
5
205
100.0
Total
3
System
Missing
208
Total
98.6 1.4 100.0
Chính sách thương nhân
Frequency
Percent
Valid Percent
1
12
5.8
5.9
2
33
15.9
16.1
3
53
25.5
25.9
Valid
4
66
31.7
32.2
5
41
19.7
20.0
Total
205
98.6
System
Missing
3
1.4
Total
208
100.0
100.0
103
Chính sách đầu tư
Frequency
Percent
Valid Percent
Valid
3.9 17.1 29.3 27.3 22.4 100.0
1 2 3 4 5 Total System
Missing
8 35 60 56 46 205 3
Total
208
3.8 16.8 28.8 26.9 22.1 98.6 1.4 100.0
Chính sách ruộng đất
Frequency
Percent
Valid Percent
Valid
3.4 19.0 30.2 27.3 20.0 100.0
1 2 3 4 5 Total System
Missing
7 39 62 56 41 205 3
Total
208
3.4 18.8 29.8 26.9 19.7 98.6 1.4 100.0
Chính sách thuế được các doanh nghiệp trong ngành xuất khẩu đánh giá mức
tác động 4 là chủ yếu, chính sách tín dụng là thì mức 3 là câu trả lời được xuất hiện
nhiều nhất, chính sách phát triển thị trường, xúc tiến thương mại thì mức 3 và 4 được
phân bổ ngang nhau, chính sách thương nhân mức 4 được đánh giá nhiều hơn cả,
chính sách đầu tư là mức 4, chính sách ruộng đất mức độ đánh giá là mức 3.
Như vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu được khảo sát ý kiến đã đánh giá tương
đối cao mức độ hỗ trợ của các chính sách này tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của
họ. Tuy nhiên cũng theo đánh giá thì mức độ hỗ trợ chưa thực sự cao, các chính sách
cần có mức độ hỗ trợ tốt hơn, đặc biệt là chính sách về đất đai cho hoạt động sản xuất
và kinh doanh hàng xuất khẩu cần được nhà nước chú trọng hơn và tìm ra những giải
pháp phù hợp đề hài hòa được lợi ích của các bên, hỗ trợ mạnh được hoạt động xuất
khẩu hàng hóa của Lào hiện nay nhưng không vi phạm các cam kết của Lào với tổ
chức thương mại thế giới sau khi Lào đã gia nhập WTO. 2.5 Những kết luận đánh giá qua phân tích thực trạng chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào
2.5.1Kết quả đạt được của chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
của nước CHDCNDLào
104
Đảng và Chính phủ Lào đã nhận thức và đánh giá được tầm quan trọng của
chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa là không thể thiếu đối với nền kinh tế.
Do đó những hoạt động nhằm hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hóa phát triển
mạnh mẽ luôn là mối quan tâm của Đảng, Chính phủ, các cấp và các ngành hữu quan.
Tuy chưa có một bộ chính sách hoàn toàn vể hỗ trợ các hoạt động xuất khẩu, nhưng
trong việc ban hành các chính sách quản lý kinh tế, Nhà nước và chính phủ luôn đưa ra
những biện pháp hỗ trợ trong các chính sách quản lý kinh tế nhằm hỗ trợ hoạt động
xuất khẩu hàng hóa của đất nước. Do đó trên tất cả các khía cạnh quản lý hoạt động
kinh tế như thuế, hoạt động tín dụng, chính sách thương nhân, chính sách thị trường và
xúc tiến thương mại, chính sách đầu tư và ruộng đất, hoạt động xuất khẩu hàng hóa
luôn giành được sự ưu đãi hỗ trợ, từ phía nhà nước.
Nhìn chung, chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa, Chính phủ đã có
chủ trương, trải rộng từ đầu tư đến sản xuất và lưu thông, từ tài chính - tín dụng đến
thị trường và xúc tiến. Việc triển khai thực hiện các chủ trương này, tuy tốc độ nhanh
chậm có chỗ, có lúc khác nhau nhưng nhìn chung thì cũng tương đối đạt yêu cầu.
Nhiều vấn đề lâu nay bàn nhiều (như hỗ trợ tín dụng cho xuất khẩu, ưu đãi thuế cho
doanh nghiệp vệ tinh, ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa cho dân...) đã được
các bộ, ngành quan tâm giải quyết, góp phần tích cực cho thành công chung của hoạt động
xuất khẩu.
Chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa tốt đã giúp cho hoạt động xuất
khẩu đạt được mục tiêu đề ra và đóng góp một phần đáng kể vào việc thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2015 – 2025. Hoạt động xuất khẩu chính là yếu
tố phát huy nội lực rất quan trọng, tạo thêm vốn đầu tư công nghệ, tăng thêm việc làm,
thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa đất nước.
Đối với chính sách thuế đã ngày càng rõ ràng, minh bạch, việc thay đổi mức
thuế suất được công bố rộng rãi với thời hạn hiệu lực so với ngày công đã tính đến đặc
thù của từng mặt hàng nên đã hạn chế tổn thất cho các doanh nghiệp. Thông tin về
việc cắt giảm thuế được cập nhật thường xuyên và phổ cập tới toàn bộ doanh nghiệp
và đối tượng quan tâm. Thuế xuất thuế giá trị gia tăng là 0% đã hỗ trợ tốt cho doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm khi xuất khẩu hàng hóa của mình
ra nước ngoài. Nhà nước cũng hỗ trợ hoạt động xuất khẩu hàng hóa trên hầu hết các
sắc thuế chính đang ban hành hiện nay bao gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế nhập khẩu
hàng sản xuất hàng xuất khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính sách thuế đã tạo ra
105
sự hỗ trợ về tài chính tương đối lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu, giúp doanh nghiệp
giảm bớt chi phí, nhất là việc xem xét giảm thuế đối với các nguyên liệu sản xuất hàng
xuất khẩu góp phần giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu trên
thị trường quốc tế. Bên cạnh đó chính sách hỗ trợ thuế này cũng khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu.
Hoạt động hỗ trợ tín dụng xuất khẩu đã giúp các doanh nghiệp nâng cao khả
năng cạnh tranh hàng hoá của mình trên thị trường thế giới, giúp cho các nhà sản xuất
bán được sản phẩm và mở rộng thị trường. Như vậy, việc cho vay thông qua tín dụng
xuất khẩu đã có một sự khởi đầu tích cực. Bằng những hình thức phù hợp, nhà nước đã
hỗ trợ tín dụng để giải quyết những khó khăn về vốn cho doanh nghiệp xuất khẩu. Lào
hội nhập quốc tế với xuất phát điểm thấp, thiếu vốn đầu tư, các doanh nghiệp nói
chung gặp nhiều khó khăn. Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu trước giúp các doanh
nghiệp giữ vững được thị trường truyền thống, mở thị trường mới đối với các mặt hàng
thuộc diện ưu tiên, khuyến khích xuất khẩu của chính phủ.
Chính sách thị trường, xúc tiến thương mại, trong thời gian qua hoạt động của
các tổ chức xúc tiến thương mại thuộc bộ công thương đã giúp đỡ doanh nghiệp rất
nhiều như tư vấn kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu về thị trường, mặt hàng,
công nghệ, kỹ thuật kinh doanh và tìm kiếm đối tác, bạn hàng, tổ chức các buổi tọa
đảm, các triển lãm thương mại để giới thiệu sản phẩm xuất khẩu. Hoạt động chính
sách hỗ trợ về thị trường và xúc tiến thương mại đã giúp cho hoạt động xuất khẩu của
Lào vừa duy trì được thị trường truyền thống, và không ngừng mở rộng được các thị
trường mới nhiều tiềm năng.
Chính sách thương nhân: Chính sách tự do lưu thông và phát triển thị trường
thời gian qua đã phát huy được sức mạnh của các thành phần kinh tế trong sản xuất,
lưu thông hàng hóa trên thị trường trong nước và thế giới. Sự gắn kết giữa thị trường
trong nước và thị trường ngoài nước là một trong những kết quả quan trọng của sự đổi
mới chính sách thị trường. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu
hàng hóa của nước CHDCND Lào.
Mặt hàng xuất khẩu đã chiếm tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa đã được thay
đổi theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản
phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định.
Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu hàng hóa đã xây dựng được nhiều ngành hàng
106
có kim ngạch xuất khẩu cao như khoáng sản, dệt may, năng lượng, điện gỗ và sản
phẩm gỗ, và mặt hàng cà phê
Thị trường xuất khẩu được mở rộng, đã tạo lập được thị trường, những bạn
hàng truyền thống tin cậy hiểu biết lẫn nhau ở nước ngoài để xuất khẩu hàng hóa. Đã
tạo lập được nguồn hàng để cung cấp cho xuất khẩu.
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu đã có những chuyển biến tích cực. Các mặt hàng
truyền thống như cà phê, mía, rau quả cũng được đa dạng hóa chủng loại theo hướng
tăng dần sản phẩm chất lượng cao, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng quốc tế. Ngoài
các mặt hàng truyền thống, nhiện nay có thêm nhiều loại hàng hóa mới được đưa vào
xuất khẩu như thanh long, mật ong và một số rau tươi. Đồng thời các hàng hóa xuất
khẩu có những chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng hóa qua
chế biến, thay vì chỉ xuất khẩu các sản phẩm thô, chưa qua tinh chế như trước đây.
Một trong những thành tựu mà nước CHDCND Lào đạt được, đó chính là khả
năng cạnh tranh của hàng hóa Lào nói riêng, và các doanh nghiệp xuất khẩu của Lào
nói chung đã được nâng cao hơn so với trước đây. Ngoài các đặc tính vượt trội của
hàng hóa Lào so với các nước khác cùng xuất khẩu hàng hóa do điều kiện thời tiết và
thổ nhưỡng mang lại thì việc cải tiến kỹ thuật thu hái, vận chuyển, chế biến, đóng gói,
nhãn mác đã giúp cho hàng hóa Lào nâng cao khả năng cạnh tranh với nhiều sản phẩm
cùng loại trên thị trường xuất khẩu thế giới. Thêm vào đó, cùng với việc áp dụng các
tiêu chuẩn chung của quốc tế vào sản phẩm tạo ra, hàng hóa xuất khẩu của Lào đang
ngày càng đứng vững trên thị trường và tiếp tục chinh phục các thị trường xuất khẩu
mới trong khu vực trên thế giới.
2.5.2Những hạn chế của chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của
nước CHDCNDLào
Bên cạnh những kết quả đã đạt được như trên, thì cơ chế, chính sách nhà nước
hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa cũng còn những hạn chế như chưa được thực hiện triệt đề
hoặc chưa sát với thực tế, chưa đem lại những tác dụng mạnh mẽ như mong muốn
trong việc hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa. Cụ thể như sau:
Lào chưa có chính sách cụ thể để hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa cho dài hạn. Hầu hết
các biện pháp chính sách chủ yếu mang tính tình thế, chắp vá. Qua từng thời kỳ, qua từng
năm, các cơ quan nhà nước mới dừng ở việc đánh giá kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng
bao nhiêu so với thời kỳ trước, so với năm trước, chiếm tỷ trọng bao nhiêu phần trăm (%)
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước mà thiếu sự đánh giá hiệu quả xuất khẩu các
107
mặt hàng đạt được như thế nào? Có thể thấy, dường như đối với một số mặt hàng đang có
tình trạng “xuất khẩu lấy được” để giải quyết vấn đề ứ thừa hàng hóa chứ chưa tính tới
hiệu quả lâu dài.
Mặc dù, đã có những bước tiến lớn, song chính sách phát triển thị trường, xúc
tiến thương mại còn rất manh mún, mang tính tự phát, chưa tạo được nhiều thị trường.
Nhiều hoạt động xúc tiến thương mại mang tính tạm thời, chưa tính tới hiệu quả lâu
dài. Công tác xúc tiến thương mại mới chỉ giới hạn ở hoạt động trực tiếp thúc đẩy bán
hàng. Các hoạt động như quảng bá thương hiệu quốc gia và sản phẩm đặc trưng quốc
gia chưa thực sự được quan tâm nhiều. Trong lĩnh vực thông tin thương mại đang xảy
ra tình trạng vừa thừa, vừa thiếu thông tin (thừa thông tin chung, thiếu thông tin cụ
thể). Việc trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp của Lào và các đại sứ quán Lào
còn hạn chế về nhiều mặt do đó không nắm bắt kịp thời cũng như không đáp ứng được
các nhu cầu thông tin của doanh nghiệp. Do đó thông tin từ các tổ chức thương mại hỗ
trợ cho doanh nghiệp còn mang tính chung chung, chưa cụ thể, kịp thời, trong khi các
doanh nghiệp rất cần thông tin cụ thể về thị trường, mặt hàng. Công tác xúc tiến thị
trường còn hạn chế, việc tiếp cận và xử lý thông tin còn yếu nên nhiều chương trình
xúc tiến không nắm bắt đúng đối tượng, lĩnh vực kinh doanh làm cho hiệu quả thấp.
Một số quy định trong chính sách nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu hàng
hóa và thưởng xuất khẩu không rõ ràng, gây khó khăn khi thực hiện chính sách này.
Các quy định xét thưởng xuất khẩu còn phức tạp, việc xét duyệt còn chậm trễ dẫn đến
tình trạng một số doanh nghiệp mất hào hứng, hiệu quả của chính sách xét thưởng xuất
khẩu chưa phát huy hết tác dụng là kích thích doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hàng
hóa và tìm kiếm các thị trường xuất khẩu mới.
Chính sách phát triển thị trường tập trung chủ yếu ở châu Á đã tích cực khai
thác được ưu thế về khoảng cách địa lý, giảm chi phí cho hàng hóa xuất khẩu. Tuy
nhiên chính sách này cũng có hạn chế là hàng hóa của Lào phải cạnh tranh quyết liệt
với hàng hóa của các nước trong khu vực do sự tương đồng về cơ cấu hàng hóa xuất
khẩu. Hơn nữa việc tập trung quá vào khu vực thị trường này đã làm cho hàng hóa
xuất khẩu vào thế bị lệ thuộc vào thị trường này. Chính sách thị trường xuất khẩu đã
có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn chậm, mang tính giải pháp tình thế.
Chiến lược thị trường chưa được xây dựng trên thế chủ động. Trong đó có nhiều thị
trường gần như bị bỏ trống, thị trường châu Phi, trong khi đây là thị trường có sức cầu
lớn, thị trường Mỹ La tinh chưa được khai thác tốt, điều này không chỉ đặt xuất khẩu
108
hàng hóa của Lào vào thế bị động về thị trường do quá lệ thuộc vào một khu vực thị
trường, mà còn hạn chế cơ hội chủ động vươn xa của hàng hóa xuất khẩu Lào.
Chưa hình thành chính sách xây dựng bạn hàng vững chắc, lâu dài với từng thị
trường, nhất là với những thị trường trọng điểm. Do đó các bạn hàng lớn chưa có
nhiều và ổn định. Nhiều trường hợp phải xuất khẩu qua thị trường trung gian, làm
giảm lợi ích, hạn chế việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa . hơn nữa cách xây dựng thị
trường xuất khẩu chưa đảm bảo tạo ra sự chuyển biến về giá trị xuất khẩu nhờ khai
thác được lợi thế của từng khu vực thị trường. Hiện tại, chính sách thị trường xuất
khẩu nông sản vẫn thiên về ưu tiên mục tiêu gia tăng khối lượng, chỉ tìm cách mở rộng
thị trường để có thể xuất khẩu được càng nhiều càng tốt mà chưa quan tâm đúng mức
đến việc xây dựng chính sách thị trường trên cơ sở phân đoạn thị trường theo các tiêu
chí khác nhau (như khả năng thanh toán, nhu cầu giá rẻ, yêu cầu về chất lượng sản
phẩm, các yêu cầu khác về phương thức thanh toán...).
Chính sách xúc tiến thương mại của Lào còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện. Việc
cung cấp thông tin về thị trường đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ,
kịp thời, chính xác, nhất là các dự báo dài hạn. Nhiều vấn đề thông tin và phân tích
thông tin chưa được chú trọng đúng mức như thông tin về đối thủ cạnh tranh, sản
phẩm, chính sách các nước bạn hàng, quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, điều này
hạn chế hiệu quả của xuất khẩu.
Lào chưa có mạng lưới làm công tác xúc tiến thương mại sâu rộng ở các thị
trường trên thế giới, chính sách xây dựng thương hiệu hàng xuất khẩu chưa được
quan tâm đúng mức. Tuy nhiên thương hiệu được xây dựng và quảng bá phải phù
hợp với chất lượng hàng hóa xuất khẩu, do đó phải nâng cao được chất lượng hàng
hóa xuất khẩu.
Chính sách thuế chưa được kết hợp sử dụng với các chính sách khác một cách
đồng bộ. Điều này dẫn tới một số bất lợi đó là không thể thực hiện được định hướng
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu nông sản, không tạo định hướng cho sự dịch chuyển của
các yếu tố vào sản xuất những mặt hàng có hiệu quả. Do đó, các yếu tố đầu vào vẫn
tiếp tục hoặc dịch chuyển vào những lĩnh vực kém hiệu quả hoặc dịch chuyển quá
mức vào một mặt hàng nào đó, gây lãng phí lớn về nguồn lực. Tính đồng bộ của chính
sách thuế hỗ trợ tín dụng chưa cao, hiệu lực về mặt thực tế của chính sách chưa đạt
được so với yêu cầu và mong muốn của nhà hoạch định chính sách, xét trên mức độ
phù hợp thì chính sách thuế đã đạt được phù hợp với những quy định của tổ chức
109
thương mại thế giới và các chính sách thuế quan quan trong nước, phù hợp với thông
lệ quốc tế, đã có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa nhưng chưa triệt đề.
Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, so với các
khu vực khác, khu vực doanh nghiệp nhà nước được hưởng khá nhiều đặc quyền đặc
lợi trong thụ hưởng chính sách ưu đãi tín dụng ngân hàng. Mặc dù khu vực này làm ăn
thường kém hiệu quả. Trong khi đó, các doanh nghiệp tư nhân được đánh giá là làm ăn
có hiệu quả hơn nhưng họ rất khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng
thương mại nhà nước, quỹ hỗ trợ phát triển và quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Do đó chính sách
tín dụng hỗ trợ không kích thích được xuất khẩu hàng hóa tăng trưởng theo đúng tiềm
năng của nó. Đồng thời làm cho nguồn lực quốc gia bị sử dụng kém hiệu quả do nguồn
vốn tín dụng giao cả cho những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả sử dụng. Trong
thời gian gần đây, chính phủ đã đưa ra những chính sách điều chỉnh theo hướng nới
lỏng, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tư nhân được vay vốn của các
ngân hàng thương mại, nhưng tình trạng các doanh nghiệp tư nhân vẫn ở vị trí yếu thế
hơn doanh nghiệp nhà nước trong th hưởng những lợi ích từ chính sách hỗ trợ tín dụng
của nhà nước. Chính sách tín dụng xuất khẩu có mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa,
nhưng thực tế vẫn còn có những vấn đề chưa đạt được như mong đợi. Chính sách tín
dụng đã thể hiện được tính phù hợp với từng thời kỳ để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu
hàng hóa. Trong từng thời kỳ Nhà nước đều có sự thay đổi các quy định trong chính
sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa sao cho phù hợp với những quy định về cấp
tín dụng cũng như quy định của tổ chức thương mại thế giới (WTO) mà Lào đã cam
kết tuân thủ. Nếu xét tính hiệu lực của một chính sách là phản ánh mức độ tác động,
ảnh hưởng của chính sách đó trên thực tế, làm biến đổi hoặc duy trì thực tế theo mong
muốn của chính phủ. Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu đã đạt được hiệu lực về lý
thuyết, khi chính sách đã được nhà nước công nhận để đưa vào vận hành. Tuy nhiên
khi xét hiệu lực thực tế của chính sách là hiệu lực có được khi chính sách tác động đến
thực tế làm biến đổi thực tế theo mong muốn của chính phủ, chính sách tín dụng của
chính phủ chưa đạt được hiệu lực thực tế như mong muốn của chính phủ khi nó chưa
áp dụng và đem lại kết quả như mong muốn của chính phủ.
Nhìn chung, thiếu sự phối hợp đồng bộ, gắn kết các chính sách ở tầm quản lý
vi mô và vĩ mô đối với lĩnh vực xuất khẩu nông sản. Thiếu sự phối kết hợp một cách
đồng bộ các chính sách, tạo ra sự cộng hưởng của các chính sách, đảm bảo có sự hỗ
trợ, bổ sung của các chính sách một cách hiệu quả.trong nhiều trường hợp, chưa có sự
110
nhất quán giữa các cơ quan chức năng, còn thiếu sự thống nhất giữa chính sách được
ban hành với thực tế thực thi chính sách.
Kể từ sau khi gia nhập WTO, chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
của Lào vẫn tồn tại những hạn chế dẫn tới chưa phát huy hết những cơ hội sau khi gia
nhập WTO. Thiếu các biện pháp tự vệ trong hỗ trợ xuất khẩu và bảo vệ hàng trong
nước. Các biện pháp tự vệ trong hoạt động ngoại thương chưa bảo vệ được các ngành
sản xuất trong nước. Các tiêu chuẩn kỹ thuật về hàng hóa chưa được ban hành đầy đủ,
hay có ban hành thì mới ở dạng pháp lệnh như pháp lệnh chống trợ cấp, pháp lệnh bảo
vệ và và kiểm dịch động thực vật, pháp lệnh tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, pháp
lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được nâng lên thành luật nên tính pháp lý chưa
cao. Trong đó nội dung của các văn bản này chung chung, chưa cụ thể hóa, hoặc ban
hành chậm, không đồng bộ, thống nhất, dẫn tới việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản
xuất hàng xuất khẩu trong nước còn nhiều hạn chế.
Chưa thực hiện triển khai kế hoạch, quy hoạch hợp lý trong phát triển thị
trường xuất khẩu. Xuất khẩu hàng hóa vẫn tồn tại thực trạng cơ cấu xuất khẩu và thị
trường xuất khẩu hiện nay chủ yếu dựa trên nền tảng xuất khẩu những gì hiện có chứ
không phải xuất khẩu những gì thị trường đòi hỏi. Bởi vậy, sự thiếu những quy hoạch
và chiến lược xuất khẩu với cơ cấu mặt hàng chủ lực và thị trường và một hạn chế lớn.
Xác định các thị trường trọng điểm với từng mặt hàng để có kế hoạch phát triển nguồn
hàng, thu mua và chế biến đồng độ, đạt chất lượng yêu cầu.
2.5.3 Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất: Chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của Lào vẫn đang
trong quá trình hoàn thiện.
Do chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của Lào vẫn đang trong quá
trình hoàn thiện nên việc điều chỉnh chính sách là tất yếu. Tuy nhiên những điều chỉnh
đó trong nhiều trường hợp không được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin
đại chúng nên các các doanh nghiệp chưa tiếp cận được đầy đủ với pháp luật. Do đó dẫn
tới chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của Lào vẫn chưa ổn định, tính rõ ràng,
minh bạch không cao.Chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của Lào vẫn đang
trong quá trình hoàn thiện nên việc điều chỉnh các chính sách là điều tất yếu; Tuy nhiên,
những điều chỉnh có trong nhiều trường hợp không được công bố rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng nên các doanh nghiệp khó tiếp cận được đầy đủ với pháp
luật. Điều đó thể hiện tính rõ ràng, minh bạch trong chính sách chưa cao.
111
Thứ hai: nhà hoạch định chính sách thiếu sự nhạy bén đối với nền kinh tế thị
trường và nền kinh tế thế giới đang thay đổi từng ngày. Chưa đủ lý luận thực tế để
hình thành bộ chính sách theo sát tình hình thực tế dẫn tới chính sách mặt hàng xuất
khẩu, nhập khẩu chưa gắn kết với nhau
Hoạt động xuất khẩu có quan hệ mật thiết với nhau vừa là tiền đề, vừa là điều
kiện thúc đẩy nhau phát triển; Xuất khẩu là để có ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu, còn
nhập khẩu đảm bảo cung cấp đầu vào cho sản xuất vơi chất lượng và giá cả hợp lý để
nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh, từ dó hỗ trợ xuất khẩu. Để thực
hiện chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu, chính sách mặt hàng nhập khẩu cần
hướng tới phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu; Nhưng thực tế trong những năm qua,
chính sách mặt hàng nhập khẩu của Lào chưa gắn với mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu.
Những ưu đãi qua thuế, ưu đãi đầu tư đã giành nhiều cho sản xuất thay thế nhập khẩu
hơn là sản xuất hướng về xuất khẩu; Ví dụ, ngành sản xuất thép, đường, xi măng được
hưởng chính sách ưu đãi qua đầu tư, chính sách thuế thấp hơn với nguyên vật liệu, linh
kiện, phụ tùng và thuế nhập khẩu cao đối với thành phẩm, qua đó những ngành này có
điều kiện thuận lợi để phát triển và đáp ứng tốt nhu cầu trong nước nhưng để xuất
khẩu thì vẫn không có khả năng cạnh tranh. Trong khi đó những ngành phụ trợ cho
mặt hàng có nhiều lợi thế về sản xuất như may mặc, hàng nông sản… lại chưa được
chú ý phát triển. Nguyên nhân của những thiếu sót trên là do các nhà hoạch định khi
xây dựng chính sách mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu chưa căn cứ vào tín hiệu cảu nền
kinh tế thị trường, chưa đánh giá đúng tiềm năng cũng như mức độ cạnh tranh của
từng sản phẩm mà lại dựa vào ý muốn chủ quan, những mong muốn cá nhân của người
lãnh đạo từ cấp chính phủ đến cấp ngành, thậm chí đến cả mong muốn của một số
doanh nghiệp riêng lẻ.
Thứ ba: Các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế còn yếu
Các văn bản quy định biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế mới chỉ được
ban hành dưới dạng Pháp lệnh (Pháp lệnh tự vệ, Pháp lệnh chống bán phá giá, Pháp
lệnh chống trợ cấp, Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch động thực vật, Pháp lệnh tiêu chuẩn
chất lượng hàng hóa, Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm)mà chưa nâng len thành
Luật nên tính pháp lý chưa cao. Nội dung các văn bản này còn chung chung, những
văn bản hướn dẫn chi tiết ban hành chậm và chưa đồng bộ. Đồng thời số lượng và chất
lượng cán bộ trong các cơ quan chức năng chưa đủ mạnh, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Hàng hóa nhập khẩu vào Lào chất lượng thấp, chưa đảm bảo đúng tiêu chuẩn vệ sinh
an toàn thực phẩm, hàng giả, hàng nhái bằng nhiều cách vẫn dễ dàng thâm nhập vào
112
thị trường trong nước gây khó khăn cho các nhà sản xuất và gây thiệt hại cho người
tiêu dùng.
Thứ tư: Chậm trễ trong việc xây dựng triển khai quy hoạch, kế hoạch phát triển
xuất nhập khẩu sang thị trường quốc tế
Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đưa ra là định hướng chiến lược,
còn khả năng thực thi chính sách phụ thuộc vào quy hoạch, kế hoạch phát triển trong
từng thời kỳ; Thực tế ở CHDCND Lào, do chậm trễ trong việc xây dựng triển khai quy
hoạch, kế hoạch phát triển xuất nhập khẩu, cũng như hạn chế về “tầm nhìn” dẫn đến bị
động, lung túng trong xử lý các mối quan hệ với WTO; Cần phải thấy, mục đích cuối
cùng của Lào là hội nhập với các nước công nghiệp phát triển trên thị trường thế giới,
còn hội nhập với thị trườngquốc tế chỉ là bước đệm để chúng ta học hỏi, rút kinh
nghiệm và hòa nhập nhanh chóng.
Về cơ bản, cơ cấu xuất khẩu của Lào hiện nay chủ yếu dựa trên nền tảng xuất
khẩu những gì hiện có chứ không phải xuất khẩu những gì thị trường quốc tế. Bởi vậy,
việc quy hoạch lựa chọn mặt hàng xuất khẩu chủ lực với từng thời kỳ là vô cùng quan
trọng. Xác định thị trường trọng điểm với từng mặt hàng để có kế hoạch phát triển
nguồn hàng, thu mua và chế biến hợp lý, đồng bộ.
113
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2, luận án đi sau phân tích và đánh giá thực trạng chính sách nhà
nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào trong điều kiện gia nhập tổ
chức thương mại thế giới (WTO)dựa trên các chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa được nghiên cứu ở chương 1.
Tác giả phân tích thực trạng xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Làotrên
các khía cạnh: tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực, thực trạng thị trường xuất
khẩuvà vấn đề phát triển thị trường hiện nay. Có thể thấy rằng hàng hóa xuất khẩu
chính của Lào hiện nay chủ yếu vẫn là các mặt hàng về nguyên nhiên liệu, hàng hóa
xuất khẩu phần nhiều vẫn ở dạng sơ chế, chưa qua chế biến để tăng giá trị gia tăng của
hàng hóa xuất khẩu. Chủ yếu vẫn ở các thị trường truyền thống, việc mở rộng thị
trường đã và đang được chú trọng phát triển. Tuy nhiên thương hiệu sản phẩm hàng
hóa xuất khẩu của Lào chưa thực sự được quan tâm phát triển đúng mức.
Phân tích sự tác động của từng chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
của Lào. Những điều đã đạt được cũng như chưa đạt được trong từng chính sách. Luận
án đã đi sâu vào nghiên cứu điều tra mức độ tác động của các chính sách hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa của nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa.
Từ những phân tích thực trạng và kết quả điều tra nghiên cứu, tác giả đánh giá
những kết quả tác động đã đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của các chính
sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của Lào hiện nay. Đây là cơ sở để luận án
đưa ra những quan điểm mang tính chất định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm
hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào ở
chương 3.
114
CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA NƯỚC
CHDCND LÀO TRONG ĐIỀU KIỆN LÀ THANH VIÊN
CỦATỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
3.1Những quy định của WTO về hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa và những cam
kết của CHDCND Lào với WTO về hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
3.1.1 Những quy định của WTO về hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
WTO đưa ra các quy định về việc sử dụng các biện pháp trợ cấp cũng như các
quy định về những hành động một thành viên WTO có thể sử dụng để đối phó lại ảnh
hưởng của các biện pháp trợ cấp. Theo Hiệp định, một thành viên WTO có thể sử dụng
cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để yêu cầu một thành viên khác rút lại biện
pháp trợ cấp mà họ đang áp dụng, hoặc có những phương thức khắc phục ảnh hưởng
tiêu cực của biện pháp trợ cấp đó.
Hiệp định phân trợ cấp thành hai nhóm: trợ cấp bị cấm và trợ cấp có thể áp
dụng. Trước đây, trợ cấp còn có thể thuộc một nhóm thứ ba: trợ cấp có thể không được
áp dụng. Nhóm này tồn tại trong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, tức là
đến ngày 31 tháng 12 năm 1999, và không được gia hạn thêm. Hiệp định áp dụng đối
với cả hàng nông sản cũng như hàng chế tạo, ngoại trừ các khoản trợ cấp được miễn
trừ theo "điều khoản hòa bình" của Hiệp định về Nông nghiệp. Điều khoản này cũng đã
• Trợ cấp bị cấm: Là các khoản trợ cấp yêu cầu người nhận phải đáp ứng được
hết hạn vào cuối năm 2003.
những mục tiêu xuất khẩu nhất định, hoặc phải sử dụng hàng trong nước thay cho
hàng nhập khẩu. Chúng bị cấm vì chúng được xây dựng nhằm làm biến dạng thương
mại quốc tế, và do đó có khả năng tác động tiêu cực đến trao đổi thương mại của các
thành viên khác. Những trợ cấp này phải bị dỡ bỏ dần theo một thời gian biểu quy
định. Chúng có thể bị đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nếu không tuân
theo thời gian biểu dỡ bỏ đó. Nếu cơ chế giải quyết tranh chấp kết luận rằng một
khoản trợ cấp thuộc nhóm bị cấm, khoản trợ cấp đó phải được dỡ bỏ ngay lập tức. Nếu
không được dỡ bỏ, nước nguyên đơn có thể có những biện pháp phản kháng lại khoản
trợ cấp đó. Trong trường hợp ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại bởi hàng nhập
115
• Trợ cấp có thể áp dụng: Đối với những khoản trợ cấp trong nhóm này, nước
khẩu được trợ cấp, thuế chống trợ cấp có thể được áp dụng đối với hàng nhập khẩu.
nguyên đơn phải chứng minh được rằng khoản trợ cấp đó có tác động tiêu cực đối với
lợi ích của họ. Nếu không chứng minh được điều đó, khoản trợ cấp được phép áp
dụng. Hiệp định quy định ba hình thức thiết hại có thể gây ra bởi các khoản trợ cấp
thuộc nhóm này. Thứ nhất, trợ cấp của một nước có thể gây thiệt hại đến ngành sản
xuất nội địa của nước nhập khẩu. Thứ hai, trợ cấp của một nước có thể gây thiệt hại
đến xuất khẩu của một nước khác khi hàng của 2 nước cạnh tranh với nhau trên thị
trường của một nước thứ ba. Thứ ba, trợ cấp nội địa của một nước có thể gây thiệt hại
đối với hàng xuất khẩu của các nước khác được bán trên thị trường của nước áp dụng
biện pháp trợ cấp.Nếu Hội đồng Giải quyết Tranh chấp kết luận rằng khoản trợ cấp
đang được xem xét đúng là có gây tác động tiêu cực, khoản trợ cấp đó phải được dỡ
bỏ, hoặc tác động tiêu cực đó phải được khắc phục. Cũng giống như trường hợp trên,
khi ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại bởi hàng nhập khẩu được trợ cấp, thuế
chống trợ cấp có thể được áp dụng đối với hàng nhập khẩu.
Như vậy, WTO yêu cầu các thành viên phải sử dụng các hình thức hỗ trợ ở
nước mình sao cho trợ cấp đó là trung lập đối với cạnh tranh. Nhìn chung những quy
định của WTO về việc sử dụng trợ cấp và phương thức điều tra trợ cấp đã có tác dụng
làm giảm đáng kể nguy cơ lạm dụng và đánh giá tuỳ tiện.
3.1.2 Những cam kết của nước CHDCND Lào với WTO về hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa
Lào có khoảng 6,5 triệu dân, kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, cơ sở hạ
tầng còn rất thiếu, công nghiệp kém phát triển. Các sản phẩm chính của Lào gồm gạo,
cà phê, thuốc lá và một số sản phẩm khác. Bên cạnh đó, Lào còn được biết tới với một
số ngành khác như khai thác thiếc, gỗ, và cây thuốc phiện. Hiện Lào có hai công ty
niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán. Đầu tư nước ngoài tăng từ 300 triệu USD
năm 2005 lên 1,5 tỷ USD năm 2011. (Trong đó 80% đầu tư vào thủy điện và các dự án
khai thác mỏ.)
Lào có mức tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng, duy trì ở mức trên 7%/năm trong
liên tục gần 1 thập kỷ gần đây. Riêng năm 2012, Lào có mức tăng trưởng 8,3% (theo
số liệu của IMF). Điều này giúp Lào trở thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất
2012 trong khu vực ASEAN. Đứng thứ hai là Campuchia với tốc độ tăng trưởng kinh
tế 6,5%, đứng thứ 3 là Myanmar 6,2%, sau đó đến Indonesia và Thái Lan.
116
Tăng trưởng của Lào trong giai đoạn này chủ yếu xuất phát từ hoạt động khai
khoáng, thủy điện và xây dựng. Những ngành này ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng
hoảng nợ công châu Âu và tình trạng tăng trưởng chậm lại ở các nền kinh tế mới nổi
làm giảm nhu cầu xuất khẩu, vốn gây tổn thương thương mại không nhỏ cho một số
nước Đông Nam Á khác. Tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, thị trường tiêu thụ của
Lào cũng phát triển mạnh trong những năm gần đây. Tuy nhiên, Lào có hệ thống
đường bộ, đường sắt còn hạn chế và thiếu lao động tay nghề cao.
Để đáp ứng các đòi hỏi của WTO, Lào đã ban hành và sửa đổi hơn 90 luật và
quy định. Lào cam kết giảm thuế nhập khẩu với mức trung bình dưới 18,8%, hạn chế
trợ cấp nông nghiệp và mở cửa 10 ngành công nghiệp cho phép cạnh tranh nước ngoài.
Lào cũng phải thực hiện cam kết bổ sung trong đàm phán song phương với các thành
viên WTO khác như Australia, Canada, China, Liên minh Châu Âu (EU), Nhật Bản,
Hàn Quốc, Mỹ và Ukraine.
Từ khi bắt đầu chính thức đàm phán gia nhập WTO vào 2004, Lào đã có nhiều
chính sách mới nhằm đáp ứng các yêu cầu của WTO trên nhiều lĩnh vực như đầu tư,
an toàn thực phẩm, thủ tục xuất nhập khẩu... Lào đã có các bước tiến đáng kể trên con
đường tự do hóa nền kinh tế.
Đặt chân vào WTO hứa hẹn tăng trưởng kim ngạch thương mại, tăng thêm các
đối tác thương mại mới cũng như triển vọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Lào.
Gia nhập WTO giúp Lào có thêm công cụ tự bảo vệ mình trước những tranh chấp
thương mại. Tư cách WTO còn là nền tảng cần thiết để Lào thực hiện mục tiêu thoát
khỏi trạng thái là một nước kém phát triển (LDC) vào năm 2020 (theo Bộ trưởng Công
Thương, cũng là trưởng Đoàn đàm phán gia nhập WTO của Lào, ông Nam Viyaketh).
Năm 2012, với nỗ lực không ngừng mở cửa với thế giới bên ngoài mà kết
thúc đàm phán gia nhập WTO là một cột mốc quan trọng, Lào đã chấm dứt thời
gian dài đứng ngoài các hoạt động kinh tế - thương mại sôi động của khu vực cũng
như trên thế giới.
Với sự phát triển nhanh chóng của khai khoáng và thủy điện, Lào đã trở thành
một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất ở Châu Á, ước tính 7.9% trong năm
nay với tỉ lệ tăng trưởng xuất nhập khẩu ở mức hai chữ số - theo ghi nhận của Ngân
hàng phát triển Châu Á. Những con phố trầm lắng buồn tẻ ngày nào của Viêng Chăn
giờ đã tràn ngập những chiếc xe hơi , xe thể thao của Nhật Bản. Để gia nhập WTO,
Lào đã ban hành và sửa đổi hơn 90 Bộ luật và quy định pháp lý và tiến tới hoàn thiện cải
117
cách nền kinh tế. Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu ASEM vừa được tổ chức đầu tháng 11 vừa
qua tại Viêng Chăn là minh chứng rõ nét cho những nỗ lực hội nhập của chính phủ Lào.
Đôi khi những nhà cải cách kinh tế của các quốc gia như Lào nhận thấy công
cuộc cải cách có thể được đẩy mạnh hơn thông qua việc gia nhập các tổ chức quốc tế
và khu vực. Điều này sẽ tạo ra một phép thử chuẩn xác cho các doanh nghiệp nhà
nước vốn vẫn được bảo hộ từ trước đến nay.
Như vậy, nếu liên hệ với định nghĩa, phân loại trợ cấp và tiêu chí phân loại ưu
đãi đầu tư của UNCTAD thì rõ ràng các biện pháp ưu đãi đầu tư dưới hình thức cho
các doanh nghiệp, các ngành sản xuất tiếp cận với các nguồn vốn vay với lãi suất thấp,
được miễn thuế...căn cứ vào tiêu chí sản xuất hàng xuất khẩu, yêu cầu hàm lượng nội
địa, khuyến khích sử dụng hàng trong nước thay thế hàng nhập khẩu rõ ràng chính là
trợ cấp bị cấm theo Điều 3 Hiệp định SCM.
Thương mại nông sản đã được đề cập trong GATT 1947, tuy nhiên lĩnh vực này
lại được bảo vệ bằng nhiều ngoại lệ khác nhau, đặc biệt là trợ cấp xuất khẩu và mức
thuế quan cao để ngăn chặn, gây cản trở cho hoạt động thương mại này. Nhận thức
được tình hình này, vòng đàm phán Uruguay đã cho ra đời Hiệp định nông nghiệp,
chính thức có hiệu lực vào ngày 1.1.1995, với mong muốn cải cách các điều kiện đối
với thương mại nông sản và làm cho lĩnh vực này định hướng thị trường hơn. Theo đó,
các thành viên sẽ phải tự đưa ra các cam kết riêng biệt để mở cửa thị trường, cắt giảm
trợ cấp xuất khẩu cả về giá trị, số lượng và hạn chế trợ cấp trong nước.
Trong đó, mở cửa thị trường chính là việc thuế quan hóa các biện pháp phi thuế
quan và mức thuế quan này sẽ được giảm dần trong khoảng thời gian nhất định. Kế
đến, trợ cấp xuất khẩu liên quan đến những khoản trợ cấp trực tiếp và những cắt giảm
chi phí nhưng không bao gồm trợ cấp thông qua tín dụng xuất khẩu, các công ty
thương mại nhà nước và trợ cấp lương thực. Trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp tác động
rất lớn đến hoạt động thương mại quốc tế về nông nghiệp nhưng những cam kết cắt
giảm khoản trợ cấp này thực chất không được quy định cụ thể trong Hiệp định nông
nghiệp, mà chủ yếu được ghi nhận trong các cam kết gia nhập WTO của từng thành
viên cụ thể. Và cuối cùng, hỗ trợ trong nước được phân thành ba loại căn cứ vào mức
độ ảnh hưởng của các biện pháp này đối với hoạt động thương mại quốc tế về nông
nghiệp. Thứ nhất, hỗ trợ hộp màu hổ phách (amber box), bao gồm trợ cấp, các khoản
thanh toán trực tiếp mà không phải trường hợp ngoại lệ, do đó phải cắt giảm. Thứ hai,
hỗ trợ hộp xanh da trời (blue box) bao gồm các chương trình dịch vụ chính
118
phủ, cứu trợ khi có thiên tai, kiểm soát dịch bệnh, hỗ trợ nghiên cứu phát triển, hỗ trợ
mang tính bảo vệ môi trường, mang tính cơ cấu, tính khu vực, nên không bị coi là tác
nhân dẫn đến bóp mép thương mại và được loại trừ khỏi diện cắt giảm. Thứ ba, hộp
xanh lục (green box) bao gồm các khoản thanh toán trực tiếp cho người sản xuất liên
quan đến chương trình hạn chế sản xuất, loại này không bị ảnh hưởng bởi việc cắt
giảm theo nghĩa vụ.
Hiệp định TRIMS thực chất không điều chỉnh hoạt động trợ cấp nhưng điều
chỉnh các biện pháp đầu tư có thể hạn chế hoặc bóp méo hoạt động thương mại quốc
tế. Tuy nhiên, Hiệp định này không đưa ra định nghĩa chính xác về các biện pháp đầu
tư. Thay vào đó, Hiệp định đưa ra một bản danh sách minh họa những biện pháp liên
quan đến thương mại bị cấm, bao gồm các biện pháp đòi hỏi doanh nghiệp phải mua
sắm một số lượng nhất định hàng sản xuất trong nước (yều cầu về hàm lượng nội địa)
và yêu cầu về cân bằng thương mại (gắn số lượng, trị giá xuất khẩu mà doanh nghiệp
có thể mua hoặc sử dụng trong phạm vi có liên quan đến số lượng sản phẩm mà doanh
nghiệp đó xuất khẩu). Như vậy, thành viên cam kết sẽ không áp dụng bất kỳ biện pháp
đầu tư nào nếu biện pháp này mâu thuẫn với Điều III (đối xử quốc gia) và Điều XI
(cấm hạn chế số lượng) của GATT 1994 và hoàn toàn trên cơ sở không có sự phân biệt
giữa các nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài.
Trước đây, theo quy định tại Điều 60 Nghị định 24/ߨ, năm 2000 các máy móc
thiết bị và các phương tiện vận tải chuyên dụng sử dụng trong các dây chuyền công
nghệ mà trong nước chưa sản xuất được và được nhập khẩu để tạo tài sản cố định của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc để thực hiện hợp đồng hợp
tác kinh doanh sẽ không bị đánh thuế giá trị gia tăng (VAT). Ngoài ra, Lào áp dụng
thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa đối với sản phẩm phụ tùng xe
hai bánh, cơ khí,điện, điện tử và các biện pháp ưu đãi theo tiêu chí xuất khẩu (thưởng
xuất khẩu, miễn hoặc giảm tiền thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, thuế sử
dụng đất,...). Lào cam kết không miễn và giảm thuế nhập khẩu dựa trên thành tích xuất
khẩu, tỷ lệ xuất khẩu hay các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa ngay từ khi gia nhập. Như
vậy, bãi bỏ những quy định có liên quan đến vấn đề này là điều quan trọng đầu tiên
nhất Lào phải thực hiện.
Thống nhất quy chế pháp lý cho mọi loại hình doanh nghiệp, ghi nhận sự đối xử
bình đẳng cho cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, chính thức xóa bỏ việc dùng
trợ cấp để khuyến khích đầu tư.
119
Kể đến, sẽ xóa bỏ toàn bộ các trợ cấp bị cấm (tức là trợ cấp căn cứ vào thành
tích xuất khẩu hoặc khuyến khích sử dụng hàng trong nước thay thế nhập khẩu) dành
cho ngành dệt may.
Và cuối cùng, trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta sẽ phải xóa bỏ các trợ cấp
xuất khẩu đối với sản phẩm nông nghiệp của Lào.
Như vậy,gia nhập WTO, Lào chỉ bãi bỏ các biện pháp ưu đãi đầu tư dưới hình
thức trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản, hàng dệt may; trợ cấp đã áp dụng liên
quan đến xuất khẩu hàng phi nông nghiệp và yêu cầu nội địa hóa sẽ được bãi bỏ trong
vòng 5 năm kể từ ngày gia nhập và cam kết không cấp thêm trợ cấp mới cho các lĩnh
vực này. Như vậy, các loại trợ cấp khác phù hợp với Hiệp định SCM và Hiệp định
nông nghiệp vẫn được phép duy trì. Đây là thời điểm thích hợp nhất để nước
CHDCND Lào chuyển các khoản tiền trợ cấp trực tiếp trên sang các khoản hỗ trợ gián
tiếp, hỗ trợ phát triển thủy lợi, cơ sở hạ tầng, nghiên cứu khoa học.
3.2 Quan điểm và định hướng hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào đến năm 2025
3.2.1Quan điểm hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
của nước CHDCND Lào trong điều kiện là thành viên củaWTO
Thứ nhất: Gắn việc hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
với mục tiêu công nghiệp hóa và mục tiêu kinh tế - xã hội
Chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa là một bộ phận không thể tách
rời trong hệ thống chính sách kinh tế – xã hội của đất nước. Hoạt động xuất nhập khẩu
và hội nhập kinh tế quốc tế chỉ là một trong 19 định hướng về phát triển các lĩnh vực,
ngành tại Lào. Việc hoàn thiện chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa do đó phải được
gắn kết chặt chẽ với các chính sách kinh tế – xã hội, đặc biệt là chính sách công
nghiệp. Việc chủ động hoàn thiện chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa liên quan tới
các hàng loạt các vấn đề như nhận thức, trách nhiệm của các ngành liên quan và cả
việc huy động và sử dụng các nguồn lực cần thiết. Việc chủ động hoàn thiện chính
sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa thể hiện ở nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hóa
thương mại và bảo hộ mậu dịch trong quá trình hoàn thiện chính sách hỗ trợ cho phù
hợp với bối cảnh của Lào; hoàn thiện các công cụ thuế quan và phi thuế quan cho từng
ngành, từng lĩnh vực, từng hàng hóa cụ thể, và chủ động tổ chức phối hợp hoàn thiện
chính sách. Việc chủ động hoàn thiện chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa còn thể
hiện ở việc chủ động đưa ra các nội dung và đề xuất cách thức giải quyết các vấn đề
120
trong các quan hệ song phương và trong các tổ chức khu vực và quốc tế mà Lào tham
gia. Nhận thức của lãnh đạo và các cấp thực thi được thể hiện bằng tầm nhìn và các
chương trình hành động. Các chương trình hành động về hoàn thiện chính sách hỗ trợ
xuất khẩu cũng cần được gắn chặt chẽ với các nguồn lực về trang thiết bị, tài chính và
con người.
Thứ hai: Việc hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa phải đảm
bảo các nguyên tắc, quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia các tổ chức quốc tế
Lào phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc như (1) không phân biệt đối xử
thông qua thực hiện MFN và nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT); (2) nguyên tắc về
thương mại tự do hơn (ngày càng giảm dần các biện pháp can thiệp vào thương mại);
(3) nguyên tắc về tính có thể dự đoán và đảm bảo minh bạch hóa quá trình thiết kế và
thực thi chính; (4) đảm bảo cạnh tranh công bằng; (5) khuyến khích phát triển và cải
cách kinh tế. Các quyền lợi về thâm nhập thị trường, tham gia đàm phán và các nghĩa
vụ như mở cửa thị trường, báo cáo tình hình thực hiện cắt giảm các biện pháp can
thiệp vào thương mại, đầu tư cần phải được thực hiện. Lào phải điều chỉnh chính sách
cho phù hợp với luật chơi chung trong các tổ chức đó. Việc quán triệt quan điểm này
sẽ đảm bảo đáp ứng yêu cầu của các tổ chức khu vực, quốc tế và chủ động tận dụng
được các cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế. Việc đàm phán thay đổi hoàn toàn lịch
trình thực hiện cam kết là điều không nên làm và khó có thể được chấp nhận. Lào cần
xác định thái độ tuân thủ nhưng không bó buộc trong các lịch trình thực hiện bởi vì
những mốc thời gian là mục tiêu chung và các quốc gia được quyền chủ động đề xuất
việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan tại các cuộc đàm phán cũng như
có những linh hoạt trong một khuôn khổ nhất định khi thực hiện (lộ trình cho từng mặt
hàng, từng lĩnh vực cụ thể).
Thứ ba: Việc hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa phải đảm
bảo sự tham gia của hệ thống chính trị
Việc hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu phải đảm bảo sự tham gia
của không chỉ các cơ quan quản lý nhà nước (hoạch định và thực thi chính sách) mà cả
các đối tượng khác như cộng đồng doanh nghiệp (các hiệp hội, các doanh nghiệp) và
giới nghiên cứu. Sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng doanh
nghiệp và giới nghiên cứu thể hiện bằng việc chia sẻ trách nhiệm, nguồn lực và lợi ích
trong việc hoàn thiện chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Nội dung hoàn thiện chính sách hỗ
trợ xuất khẩu hàng hóa bao gồm hoàn thiện cách tiếp cận chính sách hỗ trợ xuất khẩu;
121
hoàn thiện các công cụ của chính sách; tăng cường liên kết thương mại – công nghiệp
và phối hợp hoàn thiện chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Các cơ quan quản lý nhà nước và
cộng đồng doanh nghiệp phải chia sẻ trách nhiệm và nguồn lực trong quá trình này.
Việc chia sẻ trách nhiệm, nguồn lực và lợi ích cụ thể như thế nào giữa các bên cần
được làm rõ trong quá trình hoàn thiện chính sách.
Thứ tư: Việc hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa phải đảm
bảo khai thác được lợi thế của nước đi sau
Lào trở thành thành viên chính thức của ASEAN vào năm 1997, là thành viên
mới của WTO vào năm 2013. ASEAN được thành lập vào năm 1967 và hiệp định
chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) được ký vào tháng 1 năm
1992. APEC được thành lập vào năm 1993. WTO được thành lập vào năm 1995 nhưng
tiền thân của WTO là GATT hoạt động từ năm 1947. So với các nước ở khu vực Đông
Á thì Lào là nước đi sau trong hội nhập kinh tế quốc tế. Là nước đi sau, Lào vừa bất
lợi (bỏ qua những cơ hội trong quá khứ) nhưng cũng vừa có lợi (rút kinh nghiệm từ
quá khứ khai thác được các cơ hội đang tới). Để đảm bảo khai thác lợi thế của nước đi
sau, các quốc gia phải có những chuẩn bị về mặt tinh thần như tự tin là khai thác tốt
các lợi thế của nước đi sau, thay đổi nhận thức về cách thức hoàn thiện chính sách nhà
nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa ở các bên liên quan đến việc hoạch định và thực hiện
chính sách. Lợi thế này thể hiện ở việc đúc rút kinh nghiệm trong hoàn thiện chính
sách và khai thác các ưu đãi mà Lào có thể được hưởng từ việc mở rộng hợp tác song
phương, tham gia các tổ chức khu vực và quốc tế.
Việc hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa đòi hỏi các nhà
hoạch định chính sách khả năng phân tích, đánh giá các cơ hội thị trường, đánh giá
điểm mạnh và điểm yếu của quốc gia mình trong mối quan hệ với các quốc gia khác.
Các phần tiếp theo sẽ đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa của Lào trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế dựa trên lý luận và
thực trạng đã phân tích ở các phần trước.
3.2.2 Định hướng hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng
hóa của nước CHDCND Lào trong điều kiện là thành viên của WTO
Để thực hiện được mục tiêu trên, việc đổi mới chính sách nhà nước hỗ trợ
xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào theo các định hướng cơ bản sau đây:
- Tạo lập môi trường pháp lý thông thoáng và thuận lợi (môi trường cứng và
môi trường mềm) cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và dịch vụ thương mại
122
theo hướng “tự do – hợp pháp”, xóa bỏ các rào cản hành chính, tạo một khung pháp
luật hay “sân chơi bình đẳng”, không phân biệt đối xử, mọi thành phần kinh tế được
quyền tham gia hoạt động kinh doanh thương mại hàng hóa và dịch vụ, cạnh tranh
“làm mạnh và văn minh” phát tiển thương mại trên thị trường nội địa cũng như trên thị
trường khu vực và quốc tế.
- Các cơ quan quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu không chỉ làm chức năng và
nhiệm vụ của “người trọng tài” mà phải làm chức năng tư vấn và huấn luyện viên”, là
bà đỡ cho các doanh nghiệp và thương nhân trong hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu. Các nhà quản lý xuất nhập khẩu phải luôn luôn mang trong mình tinh thần phục
vụ cho các doanh nghiệp và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng
với nhau. Coi sự sống còn về kinh tế của nước CHDCND Lào là ở các doanh
nghiệp.
- Chức năng và nhiệm vụ chính của cơ quan quản lý nhà nước cấp Trung ương
là quản lý vĩ mô, là người “cầm lái” chứ không phải là người “chèo thuyền”. Có nghĩa
là phải giảm thiểu các công việc nhiệm vụ các cơ quan Trung ương (các Bộ) và tập
trung vào việc hoạch định chính sách, xây dựng hệ thống pháp lý, điều tiết nền kinh
tế và bằng những biện pháp và công cụ quản lý vĩ mô, chuyển giao nhiệm vụ quyền
hạn quản lý điều hành hàng ngày đối với từng vụ việc của từng đối tượng quản lý
cho địa phương và cơ sở.
-Về phương pháp quản lý, cùng với việc thực hiện ba phương pháp quản lý cơ
bản hiện nay (phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục và phương pháp hành
chính), cần phải tiến tới áp dụng phương pháp quản lý mới theo hướng tiến tới ICT
hóa (Inforemation Communication Technologie). Sử dụng công nghệ thông tin trong
quản lý vĩ mô, cung cấp các dịch vụ, thông tin về thị trường trong nước và nước ngoài,
nâng cao trình độ và năng lực quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu như việc cung cấp
dịch vụ qua Internet (E-Goverment), nâng cao trình độ văn minh thương mại điện tử
(E-Commerce)...
- Về cơ cấu tổ chức, bộ máy và cơ chế phối hợp. Xuất phát từ chức năng nhiệm
vụ trong thời kỳ đổi mới, cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý mới phải thay đổi, hợp lý để
đảm bảo tính tiết kiệm, hiệu quả. Tinh giản bộ máy tổ chức, tinh giản cán bộ, xây dựng
bộ máy gọn nhẹ.
- Xây dựng khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách riêng cho lĩnh vực hoạt động
tạm nhập – tái xuất và dịch vụ quá cảnh hàng hóa thông thoáng, gọn nhanh và có hiệu
123
lực cao, chấn chỉnh công tác tổ chức, thủ tục quản lý và dịch vụ của các bộ phận có
liên quan đến vấn đề này nhằm thúc đẩy giao lưu hợp tác kinh tế.
- Thực hiện chính sách thuế quan hết sức ưu đãi và miễn giảm các lệ phí
không cần thiết (đến mới tối thiểu). Coi thuế là đòn bảy rất quan trọng, mang tính
quyết định nhất trong giai đoạn tạo tiền đề để chuẩn bị đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật
cho hỗ trợ xuất khẩu và thu hút các nhà kinh doanh và dịch vụ thương mại trong khu
vực và quốc tế.
Trên cơ sở các mục tiêu tổng quát, và mục tiêu cụ thể được đưa ra, nhằm hướng
tới bên cạnh việc tăng cường công tác mở rộng loại hình sản phẩm xuất khẩu, mà còn
hướng tới tăng cường phát triển, mở rộng thêm nhiều thị trường xuất khẩu mới. Để đạt
được các mục tiêu tổng quát và cụ thể trên, Nhà nước và Chính phủ Lào cũng đã đề ra
một số phương hướng chính để thực hiện các mục tiêu này.
Thứ nhất, tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, chú trọng đổi mới công
nghệ. Bên cạnh đó, chú trọng đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có giá trị
kim ngạch xuất khẩu lớn, có khả năng tăng trưởng cao và có điều kiện thuận lợi cho
việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu. Ngoài ra, đầu tư vào việc sản xuất các mặt hàng dễ
xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, điều này sẽ giúp giải quyết vấn đề việc
làm, nâng cao đời sống cho nhân dân, các sản phẩm đó như đồ gỗ, dệt may, cà phê,
khoáng sản và một số mặt hàng khác.
Thứ hai, thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao chất lượng tăng giá trị hàng
hoá xuất khẩu đối với các mặt hàng truyền thống. Các mặt hàng truyền thống, các mặt
hàng sản xuất do bị hạn chế về cơ cấu (thời tiết, năng suất, thổ nhưỡng…) không có
điều kiện tăng nhiều về khối lượng, trong đó đặc biệt quan tâm đến một số mặt hàng
thuộc nhóm hàng nông lâm nghiệp.
Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị
trường, đẩy mạnh đầu tư và xuất khẩu các mặt hàng có tiềm năng phát triển và sử dụng
nhiều nguyên liệu trong nước như: chế biến gỗ, khoáng sản…
Thứ tư, tập trung khai thác các lợi thế đối với các thị trường xuất khẩu truyền
thống, và thị trường xuất khẩu trọng điểm. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển thị
trường cần đi đôi với việc phát triển các thị trường có chung đường biên giới với Lào
thông qua việc điều chỉnh những quy định về xuất khẩu cho phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế hiện nay. Chính phủ Lào cũng tiếp tục tận dụng các lợi thế từ các hiệp
định thương mại song và đa phương để đẩy mạnh xuất khẩu và giảm nhập siêu.
124
Thứ năm, khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức sản xuất hợp lý, nâng cao
năng suất, chất lượng, và hạ giá thành sản phẩm. Đồng thời Chính phủ, và các cơ quan
chức năng, cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu cần chủ động rà soát và điều chỉnh
những cơ chế chính sách chưa phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các mặt hàng nhập
khẩu làm nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu và tiến hành nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hoá sản xuất trong nước trên thị trường xuất khẩu quốc tế.
3.3Giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
của nước CHDCND Lào tầm nhìn đến năm 2025
3.3.1 Xây dựng và triển khai hiệu quả các chính sách tín dụng xuất khẩu
phù hợp
Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như chính sách tín dụng hỗ trợ xuất
khẩu, chính sách thưởng kim ngạch, thưởng thành tích đã được sửa đổi và bãi bỏ trước
thời điểm Lào chính thức gia nhập WTO cho phù hợp với các quy định liên quan đến
trợ cấp xuất khẩu và yêu cầu của đối tác trong quá trình đàm phán gia nhập WTO.
Tuy nhiên, các hình thức hỗ trợ xuất khẩu cần được đa dạng hoá, vừa đảm bảo
khuyến khích các doanh nghiệp đồng thời không vi phạm cam cam kết gia nhập WTO
của Lào.
Đối với nông nghiệp, cần tận dụng tối đa các điều khoản đối xử đặc biệt giành
cho những nước đang phát triển trong lĩnh vực này mà chúng ta bảo lưu, đó là: Trợ cấp
để giảm chi phí tiếp thị, kể cả chi phí xử lý, nâng cấp, tái chế sản phẩm, chi phí vận tải
quốc tế, cước phí vận chuyển, ưu đãi về cước phí vận tải trong nước và quốc tế đối với
hàng xuất khẩu hơn hàng nội địa.
Bên cạnh hỗ trợ lãi suất cho nông dân, cũng cần có chính sách giãn nợ cho nông
dân trong trường hợp chưa bán được lúa để họ không bị sức ép nợ đáo hạn, yên tâm
sản xuất. Nhà nước cần có sự hỗ trợ về vốn để các doanh nghiệp có phương án chủ
động điều tiết thu mua hàng dự trữ, không phải đợi đến lúc thị trường mất giá mới bàn
đến chuyện mua tạm trữ. Đây cũng là một biện pháp giúp các doanh nghiệp tận dụng
cơ hội để mang về lượng kim ngạch lớn từ xuất khẩu của các ngành hàng có nhiều
thuận lợi. Bên cạnh vốn, để giữ vững tốc độ phát triển về xuất khẩu, cần có sự hỗ trợ
các chính sách của các bộ ngành trong công tác tiếp cận vốn, đổi mới công nghệ sản
xuất và mở rộng thị trường.
Mở rộng áp dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là
loại hình bảo hiểm cho các rủi ro nợ xấu liên quan đến các hợp đồng mua bán, xuất
125
nhập khẩu và giữ vai trò chủ chốt trong việc thúc đẩy hoạt động thương mại quốc
tế.Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu giúp bảo vệ tài chính cho nhà xuất khẩu trong trường
hợp mất khả năng thanh toán, tạo ra sự thuận lợi trong việc đi vay từ các tổ chức tín
dụng để tăng lượng hàng hóa dịch vụ xuất khẩu, tăng khả năng tiếp cận thị trường
quốc tế giúp doanh nghiệp xuất khẩu tăng doanh số bán hàng theo những điều khoản
tín dụng cạnh tranh. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế thế giới đang tác động tiêu cực
đến Lào, trong đó trực tiếp và lớn nhất là xuất khẩu khiến các doanh nghiệp phải chịu
những áp lực tài chính ngày một tăng thì bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cần được xem là
công cụ chiến lược thúc đẩy xuất khẩu.
Chính sách liên quan đến tín dụng xuất khẩu cần được hoàn thiện theo cơ chế
thị trường. Hoàn thiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu và
tín dụng xuất khẩu phù hợp với quan điểm, mục tiêu của Đề án phát triển xuất khẩu và
các nguyên tắc của WTO, các cam kết quốc tế mà Lào là thành viên; mở rộng các hình
thức tín dụng, bảo đảm các điều kiện tiếp cận vốn và các hình thức bảo lãnh thuận lợi
hơn tại các ngân hàng thương mại; từng bước thực hiện cho vay đối với nhà nhập khẩu
có kim ngạch ổn định và thị phần lớn, trước hết là đối với hàng nông sản. Đồng thời,
cần mở rộng đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi tín dụng xuất khẩu, chính sách
hỗ trợ phải rõ ràng, cụ thể về các quy định và có tính thực thi cao.
Cho đến nay, các chính sách hỗ trợ về tài chính thông qua ưu đãi cho tín dụng
xuất khẩu đã được nhà nước chú trọng phát triển, và đưa ra những hình thức và quy
định phù hợp với những cam kết của Lào sau khi gia nhập WTO, tuy nhiên hiệu quả
của chính sách chưa thực sự cao. Do đó nhà nước cần có những biện pháp đánh giá
hiệu quả thực hiện của chính sách. Bên cạnh chỉ thực hiện chính sách thông qua ngân
hàng chính sách Lào thì có thể giao cho các ngân hàng thương mại cổ phần tại Lào
thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi xuất khẩu. Những ngân hàng thương mại xem xét
đến lợi nhuận đầu tiên do đó, sẽ có đội ngũ nhân lực để xét tính hiệu quả và khả thi
của các dự án sản xuất kinh doanh hàng hóa xuất khẩu một cách chặt chẽ. Thực hiện
thông qua các ngân hàng thương mại đồng thời có thể tránh thất thoát vốn, tránh hiện
tượng tham ô, tham nhũng, đầu tư vào dự án sản xuất và kinh doanh hàng hóa xuất
khẩu kém hiệu quả.
Đồng thời phải xây dựng được bộ tiêu chí giám sát chặt chẽ hiệu quả thực hiện
của chính sách nhà nước hỗ trợ tín dụng vốn xuất khẩu theo định kỳ hàng năm để trình
chính phủ có những điều chỉnh phù hợp với từng thời kỳ và khi có sự thay đổi trên thị
126
trường tín dụng và thị trường xuất khẩu hàng hóa. Trong đó bộ tài chính chủ trì, phối
hợp với các bộ, các cơ quan liên quan để trình chính phủ ban hành các cơ chế, chính
sách liên quan tín dụng xuất khẩu.
Ngân hàng nhà nước chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách tín dụng
xuất khẩu của nhà nước theo đúng quy định. Đồng thời ngân hàng nhà nước phải là cơ
quan chủ quản kiểm tra, giám sát nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu nước ngoài trong việc
sử dụng vốn vay để đảm bảo đúng mục đích, có hiệu quả, hoàn trả đầy đủ, đúng hạn
gốc và lãi cho ngân hàng phát triển. Tránh việc sử dụng vốn sai mục đích, gây lãng
phí, thất thoát vốn của nhà nước.
Ngân hàng nhà nước phải thực hiện giám sát nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu
nước ngoài cung việc cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu liên
quan đến việc vay vốn, tình hình sử dụng vốn vay cho ngân hàng phát triển.
Bộ công thương, bộ tài chính, bộ kế hoạch đầu tư và ngân hàng nhà nước phải thực
hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động và hiệu quả của chính sách tín dụng xuất khẩu
ở từng khâu và tất cả các khâu của quá trình kinh doanh và hoàn trả vốn vay.
3.3.2 Hoàn thiện chính sách thuế hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa phù hợp với
những cam kết của WTO
Hệ thống thuế Lào đã được cải thiện khá nhiều trong những năm qua, tuy nhiên,
nếu xét trên quan điểm của một hệ thống thuế hiện đại, cần thiết cho một nền kinh tế
mở và đáp ứng đòi hỏi của các tổ chức kinh tế quốc tế trong quá trình hội nhập, tiêu
biểu là là WTO thì hệ thống thuế của Lào còn nhiều điểm chưa phù hợp. Vì vậy, hệ
thống thuế của Lào cần phải tiếp tục được hoàn thiện. Khi đã trở thành thành viên của
WTO, Lào cần tận dụng những điều khoản ưu đãi đặc biệt và khác biệt của các nước
thành viên WTO dành cho các nước đang phát triển. Trong thời gian này Chính phủ
Lào nên tăng cường áp dụng các biện pháp khuyến khích xuất khẩu qua thuế được
phép sử dụng theo quy định của GATT 1994, Phụ lục 1Ad Điều XVI, Hiệp định SCM,
ghi chú Điều 1 và Phụ lục 1-3. Theo đó, được phép miễn, giảm thuế quan và các loại
thuế gián thu khác đã thu ở đầu vào được sử dụng và tiêu hao trong chế tạo sản phẩm,
miễn, giảm thuế gián thu đối với sản phẩm xuất khẩu, miễn, giảm thuế gián thu trong
sản xuất và phân phối sản phẩm xuất khẩu.
Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia cần thực hiện bảo hộ đơn giản thông qua
thuế. Việc áp dụng thuế VAT, thuế thu nhập đặc biệt, thay đổi biên chế trong trường
hợp khẩn cấp, thuế chống trợ cấp và bán phá giá là không vi phạm với WTO. Hệ thống
127
thuế Lào thể hiện ở những cam kết và thực hiện cam kết của Lào trong AFTA, điều
chỉnh hệ thống thuế cho phù hợp với quy định của WTO…cũng như những thay đổi,
điều chính thuế gián tiếp. Tuy nhiên, để thuế quan thực sự là một công cụ của chính
sách quản lý của nhà nước đối với xuất khẩu hàng hoá, Lào không những cần đảm bảo
sự nghiêm túc trong thực hiện các cam kết mà còn phải biết vận dụng linh hoạt công
cụ này.
Chính sách thuế quan phải được minh bạch hoá, có khả năng dự đoán hơn, bao
gồm cả các biện pháp cải tiến sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan đến hoạch định
và triển khai chính sách thương mại. Chính phủ nên công bố, phổ biến thông tin kinh
tế, thương mại đầu tư và thông báo cho các nước thành viên cũng như các doanh
nghiệp trong nước về hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế, thương mại của Lào và
các nước đối tác. Bộ Tài chính, các bộ ngành và các hiệp hội tiếp tục thực hiện minh
bạch hoá thông tin về cắt giảm, điều chỉnh thuế phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp
để tăng tính dự đoán được trong việc điều chính thuế.
Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu thông qua việc ưu đãi thuế, tín dụng, lãi
suất, trợ cấp cần được tăng cường và thực hiện hiệu quả hơn, cụ thể là hỗ trợ yếu tố
đầu vào sản phẩm, đầu ra sản phẩm và khuyến khích phát triển thể chế (các khu chế
xuất, các khu trung tâm thương mại và các dự án đầu tư vào hạ tầng). Các biện pháp
này có khả năng thành công hơn nếu thực hiện dưới dạng can thiệp ngầm (hơn là trực
tiếp), để giảm thiểu nguy cơ của những hành động trả đũa, như các khoản thuế quan
đối trọng lại về phía các nước nhập khẩu.
3.3.3 Xây dựng chương trình nhận dạng thương hiệu hàng hóa xuất khẩu của
Lào trên thị trường thế giới thông quaxúc tiến thương mại hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa
Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu, tăng cường công
tác thu thập và phổ biến thông tin cũng như công tác dự báo để định hướng cho hoạt
động sản xuất, xuất khẩu. Nghiên cứu thành lập Quỹ xúc tiến thương mại có sự đóng
góp của các doanh nghiệp để tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động hội
chợ, trưng bày, triển lãm... Thực hiện hiệu quả Chương trình xúc tiến xuất khẩu trọng
điểm để đẩy mạnh tiểu thụ nông sản hàng hoá cho dân, từ điều tra, quy hoạch đến tổ
chức sản xuất, tổ chức tiêu thụ. Củng cố tổ chức và vai trò các cơ quan đại diện ngoại
128
giao, ngoại thương của ta ở nước ngoài tham gia các hoạt động môi giới, trợ giúp tiếp
cận và thâm nhập thị trường quốc tế.
Tiếp tục đổi mới cả về hình thức lẫn nội dung hoạt động của hệ thống cơ quan
tham gia hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng chú trọng vào khâu tổ chức và
cung cấp thông tin thị trường, phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng hơn nữa giữa ba cấp:
chính phủ, các tổ chức xúc tiến thương mại và các doanh nghiệp trong công tác xúc
tiến thương mại. Các tổ chức xúc tiến thương mại cần tăng cường cung cấp các dịch
vụ hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp như cung cấp thông tin về các thị
trường, đối thủ cạnh tranh, tư vấn pháp lý, giúp giải quyết các vướng mắc trong quan
hệ thương mại với vai trò là cầu nối giữa các doanh nghiệp tận dụng được cơ hội và
hạn chế những rủi ro trên thị trường. Các cơ quan thương vụ, tham tán thương mại ở
các đại sứ quán Lào cần phát huy vai trò tích cực của mình trong việc cung cấp thông
tin, hỗ trợ và tư vấn cho các doanh nghiệp trong nước về tìm hiểu và tiếp cận thị
trường nước ngoài.
Đổi mới phương thức hoạt động và tổ chức quản lý, sử dụng Quỹ ngoại giao
kinh tế nhằm phát huy tác dụng của quỹ này trong hoạt động phát triển thị trường, tìm
kiếm bạn hàng của cộng đồng doanh nghiệp. Bộ Công Thương nên đa dạng hóa và mở
rộng các hình thức xúc tiến thương mại. Đối tượng chủ trì chương trình xúc tiến
thương mại trọng điểm quốc gia bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
Hoàn thiện công nghệ hệ thống thông tin về thị trường, ngành hàng và rào cản
thương mại đầy đủ về dễ truy cập. Đây là công việc không chỉ của Bộ Công Thương
mà cả các Bộ, ngành khác và đặc biệt là các hiệp hội ngành hàng. Lào không thể tránh
khỏi việc tham gia vào các tranh chấp thương mại như trợ cấp, chống bán phá giá, biên
tính thuế…khi gia tăng hội nhập KTQT. Bên cạnh đó, các tranh chấp thương mại còn
được sử dụng như một phần trong số các công cụ gây ảnh hưởng chính trị từ các nước
lớn. Trong điều kiện hội nhập KTQT, doanh nghiệp, các hiệp hội và các bộ ngành kể
trên cần có kế hoạch sẵn sàng đương đầu với các tranh chấp liên quan đến thương mại
như chống trợ cấp hay chốn bán phá giá. Lào cần chuẩn bị để chủ động giảm thiểu tác
động tiêu cực của các tranh chấp này. Bộ Công Thương đã đưa ra biện pháp về “chủ
động nghiên cứu các cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ ASEAN, WTO”.
129
Tuy nhiên, việc chủ động nghiên cứu này mới chỉ là một trong số các biện pháp để
thúc đẩy xuất khẩu. Ngoài ra, Bộ Công Thương cần xây dựng một hệ thống thông tin
về các biện pháp phi thuế, về phá giá và chống bán phá giá, xây dựng cơ chế cảnh báo
về khả năng tranh chấp hay bị kiện phá giá và chống bán phá giá, dự kiến những mặt
hàng có khả năng bị các quốc gia áp dụng các biện pháp phi thuế, đặc biệt là kiện phá
giá. Xây dựng cách thức tận dụng có hiệu quả các thủ tục điều tra và giải quyết tranh
chấp trong khuôn khổ WTO cũng như thủ tục ở các quốc gia nhập khẩu. Chẳng hạn,
khi bị áp dụng thuế chống bán phá giá, quốc gia bị áp thuế có thể tăng giá hàng hóa
của mình để chịu mức thuế chống bán phá giá thấp hơn ỏ giai đoạn xem xét lại hành vi
phá giá. Lào cũng cần tích cực tham gia vào các diễn đàn của các nước đang phát triển
để xây dựng một cơ chế chống bán phá giá chặt chẽ hơn trong khuôn khổ WTO.
Xây dựng thương hiệu cho hàng xuất khẩu, thương hiệu hàng hóa là bảng cam
kết và chỉ dẫn quan trọng cho mọi người tiêu dùng biết đến những tiêu chuẩn kỹ thuật
về sản phẩm. Đây vừa là cách thức thâm nhập và củng cố vị thế của hàng hóa trên thị
trường quốc tế, vừa là cách thức hữu hiệu bảo vệ quyền lợi của người sản xuất trong
cạnh tranh quốc tế, vừa là tiêu chí thể hiện khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn và kỹ
thuật của tổ chức thương mại quốc tế WTO. Trong thực tế, vấn đề pháp triển thương
hiêu cho hàng hóa ở các nước có nền kinh kế đang và kém phát triển như CHDCND
Lào chưa được quan tâm một cách đúng mức.
Cần có một hệ thống luật pháp để các doanh nghiệp hoặc các hiệp hội có thể
đăng ký những quyền sở hữu và sử dụng nhãn hiệu cho chủng loại đặc trưng cho quốc
gia hay địa phương mình, qua đó có thể tiếp tục xây dựng thương hiệu sản phẩm trên
thị trường quốc tế.
Chuẩn bị đối phó với các vấn đề tranh chấp thương mại, trước hết là việc áp
thuế chống bán phá giá của các nước đối với hàng xuất khẩu Lào. Để đối phó và giảm
thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp, về phía nhà nước, cần thực hiện một số giải pháp
như cung cấp thông tin, hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp về cách phòng tránh và xử lý
các vụ kiện bán phá giá, nâng cao năng lực chuyên môn của các cơ quan tư vấn, điều
trần và xử lý các các vụ tranh chấp thương mại, trước hết là các cơ quan quản lý cạnh
tranh, thành lập các cơ quan nghiên cứu sâu và cụ thể hơn về các tranh chấp thương
mại và các phương án xử lý để tư vấn cho các doanh nghiệp khi bị kiện, hoặc muốn
130
khởi kiện, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để minh bạch hoá, công khai hoá hoạt
động của doanh nghiệp, để các chi phí sản xuất phản ánh đúng chi phí thị trường,
không làm bóp méo thương mại.
Xây dựng chương trình dự báo, phân tích khả năng cạnh tranh đối với các nhóm
mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Xây dựng và thực hiện các đề án đẩy mạnh xuất khẩu
ngành hàng dựa trên quan điểm, mục tiêu phát triển và các giải pháp định hướng của
đề án, chương trình dự báo, phân tích khả năng cạnh tranh đồng thời phù hợp với chiến
lược phát triển ngành hàng đã được Chính phủ phê duyệt trong giai đoạn đến năm
2015. Bộ Công Thương nên phối hợp với các hiệp hội ngành hàng và các cơ quan xúc
tiến thương mại của nước ngoài hướng dẫn và đào tạo các doanh nghiệp xuất khẩu
những vấn đề liên quan đến thủ tục xuất khẩu vào thị trường nước ngoài cũng như thủ
tục giải quyết tranh chấp về các biện pháp phi thuế quan trong khuôn khổ WTO.
Các hiệp hội ngành hàng cũng cần phối hợp với các Bộ ngành hoàn thiện cơ sở
dữ liệu thông tin về các thị trường, ngành hàng và các rào cản thương mại ở các thị
trường được lựa chọn. Dữ liệu thông tin về thị trường, ngành hàng và các rào cản
thương mại nên được xây dựng bằng tiếng Lào và tiếng Anh. Các tình huống kiện bán
phá giá, các vấn đề liên quan cần được chia theo ngành, theo quốc gia áp dụng và ưu
tiên theo đặc thù của nền ngoại thương Lào. Việc nắm bắt và có đầy đủ thông tin về
các vụ kiện là sự chuẩn bị cần thiết để sẵn sàng đương đầu với các tranh chấp thương
mại đang có xu hướng ngày càng tăng lên trong thời gian tới.
Để phát triển xuất khẩu bền vững, một giải pháp quan trọng là xây dựng
chương trình hỗ trợ tăng cường năng lực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu đối với
các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Lào. Chương trình này có thể chia thành nhiều
nhánh nhỏ để có giải pháp cụ thể hỗ trợ thiết thực cho việc tham gia vào các khâu giá
trị gia tăng cao, nhất là khâu thiết kế, nghiên cứu và phát triển (R&D), phân phối sản
phẩm và marketing. Các doanh nghiệp cần được hỗ trợ để nâng cao năng lực lãnh đạo
và chuẩn bị điều kiện về công nghệ, nguồn nhân lực, khả năng thông tin và tài chính
để chủ động đón nhận được sự phân công lao động quốc tế, trước hết ở những mặt
hàng xuất khẩu của Lào.
Nội dung của chương trình xúc tiến thương mại định hướng xuất khẩu đến năm
2025: cung cấp thông tin thương mại. Tuyên truyền xuất khẩu: quảng bá hình ảnh
131
ngành hàng, chỉ dẫn địa lý nổi tiếng của vùng, miền ra thị trường nước ngoài. Mời đại
diện cơ quan truyền thông nước ngoài đến Lào để viết bài, làm phóng sự trên báo, tạp
chí, tuyền thanh, truyền hình, internet nhằm quảng bá cho xuất khẩu Lào theo hợp
đồng trọn gói. Thuê chuyên gia trong và ngoài nước để tư vấn phát triển sản phẩm,
nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển xuất khẩu, thâm nhập thị trường nước ngoài.
Đào tạo, tập huấn ngắn hạn trong và ngoài nước nhằm nâng cao nghiệp vụ xúc tiến
thương mại cho doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức xúc tiến thương mại chính phủ
và phi chính phủ. Tổ chức, tham gia hội chợ triển lãm thương mại: tổ chức, tham gia
hội trợ triển lãm tại nước ngoài, hội trợ triển lãm định hướng xuất khẩu tại Lào. Tổ
chức đoàn giao dịch thương mại tại nước ngoài. Tổ chức hoạt động xúc tiến tổng hợp
(thương mại kết hợp đầu tư và du lịch) nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ
của Lào ra nước ngoài. Quảng bá, hỗ trợ thâm nhập thị trường nước ngoài đối với
thương hiệu các hàng hóa, dịch vụ đặc trưng thuộc chương trình thương hiệu quốc gia.
Bộ Công thương là cơ quan trực tiếp được Chính phủ giao trách nhiệm quản lý
chương trình hỗ trợ xúc tiến thương mại hàng hóa xuất khẩu. Bộ công thương chịu
trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các bộ ngành phổ biến định hướng xuất khẩu. Quy
định tiêu chí đánh giá các đề án trong chương trình xúc tiến thương mại phù hợp với
mục tiêu, yêu cầu của chương trình. Đánh giá thẩm định phê duyệt đề án để tổng hợp
vào chương trình. Tổ chức triển khai giám sát kiểm tra việc thực hiện chương trình.
Quản lý kinh phí xúc tiến thương mại quốc gia hàng xuất khẩu. Tổng hợp đánh giá kết
quả, báo cáo thủ tướng chính phủ và các cơ quan liên quan về tình hình thực hiện
chương trình.
3.3.4 Hoàn thiện chính sách phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa và xây
dựng chính sách bán hàng
Trong điều kiện hội nhập, tình hình giá cả thị trường đối với hàng hóa xuất
khẩu luôn có sự biến động rất khó đoán, các nước nhập khẩu hàng hóa cũng thường có
sự thay đổi về pháp luật và chính sách thương mại để đối phó với những biến động của
thị trường. Để có thể chủ động nắm bắt kịp thời và đối phó với những thay đổi về giá
cả, về chính sách của các nước, đặc biệt là các bạn hàng quan trọng, việc nhà nước
hỗ trợ cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời về thị trường xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ
để giúp các doanh nghiệp là cần thiết. Cùng với việc nắm bắt các thông tin, các
132
doanh nghiệp còn phải thực hiện đồng thời các giải pháp mang tính hỗ trợ trực tiếp
và gián tiếp.
Phát triển thươngmại điện tử và nâng cao năng lực thị trường. Cần phát triển
thương mại điện tử cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu để tạo tiềm
năng cắt giảm giá thành, liên lạc tốt hơn nữa giữa chính phủ, doanh nghiệp và người
tiêu dùng trong và ngoài nước. Xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở pháp lý để tạo môi
trường cho thươngmại điện tử phát triển. Trên cơ sở đó, trợ giúp nâng cao năng lực thị
trường cho các chủ thể sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Chỉ khi nào bản thân người sản
xuất hàng hóa có hiểu biết về thị trường và các quan hệ thị trường, họ mới biết cách
điều chỉnh sản xuất của mình theo yêu cầu thị trường. Đây chính là mặt yếu của người
sản xuất hàng hóa xuất khẩu ở Lào hiện nay.
Thực tế, cho thấy, hầu hết những mặt hàng nông, lâm, thủy sản của Lào được
xuất khẩu vẫn chỉ ở dạng xuất thô, xuất khẩu nguyên liệu hoặc nếu đã qua chế biến thì
lại mang tên của đối tác nước ngoài. Giá trị xuất khẩu hàng hóa của Lào so với các
nước có trình độ tương đương thấp hơn nhiều. Một trong những nguyên nhân là việc
xây dựng thương hiệu cho hàng nông sản chưa được quan tâm đúng mức. Chưa có
thương hiệu, do đầu tư dàn trải, không tập trung vào những sản phẩm chất lượng cao
nên sản lượng nhiều mà giá trị không được bao nhiêu.
Xây dựng phát triển thương hiệu hàng xuất khẩu là việc không thể chậm trễ,
cần một chiến lược tổng thể, bài bản, tạo sự liên kết giữa các doanh nghiệp để làm nên
những sản phẩm mang thương hiệu quốc gia. Sự hợp tác của doanh nghiệp và nông
dân cùng với nghiên cứu của các nhà khoa học sẽ tạo ra vùng sản xuất rộng lớn.
Thực tế cho thấy xây dựng thương hiệu cho hàng hóa xuất khẩu ở Lào đã trở
thành vấn đề quan trọng. Thứ nhất cần xác định những thế mạnh do những hàng hóa
mũi nhọn mà Lào có nhiều lợi thế để tập trung nguồn lực cho xây dựng sản phẩm.
Nước CHDCND Lào đang có một danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
chủ yếu là hàng nông lâm thủy hải sản với thế mạnh và tiềm năng sẵn có; hàng
công nghiệp nhẹ chế biến chế tạo như dệt may, giày dép, điện- điện tử với lợi thế
về giá nhân công thấp, hàng khoáng sản. Bên cạnh việc phát huy những thế mạnh
và khắc phục những khó khăn này cần tập trung nâng cao GTGT của những mặt
hàng chủ lực sẵn có bằng cách giảm tỷ trọng và hạn chế dần việc xuất khẩu các mặt
hàng thô, sơ chế.
Chất lượng hàng hóa là một yếu tố quan trọng để giữ được bạn hàng và thị
133
trường tiêu thụ, đặc biệt là đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Vì vậy, để giữ
vững và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài thì khâu kiểm tra chặt
chẽ chất lượng nguyên liệu đầu vào, kiểm soát chất lượng sản phẩm đầu ra phải được
thực hiện nghiêm ngặt, tạo bạn hàng cung cấp nguyên vật liệu đầu vào ổn định, đúng
hạn. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Lào thuộc nhóm mặt hàng chế biến,
nông lâm thủy sản nên cần lưu ý bảo quản tốt nguyên liệu đầu vào, tránh hàng xuống
phẩm cấp. Cần đầu tư công nghệ để sản xuất các mặt hàng chế biến, chế tạo, hàng có
hàm lượng công nghệ cao đồng thời áp dụng các bộ tiêu chuẩn như ISO, HACCP…
vào sản xuất hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu đa dạng và yêu cầu ngày càng khắt khe
của thị trường tiêu dùng quốc tế, tránh tình trạng hàng Lào xuất sang các nước bị trả về
như trường hợp hàng thủy sản bị Nhật Bản trả về do dư lượng kháng sinh quá mức cho
phép… Phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực theo hướng tăng GTGT của các mặt
hàng đồng thời tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước là đàm phán thương mại để
tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp. Đàm phán thương mại bao gồm đàm
phán song phương và đa phương nhằm mục đích mở của thị trường mới, tiến tới
thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường xuyên nhận siêu, đàm phán
để thống nhất hóa các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh và để nới lỏng các hàng
rào phi thuế quan. Cần tăng cường đàm phán để đạt được các thỏa thuận về việc các
nước công nhận hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh, các quy
định của Hải quan nước CHDCND Lào. Đồng thời việc đàm phán cũng cần chú trọng
việc nới lỏng các hàng rào phi thuế quan để tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng
hóa Lào.
Để chủ động phát triển các thị trường trọng điểm, công tác thị trường trong thời
gian tới cần thực hiện nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa các đối tác, tận dụng mọi khả
năng để tăng mức xuất khẩu trên các thị trường trọng điểm. Đẩy mạnh xuất khẩu vào
các thị trường có sức mua lớn như Nhật Bản, EU, Mỹ, có chính sách mở rộng các thị
trường mới như Châu Mỹ, Châu Phi, Trung Đông. Công tác thị trường cần được đổi
mới cả ở tầm vĩ mô và vi mô theo hướng phân định trách nhiệm của Nhà nước, hiệp
hội và các doanh nghiệp.
Trước hết cần tăng cường hiệu quả của quốc gia trong việc phát triển thị trường
xuất khẩu thông qua việc nâng cao hiệu quả của các hoạt động đàm phán thương mại.
Nội dung đàm phán thương mại cần hướng vào việc giải quyết vấn đề giảm nhập siêu
134
để tiến tới cân bằng cán cân thương mại một cách hợp lý, có lưu ý đên tổng thể cá mối
quan hệ kinh tế song phương, trong đó các vấn đề như viện trợ và đầu tư, sự cân bằng
thương mại chung giữa nước ta với các nước thuộc khu vực thị trường này. Ngoài ra,
cần đàm phán để thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng cũng như tiêu chuẩn kỹ thuật,
nới lỏng các hàng rào phi thuế quan để tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa
Lào trên thị trường quốc tế. Đặc biệt, cần sử dụng đàm phán mở cửa thị trường mởi,
mặt hàng mới để tiến tới cân bằng cán cân thương mại, buôn bán truyền thống với
từng nước cụ thể để ký các Hiệp định cấp Chính phủ đối với các mặt hàng xuất khẩu
chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường thế giới nhưng lại chịu nhiều bất lợi về giá cả như
mặt hàng nông sản.
Việc nghiên cứu thị trường cần được thực hiện thông qua đội ngũ đại diện
ngoại giao hay thám tán thương mại ở nước ngoài để phản ánh kịp thời chính xác và
đề xuất các phương án giải quyết trước những diễn biến phức tạp của thị trường ở
nước sở tại, đặc biệt là khi tình hình thế giới có nhiều biến động.
Ngoài ra, cần sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách, công cụ kinh tế, công
cụ hỗ trợ để thâm nhập thị trường, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, của
các tổ chức và cá nhân nước ngoài để phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và thị
trường trọng điểm. 3.3.5 Hoàn thiện chính sách quản lý xuất khẩu hàng hóa phù hợp với điều kiện hội nhập và cam kết của WTO
Các công cụ quản lý xuất khẩu hàng hóa cần được sử dụng một cách có hệ
thống. Bộ Công Thương nên là cơ quan chủ trì hệ thống hoá các biện pháp đang được
cơ quan khác nhau sử dụng như Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính, Ngân hàng
Phát triển, các bộ ngành khác…Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cần chủ trì phối hợp
với Bộ Tài chính, các bộ ngành và cộng đồng doanh nghiệp chủ động tăng cường sử
dụng nhiều hơn và sử dụng có lựa chọn một số công cụ quản lý xuất khẩu hàng hóa
được phép theo quy định của WTO.
Bộ máy quản lý xuất khẩu hàng hóa của nhà nước đòi hỏi hoạt động hiệu quả
trong quá trình thực hiện chính sách. Cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước
Trung ương và các ban ngành địa phương, giữa các bộ, ngành có liên quan. Việc phân
cấp quản lý trong bộ máy Nhà nước cần phải rõ ràng, tránh sự chồng chéo. Sự phân
cấp này dựa trên một cơ sở thống nhất: cơ cấu nền kinh tế quốc dân, cơ chế quản lý
của Nhà nước và pháp luật. Trong đó Nhà nước trung ương quản lý vĩ mô, toàn diện
135
hoặc ngành, lĩnh vực liên quan trên phạm vi cả nước còn chính quyền địa phương quản
lý theo thẩm quyền chung trên phạm vi đơn vị hành chính, lãnh thổ. Cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các bộ - ngành - địa phương, giữa các định chế quản lý tạo thành sức
mạnh tổng hợp. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, bên cạnh việc minh bạch hóa chính sách,
các quốc gia thường tập trung quyền phối hợp hoàn thiện chính sách vào một cơ quan.
Nhằm tạo sự ổn định lâu dài về chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu hàng
hóa, Chính phủ cần ban hành cơ chế điều hành xuất khẩu theo hướng: hoàn thiện hệ
thống pháp luật, chính sách, quy định về quản lý thương mại, chủ động phê chuẩn
các công ước quốc tế về thương mại quốc tế và ký kết các hiệp định thương mại với
các nước để tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các
doanh nghiệp.
Trong thời gian vừa qua, Lào vẫn áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng
như cấm xuất khẩu, hạn ngạch xuất khẩu, giấy phép xuất khẩu... Những biện pháp này
có tác dụng bảo hộ nhiều lĩnh vực, sản xuất. Tuy nhiên, cần hạn chế sử dụng các biện
pháp hạn chế định lượng trong chính sách quản lý xuất khẩu. Việc áp dụng hạn ngạch
phải trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, không trái với các quy định của WTO.
Một số trường hợp WTO vẫn cho phép sử dụng biện pháp này. Vì thế, cần tận dụng
ngoại lệ này để áp dụng hạn ngạch cho một số trường hợp cần thiết. Ví dụ, đối với gạo
xuất khẩu, có thể áp dụng hạn ngạch khi thấy khối lượng gạo xuất khẩu tăng quá
nhanh, có nguy cơ ảnh hưởng tới giá cả, an ninh lương thực, khả năng cung cấp gạo
vào thị trường gạo trong nước.
Việc cấp giấy phép xuất khẩu vẫn nên áp dụng rộng rãi với mục đích phục vụ
công tác thống kê, Quản lý của nhà nước trong hoạt động thương mại chứ không phải
cản trở hoạt động thương mại. Việc cấp giấy phép xuất khẩu cần phải công khai, minh
bạch, bình đẳng và tạo thuận lợi khi làm thủ tục chứ không được gây phiền hà cho các
doanh nghiệp. Việc cấp phép xuất khẩu nên tập trung về một đầu mối là Bộ Công
Thương. Các Bộ, ngành theo chức năng của mình xây dựng chi tiết danh mục và hạn
mức xuất khẩu trên cơ sở đó Bộ Công Thương cấp phép.
Các biện pháp thủ tục hành chính cần phải rõ ràng, đơn giản và công khai. Các
cơ quan chức năng phải nâng cao năng lực quản lý, nhanh chóng ban hành văn bản
hướng dẫn thủ tục và thời gian cấp phép qua đó Nhà nước quản lý tốt hơn hoạt động
xuất khẩu. Cần nhanh chóng hoàn thiện và đưa hải quan điện tử vào sử dụng rộng rãi
để thủ tục hải quan được tiến hành nhanh chóng và thuận lợi cho các doanh nghiệp
xuất khẩu.
136
3.3.6 Xây dựng chiến lược mặt hàng xuất khẩu chủ lực, xác định đúng đắn
các mặt hàng xuất khẩu chiến lược qua từng thời kỳ
Xây dựng chiến lược mặt hàng xuất khẩu là quá trình tổng hợp mang tính liên
ngành, tổng hợp từ khâu phân tích, dự báo, xác định mục tiêu, lựa chọn biện pháp thực
hiện cho đến các khâu tổ chức thực hiện và kiểm tra. Vì vậy xây dựng chiến lược mặt
hàng xuất khẩu bao gồm: xác định quy mô, tốc độ xuất khẩu sản phẩm, danh mục
sản phẩm xuất khẩu chiến lược, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu và thị trường xuất khẩu
chủ yếu.
Xác định quy mô, tốc độ xuất khẩu phụ thuộc quy mô, tốc độ tăng trưởng kinh
tế và sự biến động trên thị trường quốc tế. Xác định tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
và tổng kim ngạch xuất khẩu dựa vào thống kê về tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
bình quân kỳ gốc, dựa vào việc phân tích các yếu tố tạo nên tốc độ tăng xuất khẩu kỳ
gốc, trên cơ sở đó loại các yếu tố đột biến. Dự báo một số yếu tố mới của kỳ kế hoạch
như : cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu, giá cả...
Để định hướng danh mục sản phẩm xuất khẩu chủ yếu, trước hết cần dựa vào
lợi thế so sánh của đất nước. Từ đó đánh giá danh mục sản phẩm xuất khẩu chiến lược.
Lợi thế so sánh của Lào trong giai đoạn trước mắt vẫn là tài nguyên và lao động. Do
đó hàng chiến lược xuất khẩu của Lào cần tập trung vào các ngành khai thác lợi thế.
Lợi thế về tài nguyên là các sản phẩm từ: gỗ, điện, gạo, cà phê, rau quả, cao su, hạt
tiêu...lợi thế về lao động là các ngành hàng: dệt may, giày dép, điện tử, máy tính, thủ
công, mỹ nghệ.
Các mặt hàng xuất khẩu chiến lược cần phải được xác định rõ ràng và có mục
tiêu cụ thể trong từng giai đoạn xuất khẩu. Bởi các mặt hàng xuất khẩu chiến lược có
vai trò lớn trong nền kinh tế nên nếu xác định sai sẽ dẫn đến tổn thất cho nền kinh tế.
Phương hướng chủ đạo để hoàn thiện chính sách mặt hàng xuất khẩu là tạo
dựng những mặt hàng xuất khẩu chiến lược, nhưng không giới hạn vào những mặt
hàng cố định mà linh hoạt đáp ứng nhu cầu thị trường và biến động giá cả, ở đây trọng
tâm cần đặt vào các mặt hàng chế biến (chủ yếu là nông, lâm sản), và hàng công
nghiệp nhẹ (hàng dệt may, da và giả da), công nghiệp lắp ráp, sử dụng nhiều lao động
có tay nghề khá. Đồng thời cần tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng
137
công nghệ cao, nhiều chất xám, có công nghệ mới để tạo cho nhóm này có vị trí quan
trọng trong cơ cấu hàng xuất khẩu.
Chọn những ngành hàng, mặt hàng chiến lược nhằm khai thác được một cách
tối đa giới hạn nguồn lực sẵn có (nguồn lực có giới hạn). giải quyết được vấn đề này
lại phải phát triển tiếp đến mới là phải giải quyết thị trường các mặt hàng chiến lược
đó, tức là đi tìm thịt trường xuất khẩu của các mặt hàng đó như thế nào để có thể khai
thác tối đa các lợi thế so sánh của quốc gia và lợi thế cạnh tranh của mặt hàng trên thị
trường quốc tế. Như vậy có thể nói việc lựa chọn một mặt hàng chiến lược, phát triển
các mặt hàng chiến lược, và thị trường xuất khẩu luôn là một nhiệm vụ thực sự cần
thiết và có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược đẩy mạnh nền kinh tế hướng về xuất
khẩu.
Khi xác định một mặt hàng xuất khẩu chiến lược cần có ít nhất ba yếu tố cơ
bản:
+ Có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên thị
trường đó.
+ Có nguồn lực để tổ chức sản xuất với chi phí thấp tương đối so với các sản
phẩm cạnh tranh khác để có thể vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh vừa mang lại hiệu
quả cao hơn.
+ Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng khối lượng kim ngạch xuất khẩu của
quốc gia.
Tuy nhiên vị trí của mặt hàng xuất khẩu chiến lược không phải là vĩnh viễn mà
trong quá trình phát triển luôn được diễn ra những vận động, biến đổi của thị trường,
kéo theo đó là sự vận động, biến đổi cơ cấu các sản phẩm làm thay đổi vị trí của các
sản phẩm trên thị trường. Do vậy, việc xác định và xây dựng cơ cấu các sản phẩm xuất
khẩu chiến lược không chỉ căn cứ vào khả năng sẵn có và nội lực trong nước, vào nhu
cầu và khả năng hiện tại của thị trường thế giới mà còn phải tính đến xu hướng và diễn
biến thị trường trong tương lai.
Phương hướng chủ đạo là tạo dựng những mặt hàng xuất khẩu chiến lược
nhưng không giới hạn vào những mặt hàng cố định mà linh hoạt đáp ứng nhu cầu thị
trường và biến động giá cả. Thêm đó phải mở ra các mặt hàng mới, các mặt hàng hiện
nay chưa có nhưng có tiềm năng và triển vọng, phù hợp với xu thế quốc tế, đặc biệt là
138
nhóm mặt hàng, sản phẩm điện tử, sản phẩm kỹ thuật điện, các loại dịch vụ và các sản
phẩm trí tuệ.
Việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu không chỉ dựa vào các tính toán hay ước
tính, những biểu hiện cụ thể của hàng hóa mà còn phải dựa vào những kinh nghiệm
của những người nghiên cứu thị trường để dự đoán được các xu hướng biến động giá
cả, thị trường trong nước cũng như nước ngoài, khả năng thương lượng để đạt điều
kiện mua bán ưu thế hơn. Đào tạo đội ngũ chuyên gia về xuất khẩu. Có vai trò quan
trọng trong việc định hướng, dự báo và cố vấn về các mặt hàng xuất khẩu chiến lược
hiện tại và trong tương lai.
CHDCND Lào cần xây dựng một hệ thống giải pháp đồng bộ trong đó xác định
các mặt hàng xuất khẩu chủ lực cho phù hợp với điều kiện và thời điểm mang tính lịch
sử của mỗi một thời kỳ khác nhau. Để đạt được chủ trương xây dựng mặt hàng chủ
lực, CHDCND Lào cần:
Thứ nhất: Nâng cao các mặt hàng xuất khẩu chủ lực bằng cách gia tăng đầu tư
cho sản xuất, chế biến: (1) Các mặt hàng nông sản: áp dụng và đẩy mạnh các giống cây
mới trong nuôi trồng. (2) Với các mặt hàng dệt may, giày dép, thủ công mĩ nghệ, sản
phẩm nhựa: tăng độ bền, chú trọng vào kiểu dáng mẫu mã. (3) Các mặt hàng điện tử:
nâng cao chất lượng chất lượng hàng bằng cách nhận chuyển giao công nghệ ở dạng
cao, qua đó tiếp thu học hỏi kinhnghiệm sản xuất và chế biến. (4) Các mặt hàng thực
phẩm chế biến: giảm thiểu tối đa và tránh sử dụng các phương pháp bảo quản có chất
nguy hại đến sức khoẻ đặc biệt là những chất cấm sử dụng; Xử lí triệt đề các chất kích
thích, các kháng sinh bơm chích trong các sản phẩm.
Thứ hai: Thực hiện tốt các giải pháp về hình thànhvà phát triển các vùng sản xuất,
trong đó có giải pháp quy hoạch vùng sản xuất chuyên canh xuất khẩu; xây dựng đồng
bộ cơ sở hạ tầng về khai thác, chế biến, nhà kho, cửa cảng hàng xuất khẩu.
Thứ ba: Cung cấp các thông tin và các dự báo kịp thời cho hàng xuất khẩu chủ
lực: (1) Các thông tin về nhu cầu tiêu thụ ở mỗi thị trường; (2) Thông tin về hệ thống
pháp luật ở mỗi quốc gia, vùng, lãnh thổ mà Lào sẽ xuất khẩu hàng hoá; (3) Thông tin
về sức cạnh tranh của sản phẩm cùng loại ở mỗi thị trường; (4) Các thông tin về sự
điều chỉnh, thay đổi chính sách trong nước và quốc tế giúp cho nhà sản xuất chủ động
thích ứng với hoàn cảnh mới; (5) Dự báo về tình kinh tế- chính trị trong nước và
139
thếgiới ảnh hưởng đến khả năng sản xuất và xuất khẩu; (6) Dự báo về xu hướng biến
động cơ cấu nguồn lao động; (7) Dự báo về xu hướng đầu tư trên thế giới sẽ ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sản xuất trong nước; (8) Dự báo về thay đổi của
môi trường, điều kiện tự nhiên, hệ sinh thái như sự biến chuyển của khí hậu, thời tiết,
mức độ ô nhiễm môi trường… để định hướng cho nhà sản xuất quan tâm hơn nữa đến
việc bảo vệ môi trường; có biện pháp đối phó với sự thay đổi của môi trường. (Như lũ
lụt, hạn hán, giông bão sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, chế biến và bảo
quản các sản phẩm nông sản).
Thứ tư: Lập các chợ và hội chợ trưng bày sản phẩm, theo định kì 1 năm hoặc 2
năm để giới thiệu, trưng bày sản phẩm. Đây là cách tiếp thị trực tiếp hàng hoá không
chỉ với người tiêu dùng trong nước mà cả với người tiêu dùng nước ngoài.
Thứ năm: Bảo vệ thương hiệu cho hàng hóa xuất khẩu: Các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực phần lớn là những sản phẩm đã được khẳng định uy tín trên thị trường trong
nước và thế giới; Đẩy mạnh xuất khẩu hàng chủ lực của Lào phải đi đôi với việc bảo
vệ thương hiệu. Hiện nay, nhiều mặt hàng có thương hiệu mạnh của Làonhư cà phê
Dao bị vi phạm về nhãn hiệu và các chỉ dẫn địa lí. Cho nên nhiều sản phẩm của Lào
được đánh giá tốt nhưng người tiêu dùng nước ngoài không biết sản phẩm đó có xuất
xứ tại Lào. Vì vậy, chính sách xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực cần quan tâm
đến việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá: (1) Nhà nước tăng cường công tác quản lý và
đăng ký nhãn hiệu hàng hoá; (2) Kịp thời phát hiện các hiện tượng ăn cắp, làm nhái,
làm giả nhãn hiệu hàng hoá, từ đó có biện pháp xử lý đích đáng bảo vệ lợi ích của nhà
xuất khẩu. (3) Tăng cường công tác quảng bá các sản phẩm chủ lực như đăng ký trưng
bày các sản phẩm của nước ta ở các khu riêng tại các hội chợ triển lãm quốc tế, các chợ
siêu thị lớn trên thế giới, tại các gian hàng này treo biển về chỉ dẫn địa lý như "Made in
Laos". (4) Có hướng dẫn cụ thể về thông tin sản phẩm, thời hạn sử dụng, về quy cách
trình bày bằng các ngoại ngữ khác nhau trên mỗi sản phẩm, giúp người tiêu dùng nước
ngoài dễ nhận biết và phân biệt với các sản phẩm cùng loại ở các quốc gia khác.
Thứ sáu: Phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang các thị trường tươngứng:
1) Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực hiện nay là nông sản, gỗ và sản phẩm gỗ, dệt
may. Cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất trực tiếp hàng xuất
khẩu. Nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ hiện
140
đại, nâng cao chất lượng và mẫu mã sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp, khuyến
khích sản xuất hàng hóa với nguyên liệu trong nước.
2) Đối với hàng nông sản, vì là mặt hàng quan trọng và có thế mạnh trong sản
xuất, cần có những giải pháp riêng. Nhà nước xây dựng quy hoạch, chọn lựa và có
chính sách đầu tư vốn, tạo các vùng sản xuất chuyên canh, ứng dụng các kĩ thuật tiên
tiến, công nghệ sau thu hoạch để đảm bảo sản phẩm làm ra có năng suất cao, chất
lượng tốt, đồng đều, giá thành hạ và khối lượng lớn. Với hàng nông sản thì chủ yếu vẫn
là xuất khẩu ở dạng thô hoặc sơ chế nên giá trị xuất khẩu không cao. Nhà nước cần
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệhiện đại, nâng cao chất lượng
và mẫu mã sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp, khuyến khích sản xuất hàng hóa
với nguyên liệu trong nước.
Mặt khác, các cơ quan nhà nước cần có các nghiên cứu nhằm phân loại các nhóm
mặt hàng theo tiêu chí khả năng cạnh tranh đểgiúp định hướng cho các doanh nghiệp
trong việc lựa chọn hàng hoá xuất khẩu phù hợp với nhu cầu của thị trường quốc tế
cũng như phù hợp với khả năng sản xuất và cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông qua
việc xây dựng chương trình dự báo, phân tích khả năng cạnh tranh đối với các nhóm
mặt hàng và dịch vụ xuất khẩu chủ yếu. Xây dựng và thực hiện các đề án đẩy mạnh
xuất khẩu ngành hàng phải bảo đảm tính khả thi và phù hợp với các cam kết quốc tế
mà Lào là thành viên; phải chú trọng đến các giải pháp thúc đẩy quá trình liên kết giữa
người sản xuất nguyên liệu vớicác doanh nghiệp sản xuất. 3.4 Một số kiến nghị về điều kiện thực hiện các giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào 3.4.1 Một số điều kiện để thực hiện giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào
Hỗ trợ xuất khẩu luôn là một chủ trương kinh tế quan trọng của Đảng và Nhà
nước Lào nhằm phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nâng
cao đời sống người dân. Hoạt động hỗ trợ xuất khẩu hàng hoá vào thị trường quốc tếtrở
thành một nhu cầu thiết yếu trên cơ sở phát huy những thành công, khắc phục hạn chế
cũng như nắm bắt những cơ hội và vượt qua những thách thức trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế và trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
hiện nay. Muốn vậy, thì nhà nước phải đứng vai trò đầu tầu, có những chiến lược và
chính sách phù hợp về nội dung, thời điểm và phương thức thực hiện.
141
nghiệp theo hướng tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho xuất khẩu
3.4.1.1 Nhà nước cần tạo một môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh
Các doanh nghiệp là đơn vị trực tiếp thực hiện việc xuất khẩu và năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp
đó. Doanh nghiệp chính là những người quyết định chủ yếu tới sự thành công hay thất
bại của họ trên thị trường ngày một cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Tuy nhiên, doanh
nghiệp lại hoạt động dưới sự điều chỉnh của luật pháp và các chính sách của Nhà nước.
Nếu môi trường luật pháp chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu, tạo ra một
môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng thì doanh nghiệp sẽ có thể phát huy được
hết lợi thế của mình nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, nếu môi
trường luật pháp chính sách chi phối họ không có sự hỗ trợ cho xuất khẩu, môi trường
cạnh tranh không bình đẳng thì dù sức cạnh tranh của doanh nghiệp đó có tốt đến đâu
thì hiệu quả xuất khẩu cũng sẽ bị hạn chế.
Để thực hiện chủ trương này, trước hết nhà nước cần điều chỉnh hệ thống luật
pháp theo hướng thông thoáng, phù hợp với định hướng phát triển và đáp ứng được
yêu cầu hội nhập theo xu hướng tự do hoá thương mại, phù hợp với các quy định của
các tổ chức quốc tế mà Lào tham gia. Các bộ luật, quy định liên quan đến xuất khẩu
phải được rà soát chặt chẽ, nhằm loại bỏ những quy định không còn phù hợp, các quy
định chồng chéo, mâu thuẫn nhau gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu, trước hết là
trong Luật Đầu tư và Luật Thương mại. Hơn nữa, Nhà nước cũng cần nghiên cứu và
hoàn thiện một số Luật còn mới ở CHDCND Lào như Luật cạnh tranh và chống độc
quyền, Luật sở hữu trí tuệ.
Thêm vào đó, cải cách hành chính cũng là một nhu cầu hết sức bức thiết đặt ra
đối với Lào hiện nay.Mặc dù trong những năm qua, nhà nước đã có những nỗ lực đáng
kể nhưng hiệu quả cải cách hành chính ở Lào còn chưa cao. Điển hình có thể kể đến
chính sách thủ tục hành chính một cửa đã được đi vào thực hiện, với kỳ vọng sự thay
đổi lớn trong công tác hành chính nhằm tạo thuận lợi tối đa cho nhân dân và các doanh
nghiệp. Tuy nhiên, thay vào đó là hiện tượng “một cửa nhiều khoá” khiến cho tình hình
không được cải thiện đáng kể. Do vậy, thủ tục hành chính cần được cải thiện quyết liệt
và đồng bộ hơn, xoá bỏ các thủ tục phiền hà, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được
tự do hành nghề xuất nhập khẩu theo giấy phép kinh doanh, đẩy mạnh việc hoàn thiện
cơ chế hải quan một cửa giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí thông quan
hàng hoá.
3.4.1.2 Hoàn thiện chính sách tài chính
142
Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá sang thị trường quốc tế, hiện nay
chiếm phần lớn vẫn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì thế vốn vẫnlà khó khăn lớn
đối với họ trong việc đầu tư mở rộng quy mô và đầu tư đổi mới công nghệ sản
xuất.Mặt khác, chính vì quy mô vốn không lớn nên các doanh nghiêp xuất khẩu cũng
ít có khả năng mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất khẩu của mình. Do vậy, nhằm tháo
gỡ khó khăn nàycho các doanh nghiệp xuât khẩu hàng hoá sang thị trường quốc tế,
nhà nước cần hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phục vụ
cho xuất khẩu. Tuy nhiên,các chính sách này phải được điều chỉnh phù hợp vớiquy
định của các tổ chức quốc tế mà CHDCND Lào tham gia cũng như các cam kết của
Lào, mở rộng các hình thức tín dụng, bảo đảm các điều kiện tiếp cận vốn và các hình
thức bảo lãnh thuận lợi hơn tại các ngân hàng thương mại, từng bước thực hiện cho
vay đối với nhà nhập khẩu có kim ngạch ổn định và thị phần lớn, trước hết đối với
hàng nông sản. Hơn nữa, nhà nước nên thành lập các quỹ bảo hiểm xuất khẩu nhằm
chia sẻ rủi ro cho các doanh nghiệp xuất khẩu, khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh
xuất khẩu, thành lập các quỹ đầu tư dành cho nghiên cứu cải tạo giống cây trồng, vật
nuôi, đổi mới và chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến và bảo quản hàng xuất
khẩu, đầu tư đào tạo nguồn nhânlực.
Do những ưu đãi ở quỹ hỗ trợ phát triển không phù hợp với thông lệ quốc tế nên
cần sớm chuyển đổi phương hướng hỗ trợ cho doang nghiệp sang hình thức trợ cấp hợp
lệ. Trong vòng 5- 10 năm tới tín dụng hỗ trợ xuất khẩu phải thực sự tạo điều kiện
thuận lợi để thúc đẩy xuất khẩu phát triển, hỗ trợ co các doanh nghiệp Lào đối với các
ngành ưu thế (như nông sản, hạt tiêu, hạt điều, gạo,
hàngthủcôngmĩnghệ,hàngmâytrelá...).Tậptrungvàochuyểndịchcơcấuthịtrường nhằm tạo
thế mạnh nhất định khẳng định được chỗđứng hàng của Lào như thị trường Đông Âu
truyền thống, thị trường EU, Mỹ, NhậtBản...
Các cách trên đều chưa thật thoả đáng, vì như vậy Lào sễ tiếp tục viphạm quy
định trợ cấp của WTO. Giải pháp cho tình trạng trên như sau: (1) Đối vớinhững nhà
đầu tư đã đi vào hoạt động còn được hưởng ưu đãi, tiếp tục thực hiện ưu đãi vàtăng
mức ưu đãi gấp đôi để vừa rút ngắn thời gian ưu đãi trong khuôn
khổWTOchophépcắtbỏ,vừađảmbảoquyềnlợichonhàđầutư.(2)Đốivớinhữngnhà
143
đầutưmới, đang trong dự án xây dựng: khống chế thời gian được nhận quyền
ưuđãitrongkhuôn khổ cho phép. Số thời gian còn lại được hỗ trợ bằng hình thức
khácphùhợphơn. Sửa đổi quy định trên theo hướng chuyển đổi cách thức ưu đãi
bằnghìnhthứctrợcấpcho doanh
3.4.1.3Đối phó với tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu tới nước CHDCNDLào
nghiệpvềhoạtđộngnghiêncứupháttriển,nângcấpcơsởhạtầng.
Sáu giải pháp nêu trên của nhà nước cần được thực hiện trong mọi thời điểm
nhằm hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của Lào sang
thịtrường quốc tế.Tuynhiên,trongđiềukiệnkhủnghoảngtàichínhtoàncầuđangrấtnặng nề
hiện nay thì nhà nước còn cần có các biện pháp nhằm tránh các tác động tiêu cực tới
mức tối thiểu để kinh tế đất nước không lâm vào suy thoái đồng thời tạo điều kiện phục
hồi nhanh chóng sau khi khủng hoảng đi qua. Những biện pháp này không tác động
trực tiếp tới hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu hàng nông sản của Lào,
nhưng nó có vai trò quan trọng nhằm ổn định kinh tế đất nước, giảm bớt khó khăn cho
nền kinh tế, đặc biệt là ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu chủ lực sang thị trường
quốc tế.
Thứ nhất, đối với nhà nước, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, rà soát các
khoản tiền gửi và đầu tư của tổ chức tài chính nước ngoài, phát triển bền vững thị
trường chứng khoán... là những việc mà nhà nước cầnlàm ngay nhằm chủ động đối phó
với tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tới CHDCND Lào. Gói kích cầu
nội địa cần được thực hiện đúng hướng và hiệu quả, cần nghiên cứu kỹ lưỡng các lĩnh
vực được hưởng đầu tư từ gói kích cầu kinh tế của Chính Phủ, với mục tiêu đầu tư đúng
lĩnh vực; đúng doanh nghiệp để hiệu quả của gói kích cầu đạt được lớn nhất. Hơn nữa,
cần giải ngân gói kích cầu nhanh chóng để đẩy mạnh sản xuất và tiêu dùng, đồng thời
tiến hành giám sát kiểm tra kỹcàng các hoạt động sử dụng vốn kích cầu không để xảy ra
tình trạng tham ô, sử dụng vốn không đúng mục đích, gây thiệt hại cho nền kinhtế.
Thứ hai, với các ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu như nông nghiệp, công
nghiệp nhẹ, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn tới suy thoái kinh tế toàn cầu có
tác động làm giảm sức cầu hàng hoá, tuy nhiên do nguồn cung nông sản thế giới cũng
bị suy giảm nên giá nông sản sẽ giảm không nhiều. Chính vì thế, ngành cần giữ vững
sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực, đảm bảo mục tiêu xuất khẩu các hàng nông sản
chủ yếu như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều... Đồng thời cần tăng cường hiệu quả dự báo
144
thông tin thị trường để tận dụng các cơ hội thuận lợi giúp cho người nông dân và
doanh nghiệp có thể ứng phó linh hoạt hơn. Do vậy, các ngành sản xuất cần chỉ đạo
tăng cường cải thiện, kiểm tra chất lượng sản phẩm, bình ổn thị trường nguyên vật liệu
biện pháp thâm nhập thị trường quốc tế một cách hiệuquả
sản xuất trong nước, góp phần ổn định giá cả hàng hoá xuấtkhẩu. 3.4.2 Một số khuyến nghị với các doanhnghiệp 3.4.2.1 Tăng cường các hoạt động tìm hiểu về thị trường quốc tế và tìm kiếm các
Thị trường quốc tế tuy là một thị trường không còn xa lạ gì với các doanh
nghiệp xuất khẩu Lào, tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng có đầy đủ thông
tin một cách chính xác về thị trường này. Hiểu biết về thị trường quốc tế của các doanh
nghiệp Lào hiện vẫn còn yếu, đây chính rào cản đối với doanh nghiệp khi xuất khẩu
vào thị trường quốc tế.Để giảm rủi ro khi thâm nhập vào thị trường quốc tế đòi hỏi các
doanh nghiệp Lào phải thông hiểu về hệ thống luật pháp, hệ thống các rào cản kỹ
thuật… cũng như đặc điểm thị trường quốc tế, là thị trường đa dạng và sức mua lớn, thị
trường quốc tế không chỉ dành cho những người giàu có mà còn dành cho cả những
người trung lưu và những người nghèo, đặc biệt là từ những nước mới gia nhập thị
trường quốc tế. Hơn nữa, muốn làm ăn lâu dài trong thị trường quốc tế, ngoài việc tuân
thủ mọi quy định thương mại chung của thị trường quốc tế, các doanh nghiệp Lào còn
phải tìm hiểu về tập quán kinh doanh và thị hiếu người tiêu dùng. Chất lượng hàng hoá
và việc tuân thủ đầy đủ mọi điều đã cam kết là yếu tố thể hiện thiện chí và thái độ
nghiêm túc của doanh nghiệp, đây là điều kiện cho mối quan hệ hợp tác lâu dài.Trong
kinh doanh, các doanh nghiệp nước ngoài thường không muốn thay đổi các đối tác, họ
có xu hướng tìm một vài bạn hàng cố định có khả năng cung cấp nhiềuloại hàng hoá
khácnhau.
Thông tin ngày nay có thể tham khảo từ nhiều nguồn như báo chí, sách,
internet, từ các cơ quan chức năng hay do doanh nghiệp tự nghiên cứu tìm hiểu. Tuy
nhiên, vấn đề quan trọng là phải xử lý thông tin đó ra sao để có dự báo chính xác phục
vụ cho xuất khẩu của doanh nghiệp Lào. Do vậy, bên cạnh việc tiếp thu những thông
tin từ Chính phủ, các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh liên kết với
các viện nghiên cứu, liên kết với các doanh nghiệp xuất khẩu tương đồng và đặc biệt
là tích cực chủ động trong việc khảo sát, nghiên cứu thị trường để tìm ra thông tin cho
145
riêng doanh nghiệp mình. Bởi nếu tự xây dựng được cho mình một hệ thống cơ sở dữ
liệu riêng đáng tin cậy thì đó sẽ là một lợi thế của doanh nghiệp so với các doanh
nghiệp khác và góp phần nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệpđó.
Để chủ động thâm nhập thị trường quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu Lào có
thể sử dụng một số phương thức kinh doanhsau:
Thứ nhất,với các doanh nghiệp lớn: Có thể liên doanh liên kết với các công ty
thương mại hay các nhà phân phối của nước ngoài. Bằng cách này có thể thâm nhập
trực tiếp vào các kênh phân phối chủ đạo trên thị trường quốc tế như các hệ thống siêu
thị bán lẻ, các công ty bán lẻ độclập…
Thứ hai,với các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Có thể liên kết với cộng đồng người
Lào tại nước ngoài. Đây là một phương án hợp tác có hiệu quả vì cộng đồng người
Lào tại nước ngoài. Theo đó hàng hoá sẽ được sản xuất trong nước và sử dụng kênh
phân phối tại thị trường quốc tế. Bằng cách này, sẽ luôn nắm bắt được sự thay đổi của
thị trường quốc tế và thâm nhập được vào các kênh phân phối nhỏ nhưng hiệu quả của
thị trường này.
Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức liên doanh với các đối tác
nước ngoài trong việc sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hoá. Tuy nhiên, biện pháp
này chỉ nên sử dụng như là một biện pháp ban đầu, vì mục tiêu của các doanh nghiệp
Lào là phải phấn đấu gây dựng được uy tín và thương hiệu cho riêng mình trên thị
trường quốc tế. 3.4.2.2 Tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị, công nghệ và nâng cao tay nghề người laođộng
Trên thị trường quốc tế là một thị trường có nhiều rào cản kỹ thuật mà hàng hoá
các nước đang phát triển khó vượt qua; ngoài tiêu chí giá cả thì chất lượng cũng là
nhân tố quan trọng nhất để sản phẩm được chấp nhận trên thị trường.Mặt khác, muốn
đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang thị trường quốc tế, các doanh nghiệp cần sản xuất
những mặt hàng mà thị trường có nhu cầu. Do vậy, các doanh nghiệp Lào cần tăng
cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, chú trọng đầu tư chiều sâu để nâng cao năng
suất, chất lượng, giá trị gia tăng, đa dạng hoá sản phẩm và hạ giá thành đối với từng
mặt hàng cụthể.
146
Đầu tư vốn và thiết bị, máy móc, công nghệ tiên tiến, hiện đại và đồng bộ vào
quá trình sản xuất để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Trước khi tiến hành
đầu tư, các doanh nghiệp cần xác định rõ các ưu thế cạnh tranh tương đối để tập trung
đầu tư vào những mặt hàng có lợi thế nhất, tránh đầu tư tràn lan, hiệu quả thấp, nghiên
cứu các đối thủ cạnh tranh để tránh những mặt hàng khó cạnh tranh hay chưa có khả
năng cạnhtranh.
Hơn nữa, doanh nghiệp cần đầu tư công nghệ tiên tiến và áp dụng hệ thống quản
lý chất lượng được thị trường quốc tế công nhận như tiêu chuẩn chất lượng ISO và tiêu
chuẩn HACCP.HACCP là tiêu chuẩn bắt buộc đối với tất cả hàng hoá muốn xuất khẩu
vào thị trường quốc tế và đặc biệt là đối với hàng nông sản. Vì thế, doanh nghiệp Lào
cần áp dụng hệ thống tiêu chuẩn HACCP để chứng minh chất lượng hàng hoá của
mình đi theo đúng các nguyên tắc của hệ thống phòng ngừanguy cơ này. ISO không
phải là hệ thống tiêu chuẩn chất lượng bắt buộc đối với hàng hoá muốn xuất khẩu vào
thị trường quốc tế, tuy nhiên nếu doanh nghiệp nào có được chứng nhận tiêu chuẩn
chất lượng này sẽ cónhiều cơ hội thâm nhập vào thị trường quốc tế hơn cũng như có
3.4.2.3 Từng bước xây dựng và phát triển thương hiệu cho hàng hoá của Lào
khả năng cạnh tranh hơn với các sản phẩm cùng loại không có chứng chỉnày.
Người tiêu dùng nước ngoài có xu hướng rất ưa chuộng các sản phẩm có thương
hiệu nổi tiếng. Bởi thương hiệu chính là cái tạo nên uy tín cho doanh nghiệp tức là tạo
ra lòng tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó. Do vậy, người tiêu dùng nước
ngoài sẵn sàng bỏ ra một số tiền lớn hơn để mua hàng hoá có thương hiệu nổi tiếng, đó
vừa là sự đảm bảo về chất lượng và còn góp phần nâng cao sự sang trọng của người sử
dụng hàng hoá đó. Tuy nhiên, hiện nay đang có thực tế là các sản phẩm của Lào xuất
khẩu sang thị trường quốc tế chủ yếu dưới hình thức gia công và do đó sẽ mang
thương hiệu của các công ty nước ngoài. Một mặt loại hình xuất khẩu gián tiếp qua
trung gian này không đem lại giá trị xuất khẩu cao, mặt khác nó còn làm cho quá trình
gây dựng thương hiệu của hàng hoá Lào càng trở nên khó khăn hơn. Người tiêu dùng
nước ngoài hiện khá ưa chuộng các sản phẩm gia công từ Lào, nhưng họ không hề biết
rằng họ đang sử dụng các sản phẩm của Lào. Các sản phẩm của Lào không ngừng được
cải thiện về chất lượng và mẫu mã, và được nhiều người tiêu dùng nước ngoài chấp
nhận và yêu thích. Đó cũng chính là cơ sở để các doanh nghiệp Lào tự tin hơn trong
147
việc gây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình. Hiện tại, một số doanh nghiệp Lào
cũng bước đầu xuất khẩu hàng hóa sang thị trường quốc tế, nhưng vẫn chỉ ở dạng nhỏ
lẻ và chưa đạt được hiệu quả cao. Chính vì vậy, mà các doanh nghiệp Lào cần có ý
thức và chiến lược nhằm xây dựng cho mình một thương hiệu riêng, bởi đó mới chính
là biện pháp vững chắc nhất để các doanh nghiệp Lào thâm nhập vào thị trường quốc tế
và cũng chính là con đường mang lại hiệu quả dài hạn. Do vậy, các doanh nghiệp cần
hạn chế xuất khẩu hàng hóa qua trung gian trên cơ sở đẩy mạnh việc thâm nhập và mở
rộng kênh phân phối thông qua các văn phòng đại diện tại nước ngoài. Trực tiếp thiết
lập và gây dựng mối quan hệ với các nhà nhập khẩu nước ngoài, giảm dần gia công,
tăng cường xuất khẩu trực tiếp. Muốn làm được điều này thì doanh nghiệp cần cải tiến
mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm nhằm thu hút và tạo uy
tín dần dần với người tiêu dùng nước ngoài. Xây dựng thương hiệu là một con đường
dài và gian khó, nó đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược dài hạn, nghiêm túc và
kiên trì thực hiện theo đúng kế hoạch đã được vạch ra.
Tuy nhiên, một vấn để được đặt ra trong giai đoạn hiện nay đó là vấn đề về sở
hữu trí tuệ và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Bởi không ít các nhãn hiệu được ưa chuộng
của Lào bị doanh nghiệp các nước khác đăng ký bảo hộ thương hiệu sản phẩm tại nước
họ và đương nhiên các sản phẩm của Lào sẽ không được phép mang nhãn hiệu đó nữa
nếu như không muốn bị kiện ăn cắp bản quyền.
148
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Từ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, từ thực trạng chính sách nhà nước
hỗ trợ xuất khẩu hàng hoá của nước CHDCND Lào và kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới, chương 3 đó đưa ra 4 quan điểm cơ bản về hoàn thiện chính sách nhà
nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hoá của nước CHDCND Lào trong điều kiện là thành viên
của WTO và phân tích khá đầy đủ những triển vọng và mục tiêu phát triển xuất khẩu
hàng hoá của Lào. Đây là định hướng quan trọng để Nhà nước, hiệp hội ngành hàng và
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng nông sản đưa ra những chính sách phù hợp
hơn trong điều kiện mới.
Trong điều kiện gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, tác giả đã đưa vào
những quy định của tổ chức thương mại thế giới về các chính sách hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa và những cam kết của Lào khi gia nhập WTO về hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa
của chính phủ.
Trước những yêu cầu cấp thiết nhằm gia tăng xuất khẩu hàng hoá một cách bền
vững trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO, cần phải có những giải pháp đồng bộ, mang tính khả thi và mang lại hiệu quả
cao. Chương 3 đã đưa ra hệ thống các giải pháp mang tính quyết định đến thành công
trong việc hoàn thiện các chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của Lào hiện
nay.Các giải pháp này có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau
nhằm hỗ trợ hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Lào và đã đề xuất một số kiến nghị về
điều kiện thực hiện các giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu
hàng hóa của nước CHDND Lào trong thời gian tới.
149
KẾT LUẬN
Xuất khẩu ở nước CHDCND Lào đã có tiến bộ và đóng góp đáng kể vào phát
triển kinh tế chung của đất nước và nâng cao đời sống nhân dân, nhất là khi nền kinh tế
chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều hành, quản lý
của Nhà nước. Trong đó, chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu có một vai trò rất quan
trọng đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và phát triển nền kinh tế ở nước
CHDCND Lào trong những năm qua và đạt được những thành tựu nhất định.
Việc phân tích đánh giá đúng thực trạng, tìm ra nguyên nhân để từ đó đưa ra
những nhóm giải pháp kinh tế hữu hiệu nhằm hoàn thiện chính sách của nhà nước hỗ
trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDCND Lào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, là vấn đề rất quan trọng không chỉ về mặt nhận thức, lý luận mà còn có ý nghĩa về
mặt thực tiễn rất cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt khi Lào đã tham
gia tổ chức thương mại thế giới WTO.
Luận án đã hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những lý luận cơ bản về chính
sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa, trong đó khằng định sự cần thiết tất yếu, vai
trò và tầm quan trọng của các chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa đối với
hoạt động xuất khẩu hàng hóa của một quốc gia. Luận án đưa ra tiêu chí đánh giá sự
thành công của một chính sách, những nhân tố trong nước và quốc tế gây ảnh hưởng
tới chính sách của chính phủ hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của một quốc gia. Ngoài ra
thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng
hóa của một số nước như: Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam,luận án đã rút ra những
bài học kinh nghiệm bổ ích cho Lào trong quá trình hoàn thiện chính sách hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa.
Luận án đã phân tích và đánh giá đúng thực trạng xuất khẩu hàng hóa, sau đó
luận án đã phân tích khá sâu và chi tiết các cơ chế, chính sách và đánh giá thực trạng
các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt trong giai đoạn trước và sau gia
nhập WTO, với mục đích là đẩy mạnh xuất khẩu, trong đó tác giả cũng chỉ ra được
những kết quả, những hạn chế, tồn tại của từng chính sách trong triển khai thực hiện
Một số mặt hàng đã tạo thế mạnh xuất khẩu cho CHDCND Lào trên thị trường
các nước ASEAN nói riêng và thị trường trên thế giới nói chung như gỗ và sản phẩm từ
gỗ, điện và dệt may. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề
bức xúc trong hoạt động xuất khẩu, cần được nghiên cứu và tìm ra những giải pháp khắc
phục. Đồng thời để thúc đẩy hơn nữa xuất khẩu ở Lào trong thời gian tới cần phải đẩy
150
mạnh việc tăng cường đầu tư, khai thác, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sửa đổi một số chính
sách, luật pháp cho phù hợp hơn với điều kiện mới. Xuất khẩu ở nước CHDCND Lào
trong thời gian vừa qua chủ yếu vẫn vẫn tập trung vào các mặt hàng ở dạng thô chưa qua
chế biến. Hơn nữa, Lào chưa chủ động được thị trường sản xuất hàng xuất khẩu và xuất
khẩu vẫn còn dựa vào lợi thế tự nhiên, chưa bám sát thị trường xem nhu cầu thị trường
cần gì. Trong những năm tới, nếu không có các giải pháp thật sự hữu hiệu và cương
quyết nhất là tình hình kinh tế của Lào đang trên đường hòa nhập vào nền kinh tế khu
vực và thực hiện các cam kết đã ký với các nước trong khối ASEAN thì việc tiêu thụ sản
phẩm của Lào sẽ hết sức khó khăn. Các chính sách về thuế, hải quan, tài chính, tín dụng
ngân hàng chưa phù hợp cần có sự bổ sung và hoàn chỉnh hơn để từng bước phù hợp với
thông lệ quốc tế.
Dựa trên cơ sở lý luận khoa học, căn cứ vào quan điểm, mục tiêu phương
hướng phát triển trong thời gian tới. Đặc biệt trên cơ sở những cam kết của Lào sau gia
nhập WTO, luận án đã đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ
trợ xuất khẩu hàng hóa và đã đề xuất một số kiến nghị về điều kiện thực hiện các giải
pháp hoàn thiện chính sách nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nước CHDND
Làotrong thời gian tới. Các nhóm giải pháp này có tính khả thi cao, vì nó được gắn
chặt với những điều kiện cần thiết để thực hiện, phù hợp với xu thế phát triển. Các
nhóm giải pháp này cần được nghiên cứu, triển khai một cách đồng bộ để đem lại hiệu
quả cao. Luận án cũng đồng thời kiến nghị với nhà nước, bộ ngành địa phương, doanh
nghiệp và các cơ quan hữu quan khác để thực hiện hiện các chính sách hỗ trợ xuất
khẩu hàng hóa. Quá trình thay đổi chính sách là quá trình hoàn thiện chính sách, vì
vậy, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách để phù hợp với hội nhập, đặc biệt là phù hợp
với các quy định của WTO.
Trong thời gian thực hiện luận án, đề tài không thể tránh khỏi những thiếu
sót và hạn chế. Vì thời gian và điều kiện hạn chế, việc đi sâu thực tế, nghiên cứu
khảo nghiệm nhằm tìm ra giải pháp thỏa đáng cho vấn đề nghiên cứu còn gặp nhiều
khó khăn. Do đó tác giả rất mong muốn tiếp tục nhận được sự giúp đỡ của các thầy
cô Việt Nam nói chung và của trường Đại học kinh tế quốc dân để tiếp tục có thể đi
sâu nghiên cứu hơn nữa cả trên góc độ lý luận và thực tiễn.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Mai Yayongyia (2014), “Đẩy mạnh quan hệ thương mại song phương
Việt Nam – Lào”, Tạp chí kinh tế và dự báo, số 24, tháng 12/2014.
2. Mai Yayongyia (2015), “Về chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của
nước CHDCND Lào”, Tạp chí kinh tế và dự báo, số 04, tháng 2/2015.
3. Mai Yayongyia (2014), “Xuất khẩu bất động sản nhà ở tại chỗ của Việt
Nam và khả năng áp dụng tại Lào” Hội thảo khoa học quốc gia, kinh
doanh bất động sản – cơ hội và thách thức trong bối cảnh thị trường có
dấu hiệu phục hồi, Trường Đại học kinh tế quốc dân, Hà nội, 2014.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU BẰNG TIẾNG VIỆT
1. Adam Smith (1999), Của cải của dân tộc, NXB sự thật, Hà Nội
2. Ban Chấp hành Trung Ương (2010), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 –
2020, Hà Nội.
3. Bộ Thương mại – Viện nghiên cứu thương mại (2002), Một số giải pháp nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam
trong tiến trình hội nhập quốc tế, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21, Đề
tài NCKH cấp Bộ, Mã số B2004-40-41.
5. Bộ Công thương (2011), Chính sách thương mại nhằm phát triển bền vững ở Việt
Nam thời kỳ 2011 – 2020 “Hội thảo khoa học quốc gia”.
6. Bộ Tài Chính (2004), Danh mục và thuế suất đối với hàng hóa xuất – nhập khẩu,
Nhà xuất bản Tài chính, Hà nội.
7. Dự án VIE/61/94 (2004), “Hỗ trợ xúc tiến Thương mại và phát triển xuất khẩu ở
Việt Nam: Mục tiêu, kết quả và hoạt động”, bài trình bày tại Hội thảo Hỗ trợ xúc
tiến thương mại và phát triển xuất khẩu ở Việt Nam: Mục tiêu, kết quả và hoạt
động ngày 15 tháng 9, Hà Nội.
8. Đỗ Đức Bình và Ngô Thị Tuyết Mai đồng chủ biên (2012), Giáo trình kinh tế
quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân.
9. Đặng Đình Đào, Hoàng Đức Thân (2013), Giáo trình kinh tế thương mại, NXB
Đại học Kinh tế Quốc dân.
10. Đặng Thị Thúy Hà, Nguyễn Thị Diệu Chi, Trần Ngọc Thin (2010), Xuất nhập
khẩu hàng hóa của Việt Nam sau ba năm gia nhập WTO thực trạng và một số giải
pháp thúc đẩy, Hà Nội.
11. Đặng Minh Đức (2008), Chính sách cạnh tranh của EU. Một số tác động đến quan hệ
giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu, “Đề tài khoa học cấp nhà nước”.
12. Đinh Văn Thành (2010), Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu chất lượng tăng trưởng xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa”, Mã số
2007 – 78 – 012 – Viện nghiên cứu Thương mại.
13. Đinh văn Thành (2006), Các biện pháp phi thuế quan đối với hàng nông sản trong
thương mại quốc tế, nhà xuất bản Lao động-Xã hội.
14. Đinh Văn Thành (2006), “Tìm hướng đi cho xuất khẩu cao su tự nhiênViệt Nam”,
Tạp chí Thương mại (12/2006), tr. 7-8.
15. Hoàng Minh Đường – Nguyễn Thừa Lộc (2006), “Giáo trình quản trị doanh
nghiệp thương mại” NXB Lao động – Xã hội.
16. Hiệp hội chè Việt Nam (2003), Những giải pháp nâng cao chất lượng tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm chè Việt Nam, tài liệu hội thảo tháng 12/2003, Hà Nội.
17. Lê Hữu Thành (2009), Luận án tiến sỹ: “Sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất
khẩu chủ lực Việt Nam trong điều kiện tự do hóa thương mại”.
18. Lê Thị Anh Vân (2005), “Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, NXB Lao động – Xã hội.
19. NEU-JICA (2003) Chính sách công nghiệp và thương mại của Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập, tập II, Nhà xuất bản Thống kê.
20. Ngô Thị Tuyết Lan (2007), Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản
Việt Nam trong điều kiện hội nhập.
21. Nguyên Anh Minh (2006), Nghiên cứu chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Trung
Quốc giai đoạn từ 1978 đến nay và gợi ý vận dụng đối với Việt Nam, “Luận án tiến
sỹ”.
22. Nguyễn Hồng Phúc (2005), Hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất khẩu tại Quỹ hỗ trợ phát
triển: Thực trạng và giải pháp, “Chuyên đề nghiên cứu khoa học”, Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân.
23. Nguyễn Thanh Hà (2003) “Những giải pháp chủ yếu để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam sang các nước khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong giai
đoạn 2010”, Luận án tiến sỹ trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
24. Nguyễn Thị Nhiễu (2003) “Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
25. Nguyễn Thị Thúy Hồng (2012), Hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, Tr 293 – 308, “Kỷ yếu
Họi thảo quốc gia chủ đề”, Một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất kinh doanh
trong điều kiện hiện nay, - Phối hợp giữa Đại học Đại Nam – Đại học Kinh tế Quốc
dân – Học viện Tài chính – Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương – Hiệp hội
doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
26. Nguyên Thị Lệ Thủy, Bùi Thị Hồng Việt (2012), Giáo trình chính sách kinh tế -
xã hội, Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
27. Nguyễn Duy Bột (2004), “Một số vấn đề thương mại quôc tế và phát triển thị
trường xuất khẩu của Việt Nam” NXB Thống kê, Hà Nội.
28. Nguyễn Kim Bảo (2004), Điều chỉnh một số chính sách kinh tế ở Trung Quốc giai
đoạn 1992-2010, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội.
29. Nguyễn Hữu Hải, Phạm Thu Lan (2008), Giáo trình hoạch định và phân tích chính
sách công, Học viện Hành Chính, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
30. Nguyễn Văn Công (2009), Giáo trình phân tích kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế
quốc Dân.
31. Phạm Thu Hương (2007), Xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam – Cơ hội và thách
thức khi gia nhập WTO.
32. Phạm Công Đoàn (2003), “Định hướng và những giải pháp cho xuất khẩu nông
sản của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm tới”, tạp chí Thương mại, số
48/2003.
33. Phùng Tuấn Viết (2001), Định hướng chiến lược phát triển xuất nhập khẩu của
Thành phố Đà Nẵng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội miền Trung Việt Nam,
Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện nghiên cứu Thương mại Bộ Thương mại, Hà Nội.
34. Trần Lan Hương (2004), “Lợi thế so sánh trong quá trình công nghiệp hóa: Kinh
nghiệm Malaixia và Inđônêxia“, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới.
35. Trần Hậu, Nhân Hội nghị Cao su Đông Nam Á,Bàn về tình hình phát triển ngành
cao su Việt Nam: Khai thác hữu hiệu hơn nữa giá trị kinh tế cây cao su, giấy phép
xuất bản số 151/GP-BVHTT, Nhà in Trần Phú.
- Website: http://www.moit.edu.vn - http://www.neu.edu.vn - http://www.vnexpress.net
- http://www.ven.vn
- http://www.tapchithuongmai.vn
II. TÀI LIỆU BẰNG TIẾNG LÀO 36. ¨÷©-ê½-¦¾©-²ñ©-ê½-ß¾ À¦©-«½-¡ò© Œ ¦ñ¤-£ö´ Äì-¨½-ÁªÈ-¯ ó 2011 – 2020.
Á°ß-¡¾ß 5¯ ó £˜¤-êó 6 ¯ ó (2006 – 2010) - Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 – 2020. Kế hoạch 5 năm lần thứ sáu (2006 – 2010)
37. ®ö©-쾨-¤¾ß-¡¾ß-©¿-Àßóß¡º¤-¯ ½-§Ð´-¦½-²¾-Á¹È¤-§¾© -§Ð©-êó VII¦½-
ÃÏVIIÀ©õºß 8 ¯ ó 2014 - Báo cáo của Đại quốc hội Khóa VII lần thứ VII, tháng 8 năm 2014
38. ®ö©-쾨-¤¾ß-¯ ½-¥¿-¯ ó ¢º¤-¢½-ÁΤ-º÷©-¦¾-¹½-¡¿ Áì½ ¡¾ß-£É¾ ¯ ½-¥¿-
¯ ó 2011 - Bộ Công Thương Lào (2011), Báo cáo thường niên ngành Công thương Lào.
39. ®ö©-£íß-£¸É¾-©É¾ß-¸ò-ê½-¨¾-¦¾© ¡È¼¸-¡ñ®-êò©-꾤-¡¾ß-²ñ©-ê½-ß¾- ª½¹ù¾©-¦òß-£É¾-µøÈ-²¾¨-Ãß Áì½ ªÈ¾¤-¯ ½-Àê©¢º¤ ¦-¯ -¯ 쾸 Äì-¨½-¯ ó 2006 -2010. - Bài nghiên cứu khoa học về phương hướng và phát triển thị trường hàng hóa trong nước với ngoài nước của CHDCND Lào giai đoạn 2006 -2010.
40. ¦½-«ò-ªò-¡¾ß-¥ñ©-ª˜¤-¯ ½-ªò-®ñ©-¸¼¡-¤¾ß-¡¾ß-¦‰¤-ºº¡ ¢º¤-¡½-§¸¤-º÷©-
¦¾-¹½-¡¿ Áì½ ¡¾ß-£É¾ ¯ ó 2010 - Bộ Công Thương (2010), Thống kê thực hiện nhiệm vụ xuất khẩu
41. ®ö©-¦½-ÀÎó-¢º¤-ìñ©-«½-´öß-ªó-¸È¾-¡¾ß-¡½-§¸¤-¡¾ß-£É¾ ¡È¼¸-¡ñ®-¡¾ß- ¦‰¤-À¦ó´-¡¾ß-¦‰¤-ºº¡ ¦½-®ñ®-Àì¡-êó 079/¡-£, ß½-£ºß¹ù¸¤¸¼¤-¥ñß, ¸ñß-êó 18/09/2004 - Bộ trưởng Bộ Thương mại (2004), kiến nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại về thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu số 079/TM, 18/09/2004, Viêng Chăn.
42. ¦ñß-¨¾ì½-¹¸È¾¤-ìñ©-«½-®¾ß ¦-¦ ¹¸¼©-ß¾´ Áì½ ìñ©-«½-®¾ß-Á¹È-¤ ¦-¯ -¯
쾸 ¯ ó 2003¡È¼¸-¡ñ®-¡¾ß-²ö¸-²ñß-»È¸´-´õ-꾤-©É¾ß-À¦-©-«½-¡ò©, ¸ñ©-
ê½-ß¾-ê¿, ¸ò-ê½-¨¾-¦¾© Áì½ Àªñ¡Âß-Âì-§ó, »È¾-Âߨ, ¸ñß-êó 9/1/2003
- Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam – Chính phủ nước CHDCND Lào (2003), Hiệp
định về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa Chính phủ nước CH XHCN
Việt Nam và Chính phủ nước CHDCND Lào năm 2003, Hà Nội, ngày 9/1/2003.
2006- 43. -®ö©ì¾¨-¤¾ß ¨÷-©ê½-¦¾©-¡¾ß-ìö¤-êôß-Á¹È¤-§¾© Äì-¨½-¯ ó
2010Áì½ ¸ò-Ħ-êñ©-»º©-¯ ó 2020¢º¤ ¦-¯ -¯ 쾸.
- Chính phủ nước CHDCND Lào (2005), chiến lược đầu tư quốc gia giai đoạn
2006-2010 và tầm nhìn đến năm 2020 của nước CHDCND Lào, báo cáo chuyên
đề, Viêng Chăn, Lào.
44. ®ö©-쾨-¤¾ß-¢½-ÁΤ-À¦©-«½-¡ò©-Œ¡¾ß£É¾ ¢º¤-¡½-§¸¤-º÷©-¦¾-¹½-¡¿
Áì½ ¡¾ß-£É¾ Á¹È¤ ¦-¯ -¯ 쾸 Ãß-¡º¤-¯ ½-§Ð´-ù¨È--£˜¤-ê-ó IX¢º¤-²ñ¡-¯ ½-§-
¾-§öß-¯ ½-ªò-¸ñ©-쾸 (¯ ó 2009)
- Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng NDCM Lào (2011), Báo cáo
Kinh tế thương mại của Bộ Công thương Lào.
45. ®ö©-¦ñ¤-츴-Á°ß-²ñ©-ê½-ß¾-À¦©-«½-¡ò© Œ ¦ñ¤-£ö´ 5 ¯ ó £˜¤-êóVI(2006-
2010)Áì½ ¨÷©-ê½-¦¾©-¡¾ß-²ñ©-ê½-ß¾-À¦©-«½-¡ò© Œ ¦ñ¤-£ö´ 5 ¯ ó £˜¤-êó
VII (2011-2015)Áì½ »º©-¯ ó2020.
- Bộ Kế hoạch và đầu tư 2010, tổng kết kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
lần thứ VI (2006-2010) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ VII
(2011-2015) và đến năm 2020, Vientiane.
46. ¨÷©-ê½-¦¾©-¡¾ß-²ñ©-ê½-ß¾-¡¾ß-¦‰¤-ºº¡-¢º¤ ¦-¯ -¯ 쾸 Äì-¨½ (2010-2012).
- Bộ Công thương, Chiến lược phát triển xuất khẩu của Lào (2010-2012).
47. ¨÷©-ê½-¦¾©-²ñ©-ê½-ß¾-¡¾-ß-£É¾-ÁªÈß-š-»º© ¯ ó 2020¢º¤-¡½-§¸¤-º÷©-¦¾-
¹½-¡¿ Áì½ ¡¾ß-£É¾
- Bộ Công thương, Chiến lược phát triển thương mại của Lào từ nay đến 2020.
48. ¦½-«ò-ªò-¡¾ß-ß¿-À¢í¾ Áì½ ¦‰¤-ºº¡ ÁªÈ-¯ ó (2001-2014)¡½-§¸¤-º÷©-¦¾-¹½-¡¿
Áì½ ¡¾ß-£É¾
- Bộ Công thương (2001-2014), Thống kê xuất nhập khẩu của Lào.
49. ªó-ì¾-£¾-¦½-²¾®-À¦©-«½-¡ò© Œ ¡¾ß-£É¾ Ãß-¡º¤-¯ ½-§Ð´-¦½-²¾-Á¹¤-
§¾©-¦½-ÃÏ-êó VIII Áì½ êóIX (¯ ó 2010)
- Đại Quốc hội lần thứ VIII và thứ IX (2010), đánh giá tình hình phát triển kinh tế
- xã hội.
50. êò©-꾤 Áì½ ¡¾ß-¯ ñ®-¯ ÷¤-Á¡É-Ä¢-ª½¹ù¾©-²¾¨-Ãß Áì½ ªÈ¾¤-¯ ½-Àê©
¢º¤ ¦-¯ -¯ 쾸 Äì-¨½¯ ó 2006-2010Áì½ ¸ò-Ħ-êñ©-»º©-¯ ó 2020. - Định hướng và giải pháp phát triển thị trường trong nước và ngoài nước của CHDCND Lào thời kỳ 2006-2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
51. ®ö©-£íß-£¸É¾-¸ò-ê½-¨¾-¦¾©-¡È¼¸-¡ñ®-¸¼¡-¤¾ß-§Ð¡-¨øÉ-¡¾ß-°½-ìò©-
¦òß-£É¾-À-²ˆº-êö©-Áêß-»ø®-Á®®-À¦-©-«½-¡ò©, ß½-£ºß¹ù¸¤¸¼¤-¥ñß 2005. - Nghiên cứu khoa học về việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa để thay đổi quy mô kinh tế, Viêng Chăn 2005.
52. ©-ë. ìóÀ®ó ìó-®ö¸-¯ ¾¸ ¡¾ß-À§‡º´-¨¤-À¦©-«½-¡ò©-²¾¡-²œß¢º¤ ¦-¯ -¯ ì¾-¸,
¦½«¾-®ñß-£íß-£¸É¾-À¦-©-«½Á¹È¤-§¾©-쾸 - TS. Leeber Leebouapao, Hội nhập kinh tế khu vực của nước CHDCND Lào, Viện nghiên cứu kinh tế quốc gia Lào.
53. ®ö©-ßò-²öß-¸ò-ê½-¨¾ ¯ ½-ìóß-¨¾-Àº¡ ´½-¹¾-¸ò-ê½-¨¾-ÄìÀ¦-©«½-¡ò©Á¹È¤-
www.mof.gov.la,
www.moic.gov.la,
§¾© ¦-¦ ¹¸¼©-ß¾´ Áì½ ´½-¹¾-¸ò-ê½-¨¾-ÄìÁ¹È¤-§¾©ì¾¸. - Một số luận án tiến sỹ, Đại học Kinh tế quốc dân Việt Nam và Đại học Quốc gia Lào.
www.smepdo.com
www.laogov.gov.la
54. À¸ñ®-ħ-ì: www.na.gov.la,
III.TÀI LIỆU BẰNG TIẾNG ANH
http://www.wto.org/english/tratop_e/adp_ehtm [Accessed 15 Decem ber 2005].
“Statistics on antidumping” [online]. Available from: 55. WTO
liberalization and “revealed” comparative 56. Balassa, Bela (1965) “ Trade
advantage”, The Manchester school of economic and social studies.
http://discoverabroad.com/UsaHome.htm [Accessed 25 November 2005].
57. Discoverabroad.com (2005), “US Trade Law” [online]. Available from:
58. UNCTAD (2008), Doing Business (2008), Comparing regulation in 178
Economies, the Word Bank Corporation, New York and Geneva.
59. Thomas L. Wheelen (2008), Stragegic Management and Business Polocy,
Eleventh Edition.
60. Mekong Economics (2002), “A study of Trade, FDI and Labour in Vietnam” , An
input to DFID, ESCOR funded project on Globalisation, Production and Poverty:
Macro, meso and micro level studies.
61. Rodrik Dani (2004), “Industrial policy for the twenty first century”, paper
prepared for UNIDO, HARVARD University, Jonh F.Kenedy School of
Government, September.
62. Ohno, Kenichi and Nguyen Van Thuong eds (2005), Improving Vietnam’s
industrial policy, The Publishing House of Political Theory.
63. Yimaz, Akyuz (2004), “challenges facing developing countries in world trade”,
Paper presented at MPI – Asean secretariat Workshop on Globalization,
International Trade and Finance, Hanoi, March.
64. Nagai Fumio (2002), “Thailand’s Trade Policy: WTO Plus AFTA?”, Working
paper Series 1-2, No.6, March, IDE APEC Study Center.
65. Mortimore, Michael (2003), “Targeting winners: Can FDI policy help developing
countries industries industrialize?”, Oslo Workshop in May.
66. Te Structure of Policy – in Canada, G. Bruce Doem and Peter Aucoin (Toronto:
Macmillan, 1971), pp. 10-38. Tr6.
67. B. Guy Peters, American Public Policy, Promise and Performance, Cq Pr, 568
http://www.laotrade.com
-
http://www.wto.org
-
http://www.aseansec.org
-
trang. Tr7.
- http://www.imf.org
PHỤ LỤC
PHIẾU ĐIÈU TRA ĐÁNH GIÁ VỀ MỨC ĐỘ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHÍNH
SÁCH NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA
(Mẫu 1: giành cho cán bộ quản lý )
Phụ lục 1:
PHẦN I: THÔNG TIN
1. Họ tên :
2. Số điện thoại:
3. Địa chị email:
4. Đơn vị công tác hiện nay:
5. Chức vụ hiện tại:
6. Lĩnh vực quản lý:
PHẦN II:
Anh/chị vui lòng cho biết đánh giá của mình về mức độ tác động của các chính sách
hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nhà nước trong thời gian vừa qua. bằng cách đánh
dấu X vào ô thích hợp bên dưới tương ứng với 5 mức độ trong đó( từ 1 đến 5 theo
mức độ tăng dần của mức hỗ trợ )
1. Anh/chị hãy đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách thuế của nhà nước hiện nay
tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp theo thang điểm từ 1 đến 5 (
1
2
3
4
5
theo mức độ tăng dần của mức hỗ trợ )
2. Anh/chị hãy đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách tín dụng của nhà nước hiện
nay tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp theo thang điểm từ 1 đến
1
2
3
4
5
5 ( theo mức độ tăng dần của mức hỗ trợ )
3. Anh/chị hãy đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách phát triển thị trường của
nhà nước hiện nay tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp theo thang
3
4
5
2
1
điểm từ 1 đến 5 ( theo mức độ tăng dần của mức hỗ trợ )
4. Anh/chị hãy đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách thương nhân của nhà nước
hiện nay tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp theo thang điểm từ 1
3
4
5
2
1
đến 5 ( theo mức độ tăng dần của mức hỗ trợ )
5. Anh/chị hãy đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách đầu tư của nhà nước hiện
nay tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp theo thang điểm từ 1 đến
3
4
5
2
1
5 ( theo mức độ tăng dần của mức hỗ trợ )
6. Anh/chị hãy đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách ruộng đất của nhà nước
hiện nay tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp theo thang điểm từ 1
2
3
4
5
1
đến 5 ( theo mức độ tăng dần của mức hỗ trợ )
PHẦN III:Ý KIẾN KHÁC
Ngoài những nội dung nói trên anh/chị còn có ý kiến nào khác về các chính sách
nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa hiện nay vui lòng ghi rõ ở dưới
đây.................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của anh/chị
PHỤ LỤC
PHIẾU ĐIÈU TRA ĐÁNH GIÁ VỀ MỨC ĐỘ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHÍNH
SÁCH NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA
(Mẫu 2: giành cho doanh nghiệp xuất khẩu )
Phụ lục 1:
PHẦN I: THÔNG TIN
1. Họ tên:
2. Số điện thoại:
3. Địa chị email:
4. Chức vụ hiện tại:
5. Tên doanh nghiệp:
Tên giao dịch ( nếu có ):
Năm bắt đầu sản xuất kinh doanh:
6. Địa chỉ doanh nghiệp:
Số điện thoại:
Số fax:
Email:
7. Trong năm 2014 doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu không?
Có trị giá xuất khẩu: Không
8. Ngành nghề sản xuất kinh doanh chính:
9. Mặt hàng xuất khẩu chính của doanh nghiệp:
PHẦN II:
Anh/chị vui lòng cho biết đánh giá của mình về mức độ tác động của các chính sách
hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa của nhà nước trong thời gian vừa qua. bằng cách đánh
dấu X vào ô thích hợp bên dưới tương ứng với 5 mức độ trong đó( từ 1 đến 5 theo
mức độ tăng dần của mức hỗ trợ )
10. Anh/chị hãy đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách thuế của nhà nước
hiện nay tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp theo thang
4
5
2
1
3
điểm từ 1 đến 5 ( theo mức độ tăng dần của mức hỗ trợ )
11. Anh/chị hãy đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách tín dụng của nhà
nước hiện nay tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp theo
4
5
3
2
1
thang điểm từ 1 đến 5 ( theo mức độ tăng dần của mức hỗ trợ )
12. Anh/chị hãy đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách phát triển thị
trường của nhà nước hiện nay tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của
doanh nghiệp theo thang điểm từ 1 đến 5 ( theo mức độ tăng dần của mức
4
5
3
2
1
hỗ trợ )
13. Anh/chị hãy đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách thương nhân của nhà
nước hiện nay tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp theo
3
4
5
2
1
thang điểm từ 1 đến 5 ( theo mức độ tăng dần của mức hỗ trợ )
14. Anh/chị hãy đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách đầu tư của nhà nước
hiện nay tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp theo thang
3
4
5
2
1
điểm từ 1 đến 5 ( theo mức độ tăng dần của mức hỗ trợ )
15. Anh/chị hãy đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách ruộng đất của nhà
nước hiện nay tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp theo
3
4
5
2
1
thang điểm từ 1 đến 5 ( theo mức độ tăng dần của mức hỗ trợ )
PHẦN III: Ý KIẾN KHÁC
Ngoài những nội dung nói trên anh/chị còn có ý kiến nào khác về các chính sách
nhà nước hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa hiện nay vui lòng ghi rõ ở dưới
đây.................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của anh/chị