o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸ o dôc vµ ®µo t¹o o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸ Bé gi¸
Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n ------ ------(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)------ ------ ------ ------ ------ ------
VONGSAY SOUKTHAVONE
CHÝNH S¸CH NHµ N¦íC VÒ PH¸T TRIÓN
DÞCH Vô TÝn dông ë CHDCND LµO §ÕN N¡M 2020
Hµ néi - 2016
o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸ o dôc vµ ®µo t¹o o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸ Bé gi¸
Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n ------ ------(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)------ ------ ------ ------ ------ ------
VONGSAY SOUKTHAVONE
CHÝNH S¸CH NHµ N¦íC VÒ PH¸T TRIÓN
DÞCH Vô TÝn dông ë CHDCND LµO §ÕN N¡M 2020
Chuyên ngành: Kinh doanh thương mại (Kinh tế và quản lý thương mại)
: 62 34 01 21
Mã số
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. NGHUYỄN VĂN TUẤN
2. PGS. TS. TRẦN ĐĂNG KHÂM
Hµ néi - 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Em là nghiên cứu sinh Soukthavone Vongsay cam đoan luận án: “Chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào đến năm 2020” là công trình khoa học do em nghiên cứu độc lập và hoàn thành với kết quả nghiên cứu, đánh giá chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trung thực, có nguồn gốc rõ ràng từ các tài liệu tham khảo trích dẫn trong luận án được nêu rõ xuất xứ và được ghi trong danh mục tài liệu tham khảo.
Em xin chịu trách nhiệm trước lời cam đoan trên.
Hà nội, ngày…... tháng…... năm 2016
Nghiên cứu sinh
Soukthavone Vongsay
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG, HÌNH LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. .................................................................................................................. 6 1.1. Tổng quan nghiên cứu ................................................................................ 6 1.1.1. Các nghiên cứu ở Việt Nam về dịch vụ tín dụng và chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ........................................................................................... 6 1.1.2. Các nghiên cứu ở nước ngoài về dịch vụ tín dụng và chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ......................................................................................... 13 1.1.3. Kết luận về khoảng trống nghiên cứu ............................................................. 16
1.2. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu ......................................................... 17
1.2.1 . Phương pháp nghiên cứu về mức độ phát triển của dịch vụ tín dụng và mức độ hoàn thiện chính sách Nhà nước về chính sách phát triển dịch vụ tín dụng ...................... 17 1.2.2. Dữ liệu nghiên cứu về mức độ phát triển của dịch vụ tín dụng và mức độ hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ........................................ 19
Kết luận Chương 1 .......................................................................................... 20 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÍN DỤNG ..................................................................................... 21 2.1. Dịch vụ tín dụng và phát triển dịch vụ tín dụng ...................................... 21 2.1.1. Dịch vụ tín dụng .............................................................................................. 21 2.1.2. Phát triển dịch vụ tín dụng .............................................................................. 32
2.2. Chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng .............................. 45 2.2.1. Chính sách Nhà nước ...................................................................................... 45 2.2.2. Khái niệm và nội dung của chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ........................................................................................................................... 51 2.2.3. Hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng .................... 55
2.3. Kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển dịch vụ tín dụng ............. 72 2.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc ......................................................................... 73 2.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc ............................................................................ 82 2.3.3. Kinh nghiệm của Việt Nam ............................................................................. 92 2.3.4. Bài học kinh nghiệm cho CHDCND Lào........................................................ 99
Kết luận Chương 2 ........................................................................................ 102
iii
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÍN DỤNG Ở CHDCND LÀO ..................................................... 103 3.1. Thực trạng phát triển kinh tế-xã hội của CHDCND Lào ...................... 103 3.2. Thực trạng thị trường dịch vụ tín dụng ở nước CHDCND Lào ............ 105 3.2.1. Quá trình hình thành và phát triển các tổ chức tín dụng tại nước CHDCND Lào................. .......................................................................................................... 105 3.2.2. Quá trình phát triển sản phẩm dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào .............. 112 3.2.3. Thực trạng phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào ............................ 114
3.3. Thực trạng chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào ............................................................................................... 132 3.3.1. Thực trạng chính sách về phát triển chủ thể cung ứng dịch vụ tín dụng ...... 133 3.3.2. Thực trạng chính sách về phát triển chủ thể sử dụng dịch vụ tín dụng ......... 145 3.3.3. Thực trạng chính sách về phát triển sản phẩm dịch vụ tín dụng ................... 154
3.4. Đánh giá thực trạng chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại nước CHDCND Lào ................................................................................. 154 3.4.1. Kết quả trong chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào ......................................................................................................... 154 3.4.2. Hạn chế trong chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào ......................................................................................................... 158 3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế .................................................................. 162
Kết luận Chương 3 ........................................................................................ 166 CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÍN DỤNG Ở CHDCND LÀO .............................................................................................................. 167 4.1. Định hướng và quan điểm hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào ................................................................. 167 4.1.1. Định hướng phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020 và xu hướng mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của CHDCND Lào ................................................................. 167 4.1.2. Định hướng phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào ............................ 169 4.1.3. Quan điểm và phương hướng hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào ........................................................................... 175
4.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào ............................................................................................ 179 4.2.1. Hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước ............................... 179 4.2.2. Quy định rõ vai trò, trách nhiệm quản lý trong lĩnh vực tín dụng của các cơ quan quản lý Nhà nước và tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan này ....... 183
iv
4.2.3. Hoàn thiện quy trình hoạch định, ban hành và thực thi chính sách .............. 185 4.2.4. Hoàn thiện nội dung chính sách phát triển dịch vụ tín dụng ......................... 186 4.2.5. Hoàn thiện hệ thống công cụ thực hiện chính sách phát triển dịch vụ tín dụng......... ................................................................................................................ 189 4.2.6. Hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý .......................................................... 193 4.2.7. Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước .............................. 195 4.2.8. Hoàn thiện công tác thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng ........................ 197 4.2.9. Nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Lào ........................................................................................................................... 199 4.2.10. Tăng cường vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước trong vấn đề kết nối giữa các tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp trong nền kinh tế ......................... 201
4.3. Kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào ................................................................................... 202 4.3.1. Kiến nghị đối với các tổ chức tín dụng tại CHDCND Lào ........................... 202 4.3.2. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp và cá nhân tại CHDCND Lào ............. 207
Kết luận Chương 4 ........................................................................................ 209 KẾT LUẬN.................................................................................................... 210 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
I. Tiếng Việt
TT Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 BLĐPLXH Bộ Lao Động và Phúc lợi xã hội
2 CHDCND Lào Cộng Hòa Dân chủ Nhân Dân Lào
Chính sách tín dụng 3 CSTD
Doanh nghiệp Nhà nước 4 DNNN
5 DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Doanh số cho vay 6 DSCV
Ngân hàng 7 NH
Ngân hàng Nhà nước 8 NHNN
Ngân hàng Thương mại 9 NHTM
10 NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần
11 NHTMNN Ngân hàng Thương mại Nhà nước
Ngân hàng Trung ương 12 NHTW
Quản lý Nhà nước 13 QLNN
Tổ chức tín dụng 14 TCTD
Thương mại Cổ phần 15 TMCP
II. Tiếng Anh
TT Chữ viết tắt Viết đầy đủ Tiếng Anh Nghĩa Tiếng Việt
1 ADB Asian Development Bank Ngân hàng phát triển Châu Á
2 AMC Asset Management Company Công ty quản lý tài sản
3 APB The Agriculture Promotion Bank Ngân hàng khuyến khích nông nghiệp
Association of Southeast Asian 4 ASEAN Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
vi
5 ATM Automated teller machine Máy rút tiền
6 BCEL Lao Bank for Foreign Trade Ltd. Ngân hàng Ngoại Thương Lào
Bank for International 7 BIS Ngân hàng Thanh toán Quốc tế Settlements
8 BOL Bank of Lao PDR Ngân hàng Nhà nước Lào
9 CAR Capital Adequacy Rate Tỷ lệ an toàn vốn
10 GDP Gross domestic product Tổng sản phẩm quốc nội
11 GNP Gross national product Tổng sản phẩm quốc gia
12 IHS Institute for Humane Studies Viện nghiên cứu nhân đạo
13 IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
14 LDB Lao Development Bank Ltd Ngân hàng Phát triển Lào
15 NBFI Non-bank financial institution Tổ chức tài chính phi ngân hàng
16 NBL National Bank of Laos Ngân hàng Quốc gia Lào
17 NDT The yuan Nhân dân tệ
18 NGO Non-Govermental Organization Tổ chức phi Chính phủ của nước ngoài
19 NPL Rate subprime Tỷ lệ nợ dưới chuẩn
Official development Hỗ trợ phát triển chính thức 18 ODA assistance
20 PB Policy Bank Ngân hàng Chính sách
21 PBOC The People's Bank of China Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
22 PM Prime Minister Thủ tướng
23 SME Small and Medium enterprises Doanh nghiệp nhỏ và vừa
24 WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
vii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tiêu chí/chỉ tiêu điều hành, kiểm tra, giám sát quá trình phát triển dịch vụ
tín dụng dựa vào các nguyên tắc của Basel I ............................................. 58
Bảng 2.2: Tổng quan các biện pháp thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở
Trung Quốc sau 1997 ................................................................................ 76
Báng 2.3: Quy mô và lãi suất công cụ trần hạn mức tổng tín dụng của Hàn Quốc .... 84
Bảng 2.4: Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa được
Hàn Quốc ban hành ................................................................................... 89
Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế Lào giai đoạn 2000-2015 .................................................103
Bảng 3.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Lào giai đoạn 2000-2015 .......................104
Bảng 3.3: Tín dụng theo ngành của hệ thống ngân hàng Lào giai đoạn năm 2001-
2015 .........................................................................................................121
Bảng 3.4: Tín dụng theo đối tượng khách hàng của hệ thống ngân hàng Lào .........122
Bảng 3.5: Tỷ giá ngoại tệ ..........................................................................................143
Bảng 3.6: Chính sách lãi suất của NHNN Lào .........................................................144
Bảng 3.7: Mức độ sâu sắc của hệ thống thông tin tín dụng của CHDCND Lào ......161
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu .................................................................................... 17
Hình 2.1: Cơ cấu khách hàng vay vốn ........................................................................ 38
Hình 2.2: Hệ thống cơ quan Nhà nước ban hành chính sách về phát triển dịch vụ tín
dụng ........................................................................................................... 53
Hình 3.1: Số lượng NHTM thực hiện hoạt động kinh doanh tại CHDCND Lào giai
đoạn 2000 - 2015 .....................................................................................107
Hình 3.2: Cấu trúc hệ thống Ngân hàng CHDCND Lào năm 2015 .........................109
Hình 3.3: Thông tin về tỷ trọng tài sản và tiền gửi của hệ thống ngân hàng nước
CHDCND Lào giai đoạn 2008 - 2013 .....................................................111
Hình 3.4: Quy mô khách hàng và tốc độ tăng trưởng khách hàng của hệ thống ngân
hàng tại CHDCND Lào giai đoạn 2000 - 2015 .......................................116
Hình 3.5: Doanh số cho vay và tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay của hệ thống
ngân hàng tại CHDCND Lào giai đoạn 2000 - 2015 ..............................117
viii
Hình 3.6: Dự nợ tín dụng và tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng tại
CHDCND Lào giai đoạn 2000 - 2015 .....................................................118
Hình 3.7: Tỷ lệ tín dụng/GDP và Tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP của hệ
thống ngân hàng tại CHDCND Lào giai đoạn 2000 – 2015 ...................119
Hình 3.8: Tốc độ tăng trưởng tín dụng đối với doanh nghiệp có vốn Nhà nước và đối
với khách hàng tư nhân giai đoạn 2001-2015 .........................................124
Hình 3.9: Tỷ lệ thu lãi ...............................................................................................125
Hình 3.10: Vòng quay vốn ........................................................................................125
Hình 3.11: Tỷ lệ nợ quá hạn ......................................................................................126
Hình 3.12: Tỷ lệ nợ xấu .............................................................................................126
Hình 3.13: Dung lượng thị trường tài chính của các quốc gia ASEAN (2012) ........127
Hình 3.14: Chỉ số cạnh tranh toàn cầu của CHDCND Lào .......................................128
Hình 3.15: Số lượng NHTM tại CHDCND Lào và một số quốc gia trong ASEAN 129
Hình 3.16: Tình hình áp dụng BASEL tại các quốc gia ............................................130
Hình 3.17: Tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân ở các quốc gia Châu Á mới nổi
giai đoạn 2012 - 2015 ..............................................................................131
Hình 3.18: Tỷ lệ nợ xấu của một số quốc gia giai đoạn 2000 - 2015 ........................132
Hình 3.19: Tốc độ tăng trưởng tín dụng, tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát
tại CHDCND Lào giai đoạn 2000 - 2015 ................................................143
Hình 3.20: Xếp hạng về mức độ dễ dàng trong việc tiếp cận vốn tín dụng của một số
quốc gia ....................................................................................................159
Hình 3.21: Mức độ sẵn có và dễ tiếp cận về thông tin tín dụng trong nền kinh tế ....161
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cộng hòa dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào là một quốc gia còn non trẻ với một Đảng lãnh đạo duy nhất là Đảng nhân dân cách mạng Lào. Nhằm đưa đất nước đi lên sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt với những hậu quả nặng nề, Đại hội lần thứ IV của Đảng Nhân dân cách mạng Lào năm 1986, đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó khâu then chốt là thực hiện mở cửa, điều chỉnh mạnh mẽ cơ cấu nền kinh tế để từng bước đưa CHDCND Lào hội nhập với dòng chảy chung của khu vực và thế giới. Trong những năm qua, CHDCND Lào đã rất tích cực theo đuổi chủ trương hội nhập khu vực và toàn cầu, đẩy mạnh hợp tác với các nước bạn bè và các đối tác chiến lược nhằm đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong từng thời kỳ, trong đó, những dấu mốc hội nhập quan trọng cần phải kể đến đó là: gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1997; gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2013 và gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào ngày 31/12/2015. Ngày nay, hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng đã trở thành một xu hướng phát triển tất yếu, xuất phát từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, từ những tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, và từ xu hướng hòa bình, hợp tác cùng phát triển trên thế giới. Có thể khẳng định, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã và sẽ đem đến nhiều cơ hội song hành với nhiều thách thức cho quá trình phát triển của một quốc gia còn non trẻ như CHDCND Lào trong thời gian tới.
Bên cạnh xu thế hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ là xu thế đẩy mạnh cải cách và đổi mới nền kinh tế thế giới. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu các ngành kinh tế của các quốc gia theo hướng tăng tỷ trọng các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao và các ngành dịch vụ, đặc biệt là các ngành đem lại giá trị gia tăng cao như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, logistics, công nghệ thông tin. Hiện nay, tại các quốc gia đã và đang phát triển, tỷ trọng ngành dịch vụ đang ngày càng tăng lên, góp phần quan trọng quyết định chất lượng và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong xu thế đó, việc phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng, trong đó có dịch vụ tín dụng, là một định hướng đúng đắn, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của CHDCND Lào. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, sự phát triển của dịch vụ tín dụng tại Lào còn rất hạn chế, biểu hiện ở quy mô tín dụng còn nhỏ; đối tượng, phạm vi cung cấp dịch vụ còn hạn hẹp; phương thức cung ứng dịch vụ còn đơn giản, đơn điệu; chất lượng, hiệu quả dịch vụ còn thấp...
2
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, những hạn chế này sẽ trở thành những thách thức không nhỏ cho sự phát triển lĩnh vực dịch vụ tín dụng nói riêng và sự phát triển kinh tế của CHDCND Lào nói chung.
Đối với mỗi quốc gia, hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách, sự quản lý vĩ mô của Nhà nước là những yếu tố bên trong mang tính quyết định đối với sự phát triển kinh tế đất nước nói chung và của mỗi ngành kinh tế nói riêng. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập, mỗi quốc gia đều phải rất nỗ lực cải thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý để đáp ứng yêu cầu hội nhập khi trở thành thành viên của các Hiệp định thương mại song phương và đa phương trong khu vực và trên thế giới. Có thể khẳng định, lĩnh vực tín dụng của CHDCND Lào trong thời gian qua chưa đạt được những bước phát triển lớn, một phần cơ bản là do hệ thống chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại Lào còn chưa hoàn thiện. Nhà nước Lào còn thiếu kinh nghiệm trong việc đưa ra những chính sách hợp lý nhằm tạo nên những bước đột phá trên con đường phát triển của lĩnh vực tín dụng trong nền kinh tế quốc dân.
Nhằm thúc đẩy sự phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào trong thời gian tới, tận dụng được những cơ hội và hạn chế những thách thức mà hội nhập đem lại, việc cải thiện và đổi mới hệ thống chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước trong lĩnh vực tín dụng đang trở thành một yêu cầu mang tính cấp thiết hiện nay. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào đến năm 2020” làm luận án tiến sĩ kinh tế của nghiên cứu sinh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
Mục đích của Luận án:
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của Luận án là tìm kiếm giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào trong bối cảnh CHDCND Lào đang đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Mục tiêu nghiên cứu cụ thể của Luận án là đề xuất hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào, tập trung vào dịch vụ tín dụng do các tổ chức tín dụng cung cấp, đến năm 2020. Hệ thống chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào được Luận án nghiên cứu với ba trụ cột cơ bản: chính sách Nhà nước về phát triển các tổ chức tín dụng; chính sách Nhà nước về phát triển các chủ thể sử dụng dịch vụ tín dụng; và chính sách Nhà nước về phát triển các sản phẩm dịch vụ tín dụng.
3
Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án: Để đạt được mục đích của Luận án nêu
trên, Luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách của Nhà nước về phát triển tín dụng
nhằm thúc đẩy phát triển dịch vụ tín dụng của nước CHDCND Lào.
- Phân tích thực trạng chính sách của Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào trong thời gian qua, trên cơ sở đó rút ra những điểm hợp lý, bất cập và nguyên nhân.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển
dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào đến năm 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
Đối tượng nghiên cứu của Luận án:
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng và tiếp cận chủ yếu trên giác độ thương mại, bao gồm chính sách Nhà nước về phát triển sản phẩm dịch vụ tín dụng, phát triển chủ thể cung ứng dịch vụ tín dụng và phát triển chủ thể sử dụng dịch vụ tín dụng.
Chính sách tín dụng (CSTD) có nội dung rộng lớn, bao hàm cả CSTD của Ngân hàng Nhà nước và CSTD của bản thân mỗi một tổ chức tín dụng (TCTD) hoặc các tổ chức tài chính tham gia hoạt động cung ứng dịch vụ tín dụng. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu và giải quyết của Luận án là chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng do các TCTD cung cấp. Với dịch vụ tín dụng này, chủ thể cung ứng dịch vụ là các tổ chức tín dụng được thành lập hợp pháp và thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, bao gồm: Ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng (công ty tài chính; công ty cho thuê tài chính; quỹ tín dụng; hợp tác xã tín dụng... ); và khách hàng tiếp nhận dịch vụ là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân. Bên cạnh đó, khái niệm dịch vụ tín dụng trong Luận án này không bao hàm nghĩa “Tín dụng chính sách” của Nhà nước, bởi tín dụng chính sách chỉ là một loại tín dụng có tính chất ưu đãi cho một số đối tượng và chương trình kinh tế - xã hội nhất định.
Như vậy, Luận án chỉ tập trung nghiên cứu chính sách Nhà nước ở tầm vĩ mô, đóng vai trò là công cụ quản lý và điều hành hoạt động dịch vụ tín dụng trong nền kinh tế quốc dân, mà không đi vào phân tích CSTD mang tính vi mô thuộc sách lược và nghiệp vụ kinh doanh của mỗi TCTD. Về giác độ nghiên cứu, Luận án nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng đứng trên giác độ của các cơ quan Nhà nước ban hành chính sách phát triển
4
dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào hiện nay, bao gồm: Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, ngành có liên quan.
Phạm vi nghiên cứu của Luận án:
Về không gian nghiên cứu, Luận án tập trung nghiên cứu về chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng, tập trung vào dịch vụ tín dụng do các tổ chức tín dụng cung cấp, tại CHDCND Lào.
Về thời gian nghiên cứu, Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng hệ thống chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng và thực trạng phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào trong giai đoạn 2000 - 2015 và định hướng giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào đến năm 2020.
4. Những đóng góp mới về mặt khoa học của Luận án
Những đóng góp mới về mặt khoa học của Luận án được thể hiện trên các giác
độ sau:
Về phương diện lý luận, Luận án đã có đóng góp: Thứ nhất, đã tổng kết được kinh nghiệm hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ tín dụng ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam, là những nước có điều kiện tương đồng với CHDCND Lào, qua đó, đúc kết được những bài kinh nghiệm mới, tạo điều kiện cho việc phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào. Thứ hai, hệ thống hóa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ tín dụng và chính sách của Nhà nước nhằm phát triển dịch vụ tín dụng, làm rõ nội dung chính sách phát triển dịch vụ tín dụng trên ba trụ cột: Chính sách phát triển các chủ thể cung cấp dịch vụ - các tổ chức tín dụng; chính sách phát triển các chủ thể sử dụng dịch vụ - các khách hàng của các TCTD; chính sách phát triển các sản phẩm dịch vụ tín dụng. Thứ ba, Luận án xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển dịch vụ tín dụng cũng như hệ thống các chỉ tiêu đánh giá mức độ hoàn thiện của chính sách phát triển dịch vụ tín dụng, đồng thời, luận giải được các nhân tố ảnh hưởng tới mức độ hoàn thiện của chính sách phát triển dịch vụ tín dụng.
Về phương diện thực tiễn, Luận án đã phân tích được thực trạng chính sách phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào trên ba trụ cột: Chính sách phát triển các chủ thể cung cấp dịch vụ - các tổ chức tín dụng; chính sách phát triển các chủ thể sử dụng dịch vụ - các khách hàng của các TCTD; chính sách phát triển các sản phẩm dịch vụ tín dụng, qua đó, khẳng định chính sách phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào chưa hoàn thiện. Từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan khiến chính sách phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào chưa hoàn thiện và định hướng hoàn thiện chính sách, Luận án đã đề xuất được 10 nhóm giải pháp và 02 nhóm
5
kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào đến năm 2020.
5. Ý nghĩa của Luận án
- Ý nghĩa về lý luận: Luận án tổng hợp được những vấn đề lý thuyết về chính
sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng.
- Ý nghĩa về thực tiễn: Luận án mô tả và phân tích thực trạng chính sách của Nhà nước Lào đối với phát triển dịch vụ tín dụng, từ đó đề xuất được hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách. Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy ở các trường đại học; là tài liệu tham khảo trong hoạch định chính sách của Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng.
6. Kết cấu của Luận án
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án được kết
cấu thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Tổng quan chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
Chương 3: Thực trạng chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở
CHDCND Lào
Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách Nhà nước về
phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu
Dịch vụ tín dụng là một trong những dịch vụ tài chính đặc thù và cũng là một trong những dịch vụ tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến việc phát triển dịch vụ tín dụng trong từng lĩnh vực cụ thể, trong đó đáng chú ý là một số công trình sau đây:
1.1.1 Các nghiên cứu ở Việt Nam về dịch vụ tín dụng và chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
1.1.1.1. Các nghiên cứu về dịch vụ tín dụng
Ở Việt Nam, trong khoảng 20 năm trở lại đây có những công trình nghiên cứu
về tín dụng như:
- “Những giải pháp chủ yếu để mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh” Luận án tiến sĩ kinh tế Tài chính – Ngân hàng của tác giả Nguyễn Thạc Hoát (1993), tại Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án trình bày các luận điểm khoa học về bản chất, vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường, đánh giá tổng quát thực trạng thể chế và hoạt động tín dụng Ngân hàng trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- “Tín dụng ngân hàng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thanh Đảo (1996), tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận án trình bày về tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, thực trạng tín dụng ngân hàng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc thành phần kinh tế Nhà nước.
- “Tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Hà Nội” Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Hoàng Việt Trung (1996), tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận án trình bày về vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở lý luận, Luận án đánh giá những tác động của hoạt động tín dụng ngân hàng trong vai trò thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó chỉ ra
7
những điểm còn hạn chế và giải pháp nhằm tăng cường vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng.
- “Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Nghệ An theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá” Luận án tiến sĩ Kinh tế của tác giả Hà Huy Hùng (2003), tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận án trình bày về vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng trên địa bàn tỉnh Nghệ An và những đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ những đánh giá về thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn tại trong hoạt động tín dụng ngân hàng, Luận án đề xuất những giải pháp đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm nâng cao vai trò của hoạt động này trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiệu quả.
- “Các giải pháp tín dụng tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh Hà Nam” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Văn Bính (1995), tại Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về tín dụng, đặc biệt là tín dụng ngân hàng và vai trò của nó trong quá trình xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đánh giá về thực trạng hoạt động tín dụng trên địa bàn tỉnh Hà Nam, từ đó đề xuất những giải pháp tín dụng thích hợp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh.
- “Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại Việt Nam” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Hoàng Hồng Hạnh (1996), tại Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam đối với hoạt động xuất nhập khẩu, qua đó, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại Việt Nam.
- “Các giải pháp tín dụng đối với người nghèo ở Việt Nam hiện nay” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thị Dũng (2001), tại Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án trình bày cơ sở lý luận về bản chất, vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt chỉ rõ vai trò của hoạt động tín dụng trong vấn đề hỗ trợ cho người nghèo trong xã hội. Từ đó, Luận án đề xuất một số giải pháp tín dụng nhằm hỗ trợ hiệu quả cho người nghèo ở Việt Nam.
- “Giải pháp tín dụng ngân hàng nhằm phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Phạm Hoài
8
Bắc (2003), tại Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án nghiên cứu về vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại; đánh giá thực trạng kinh tế trang trại và hoạt động tín dụng ngân hàng tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam; từ đó đề xuất một số giải pháp tín dụng ngân hàng nhằm phát triển kinh tế trang trại cũng như hỗ trợ sự phát triển kinh tế ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
- “Giải pháp tín dụng ngân hàng phát triển doanh nghiệp chế biến nông sản vùng đồng bằng sông Hồng” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Quốc Hùng (2003), tại Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án nghiên cứu về vai trò và nội dung của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển các doanh nghiệp chế biến nông sản; đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng trong việc phát triển doanh nghiệp chế biến nông sản vùng đồng bằng sông Hồng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng ngân hàng trong việc hỗ trợ cho sự phát triển các doanh nghiệp chế biến nông sản.
- “Giải pháp tín dụng ngân hàng góp phần phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Vũ Thị Nhài (2003), tại ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu và đề xuất các giải pháp tín dụng ngân hàng nhằm góp phần phát triển xuất nhập khẩu ở Việt Nam.
- “Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trên địa bàn TP. HCM” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Trần Trọng Huy (2013), tại Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Luận án khái quát và hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng và doanh nghiệp vừa và nhỏ, bao gồm bản chất, đặc điểm và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như vai trò và tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế. Trên cơ sở lý luận, Luận án đánh giá thực trạng quy mô và chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các chi nhánh NHNN&PTNT Việt Nam trên địa bàn TP.HCM trong giai đoạn 2008 – 2012, từ đó đề xuất giải pháp thiết thực nhằm mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng tín dụng của Agribank trên địa bàn TP.HCM đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, định hướng đến năm 2020.
- “Phát triển các nghiệp vụ tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Kim Anh (2004), tại ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án nghiên cứu về ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường; đánh giá thực trạng hoạt động tín
9
dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam và đưa ra các giải pháp nhằm phát triển các nghiệp vụ tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
- “Giải pháp tín dụng góp phần phát triển khai thác hải sản ở Việt Nam” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Xuân Quang (2004), tại Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án nghiên cứu vai trò của tín dụng đối với phát triển khai thác hải sản, phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp tín dụng góp phần phát triển khai thác hải sản ở Việt Nam.
- “Tín dụng ngân hàng với sự phát triển ngành vật liệu xây dựng Việt Nam” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Mậu Sơn (2006), tại Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án trình bày vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển ngành vật liệu xây dựng; đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với lĩnh vực vật liệu xây dựng Việt Nam, qua đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển ngành vật liệu xây dựng Việt Nam.
- “Hoàn thiện hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Đặng Hà Giang (2010), tại Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại, đề xuất giải pháp góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- “Phát triển tín dụng nhà ở cho người có thu nhập trung bình và thấp” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Trần Hà Kim Thanh (2012), tại trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Luận án nghiên cứu và xác định 6 nhân tố tác động đến xu hướng cho vay mua nhà ở dành cho đối tượng có thu nhập trung bình và thấp bao gồm: Chính sách ưu đãi đặc biệt của chính phủ; Các vấn đề về nguồn vốn; Các vấn đề về tài sản đảm bảo; Các vấn đề giá trị của khoản vay; Các tác động từ cơ chế quản lý hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nhà nước; Các yếu tố đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Luận án cũng xác định những vai trò của Chính phủ và đề xuất giải pháp chính sách nhằm hỗ trợ, khuyến khích phát triển tín dụng ngân hàng dành cho người có thu thập trung bình và thấp vay vốn mua nhà.
- “Nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam trong quá trình hội nhập” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thị Thu Đông (2012), tại ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án nghiên cứu những vấn
10
đề lý luận về tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại; Nghiên cứu thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010; Đề xuất định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam trong xu thế hội nhập.
- “Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Đức Tú (2012), tại Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án khái quát hoá những nguyên lý cơ bản về rủi ro và quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại; Đưa ra các mô hình có thể áp dụng để quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại; Đánh giá và chỉ rõ những thành tựu và hạn chế trong quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam giai đoan 2008 - 2011; Đề xuất hệ thống giải pháp phù hợp với điều kiện của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, nhằm thực hiện tốt hơn công tác quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng này.
- “Tăng trưởng tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn định” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Văn Lê (2014), tại Học viện Ngân hàng, Hà Nội. Luận án trình bày luận cứ khoa học về tăng trưởng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn; Phân tích thực trạng, từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị về tăng trưởng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong điều kinh tế vĩ mô bất ổn.
Trong các công trình nghiên cứu về tín dụng được thực hiện tại Việt Nam, đã có những công trình nghiên cứu về tín dụng tại nước CHDCND Lào, song số lượng còn tương đối hạn chế. Một số công trình nghiên cứu có thể kể tên là:
- “Tín dụng đầu tư phát triển nền kinh tế Lào” Luận án tiến sĩ kinh tế của nghiên cứu sinh Meemoua YONGMAMOUA (2003), tại Đại học Kinh tế quốc dân. Luận án trình bày cơ sở lý luận về bản chất, vai trò của tín dụng trong nền kinh tế, đặc biệt tập trung vào loại hình tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Luận án cũng đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế còn tồn tại của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển, qua đó đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển, đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế Lào.
- “Thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại Ngân hàng Ngoại thương Lào” Luận án Tiến sĩ kinh tế của nghiên cứu sinh Diengkham SENGKEOMYSAY (2014), tại Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án nghiên cứu công tác thẩm định dự án đầu tư vay vốn tại Ngân hàng Ngoại thương (NHNT) Lào, trên các phương diện như: quy
11
trình thẩm định, nội dung thẩm định, phương pháp thẩm định và những nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định trong giai đoạn 2000-2011. Trên cơ sở đó, Luận án đề xuất quan điểm và những giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư đến năm 2020.
1.1.1.2. Các nghiên cứu về chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
Các nghiên cứu ở Việt Nam đề cập đến chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng và các vấn đề liên quan tới dịch vụ tín dụng đến thời điểm hiện nay có thể kể tên là:
- “Thể chế tín dụng với sự nghiệp tạo việc làm ở nông thôn Việt Nam giai đoạn quá độ sang kinh tế thị trường ở Việt Nam” Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Trần Hữu Trung (1993), tại Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Luận án hệ thống hóa những tác động của tín dụng đối với sự nghiệp tạo việc làm ở nông thôn; Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng đối với sự nghiệp tạo việc làm ở nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đầu đổi mới; Đề xuất một số giải pháp nhằm hiệu lực hóa các thể chế tín dụng, góp phần thúc đẩy sự nghiệp tạo việc làm ở nông thôn của Việt Nam trong những năm tới.
- “Đổi mới chính sách tín dụng theo cơ chế thị trường nhằm góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta” Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Đào Minh Tú (2001), Học viện Ngân hàng, Hà Nội. Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách tín dụng trong nền kinh tế thị trường; đánh giá thực trạng chính sách tín dụng ở Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ đó đề xuất giải pháp đổi mới chính sách tín dụng theo cơ chế thị trường, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- “Hoàn thiện cơ chế lãi suất trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thị Dũng (2001), tại Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Luận án đã tổng quan những vấn đề lý luận và thực tiễn về lãi suất và thực trạng điều hành và tổ chức thực hiện lãi suất ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở đó, Luận án đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế lãi suất và hướng đến lãi suất theo cơ chế thị trường ở Việt Nam.
- “Giải pháp xử l í nợ xấu trong tiến trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại Việt Nam” Kỷ yếu hội thảo khoa học, Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng (2003), NXB Thống kê, Hà Nội. Kỷ yếu tập hợp 23 bài tham luận về chủ đề Giải pháp xử lý nợ xấu trong tiến trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại Việt Nam, trong đó bàn về các vấn đề: Phân tích thực trạng nợ xấu, nguyên nhân phát sinh, các giải pháp, kiến nghị đối
12
với Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng nhằm xử lý hiệu quả nợ xấu trong tiến trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại Việt Nam.
- “Chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Bảo Ngọc (2005), tại ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Luận án trình bày những vấn đề lý luận về lãi suất và chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường; đánh giá thực trạng chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế, giai đoạn 1988 – 2004; qua đó đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong những năm tiếp theo.
- “Vai trò của nhà nước trong việc phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam” Luận án tiến sĩ của tác giả Bùi Văn Thạch (2010). Nghiên cứu về vai trò của Nhà nước trong phát triển thị trường tài chính, thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán. Luận án phân tích những hạn chế và bất cập của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính ở Việt Nam; từ đó đề xuất giải pháp để xây dựng cơ chế quản lý thông thoáng, luật pháp đồng bộ, liên kết chặt chẽ tạo điều kiện cho thị trường tài chính Việt Nam phát triển ngày càng hoàn thiện.
- “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam” Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Ngọc Lân (2011), Học viện Khoa học xã hội. Luận án trình bày lý luận và một số kinh nghiệm quốc tế về quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng ngân hàng; đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
- “Quản lý Nhà nước về đa dạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020” Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Hà Văn Dương (2013), tại Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương. Luận án trình bày cơ sở lý luận về quản lý nhà nước (QLNN) về đa dạng hoá hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP); đánh giá thực trạng QLNN về đa dạng hoá hoạt động tín dụng của các NHTMCP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006-2012; đề xuất giải pháp hoàn thiện QLNN về đa dạng hoá hoạt động tín dụng của các NHTMCP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020.
- “Hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020” Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Hoàng Thị Lan Hương (2013), tại Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Luận án nghiên cứu lý luận cơ bản về chính sách tỷ giá và kinh nghiệm hoàn thiện chính sách tỷ giá của một số quốc gia Châu Á; Đánh giá thực trạng chính sách tỷ
13
giá của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2011; và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam đến năm 2020.
Đề cập đến chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại nước
CHDCND Lào, trong thời gian qua có một số công trình sau:
- “Đổi mới hệ thống Ngân hàng Lào giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường” Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Khăm Kình Phăn Tha Vông (2002), tại Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Luận án nghiên cứu cơ cấu mô hình tổ chức bộ máy và hoạt động của hệ thống ngân hàng Lào; đánh giá thực trạng hoạt động và đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy tiến trình đổi mới hệ thống ngân hàng Lào.
- “Demand for money in Lao PDR and policy implications” Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Somphao Phaysith (2013), tại Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Luận án phân tích nhu cầu nắm giữ tiền của người dân Lào trong mối quan hệ với bốn biến số kinh tế vĩ mô: Tổng sản phẩm quốc nội, Tỷ lệ lạm phát dự kiến, Tỷ giá hối đoái và Lãi suất; và đề xuất các chính sách tài chính.
- “Công cụ nghiệp vụ thị trường mở tại CHDCND Lào” Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Thonmy Keokinnaly (2014), tại Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Luận án đã trình bày một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng Nhà nước; Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động thị trường mở tại ngân hàng Nhà nước Lào năm 2005-2012, từ đó đưa ra một số giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện công cụ thị trường mở của ngân hàng Nhà nước Lào định hướng đến năm 2020.
Ngoài ra, còn có các nghiên cứu khác về tín dụng và chính sách phát triển tín dụng. 1.1.2. Các nghiên cứu ở nước ngoài về dịch vụ tín dụng và chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng 1.1.2.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài về dịch vụ tín dụng
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về dịch vụ tín dụng trên nhiều khía cạnh khác nhau. Trong các nghiên cứu đó, có những nghiên cứu đề cập đến các loại hình sản phẩm tín dụng cụ thể; có những nghiên cứu đi vào việc phân tích các vấn đề của tín dụng và đưa ra giải pháp; có những nghiên cứu mang tầm vĩ mô và cũng có những nghiên cứu mang tính vi mô như:
- Nghiên cứu của Berger, Hunter và Timme (1993) – Một loại các nghiên cứu thực tiễn ở châu Âu và Mỹ cũng chỉ ra rằng: Ngành ngân hàng có thể giảm bớt chi phí, nâng cao lợi nhuận khoảng từ 20% đến 50% thông qua việc nâng cao hiệu quả các loại hình dịch vụ được cung cấp. Trong đó có đề cập đến một số giải pháp phát triển dịch vụ tín dụng.
14
- Bài viết nghiên cứu khoa học “Do banks diversify loan portfolios? A tentative answer base on individual bank loan portfolios (Các ngân hàng có đa dạng hóa các danh mục cho vay? Một câu trả lời dự kiến dựa trên danh mục cho vay cá nhân của các ngân hàng)” của tác tác giả Andreas Kamp, (University Munster), Andreas Pfingsten (University Munster) và Daniel Porath (University Bundesbank), (2005). Nghiên cứu này làm rõ mức độ đa dạng hóa danh mục cho vay và phân tích những tác động hoạt động cho vay tại các NHTM của Đức.
- Bài viết trích từ U.S. Bancorp (2008), với chủ đề “Credit Diversification (Đa dạng hóa tín dụng)”. Bài viết nêu rõ đa dạng hóa tín dụng qua cung cấp một loạt các sản phẩm cho vay truyền thống và các sản phẩm chuyên ngành như cho vay dựa trên tài sản, cho thuê tài chính, tín dụng nông nghiệp, cho vay bán lẻ bao gồm thẻ tín dụng, cho vay đối với sinh viên và cho vay tiêu dùng khác.
- Nghiên cứu của tác giả Santiago (2008), Tây Ban Nha đã nghiên cứu về tín dụng ngân hàng, các khó khăn trong tiếp cận thị trường tài chính và hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp tại Tây Ban Nha. Tác giả cũng chỉ ra tín dụng Ngân hàng và tín dụng thương mại là nguồn vốn chủ yếu đối với các doanh nghiệp tại Tây Ban Nha.
- Nghiên cứu của tác giả Brindusa (2008), nghiên cứu về “Credit risk in financing SME in Romania (rủi ro tín dụng trong cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Romania)”.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Andras Bethlendi (2009, tr.1-13) “Studies on the Hungarian credit market, market trend, macroeconomic and financial stability consequences” (Nghiên cứu về thị trường tín dụng Hung-ga-ry, xu hướng thị trường, các hiệu quả ổn định kinh tế vĩ mô và tài chính), Budapest University of Technology and Economics. Luận án đánh giá hệ thống ngân hàng Hungary và thị trường tín dụng đã thay đổi về cơ bản sau khi chuyển đổi sang hệ thống ngân hàng hai cấp từ giữa những năm 1990. Hoạt động tín dụng đã mở rộng hơn cho các hộ gia đình và các doanh nghiệp Hungary.
- Bài viết nghiên cứu khoa học “Diversification of Nigerian Agricultural Credit and Rural Development Bank’s Credit for Agricultural Production: A Sub-Sectoral Analysis” (Đa dạng hóa tín dụng nông nghiệp Ni-giê-ri-a và tín dụng Ngân hàng Phát triển nông thôn cho sản xuất nông nghiệp: Phân tích tiểu ngành) của tác tác giả J.O. Lawal và R.A. Sanusi (2011, tr.1-5). Nghiên cứu này xác định tín dụng nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và quá trình chuyển đổi kinh tế-xã hội. Đánh giá sự đa dạng của cấp tín dụng cho nông dân từ tín dụng nông nghiệp.
15
Đồng thời phản ánh đa dạng hóa tín dụng nông nghiệp theo từng tiểu ngành trong ngành nông nghiệp Ni-giê-ri-a.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Valeria Arina Balaceanu (2011) “Promoting banking services and products” (Thúc đẩy sản phẩm và dịch vụ ngân hàng), Romanian Academy national institute of economic research “Costin C. Kiritescu”. Tóm tắt luận án nêu phân tích các yếu tố của các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng, sự phát triển của dịch vụ ngân hàng và thị trường sản phẩm ngân hàng, tình hình cung cấp các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng ở Ru-ma-ni, các tác động của toàn cầu hóa đến các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng, mục tiêu và vai trò của việc thúc đẩy các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng,…Tác giả đã phân tích cho toàn bộ sản phẩm và dịch vụ ngân hàng, đề xuất hình thành chiến lược marketing và nêu ra quan điểm về đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng.
- Bài viết nghiên cứu của Benjamin Böninghausen (Munich Graduate School of Economics) và Matthias Köhler (Deutsche Bundesbank), (2012) “Diversification and determinants of international credit portfolios: Evidence from German banks” (Đa dạng hóa và yếu tố quyết định danh mục đầu tư tín dụng quốc tế: bằng chứng từ các ngân hàng Đức). Kết quả nghiên cứu xác định các quy định pháp luật về ngân hàng là yếu tố quyết định quan trọng của việc phân bổ tín dụng đa dạng danh mục của các ngân hàng Đức. 1.1.2.2. Các nghiên cứu ở nước ngoài về chính sách Nhà nước nhằm phát triển dịch vụ tín dụng
Có rất ít các nghiên cứu về chính sách Nhà nước về phát triển tín dụng:
- Năm 1995, hai nhà nghiên cứu Kamisky và Reihart đã xác định một loạt các nhân tố đằng sau những vụ đổ vỡ ngân hàng trên thế giới đó là: sự không ổn địch có tính vĩ mô như sự thất thường của hoạt động thương mại; tính áp đặt trong chính sách về tỷ giá và lãi suất; sự bùng nổ của hoạt động cho vay; sự sụt giảm tài sản; sự du nhập vốn một cách ồ ạt; sự chuẩn bị chưa kỹ lưỡng để sẵn sàng tiến hành mở cửa và sự không tuân thủ tính logic và trình tự của những cải cách hành chính.
- Sách của Jan Putnis tại Anh biên soạn (2010) “The Banking Regulation Review” (Tổng quan quy định ngân hàng). Nghiên cứu nhiều cách tiếp cận khác nhau mà các chính phủ và các cơ quan quản lý ngân hàng các nước đã điều phối hoạt động ngân hàng, nêu lên các sáng kiến được thiết kế để ổn định, cải cách lĩnh vực ngân hàng và đề cập đến QLNN về hoạt động ngân hàng nói chung.
- Bài viết nghiên cứu chính sách của Marvin Goodfriend, Carnegie Mellon University and National Bureau of Economic Research Shadow (2010) “Clarifying
16
Central Bank Responsibilities for Monetary Policy, Credit Policy, and Financial Stability“ (Làm rõ trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước về chính sách tiền tệ, chính sách tín dụng, và ổn định tài chính). Nội dung bài viết xem xét các lý do cho chính sách tiền tệ độc lập, phác thảo các khía cạnh chính sách tín dụng và đề nghị làm rõ ranh giới trách nhiệm cho mỗi chính sách. Chính sách tín dụng được đề cập trong bài viết là chính sách tín dụng của ngân hàng Nhà nước trong chức năng điều tiết nhằm duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô. 1.1.3. Kết luận về khoảng trống nghiên cứu
Qua tìm hiểu về các công trình nghiên cứu khoa học về dịch vụ tín dụng và chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng, tác giả nhận thấy: Tính đến thời điểm hiện tại, các nghiên cứu ở Việt Nam và nước ngoài về dịch vụ tín dụng rất nhiều và tương đối phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, các nghiên cứu ở Việt Nam và nước ngoài về chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng lại rất hạn chế, đặc biệt trên giác độ kinh doanh thương mại. Khoảng trống nghiên cứu được thể hiện ở các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Mức độ phát triển dịch vụ tín dụng của một quốc gia được đánh giá qua những
chỉ tiêu nào?
- Chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng bao gồm những nội dung nào? - Những cơ quan Nhà nước nào chịu trách nhiệm hoạch định và thực thi chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng? Mối quan hệ giữa các cơ quan này trong việc hoạch định và thực thi chính sách phát triển dịch vụ tín dụng là như thế nào?
- Chính sách phát triển dịch vụ tín dụng của một quốc gia như thế nào được coi là hoàn thiện? Có thể đánh giá mức độ hoàn thiện của chính sách Nhà nước nhằm phát triển dịch vụ tín dụng qua những tiêu chí nào?
- Có những nhân tố nào ảnh hưởng đến việc hoàn thiện chính sách phát triển
dịch vụ tín dụng của một quốc gia?
- Các phương pháp nào có thể sử dụng để đánh giá mức độ phát triển dịch vụ tín dụng cũng như đánh giá mức độ hoàn thiện chính sách của Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng?
- Những hạn chế và nguyên nhân nào dẫn đến hạn chế trong chính sách phát
triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào?
- Làm thế nào để hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào?
Với khoảng trống nghiên cứu như vậy, đề tài “Chính sách phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào đến năm 2020” là đề tài nghiên cứu có nhiều điểm mới về
17
nội dung. Kết quả nghiên cứu có tính độc lập, không trùng lặp với các công trình và bài viết đã công bố. 1.2. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu 1.2.1. Phương pháp nghiên cứu về mức độ phát triển của dịch vụ tín dụng và mức độ hoàn thiện chính sách Nhà nước về chính sách phát triển dịch vụ tín dụng
Để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra, Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng với quy trình nghiên cứu được thực hiện thông qua các bước ở sơ đồ phân tích dưới đây. Tuy nhiên, phương pháp nghiên cứu định tính vẫn là phương pháp chủ yếu:
(1) Xác định vấn đề nghiên cứu
Từ những nghiên cứu về tín dụng và các nghiên cứu liên quan
(2) Tổng hợp những nhân tố ảnh hưởng và các chỉ tiêu đánh giá mức độ hoàn thiện của chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
Từ những nghiên cứu về chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
(3) Nghiên cứu khám phá bằng phương pháp định tính
(4) Nghiên cứu chính thức và kiểm định bằng phương pháp định lượng
(5) Thực trạng chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
Kết quả đạt được
Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
(6) Giải pháp, Kiến nghị dựa trên kết quả nghiên cứu
Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu
18
Phương pháp nghiên cứu định tính: được sử dụng để tìm hiểu sâu về nội dung
chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng. Thông qua việc sử dụng các
phương pháp nghiên cứu định tính cụ thể, phù hợp nhằm tìm hiểu về khái niệm, nội
dung chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng; phát hiện, xác định các tiêu
chí đánh giá mức độ hoàn thiện của chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín
dụng. Dựa vào nguồn tài liệu thứ cấp cùng những đánh giá của chuyên gia để xây
dựng cơ sở lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng theo các tiêu chí cụ thể, xác định
nguyên nhân và các yếu tố tác động đến chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín
dụng ở CHDCND Lào.
Phương pháp nghiên cứu định lượng: Thông qua thu thập thông tin, tài liệu từ
Ngân hàng Nhà nước Lào, các bộ ban ngành ở CHDCND Lào qua các năm, nghiên
cứu sách, văn bản pháp luật, báo chí, internet, thông tin thống kê để đánh giá sự phát
triển dịch vụ tín dụng theo thời gian căn cứ trên hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ
phát triển của dịch vụ tín dụng.
Các phương pháp nghiên cứu trên được thể hiện cụ thể như sau:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luật duy vật lịch sử và
phương pháp hệ thống: Việc nghiên cứu chính sách phát triển dịch vụ tín dụng của Lào
được thực hiện một cách đồng bộ, gắn với hoàn cảnh, điều kiện và các giai đoạn cụ
thể. Các chính sách chủ yếu được xem xét trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau cả về
không gian và thời gian và được đặt trong bối cảnh chung của toàn bộ quá trình cải
cách mở cửa kinh tế ở CHDCND Lào.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Việc sử dụng phương pháp nghiên cứu này
dùng để so sánh, đối chiếu sự vận dụng và kết quả đạt được của chính sách phát triển
dịch vụ tín dụng của Lào trong từng giai đoạn, đồng thời so sánh, đối chiếu với thực
tiễn vận dụng chính sách ở các nước khác từ đó đưa ra những phân tích và kết luận
xác đáng.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở phân tích những nội dung cơ bản
về dịch vụ tín dụng và phân tích từng mảng chính sách, Luận án tổng hợp các kết quả
nghiên cứu cả trên phương diện lý thuyết và thực tiễn ở Lào để đưa ra những đánh giá
chung có tính khái quát về toàn bộ hệ thống chính sách của Nhà nước về phát triển
dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào.
19
- Phương pháp mô hình hóa: tác giả sử dụng phương pháp này nhằm làm rõ
hơn những phân tích định tính bằng việc lập các bảng và hình làm các vấn đề trở nên
dễ hiểu hơn, tăng tính thuyết phục và giá trị của các lập luận.
- Phương pháp mô tả, phân tích: Từ thông tin, số liệu thực tế, Luận án tiến hành
mô tả, phân tích các vấn đề liên quan đến chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ
tín dụng, từ đó có những so sánh xác đáng về nội dung nghiên cứu và tổng hợp đánh
giá thực trạng và tìm nguyên nhân của các hạn chế cần khắc phục đối với chính sách
Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào.
- Phương pháp logic biện chứng: Nhằm nghiên cứu sự phát triển của dịch vụ tín
dụng một cách logic từ lý thuyết đến thực tế.
- Phương pháp chuyên gia: Tiếp xúc trực tiếp các chuyên gia, nhà khoa học,
nhà quản lý ngân hàng qua đó phỏng vấn, thu thập thông tin, tài liệu và nhận được các
ý kiến đóng góp quan trọng về chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở
CHDCND Lào. Bên cạnh đó, thu thập ý kiến chuyên gia thông qua các bài phát biểu
chính thức của các cán bộ quản lý Nhà nước thuộc Ngân hàng Nhà nước Lào, Bộ
Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư… cũng như các cán bộ cao cấp trong lĩnh vực
ngân hàng. 1.2.2. Dữ liệu nghiên cứu về mức độ phát triển của dịch vụ tín dụng và mức độ hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
Dữ liệu nghiên cứu được sử dụng trong Luận án chủ yếu là nguồn dữ liệu thứ
cấp được thu thập từ các nguồn chính thức như Cục thống kê, UN Comtrade, World
Bank, ADB, IMF, các báo cáo thường niên, báo cáo định kỳ của các bộ ngành có liên
quan, các nghị định, Quyết định của Chính phủ, các văn bản pháp quy, định hướng
phát triển của Ngân hàng Nhà nước Lào, các tạp chí, các số liệu từ các đề tài được
công bố...
Bên cạnh đó, là những ý kiến đánh giá từ các chuyên gia được thu thập qua quá
trình tiếp xúc trực tiếp với các chuyên gia, nhà quản lý ngân hàng; và qua các bài phát
biểu chính thức của các cán bộ quản lý Nhà nước thuộc Ngân hàng Nhà nước Lào, Bộ
Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư… cũng như các cán bộ cao cấp trong lĩnh vực
ngân hàng tại các Hội nghị.
20
Kết luận Chương 1
Như vậy trong Chương 1 của Luận án, tác giả đã tìm hiểu và chỉ ra những công trình nghiên cứu khoa học liên quan; đánh giá và tìm ra khoảng trống nghiên cứu của Luận án; từ đó khẳng định đề tài Luận án “Chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào” là đề tài nghiên cứu khoa học có tính mới về cả hình thức và nội dung, đồng thời tạo cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài. Bên cạnh đó, trong Chương 1, tác giả cũng chỉ ra phương pháp nghiên cứu đề tài Luận án là phương pháp kết hợp giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng, tuy nhiên, nghiên cứu định tính là phương pháp chủ yếu. Luận án cũng nêu cụ thể các phương pháp trong quá trình nghiên cứu các nội dung của đề tài. Thêm vào đó, Chương 1 của Luận án cũng diễn giải các nguồn dữ liệu làm cơ sở thông tin cho việc nghiên cứu. Các dữ liệu được thu thập từ các nguồn chính thống và tin cậy. Các vấn đề nghiên cứu trong Chương 1 là cơ sở và định hướng để triển khai nội dung nghiên cứu ở các chương tiếp theo.
21
CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÍN DỤNG
2.1. Dịch vụ tín dụng và phát triển dịch vụ tín dụng
2.1.1. Dịch vụ tín dụng
2.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ tín dụng
Khái niệm dịch vụ tín dụng
Trong vòng hai, ba thập kỷ vừa qua, các nhà kinh tế hoặc các nhà hoạch định chính sách đã ngày càng thừa nhận và chú ý tầm quan trọng của các ngành dịch vụ, một phần là do dịch vụ ngày càng liên kết chặt chẽ với hàng hóa để đảm bảo hàng hóa duy trì khả năng cạnh tranh của mình. Ngày nay, chúng ta biết đến rất nhiều loại hình dịch vụ trong nhiều lĩnh vực với nhiều cấp độ khác nhau.
Kotler (2003, tr. 522-523) định nghĩa “Dịch vụ là mọi hành động và kết quả mà một bên có thể cung cấp cho bên kia và chủ yếu là vô hình và không dẫn đến quyền sở hữu một cái gì đó. Sản phẩm của nó có thể có hay không gắn liền với một sản phẩm vật chất”.Với định nghĩa này, Philip Kotler đã chỉ ra một đặc điểm cơ bản của dịch vụ, đó là tính vô hình. Điều này có nghĩa rằng, khách hàng sẽ không thể cảm nhận được dịch vụ trước khi chúng được cung ứng và tiếp nhận. Thêm vào đó, Philip Kotler cũng khẳng định hàng hóa được các công ty chào bán trên thị trường có thể trải ra từ một phía là hàng hóa thuần túy đến phía bên kia là dịch vụ thuần túy, bao gồm: Hàng hóa hữu hình thuần túy; Hàng hóa hữu hình có kèm theo dịch vụ; Hàng hỗn hợp; Dịch vụ chính có kèm theo hàng hóa và dịch vụ phụ; và Dịch vụ thuần túy.
Theo định nghĩa của TS. Smerchai (2006, tr.1-7) “Dịch vụ là một trong hoạt động sinh lời chủ yếu trong nền kinh tế thị trường hoặc sự vui lòng mà những người bán hàng thực hiện để trao đổi các sản phẩm của mình”.
Về khái niệm tín dụng, đây là một thuật ngữ xuất phát từ chữ latin là Creditium (tiếng anh gọi là Credit), có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Hiện nay, có nhiều quan niệm về tín dụng, tiêu biểu là:
Theo Từ điển Tiếng Việt do GS. Hoàng Phê chủ biên (2003, tr. 994) “Tín dụng
là sự vay mượn tiền mặt và vật tư, hàng hóa”.
Theo GS.TS. Nguyễn Văn Tiến (2013, tr. 87) “Tín dụng là quan hệ giữa các bên về việc vay mượn một tài sản, gồm tài sản thực, tài sản tài chính hay uy tín”. Quan
22
hệ tín dụng đã được hình thành và ra đời từ rất lâu, thậm chí ngay sau khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã. Khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là lúc xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa, làm phát sinh quan hệ vay mượn bằng hiện vật (hàng hóa). Khi nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ phát triển, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ là chủ yếu. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, quan hệ tín dụng cũng ngày càng phát triển lên với nhiều hình thức tín dụng mới tiên tiến hơn, đồng thời vai trò của hoạt động tín dụng cũng ngày càng được khẳng định.
Theo TS. Lê Thẩm Dương (2006) “Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay và bên đi vay trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán” .
Từ các quan điểm trên có thể thấy rằng, về mặt bản chất, tín dụng là một mối quan hệ giữa bên cho vay và bên đi vay với đối tượng được vay mượn là tiền tệ, hàng hóa hay uy tín. Mối quan hệ này được cấu thành bởi các hành vi cơ bản là:
- Bên cho vay chuyển giao cho bên đi vay một lượng tài sản nhất định;
- Bên đi vay được sử dụng tạm thời lượng giá trị tài sản đó trong một thời gian
nhất định;
- Bên đi vay phải hoàn trả vô điều kiện cho bên đi vay sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận. Thông thường giá trị được hoàn trả lớn hơn giá trị lúc cho vay, phần lớn hơn này gọi là lợi tức.
Từ khái niệm “dịch vụ” và khái niệm “tín dụng” đã được làm rõ ở trên, khái niệm “dịch vụ tín dụng” có thể được hiểu là sản phẩm vô hình được bên cho vay cung cấp cho bên đi vay dưới hình thức bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ tín dụng rất phong phú và đa dạng với sự
tham gia của nhiều chủ thể, bao gồm:
- Tín dụng Nhà nước: Là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng Nhà nước được thực hiện nhằm hỗ trợ cho các ngành, khu vực kinh tế kém phát triển, xóa đói giảm nghèo, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn và là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tín dụng Nhà nước có chủ thể cấp tín dụng là Nhà nước; chủ yếu là
23
loại hình tín dụng trực tiếp, không thông qua tổ chức trung gian. Các hình thức của tín dụng Nhà nước bao gồm: cho vay đầu tư, hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín dụng và các loại bảo lãnh khác.
- Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa, dịch vụ. Hành vi mua bán chịu hàng hóa được xem là hình thức tín dụng, trong đó, doanh nghiệp bán chuyển giao cho doanh nghiệp mua quyền sử dụng vốn (dưới dạng hàng hóa) tạm thời trong một thời gian nhất định, và khi đến thời hạn đã được thỏa thuận, doanh nghiệp mua phải hoàn lại vốn cho doanh nghiệp bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu. Tín dụng thương mại có chủ thể cấp tín dụng là doanh nghiệp và đối tượng vay mượn là hàng hóa. Khối lượng tín dụng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào tổng giá trị của khối lượng hàng hóa được đưa ra mua bán chịu. Cơ sở pháp lý xác định quan hệ tín dụng thương mại là giấy nhận nợ, được gọi là kỳ phiếu thương mại hay gọi tắt là thương phiếu. Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định.
- Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân hàng thương mại, với các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân trong xã hội. Hình thức cấp tín dụng ngân hàng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tài sản hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tài sản theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
- Tín dụng quốc tế: Là quan hệ tín dụng giữa các chủ thể kinh tế của một quốc gia với các chủ thể kinh tế của các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế. Chủ thể cấp tín dụng là Chính phủ, cơ quan nhà nước, ngân hàng quốc tế, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và cá nhân. Đối tượng của tín dụng quốc tế có thể là hàng hóa hoặc tiền tệ. Tín dụng quốc tế có thể chịu rủi ro do bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của tỷ giá hối đoái quốc tế.
Trong phạm vi nghiên cứu của Luận án, đối tượng tín dụng được nghiên cứu là tín dụng ngân hàng, không bao gồm tín dụng thương mại, tín dụng Nhà nước và tín dụng quốc tế. Với tín dụng ngân hàng, chủ thể cung ứng dịch vụ là các tổ chức tín dụng được thành lập hợp pháp và thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, bao gồm: Ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng (công ty tài chính; công ty cho thuê tài chính; quỹ tín dụng; hợp tác xã tín dụng... ); và khách hàng tiếp nhận dịch vụ là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân trong xã hội.
24
Đặc điểm của dịch vụ tín dụng:
Trước tiên, dịch vụ tín dụng là một loại hình dịch vụ - những sản phẩm không tồn tại dưới hình thái vật chất cụ thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu, nhằm thỏa mãn đầy đủ, kịp thời, thuận tiện, văn minh các nhu cầu của sản xuất và đời sống xã hội. Do đó, nó sẽ mang những đặc điểm cơ bản của sản phẩm dịch vụ, bao gồm:
- Tính vô hình: Dịch vụ không có hình thái vật chất cụ thể. Khách hàng có thể bỏ tiền mua dịch vụ song thường không có một biểu hiện vật chất cụ thể nào cho dịch vụ đó. Bên cạnh đó, dịch vụ không thể đo lường được bằng các phương pháp đo lường thông thường về thể tích, trọng lượng; chất lượng dịch vụ cũng không thể xác định trực tiếp thông qua những chỉ tiêu định lượng.
- Tính không tách rời giữa cung ứng và tiêu dùng dịch vụ: Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất hàng hoá tách khỏi lưu thông và tiêu dùng, nên hàng hoá có thể được lưu kho để dự trữ và vận chuyển đi nơi khác theo cung, cầu của thị trường. Còn đối với sản phẩm dịch vụ, dịch vụ được cung ứng và tiêu dùng đồng thời, và quá trình này chỉ được hoàn thành cùng với sự hoàn thành tiêu dùng của khách hàng. Nếu chưa có khách hàng, chưa có hệ thống tạo ra dịch vụ.
- Tính không đồng nhất: Chất lượng dịch vụ thường không đồng nhất và dao động trong một biên độ rất rộng, tùy thuộc vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ, bao gồm người cung ứng, người tiếp nhận dịch vụ, thời gian, địa điểm cung ứng phục vụ.
- Tính không lưu giữ được: Do quá trình cung ứng và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên dịch vụ không thể được sản xuất hàng loạt và lưu giữ trong kho sau đó mới tiêu dùng. Trong cung ứng dịch vụ không có khái niệm tồn kho hoặc dự trữ sản phẩm dịch vụ.
Bên cạnh đó, dịch vụ tín dụng còn có những đặc điểm riêng của nó, cụ thể là:
Thứ nhất, Tín dụng dựa trên cơ sở lòng tin
Đây là đặc điểm quan trọng nhất trong các đặc điểm của dịch vụ tín dụng. Các tổ chức chỉ cấp tín dụng khi có lòng tin vào việc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ vay (gốc, lãi) đúng hạn; còn người đi vay thì tin tưởng vào khả năng kiếm được tiền trong tương lai để trả nợ gốc và lãi vay. Khi đưa ra quyết định cấp tín dụng, các tổ chức tín dụng thường sắp xếp thứ tự ưu tiên của các tiêu chí như sau: (i) Tín nhiệm (uy tín, thiện chí) của người đi vay; (ii) Tính khả thi của dự án (phương án kinh doanh); (iii) Bảo đảm tiền vay.
25
Thứ hai, Tín dụng là sự chuyển nhượng một tài sản có thời hạn hay có tính
hoàn trả
Đối với tín dụng ngân hàng, ngân hàng là một trung gian tài chính “đi vay để cho vay” nên mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều phải có thời hạn, bảo đảm cho ngân hàng hoàn trả vốn huy động. Để xác định thời hạn cho vay hợp lý, ngân hàng phải căn cứ vào tính chất thời hạn nguồn vốn của mình và quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay.
Nếu ngân hàng có nguồn vốn dài hạn, ổn định thì có thể cấp được nhiều tín dụng dài hạn; ngược lại, nếu nguồn vốn không ổn định và kỳ hạn ngắn, mà cấp nhiều tín dụng dài hạn thì sẽ gặp rủi ro thanh khoản. Mặt khác, thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì người vay mới có điều kiện trả nợ đúng hạn. Nếu ngân hàng xác định thời hạn vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì khách hàng không có đủ nguồn để trả nợ khi đến hạn, gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay lớn hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, tiềm ẩn rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Việc hoàn trả nợ vay thể hiện giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kỳ sản xuất kinh doanh, trở về hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả cho người cho vay.
Thứ ba, Tín dụng phải dựa trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện và dựa
trên nguyên tắc “Hoàn trả cả gốc và lãi”
Quá trình vay và cho vay diễn ra trên cơ sở những căn cứ pháp lý chặt chẽ như: Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp, Hợp đồng bảo lãnh... trong đó bên đi vay (bên bảo lãnh) phải cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay cho tổ chức cấp tín dụng khi đến hạn. Bên cạnh đó, giá trị hoàn trả của tín dụng phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Điều này nghĩa là ngoài việc hoàn trả giá trị gốc, khách hàng phải trả cho tổ chức cấp tín dụng một khoản lãi, đây chính là giá của quyền sử dụng vốn vay. Khoản lãi phải bù đắp được chi phí hoạt động và tạo ra lợi nhuận, phản ánh bản chất hoạt động kinh doanh của tổ chức cấp tín dụng.
Thứ tư, Tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao
Do luôn tồn tại thông tin bất cân xứng, dẫn đến lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức, việc đánh giá độ an toàn của hồ sơ vay vốn là rất khó. Bên cạnh đó, việc thu hồi tín dụng không chỉ phụ thuộc vào khách hàng mà còn phụ thuộc vào môi trường kinh doanh ngoài tầm kiểm soát của khách hàng như sự biến động về giá cả, lãi suất,
26
tỷ giá, lạm phát, thiên tai... Khi khách hàng gặp khó khăn do môi trường kinh doanh thay đổi, dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ, sẽ khiến các tổ chức cấp tín dụng gặp rủi ro tín dụng.
Có thể nói quản trị rủi ro tín dụng không chỉ là mối quan tâm của các tổ chức cấp tín dụng mà còn là mối quan tâm của Chính phủ. Chính phủ cần phải can thiệp nhằm bảo đảm an toàn cho các tổ chức cấp tín dụng, cho người gửi tiền và bảo đảm an ninh kinh tế, đồng thời bảo đảm hiệu quả tín dụng trên phạm vi nền kinh tế quốc dân.
Thứ năm, Tín dụng có tính dễ bắt chước, liên tục thay đổi và không có bản quyền
Từ đặc điểm này, các tổ chức cấp tín dụng không thể thực hiện dị biệt hóa sản phẩm tín dụng trong cạnh tranh mà phải sử dụng các công cụ cạnh tranh về chất lượng dịch vụ, phát triển kênh phân phối và chính sách giá.
Thứ sáu, Dịch vụ tài chính nói chung và dịch vụ tín dụng nói riêng được
phát triển trên nền tảng công nghệ cao
2.1.1.2. Các loại hình dịch vụ tín dụng ngân hàng
Các tổ chức cấp tín dụng có thể sử dụng khả năng tích hợp dịch vụ để tạo ra các sản phẩm dịch vụ mới; Tận dụng công nghệ để phát triển các loại hình dịch vụ và kênh phân phối (home banking, internet banking hoặc telephone banking) khiến cho sản phẩm ngày càng đa dạng và tiện ích cho mỗi khách hàng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, dịch vụ tín dụng được các tổ chức tín dụng cung ứng cho khách hàng đã trải qua một quá trình phát triển từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, từ đơn giản đến phức tạp về kỹ thuật và nghiệp vụ với các loại hình dịch vụ tín dụng ngày càng phong phú và đa dạng. Về cơ bản, các loại hình dịch vụ tín dụng được các TCTD cung cấp cho khách hàng bao gồm:
Cho vay trực tiếp (Loans)
Hiện nay, có nhiều quan điểm cho rằng dịch vụ tín dụng và dịch vụ cho vay là một. Tuy nhiên, thực tế là dịch vụ tín dụng phong phú và đa dạng hơn dịch vụ cho vay và cho vay chỉ là một hình thức của dịch vụ tín dụng. Ở Việt Nam theo Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì thuật ngữ cho vay được hiểu là: "Một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi". Tuy nhiên, trong hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng nhất, mang lại nguồn lợi nhuận lớn nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất tại các TCTD.
27
Dịch vụ cho vay trực tiếp cũng rất phong phú và đa dạng khi được tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau:
(cid:4) Căn cứ vào thời hạn tín dụng: là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn tín dụng cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi, vốn tín dụng đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Gồm có 3 loại là:
- Cho vay ngắn hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn từ 12 tháng trở xuống,
mục đích của cho vay ngắn hạn là tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động.
- Cho vay trung hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm,
mục đích của cho vay trung hạn là tài trợ cho nhu cầu vốn cố định.
- Cho vay dài hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn trên 5 năm, mục đích của
cho vay dài hạn là hình thành các tài sản cố định có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài.
Việc phân loại theo thức này có ý nghĩa hết sức quan trọng, liên quan trực tiếp đến việc thu hồi nợ gốc và lãi, ảnh hưởng tới tính an toàn và tính sinh lời của tài sản trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.
(cid:4) Căn cứ vào mục đích vay vốn:
- Cho vay lĩnh vực bất động sản: là các khoản tín dụng đầu tư vào bất động sản bao gồm: Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng nhỏ và sửa chữa nhà cửa; Tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, bất động sản trong kinh doanh.
- Cho vay lĩnh vực công thương nghiệp: Là khoản tín dụng cấp cho các doanh nghiệp để trang trải các chi phí như mua hàng hóa, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, trả thuế và chi trả lương.
- Cho vay lĩnh vực nông nghiệp: Là khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông
nghiệp, nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi.
- Cho vay tiêu dùng: Là khoản tín dụng cấp cho cá nhân, hộ gia đình để mua sắm hàng hóa tiêu dùng đắt tiền như phương tiện đi lại, trang thiết bị trong nhà, cho vay du học...
- Cho vay đầu tư tài chính: Là khoản tín dụng cấp cho các cá nhân, doanh
nghiệp mua chứng khoán, vàng...
(cid:4) Căn cứ vào tính chất đảm bảo:
- Cho vay không có tài sản đảm bảo: còn gọi là tín dụng tín chấp, khoản tín dụng chủ yếu dựa vào uy tín, tình hình tài chính của khách hàng, không có tài sản đảm
28
bảo. Loại tín dụng này rất rủi ro trong thu hồi nợ, các ngân hàng nên hạn chế cho vay tín chấp, chọn những khách hàng thuộc đối tượng có thu nhập khá trở lên.
- Cho vay có tài sản đảm bảo: các khoản tín dụng có tài sản đảm bảo theo quan điểm của tổ chức tín dụng là các khoản tín dụng có nguồn thu thứ hai từ tài sảm đảm bảo. Các khoản vay tín dụng này bao gồm cho vay tín dụng có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba. Loại cho vay có tài sản đảm bảo này được áp dụng phổ biến ở các ngân hàng hiện nay.
Việc phân chia này không thể hiện hết tính an toàn của hoạt động cho vay, mà chỉ giúp các tổ chức tín dụng theo dõi các hợp đồng về đảm bảo, từ đó đưa ra các biện pháp xử lý tài sản đảm bảo khi cần thiết.
(cid:4) Căn cứ vào phương thức cho vay:
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn tín dụng khách hàng và ngân hàng thực
hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định (thường dưới 1 năm). Theo đó, khách hàng được quyền rút theo hạn mức tín dụng đã được cấp trong một khoảng thời gian nhất định. Với hình thức này, khách hàng chỉ phải lập 01 hồ sơ cho nhiều khoản vay trong một chu kì kinh doanh (tối đa không quá 12 tháng) của mình.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn tín dụng để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay tín dụng đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; Trong đó có một tổ chức tín dụng (ngân hàng) làm đầu mối dàn xếp phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Ngân hàng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn tín dụng trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng.
- Cho vay thấu chi: Đây là hình thức cho vay cho phép khách hàng sử dụng vượt quá số dư trong phạm vi hạn mức tín dụng đã thỏa thuận trong thời gian nhất định trên tài khoản vãng lai hay tài khoản thẻ tín dụng của khách hàng. Kỹ thuật này
29
giúp khách hàng sử dụng vốn linh hoạt, tiện lợi và thông thường được áp dụng đối với khách hàng có khả năng tài chính lành mạnh và có uy tín.
(cid:4) Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay:
- Cho vay hoàn trả nhiều lần (tín dụng trả góp): Đây là loại hình cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi vay theo định kỳ. Loại tín dụng này thường áp dụng đối với các khoản vay lớn và có thời hạn dài.
- Cho vay hoàn trả một lần: Là loại hình cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi vay một lần khi đến hạn. Loại tín dụng này áp dụng cho những khoản vay nhỏ và có thời hạn ngắn.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu: Là loại hình cho vay mà khách hàng có thể hoàn trả nợ vay bất cứ khi nào. Loại hình tín dụng này thường được áp dụng cho những khoản vay thấu chi, thẻ tín dụng.
Chiết khấu (Discount)
Đây là loại hình dịch vụ tín dụng được thực hiện theo phương thức các NHTM sẽ mua lại các chứng từ có giá trước khi đến hạn thanh toán với một số tiền nhỏ hơn giá trị thanh toán của chứng từ. Khi đến hạn thanh toán, chênh lệch giữa hai con số này chính là lợi tức chiết khấu mà NHTM được hưởng. Các đối tượng trong nghiệp vụ này gồm: hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác. Theo hình thức này, người được cấp tín dụng và người chịu trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng là hai chủ thể khác nhau.
Bao thanh toán
Đây là một loại hình dịch vụ tín dụng, theo đó các TCTD áp dụng đối với doanh nghiệp là bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa. TCTD với vai trò là đơn vị bao thanh toán sẽ hỗ trợ doanh nghiệp bổ sung vốn lưu động thúc đẩy hoạt động thương mại.
Xét theo phương thức thực hiện, bao thanh toán có các loại: Bao thanh toán từng lần; Bao thanh toán theo hạn mức; Đồng bao thanh toán. Xét theo phạm vi thị trường, có dịch vụ bao thanh toán xuất nhập khẩu và dịch vụ bao thanh toán trong nước.
Thông thường, lãi suất mà ngân hàng được hưởng trong nghiệp vụ này cao hơn
so với các nghiệp vụ tín dụng khác vì nghiệp vụ này có mức độ rủi ro cao.
30
Cho thuê tài chính (Financial leasing)
Là loại hình tín dụng trung, dài hạn được thực hiện thông qua hình thức ngân hàng hay các công ty tài chính của ngân hàng đứng ra mua thiết bị, máy móc, tài sản, bất động sản theo yêu cầu của khách hàng và nắm giữ quyền sở hữu tài sản cho bên thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian sử dụng trong hợp đồng và không được hủy bỏ hợp đồng trước hạn. Kết thúc hợp đồng thuê, khách hàng trả lại tài sản cho ngân hàng, thuê tiếp hoặc mua lại tài sản thuê với giá trị thỏa thuận.
Tín dụng chấp nhận
Là loại hình dịch vụ tín dụng theo đó khách hàng phát hành một hối phiếu mà trong đó ngân hàng đóng vai trò là người thụ lệnh. Khách hàng dùng hối phiếu này để chiết khấu ở một ngân hàng khác để nhận tiền. Trước khi hối phiếu đến hạn thanh toán khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng thụ lệnh để ngân hàng này chi trả cho ngân hàng chiết khấu. Trong mối quan hệ này, ngân hàng thực chất đã cho khách hàng mượn uy tín của mình để khách hàng được vay vốn.
Tín dụng chứng từ
Với loại hình dịch vụ tín dụng này, Ngân hàng mở tín dụng chứng từ cho khách hàng là nhà nhập khẩu và người thụ hưởng là nhà xuất khẩu ở nước ngoài. Ngân hàng cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu khi nhà xuất khẩu đã gửi hàng và xuất trình các chứng từ theo đúng các điều kiện của tín dụng thư.
Bảo lãnh ngân hàng (Bank Guarantee)
Là loại hình dịch vụ tín dụng, theo đó để đảm bảo thực hiện một nghĩa vụ của khách hàng, ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho khách hàng bằng việc phát hành các chứng thư bảo lãnh. Chứng thư bảo lãnh là giấy cam kết của ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện nghĩa vụ. Khách hàng phải nhận nợ và trả nợ cho ngân hàng số tiền đã trả thay.
Bảo lãnh ngân hàng có các loại hình dịch vụ thông dụng là:
- Dịch vụ bảo lãnh thuế xuất nhập khẩu: Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh thuế, dưới hình thức bảo lãnh giấy hoặc bảo lãnh điện tử, cam kết đối với cơ quan quản lý thuế về việc nộp thay cho khách hàng các khoản thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu nếu hết thời gian bảo lãnh mà khách hàng không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, nhằm hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp thông quan hàng hóa nhanh chóng và tiết kiệm chi phí. Đối tượng bảo lãnh là các khoản thuế liên quan đến hoạt động xuất - nhập khẩu
31
hàng hoá như thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt và các khoản thuế khác.
- Dịch vụ bảo lãnh khoản tiền giữ lại: Khi phát hành bảo lãnh khoản tiền giữ lại, Ngân hàng cam kết với bên nhận bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không đảm bảo chất lượng công trình, không cung cấp các dịch vụ hậu mãi, bảo dưỡng, bảo trì... như đã thỏa thuận trong hợp đồng với bên nhận bảo lãnh, Ngân hàng sẽ thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh, trên cơ sở bên nhận bảo lãnh xuất trình bộ chứng từ phù hợp với qui định trong thư/hợp đồng bảo lãnh.
- Dịch vụ bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Khi phát hành bảo lãnh thực hiện hợp đồng, Ngân hàng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của bên được bảo lãnh theo hợp đồng đã kí kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì Ngân hàng sẽ thực hiện thay trên cơ sở bên nhận bảo lãnh xuất trình bộ chứng từ phù hợp với qui định trong thư/hợp đồng bảo lãnh.
- Dịch vụ bảo lãnh dự thầu: Khi phát hành bảo lãnh dự thầu, Ngân hàng cam kết với bên mời thầu (bên nhận bảo lãnh) về nghĩa vụ tham gia dự thầu của bên được bảo lãnh. Trường hợp bên được bảo lãnh phải nộp phạt do vi phạm qui định đấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì Ngân hàng sẽ thực hiện thay, trên cơ sở bên nhận bảo lãnh xuất trình bộ chứng từ phù hợp với qui định trong thư/hợp đồng bảo lãnh.
- Dịch vụ bảo lãnh thanh toán: Khi phát hành bảo lãnh thanh toán, Ngân hàng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của mình khi đến hạn, trên cơ sở bên nhận bảo lãnh xuất trình bộ chứng từ phù hợp với qui định trong thư/hợp đồng bảo lãnh.
- Dịch vụ bảo lãnh tiền ứng trước: Khi phát hành bảo lãnh tiền ứng trước, Ngân hàng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước/tiền đặt cọc của bên được bảo lãnh theo hợp đồng đã kí kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng và phải hoàn trả tiền ứng trước mà không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ thì Ngân hàng sẽ thực hiện thay, trên cơ sở bên nhận bảo lãnh xuất trình bộ chứng từ phù hợp với qui định trong thư/hợp đồng bảo lãnh.
32
2.1.2. Phát triển dịch vụ tín dụng
2.1.2.1. Khái niệm phát triển dịch vụ tín dụng
Theo quan điểm của Các Mác (Trích dẫn trong Nguyễn Ngọc Long và Nguyễn Hữu Vui, 2006, tr. 187) Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Quan điểm của Mác – Ăng ghen cũng chỉ ra“Phát triển là bản chất tất yếu của mọi sự vật hiện tượng, không ngừng hình thành và hoàn thiện của mọi vấn đề”.
Theo Từ điển Tiếng Việt do GS. Hoàng Phê (2006, tr.769) chủ biên, “Phát triển là biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp”.
Dịch vụ tín dụng là một trong hoạt động sinh lời chủ yếu của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế thị trường nhưng cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Bởi vậy, đề cập đến vấn đề phát triển dịch vụ tín dụng không phải là điều mới mẻ nhưng nó luôn là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu của nền kinh tế. Gắn với khái niệm “phát triển”đã được giải thích ở trên, khái niệm “phát triển dịch vụ tín dụng” có thể hiểu là quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của dịch vụ tín dụng trong một thời kỳ nhất định, bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản phẩm dịch vụ và sự tiến bộ về cơ cấu và chất lượng của sản phẩm dịch vụ, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu về tín dụng của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của hệ thống TCTD.
Nói một cách khác, đối với một tổ chức tín dụng, sự phát triển trong hoạt động
cung ứng dịch vụ tín dụng phải được thể hiện trên cả khía cạnh chiều rộng và chiều sâu:
- Sự phát triển dịch vụ tín dụng theo chiều rộng là sự gia tăng về quy mô dịch vụ tín dụng được cung ứng và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ tín dụng tiên tiến, đem lại sự thỏa mãn và tiện lợi cho khách hàng.
- Sự phát triển dịch vụ tín dụng theo chiều sâu được thể hiện bởi sự tiến bộ về
cơ cấu dịch vụ tín dụng và sự gia tăng chất lượng sản phẩm dịch vụ tín dụng.
Sự gia tăng quy mô dịch vụ tín dụng được cung ứng và sự đa dạng các sản
phẩm dịch vụ tín dụng:
Sự gia tăng quy mô dịch vụ tín dụng được cung ứng thể hiện qua sự gia tăng cầu về các sản phẩm dịch vụ tín dụng. Cầu của khách hàng đối với các sản phẩm dịch vụ tín dụng ngày càng tăng cho thấy rằng đó là những sản phẩm xuất phát từ chính nhu cầu của thị trường, của khách hàng và đáp ứng tốt những mong muốn của khách hàng.
33
Các tổ chức tín dụng phát huy khả năng cạnh tranh của mình không chỉ bằng những sản phẩm cơ bản mà còn thể hiện ở sự đa dạng của dịch vụ tín dụng. Một tổ chức có thể tạo ra sự khác biệt riêng cho từng loại sản phẩm của mình trên cơ sở cải tiến các sản phẩm dịch vụ tín dụng truyền thống hoặc bổ sung thêm các dịch vụ tín dụng mới để đáp ứng được hầu hết các nhu cầu của khách hàng khác nhau. Các TCTD có thể làm phong phú thêm danh mục sản phẩm của mình với ngày càng nhiều các loại hình dịch vụ tín dụng như: dịch vụ cho vay; chiết khấu; bao thanh toán; cho thuê tài chính; bảo lãnh ngân hàng; tín dụng chứng từ.... Với mỗi loại hình sản phẩm, các TCTD cũng có thể đa dạng thêm các phương thức cung ứng. Đơn cử, đối với sản phẩm dịch vụ cho vay, các TCTD có thể cung ứng các dịch vụ: cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; cho vay có bảo lãnh, cho vay không có bảo lãnh; cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay thấu chi...
Sự tiến bộ về cơ cấu dịch vụ tín dụng được cung ứng:
Cơ cấu dịch vụ tín dụng hay kết cấu tín dụng là một phạm trù phản ánh cấu trúc bên trong của hoạt động cung ứng dịch vụ tín dụng, là tập hợp các mối quan hệ cơ bản, tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành nên dịch vụ tín dụng trong một thời gian nhất định. Sự tiến bộ về cơ cấu dịch vụ tín dụng tác động rất lớn đến kết quả kinh doanh của các TCTD bởi các TCTD muốn tăng trưởng bền vững và hiệu quả đều phải dựa trên nền tảng một cơ cấu dịch vụ tín dụng tối ưu, đem lại hệ quả kinh tế lớn đồng thời hạn chế tối đa rủi ro cho các TCTD.
Sự gia tăng chất lượng dịch vụ tín dụng:
Theo Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, “Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”.
Một cách tiếp cận khác về chất lượng dịch vụ là tiếp cận trên cả hai giác độ:
nhà cung ứng dịch vụ và khách hàng:
- Trên giác độ nhà cung ứng dịch vụ, chất lượng dịch vụ là việc bảo đảm cung cấp dịch vụ theo đúng kịch bản với kỹ năng nghiệp vụ cao của nhân viên cung ứng và đội ngũ cán bộ quản lý.
- Trên giác độ khách hàng, chất lượng dịch vụ là mức độ hài lòng của khách hàng trong quá trình tiêu dùng dịch vụ, mang lại lợi ích và thỏa mãn đầy đủ nhu cầu mong đợi của khách hàng, tương xứng với chi phí mà khách hàng phải thanh toán.
34
Trong Luận án này, tác giả lựa chọn cách tiếp cận khái niệm “chất lượng dịch vụ tín dụng” đứng trên quan điểm của cả ba nhóm đối tượng: Các tổ chức tín dụng; Khách hàng là các tổ chức, cá nhân và Nhà nước. Một tổ chức tín dụng sẽ không thể cung ứng dịch vụ tín dụng cho khách hàng nếu không tiếp cận chất lượng dịch vụ trên giác độ khách hàng, đồng thời cũng không thể cung ứng dịch vụ tín dụng khi hoạt động đó không đem lại lợi ích và thỏa mãn yêu cầu của bản thân tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, Nhà nước, trên cơ sở yêu cầu chung về phát triển kinh tế xã hội, sẽ can thiệp vào hoạt động cung – cầu dịch vụ tín dụng nếu hoạt động này đi ngược lại với định hướng phát triển chung của xã hội cũng như có những tác động thiếu tích cực đến nền kinh tế.
- Chất lượng dịch vụ tín dụng đứng trên quan điểm của các tổ chức tín dụng
Tín dụng là nghiệp vụ mang lại nguồn thu nhập chủ yếu và nguồn lợi nhuận quan trọng cho các tổ chức tín dụng. Mặt khác tín dụng cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro, có thể dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán ở các tổ chức tín dụng. Do đó, vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng nói chung và chất lượng dịch vụ tín dụng nói riêng là một vấn đề lớn được các tổ chức tín dụng rất quan tâm.
Đối với một tổ chức tín dụng, chất lượng dịch vụ tín dụng được thể hiện ở các điểm sau: (i) Tín dụng phải tuân thủ quy trình nghiệp vụ, chính sách tín dụng của tổ chức tín dụng và pháp luật; (ii) Tín dụng phải được bảo đảm và đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi; (iii) Rủi ro tín dụng phải trong giới hạn cho phép và được kiểm soát; (iv) Hoạt động tín dụng phải mang lại hiệu quả kinh tế cho tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho các dịch vụ khác của tổ chức tín dụng phát triển, bảo đảm thanh khoản, nâng cao uy tín và vị thế cạnh tranh cho tổ chức tín dụng.
- Chất lượng dịch vụ tín dụng đứng trên quan điểm khách hàng:
Khách hàng là đối tượng sử dụng các dịch vụ của tổ chức tín dụng, đặc biệt là dịch vụ tín dụng vì nó là một nguồn tài trợ vốn quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Chất lượng dịch vụ tín dụng đứng trên quan điểm của khách hàng là phải đáp ứng được mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng với số lượng, lãi suất, kỳ hạn, phương thức giải ngân và phương thức thu nợ hợp lý; thủ tục đơn giản, thuận tiện song vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng và tuân thủ pháp luật. Nếu tất cả các yếu tố này đều đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì dịch vụ tín dụng đó được coi là có chất lượng tốt và ngược lại.
Xuất phát từ thực tế này, các tổ chức tín dụng cần không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng thông qua việc áp dụng công nghệ hiện đại và nâng cao trình độ của các cán bộ cung ứng dịch vụ, nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Đặc
35
biệt, các tổ chức tín dụng cần phải đảm bảo các yếu tố sau: Kỳ hạn tín dụng hợp lý; Hạn mức tín dụng hợp lý; Các điều kiện cho vay linh hoạt về tài sản đảm bảo; Quy trình tín dụng hợp lý và nhanh chóng; Nâng cao chất lượng phục vụ của nhân viên tín dụng.
- Chất lượng dịch vụ tín dụng đứng trên quan điểm Nhà nước
Đứng trên quan điểm toàn xã hội thì vấn đề chất lượng tín dụng cũng là vấn đề đáng quan tâm. Một đồng vốn cho vay của tổ chức tín dụng sẽ là đầu mối trong tất cả các mối quan hệ kinh tế, và nếu được sử dụng hiệu quả nó sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đóng góp phát triển các công trình phúc lợi xã hội. Ở một khía cạnh khác, sự sụp đổ của hệ thống tổ chức tín dụng sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế và có thể khiến cho nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Chính vì vậy, vai trò của Nhà nước là phải đảm bảo hoạt động tín dụng phát huy được những vai trò vốn có và hạn chế những tác động tiêu cực có thể có đến nền kinh tế quốc gia.
Đứng trên quan điểm Nhà nước, chất lượng dịch vụ tín dụng được đảm bảo bằng việc phát huy được các vai trò đối với nền kinh tế - xã hội, cụ thể là: (i) Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn và tài trợ vốn cho các ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển; (ii) Góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát; (iii) Góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội; (iv) Kết nối nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, góp phần phát triển mối quan hệ đối ngoại.
Như vậy, phát triển dịch vụ tín dụng là một chỉ tiêu đánh giá tổng hợp về quy mô và chất lượng của dịch vụ tín dụng, phản ánh sức cạnh tranh, sự thích nghi của các tổ chức tín dụng với môi trường bên ngoài để có thể tồn tại và phát triển. Để phân tích và đánh giá một cách chính xác về sự phát triển của dịch vụ tín dụng, ta cần phải hiểu và đặt nó vào môi trường kinh doanh và sự thay đổi của nó để thấy được sự thay đổi theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực của dịch vụ tín dụng. 2.1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển dịch vụ tín dụng
•
Về hệ thống chỉ tiêu để đánh giá sự phát triển của dịch vụ tín dụng, trong giới hạn nghiên cứu của Luận án, tác giả xin đề cập đến 3 nhóm chỉ tiêu chính là nhóm chỉ tiêu về quy mô dịch vụ tín dụng, nhóm chỉ tiêu về cơ cấu của dịch vụ tín dụng và nhóm chỉ tiêu về chất lượng và hiệu quả dịch vụ tín dụng. a. Nhóm chỉ tiêu về quy mô dịch vụ tín dụng Số khách hàng được vay vốn: Chỉ tiêu này phản ánh số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ tín dụng qua các thời kỳ, cho thấy khả năng thu hút khách hàng của tổ chức tín dụng trong thời gian qua.
36
(Số lượng khách hàng vay vốn) năm nay – năm trước
=
x 100% (2.1)
Tốc độ tăng trưởng khách hàng
Số lượng khách hàng vay vốn năm trước
• Tốc độ tăng trưởng khách hàng (%):
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá tốc độ tăng trưởng khách hàng đi vay qua các
năm từ đó đánh giá khả năng cho vay, tìm kiếm khách hàng của các TCTD.
• Doanh số cho vay: là tổng số tiền mà các TCTD đã cho các khách hàng vay trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này phản ánh kết quả về việc phát triển, mở rộng
hoạt động cho vay và tốc độ tăng trưởng tín dụng của các TCTD. Nếu như các nhân tố
khác cố định thì doanh số cho vay càng cao phản ánh việc mở rộng hoạt động cho vay
của các TCTD càng tốt, ngược lại doanh số cho vay của các TCTD mà giảm trong khi
cố định các yếu tố khác thì chứng tỏ hoạt động của các TCTD là không tốt.
Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay (%) =
x 100 (%) (2.2)
(cid:19)(cid:20)(cid:21)(cid:22) (cid:23)ă(cid:24) (cid:23)(cid:25)(cid:26)(cid:27)(cid:19)(cid:20)(cid:21)(cid:22) (cid:23)ă(cid:24) (cid:28)(cid:29)ướ(cid:30) (cid:19)(cid:20)(cid:21)(cid:22) (cid:23)ă(cid:24) (cid:28)(cid:29)ướ(cid:30)
• Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay (DSCV) (%):
Chỉ tiêu này cho thấy sự tăng trưởng của doanh số cho vay qua các năm, qua đó
đánh giá khả năng cho vay, tìm kiếm khách hàng và tình hình thực hiện hoạt động cho
vay của các TCTD. Chỉ tiêu này càng cao thì mức độ hoạt động của TCTD càng ổn
định và có hiệu quả. Ngược lại, chỉ tiêu này thấp cho thấy TCTD đang gặp khó khăn
trong việc tìm kiếm khách hàng và việc thực hiện kế hoạch cho vay chưa hiệu quả.
• Dư nợ tín dụng: là số tiền khách hàng vay đang còn nợ chưa trả tại một thời điểm, hay nói cách khác dư nợ tín dụng là số tiền đã cho khách hàng vay nhưng chưa
thu hồi.
Tổng dư nợ tín dụng của TCTD được xác định tại một thời điểm nhất định,
thường là cuối kỳ kinh doanh. Tổng dư nợ tín dụng cao và tăng trưởng tốt sẽ phản ánh
một phần hiệu quả của hoạt động tín dụng; Ngược lại tổng dư nợ tín dụng thấp cho
thấy khả năng mở rộng hoạt động tín dụng hay mở rộng thị phần và khả năng tiếp
thị của TCTD còn hạn chế.
Tuy nhiên tổng dư nợ tín dụng cao chưa hẳn đã phản ánh hiệu quả tín dụng của
TCTD cao vì đôi khi nó là biểu hiện cho sự tăng trưởng nóng của hoạt động tín dụng,
vượt quá khả năng về vốn cũng như khả năng kiểm soát rủi ro của TCTD, hoặc mức
dư nợ cao, hoặc tốc độ tăng trưởng nhanh do mức lãi suất cho vay của TCTD thấp hơn
so với thị trường dẫn đến tỷ suất lợi nhuận giảm.
37
Tốc độ tăng trưởng tín dụng (%) •
x 100 (%) (2.3)
(cid:19)ư (cid:23)ợ (cid:28)í(cid:23) "ụ(cid:23)# (cid:23)ă(cid:24) (cid:23)(cid:25)(cid:26)(cid:27)(cid:19)ư (cid:23)ợ (cid:28)í(cid:23) "ụ(cid:23)# (cid:23)ă(cid:24) (cid:28)(cid:29)ướ(cid:30) (cid:19)ư (cid:23)ợ (cid:28)í(cid:23) "ụ(cid:23)# (cid:23)ă(cid:24) (cid:28)(cid:29)ướ(cid:30)
Nguồn: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Quang (2013), Phân tích Báo cáo tài chính, trang 300, Nhà xuất bản tài chính.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng (%) =
Chỉ tiêu này dùng để so sánh sự tăng trưởng dư nợ tín dụng qua các năm để đánh giá khả năng cho vay, tìm kiếm khách hàng và đánh tình hình thực hiện kế hoạch tín dụng của các TCTD.
Chỉ tiêu càng cao thì mức độ hoạt động của TCTD càng ổn định và có hiệu quả, ngược lại TCTD đang gặp khó khăn, nhất là trong việc tìm kiếm khách hàng và thể hiện việc thực hiện kế hoạch tín dụng chưa hiệu quả.
Tỷ lệ tín dụng/ GDP (%) •
Dư nợ tín dụng GDP
Nguồn: TS. Nguyễn Đức Trung (2016), Đảm bảo an toàn vĩ mô trong Basel III và việc áp dụng tại Việt Nam, Tạp chí Tài chính Kỳ 2 - Tháng 4/2016 (631), trang 8.
x 100 (%) (2.4) Tỷ lệ tín dụng/GDP =
Chỉ tiêu tỷ lệ tín dụng/GDP được sử dụng như một chỉ tiêu cảnh báo vấn đề tăng trưởng tín dụng ”nóng”. Về lý thuyết, tín dụng được coi là tăng trưởng “nóng” khi tỷ lệ tín dụng trên GDP lớn hơn 100%. Tuy nhiên, trên thực tế, khi kinh tế tăng trưởng nhanh, tỷ lệ tín dụng trên GDP ở mức cao hơn 100% là điều chấp nhận được. Vấn đề là mức tăng trưởng tín dụng phải phù hợp với các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, bội chi ngân sách nhà nước cũng như thâm hụt (hoặc thặng dư) cán cân thanh toán quốc tế.
Tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP (%) •
Khi xem xét tăng trưởng tín dụng trong tương quan với quy mô của nền kinh tế,
4ỷ 5ệ (cid:28)í(cid:23) "ụ(cid:23)#/6(cid:19)7 8ỳ :
Tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP = 3
4ỷ 5ệ (cid:28)í(cid:23) "ụ(cid:23)#/6(cid:19)7 8ỳ ; − 1= ∗ 100% (2.5)
tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP được tính theo công thức sau:
Tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP thực =
-1 *100% (2.6)
Tỷ lệ tín dụng/GDP kỳ N Tỷ lệ tín dụng/GDP kỳ0 1 + Tỷ lệ lạm phát trong khoảng thời gian(0,N)
Các chỉ tiêu ở trên do không tính đến giá trị thời gian của tiền nên đều là các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng tín dụng danh nghĩa. Thêm biến số tỷ lệ lạm phát vào công thức trên, ta có chỉ tiêu đo lường tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP thực, cụ thể như sau:
38
b. Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu dịch vụ tín dụng
Để đánh giá về sự tiến bộ trong cơ cấu dịch vụ tín dụng được cung ứng cho
khách hàng, ta căn cứ vào các chỉ tiêu sau:
Cơ cấu đối tượng khách hàng vay vốn: •
Tại các TCTD, cơ cấu khách hàng vay vốn thường được chia thành hai nhóm
khách hàng theo sơ đồ sau:
Hình 2.1: Cơ cấu khách hàng vay vốn
Ngoài ra, xem xét ở phạm vi vĩ mô nền kinh tế quốc dân, cơ cấu đối tượng khách
hàng vay vốn có thể được đánh giá thông qua lượng vốn chảy vào từng khu vực kinh tế của nền kinh tế quốc dân, bao gồm: Khu vực kinh tế Nhà nước; Khu vực kinh tế ngoài
Nhà nước; và Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Một cách phân nhóm khác về cơ cấu tín dụng xét theo đối tượng khách hàng cũng có thể sử dụng, đó là: tín dụng cho
doanh nghiệp có vốn Nhà nước và tín dụng cho khách hàng tư nhân (bao gồm doanh nghiệp khối tư nhân, khách hàng cá nhân, khách hàng có yếu tố nước ngoài).
Việc đánh giá tăng trưởng tín dụng thông qua đánh giá cơ cấu đối tượng khách
hàng vay vốn không chỉ là đánh giá sự gia tăng về quy mô các nhóm đối tượng khách hàng mà còn cần xem xét cơ cấu quy mô các nhóm khách hàng đó đã ở tỷ lệ hợp lý hay chưa và đó đã thực sự là một cơ cấu tín dụng mang tính tiến bộ, đóng góp vào sự phát triển của dịch vụ tín dụng trong nền kinh tế hay chưa.
• Cơ cấu tín dụng theo ngành
Cơ cấu tín dụng theo ngành là cơ cấu thực hiện tín dụng cho từng ngành kinh tế quốc dân, bao gồm ba ngành cơ bản là: Nông, lâm nghiệp và thủy sản; Công nghiệp và xây dựng; Dịch vụ; cũng như cơ cấu thực hiện tín dụng cho từng tiểu ngành. Cơ cấu
tín dụng theo ngành của mỗi quốc gia góp phần thể hiện chính sách ưu tiên phát triển, chính sách đầu tư đối với từng ngành trong một thời kỳ nhất định.
39
Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, để nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, mỗi quốc gia đều phải có chiến lược đầu tư và phát triển các ngành kinh tế hợp lý và mang tính dài hạn, trong đó, cần đẩy mạnh đầu tư, phát triển các ngành công nghiệp chế biến chế tạo và các ngành kinh tế dịch vụ. Thực tế hiện nay cho thấy, trong cơ cấu kinh tế của các quốc gia phát triển, tỷ trọng lĩnh vực dịch vụ ngày càng gia tăng và đây là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng, tốc độ tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
• Cơ cấu phạm vi cho vay:
Cơ cấu tín dụng theo phạm vi cho vay là cơ cấu tín dụng theo không gian. Chỉ tiêu này phản ánh tình hình cấp tín dụng và mức độ tiếp cận nguồn vốn tín dụng của từng vùng, qua đó thể hiện tình hình sử dụng nguồn lực và việc phát huy lợi thế cạnh tranh của từng vùng.
Việc đánh giá sự phát triển của dịch vụ tín dụng qua cơ cấu phạm vi cho vay có nghĩa là xem xét và đánh giá quy mô tín dụng được cấp cho các địa phương của quốc gia, đồng thời đánh giá, xem xét quy mô tín dụng và cơ cấu tín dụng giữa các vùng, miền, lãnh thổ như thành thị, nông thôn, miền núi… để đánh giá được sự phát triển của tín dụng nói chung cũng như khả năng tiếp cận vốn tín dụng ở các khu vực khác nhau. Chỉ tiêu này góp phần đánh giá chiều sâu của dịch vụ tín dụng.
• Cơ cấu theo loại hình tín dụng:
Cơ cấu theo loại hình tín dụng là cơ cấu thực hiện tín dụng cho mỗi phương thức tín dụng, cho mỗi loại hình sản phẩm tín dụng được chia theo các tiêu chí phân loại khác nhau. Một số loại hình sản phẩm tín dụng cơ bản bao gồm:
- Dịch vụ tín dụng từng lần
- Dịch vụ theo hạn mức tín dụng
- Dịch vụ tín dụng theo dự án đầu tư
- Dịch vụ tín dụng hợp vốn
- Dịch vụ tín dụng trả góp
- Dịch vụ theo hạn mức tín dụng dự phòng
- Dịch vụ tín dụng thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng
- Dịch vụ tín dụng theo hạn mức thấu chi
- v.v...
40
Thông qua chỉ tiêu này các tổ chức tín dụng có thể đánh giá mức tài trợ tín dụng cho từng loại hình cụ thể và mức độ hợp lý của cơ cấu đó, từ đó đánh giá được sự phát triển của tín dụng theo loại hình tín dụng để xây dựng chính sách phù hợp.
• Cơ cấu tín dụng theo đồng tiền cho vay
Cơ cấu tín dụng theo đồng tiền cho vay được biểu hiện qua tỷ trọng dư nợ tín
dụng bằng đồng nội tệ và tỷ trọng dư nợ tín dụng ngoại tệ trong tổng dư nợ tín dụng.
Khi tăng trưởng dư nợ bằng đồng nội tệ gặp khó khăn do lãi suất cao, các tổ chức tín dụng có thể đẩy mạnh huy động ngoại tệ để cho vay, từ đó gia tăng dư nợ tín dụng. Thông thường dư nợ ngoại tệ sẽ gia tăng khi tỷ giá ổn định khiến nhiều doanh nghiệp sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán. Tuy nhiên, khi quy mô và tốc độ tăng dư nợ tín dụng ngoại tệ vượt quá tầm kiểm soát sẽ tạo áp lực không nhỏ lên cung ngoại tệ, đặc biệt vào thời điểm cuối năm, khi có nhiều hợp đồng tín dụng ngoại tệ đến hạn. Do đó, việc Ngân hàng Nhà nước đưa ra các yêu cầu đối với các tổ chức tín dụng để tăng cường kiểm soát quy mô và tốc độ tăng dư nợ cho vay ngoại tệ của các tổ chức này ở mức hợp lý, phù hợp với khả năng huy động vốn, yêu cầu quản lý nhập siêu theo chỉ đạo của Chính phủ là việc làm vô cùng cần thiết.
c. Nhóm chỉ tiêu về chất lượng và hiệu quả của dịch vụ tín dụng Tỷ lệ thu lãi (%) •
x 100% (2.7) Tỷ lệ thu lãi (%) = Tổng lãi đã thu trong năm Tổng lãi phải thu trong năm
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tài chính của TCTD, đánh giá khả năng đôn đốc, thu hồi lãi và tình hình thực hiện kế hoạch tín dụng của TCTD. Chỉ tiêu này càng cao thì tình hình thực hiện kế hoạch tài chính cũng như tình hình tài chính của TCTD càng tốt, ngược lại thì TCTD đang gặp khó khăn trong việc thu lãi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi nhuận của TCTD.
Chỉ tiêu này cũng thể hiện tình hình bất ổn trong cho vay của TCTD, có thể nợ xấu (tín dụng đen) trong TCTD tăng cao nên ảnh hưởng đến khả năng thu hồi lãi của TCTD, và có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ trong tương lai (Thông thường tỷ lệ này phải trên 95% mới là tốt).
41
• Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận (%)
Doanh lợi dư nợ tín dụng = x 100 (%) (2.8) Lợi nhuận từ tín dụng Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng. Một khoản tín dụng dù có thời hạn ngắn hay trung – dài hạn không thể xem là có chất lượng cao nếu nó không sinh lời lớn.
• Chỉ tiêu vòng quay vốn
Vòng quay vốn =
(cid:19)B(cid:25)(cid:23)C Dố (cid:28)CE (cid:23)ợ (cid:28)(cid:29)B(cid:23)# 8ỳ 4ổ(cid:23)# "ư (cid:23)ợ Fì(cid:23)C GEâ(cid:23) (cid:28)(cid:29)B(cid:23)# 8ỳ
Nguồn: GS.TS. Nguyễn Văn Tiến (2013), Giáo trình Tín dụng ngân hàng, trang 142.
(2.9)
Vòng quay vốn tín dụng thể hiện tần suất dư nợ bình quân được thu hồi bao nhiêu lần trong một kỳ (thường là một năm). Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu nợ của TCTD theo kế hoạch trong hợp đồng tín dụng ở mức nào. Nếu vòng quay vốn lớn chứng tỏ TCTD thu hồi được vốn, hoạt động tín dụng có hiệu quả. Trong trường hợp ngược lại, chỉ tiêu đó báo động cho TCTD về những bất ổn có thể xảy ra trong quá trình thu hồi vốn. Từ đó, TCTD sớm có biện pháp đôn đốc khách hàng, kịp thời ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra, đồng thời đây cũng là cơ sở cho quyết định cho vay trong những quan hệ tín dụng tiếp theo.
Điểm hạn chế của chỉ tiêu này là đôi khi vòng quay vốn không phản ánh chính xác chất lượng tín dụng, trong trường hợp khoản thu nợ không đúng thời hạn. Khi đó, vòng quay vốn lớn nhưng thực tế tồn tại nợ quá hạn.
(cid:19)B(cid:25)(cid:23)C Dố (cid:28)CE (cid:23)ợ
Tỷ lệ thu nợ (%) •
(cid:19)B(cid:25)(cid:23)C Dố (cid:30)CB I(cid:25)(cid:26) x 100 (%) (2.10)
Tỷ lệ thu nợ (%) =
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả tín dụng trong việc thu nợ của TCTD. Nó phản ánh trong một thời kỳ nào đó, với doanh số cho vay nhất định thì TCTD sẽ thu về được bao nhiêu đồng vốn. Tỷ lệ này càng cao càng tốt.
(cid:19)ư (cid:23)ợ GEá Cạ(cid:23)
• Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn (%)
4ổ(cid:23)# "ư (cid:23)ợ (cid:28)í(cid:23) "ụ(cid:23)# x 100 (%) (2.11)
Nguồn: GS.TS. Nguyễn Văn Tiến (2013), Giáo trình Tín dụng ngân hàng, trang 127.
Tỷ lệ nợ quá hạn (%) =
Nợ quá hạn phát sinh khi khoản tiền vay đến hạn mà khách hàng không hoàn trả được toàn bộ hay một phần tiền gốc hoặc lãi vay. Nợ quá hạn thường biểu hiện cho sự yếu kém về tài chính của khách hàng và là dấu hiệu của rủi ro tín dụng ngân hàng.
42
Trong hoạt động tín dụng, việc phát sinh nợ quá hạn là một vấn đề không thể tránh khỏi, tuy nhiên nếu để nợ quá hạn vượt quá tỷ lệ cho phép sẽ dẫn đến việc mất khả năng thanh toán của các TCTD.
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh số dư nợ gốc và lãi đã quá hạn mà chưa thu hồi được, qua đó cho thấy chất lượng hoạt động của TCTD. Chỉ tiêu này cho biết cứ trong 100 đồng dư nợ hiện hành thì có bao nhiêu đồng quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ chất lượng tín dụng thấp; ngược lại, tỷ lệ nợ quá hạn thấp chứng tỏ chất lượng tín dụng cao.
• Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu (%)
Để xác định tỷ lệ nợ xấu, trước tiên mỗi TCTD cần phải tiến hành phân loại nợ. Phân loại nợ là quá trình xem xét, đánh giá danh mục cho vay nhằm phân loại các khoản vay vào các nhóm khác nhau dựa trên rủi ro và các đặc điểm tương đồng của các khoản vay. Việc phân loại này cũng đồng thời giúp các TCTD có thể kiểm soát chất lượng danh mục cho vay và kịp thời có biện pháp nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng.
Theo Thông tư Số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và Thông tư Số 09/2014/TT- NHNN ngày 18/03/2014 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 02/2013/TT-NHNN, việc phân loại nợ được chia thành 5 nhóm có mức độ rủi ro tăng dần, bao gồm: Nợ đủ tiêu chuẩn (Nhóm 1); Nợ cần chú ý (Nhóm 2); Nợ dưới tiêu chuẩn (Nhóm 3); Nợ nghi ngờ (Nhóm 4) và Nợ có khả năng mất vốn (Nhóm 5). Cách thức phân loại thành từng nhóm nợ cụ thể là: - Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
(i) Nợ trong hạn và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc
và lãi đúng hạn;
(ii) Nợ quá hạn dưới 10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy
đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi còn lại đúng thời hạn;
- Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày; (ii) Nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu;
- Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
43
(ii) Nợ gia hạn nợ lần đầu; (iii) Nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi
đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
(iv) Nợ thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Nợ của khách hàng hoặc bên bảo đảm là tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng mà tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
+ Nợ được bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con của tổ chức tín dụng hoặc tiền vay được sử dụng để góp vốn vào một tổ chức tín dụng khác trên cơ sở tổ chức tín dụng cho vay nhận tài sản bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng nhận vốn góp;
+ Nợ không có bảo đảm hoặc được cấp với điều kiện ưu đãi hoặc giá trị vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi cấp cho khách hàng thuộc đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
+ Nợ cấp cho các công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát có giá trị vượt các tỷ lệ giới hạn theo quy định của pháp luật;
+ Nợ có giá trị vượt quá các giới hạn cấp tín dụng, trừ trường hợp được
phép vượt giới hạn, theo quy định của pháp luật;
+ Nợ vi phạm các quy định của pháp luật về cấp tín dụng, quản lý ngoại hối và các tỷ lệ bảo đảm an toàn đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
+ Nợ vi phạm các quy định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý tiền vay, chính
sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
+ Nợ thuộc một trong các trường hợp sau đây chưa thu hồi được trong thời gian dưới 30 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi: Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 3, 4, 5, 6 Điều 126 Luật các tổ chức tín dụng; Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 127 Luật các tổ chức tín dụng; Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều 128 Luật các tổ chức tín dụng;
(v) Nợ trong thời hạn thu hồi theo kết luận thanh tra;"
- Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; (ii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
(iii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
44
(iv) Khoản nợ quy định tại điểm c(iv) khoản 1 Điều này chưa thu hồi được
trong thời gian từ 30 ngày đến 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;
(v) Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng quá thời hạn thu hồi theo
kết luận thanh tra đến 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;" - Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn trên 360 ngày; (ii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
(iii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần thứ hai;
(iv) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn
hoặc đã quá hạn;
(v) Khoản nợ quy định tại điểm c(iv) khoản 1 Điều này chưa thu hồi được
trong thời gian trên 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;
(vi) Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng quá thời hạn thu hồi theo
kết luận thanh tra trên 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;"
(vii) Nợ của khách hàng là tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước công bố đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị phong tỏa vốn và tài sản;
:ợ MấE
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3,4 và 5. Nợ xấu phản ánh khả năng thu hồi vốn khó khăn của các TCTD. Vốn của các TCTD lúc này không còn ở mức độ rủi ro thông thường mà đã trở thành nguy cơ mất vốn. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu được xác định như sau:
4ổ(cid:23)# "ư (cid:23)ợ (cid:28)í(cid:23) "ụ(cid:23)# x 100 (%) (2.12)
Nguồn: GS.TS. Nguyễn Văn Tiến (2013), Giáo trình Tín dụng ngân hàng, trang 130.
Tỷ lệ nợ xấu (%) =
Chỉ tiêu Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu quan trọng thể hiện chất lượng dịch vụ tín dụng của các TCTD. Chỉ tiêu này cho biết trong 100 đồng tổng dư nợ thì có bao nhiêu đồng là nợ xấu. Do đó, tỷ lệ nợ xấu càng cao thể hiện chất lượng tín dụng của các TCTD càng kém và ngược lại.
Tất cả các chỉ tiêu phản ánh các mặt khác nhau của quan hệ tín dụng. Vì vậy, chúng ta không nên thiên lệch coi trọng một chỉ tiêu nào, mà cần phải đánh giá, xem xét chúng một cách nghiêm túc, toàn diện, tổng thể. Để thực hiện điều đó rất cần có sự cố gắng tham gia từ hai đối tượng chính trong quan hệ tín dụng: các TCTD và khách
45
hàng. Chất lượng tín dụng được hình thành và đảm bảo từ hai phía: người cho vay và người đi vay.
2.2. Chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
2.2.1. Chính sách Nhà nước
2.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chính sách Nhà nước
Khái niệm Chính sách Nhà nước
Khái niệm “chính sách” là một khái niệm có thể hiểu ở nhiều góc độ khác nhau:
Tiếp cận dưới góc độ chính trị, theo (Nguyễn Trọng Hòa và Vũ Sỹ Cường, 2014, tr. 10) chúng ta có thể hiểu “Chính sách là tập hợp các biện pháp mà một chủ thể quyền lực đưa ra để định hướng xã hội thực hiện mục tiêu chính trị của chủ thể quyền lực”.
Tiếp cận dưới góc độ tâm lý học, theo (Nguyễn Trọng Hòa và Vũ Sỹ Cường, 2014, tr. 11) “Chính sách là tập hợp biện pháp đối xử ưu đãi đối với một nhóm xã hội, nhằm kích thích động cơ hoạt động của nhóm này hướng theo việc thực hiện một (hoặc một số) mục tiêu của chủ thể quyền lực”.
Tiếp cận dưới góc độ pháp lý, chính sách theo (Nguyễn Trọng Hòa và Vũ Sỹ Cường, 2014, tr. 14) được hiểu là “tập hợp biện pháp được thể chế hóa để phân biệt đối xử giữa các nhóm xã hội, điều chỉnh động cơ hoạt động của các nhóm hướng theo mục tiêu phát triển xã hội”.
Tiếp cận dưới góc độ hệ thống, theo (Nguyễn Trọng Hòa và Vũ Sỹ Cường, 2014, tr. 13) “Chính sách vận hành và tác động vào xã hội theo quy luật của một hệ thống, trong đó có chủ thể chính sách, đối tượng chính sách, sự tác động từ chủ thể, dẫn đến phản ứng xã hội trước chính sách và tương tác giữa chính sách với môi trường xã hội”.
Từ các cách tiếp cận trên, chúng ta có thể rút ra một khái niệm tổng quát nhất về chính sách, đó là: “Chính sách là hệ thống sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm
đạt được một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra”
Xuất phát từ khái niệm chính sách nói chung, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã
đưa ra những khái niệm cụ thể về chính sách Nhà nước, tiêu biểu là:
46
Theo (Jenskin, 1978) “Chính sách Nhà nước là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để đạt các mục tiêu đó.
Theo (Aucoin, 1979) “Chính sách Nhà nước bao gồm các hoạt động thực tế do
Chính phủ tiến hành”.
Theo PGS.TS. Đoàn Thị Thu Hà và PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2007, tr. 25) định nghĩa “Chính sách Nhà nước là tổng thể những quan điểm, tư tưởng, các giải pháp, công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế - xã hội nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước”.
Theo TS. Nguyễn Trọng Hòa và TS. Vũ Sỹ Cường (2014, tr. 18) “Chính sách Nhà nước là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng”.
Đặc điểm của chính sách Nhà nước
Các khái niệm chính sách Nhà nước được đưa ra ở trên đã cho thấy rõ những
đặc trưng của chính sách Nhà nước, đó là:
Thứ nhất, Chủ thể ban hành chính sách là Nhà nước. Nhà nước được hiểu là các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy Nhà nước, bao gồm: Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, chính quyền địa phương các cấp… Chính sách Nhà nước do Nhà nước đề ra và tổ chức thực thi nên luôn phản ánh bản chất của Nhà nước đó.
Thứ hai, Chính sách Nhà nước bao gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Chính sách là một loạt các quyết định hướng vào việc giải quyết một vấn đề chính sách, do một hoặc nhiều cấp khác nhau trong Bộ máy Nhà nước ban hành trong một thời gian dài. Một chính sách có thể được thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tạo căn cứ pháp lý cho việc thực thi.
Thứ ba, Các quyết định chính sách là các quyết định hành động. Chính sách Nhà nước thể hiện ý định của nhà hoạch định chính sách, làm thay đổi hay duy trì một hiện trạng nào đó. Tuy nhiên, nếu chính sách mới chỉ là dự định, dù được ghi thành văn bản thì nó vẫn chưa phải là một chính sách. Chính sách Nhà nước còn phải bao gồm các hành vi thực hiện những dự định nói trên và đem lại những kết quả thực tế.
Thứ tư, Chính sách Nhà nước tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định. Khác với các công cụ quản lý
47
khác của Nhà nước như chiến lược, kế hoạch là những chương trình hành động mang tính tổng quát, bao quát một hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính sách được đề ra và thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề đang đặt ra trong đời sống xã hội hay nói cách khác là gắn với một vấn đề chính sách xuyên suốt.
Thứ năm, Chính sách Nhà nước tác động đến các đối tượng của chính sách. Đối tượng chính sách là những người chịu sự tác động và điều tiết của chính sách. Phạm vi điều tiết của chính sách rộng hay hẹp tùy nội dung của chính sách.
2.2.1.2. Nội dung cơ bản của chính sách Nhà nước và các phương tiện thể hiện chính sách
Thứ sáu, Chính sách Nhà nước được đề ra nhằm phục vụ cho lợi ích chung của quốc gia, của cộng đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn tồn tại tình trạng chính sách đem lại nhiều lợi ích hơn cho nhóm dân cư này so với các nhóm dân cư khác.
Nội dung cơ bản của chính sách Nhà nước
Mỗi một chính sách Nhà nước đều bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Mục tiêu của chính sách
- Quy định của chính sách
- Giải pháp và công cụ thực hiện mục tiêu
Về mục tiêu của chính sách, mỗi một chính sách Nhà nước được xây dựng đều nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định thông qua sự can thiệp của Nhà nước. Mục tiêu chính sách nói chung là mong muốn của nhà hoạch định chính sách về khả năng vận động của một hiện tượng hay quá trình nào đó nhằm đạt được một kết quả nhất định. Mục tiêu của chính sách Nhà nước có thể hiểu là những giá trị hướng tới, phù hợp với yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế xã hội. Những mục tiêu này có thể là mục tiêu chiến lược dài hạn, trung hạn hoặc mục tiêu ngắn hạn; có thể thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, an ninh quốc phòng, đối ngoại... Tuy nhiên, giữa các mục tiêu có thể xuất hiện mâu thuẫn và nguồn lực luôn bị hạn chế, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải luôn xem xét và đánh giá chính xác để lựa chọn được những mục tiêu ưu tiên trong các giai đoạn thực hiện chính sách.
Về quy định của chính sách, mỗi chính sách đều gắn với chủ thể ban hành chính sách, đối tượng của chính sách và các quy định nhằm thực hiện mục tiêu chính sách. Chủ thể của chính sách là những cá nhân, tổ chức tham gia vào quá trình ban hành và quản lý chính sách. Đối với chính sách Nhà nước, chủ thể ban hành chính sách chính là các cơ quan quản lý Nhà nước. Đối tượng chính sách là những cá nhân, tổ chức thực
48
hiện chính sách và chịu ảnh hưởng tác động của chính sách. Quy định nhằm thực hiện mục tiêu chính sách là những quan điểm chỉ đạo hành vi của các chủ thể chính sách trong quá trình hoạch định và tổ chức thực thi chính sách.
Về giải pháp và công cụ thực hiện mục tiêu, trên cơ sở mục tiêu chính sách đã đặt ra, chủ thể ban hành chính sách cần tìm kiếm các biện pháp để đạt được mục tiêu trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể về không gian, thời gian, với các nguồn lực nhất định. Theo mối quan hệ với mục tiêu, có hai nhóm biện pháp chính là biện pháp tác động trực tiếp vào mục tiêu và biện pháp tác động gián tiếp lên mục tiêu nhằm tạo ra những phản ứng có lợi cho việc thực hiện mục tiêu từ những chủ thể kinh tế - xã hội.
- Các giải pháp chính sách là những phương thức hành động của Nhà nước nhằm đạt được mục tiêu chính sách, bao gồm: (i) Cơ chế tác động của Nhà nước đến các đối tượng thực thi chính sách, giúp họ vận động có hệ thống theo một hành lang nhất định, hướng đến thực hiện mục tiêu quản lý; (ii) Các giải pháp cụ thể gắn với sử dụng hệ thống công cụ thực hiện mục tiêu; (iii) Các giải pháp tổ chức thực thi chính sách, giải pháp này thuộc về cơ quan quản lý Nhà nước các cấp để triển khai, phối hợp thực hiện chính sách.
- Về công cụ thực hiện mục tiêu, có các nhóm công cụ cơ bản là: Công cụ hành chính (hệ thống chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước); Công cụ kinh tế (lương, thưởng, thuế, giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái...); Công cụ giáo dục (hệ thống giáo dục, hệ thống thông tin đại chúng...); Các công cụ kỹ thuật, nghiệp vụ đặc trưng cho từng chính sách.
Phương tiện thể hiện chính sách
Chính sách Nhà nước được thể hiện thông qua các văn bản của Nhà nước, gọi chung là văn bản quy phạm pháp luật. Tùy tầm quan trọng của chính sách mà Nhà nước lựa chọn những phương tiện thể hiện chính sách khác nhau:
- Luật: Là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất sau Hiến pháp, do Quốc hội ban hành. Chính sách công bố dưới dạng Luật thể hiện giá trị pháp lý cao và hiệu lực trong thời gian dài.
- Nghị định: Là văn kiện chính sách cấp Chính phủ. Nghị định có chức năng tuyên bố về một chính sách sách của Chính phủ, có giá trị trong toàn xã hội. Nghị định có giá trị pháp lý thấp hơn Luật và không được trái với các quy định của Luật. Nghị định có thể là một văn bản độc lập hoặc một văn bản hướng dẫn thực hiện Luật.
49
- Quyết định: Là tuyên bố của một chủ thể quản lý hướng tới đối tượng quản lý, có thể dưới dạng thành văn hoặc bất thành văn, có giá trị trong toàn hệ thống quản lý.
- Chỉ thị: Là tuyên bố của một chủ thể quản lý hướng tới đối tượng quản lý
thuộc quyền quản lý của mình.
- Nghị quyết: Là thỏa thuận bằng văn bản của một tổ chức về hệ thống biện
pháp chính sách.
- Thông tư: Là văn bản được ban hành bởi các Bộ hoặc liên Bộ nhằm hướng
dẫn thực hiện một Nghị định hoặc Quyết định/ Nghị quyết/ Chỉ thị của Chính phủ.
- Một số phương tiện thể hiện chính sách khác là: xuất bản phẩm, phương tiện
2.2.1.3. Phân loại chính sách Nhà nước
truyền thông… nhẳm phổ cập hiểu biết chính sách cho người dân.
Hệ thống chính sách Nhà nước có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau,
cụ thể là:
Xét theo lĩnh vực tác động, hệ thống chính sách Nhà nước bao gồm:
- Chính sách kinh tế: Là những chính sách điều tiết các mối quan hệ kinh tế nhằm tạo ra động lực phát triển kinh tế. Các chính sách kinh tế được tạo thành bởi một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều chính sách: Chính sách tài chính; Chính sách tiền tệ; Chính sách thương mại; Chính sách cơ cấu kinh tế; Chính sách phát triển các ngành kinh tế... Có thể nói, các chính sách kinh tế đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của đất nước, tạo ra cơ sở để thực hiện thành công các chính sách khác của đời sống xã hội.
- Chính sách xã hội: Là những chính sách điều tiết các mối quan hệ xã hội, làm cho xã hội phát triển theo hướng công bằng, văn minh. Các chính sách xã hội cơ bản bao gồm: Chính sách lao động và việc làm; Chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; Chính sách bảo đảm xã hội; Chính sách bảo vệ sức khỏe toàn dân; Chính sách xóa đói giảm nghèo; Chính sách bảo vệ môi trường... Mỗi Nhà nước đều rất coi trọng chính sách xã hội vì xét cho cùng sự phát triển kinh tế là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người.
- Chính sách văn hóa: Là những chính sách nhằm phát triển nền văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực phát triển xã hội. Các chính sách văn hóa cơ bản bao gồm: Chính sách giáo dục và đào tạo; Chính sách phát triển khoa học
50
công nghệ; Chính sách văn hóa thông tin; Chính sách bảo tồn và phát huy di sản và truyền thống văn hóa dân tộc....
- Chính sách đối ngoại: Là những chính sách điều tiết các mối quan hệ đối ngoại của một quốc gia với các quốc gia khác trên thế giới. Bộ phận chính sách này ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với mỗi quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay.
- Chính sách an ninh, quốc phòng: Là những chính sách hướng vào việc tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo điều kiện cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Xét theo thời gian thực hiện chính sách, chính sách Nhà nước bao gồm:
- Chính sách dài hạn: Là những chính sách được áp dụng lâu dài nhằm thực
hiện các mục tiêu chiến lược, dài hạn của đất nước (5 năm trở lên).
- Chính sách trung hạn: Là những chính sách có thời gian hiệu lực từ 3-5 năm, tập trung giải quyết những vấn đề có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội, song có thể giải quyết trong thời gian nhất định.
- Chính sách ngắn hạn: Là những chính sách có thời gian thực hiện dưới 3 năm
nhằm giải quyết các vấn đề có thể giải quyết nhanh chóng.
Xét theo cấp độ ban hành chính sách, hệ thống chính sách bao gồm:
- Chính sách do chính quyền Trung ương ban hành: gồm chính sách do Quốc hội, Chính phủ, liên Bộ và các Bộ ngành ban hành. Những chính sách này có tác dụng điều chỉnh những mối quan hệ phát sinh trên phạm vi quốc gia, ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều địa phương, nhiều nhóm dân cư khác nhau trong xã hội.
- Chính sách do địa phương ban hành: là những chính sách do các cấp chính quyền địa phương đề ra, nhằm giải quyết những vấn đề phát sinh trong phạm vi địa phương đó. Chính sách do địa phương ban hành không được trái với pháp luật và chính sách của Trung ương.
Xét theo quy mô tác động, có chính sách vĩ mô và chính sách vi mô:
- Chính sách vĩ mô: là những chính sách giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội lớn của quốc gia, tác động đến những cân đối vĩ mô của nền kinh tế, chi phối nhiều lĩnh vực, có ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia và lợi ích của đông đảo nhân dân.
- Chính sách vi mô: là những chính sách nhằm giải quyết các vấn đề liên quan
đến hoạt động và lợi ích của các tổ chức hoặc một nhóm dân cư riêng biệt trong xã hội.
51
Nhìn chung, từ việc phân loại các loại hình chính sách Nhà nước, ta có thể rút
ra một số vấn đề:
Thứ nhất, hệ thống chính sách Nhà nước rất phong phú và đa dạng, song mỗi chính sách đều có mối liên hệ với các chính sách khác và đều có ảnh hưởng nhất định đến mục tiêu của các chính sách khác và mục tiêu chung của toàn xã hội. Do đó, hệ thống chính sách Nhà nước cần phải tạo thành một chỉnh thể thống nhất, hướng tới một mục tiêu chung và xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh và phát triển bền vững.
Thứ hai, tất cả chính sách đều mang tính lịch sử. Mỗi chính sách đều chỉ áp dụng hiệu quả trong những bối cảnh, thời gian nhất định. Do đó, hệ thống chính sách cần thường xuyên được đánh giá, nhìn nhận lại và điều chỉnh để đáp ứng tốt với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.2.2. Khái niệm và nội dung của chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
2.2.2.1. Khái niệm chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
Từ khái niệm chính sách Nhà nước và khái niệm phát triển dịch vụ tín dụng đã được làm rõ ở trên, ta có thể đưa ra khái niệm: “Chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng là tổng thể những quan điểm, tư tưởng, các giải pháp, công cụ mà các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực tín dụng sử dụng để tác động lên các chủ thể cung cấp dịch vụ tín dụng và chủ thể sử dụng dịch vụ tín dụng nhằm đạt được sự tăng tiến về mọi mặt của dịch vụ tín dụng, bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản phẩm dịch vụ và sự tiến bộ về cơ cấu và chất lượng của sản phẩm dịch vụ, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu về tín dụng của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của hệ thống TCTD”.
Nhìn chung, chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng là loại hình
chính sách vĩ mô, tác động đến những cân đối vĩ mô của nền kinh tế, chi phối nhiều lĩnh
vực, có ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia và lợi ích của đông đảo nhân dân. Chính sách
này là một bộ phận của hệ thống chính sách kinh tế của một quốc gia, nhằm điều tiết các
mối quan hệ kinh tế và tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Do đó,
căn cứ chủ yếu để Nhà nước định ra chính sách về phát triển dịch vụ tín dụng là chính
sách chung, nhiệm vụ chung phát triển kinh tế quốc dân trong các thời kỳ lịch sử và
yêu cầu của chính sách tiền tệ Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Quá trình hoạch định
chính sách phát triển tín dụng phải đưa vào mục tiêu chung của nền kinh tế cần đạt
tới, đường lối và chiến lược phát triển kinh tế trong mỗi giai đoạn, chính sách phát
52
triển kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, chính sách phát triển các ngành nghề kinh tế
quốc dân…
Trong hệ thống chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng bao gồm cả
chính sách ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Các chính sách ngắn hạn như chính sách ổn
định tỷ giá hối đoái, chính sách kiểm soát an toàn tín dụng đối với các ngân hàng
thương mại, chính sách về lãi suất… Các chính sách trung và dài hạn bao gồm khuôn
khổ pháp lý để lĩnh vực tài chính – tiền tệ nói chung và hoạt động kinh doanh dịch vụ
tín dụng nói riêng được hình thành và phát triển hiệu quả; định hướng chiến lược, kế
2.2.2.2. Nội dung của chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
hoạch phát triển lĩnh vực tài chính – tiền tệ…
Nhằm đạt được mục tiêu phát triển dịch vụ tín dụng, chính sách Nhà nước về
phát triển dịch vụ tín dụng cần hướng đến các nội dung:
- Phát triển về chủ thể cung ứng dịch vụ tín dụng (tập trung vào các tổ chức tín dụng): Là sự gia tăng về số lượng và chất lượng của các TCTD trên thị trường. Chất lượng của các TCTD có thể được nhìn nhận qua kết quả, hiệu quả hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các TCTD đó trên thị trường. Chính sách Nhà nước đối với chủ thể cung ứng dịch vụ tín dụng cần định hướng tốt cho sự phát triển của lĩnh vực tài chính nói chung và hoạt động cung ứng dịch vụ tín dụng nói riêng; Tạo môi trường và hành lang pháp lý thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của các TCTD; Mặt khác kiểm tra, giám sát tốt để đảm bảo an toàn tín dụng trong nền kinh tế.
- Phát triển về chủ thể sử dụng dịch vụ tín dụng: Là sự gia tăng nhu cầu sử dụng vốn của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế, nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung. Chính sách Nhà nước đối với chủ thể sử dụng dịch vụ tín dụng cần tác động hiệu quả đến việc hình thành nhu cầu, khả năng vay vốn và đưa đến hành vi vay vốn để đầu tư, tiêu dùng của tổ chức, cá nhân trong xã hội.
- Phát triển về sản phẩm dịch vụ tín dụng: Sự phát triển về sản phẩm dịch vụ tín dụng bao gồm cả sự phát triển theo chiều rộng và chiều sâu. Sự phát triển theo chiều rộng là sự gia tăng về quy mô dịch vụ tín dụng được cung ứng và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ tín dụng tiên tiến, đem lại sự thỏa mãn và tiện lợi cho khách hàng. Sự phát triển theo chiều sâu được thể hiện bởi sự tiến bộ về cơ cấu dịch vụ tín dụng và sự gia tăng chất lượng sản phẩm dịch vụ tín dụng.
53
2.2.2.3. Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
Về cơ bản, việc ban hành và thực thi hệ thống chính sách Nhà nước nhằm phát triển thị trường tài chính nói chung và phát triển dịch vụ tín dụng nói riêng được thực hiện bởi nhiều cơ quan quản lý Nhà nước (Hình 2.1).
Quốc hội, Chínhph ủ
Đưa ra luật pháp và chiến lược phát triển
Đưa ra chính sách phát triển
Bộ
Ngân hàng Nhà nước
BộTài chính
Bộ Lao động và an sinh
Công thương
Các bộ phận khác
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Có khả năng cho vay tín dụng và thu nợ
Đưa ra chính sách phát triển
Doanh nghiệp, cá nhân
Ngân hàng Thương mại
Có khả năng vay vốn tín dụng và trả nợ
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Hình 2.2: Hệ thống cơ quan Nhà nước ban hành chính sách về phát triển dịch vụ tín dụng
Quốc hội là cơ quan lập pháp của một quốc gia, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Quốc hội cũng là cơ quan quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia. Với những nhiệm vụ quyền hạn đó, Quốc hội đóng vai trò chủ chốt trong việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật, tạo lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của mọi lĩnh vực trong nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tín dụng nói riêng.
Chính phủ là một chủ thể có quyền lực để thi hành luật pháp trong một quốc gia. Những nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản của Chính phủ bao gồm: (i) Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
54
thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; (ii) Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền; (iii) Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Nhằm thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực tín dụng, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập một môi trường kinh tế và pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của các TCTD cũng như mọi loại hình doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy hoạt động đầu tư trong nền kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước là một định chế công cộng, có nhiệm vụ in tiền giấy và phát hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng và của Chính phủ. Là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia, ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ, trong đó có quản lý dịch vụ tín dụng, thông qua việc sử dụng hệ thống công cụ: hạn mức tín dụng; lãi suất; dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ giá hối đoái… Mục đích hoạt động của Ngân hàng Nhà nước là ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm sự an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế xã hội.
Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tài chính (bao gồm: ngân sách Nhà nước, thuế, phí, lệ phí và thu khác của ngân sách Nhà nước, dự trữ Nhà nước, tài sản Nhà nước, các quỹ tài chính Nhà nước, đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp, tài chính hợp tác xã và kinh tế tập thể); hải quan; kế toán; kiểm toán độc lập; giá; chứng khoán; bảo hiểm; hoạt động dịch vụ tài chính và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý Nhà nước của Bộ. Đối với hệ thống TCTD, Bộ Tài chính đóng vai trò ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tài chính nói chung và tín dụng nói riêng; Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tài chính của các TCTD; Thực hiện kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động dịch vụ tài chính nói chung và dịch vụ tín dụng nói riêng, qua đó đảm bảo sự phát triển hiệu quả và an toàn của các TCTD. Nhằm gia tăng nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế, Bộ Tài chính có thể có những biện pháp đẩy mạnh phát triển đồng bộ các loại thị trường để động viên nguồn lực trong và ngoài nước; đồng thời có chính sách điều hòa hiệu quả mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa tiết kiệm và đầu tư.
Bộ Công Thương là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp và thương mại. Bộ Công Thương đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng, thuận lợi cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại, những lĩnh vực kinh tế đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân; đồng thời trong đó cũng có lĩnh vực dịch vụ tài
55
chính nói chung và dịch vụ tín dụng nói riêng. Mặt khác, Bộ cũng có thể đưa ra những chính sách hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong nền kinh tế, qua đó thúc đẩy sự gia tăng nhu cầu về vốn tín dụng trong nền kinh tế.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan của Chính phủ, thực hiện việc
quản lý các lĩnh vực lao động và phúc lợi xã hội trên toàn quốc. Trong mỗi giai đoạn,
mỗi thời kỳ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đưa ra những chính sách phù hợp
với định hướng chung của Nhà nước. Các chính sách đó sẽ tác động ít nhiều đến việc
xây dựng chính sách tín dụng vì việc những quy định về tín dụng cũng phải phù hợp,
hỗ trợ với định hướng và mục tiêu của những chính sách mà Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội đưa ra.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về kế hoạch, đầu tư phát triển và thống kê. Vai trò của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư trong việc thúc đẩy sự phát triển dịch vụ tín dụng trong nền kinh tế được biểu hiện
một cách gián tiếp thông qua việc thúc đẩy hoạt động đầu tư trong nền kinh tế. Bộ Kế
hoạch và Đầu tư có những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng bao gồm: (i) Làm đầu mối
giúp Chính phủ quản lý đối với hoạt động đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp của
nước ngoài, đầu tư trong nước ra nước ngoài; tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư, hướng
dẫn thủ tục đầu tư; (ii) Thực hiện việc đăng ký hoặc thẩm tra, cấp giấy chứng nhận đầu
tư ra nước ngoài và chủ trì thẩm tra, cấp giấy chứng nhận đầu tư các dự án đầu tư theo
hình thức BOT, BTO, BT; (iii) Hướng dẫn, theo dõi, thanh tra, kiểm tra hoạt động đầu
tư; đánh giá kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài; kiểm tra, giám sát, đánh giá tổng thể hoạt động đầu tư công. 2.2.3. Hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng 2.2.3.1. Quan niệm về hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng “Hoàn thiện” trong nghĩa của từ điển có nghĩa là“làm cho điều gì đó trở nên
đầy đủ hơn, trọn vẹn và tốt đẹp hơn”.Từ khái niệm “hoàn thiện” và khái niệm “Chính
sách Nhà nước về phát triển tín dụng” đã nêu ở phần trước ta có thể quan niệm rằng:
Hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng là việc cải cách hệ
thống các quan điểm, nguyên tắc, công cụ và biện pháp của Nhà nước về phát triển
hoạt động dịch vụ tín dụng trở nên đầy đủ hơn, hiệu quả hơn trong từng thời kỳ nhất
định để đạt được mục tiêu của Nhà nước.
Tuy nhiên, việc hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
có thể hiểu theo nghĩa rộng hơn là một quá trình cải thiện công tác quản lý Nhà nước
56
về phát triển dịch vụ tín dụng bao gồm cả việc thêm vào những quy định mới phù hợp
hoặc loại bỏ những quy định không phù hợp trong việc phát triển dịch vụ tín dụng. 2.2.3.2. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
Dịch vụ tín dụng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Để dịch vụ tín dụng phục vụ có hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế, hạn chế những tiêu cực nảy sinh, cần thiết có sự định hướng và tác động của Nhà Nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước không đúng lại có thể tác động tiêu cực tới phát triển của dịch vụ tín dụng và tạo ra các tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế. Chính vì thế, đánh giá mức độ hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ tín dụng của nhà nước là một trong những nội dung quan trọng. Các nội dung đánh giá cần được xem xét trong mối liên hệ về kết quả đạt được với các mục tiêu, chức năng và nội dung chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng, cũng như xem xét những tác động, rút ra những bài học trong quá trình thực hiện chính sách. Trong đó, các mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng dịch vụ tín dụng một cách hiệu quả, an toàn, bền vững, đúng định hướng, đúng pháp luật, đảm bảo công bằng, minh bạch, hài hòa các lợi ích phải gắn liền với thực hiện các chức năng và thực hiện đầy đủ các nội dung chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng.
Từ các mối liên hệ trên và vận dụng các tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước của Ngân hàng phát triển Châu Á là các tiêu chí về hiệu lực, hiệu quả, sự công bằng, sự duy trì một cách bền vững và phù hợp, trong bài Luận án này, tác giả tổng hợp các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng bao gồm: Tiêu chí hiệu lực, tiêu chí hiệu quả, tiêu chí phù hợp, tiêu chí công bằng và tiêu chí bền vững, tiêu chí kịp thời.
Hệ thống các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát
triển dịch vụ tín dụng bao gồm: Tiêu chí hiệu lực “Hiệu lực quản lý Nhà nước là một phạm trù xã hội chỉ mức độ pháp luật được tuân thủ và mức độ hiện thực quyền lực chỉ huy và phục tùng trong mối quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý trong những điều kiện lịch sử nhất định”. Do vậy, hiệu lực chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng chỉ mức độ tuân thủ pháp luật, chấp hành mọi chỉ đạo từ các cơ quan quản lý Nhà nước của các TCTD và khách hàng; đồng thời, biểu hiện mức độ hiện thực quyền lực Nhà nước của các cơ quan quản lý Nhà nước và uy tín của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với các TCTD và khách hàng trong chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng.
Đánh giá hiệu lực chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng qua mức độ tuân thủ các quy định pháp luật: Xem xét mức độ tuân thủ về đối tượng cấp tín dụng, nguyên tắc, điều kiện và quy trình cấp tín dụng, loại và phương thức cấp tín dụng, giới
57
hạn cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng, lãi suất tín dụng, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia, phân loại và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, xử lý rủi ro tín dụng và các quy định pháp luật có liên quan đến quá trình phát triển dịch vụ tín dụng. Đồng thời đánh giá việc tuân thủ các mức quy định theo các tiêu chí, chỉ tiêu chính yếu đối với quá trình điều tiết, kiểm tra, giám sát quá trình phát triển dịch vụ tín dụng.
Đánh giá hiệu lực chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng qua mức độ hiện thực quyền lực Nhà nước: Đánh giá mức độ thực hiện việc tổ chức xây dựng và triển khai định hướng chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng; mức độ ban hành pháp luật đầy đủ, đồng bộ, kịp thời để tạo điều kiện pháp lý cho phát triển đa dạng các hình thức cấp tín dụng, các loại và phương thức cấp tín dụng; mức độ điều tiết, can thiệp của Nhà nước, can thiệp quá mức hay thiếu sự điều tiết phù hợp trong quá trình phát triển dịch vụ tín dụng, mức độ thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát có thường xuyên hay buông lỏng trong quá trình phát triển dịch vụ tín dụng.
Tiêu chí hiệu quả Hiệu quả là chỉ tiêu phản ánh trình độ khai thác các yếu tố đầu vào để tạo ra kết quả hoạt động tối đa với chi phí hoạt động tối thiểu, hoặc là chỉ tiêu phản ánh năng suất hoạt động, hiệu suất sử dụng các chi phí đầu vào. Do vậy, có thể hiểu hiệu quả chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng phản ánh kết quả hoạt động quản lý Nhà nước với mức tối đa và chi phí quản lý Nhà nước, điều hành chính sách ở mức tối thiểu. Hiệu quả chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng được đánh giá bằng mức độ đạt được của nội dung chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng so với các mục tiêu chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng đã đặt ra. Kết quả của hoạt động định hướng, ban hành pháp luật, điều tiết và kiểm tra, thanh tra, giám sát của Nhà nước so với các mục tiêu chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng. Hoạt động định hướng có hiệu quả khi đề ra các giải pháp phát triển dịch vụ tín dụng đảm bảo an toàn, hiệu quả kinh doanh của các TCTD và tạo cơ hội cho mọi tổ chức, cá nhân tiếp cận đa dạng các hình thức cấp tín dụng, các loại và phương thức cấp tín dụng. Trong công tác xây dựng, ban hành các quy định pháp luật, tạo khung pháp lý ổn định lâu dài, ít điều chỉnh, bổ sung, đảm bảo công khai, minh bạch thông tin pháp luật cho các TCTD và khách hàng thực hiện tốt các quy định trong quá trình triển khai các hình thức cấp tín dụng, các loại và phương thức cấp tín dụng, góp phần gia tăng hiệu quả chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng.
Hoạt động điều hành của Nhà nước tạo thuận lợi cho các TCTD phát triển lâu dài các hình thức cấp tín dụng, các loại và phương thức cấp tín dụng; bảo vệ lợi ích cho các TCTD và khách hàng qua điều tiết, can thiệp phù hợp với tình hình thực tế, giúp cho việc mở rộng các hình thức cấp tín dụng, các loại và phương thức ít bị ảnh hưởng và đảm bảo cho quá trình phát triển dịch vụ tín dụng được an toàn. Đối với hoạt
58
động kiểm tra, thanh tra, giám sát, ngoài việc xử lý nghiêm, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật còn tiến hành phân tích, đánh giá, tìm ra những hạn chế trong công tác định hướng, ban hành pháp luật và điều hành của Nhà nước để hiệu chỉnh kịp thời, tạo điều kiện cho quá trình phát triển dịch vụ tín dụng được ổn định lâu dài, bảo vệ lợi ích và giảm thiểu tác động cho các TCTD, khách hàng và nền kinh tế.
Vận dụng các nguyên tắc cốt lõi cho giám sát ngân hàng có hiệu quả của Ủy ban Basel1 về giám sát ngân hàng công bố phiên bản cuối cùng của Basel I trong tháng 9 năm 2012, tác giả xây dựng các tiêu chí, chỉ tiêu chính đối với quá trình điều tiết, kiểm tra, giám sát quá trình đa dạng hóa dịch vụ tín dụng.
Bảng 2.1: Tiêu chí/chỉ tiêu điều hành, kiểm tra, giám sát quá trình phát triển dịch vụ tín dụng dựa vào các nguyên tắc của Basel I
Tiêu chí/ Chỉ tiêu 1-Tỷ lệ an toàn vốn: Vốn ngân hàng/ Tài sản có điều chỉnh rủi ro (Nguyên tắc 16-An toàn vốn)
2-Hạn mức tín dụng. 3-Tỷ lệ cấp tín dụng tối đa đối với từng hình thức cấp tín dụng (Nguyên tắc 17-Rủi ro tín dụng)
Mục đích Đưa ra các quy định về an toàn vốn tối thiểu phù hợp, quy định rõ thành phần của vốn để phản ánh được những rủi ro mà ngân hàng gặp phải trong quá trình đa dạng hóa HĐTD. Kiểm soát quy mô đa dạng hóa HĐTD qua các chỉ tiêu hạn mức tín dụng và tỷ lệ cấp tín dụng tối đa đối với từng hình thức cấp tín dụng, đảm bảo chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng trong quá trình đa dạng hóa HĐTD.
Giám sát các khoản cấp tín dụng lớn trong quá trình đa dạng hóa HĐTD, hạn chế việc tập trung cấp tín dụng một KH Giám sát, hạn chế các NHTMCP tập trung cấp tín dụng một KH hoặc nhóm các KH có liên quan Cơ quan QLNN giám sát khả năng chi, đảm bảo cho các NHTMCP sẵn sàng ứng phó với các vấn đề về thanh khoản có thể phát sinh bất ngờ.
4-Tỷ lệ cấp tín dụng đối với một KH (Nguyên tắc 19-Giới hạn các giao dịch lớn). 5-Tỷ lệ cấp tín dụng đối với một KH có liên quan (Nguyên tắc 20-Giao dịch với các bên liên quan) 6-Tỷ lệ cho vay/vốn huy động. 7- Tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn (Nguyên tắc 24-Rủi ro thanh khoản)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
1Basel là vòng thảo luận của ngân hàng trung ương trên khắp thế giới.
8-Công khai và minh bạch trong quá trình đa dạng hóa HĐTD (Nguyên tắc 28-Công khai và minh bạch) Cơ quan QLNN quy định các NHTMCP phải công khai minh bạch thông tin trong quá trình đa dạng hóa HĐTD.
59
Tiêu chí phù hợp
Tiêu chí phù hợp trong chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng bao gồm: Sự phù hợp của các mục tiêu định hướng; các quy định của pháp luật có nội dung bên trong phù hợp nhau, phù hợp trong quy định pháp luật giữa các hình thức cấp tín dụng, sự phù hợp giữa luật với các văn bản hướng dẫn thực hiện các hình thức cấp tín dụng, sự phù hợp giữa các quy định đối với từng hình thức cấp tín dụng với các quy định pháp luật khác, sự phù hợp giữa các quy định đối với các hình thức cấp tín dụng với thực tế; phù hợp về nội dung, phương pháp điều hành; sự phù hợp về nội dung, phương thức, hình thức, kiểm tra, thanh tra, giám sát quá trình phát triển dịch vụ tín dụng.
Sự phù hợp của các mục tiêu định hướng: Tiêu chí này được thực hiện bằng cách xem xét sự phù hợp giữa các mục tiêu định hướng so với kết quả phát triển thêm các hình thức cấp tín dụng, các loại và phương thức cấp tín dụng cũng như sự phù hợp giữa các mục tiêu định hướng phát triển dịch vụ tín dụng so với việc ban hành pháp luật, điều tiết của Nhà nước và hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát.
Sự phù hợp các nội dung bên trong của các quy định pháp luật: Quy định của pháp luật đối với từng hình thức cấp tín dụng có nội dung bên trong phù hợp với nhau giữa các nội dung bao gồm: Đối tượng cấp tín dụng, nguyên tắc tín dụng, điều kiện tín dụng, loại hình, phương thức cấp tín dụng, giới hạn cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng, lãi suất tín dụng, quyền và nghĩa vụ cả khách hàng quyền và nghĩa vụ của TCTD, đảm bảo nợ tín dụng, kiểm tra, giám sát quá trình cấp tín dụng, phân loại và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, xử lý rủi ro tín dụng. Các nội dung phù hợp, đảm bảo sự thống nhất, nhất quán giữa các nội dung; các nội dung không mâu thuẫn, triệt tiêu nhau để có thể triển khai phát triển thêm hình thức cấp tín dụng, các loại và phương thức cấp tín dụng.
Sự phù hợp trong quy định pháp luật giữa các hình thức cấp tín dụng: Sự phù hợp này cần đảm bảo không mâu thuẫn, triệt tiêu mà tác động tích cực lẫn nhau, tạo ra những gói cấp tín dụng cho khách hàng với nhiều hình thức cấp tín dụng đa dạng, tạo điều kiện phát triển các hình thức cấp tín dụng của các TCTD. Sự phù hợp giữa Luật với các văn bản hướng dẫn thực hiện các hình thức cấp tín dụng, được thể hiện qua sự nhất quán giữa các văn bản hướng dẫn thực hiện hình thức cấp tín dụng phù hợp với các luật đã ban hành.
Sự phù hợp giữa các quy định đối với từng hình thức cấp tín dụng với các quy định pháp luật khác: Được đánh giá qua mức độ phù hợp, đồng bộ, đầy đủ, kịp thời của hệ thống các quy định pháp luật có liên quan như pháp luật về đăng ký kinh doanh, đất
60
đai, đầu tư và các chính sách như chính sách hỗ trợ lãi suất, chính sách kích cầu đầu tư, chính sách hỗ trợ phát triển một số ngành, lĩnh vực, chính sách thuế...
Sự phù hợp giữa các quy định pháp luật đối với các hình thức cấp tín dụng so với thực tế: Các quy định pháp luật về phát triển dịch vụ tín dụng phải phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; quy định được cụ thể, rõ ràng, tương thích với khu vực cũng như trên thế giới nhất là những quy định trong quá trình thực hiện những cam kết hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng, trong đó bao gồm cam kết thực hiện lộ trình mở cửa dịch vụ tín dụng. Đồng thời, đảm bảo sự phù hợp về năng lực tài chính, khả năng quản trị, mức độ đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực...của các TCTD.
Sự phù hợp về nội dung, phương pháp điều hành: chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng cần khuyến khích các TCTD thực hiện bằng phương pháp kinh tế, phương pháp hành chính và kết hợp các phương pháp này trong quá trình thực hiện chính sách; việc điều tiết theo hướng thu hẹp các hình thức cấp tín dụng, loại hình, phương thức trong từng hình thức cấp tín dụng, cần khuyến khích các TCTD thực hiện bằng phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục, phương pháp hành chính và kết hợp các phương pháp này trong quá trình thực thi chính sách.
Trong hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát trong quá trình phát triển hoạt động tín dụng, cần vận dụng phù hợp giữa nội dung và phương thức thanh tra, giám sát; Thực hiện hoạt động giám sát từ xa, hoạt động thanh tra tại chỗ phù hợp với từng nội dung thanh tra, giám sát đối với quá trình phát triển dịch vụ tín dụng theo nguyên tắc kết hợp thanh tra tuân thủ với thanh tra trên cơ sở rủi ro đối với các hình thức cấp tín dụng, các loại và phương thức trong từng hình thức cấp tín dụng.
Tiêu chí công bằng
Tiêu chí công bằng trong chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng đòi hỏi sự cân đối về quyền và nghĩa vụ giữa các TCTD và khách hàng trong tiếp cận và phát triển các hình thức, loại và phương thức cấp tín dụng. Mọi hoạt động cấp tín dụng của các TCTD và tiếp cận đa dạng các hình thức, loại và phương thức cấp tín dụng phải bảo đảm công bằng, cân xứng về giá trị. Việc đảm bảo công bằng, lợi ích cho các TCTD, khách hàng và lợi ích chung của nền kinh tế là yếu tố quan trọng thúc đẩy các TCTD triển khai phát triển dịch vụ tín dụng, thể hiện qua việc ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn các TCTD và khách hàng khai thác được những lợi thế nghiệp vụ, hướng dẫn về đối tượng, nguyên tắc, quy định về lãi suất, điều kiện cấp tín dụng, an toàn tín dụng, quyền hạn và nghĩa vụ của TCTD và khách hàng, giúp cho khách hành có
61
được sự tiện ích, chi phí sử dụng vốn tín dụng phù hợp và giúp TCTD hạn chế rủi ro, phân tán được rủi ro... Bên cạnh đó, cơ quan quản lý Nhà nước cần hướng dẫn các TCTD triển khai phát triển dịch vụ tín dụng phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội bền vững, phục vụ cho các ngành, lĩnh vực kinh tế, phục vụ cho nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống và ổn định xã hội.
Tiêu chí bền vững
Tiêu chí bền vững trong chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng được biểu hiện qua sự ổn định về định hướng, ổn định về pháp lý và đảm bảo hài hòa lợi ích cho các TCTD, khách hàng và lợi ích chung cho phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước ban hành pháp luật liên quan đến triển khai từng hình thức cấp tín dụng, từng loại hình và phương thức cấp tín dụng phải được cụ thể, rõ ràng, ít điều chỉnh, bổ sung, đầy đủ nội dung cần thiết để đảm bảo cho các TCTD triển khai nghiệp vụ dễ dàng, đảm bảo cho quy trình thực hiện từng hình thức, từng loại hình, phương thức cấp tín dụng được ổn định lâu dài, đảm bảo cho việc thực thi pháp luật của các TCTD và khách hàng.
Tiêu chí kịp thời
2.2.3.3. Điều kiện hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng
Tiêu chí kịp thời trong chính sách điều tiết nền kinh tế nói chung và chính sách về phát triển dịch vụ tín dụng nói riêng được biểu hiện qua sự đúng lúc, không để chậm trễ trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn chi tiết Luật, Nghị định; và tính kịp thời, đầy đủ trong thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền. Có những trường hợp Luật được ban hành nhưng không có văn bản hướng dẫn kịp thời với hiệu lực của luật, dẫn đến nợ đọng văn bản hướng dẫn, gây khó khăn cho việc áp dụng luật của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc xử lý theo pháp luật những hành vi vi phạm nếu không đảm bảo tính kịp thời có thể để xảy ra những hậu quả khó lường.
Các điều kiện chủ quan
• Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước
Bộ máy quản lý Nhà nước là một hệ thống bao gồm các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương tạo thành một hệ thống đồng bộ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Để có một nền kinh tế vận động và phát triển bền vững, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung và hệ thống tổ
62
chức tín dụng nói riêng, đòi hỏi phải có bộ máy quản lý Nhà nước có đủ năng lực để xây dựng được một hệ thống pháp luật đáp ứng các yêu cầu của thị trường; đồng thời tổ chức thực thi luật pháp vì lợi ích của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, vì lợi ích của tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong một môi trường cạnh tranh, công bằng và minh bạch. Đặc biệt, trong hoạt động tư pháp, các cơ quan quản lý Nhà nước phải xử lý đúng đắn các xung đột, tranh chấp kinh tế theo đúng quy định pháp luật một cách dân chủ, khách quan, đảm bảo thị trường luôn ổn định, công bằng và có trật tự, bảo vệ được các lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh mỗi quốc gia đều đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, bộ máy quản lý Nhà nước của mỗi quốc gia đều cần phải được tổ chức hiệu quả để đảm bảo đủ năng lực vừa tuân thủ các cam kết quốc tế, vừa vận dụng sáng tạo các cam kết này trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật để đảm bảo lợi ích quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo điều kiện và hỗ trợ các doanh nghiệp trong công cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Cụ thể, bộ máy quản lý Nhà nước của mỗi quốc gia đều có trách nhiệm to lớn trong việc tạo cơ chế pháp lý và sự hỗ trợ chính sách cần thiết, nghiên cứu, dự báo, hướng dẫn các doanh nghiệp nói chung và các TCTD nói riêng tham gia vào quá trình tái cơ cấu nền kinh tế đất nước, tranh thủ được các cơ hội do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại.
• Quy trình hoạch định, ban hành và thực thi chính sách
Chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để điều hành nền kinh tế đất nước nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra. Ngoài ra, chính sách công cũng có thể hiểu là những quy định về sự ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng. Đối với lĩnh vực tín dụng, chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng được hiểu là tập hợp các quy định, chính sách của các cơ quan chức năng, các bộ ngành có liên quan trong việc phát triển dịch vụ tín dụng. Để chính sách công nói chung và chính sách Nhà nước về phát triển tín dụng nói riêng phát huy được vai trò của mình, yêu cầu về việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hệ thống chính sách luôn phải được đặt ra trong cả ba quy trình: hoạch định, ban hành và thực thi chính sách.
- Hoạch định chính sách là bước khởi đầu quan trọng trong chu trình chính sách. Quá trình hoạch định chính sách đúng đắn, khoa học sẽ tạo ra những chính sách hợp lý, đúng đắn, là tiền đề để chính sách đó đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, quá trình hoạch định sai lầm sẽ cho ra đời những chính sách không
63
phù hợp với thực tế, thiếu tính khả thi, từ đó mang lại những hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lý. Trong hoạch định chính sách, sự tham gia đề xuất ý tưởng của các đối tượng bị ảnh hưởng bởi chính sách là rất cần thiết để hạn chế tình trạng chính sách mang tính cục bộ, đề xuất dựa trên mong muốn, lợi ích riêng của các ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân mà không tính tới tổng thể chung, dẫn đến tính khả thi của chính sách thấp và hiệu quả bị hạn chế. Ngoài ra, trong hoạch định chính sách, việc dự báo chính sách cũng rất quan trọng để đảm bảo sự ổn định và chủ động của chính sách trong thời gian dài. Dự báo chính sách cần phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn.
- Việc ban hành chính sách liên quan đến thời gian chính sách được đi vào thực
thi, kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
- Vấn đề thực thi chính sách nếu không đảm bảo xử lý nghiêm khắc những vi phạm một cách công tâm, khách quan sẽ làm giảm hiệu quả răn đe của pháp luật và không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng bởi những hành vi vi phạm.
• Nội dung chính sách
Mỗi chính sách Nhà nước bao gồm những nội dung cơ bản: Mục tiêu của chính
sách; Hệ thống quy định của chính sách; Giải pháp và công cụ thực hiện mục tiêu.
Mục tiêu của chính sách sẽ đảm bảo tính hướng đích của chính sách, giúp đạt được những kết quả đã đặt ra. Mục tiêu chính sách nếu được trình bày không rõ ràng, chưa đầy đủ, thiếu sự gắn kết với toàn bộ hệ thống chính sách sẽ dẫn đến sự tùy tiện trong việc vận dụng chính sách vào thực tế; tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất trong quản lý vĩ mô của Nhà nước; và kết quả đạt được từ việc thực thi chính sách bị hạn chế.
Hệ thống quy định của chính sách cùng với hệ thống giải pháp, công cụ thực hiện mục tiêu chính sách là những nội dung quan trọng trong mỗi văn bản chính sách Nhà nước, qua đó thể hiện tính phù hợp, bền vững, công bằng của chính sách Nhà nước. Để nâng cao hiệu quả của chính sách Nhà nước, các nội dung này cần đảm bảo các yêu cầu: (i) Được trình bày ngắn gọn, cô đọng, thể hiện đúng bản chất của chính sách, đảm bảo người thực hiện dễ dàng vận dụng; (ii) Phải luôn gắn chặt với mục tiêu chính sách; (iii) Phải phù hợp với điều kiện thực tế, đồng thời linh hoạt thích ứng với cơ chế vận hành nền kinh tế trong từng giai đoạn.
64
• Công cụ chính sách
Các công cụ chính sách trong điều tiết lĩnh vực tài chính nói chung và lĩnh vực
tín dụng nói riêng của các cơ quan quản lý Nhà nước, bao gồm:
- Công cụ hành chính: hệ thống chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước... nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý chung cho hoạt động của lĩnh vực tài chính nói chung và lĩnh vực tín dụng nói riêng.
- Công cụ kinh tế: Quy định về thuế đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế
nói chung và các tổ chức tín dụng nói riêng.
- Công cụ giáo dục: hệ thống giáo dục và các quy định liên quan đến lĩnh vực giáo dục nhằm tác động tới số lượng và chất lượng nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung và các tổ chức tín dụng nói riêng; Hệ thống thông tin đại chúng nhằm định hướng hành vi của các tổ chức, cá nhân trong xã hội theo định hướng mục tiêu của chính sách.
- Công cụ của chính sách tiền tệ:
Để quản lý hệ thống ngân hàng trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, Ngân hàng Nhà nước có thể thực thi hai loại chính sách tiền tệ bao gồm: chính sách nới lỏng tiền tệ và chính sách thắt chặt tiền tệ. Chính sách nới lỏng tiền tệ là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm. Chính sách thắt chặt tiền tệ là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế và kiểm chế lạm phát.
Để thực hiện hai chính sách tiền tệ này, Ngân hàng Nhà nước cần sử dụng các
công cụ bao gồm:
- Các công cụ trực tiếp: Thông qua các công cụ này, các cơ quan quản lý Nhà nước có thể tác động trực tiếp đến cung cầu tiền tệ, mà không cần thông qua một công cụ khác. Các công cụ này bao gồm:
+ Ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay: NHNN có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc các ngân hàng thương mại phải thi hành. Lãi suất quy định cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng nguồn vốn cho vay. Ngược lại, lãi suất thấp sẽ làm giảm lượng tiền gửi, đồng thời giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Nếu NHNN áp dụng biện pháp này sẽ làm cho các ngân hàng thương mại mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác, dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng, nhưng lại thiếu vốn đầu tư, hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ vàng, ngoại tệ bất động sản, trong khi ngân hàng bị thiếu hụt về tiền mặt và nguồn vốn cho vay.
65
+ Chính phủ có thể phát hành một lượng trái phiếu nhất định để thu hút bớt
lượng tiền trong lưu thông. Việc phân bổ trái phiếu thường mang tính chất bắt buộc.
- Các công cụ gián tiếp: là những công cụ mà tác dụng của nó có được là nhờ
cơ chế thị trường
+ Dự trữ bắt buộc: Là phần tiền gửi mà các ngân hàng thương mại phải đưa và dự trữ theo luật định. Phần dự trữ này được gửi vào tài khoản chuyên dùng ở ngân hàng Nhà nước và để tại quỹ của mình, với mục đích góp phần bảo đảm khả năng thanh toán của NHTM và dùng làm phương tiện kiểm soát khối lượng tín dụng của ngân hàng này. Khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụng làm giảm khả năng cho vay và đầu tư của ngân hàng thương mại từ đó giảm lượng tiền trong lưu thông, góp phần làm giảm cầu tiền để cân bằng với sự giảm cung xã hội. Trong trường hợp giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng mở rộng cho vay của NHTM sẽ tăng lên, dẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăng cung xã hội để cân đối tăng cầu về tiền.
+ Lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn: là những cách thức cho vay của NHNN đối với các NHTM.Công cụ này có ưu điểm là nó trực tiếp tác động ngay đến dự trữ của NHTM và buộc các ngân hàng này phải gia tăng tín dụng hoặc giảm tín dụng đối với nền kinh tế.
+ Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. NHNN công bố tỷ giá hối đoái, quyết định chế độ tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá.
• Hệ thống thông tin quản lý
Hiệu quả quản lý phụ thuộc vào chất lượng của các quyết định mà chất lượng của các quyết định lại phụ thuộc vào sự đầy đủ, chính xác và kịp thời của thông tin. Đặc biệt, trong lĩnh vực tín dụng luôn tồn tại thông tin bất cân xứng, dẫn đến những khó khăn trong việc đánh giá hồ sơ vay vốn, kéo theo đó là rủi ro tín dụng. Do đó, sự phát triển của hệ thống thông tin quản lý là rất quan trọng để cung cấp các thông tin chuyên ngành đảm bảo tính chính xác, kịp thời, tạo điều kiện cho việc hoạch định chính sách của Nhà nước cũng như kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung và các tổ chức tín dụng nói riêng.
Hiện nay hệ thống thông tin quản lý tại nước CHDCND Lào bao gồm ba bộ phận phục vụ cho hệ thống quản lý kinh tế ở các đơn vị kinh tế cơ sở và Chính phủ, cụ thể là:
66
- Hệ thống thông tin kinh tế nội bộ của các đơn vị kinh tế: Là hệ thống thông tin được tạo thành từ các hệ thống nhỏ bao gồm: hệ thống thông tin kế hoạch; hệ thống thông tin kế toán thống kê; hệ thống thông tin tác nghiệp quản lý; hệ thống thông tin marketing. Hệ thống thông tin kinh tế nội bộ của các đơn vị kinh tế giúp các nhà quản lý doanh nghiệp kiểm soát được các hoạt động kinh tế bên trong cũng như tác động bên ngoài trong quá trình đề ra và tổ chức thực hiện các quyết định kinh tế để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
- Hệ thống thông tin thị trường: Hệ thống thông tin thị trường liên quan đến việc các tổ chức trong nền kinh tế thực hiện quá trình thu thập, xử lý và cung cấp các thông tin kinh tế cần thiết phục vụ cho nhu cầu thông tin của nền kinh tế.
- Hệ thống thông tin kinh tế của Chính phủ: Đây là hệ thống thông tin đóng vai trò quan trọng nhất, giúp Nhà nước thực hiện vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế. Tầm quan trọng này được thể hiện thông qua các vai trò sau:
+ Tổng hợp thông tin phục vụ cho quá trình hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, giúp Nhà nước thực hiện vai trò định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế.
+ Giúp Nhà nước quản lý vĩ mô các ngành kinh tế, các lĩnh vực nhờ hệ thống
thông tin chuyên ngành về tài chính, thương mại, dịch vụ, khoa học công nghệ...
+ Từ việc nắm bắt được thông tin thực tế, Nhà nước sẽ đưa ra những chính sách đúng đắn, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế phát triển và giám sát việc thực hiện pháp luật về kinh tế.
• Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô
Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô là một bộ phận của đội ngũ công chức Nhà nước, làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế, tham gia hoạch định các chính sách kinh tế và thực hiện quản lý Nhà nước các hoạt động kinh tế trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân hoặc trong từng địa phương, từng vùng lãnh thổ.
Tính hiệu quả của hệ thống chính sách và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào 2 điều kiện cơ bản là cơ chế vận hành của nền kinh tế và khả năng, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý. Hai yếu tố này có mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau, trong đó khả năng và trình độ đội ngũ cán bộ quản lý đóng vai trò quyết định nhất đến sự vận hành hiệu quả của nền kinh tế.
Vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý thể hiện cụ thể ở các mặt sau:
- Đóng vai trò vai trò quyết định trong việc xây dựng đúng đắn đường lối chiến lược, chủ trương, định hướng kế hoạch phát triển kinh tế, chính sách, cơ chế quản lý
67
kinh tế và hệ thống pháp luật kinh tế trong toàn bộ đất nước, trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.
- Đóng vai trò quyết định trong việc tổ chức bộ máy và lựa chọn cán bộ để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý đất nước trong thời kỳ tái cơ cấu nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đóng vai trò quyết định trong việc chỉ huy và điều hành nền kinh tế theo nguyên tắc tập trung dân chủ các hoạt động trong quá trình phát triển kinh tế và quản lý kinh tế ở phạm vi cả nước, từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.
- Đóng vai trò quyết định trong việc kiểm tra và kiểm soát quá trình phát triển
kinh tế và quản lý kinh tế.
Trong bối cảnh CHDCND Lào đang đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH và hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế khu vực và toàn cầu, yêu cầu về việc nâng cao khả năng, trình độ, nhận thức của đội
ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế và có phương pháp đánh giá, sử dụng cán bộ
một cách khoa học, đúng đắn, khách quan, công tâm là một yêu cầu cấp thiết và vô
cùng quan trọng.
Các điều kiện khách quan
• Các tổ chức tín dụng
Đây là nhân tố thuộc về bản thân, nội tại của các TCTD và có tác động trực tiếp
đến sự phát triển hoạt động tín dụng của các tổ chức này. Nhân tố này bao gồm các
phương diện sau:
- Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng của một ngân hàng bao gồm hệ thống chiến lược, kế hoạch,
hệ thống quy định, quy chế, các biện pháp hạn chế hoặc mở rộng tín dụng nhằm đạt
được những mục tiêu đề ra trong từng thời kỳ. Chính sách này phải phù hợp với đường
lối phát triển kinh tế của đất nước đồng thời phải hài hòa giữa quyền lợi của khách
hàng và ngân hàng.Chính sách tín dụng được coi như một kim chỉ nam của một
NHTM, hướng dẫn mọi hoạt động tín dụng của ngân hàng, tạo sự thống nhất chung
trong hoạt động tín dụng của các NHTM. Do đó, một chính sách tín dụng hợp lý, đúng
đắn, nhất quán, được xây dựng trên cơ sở khoa học và thực tiễn là một yếu tố quan
trọng quyết định chất lượng tín dụng và sự thành công của ngân hàng.
68
- Công tác tổ chức của ngân hàng
Nói đến công tác tổ chức của ngân hàng là nói đến hệ thống tổ chức phòng ban, nhân sự và tổ chức các hoạt động trong ngân hàng. Ngân hàng có một cơ cấu tổ chức khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, hiệu quả giữa các phòng ban trong ngân hàng, giữa các ngân hàng với nhau trong toàn bộ hệ thống cũng như với các cơ quan khác liên quan, qua đó tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu khách hàng, theo dõi quản lí chặt chẽ sát sao các khoản huy động vốn, cũng như các khoản vay, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng.
- Đội ngũ cán bộ ngân hàng
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung. Kinh tế càng phát triển, các quan hệ kinh tế càng phức tạp, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đòi hỏi trình độ của người lao động càng cao. Đội ngũ cán bộ ngân hàng có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có đạo đức, có năng lực sẽ là điều kiện tiền đề để ngân hàng tồn tại và phát triển. Nếu chất lượng nhân sự tốt thì họ sẽ thực hiện tốt các nhiệm vụ trong việc thẩm định dự án, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền vay và có các biện pháp hữu hiệu trong việc thu hồi nợ vay, hay xử lý các tình huống phát sinh trong quan hệ tín dụng của ngân hàng giúp ngân hàng có thể ngăn ngừa, hoặc giảm nhẹ thiệt hại khi những rủi ro xảy ra trong khi thực hiện một khoản tín dụng.
Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng bao gồm những trình tự, những giai đoạn, những bước công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay, thu nợ, bắt đầu từ việc xét đơn xin vay của khách hàng đến khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Một quy trình tín dụng rõ ràng, khoa học sẽ đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các bước, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng tín dụng.
Quy trình tín dụng gồm các giai đoạn:
- Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay: Trong giai đoạn này chất lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng, việc chấp hành các quy định về điều kiện, thủ tục cho vay của ngân hàng.
- Kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro: Việc thiết lập kiểm tra hữu hiệu, áp dụng có hiệu quả các hình thức, biện pháp kiểm tra sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
69
- Thu nợ và thanh lý: Sự linh hoạt của ngân hàng trong khâu thu nợ sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được rủi ro, hạn chế những khoản nợ quá hạn, bảo toàn vốn, nâng cao chất lượng tín dụng.
Kiểm soát nội bộ và thông tin tín dụng:
Hoạt động kiểm soát giúp lãnh đạo ngân hàng nắm được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra, những thuận lợi, khó khăn trong việc chấp hành những quy định pháp luật, nội quy, quy chế, chính sách kinh doanh, thủ tục tín dụng, từ đó giúp lãnh đạo ngân hàng có đường lối, chủ trương chính sách phù hợp giải quyết những khó khăn vướng mắc, phát huy những nhân tố thuận lợi, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
Thông tin tín dụng là một yếu tố cơ bản và cần thiết cho bất kỳ lĩnh vực tài chính nào. Đặc biệt, trong hoạt động ngân hàng, thông tin tín dụng là yếu tố quan trọng quyết định tính đúng đắn của các quyết định tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro.
Công tác marketing giới thiệu sản phẩm tín dụng của ngân hàng:
Marketing là hoạt động không thể thiếu trong kinh doanh nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Hoạt động marketing tại ngân hàng là hệ thống các biện pháp mà ngân hàng thực hiện nhằm đưa thông tin về ngân hàng và sản phẩm của ngân hàng đến với khách hàng, thu hút khách hàng có hiệu quả, hướng tới thực hiện mục tiêu đối đa hóa lợi nhuận.
• Khách hàng của các TCTD
Hoạt động của các NHTM đều phải hướng tới một nhóm đối tượng khách hàng nào đó. Đây vừa là mục tiêu phát triển vừa là cơ sở tồn tại đối với mỗi ngân hàng. Nhu cầu khách hàng và năng lực khách hàng là yếu tố có tác động lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng, và đạo đức của khách hàng là yếu tố quyết định thiện chí trả nợ của khách hàng. Nói một cách khác, một khách hàng có tư cách đạo đức tốt, có tình hình tài chính vững vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng hoàn trả đầy đủ những khoản vốn vay của ngân hàng khi đến hạn, qua đó đảm bảo sự an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng.
Ở khía cạnh khác, một ngân hàng có cơ cấu khách hàng đa dạng, thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau sẽ có nhiều lợi thế hơn các đối thủ cạnh tranh khác. Việc phát triển hoạt động tín dụng của ngân hàng đó sẽ trở nên dễ dàng hơn, khả năng thích ứng với thị trường tốt hơn. Do đó, lợi nhuận thu được cũng cao hơn, rủi ro được phân
70
tán. Tuy nhiên, chính các khách hàng này lại tạo ra sức ép đối với ngân hàng. Các ngân hàng nhiều khi phải đứng trước sự lựa chọn không dễ dàng gì hoặc phải giảm bớt một phần lợi nhuận để giữ khách hàng hoặc phải chịu mất khách hàng vào tay đối thủ cạnh tranh khác.
• Sự phát triển đồng bộ của hệ thống tài chính
Thị trường tài chính trong nước phát triển mạnh là điều kiện để các ngân hàng phát triển và gia tăng cung vào một ngành có lợi nhuận, từ đó dẫn đến mức độ cạnh tranh cũng gia tăng.
Mặt khác, đặc điểm hoạt động của các loại hình định chế tài chính có mối liên hệ rất chặt chẽ và có sự bổ trợ lẫn nhau, như ngành bảo hiểm và thị trường chứng khoán với ngành ngân hàng. Sự phát triển của thị trường bảo hiểm và thị trường chứng khoán, một mặt chia sẻ thị phần với ngân hàng, nhưng mặt khác cũng hỗ trợ sự tăng trưởng của ngành ngân hàng thông qua việc cắt giảm chi phí và tạo điều kiện cho các NHTM đa dạng hóa các dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh nhờ tận dụng lợi thế theo phạm vi.
Ngoài ra, sự phát triển của ngành ngân hàng còn phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác như tin học viễn thông, giáo dục đào tạo, kiểm toán. Đây là những ngành phụ trợ mà sự phát triển của nó sẽ giúp ngân hàng nhanh chóng đa dạng hóa các dịch vụ, tạo lập thương hiệu và uy tín, thu hút nguồn nhân lực cũng như có những kế hoạch đầu tư hiệu quả trong một thị trường tài chính vững mạnh.
• Sự gia tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế
Với quá trình mở cửa nền kinh tế, tự do hóa và hội nhập thị trường tài chính tiền tệ, sự cạnh tranh đối với ngành ngân hàng tất yếu sẽ ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt. Hiện nay, cạnh tranh giữa các NHTM không chỉ dừng ở các loại hình dịch vụ truyền thống (huy động và cho vay) mà còn cạnh tranh ở thị trường sản phẩm dịch vụ mới. Phân tích những yếu tố dưới đây có thể thấy được nhu cầu dịch vụ ngân hàng trong tương lai gần sẽ ngày càng tăng cao:
- Sự biến đổi về cơ cấu dân cư, sự tăng dân số (đặc biệt là khu vực đô thị), sự tăng lên của các khu công nghiệp, khu đô thị mới dẫn đến số doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ tín dụng ngân hàng tăng lên rõ rệt.
- Thu nhập bình quân đầu người ở hầu hết các quốc gia đều được nâng lên, qua
đó các dịch vụ tín dụng ngân hàng cũng sẽ có những bước phát triển tương ứng.
71
- Các hoạt động giao thương quốc tế ngày càng phát triển làm gia tăng nhu cầu
dịch vụ tín dụng quốc tế của ngân hàng.
- Số lao động di cư giữa các quốc gia tăng lên nên nhu cầu dịch vụ tín dụng của ngân hàng cũng như những nhu cầu thanh toán qua ngân hàng có chiều hướng tăng cao.
Ngoài ra, thị trường tài chính càng phát triển thì khách hàng càng có nhiều sự lựa chọn. Các yêu cầu của khách hàng đối với dịch vụ ngân hàng sẽ ngày càng cao hơn cả về chất lượng, giá cả, các tiện ích lẫn phong cách phục vụ. Đây chính là áp lực buộc các NHTM phải đổi mới và hoàn thiện mình hơn nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
• Môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô được thể hiện qua quy mô và mức độ tăng trưởng của GPD, dự trữ ngoại hối, lạm phát và biến động giá cả, tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán quốc tế. Các yếu tố này tác động đến khả năng tích lũy và đầu tư của người dân, khả năng thu hút tiền gửi, cấp tín dụng và phát triển các sản phẩm của NHTM, khả năng mở rộng hoặc thu hẹp mạng lưới hoạt động của các ngân hàng… Từ đó làm giảm hay tăng nhu cầu mở rộng tín dụng, triển khai các dịch vụ, mở rộng thị phần của NHTM. Để đạt được các mục tiêu trên, các NHTM sẽ áp dụng các chiến lược khác nhau để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Sự biến động của nền kinh tế thế giới sẽ tác động đến lưu lượng vốn của nước ngoài vào nền kinh tế một quốc gia thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp. Ngoài ra, chúng ảnh hưởng đến tình hình hoạt động chung của các NHTM, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có tham gia quan hệ thanh toán, mua bán với các doanh nghiệp trong nước cũng như các NHTM trong nước. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM trong nước và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nó.
• Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu và đang diễn ra ngày càng sâu rộng về nội dung và qui mô trên nhiều lĩnh vực, từ đó có những tác động không nhỏ đến nền kinh tế nói chung và các lĩnh vực trong nền kinh tế nói riêng. Đối với lĩnh vực ngân hàng, những cơ hội và thách thức mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại đó là:
Về cơ hội, việc mở cửa và hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM trong nước thâm nhập thị trường quốc tế và mở rộng hoạt động kinh doanh, đồng thời có cơ hội tiếp cận với vốn, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý của các NHTM phát triển trên thế giới; (ii) Sự tham gia của các
72
NHTM nước ngoài sẽ làm gia tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, buộc các NHTM trong nước phải nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, chủ động cơ cấu lại mô hình tổ chức theo hướng hợp lý và chuyên nghiệp hơn để theo kịp yêu cầu phát triển của thị trường trong và ngoài nước, từ đó gia tăng sự lành mạnh và an toàn của toàn bộ hệ thống NHTM; (iii) Hội nhập giúp các NHTM trong nước có cơ hội tiếp cận và phát triển đa dạng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng mới hiện đại như kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử, quản lý quỹ, môi giới tiền tệ... ; (iv) Việc mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng sẽ thúc đẩy NHNN nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành, thực thi chính sách tiền tệ, chia sẻ thông tin với các ngân hàng Nhà nước khác; (v) Hội nhập đòi hỏi môi trường pháp lý phải được cải thiện hơn để thực hiện các cam kết quốc tế, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, khuyến khích các luồng vốn chảy vào trong nước thông qua đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài, tạo cơ hội để các NHTM cho vay và huy động vốn lớn hơn. Ở một khía cạnh khác, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh, đầu tư phát triển thị trường, từ đó gia tăng nhu cầu vay vốn, một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của hệ thống NHTM.
Bên cạnh cơ hội là những thách thức không nhỏ, trong đó cơ bản là sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt và khốc liệt trên thị trường tài chính ngân hàng. Các NHTM trong nước với tiềm lực tài chính nhỏ bé, chất lượng tài sản thấp, danh mục sản phẩm dịch vụ còn hạn chế, chất lượng sản phẩm dịch vụ chưa cao, trình độ quản lý điều hành còn thấp... sẽ phải đối diện với các NHTM nước ngoài có tiềm lực lớn về vốn, công nghệ và trình độ tổ chức quản lý. Thêm vào đó, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng nếu cơ chế quản lý chưa hoàn thiện, nhất là cơ chế thanh tra, giám sát và thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các bộ ngành liên quan.
2.3. Kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển dịch vụ tín dụng
Trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, thế giới đã chứng kiến cuộc cải cách và đổi mới hệ thống ngân hàng ở một loạt các nước. Trong đó, tiêu biểu là công cuộc cải cách ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi và các nước mới phát triển. Trong sự đổi mới đó đã để lại không ít những bài học kinh nghiệm về phát triển các hoạt động của ngân hàng trong đó điển hình là dịch vụ tín dụng. Tuy nhiên, trong khuôn khổ có hạn của đề tài, tác giả xin được dẫn chứng kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam - là các quốc gia có nhiều nét tương đồng với CHDCND Lào và Hàn Quốc là những nước có sự đổi mới tiên phong và vượt trội từ đó rút ra bài học kinh nghiệm
73
cho CHDCND Lào trong việc xây dựng chính sách phát triển dịch vụ tín dụng trong thời gian trước mắt cũng như trong định hướng xây dựng chiến lược phát triển lâu dài.
2.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
2.3.1.1. Những chính sách Nhà nước tác động đến sự phát triển của các TCTD
Chính sách đẩy mạnh tái cấu trúc hệ thống ngân hàng gắn với xử lý nợ xấu
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 đã gây ra các cơn chấn động đối với nền kinh tế toàn cầu và đã có những tác động không nhỏ đến nền kinh tế Trung Quốc. Tháng 11 năm 1997, Trung Quốc đã triệu tập hội nghị tài chính quốc gia đầu tiên với chủ đề trọng tâm là làm thế nào để tránh khỏi một cuộc khủng hoảng tài chính, kết quả là đã đi đến sự đồng thuận đối với vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
Trước khi tiến hành tái cấu trúc, hệ thống ngân hàng Trung Quốc được phân khúc rất rõ ràng theo chế độ sở hữu, với 04 Ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTMNN) và 03 Ngân hàng chính sách đóng vai trò chủ đạo trong toàn hệ thống ngân hàng. Tại thời điểm đó, các NHTMNN hoạt động rất kém hiệu quả với lợi nhuận thực tế thấp hơn nhiều so với mức lợi nhuận chung, chất lượng tín dụng thấp, nợ xấu cao. Lardy (1998b) ước tính rằng các khoản nợ xấu chiếm tới 25% tổng danh mục cho vay của bốn ngân hàng lớn. Liao và Liu (2005) ước tính con số này đạt 35% trong năm 1999, tương đương 2,5 nghìn tỷ NDT, hoặc khoảng 31% GDP của Trung Quốc. Nguyên nhân cơ bản gây ra nợ xấu tại Trung Quốc được xác định là do tác động của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung dẫn đến các NHTMNN chỉ hoạt động như những cơ quan hành chính, có nhiệm vụ cho vay theo chỉ định đối với các công ty và dự án Nhà nước vốn làm ăn kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ. Với nguyên nhân cơ bản được xác định, quá trình xử lý nợ xấu ở Trung Quốc gắn trực tiếp với các biện pháp cải cách được thực hiện bởi Chính phủ nhằm chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường cũng như đẩy mạnh tái cấu trúc các doanh nghiệp Nhà nước và hệ thống tài chính.
Về cơ bản, quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng gắn liền với xử lý nợ xấu
của Trung Quốc có thể chia thành ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất
Trung Quốc tiến hành quá trình tái cấu trúc tài chính từ giữa những năm 1990 nhằm đổi mới hệ thống ngân hàng, tách cho vay chính sách khỏi cho vay thương mại bằng cách thành lập 3 ngân hàng chính sách chịu trách nhiệm xử lý các khoản vay chính sách. Bên cạnh đó, NHTM của Trung Quốc bắt đầu sử dụng cách phân loại nợ
74
thành 5 nhóm theo cách chia của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS), thay vì 4 nhóm như trước đây, thực hiện phê duyệt tín dụng một cách độc lập với ít sự can thiệp hành chính từ phía cơ quan Nhà nước.
Giai đoạn thứ hai
Thành lập các công ty quản lý tài sản được nhà nước tài trợ (AMC). Trong giai đoạn 1999 – 2003 có 4 AMC được thành lập, mỗi công ty tương ứng với một trong số 4 NHTMNN lớn (chiếm tới 70% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng), nhằm giải quyết những khoản nợ xấu của 4 ngân hàng này từ trước năm 1996 có tổng giá trị lên tới 1,4 nghìn tỷ NDT (169 tỷ USD), chiếm 19% GDP của Trung Quốc năm 1999. Các khoản nợ xấu được chuyển giao tại mức giá trị sổ sách trực tiếp từ 4 NHTM cho 4 AMC tương ứng được thực hiện suốt trong hai năm 1999 và 2000, và trách nhiệm của 4 AMC này là phải xử lý hết các khoản nợ xấu này trong vòng 10 năm.
Các AMC có 4 phương thức để huy động vốn bao gồm: Vốn từ Bộ Tài chính, khoản vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC), phát hành trái phiếu có bảo lãnh của Bộ Tài chính, và vay thương mại từ các định chế tài chính khác. Trên thực tế, để mua lại khoản nợ xấu khổng lồ kể trên, các AMC đã phải vay tới 40% từ PBOC, 60% còn lại được tài trợ bằng trái phiếu của AMC phát hành cho 4 NHTM Nhà nước.
Các biện pháp để xử lý nợ đã được các AMC tại Trung Quốc thực hiện bao gồm:
- AMC bán, đấu giá và cơ cấu lại các khoản nợ xấu, nhà bị tịch thu, kiện tụng và thanh lý. Cuối năm 2001, các cuộc đấu giá quốc tế nợ xấu đầu tiên tại Trung Quốc đã diễn ra, với việc bán các khoản nợ trị giá 13 tỷ NDT của Huarong AMC cho 2 tổ chức quốc tế. Đó là một mốc quan trọng bởi vì lần đầu tiên thông tin về giá cả thị trường của các khoản nợ xấu được tiết lộ một cách đáng tin cậy.
- Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu. Nghiệp vụ chứng khoán hóa các khoản nợ xấu ở Trung Quốc được thực hiện không chỉ có sự tham gia của các AMC mà còn bởi các NHTM khác với tỷ lệ thu hồi được báo cáo là từ 10-30%.
- Hoán đổi nợ thành cổ phần. AMC đã mua lại các khoản nợ xấu giá trị 405 tỷ NDT của 580 DNNN quy mô lớn và vừa được lựa chọn tại 4 NHTMNN và thực hiện chuyển đổi các khoản nợ phải trả thành cổ phần của AMC trong các doanh nghiệp này. Kết quả là tỷ lệ trung bình các khoản nợ/tài sản trong DNNN tái cấu trúc giảm xuống từ 73% năm 1999 xuống dưới 50% năm 2000 (Ye and Zhai, 2001). Các AMC sẽ tham gia vào quản trị doanh nghiệp, tái cấu trúc doanh nghiệp và khi các doanh nghiệp này hoạt động có lợi nhuận trở lại, các AMC có quyền nhận cổ tức và bán lại cổ phần cho
75
các doanh nghiệp với mức giá thỏa thuận trước trong vòng 10 năm. Hơn nữa, các AMC cũng được ưu tiên rút vốn khỏi các doanh nghiệp này khi niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đây chính là khoản tiền mặt mà các AMC có thể thu hồi được từ nợ xấu thông qua hoán đổi nợ thành cổ phần tại các DNNN.
Giai đoạn thứ ba
Trung Quốc tập trung vào tái cấu trúc các NHTMNN bằng cách mời gọi sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài có chọn lọc và niêm yết ra công chúng nhằm tăng tính minh bạch và nâng cao năng lực quản trị của 4 NHTMNN lớn này.
Sau những nỗ lực lớn cải cách và tái cơ cấu vốn các NHTMNN, cả các khoản nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Trung Quốc đã giảm xuống trong vài năm. Theo thống kê từ Ủy ban giám sát ngân hàng Trung Quốc, tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM Trung Quốc tính đến quý 2 năm 2008 là 5,58% (tỷ lệ này là 13,6% vào cuối năm 2004). Tuy nhiên, những con số trên không bao gồm các khoản nợ xấu được nắm giữ bởi các ngân hàng phát triển, các hiệp hội tín dụng, và các công ty quản lý tài sản AMC. Một số các tổ chức này vẫn còn nắm giữ một lượng lớn các khoản nợ xấu trong danh mục đầu tư và đang có nhu cầu cải cách cấp bách. So với thành phần nợ xấu được chuyển giao cho các AMC năm 1999, thành phần nợ xấu của ngành ngân hàng Trung Quốc hiện nay cũng không có thay đổi nhiều.
Một khía cạnh khác của chính sách này mà ta cũng cần phải nhìn nhận, đó là dường như quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTMNN tại Trung Quốc tập trung nhiều hơn vào việc cải tổ và sửa chữa những sai lầm bên trong các NHTMNN thông qua biện pháp chuyển hầu hết các gánh nặng từ các ngân hàng này sang gánh nặng tài khóa (Khi các AMC chấm dứt hoạt động, Bộ Tài chính sẽ thiết lập một Uỷ ban kiểm toán để kiểm toán giá trị tài sản các AMC và Bộ Tài chính về cơ bản sẽ là đơn vị chịu trách nhiệm cuối cùng giải quyết những thua lỗ của các AMC). Trong khi các khoản nợ xấu được các AMC mua lại với nguyên giá trị, các ngân hàng hầu như không chịu một khoản mất mát nào về tài sản nên không thể tạo ra được động cơ cho các ngân hàng này thay đổi phương thức quản trị tài sản, cải thiện chất lượng tín dụng, và do đó, nguy cơ tái diễn nợ xấu vẫn tiềm ẩn. Bên cạnh đó, việc điều tiết chồng chéo và kém hiệu quả đối với các AMC cũng khiến cho chi phí cải tổ không được hạn chế ở mức thấp nhất có thể.
76
Bảng 2.2: Tổng quan các biện pháp thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc sau 1997
Biện pháp
Cơ quan thực hiện PBOC
Đóng cửa các tổ chức tài chính vừa và nhỏ mất khả năng thanh toán
Cuối năm 1999, 1 NHTM, 4 công ty đầu tư tín thác đã bị phá sản, 21 hợp tác xã tín dụng đô thị và 18 hợp tác xã tín dụng nông thôn cũng đã chấm dứt hoạt động trên thị trường. Ngân hàng phát triển Hainan trở thành ngân hàng thương mại đầu tiên bị đổ vỡ trong năm 1998. Tổ chức tài chính quốc tế Quảng Đông là tổ chức tài chính đầu tiên ở Trung Quốc bị phá sản. (các quy định về phá sản, thanh lý là chưa đầy đủ)
Bộ Tài chính, PBOC Tái cơ cấu vốn cho các NHTM Nhà nước
Năm 1998, Trung Quốc đã sử dụng 270 tỷ nhân dân tệ trái phiếu kho bạc do Bộ Tài chính phát hành để tái cơ cấu vốn cho các NHTMNN nhằm tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên 8%2.
AMC
Xử lý nợ xấu từ các NHTMNN
Từ tháng 4/1999, 4 công ty quản lý tài sản đã được thành lập để giải quyết các khoản nợ xấu của 4 NHTMNN bằng cách bán tài sản, thu hồi tiền hoặc xóa nợ trong trường hợp không thu hồi.
PBOC, Ủy ban giám sát ngân
Từng bước hoàn cơ cấu các tổ chức quản lý và giám sát thị trường tài chính hàng
- Thay đổi phương thức điều hành của PBOC theo hướng kiểm soát tiền tệ gián tiếp, xóa bỏ kế hoạch tín dụng quốc gia và trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các ngân hàng. - Đưa ra đề án bảo hiểm tiền gửi với mục đích là bảo hiểm tiền gửi có thể giữ ổn định hệ thống tài chính, giảm thiểu rủi ro đạo đức, giảm thiểu sự lựa chọn đối nghịch. - Thành lập Ủy ban giám sát ngân hàng
2 NHTM CP và các tổ chức tín dụng hợp tác đô thị không nhận được nguồn tài trợ này mà phải tự tăng vốn dựa trên sự bơm vốn của các cổ đông hoặc từ lợi nhuận giữ lại. Tuy nhiên, điều này khó có thể thực hiện nhanh chóng bởi vốn của họ không được tăng trong một thời gian dài, trong khi tổn thất và nợ xấu lại được tích lũy lại.
Trung Quốc
77
PBOC, Ủy ban giám sát
Cải cách quản trị và cấu trúc sở hữu NHTMNN nhằm tăng hiệu quả hoạt động ngân hàng
- Các biện pháp chính bao gồm: (i) hoạt động theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, (ii) thành lập công ty quản lý vốn nhà nước đóng vai trò sở hữu các khoản vốn nhà nước, (iii) niêm yết một phần vốn của ngân hàng trên thị trường chứng khoán nước ngoài và Trung Quốc, (iv) sử dụng thành viên độc lập trong hội đồng quản trị. - Ban hành chỉ thị cấm các quan chức chính phủ gây ảnh hưởng lên các quyết định cho vay của các ngân hàng. - Tiến hành các đợt phát hành cổ phiếu của các NHTMNN trên thị trường chứng khoán quốc tế.
Trung Quốc
Bộ Tài chính, PBOC
- Sửa đổi Luật ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và Luật ngân hàng thương mại Trung Quốc. - Thông qua Luật quản lý giám sát ngân hàng Trung Quốc. - Từng bước mở cửa đối với các tổ chức nước ngoài.
Nguồn: Trung tâm thông tin tư liệu – Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
hệ chỉnh Điều thống pháp luật và các quy định tài chính ngân hàng3
Chính sách đẩy mạnh mở cửa lĩnh vực tài chính, tín dụng Các ngân hàng nước ngoài đã có lịch sử hiện diện tại Trung Quốc từ hàng trăm năm trước. Sau khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949, bốn ngân hàng nước ngoài vẫn tiếp tục duy trì văn phòng đại diện tại thành phố Thượng Hải là: HSBC, Ngân hàng Đông Á, Tập đoàn Ngân hàng Hoa Kiều và Ngân hàng Standard Chattered. Năm 1978, nền kinh tế Trung Quốc bắt đầu mở cửa chào đón các nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, hệ thống ngân hàng của Trung Quốc đã trải qua 4 giai đoạn trong quá trình mở cửa. Cụ thể là:
Giai đoạn (1980-1993): Trong giai đoạn này, Nhà nước thực hiện chiến lược mở cửa lĩnh vực ngân hàng nhằm mục đích thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này, góp phần đáp ứng nhu cầu nội địa đối với dịch vụ tín dụng ngày càng tăng lên. Chính phủ Trung Quốc đã từng bước nới lỏng các hạn chế mang tính địa lý đối với các ngân hàng nước 3 Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (Bottelier,2006), hệ thống pháp luật và các quy định về tài chính ngân hàng của Trung Quốc đã được điều chỉnh theo tiêu chuẩn quốc tế và nhu cầu trong nước. Hướng đi đúng đắn này đã giúp các NHTM quản trị chuyên nghiệp hơn, trách nhiệm chủ sở hữu và trách nhiệm quản lý ngân hàng đã được phân định rõ ràng.
78
ngoài thông qua việc cho phép mở rộng sự hiện diện của các ngân hàng này từ các đặc khu kinh tế sang các thành phố lớn và thành phố ven biển. Đến cuối năm 1993, các ngân hàng nước ngoài đã thiết lập được 76 pháp nhân, hoạt động tại 13 thành phố với tổng tài sản lên tới 8,9 tỷ USD, phạm vi kinh doanh tập trung vào các dịch vụ ngoại hối cho các công ty nước ngoài và người nước ngoài tại Trung Quốc
Giai đoạn (1993- 2001):
Trong giai đoạn này, Chính phủ Trung Quốc đã đẩy mạnh hơn nữa việc cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Năm 1994 Chính phủ Trung Quốc đã ban hành một văn bản pháp lý toàn diện điều chỉnh các hoạt động của các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài trên toàn lãnh thổ Trung Quốc với tên gọi là: Quy chế của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về quản lý các định chế tài chính có vốn nước ngoài. Quy chế này được phát triển từ quy định được ban hành từ 1985 mang tên Quy chế của nước Công hòa Nhân dân Trung Hoa về quản lý các ngân hàng có vốn nước ngoài và ngân hàng liên doanh hoạt động tại các đặc khu kinh tế. Quy định mới đã cung cấp các hướng dẫn pháp lý đối với việc gia nhập thị trường và hoạt động thanh tra các ngân hàng có vốn nước ngoài. Trong khi đó, hoạt động của các ngân hàng nước ngoài đã được mở rộng từ các thành phố ven biển và các thành phố lớn ra toàn quốc và các ngân hàng nước ngoài được phép mở chi nhánh tại tất cả các thành phố của Trung Quốc. Đến năm 1996, Chính phủ Trung Quốc công bố Quy chế về việc thí điểm kinh doanh đồng nhân dân tệ tại khu vực Thương Hải - Phố Đông của các định chế trài chính nước ngoài. Quy định này cho phép các ngân hàng nước ngoài tiếp cận hoạt động kinh doanh bằng đông nhân dân tệ phục vụ các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài. Chính vì vậy đã thúc đẩy sự phát triển của các ngân hàng nước ngoài đạt con số 175, tăng 99 ngân hàng so với 4 năm trước đó, trong khi tài sản có của các ngân hàng này đã tăng gấp 4 lần.
Cũng chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, các ngân hàng nước ngoài trở nên thận trọng hơn trong việc mở rộng hoạt động của mình tại khu vực châu Á, do đó hoạt động kinh doanh của các ngân hàng nước ngoài tại Trung Quốc cũng bị giảm sút. Một số ngân hàng thậm chí còn đóng cửa. Từ 1998 đến 2001, chỉ có 15 tổ chức cung cấp dịch vụ ngân hàng được thành lập tại Trung Quốc. Chinh phủ Trung Quốc đã phải thực hiện hàng loạt các biện pháp để kích thích hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại thị trường này. Trong đó, việc lựa chọn Thâm Quyến là thành phố thứ hai sau Thượng Hải được thực hiện thí điểm cho phép các ngân hàng có vốn nước ngoài tham gia thị trường liên ngân hàng để họ có thể tiếp cận nguồn vốn bằng đồng nhân dân tệ; cho phép các ngân hàng có vốn nước ngoài có trụ sở tại
79
Thượng Hải thực hiện kinh doanh đồng nhân dân tệ tại Quảng Đông, Quảng Tây và Hồ Nam. Mặc dù, hoạt động kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng này đã giảm xuống trong các năm đó, các ngân hàng nước ngoài lại có thể mở rộng kinh doanh đồng nhân dân tệ.
Giai đoạn 2002- 2006:
Với việc Trung Quốc chính thức gia nhập WTO vào ngày 11/12/2001, ngành Ngân hàng của Trung Quốc đã chứng kiến những thay đổi sâu sắc trong giai đoạn này. Sau 5 năm gia nhập WTO, số lượng các tổ chức kinh doanh do nước ngoài thành lập tại Trung Quốc đã tăng từ 190 lên 312 đơn vị. Trong thời gian này, Chính phủ Trung Quốc hết sức tuân thủ các cam kết WTO: (i) Những hạn chế về đối tượng khách hàng đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng có vốn nước ngoài đã được dỡ bỏ ngay sau khi gia nhập WTO; (ii) Hoạt động kinh doanh bằng đồng nhân dân tệ của các ngân hàng nước ngoài được mở rộng từ bốn thành phố lớn là Thượng Hải, Thâm Quyến, Thiên Tân và Đại Liên ra toàn quốc, đối tượng khách hàng cũng được mở rộng từ các cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài sang các doanh nghiệp và người dân Trung Quốc; (iii) Các hạn chế khác đối với các ngân hàng có vốn nước ngoài từng bước được nới lỏng, như hạn chế về tài sản nợ bằng đồng nhân dân tệ được dỡ bỏ, giới hạn về tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ từ nguồn trong nước đối với các ngân hàng có vốn nước ngoài đã được bãi bỏ tuân theo nguyên tắc đối xử quốc gia được thoả thuận trong cam kết gia nhập WTO.
Giai đoạn 2006 – nay:
Kể từ cuối năm 2006, Trung Quốc đã xây dựng chiến lược mở cửa lĩnh vực ngân hàng trong thời kỳ mới trên cơ sở 04 nguyên tắc: (i) Đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế trong khuôn khổ tối ưu hoá. (ii) Có khả năng thúc đẩy cải cách ngân hàng, cạnh tranh thi trường công bằng, hai bên cùng có lợi và nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Trung Quốc. (iii) Tuân thủ các cam kết WTO và tiếp tục mở cửa khu vực ngân hàng nội địa. (iv) Quá trình mở cửa phải có quy định về thận trọng đi kèm để có thể duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng và đảm bảo an ninh tài chính.
Trên cơ sở các nguyên tắc nêu trên, Nhà nước Trung Quốc đã ban hành và thực
thi những chính sách chủ yếu sau:
- Trung Quốc đã xoá bỏ các quy định hạn chế về khách hàng và khu vực địa lý đối với hoạt động kinh doanh đồng nhân dân tệ của các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài kể từ ngày 11/12/2006. Để khuyến khích các ngân hàng có vốn đầu tư nước
80
ngoài triển khai kinh doanh tại miền Đông Bắc, miền Tây và miền Trung, Trung Quốc có chính sách ưu đãi trong việc thành lập cơ sở mới và tiếp cận thị trường.
- Đưa ra chính sách định hướng thành lập tại địa phương để đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài có thể tự lựa chọn hình thức hoạt động phù hợp tại Trung Quốc theo chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Để đẩy mạnh sự phát triển của các ngân hàng này và bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, Trung Quốc khuyến khích các ngân hàng nước ngoài thành lập các ngân hàng con tại địa phương hoặc chuyển đổi các chi nhánh hiện tại thành các ngân hàng con. Các pháp nhân thành lập tại địa phương của các ngân hàng nước ngoài được phép cung cấp tất cả các dịch vụ bằng ngoại tệ và nội tệ, được hưởng quy chế đối xử như các ngân hàng Trung Quốc.
- Tạo môi trường hoạt động thuận lợi cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Khuyến khích các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng các hình thức hoạt động đa dạng để phát triển ở Trung Quốc.
- Quá trình mở cửa lĩnh vực ngân hàng của Trung Quốc đi kèm với thanh tra phòng ngừa nghiêm ngặt theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế tốt nhất. Nguyên tắc thanh tra ngân hàng cơ bản của Trung Quốc là “thực hành thanh tra tổng hợp, quản lý rủi ro, tăng cường kiểm soát nội bộ và nâng cao tình minh bạch” trong khi trọng tâm của công tác thanh tra là giám sát các loại hình rủi ro chủ yếu của các ngân hàng thương mại và các rủi ro hệ thống ngân hàng. Mục đích của phương pháp tiếp cận này là củng cố hệ thống quản lý rủi ro và kiểm soát của các ngân hàng thương mại, yêu cầu có một mức độ minh bạch cao hơn để có thể áp dụng kỷ luật thị trường đối với các ngân hàng. Trong giai đoạn mở cửa tiếp theo, Trung Quốc hướng tới việc thực hiện Các nguyên tắc cơ bản về Thanh tra Ngân hàng hiệu quả do Uỷ ban Basel về Thanh tra ngân hàng đề ra để tăng cường tính hiệu quả và minh bạch của công tác thanh tra.
Qua các biện pháp được Trung Quốc thực hiện, ta có thể thấy mục tiêu của chính sách mở cửa lĩnh vực ngân hàng của Trung Quốc chính là nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và xây dựng một hệ thống ngân hàng lành mạnh và phát triển bền vững; huy động được cả các nguồn vốn trong và ngoài nước để phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, một thực tế mà ta cũng cần phải thừa nhận đó là, trong thời gian qua lĩnh vực ngân hàng của Trung Quốc đã có những cải thiện đáng kể, song những cải thiện đó chủ yếu xuất phát từ việc Trung Quốc mở cửa thị trường tài chính theo các cam kết gia nhập WTO nhiều hơn là biện pháp tái cấu trúc đã được PBOC, Bộ Tài chính và Ủy ban Giám sát ngân hàng Trung Quốc thực hiện.
81
2.3.1.2. Những chính sách Nhà nước tác động đến sự phát triển của chủ thể sử dụng dịch vụ tín dụng
Những chính sách thúc đẩy tăng trưởng tín dụng từ phía cầu ở mỗi quốc gia đều gắn chặt với vấn đề tăng cường năng lực cạnh tranh và khả năng tiếp cận vốn của khu vực doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong nhiều năm trở lại đây, việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) vẫn tiếp tục là mục tiêu trọng tâm trong chính sách phát triển kinh tế của Trung Quốc.
2.3.1.3. Những chính sách Nhà nước tác động đến sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ tín dụng
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Trung Quốc thì DNNVV ở Trung Quốc chiếm khoảng 99% tổng số doanh nghiệp hiện có, đóng góp cho GDP hơn 60% và cung cấp khoảng 75% công ăn việc làm ở đô thị. Xác định được tầm quan trọng to lớn của các DNNVV, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ phát triển cho loại hình doanh nghiệp này như ban hành các nghị định về bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các DNNVV, bao gồm quyền cạnh tranh công bằng và quyền thương mại công bằng; Nhà nước cũng nới lỏng các điều kiện để các DNNVV tiếp cận với thị trường thế giới, từ đó các doanh nghiệp này sẽ có không gian phát triển rộng hơn…. Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc đặc biệt chú trọng đến các chính sách hỗ trợ tài chính cho DNNVV. Nước này đã thành lập một số quỹ đặc biệt dành riêng cho loại hình DNNVV (như Quỹ phát triển DNNVV; Quỹ hỗ trợ DNNVV phát triển hệ thống dịch vụ; Quỹ xúc tiến, mở rộng thị trường quốc tế cho DNNVV; Quỹ kêu gọi đầu tư cho DNNVV hoạt động trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật công nghệ…) và không ngừng bổ sung, mở rộng thêm nguồn vốn cho các quỹ này.
Nhằm thúc đẩy việc đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ tín dụng của hệ thống NHTM, góp phần đáp ứng nhu cầu nội địa cũng như nhu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước Trung Quốc đã xây dựng một khuôn khổ pháp lý hoàn thiện cho vấn đề này, thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật, bao gồm: Luật các NHTM ban hành theo Lệnh số 47 ngày 10/05/1995, có hiệu lực kể từ ngày 01/07/1995; Luật bảo lãnh ban hành theo Lệnh số 50 ngày 30/06/1995 có hiệu lực ngày 01/10/1995, quy định cho các NHTM thực hiện mở rộng các hình thức cấp tín dụng như cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; chiết khấu các công cụ chuyển nhượng; bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thực hiện các giao dịch mua bán hàng hoá, vận chuyển hàng hoá; Quy định về cho vay mua ô tô có hiệu lực ngày 01/10/2004, quy định chi tiết về loại hình cho vay mua ô tô, phục vụ cho nhu cầu dân cư, nhu cầu kinh doanh và hỗ trợ phát triển
82
ngành công nghiệp ô tô trong nước; Luật các công cụ chuyển nhượng ban hành theo Lệnh 49 ngày 10/05/1995, có hiệu lực ngày 01/01/1996 đã xác định các trường hợp có quyền truy đòi, trường hợp không có quyền truy đòi trong giao dịch công cụ chuyển nhượng, tao cơ sở pháp lý và hướng dẫn nghiệp vụ cho phát triển đa dạng các phương thức chiết khấu công cụ chuyển nhượng của các NHTM…
Bên cạnh hệ thống khuôn khổ pháp lý, Nhà nước Trung Quốc cũng chú trọng đến vấn đề đưa ra định hướng phát triển cho lĩnh vực ngân hàng của quốc gia, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của việc đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ tín dụng cung cứng. Cụ thể, PBOC thông báo kế hoạch tăng trưởng tín dụng hàng năm để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, với mục tiêu khối lượng tín dụng cả năm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng, với căn cứ tính dựa trên nguồn vốn của các NHTM. Bên cạnh đó, PBOC cũng thực hiện việc điều tiết hệ thống ngân hàng thông qua việc định hướng về cơ cấu tín dụng cho các NHTM; kiểm soát các loại hình cấp tín dụng, các khoản vay trung và dài hạn trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, hạn chế tối đa cho vay đối với các doanh nghiệp yếu kém trong lĩnh vực tiêu dùng nhiều năng lượng, ô nhiễm môi trường nặng, tăng cường cho vay các lĩnh vực kinh tế nông thôn, ưu tiên các đối tượng tạo việc làm, sinh viên, DNNVV.
Ngoài ra, Nhà nước Trung Quốc cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng. Luật quản lý và giám sát ngân hàng ban hành ngày 27/12/2003, có hiệu lực ngày 01/02/2004, cùng với nhiều quy định trong quá trình hội nhập quốc tế được ban hành từ cuối năm 2001, đã tiêu chuẩn hóa quy trình và thủ tục giám sát ngân hàng, giúp các NHTM có biện pháp phòng ngừa rủi ro tài chính và đảm bảo an toàn trong quá trình đa dạng hóa hoạt động tín dụng. Các văn bản hướng dẫn về kiểm tra giám sát các NHTM đã được PBOC ban hành bao gồm: Văn bản hướng dẫn quản lý độc lập và giám sát bên ngoài NHTMCP ban hành ngày 04/06/2002; Hướng dẫn về kiểm soát nội bộ của NHTM ngày 18/09/2002 khuyến khích các NHTM tăng cường kiểm soát nội bộ, thiết lập và tăng cường sự quản lý, giám sát độc lập bên ngoài các NHTM, có biện pháp phòng ngừa, chống lại các rủi ro tài chính và đảm bảo an toàn HĐTD, đảm bảo an toàn các hình thức cấp tín dụng và ổn của các hệ thống NHTM phù hợp với quy định của pháp luật.
2.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997, nền kinh tế Hàn Quốc đã bị ảnh hưởng nặng nề: Thị trường tài chính sụp đổ; Đồng won mất giá mạnh; Lòng tin của nhà đầu tư và nhu cầu tiêu dùng sụt giảm mạnh; Hàng loạt doanh nghiệp
83
2.3.2.1. Những chính sách Nhà nước tác động đến sự phát triển của các TCTD
phá sản; Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, từ mức 2,5% trong giai đoạn 1990 – 1997 lên mức 8,75% vào tháng 2 năm 1999; Tăng trưởng GDP thực năm 1998 giảm 5,8% so với năm 1997 (IMF, 2000). Sự sụt giảm của những chỉ tiêu kinh tế trên cũng kéo theo sự sụt giảm về tăng trưởng tín dụng khi các ngân hàng không sẵn sàng cấp tín dụng trong bối cảnh rủi ro tín dụng gia tăng và tình trạng chất lượng tài sản của ngân hàng xấu đi. Việc Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc nâng lãi suất nhằm chặn đà mất giá của đồng won cũng là nguyên nhân dẫn đến nhu cầu vốn tín dụng đầu tư cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị giảm sút. Trong bối cảnh đó, nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, một hệ thống giải pháp tác động đến cả cung cầu và cầu tín dụng đã được Chính phủ Hàn Quốc và Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc, Cơ quan quản lý DNNVV Hàn Quốc (SMBA) phối hợp thực hiện.
Chính sách nhằm khôi phục lĩnh vực tài chính sau cuộc khủng hoảng
Trước những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, Chính phủ Hàn Quốc đã nỗ lực thực hiện một loạt cải cách trong khu vực tài chính nhằm đạt 2 mục tiêu chính là (1) giảm thiểu khả năng xảy ra một cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai thông qua việc “làm sạch” bảng cân đối tài sản của các định chế tài chính, và (2) tái cơ cấu hệ thống tài chính chính nhằm giúp nền kinh tế đất nước tiếp tục tăng trưởng kinh tế và ổn định. Để đạt các mục tiêu trên, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp trên cơ sở các hướng cơ bản bao gồm: (i) tăng cường hạ tầng pháp lý quản lý, giám sát hệ thống tài chính; (ii) phục hồi các định chế tài chính, (iii) tăng cường giám sát an toàn tài chính; (iv) giảm rủi ro đạo đức; (v) thúc đẩy tự do hóa tài chính; và (vi) nâng cao chất lượng quản trị các định chế tài chính.
Một số biện pháp cụ thể đã được Chính phủ Hàn Quốc thực hiện, đó là:
Thứ nhất, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc đã tạo điều kiện để các ngân hàng mở rộng tín dụng cho khu vực doanh nghiệp trong nền kinh tế thông qua biện pháp nâng trần hạn mức tổng tín dụng cho toàn hệ thống ngân hàng, đồng thời giảm tương ứng mức lãi suất cùa công cụ trần hạn mức tổng tín dụng nhằm giảm gánh nặng chi phí lãi suất cho các doanh nghiệp.
84
Báng 2.3: Quy mô và lãi suất công cụ trần hạn mức tổng tín dụng của Hàn Quốc
Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Chỉ tiêu 12/1997 3/1998 9/1998 1/2001 9/2001
4,6 5,6 7,6 9,6 11,6 Trần hạn mức tổng tín dụng (nghìn tỷ won)
Nguồn: Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (2002)
Lãi suất (%) 5,0 5,0 3,0 3,0 2,5
Thứ hai, Chính phủ Hàn Quốc và Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc đã đẩy mạnh thực hiện chủ trương tái cấu trúc hệ thống tài chính nhằm khôi phục sự ổn định của hệ thống tài chính, thúc đẩy sự tăng trưởng trở lại của hoạt động tín dụng. Cụ thể:
- Triển khai chương trình bảo hiểm tiền gửi để duy trì lòng tin cùa công chúng vào hệ thổng ngân hàng đồng thời sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng khi cần thiết.
- Nâng cao chất lượng tài sản cùa tổ chức tài chính và xử lý nợ xấu thông qua việc yêu cầu minh bạch hơn trong việc báo cáo số liệu về nợ xấu của các ngân hàng, ban hành các quy định về phân loại và trích lập dự phòng theo chuẩn quốc tế.
- Thành lập Công ty Quản lý Tài sản Hàn Quốc (KAMCO) để mua lại các tài
sản xấu từ các ngân hàng.
- Hình thành cơ chế quản lý tài chính hợp nhất, theo hướng hợp nhất tất cả các cơ quan giám sát tài chính trước đây thành một cơ quan duy nhất là Cơ quan giám sát tài chính. Ngân hàng Trung Ương Hàn Quốc không còn giữ vai trò giám sát trực tiếp hệ thống ngân hàng song vẫn duy trì trách nhiệm giám sát chung với Cơ quan giám sát tài chính trong việc thanh tra ngân hàng và đảm bảo tính ổn định của toàn hệ thống ngân hàng.
- Đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng.
- Củng cố nguồn vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thông qua các biện pháp quốc hữu hóa ngân hàng, cấp vốn cho các ngân hàng từ ngân sách, sáp nhập, hợp nhất, mua lại.
Thứ ba, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc và Cơ quan giám sát tài chính tăng cường kiểm tra hoạt động của các TCTD nhằm thu thập thông tin về tình trạng dư nợ
85
của hệ thống ngân hàng, khả năng cấp tín dụng, làm cơ sở ra việc ra quyết định và thực thi các chính sách tiền tệ và tín dụng trong tương lai.
Chính sách nhằm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở Hàn Quốc
Để tiến hành tái cấu trúc hệ thống ngân hàng một cách hiệu quả, Chính phủ Hàn
Quốc đã thực hiện theo lộ trình các bước như sau:
Bước 1: Tiến hành rà soát và phân loại ngân hàng:
Một trong những việc làm đầu tiên của Chính phủ Hàn Quốc là tiến hành áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế để đánh giá tình hình tài chính, các khoản nợ xấu và tiến hành phân loại các ngân hàng thành 3 nhóm làm cơ sở cho quá trình hợp nhất và sáp nhập, bao gồm: Nhóm các ngân hàng dẫn đầu (nhóm các ngân hàng lớn); Nhóm các ngân hàng cỡ trung bình, chủ yếu tập trung vào hoạt động bán lẻ; Nhóm các ngân hàng nhỏ phục vụ cho các vùng địa phương đặcbiệt.
Mục tiêu chính của việc phân loại này là nhằm: Tạo ra các ngân hàng lớn sau khi hợp nhất và sáp nhập có đủ năng lực về tài chính để có thể cạnh tranh hiệu quả đối với các ngân hàng nước ngoài cũng như nâng cao hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng này; Thu hẹp phạm vi hoạt động của các ngân hàng có quy mô vừa, tập trung vào phát triển các hoạt động kinh doanh chính; Các ngân hàng nhỏ nhưng hoạt động an toàn và hiệu quả, chỉ để phục vụ cho các vùng địa phương đặc biệt.
Bước 2: Giải quyết nợ xấu ngân hàng:
Thành lập Công ty Quản lý Tài sản Hàn Quốc (KAMCO) để mua lại các tài sản xấu từ các ngân hàng. KAMCO được vận hành bởi một uỷ ban gồm các đại diện đến từ Bộ Tài chính và kinh tế, Bộ Kế hoạch và ngân sách, Uỷ ban Giám sát tài chính, Hiệp hội các ngân hàng, Cty bảo hiểm tiền gửi KDB và ba chuyên gia độc lập (một luật sư, một chuyên gia kiểm toán, và một chuyên gia kinh tế). Khi một tổ chức tài chính đề nghị bán nợ xấu, KAMCO sẽ phân tích, định giá, và đàm phán vớí giá bán cuối cùng. Việc định giá nợ xấu của KAMCO được dựa trên khả năng mất vốn của các khoản nợ, theo các quy định về an toàn vốn. Sau đó, KAMCO tiến hành định giá nợ xấu dựa trên đặc điểm của từng khoản nợ. Có thể nói, nhờ những hành động quyết đoán của KAMCO trong giai đoạn đầu đã giúp cho các công ty mua bán nợ xấu tư nhân của Hàn Quốc mạnh dạn tham gia vào thị trường hơn. Nếu như năm 1997, toàn bộ giá trị các thương vụ mua bán nợ xấu tại Hàn Quốc đều do KAMCO tiến hành thì con số này giảm xuống còn 58,15% vào năm 1998 và 2,81% vào năm 2000. Chính nhờ có sự tham gia của các công ty mua bán nợ xấu tư nhân mà nợ xấu của Hàn Quốc đã giảm mạnh từ 17% tổng dư nợ vào tháng 3/1998 xuống còn 2,3% vào cuối năm 2002.
86
Để khuyến khích khả năng bán các khoản nợ xấu, Chính phủ Hàn Quốc còn ban hành những luật thuế đặc biệt, đã rất có hiệu quả trong những khoảng thời gian nhất định như:
- Giảm thuế trên thặng dư vốn: Thặng dư vốn thu đươc từ việc chuyển đổi các
tài sản sở hữu bởi các tổ chức tài chính như KAMCO đều được giảm 50% thuế.
- Tính vào chi phí: Khi tổ chức tín dụng có số nợ xấu nhiều hơn mức dự phòng mất vốn, tổ chức tín dụng được phép bù phần nhiều hơn đó với dự phòng định giá lại tài sản. Phần bù đó được tính vào chi phí khi tính thu nhập chịu thuế của tổ chức tín dụng.
- Miễn giảm thuế giao dịch chứng khoán: Khi KAMCO hay tổ chức tài chính nào mua cổ phiếu của các tổ chức tài chính mất khả năng thanh toán để tổ chức lại tổ chức này và chuyển đổi lượng cổ phiếu đó cho bên thứ ba sẽ được miễn giảm thuế.
Bước 3: Hợp nhất, sáp nhập và mở rộng hình thức sở hữu:
Sau khi đánh giá được mức vốn thực có của các ngân hàng thương mại, Chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành các bước đi mạnh mẽ để khuyến khích trên cơ sở tự nguyện hoặc buộc các NHTM phải sáp nhập lại với nhau, hoặc tăng vốn để đảm bảo mức vốn tối thiểu an toàn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, thậm chí rút giấy phép cũng như buộc phải tuyên bố phá sản. Tháng 7/1998, Chính phủ Hàn Quốc đã buộc 5 ngân hàng đóng cửa do có tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu dưới 8% và yêu cầu các ngân hàng này phải hợp nhất và sáp nhập lại với nhau để đảm bảo đạt được mức an toàn vốn tối thiểu; buộc 7 ngân hàng yếu kém khác phải đưa ra lộ trình thực hiện tái cơ cấu dưới sự giám sát của NHTW và Ủy ban giám sát tài chính (FSC) như tăng vốn, thay đổi ban điều hành ngân hàng và giảm bớt quy mô và phạm vi hoạt động4. Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc cũng khuyến khích các NHTM sáp nhập và hợp nhất lại với nhau để trở thành các ngân hàng hàng đầu có khả năng cạnh tranh hiệu quả với các ngân hàng nước ngoài.
Ngoài ra, Chính phủ Hàn Quốc còn thực thi nhiều biện pháp khác nhằm đảm
bảo hiệu quả cho quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, cụ thể là:
4 BIS (1999) Bank restructuring in practice – Bank for international settlements No. 6 – August 1999
- Tập trung nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng cũng như ban hành các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế.
87
- Tăng cường sự tham gia của tổ chức bảo hiểm tiền gửi vào tái cấu trúc hệ thống ngân hàng dựa trên nền tảng pháp lý minh bạch. Luật Bảo vệ người gửi tiền ban hành năm 1995 là tiền đề cho việc thành lập Công ty bảo hiểm tiền gửi (KDIC), và quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của tổ chức BHTG tại Hàn Quốc. Luật Bảo vệ người gửi tiền quy định rõ mục tiêu hoạt động của KDIC là bảo vệ tiền gửi của người gửi tiền và duy trì ổn định tài chính tại Hàn Quốc, với các chức năng chính gồm: quản lý quỹ bảo hiểm tiền gửi; giám sát rủi ro; xử lý đổ vỡ; thu hồi nợ; và điều tra. Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, công ty bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc (KDIC) đã tích cực tham gia vào quá trình tái cấu trúc hệ thống tài chính ngân hàng. Trong quy trình xử lý, KDIC đã giảm thiểu rủi ro đạo đức bằng cách áp dụng nguyên tắc chi phí tối thiểu, nguyên tắc chia sẻ thiệt hại. KDIC cũng đã thực hiện điều tra và truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với cá nhân, tổ chức gây ra đổ vỡ tại các tổ chức tài chính. Nhờ đó, công tác quản trị doanh nghiệp tại các tổ chức tài chính đã được cải thiện rõ rệt, hệ thống tài chính ngân hàng khôi phục và hoạt động ổn định, hiệu quả hơn.
- Xử lý hiệu quả mối quan hệ ngân hàng - chính phủ - các chaebol. Do các chaebol chiếm một tỷ lệ rất lớn nợ khó đòi trong hệ thống ngân hàng Hàn Quốc, nên việc tái cơ cấu lại các chaebol đóng vai trò quan trọng trong việc lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng. Chính phủ Hàn Quốc đã lựa chọn giải pháp tái cơ cấu hệ thống ngân hàng trước khi tái cơ cấu các khoản nợ doanh nghiệp. Chính phủ cho rằng, khi hệ thống ngân hàng được lành mạnh hóa thì các ngân hàng sẽ đi đầu trong việc tái cơ cấu các doanh nghiệp. Hơn thế nữa, thông qua việc giúp đỡ các NHTM, Chính phủ có thể gián tiếp hỗ trợ các chaebol tái cơ cấu các khoản nợ. Song song với quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, bao gồm cả việc xử lý các khoản nợ xấu của các chaebol tại các NHTM, Chính phủ Hàn Quốc cũng đã thực hiện quyết liệt các biện pháp nhằm cải tổ các chaebol này, cụ thể thông qua các biện pháp:
+ Minh bạch hóa quản lý bằng cách công bố các báo cáo tài chính, thông tin
tài chính và thông tin kinh doanh, điều hành chaebol.
+ Không cho phép công ty mẹ bảo lãnh nợ cho công ty con thuộc tập đoàn.
+ Xác lập và khống chế các tỉ lệ tài chính nhằm đảm bảo an toàn tài chính cho
tập đoàn. Trong đó tỉ lệ nợ vay trên vốn sở hữu không quá 200%.
+ Tập trung vào ngành nghề chuyên môn nhằm gia tăng tính cạnh tranh ở
mức độ toàn cầu.
88
+ Quy trách nhiệm cá nhân các lãnh đạo gia đình chaebol trong việc điều hành và lãnh đạo tập đoàn. Hủy bỏ hội đồng các tổng giám đốc, các công ty mẹ cũng như cơ quan điều hành các hoạt động ngoài ngành. Gia tăng quyền hạn cho cổ đông thiểu số. Đánh thuế lên giá trị quà tặng nhằm công khai và tránh hối lộ.
+ Cấm các chaebol sở hữu các công ty tài chính phi ngân hàng.
+ Khống chế đầu tư lòng vòng vào các công ty thành viên và cấm một số giao
dịch giữa các công ty thành viên với nhau.
+ Nghiêm cấm lễ lộc, quà cáp, hình thức tác động không hợp lệ đối với những
2.3.2.2. Những chính sách Nhà nước tác động đến sự phát triển của chủ thể sử dụng dịch vụ tín dụng
người thừa kế chaebol.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hàn Quốc là một trong những hệ thống doanh nghiệp đóng vai trò chiến lược đối với sự phát triển toàn diện của nền kinh tế. Số lượng DNNVV chiếm khoảng 99,9% tổng số doanh nghiệp, đóng góp trên 102,9 triệu đô la Mỹ từ việc xuất khẩu và giải quyết được việc làm cho hơn 87,7% trên tổng dân số đang ở độ tuổi lao động5. Với tầm quan trọng của khu vực DNNVV, việc hỗ trợ sự phát triển của khu vực doanh nghiệp này sẽ là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy gia tăng nhu cầu về vốn tín dụng trong nền kinh tế quốc dân.
5 Theo Cơ quan quản lý DNNVV Hàn Quốc (SMBA, “SMBA – Partner of Korean SMEs” ) 2014.
Vào những năm đầu của thập niên 80, Hàn Quốc ban hành Luật Hỗ trợ thành lập DNNVV (1986) cùng với Đạo luật cơ bản về DNNVV trước đó (năm 1966) đã mở ra cơ hội cho các DNNVV trong nước được phát huy tiềm lực của mình, đóng góp cho nền kinh tế quốc gia. Sau những biến động của nền kinh tế thế giới (khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và khủng hoảng nợ công năm 2010), các chính sách hỗ trợ của Chính phủ cũng đã được sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình thế giới cũng như với từng doanh nghiệp.
89
Bảng 2.4: Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa được Hàn Quốc ban hành
Mục tiêu Các văn bản pháp luật
Hỗ trợ việc thành lập doanh nghiệp
- Luật hỗ trợ cho DNNVV thành lập - Luật về các biện pháp đặc biệt đối với các khuyến mãi của doanh nghiệp liên doanh
Hỗ trợ nguồn lực con người
Hỗ trợ tài chính Hỗ trợ phân phối
Quản lý đổi mới
Cạnh tranh công bằng
- Luật đặc biệt về hỗ trợ nguồn nhân lực của doanh nhiệp nhỏ và vừa - Luật Ngân hàng - Luật về tạo thuận lợi cho mua hàng của doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa và hỗ trợ phát triển thị trường - Luật Khuyến khích đổi mới công nghệ của DNNVV - Luật đặc biệt về chuyển đổi doanh nghiệp thành DNNVV - Luật Hợp tác xã doanh nghiệp vừa và nhỏ - Luật Khuyến khích hợp tác giữa doanh nghiệp lớn và DNNVV
Hỗ trợ các nhóm xã hội dễ bị tổn thương
Nguồn: TS. Nguyễn Thị Hồng Nhung (2016), Pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Hàn Quốc và một số kiến nghị tham khảo
- Luật về Các biện pháp đặc biệt để phát triển doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ - Luật về Hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu nữ giới - Luật Khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động của người khuyết tật
Những quy định cụ thể nhằm hỗ trợ các DNNVV ở Hàn Quốc trong thời gian
qua, đó là:
Thứ nhất, Các quy định về hỗ trợ các hoạt động thương mại, giao dịch hàng
hóa cho các DNNVV
Để hỗ trợ cho các hoạt động thương mại, giao dịch hàng hoá của các DNNVV, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành Đạo luật về Hỗ trợ mua bán cho DNNVV - Hàng hoá sản xuất và hỗ trợ phát triển thị trường, sửa đổi, bổ sung năm 2011. Với Đạo luật này, những DNNVV hoạt động trong một số ngành nghề công nghiệp sẽ có được nhiều lợi thế hơn trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Thông qua việc đưa ra các
90
chính sách hỗ trợ như ưu tiên mua hàng hóa, ưu tiên ký kết hợp đồng, hay yêu cầu các doanh nghiệp lớn phải mua các sản phẩm sản xuất bởi các DNNVV chứ không được tự sản xuất, đã góp phần mở rộng thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thương hàng hóa giữa các doanh nghiệp với nhau.
Thứ hai, Các quy định về hỗ trợ về nguồn nhân lực cho các DNNVV
Luật Hỗ trợ nguồn nhân lực cho các DNNVV, sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã đưa ra những biện pháp nhằm cải thiện tình trạng thất nghiệp của quốc gia, đồng thời đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho các DNNVV. Thông qua những chính sách đào tạo từ xa, đào tạo qua mạng, Chính phủ Hàn Quốc đã thiết lập một mạng lưới giáo dục nhằm trang bị và củng cố những kiến thức chuyên môn. Không những thế, Hàn Quốc cũng đã phát triển đào tạo thông qua website, giúp cho việc tiếp cận thông tin dễ dàng và linh hoạt hơn (Điều 12, Luật Hỗ trợ nguồn nhân lực cho các DNNVV, sửa đổi, bổ sung năm 2009). Song song đó, Chính phủ Hàn Quốc cũng đã có những chính sách đổi mới trong việc thiết lập mối quan hệ mật thiết giữa các DNNVV với các trường đại học, cao đẳng và học viện, gắn kết tương lai DNNVV với tương lai đội ngũ thế hệ sinh viên được đào tạo.
Ngoài ra, Chính phủ còn xây dựng nên những dự án hỗ trợ bồi dưỡng người lao động đang làm việc tại các DNNVV. Các dự án chú trọng vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên về tay nghề nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển và đổi mới không ngừng của DNNVV nói riêng và nền kinh tế công nghiệp nói chung. Vì vậy, thông qua những chính sách và dự án hỗ trợ nhân lực cho các DNNVV, Chính phủ đã gián tiếp cung cấp cho các DNNVV nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thứ ba, Các quy định về hỗ trợ đổi mới công nghệ cho các DNNVV và các
doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm
Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành rất nhiều chính sách ưu đãi cho các cá nhân, tổ chức thành lập doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cũng như các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm (venture business) thông qua một số đạo luật chính như: Luật về Các biện pháp hỗ trợ đặc biệt thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, Luật về Thúc đẩy đổi mới công nghệ đối với các DNNVV, Luật về Hỗ trợ thành lập các DNNVV. Đồng thời, pháp luật Hàn Quốc đã đơn giản hóa thủ tục thành lập cho từng loại hình doanh nghiệp, tạo lập các quỹ hỗ trợ vốn khởi nghiệp, địa điểm vị trí mặt bằng hoạt động.
Về vấn đề hỗ trợ vốn khởi nghiệp cho các doanh nghiệp mạo hiểm, Luật về Các biện pháp hỗ trợ đặc biệt thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm sửa đổi, bổ sung năm 2010 đã quy định các biện pháp giúp việc huy động vốn của các doanh nghiệp dễ
91
dàng, thuận tiện và linh hoạt hơn. Ngoài ra, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra một số quy định như hỗ trợ 50% chi phí mua trang thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất, ưu tiên đối với việc sử dụng đất và tài sản, cũng như kinh phí hỗ trợ từ Nhà nước cho các dự án nghiên cứu, các kế hoạch đổi mới công nghệ nhằm phù hợp với xu thế phát triển của doanh nghiệp và xã hội.
Thứ tư, Các quy định về hỗ trợ tài chính cho các DNNVV
Hàn Quốc đã thiết lập hệ thống hỗ trợ tài chính cho DNNVV thông qua các chính sách thuế và hệ thống bảo lãnh tín dụng phục vụ cho hoạt động vay vốn, huy động vốn hay hoạt động sản xuất.
Về việc thực hiện các chính sách ưu đãi thuế đối các DNNVV, khi ban hành Đạo luật Hạn chế thuế đặc biệt (Restriction of Special Tax Act) đầu tiên vào năm 1998, Hàn Quốc đã tập trung vào những doanh nghiệp đầu tư và nghiên cứu phát triển sản phẩm công nghệ mới. Tuy nhiên, qua nhiều lần sửa đổi, Đạo luật Hạn chế thuế đặc biệt sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã đưa ra những quy định rõ ràng về các chính sách miễn thuế, giảm thuế và hoàn thuế đối với các DNNVV đang hoạt động trong mọi lĩnh vực. Ví dụ đối với các doanh nghiệp nhỏ, tùy theo từng trường hợp và điều kiện hoạt động cụ thể theo quy định của pháp luật sẽ được giảm 5%, 10%, 15%, 20% hay 30% hay miễn một số thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế trước bạ đối với bất động sản phục vụ hoạt động nghiên cứu phát triển của các DNNVV.
Bên cạnh các chính sách về thuế, hệ thống bão lãnh tín dụng đã tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận với vốn vay dễ dàng hơn. Với mục đích giảm nhẹ khó khăn tài chính trong việc huy động vốn thành lập và hoạt động doanh nghiệp, hệ thống hỗ trợ tài chính cho DNNVV được thành lập và chia theo ba kênh chính: Quỹ bảo lãnh tín dụng Hàn Quốc, Quỹ bảo lãnh tín dụng công nghệ Hàn Quốc và Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương. Ngoài ra, các DNNVV có thể huy động vốn qua các kênh như phát hành trái phiếu, tiền gửi nhận được từ Quỹ quản lý vốn theo Luật Quản lý quỹ công cộng…
Thứ năm, Các chính sách hoạt động hỗ trợ cho DNNVV của Cơ quan quản lý
DNNVV Hàn Quốc (SMBA)
Cơ quan Quản lý DNNVV (SMBA) là cơ quan quan trọng nhất trong việc thiết lập các kế hoạch về chính sách của Chính phủ hỗ trợ cho DNNVV, cũng như chịu trách nhiệm thi hành và phổ biến những quy định của pháp luật đến với các doanh nghiệp. Cơ quan này đóng vai trò tiên phong trong việc cung cấp và phát triển các sáng kiến chính sách giúp DNNVV hoạt động hiệu quả và thiết thực hơn. SMBA có
92
trách nhiệm triển khai thực hiện và giám sát hoạt động của các doanh nghiệp khác nhau tùy thuộc vào mỗi loại hình và quy mô doanh nghiệp như doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, doanh nghiệp xuất nhập khẩu, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ...
Về vấn đề khởi nghiệp kinh doanh, với mục tiêu là hướng tới những ý tưởng và công nghệ đột phá, SMBA nắm vai trò to lớn trong việc bồi dưỡng kỹ thuật cũng như những kiến thức nền tảng trong việc khởi nghiệp kinh doanh, đồng thời là người truyền cảm hứng cho những nhà kinh doanh tương lai khởi nghiệp thành công. Đối với các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, SMBA đã thành lập các quỹ hỗ trợ vốn thành lập và hoạt động doanh nghiệp như Quỹ kết nối đầu tư (Angel Investment Matching Fund), Quỹ sáng tạo tương lai, hay hệ thống quỹ công cộng nhằm giúp các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm đang gặp khó khăn về vốn. Hơn nữa, SMBA đã thành lập tổ chức KONEX hỗ trợ cho các DNNVV trong việc tạo lập nguồn quỹ cho hoạt động sản xuất, đồng thời xây dựng một mạng lưới thông tin giao dịch M&A cho các DNNVV trong việc kinh doanh hàng hóa hay khởi nghiệp kinh doanh.
Mặt khác, SMBA cũng đã xây dựng một số chính sách khuyến khích các doanh nghiệp siêu nhỏ nhằm giúp các doanh nghiệp khẳng định vị thế của mình trên thương trường, sánh tầm với các “ông lớn” trên thị trường. SMBA đã thiết lập một hệ thống cung cấp các thông tin về hàng hóa, người tiêu dùng, các kế hoạch quy hoạch đô thị, cũng như việc tạo nên mối liên hệ mật thiết giữa các doanh nghiệp siêu nhỏ với nhau, với các doanh nghiệp vừa và với các doanh nghiệp truyền thống. Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc, thông qua SMBA, cũng đã tạo cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp siêu nhỏ với quy định về hệ thống phân phối giữa các doanh nghiệp siêu nhỏ với các doanh nghiệp khác thông qua hình thức phân phối truyền thống, lẫn phân phối qua hệ thống logistics trong nước và trong khu vực. Chính phủ cũng đã vạch ra các chiến lược hỗ trợ vốn thông qua việc luân chuyển nguồn vốn hợp lý, các dự án tái đầu tư, các chính sách hỗ trợ ưu đãi về thuế, phí và lệ phí giúp cho doanh nghiệp tránh gặp những gánh nặng khi việc kinh doanh không hiệu quả.
2.3.3. Kinh nghiệm của Việt Nam
2.3.3.1. Những chính sách Nhà nước tác động đến sự phát triển của các TCTD
Chính sách tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
Trong Báo cáo của Chương trình đánh giá khu vực tài chính (FSAP) do Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thực hiện tại Việt Nam vào năm
93
2012, các tổ chức quốc tế uy tín đã chỉ ra những điểm yếu cơ bản trong hệ thống ngân hàng của Việt Nam, đó là:
- Vấn đề nợ xấu: Theo báo cáo trên, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tích tụ một lượng lớn nợ xấu (NPL) được ước tính một cách thận trọng là 12% trên tổng dư nợ tại thời điểm cuối năm 2012.
- Tăng trưởng tín dụng diễn biến bất thường kể từ năm 2006. Năm 2007 tăng tới 54% (tương đương 20% GDP). Vào cuối 2008, do ảnh hưởng khủng hoảng toàn cầu, tín dụng và hoạt động kinh tế chậm lại. Ngay sau đó, việc nới lỏng chính sách tài khóa và tiền tệ đã gây ra một đợt bùng nổ tín dụng khác vào năm 2009 và 2010. Năm 2012 lại có một đợt nới lỏng mạnh chính sách bằng cách cắt giảm lãi suất chính sách và thực hiện một nhóm các biện pháp hành chính. Tuy nhiên, dù đã nới lỏng chính sách nhưng lần này tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức thấp, phản ánh chất lượng bảng cân đối tài sản của các ngân hàng đã suy giảm và đòi hỏi phải giảm tỷ lệ đòn bẩy.
- Tình trạng sở hữu chéo: Theo báo cáo đánh giá, hệ thống ngân hàng Việt Nam có đặc điểm là mức độ sở hữu chéo cao giữa các ngân hàng với nhau và giữa các ngân hàng và doanh nghiệp. Báo cáo viết “Cơ cấu cổ đông phức tạp đã gây ra những quan ngại sâu sắc về xung đột lợi ích và hoạt động cho vay bên có quan hệ/liên quan nhằm tài trợ cho các dự án thiếu minh bạch. Cơ cấu này cũng dẫn đến tình trạng phóng đại vốn do cho vay mua cổ phần lẫn nhau và đã tạo điều kiện lách các quy định an toàn như giới hạn tập trung tín dụng”.
- Sự hoài nghi về chất lượng số liệu và báo cáo được công bố: Báo cáo cho rằng chất lượng số liệu tài chính thấp đã ảnh hưởng đến việc đo lường một cách chính xác hầu hết các chỉ số hiệu quả hoạt động như ROA, tỷ lệ NPL và các hệ số vốn.
- Về nguy cơ rủi ro tín dụng: Kết quả kiểm định sức chịu đựng sử dụng các số liệu đã điều chỉnh cho thấy các ngân hàng có nguy cơ gặp phải rủi ro tín dụng và rủi ro tập trung cao.
Trước những hạn chế còn tồn tại của hệ thống ngân hàng, sau Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa XI), việc tái cấu trúc hệ thống NHTM ở Việt Nam được đặt ra và có lộ trình cụ thể. Cuối năm 2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đưa ra 4 mục tiêu của tái cơ cấu hệ thống ngân hàng bao gồm: (i) Lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng; (ii) Nâng cao năng lực cạnh tranh cho hệ thống ngân hàng; (iii) Cấu trúc lại cơ cấu hoạt động của hệ thống ngân hàng; (iv) Hệ thống ngân hàng phải hội nhập và có sức cạnh tranh với quốc tế.
94
Tiếp đó, ngày 01/03/2012, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Ðề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011-2015 kèm theo Quyết định 254/QÐ- TTg. Ðây được xem là một nỗ lực về mặt pháp lý quan trọng nhất cho quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của Việt Nam. Ngoài ra, để hỗ trợ cho quá trình cơ cấu lại các TCTD và bảo đảm cho các TCTD hoạt động an toàn, lành mạnh, Chính phủ và NHNN Việt Nam đã ban hành thêm các văn bản như: Nghị định số 01/2013/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của TCTD Việt Nam; Quyết định số 48/2013/QĐ- TTg ngày 1/8/2013 quy định về việc góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của TCTD được kiểm soát đặc biệt; các Thông tư của NHNN bao gồm các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro (Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013); kiểm soát, toán độc lập, cấp phép; quản lý mạng lưới; niêm yết cổ phiếu của các TCTD trên thị trường chứng khoán...
Theo lộ trình thực hiện, NHNN đã đề ra những nội dung của tái cấu trúc tập
trung vào các nội dung sau:
- Về vốn: NHNN yêu cầu các ngân hàng lớn tham gia mua cổ phần, tham gia vào quản trị điều hành và cơ cấu lại các khoản mục đầu tư; mua lại hoặc hợp nhất, sáp nhập nếu cần. NHNN cũng sẽ tham gia giám sát chặt chẽ quá trình này. Theo đó, nếu các ngân hàng không thể tự tái cấu trúc thì NHNN sẽ can thiệp và thậm chí tính đến việc hợp nhất hoặc sáp nhập. Trên thực tế, các ngân hàng nhỏ đều có vốn điều lệ dưới mức quy định tối thiểu (3.000 tỷ đồng) nên không thể tự mình tái cấu trúc nếu không có sự giúp đỡ từ bên ngoài. Vì vậy, NHNN cùng với các cơ quan giám sát và theo dõi của cơ quan quản lý để giúp các ngân hàng nhỏ tìm kiếm các đối tác nâng cao năng lực vốn, năng lực quản trị, đảm bảo thanh khoản và an toàn vốn.
- Về xử lý nợ xấu: NHNN đã ban hành Quyết định số 780/QÐ-NHNN ngày 23/04/2012 cho phép “các khoản nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ do TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng có chiều hướng tích cực và có khả năng trả nợ tốt sau khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ được giữ nguyên nhóm nợ như đã được phân loại theo quy định trước khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ”.
Ngoài ra, cơ quan này cũng đã có Văn bản số 2871/NHNN-TD yêu cầu 14 ngân hàng gồm: Agribank, BIDV, Vietinbank, Vietcombank, ACB, Eximbank, Sacombank, Techcombank, MB, MSB, VPBank, VIB, SeaBank và SHB chủ động, tích cực thực hiện các giải pháp xử lý nợ theo các quy định hiện hành; Thực hiện mua, bán nợ theo quy định tại Quyết định số 59/2006/QÐ-NHNN ngày 21/02/2006 về Quy chế mua, bán
95
nợ của TCTD, trong đó cho phép 14 ngân hàng mua bán nợ dưới dạng cho DN vay và nợ của các TCTD vay lẫn nhau.
- Về thanh khoản: NHNN đã phối hợp với các ngân hàng mạnh để cung cấp thanh khoản cho các ngân hàng yếu để giảm thiểu rủi ro thanh khoản của hệ thống. Ðồng thời, NHNN đã cho các ngân hàng gia hạn nợ đối với DN và cho phép nhóm 14 ngân hàng mua bán nợ dưới dạng cho DN vay và nợ của các TCTD vay lẫn nhau.
- Về quản trị ngân hàng: NHNN đã ban hành một số văn bản liên quan đến vấn đề này, đặc biệt là các thông tư thay thế Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD và Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 về việc ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD.
Quá trình thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam đã mang lại một
số kết quả cụ thể như sau:
Năm 2012, NHNN đã thực hiện phân loại các NHTM thành các nhóm để ấn
định mức rủi ro, cụ thể:
- Nhóm thứ 1: Các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh có năng lực và quy mô đủ lớn để tiếp tục phát triển thành những ngân hàng trụ cột, đủ sức cạnh tranh với khu vực và quốc tế. Ước tính có khoảng 15 ngân hàng loại này, chiếm khoảng 80% thị phần hoạt động của cả hệ thống ngân hàng.
- Nhóm thứ 2: Các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh nhưng có quy mô nhỏ, không có nhu cầu hoặc không có điều kiện phát triển quy mô cao hơn nữa. NHNN sẽ có quy định đảm bảo giám sát chặt chẽ cũng như phân khúc thị trường để đảm bảo cho các ngân hàng này hoạt động hiệu quả.
- Nhóm thứ 3: Ngân hàng đang có tình hình tài chính khó khăn cần phải cấu trúc lại. NHNN sẽ tham gia giám sát chặt chẽ, yêu cầu các ngân hàng tham gia mua cổ phần, tham gia vào quản trị điều hành và cơ cấu lại các khoản mục đầu tư; mua lại hoặc hợp nhất, sáp nhập nếu cần.
Năm 2012, NHNN tập trung củng cố thanh khoản hệ thống ngân hàng, lành mạnh hóa hoạt động tài chính của các NHTM mà trọng tâm là xử lý nợ xấu và minh bạch hóa tài chính và tái cơ cấu tổ chức, hoạt động và quản trị hệ thống ngân hàng. Năm 2013, NHNN chuyển sang giai đoạn hai của nhiệm vụ lành mạnh hóa tài chính hệ thống ngân hàng với việc tăng cường xây dựng các qui định về an toàn vốn, xử lý nợ xấu hệ thống qua việc thành lập Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam
96
(VAMC) và tăng cường quản trị rủi ro, hướng đến chuẩn mực Basel II. Kết quả là trong 2 năm, đã có 9 NHTM nhỏ đã được đưa vào chương trình phải thực hiện tái cơ cấu bắt buộc thông qua các biện pháp khác nhau như hợp nhất (SCB, Ficombank, TinnghiaBank), sáp nhập (Habubank vào SHB) và tự tái cơ cấu (TienphongBank, TrustBank, Navibank, Westernbank và GP Bank).
Năm 2014, NHNN hoàn thiện Thông tư số 13/2010/TT-NHNN với mục tiêu hướng các NHTM tiếp cận việc quản lý rủi ro theo Basel II. Năm 2015, NHNN tiếp tục triển khai quyết liệt và đồng bộ hơn giai đoạn 2 với trọng tâm tái cơ cấu, sáp nhập và xử lý nợ xấu. Cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi và ủng hộ hoạt động sáp nhập, hợp nhất trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với lợi ích, chiến lược kinh doanh của từng NHTM và bảo đảm tuân thủ các quy định của pháp luật, NHNN xem xét áp dụng biện pháp can thiệp, thông qua mua cổ phần và sáp nhập bắt buộc một số NHTM “dưới chuẩn”, với sự tham gia tích cực của các NHTM Nhà nước và khuyến khích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trong quý II/2015, thông qua hình thức mua bán và sáp nhập (M&A), hệ thống ngân hàng đã thực hiện cơ cấu một số ngân hàng như Sacombank-Southernbank, Vietinbank-PGBank, BIDV–MHB, Vietcombank- SaigonBank, MaritimeBank-MekongBank, EximBank- NamAbank.
Từ năm 2012 đến năm 2015, hệ thống NHTM và TCTD đã giảm bớt 5 NHTM
cổ phần thông qua hoạt động sáp nhập, hợp nhất (Đệ Nhất, Tín Nghĩa, Nhà Hà Nội,
Phương Tây, Đại Á) và NHNN đã mua lại 3 NHTM cổ phần (VNCB, OceanBank và
GPBank). Đồng thời, hai công ty tài chính đã được hợp nhất, giải thể; một công ty cho
thuê tài chính bị rút giấy phép; một công ty tài chính đã được NHNN ủng hộ chủ
trương bán lại cho tổ chức khác. Hiện hệ thống ngân hàng Việt Nam có một NHTM
nhà nước (Agribank), 37 ngân hàng TMCP (kể cả 3 NHTM đã bị NHNN mua lại với
giá 0 đồng), 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 1 ngân hàng
chính sách và 1 ngân hàng hợp tác xã.
Một số TCTD phi ngân hàng quá yếu kém, chi phí cơ cấu lại quá lớn so với lợi
ích đem lại từ việc duy trì hoạt động đang được tiếp tục rà soát, đánh giá và xem xét
xử lý. Một số tập đoàn và tổng công ty nhà nước đang trong quá trình đàm phán bán
lại công ty tài chính cho nhà đầu tư khác. Những TCTD phi ngân hàng hoạt động bình
thường cũng đang triển khai cơ cấu lại theo Quyết định số 254/QĐ-TTg để nâng cao
mức độ an toàn, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh…
Nhìn chung, quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD được thực hiện theo đúng
Đề án đã được phê duyệt, với những kết quả cụ thể: Hệ thống NHTM đã ngày càng cải
97
thiện được tính thanh khoản, đẩy lùi nguy cơ đổ vỡ; Giảm sở hữu chéo trong hệ thống
NHTM, giúp các ngân hàng tăng sức cạnh tranh trên thương trường; Số dư tiền gửi
của TCTD tại NHNN luôn cao hơn so với yêu cầu dự trữ bắt buộc.
Chính sách mở cửa lĩnh vực ngân hàng
Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 22/2006/NĐ-CP ngày
28/2/2006, trong đó quy định các loại hình các TCTD nước ngoài được phép hoạt
động tại Việt Nam bao gồm: chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh,
ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài tại Việt
Nam. Trên cơ sở đó, hoạt động của các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài trên
thị trường Việt Nam đang ngày càng mở rộng, nhất là từ sau khi Việt Nam gia nhập
WTO. Các tổ chức này đều là những ngân hàng và tổ chức tài chính lớn, có uy tín và
độ an toàn cao, có khả năng cạnh tranh tốt. Mặc dù thị phần hoạt động của các TCTD
nước ngoài vẫn còn ở mức khiêm tốn (khoảng 10%), nhưng có vị trí quan trọng trong
hệ thống các định chế tài chính tại Việt Nam. Các TCTD nước ngoài là kênh truyền
dẫn vào Việt Nam các công nghệ ngân hàng hiện đại và kinh nghiệm quản trị ngân
hàng tiên tiến, đồng thời bổ sung nguồn tài chính không nhỏ cho thị trường tài chính
Việt Nam .
Sau khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO thì việc mở cửa trong
lĩnh vực ngân hàng đã sâu rộng hơn nhiều so với trước đây. Về tổng thể, các cam kết
gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng đã cho phép các TCTD nước
ngoài được hiện diện ở Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau, mở rộng phạm vi
và loại hình cung cấp các dịch vụ ngân hàng, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các
ngân hàng.
Chính sách đẩy mạnh huy động nguồn vốn trong và ngoài nước
Với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản sẽ trở thành một nước công
nghiệp, nhu cầu đầu tư để thực hiện công nghiệp hóa là rất lớn. Vốn đầu tư cho công
nghiệp hóa được huy động theo phương châm “vốn trong nước là chính, vốn ngoài
nước là quan trọng”
Nguồn vốn dành cho tín dụng ưu đãi đã được đa dạng hóa qua các thời kỳ.
Nếu thời kỳ trước năm 1995, nguồn vốn tín dụng ưu đãi chủ yếu do ngân sách nhà
Nước cấp thì bắt đầu từ năm 1996, nguồn vốn dành cho tín dụng ưu đãi được huy
động bằng nhiều hình thức khác nhau như phát hành trái phiếu, huy động tiết kiệm
trong dân cư, vay các tổ chức tài chính và huy động từ nguồn vốn ODA cho vay lại.
98
2.3.3.2. Những chính sách Nhà nước tác động đến sự phát triển của chủ thể sử dụng dịch vụ tín dụng
Đối với doanh nghiệp
DNNVV có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, chiếm tỷ lệ cao trong tổng các loại hình doanh nghiệp của Việt Nam và là khu vực có vai trò rất quan trọng trong tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển. Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng nhiều chính sách cho loại hình doanh nghiệp này, cụ thể là: Nghị định số 56/2009/NĐ- CP ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển DNNVV thay thế Nghị định số 90/2001/NĐ- CP 23/10/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV; Nghị quyết số 22/NQ- CP ngày 05/5/2010 về việc triển khai thực hiện Nghị định số 56/2009/NĐ-CP nhằm triển khai thực hiện tích cực, đồng bộ các chính sách trợ giúp phát triển và phát huy mọi khả năng và nguồn lực đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNVV; Quyết định số 1231/QĐ-TTg về Phê duyệt Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011 – 2015. Trên cơ sở đó, các kế hoạch phát triển DNNVV 5 năm và hằng năm đã được các bộ, cơ quan ngang bộ và các địa phương và một số tổ chức hiệp hội bước đầu bố trí nguồn lực để triển khai thực hiện.
Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ DNNVV trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số hạn chế cơ bản, đó là: (i) Tỷ lệ DNNVV tham gia và thụ hưởng các chương trình hỗ trợ chính sách của Nhà nước còn ở mức khiêm tốn; (ii) Tác động hoạt động trợ giúp đối với DNNVV chưa thể hiện rõ, chưa có trọng tâm, chưa ưu tiên cho ngành trọng điểm, chưa hỗ trợ phát triển cho các cụm liên kết ngành; (iii) Nguồn lực dành cho trợ giúp phát triển DNNVV còn phân tán, trình tự thủ tục để thụ hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho DNNVV…
Đối với cá nhân
NHNN Việt Nam đã phối hợp với Bộ Xây dựng soạn thảo chính sách cho vay hỗ trợ đối với người mua, thuê và thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở thương mại có diện tích và giá cả hợp lý. NHNN cam kết dành 30.000 tỷ đồng để tái cấp vốn cho các NHTM để cho vay các đối tượng thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức và lực lượng vũ trang với lãi suất khoảng 6%/năm và thời hạn tới 10 năm.
Riêng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, NHNN xác định đây là lĩnh vực ngành ngân hàng cần tập trung đầu tư vốn để phát triển sản xuất, bảo đảm an sinh-xã hội. Vì vậy, NHNN đã xây dựng cơ chế tín dụng đặc thù đối với những ngành, lĩnh vực quan trọng của đất nước và ảnh hưởng đến số đông người dân như lúa gạo, chăn nuôi, thuỷ sản, nhà ở cho người nghèo đã góp phần bảo đảm an sinh-xã hội khu vực
99
nông thôn, đồng thời yêu cầu các TCTD phải cân đối nguồn vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho lĩnh vực này.
2.3.4. Bài học kinh nghiệm cho CHDCND Lào
Trong vòng 20 năm qua, có một quan điểm hầu như phổ biến rằng, vai trò của Nhà nước trong hệ thống tài chính nên hạn chế trong phạm vi hỗ trợ tạo môi trường hoạt động và quản lí, giám sát các tổ chức tài chính tư nhân. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang buộc người ta phải thay đổi quan điểm về vai trò của Nhà nước theo hướng ủng hộ các phương pháp can thiệp nhiều hơn, bao gồm cả việc sử dụng các tổ chức tài chính Nhà nước để thực hiện các mục tiêu của chính sách công. Các tổ chức tài chính Nhà nước có thể đóng vai trò hữu ích trong hỗ trợ đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng trong bối cảnh khủng hoảng tài chính với những điều kiện nhất định. Hiệu quả hoạt động hỗ trợ của các tổ chức tài chính Nhà nước, về cơ bản, phụ thuộc vào bản chất cơn sốc (cung tín dụng trì trệ hay cầu tín dụng sụt giảm) và vào khả năng của các tổ chức tài chính Nhà nước trong cho vay đầu tư cơ sở hạ tầng và tận dụng sở trường của các ngân hàng tư nhân để khuếch đại hiệu ứng lan tỏa của chúng.
Một trong những nhân tố quyết định góp phần vào việc sử dụng thành công các tổ chức tài chính Nhà nước là xây dựng một khuôn khổ thể chế lành mạnh - với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng, bền vững, các chuẩn mực quản trị công ty cao, quản lí và giám sát chặt chẽ, và dựa trên kỉ luật thị trường nhằm cung cấp những tín hiệu đúng cho các cổ đông lớn.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cuối năm 2007, đầu năm 2008 khởi đầu từ nước Mỹ, sau đó lan tỏa ra khắp thế giới đã làm bộc lộ rõ khiếm khuyết của mô hình kinh tế thị trường tự do Âu Mỹ, buộc nhiều nước phải có những điều chỉnh khắc phục các khiếm khuyết theo hướng tiết kiệm nhiều hơn, đảm bảo phát triển cân bằng hơn giữa hệ thống tài chính và nền kinh tế thực, tái cơ cấu kinh tế đi đôi với cải cách thể chế, tăng cường vai trò điều tiết của Nhà nước nhằm khắc phục khiếm khuyết của thị trường, nâng cao năng lực giám sát và ứng phó với khủng hoảng, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.
Các giải pháp tín dụng được điều hành theo hướng mở rộng đi đôi với an toàn hoạt động của hệ thống TCTD, cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tập trung vào hoạt động sản xuất - kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ.
Dựa trên những kinh nghiệm của các nước trong chính sách phát triển dịch vụ tín dụng, trong bối cảnh khủng hoảng và tình trạng suy kiệt tín dụng Lào có thể áp dụng những biện pháp sau đây nhằm mở rộng tín dụng cho các đối tượng và lĩnh vực
100
ưu tiên, quy định cho vay hỗ trợ các lĩnh vực ưu tiên cần bao hàm các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý đầy đủ và đồng bộ: Xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý một cách đầy đủ và đồng bộ giữa luật và văn bản hướng dẫn thi hành theo như kinh nghiệm của các nước đối với các hình thức cấp tín dụng. Chú trọng đến việc xác định rõ ràng các hình thức cấp tín dụng, các loại hình và phương thức cấp tín dụng. Ban hành quy định hướng dẫn chi tiết các hình thức cấp tín dụng, tạo thuận lợi cho các NHTM dễ dàng triển khai và khách hàng thuận lợi trong tiếp cận đa dạng các hình thức, loại và phương thức cấp tín dụng. Quy định chi tiết về cấp tín dụng cho các lĩnh vực để các NHTM áp dụng.
Thứ hai, ban hành các quy định hướng dẫn thực hiện các hình thức cấp tín dụng đồng bộ và kịp thời và phù hợp với các luật hiện hành: Pháp luật tại các nước đều có hướng dẫn chi tiết đối với các hình thức cấp tín dụng; một số nước còn hình thành bộ luật riêng biệt đối với một số hình thức cấp tín dụng, để quản lý, điều tiết chặt chẽ hơn đối với hoạt động tín dụng. Cụ thể như Luật tín dụng tiêu dùng và Luật bảo lãnh tại Trung Quốc. Tại Việt Nam, nhiều quy định pháp luật đối với từng hình thức cấp tín dụng đã ban hành theo Luật các TCTD năm 1997 không phù hợp với Luật các TCTD năm 2010, cần xây dựng và ban hành các quy định mới để thay thế, hướng dẫn và tạo điều kiện cho các NHTM triển khai đa dạng hóa HĐTD.
Thứ ba, xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng bảo đảm tính khả thi: Xây dựng và triển khai kế hoạch tăng trưởng tín dụng, điều chỉnh cơ cấu tín dụng dựa vào ngành nghề hoặc quy mô của khách hàng và quy mô hoạt động tín dụng để đảm bảo tính khả thi của kế hoạch. Chỉ đạo thường xuyên các NHTM tối ưu hóa cơ cấu tín dụng, kiểm soát các khoản cấp tín dụng đa dạng hình thức, tăng cường cấp tín dụng vào các lĩnh vực nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa theo kinh nghiệm của Trung Quốc. Các hình thức cấp tín dụng cần được mở rộng tới toàn bộ nền kinh tế, phục vụ các lĩnh vực, có tiềm năng phát triển được nêu trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn . Tại Việt Nam, nhiều năm công tác xây dựng và triển khai kế hoạch tăng trưởng tín dụng của các NHTM hàng năm đều cùng một chỉ tiêu chung, đã dẫn đến việc tăng trưởng tín dụng vượt quá mức kiểm soát của một số NHTM. Cơ cấu tín dụng một số NHTM mất cân đối, chỉ tập trung cấp tín dụng vào một số lĩnh vực, trong đó bao gồm các lĩnh vực rủi ro cao như lĩnh vực kinh doanh bất động sản, đầu tư chứng khoán. Do vậy, việc xây dựng và triển khai kế hoạch tăng trưởng tín dụng hàng năm cho các NHTM cần dựa vào ngành nghề hoặc quy mô của KH, quy mô tín dụng để đảm bảo tăng trưởng tín dụng theo cơ cấu phù hợp với cơ cấu các ngành, các lĩnh vực kinh tế; bên cạnh cần xét đến các yếu tố về năng lực tài chính, khả năng huy động vốn, năng lực quản trị, quản lý rủi ro,…
101
Thứ tư, kiểm tra, thanh tra, giám sát HĐTD của các NHTM theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế: Coi trọng việc đảm bảo sự lành mạnh trong HĐTD của các NHTM, một số nước xây dựng bộ luật riêng để điều chỉnh hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát quá trình đa dạng hóa HĐTD như Luật Quản lý và Giám sát Ngân hàng năm 2003 của Trung Quốc. Bên cạnh, tại nhiều nước ban hành các văn bản hướng dẫn các NHTM kiểm soát rủi ro hoạt động tín dụng trên cơ sở thông lệ và chuẩn mực quốc tế; hướng dẫn kiểm soát quản lý rủi ro đối với từng hình thức cấp tín dụng.
Hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng của các NHTM tại Việt Nam chủ yếu về tính tuân thủ, tập trung vào phát hiện các sai phạm, phạm vi thanh tra giám sát ngân hàng chưa toàn diện, nên chưa xác định đúng tính chất, mức độ rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng và từng hình thức cấp tín dụng của các NHTM. Do vậy, cần thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát các NHTM một cách có hiệu quả, theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế như kinh nghiệm của nhiều nước, nhằm duy trì lòng tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, thông qua việc công khai, minh bạch và góp phần hạn chế rủi ro trong quá trình đa dạng hóa hoạt động tín dụng.
Thứ năm, thực hiện một số hoạt động hỗ trợ và thúc đẩy của Nhà nước đối với quá trình đa dạng hóa hoạt động tín dụng: Đa dạng hóa hoạt động tín dụng cùng với việc cải cách trong lĩnh vực ngân hàng, thúc đẩy hoàn thiện các quy định pháp luật đối với các hình thức cấp tín dụng, xây dựng lộ trình mở cửa đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng như trường hợp của Trung Quốc. Việt Nam đang thực hiện theo lộ trình cải cách hoạt động ngân hàng, triển khai thực hiện. Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 là ưu tiên vốn tín dụng cho sản xuất, phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ, sản xuất-chế biến, DNNVV; đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng, tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống và phát triển nhanh các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Đây là các định hướng quan trọng đối với đa dạng hóa hoạt động tín dụng, góp phần cung cấp đa dạng các hình thức, loại và phương thức cấp tín dụng có chất lượng cao, tạo tiện ích cho nền kinh tế.
Nhà nước tạo điều kiện phát triển hoạt động thông tin tín dụng đa dạng phục vụ cho nhu cầu phát triển hoạt động tín dụng. Hoạt động cung cấp thông tin tín dụng được nhiều quốc gia chú trọng phát triển, hình thành khung pháp lý đầy đủ, cung cấp thông tin tín dụng đa dạng, tạo thuận lợi cho phát triển hoạt động tín dụng đa dạng các hình thức. Nhà nước hỗ trợ quá trình phát triển hoạt động tín dụng qua việc chú trọng huấn luyện, đào tạo kỹ năng quản lý tài chính, cung cấp thông tin cho người dân và doanh nghiệp. Các hoạt động này có ý nghĩa quan trọng đối với chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng.
102
Kết luận Chương 2
Chương 2 đã luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển dịch vụ tín dụng và chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng, trong đó, đặc biệt quan trọng là nội dung của chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng với hướng tiếp cận thương mại là tập trung vào ba trụ cột: Chính sách Nhà nước về phát triển chủ thể cung ứng dịch vụ tín dụng; Chính sách Nhà nước về phát triển chủ thể sử dụng dịch vụ tín dụng; và Chính sách Nhà nước về phát triển sản phẩm dịch vụ tín dụng. Đây là một hướng tiếp cận mới, mang tính toàn diện, góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững của lĩnh vực tín dụng tại mỗi quốc gia nói chung và tại Lào nói riêng. Bên cạnh đó, Chương 2 cũng đề xuất hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng mang tính toàn diện, bao gồm: Tính hiệu lực; Tính hiệu quả; Tính phù hợp; Tính công bằng; Tính bền vững; và Tính kịp thời, đồng thời, làm rõ các điều kiện hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển DVTD, bao gồm cả điều kiện chủ quan và khách quan. Ngoài ra, Chương 2 cũng đã tập trung phân tích làm rõ thực trạng phát triển tín dụng của các quốc gia bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam, từ đó chỉ ra những bài học thành công cũng như chưa thành công của những quốc gia này trong vấn đề phát triển dịch vụ tín dụng. Dựa trên những bài học kinh nghiệm này, CHDCND Lào có thể rút ra những bài học cho mình và sớm áp dụng nhằm hoàn thiện chính sách Nhà nước góp phần thúc đẩy sự phát triển dịch vụ tín dụng trong nền kinh tế. Về cơ bản, muốn hoàn thiện chính sách về phát triển dịch vụ tín dụng, CHDCND Lào phải chú trọng vào việc tạo dựng một khuôn khổ pháp lý minh bạch, rõ ràng cho hoạt động của các TCTD; chú trọng nâng cao năng lực của các TCTD, thúc đẩy đa dạng hóa dịch vụ tín dụng, đồng thời đảm bảo tính an toàn của toàn hệ thống; thực hiện chính sách ưu đãi về tín dụng thực sự đối với các ngành công nghiệp trọng điểm trong từng giai đoạn của quá trình công nghiệp hóa; vận dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ.
103
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÍN DỤNG Ở CHDCND LÀO
3.1. Thực trạng phát triển kinh tế-xã hội của CHDCND Lào
Trong giai đoạn 2000 – 2010, nền kinh tế nước CHDCND Lào có sự phát triển nhanh chóng và ổn định. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm đạt khoảng 7,1%. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 2,8%, công nghiệp 10,5% và dịch vụ 9,2%. Tương ứng với tốc độ tăng trưởng của toàn nền kinh tế, GDP bình quân đầu người của Lào đã tăng từ 325 USD năm 2000 lên 1.069 USD năm 2010. Cơ cấu kinh tế quốc gia cũng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong giai đoạn 2000 – 2010, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 48,03% xuống còn 31%; Tỷ trọng công nghiệp tăng từ 19,74% lên 27,7%; đặc biệt tỷ trọng dịch vụ đã tăng từ 32,23% lên 41,3%.
Tiếp theo những thành tựu của giai đoạn 2000 – 2010, trong năm 2015, CHDCND Lào tiếp tục đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, 7,2%/năm. Động lực tăng trưởng chủ yếu trong năm này vẫn thuộc về ngành dịch vụ với tốc độ tăng trưởng đạt 8,5%/năm, chiếm 43,2% tổng GDP; tiếp đến là ngành công nghiệp với tốc độ tăng trưởng đạt 7,6%/năm, chiếm 32% tổng GDP; ngành nông nghiệp đứng thứ ba với tốc độ tăng trưởng 2,4%/năm, chiếm 24,8% tổng GDP. GDP bình quân đầu người tăng từ 1.069 USD năm 2010 lên 1.824 USD năm 2015, tăng hơn 1,7 lần. Tỷ lệ lạm phát năm 2015 là 5,3%, một kết quả tương đối khả quan so với mức lạm phát trong giai đoạn từ năm 2010 trở lại đây.
Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế Lào giai đoạn 2000-2015
Đơn vị tính: %
STT Ngành 2005 2010 2015 2000
37 31 24,8 48,03 Nông nghiệp 1
23,5 27,7 32 19,74 Công nghiệp 2
39,5 41,3 43,2 32,23 Dịch vụ 3
Nguồn: Cục Kế hoạch và Viện Thống kê Quốc gia
100 100 100 100 TỔNG CỘNG
104
Tương ứng với sự chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế, tỷ trọng lao động trong lĩnh
vực nông nghiệp đã giảm từ 78,5% năm 2005 xuống còn 70% năm 2010 và 65% trong
năm 2015. Tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp, xây dựng và khai thác mỏ tăng
từ 4,8% năm 2005 lên 7% năm 2010 và 8,9% trong năm 2015 và tỷ trọng lao động
trong ngành dịch vụ tăng từ 16,7% năm 2005 lên đến 23% năm 2010 và 26,1% trong
năm 2015.
Hoạt động thương mại quốc tế của Lào trong thời gian qua cũng có nhiều khởi
sắc. Trong giai đoạn 2000 – 2015, kim ngạch xuất khẩu của Lào đã tăng từ 327 triệu
USD lên 3.305,3 triệu USD, tăng gấp hơn 10 lần, với tốc độ tăng trưởng bình quân giai
đoạn 2000 – 2010 đạt 19,59% và giai đoạn 2011 – 2015 đạt 14,1%/năm; Kim ngạch
nhập khẩu của Lào cũng tăng mạnh từ 595 triệu USD lên 4.700 triệu USD, tăng gấp
7,9 lần. Đạt được những thành tựu lớn như trên một phần là do trong những năm qua,
CHDCND Lào đã rất tích cực theo đuổi chủ trương hội nhập khu vực và toàn cầu, đẩy
mạnh hợp tác với các nước bạn bè và các đối tác chiến lược, nổi bật là các dấu mốc:
gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1997; gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) năm 2013 và gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN
(AEC) vào ngày 31/12/2015. Mặt khác, kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng gia
tăng trong những năm qua cũng do Chính phủ Lào đã thực thi nhiều biện pháp nhằm
cải thiện cơ chế thương mại quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập
khẩu hàng hóa của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động thương mại quốc tế của Lào
hiện nay vẫn còn tồn tại một hạn chế lớn đó là cán cân thương mại liên tục thâm hụt,
đặc biệt năm 2014 thâm hụt lên đến 1.609,21 triệu USD, cao nhất từ năm 2000 trở lại
đây. Năm 2015, thâm hụt cán cân thương mại đã giảm xuống, song vẫn ở mức cao,
1.394,7 triệu USD.
Bảng 3.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Lào giai đoạn 2000-2015
Đơn vị: Triệu USD
TT
2000 2005
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Hoạt động
1 Xuất khẩu
327 553,1 1.746,36 2.189,55 2.270,67 2.263,94 2.662,02 3.305,3
2 Nhập khẩu
595 882,0 2.060,42 2.404,20 3.055,12 3.080,93 4.271,23
4.700
3 Cán cân thương mại -268 - 328,9
-314,06
-214,65
-784,45
-817 -1.609,21 -1.394,7
Nguồn: Báo cáo thường niên các năm của NHNN Lào; Thống kê Bộ Công Thương Lào
105
Nhìn chung, CHDCND Lào là một quốc gia có nền chính trị xã hội ổn định.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức cao trong những năm qua, bình
quân 7%/năm, đã tạo điều kiện cho phát triển kinh tế xã hội đặc biệt là hoạt động kinh
doanh, sản xuất, dịch vụ và đầu tư. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế của Lào hiện nay
vẫn chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, và việc quản lý và sử dụng tài
nguyên thiên nhiên trong nhiều trường hợp chưa được bền vững và chưa thân thiện với
môi trường. Do đó, đây là một vấn đề cần phải được xem xét và giải quyết sớm. Về
mặt xã hội, cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội của Lào trong những năm qua đã có nhiều
cải thiện, đời sống của người dân ngày càng được đảm bảo, chất lượng lao động được
nâng cao, tỷ lệ thất nghiệp giảm, giáo dục đào tạo được chú trọng.
3.2. Thực trạng thị trường dịch vụ tín dụng ở nước CHDCND Lào
3.2.1. Quá trình hình thành và phát triển các tổ chức tín dụng tại nước CHDCND Lào
Các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào gồm có: Các Ngân
hàng thương mại và các tổ chức tài chính phi ngân hàng; Trong đó, việc cung cấp dịch
vụ tín dụng của các NHTM chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường, đạt khoảng 95%. Quá
trình phát triển các tổ chức tín dụng tại Lào có thể chia thành 2 giai đoạn như sau:
Quá trình phát triển trước năm 1986
Trong thời kỳ Pháp thuộc, tại Lào chỉ có một Chi nhánh của Ngân hàng Đông
Dương. Năm 1952 và 1953, các nhà tư sản tư nhân Lào đã thành lập 03 ngân hàng
chuyên doanh với mọi hoạt động thuộc sự kiểm soát của Chi nhánh Ngân hàng Đông
Dương. Năm 1958, chính quyền Vương Quốc Lào đã chính thức thành lập “Ngân hàng
Quốc gia Vương Quốc Lào”. Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Vương Quốc Lào và
đồng tiền Kíp Lào đã tạo lập được một nền tiền tệ độc lập và tự chủ cho Lào.
Sau khi đất nước được giải phóng, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào được
thành lập ngày 02 tháng 12 năm 1975, hệ thống ngân hàng được chính quyền cách
mạng thu hồi và tổ chức điều chỉnh lại hoạt động. Năm 1981, Ngân hàng quốc gia
Vương quốc Lào được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Lào (NHNN Lào), đồng
tiền Kíp Lào được sử dụng và di chuyển rộng rãi trên khắp đất nước Lào.
NHNN Lào hoạt động theo mô hình một cấp. Đây là Ngân hàng duy nhất có chi
nhánh từ trung ương đến địa phương, là cơ quan thuộc hội đồng Bộ trưởng, có tư cách
106
pháp nhân, có vốn riêng, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế thống nhất và
quản lý toàn ngành. Cơ cấu bộ máy NHNN Lào gồm có: đứng đầu là thống đốc
NHNN Lào, là thành viên của hội đồng Bộ trưởng và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt
động của ngành ngân hàng do Đảng và Nhà nước Lào giao phó. Dưới thống đốc là 4
phó thống đốc, chịu trách nhiệm theo ủy quyền của Thống đốc, và sau đó là các Vụ,
Cục là các đơn vị giúp việc cho Thống đốc thực hiện chức năng quản lý về tiền tệ, tín
dụng ngân hàng và kinh doanh theo cơ chế kế hoạch hóa. Ngoài các Vụ, Cục thì còn
có 18 chi nhánh NHNN cấp tỉnh và 108 ngân hàng cấp huyện hoặc thành phố trực
thuộc các tỉnh. Hệ thống ngân hàng trong thời gian đó không biểu hiện rõ ràng vai trò
của mình, bởi vì đó là hệ thống ngân hàng một cấp, có sự lẫn lộn giữa vai trò quản lý
vĩ mô và tổ chức hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Quá trình phát triển từ năm 1986 đến nay
Qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt, đất nước Lào bước vào thời bình
với những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại, kinh tế chậm phát triển, đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn. Đại hội lần thứ IV của Đảng Nhân dân cách mạng Lào
năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó khâu then chốt là thực hiện
mở cửa, điều chỉnh mạnh mẽ cơ cấu nền kinh tế để từng bước đưa CHDCND Lào hội
nhập với dòng chảy chung của khu vực và thế giới.
Trên cơ sở chính sách đổi mới của Chính phủ năm 1986, Nghị quyết về chuyển
đổi hệ thống ngân hàng sang cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa số 11/CHDCND Lào đã được Chính phủ thông qua vào ngày 12/03/1988. Từ
thời điểm đó, hệ thống ngân hàng của Lào đã có những thay đổi đáng kể trong bối
cảnh đất nước chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Khởi đầu của những thay đổi đó là việc chuyển hệ thống
ngân hàng từ một cấp sang hai cấp là Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Ngân hàng
Thương mại (NHTM). 19 chi nhánh NHNN ngày xưa trên toàn quốc được chuyển đổi
thành 07 NHTM ở các miền và thực hiện vai trò kinh doanh về tiền tệ. Việc thành lập
NHTM theo đường lối đổi mới đã tách bạch vai trò kinh doanh của NHTM với vai trò
quản lý vĩ mô của NHNN. Cũng trong năm 1988, Nghị định số 03/PM về việc quản lý
các hoạt động kinh doanh của NHTM và các tổ chức tài chính đã được Thủ Tướng phê
duyệt. Năm 1989, hội nghị lần đầu tiên của hệ thống Ngân hàng Lào trên cả nước về
phương hướng đổi mới của hệ thống Ngân hàng đã được tổ chức. Năm 1990, để thực
107
hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, Quốc hội Lào đã thông qua Luật tổ
chức Ngân hàng của CHDCND Lào, cho phép các tổ chức trong và ngoài nước lập chi
nhánh ngân hàng tại Lào, từ đó đã xuất hiện nhiều loại hình ngân hàng tại Lào như
ngân hàng liên doanh, ngân hàng cổ phần...
Một hệ thống khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh điều tiết lĩnh vực ngân hàng trong
nền kinh tế quốc dân được hình thành đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
các TCTD tại CHDCND Lào, đặc biệt là hệ thống ngân hàng thương mại. Cùng với sự
hoàn thiện về mặt thể chế và mức độ hội nhập ngày càng sâu rộng của CHDCND Lào
vào nền kinh tế khu vực và thế giới, số lượng các NHTM dưới nhiều hình thức sở hữu
19
11
9
8
7
6
6
4
3
3
3
3
3
2
2
2
1
1
1
0
20 18 16 14 12 10 8 6 4 2 0
2000
2005
2010
2015
Ngân hàng thương mại Nhà nước
Ngân hàng thương mại tư nhân
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Văn phòng đại lý ngân hàng nước ngoài
Ngân hàng liên doanh
thực hiện hoạt động kinh doanh trên thị trường CHDCND Lào ngày càng tăng lên.
Nguồn: Báo cáo Thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào các năm 2000, 2005, 2010, 2015
Hình 3.1: Số lượng NHTM thực hiện hoạt động kinh doanh tại CHDCND Lào giai đoạn 2000 - 2015
Nhìn vào Hình 3.1 ta có thể thấy sự tăng trưởng không ngừng qua các năm của
hệ thống NHTM tại CHDCND Lào trong suốt giai đoạn 2000 – 2015. Số lượng
NHTM tư nhân đã tăng từ con số không năm 2000 lên 07 ngân hàng năm 2015. Số
lượng chi nhánh ngân hàng nước ngoài có sự tăng trưởng mạnh mẽ nhất khi tăng từ 06
ngân hàng năm 2000 lên 19 ngân hàng năm 2015, đồng thời đây cũng là loại hình ngân
hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất tại CHDCND Lào hiện nay. Trong giai đoạn 2000 –
2015, số lượng văn phòng đại lý ngân hàng nước ngoài cũng tăng từ 02 văn phòng lên
09 văn phòng; trong khi số lượng ngân hàng liên doanh về cơ bản ổn định ở mức 03
108
ngân hàng. Có thể thấy, các NHTM có vốn đầu tư nước ngoài là loại hình ngân hàng
chiếm đa số trong toàn hệ thống ngân hàng của CHDCND Lào. Một nguyên nhân có
thể lý giải cho điều này, đó là CHDCND Lào luôn được xem là một thị trường rất thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài với quỹ đất dồi dào và có nhiều chính sách ưu đãi hấp
dẫn cho các nhà đầu tư.
Số lượng NHTM Nhà nước đã giảm từ 04 ngân hàng năm 2000 xuống còn 03
ngân hàng năm 2005 và tiếp tục ổn định ở mức 03 ngân hàng cho đến nay. Ba NHTM
Nhà nước của Lào bao gồm: Ngân hàng Ngoại thương Lào, Ngân hàng Phát triển Lào,
và Ngân hàng Khuyến khích Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Sở dĩ có sự thay
đổi về mặt số lượng NHTM Nhà nước trong giai đoạn 2000 – 2005 là do trong năm
2003, Chính phủ Lào đã thực hiện chính sách đổi mới cơ cấu hệ thống ngân hàng, thực
hiện sáp nhập các NHTM Nhà nước với nhau. Ngân hàng Phát triển Lào được thành
lập trên cơ sở sự sáp nhập của hai ngân hàng (Ngân hàng Lane Xang và Ngân hàng
LaoMay).
Tính đến năm 2015, sau gần 30 năm đổi mới, tổng số NHTM tại Lào đã đạt 41
ngân hàng (Hình 3.2). Ngoài 03 ngân hàng Nhà nước chiếm tới 60% thị phần, nước
CHDCND Lào còn có 03 ngân hàng liên doanh, 07 ngân hàng thương mại tư nhân, 09
đại lý văn phòng nước ngoài và 19 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Riêng trong năm
2014 đã có tới 05 Ngân hàng được thành lập mới, bao gồm: Ngân hàng Lào-Trung
Quốc; Ngân hàng RSB Lào; Ngân hàng CIMB Thái, chi nhánh Thủ đô Viêng Chăn;
Ngân hàng Khasikon Thái và Ngân hàng Carthe Unitet, chi nhánh Thủ đô Viêng Chăn.
Với xu hướng tương tự, trong năm 2015 tiếp tục có thêm 05 ngân hàng được thành lập
mới, bao gồm: 03 Văn phòng đại lý ngân hàng nước ngoài (Ngân hàng Viettin Lào;
Ngân hàng Canadia Lào; Ngân hàng Saigon-Ha noi Lào) và 02 Chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài (Ngân hàng Bangkok, chi nhánh Pakse, Ngân hàng Malayan, chi nhánh
Nongduang (Viêng Chăn)).
109
Ngân hàng Nhà nước Lào
Ngân hàng Liên doanh Ngân hàng thương mại Nhà nước
1. Ngân hàng Liên doanh Lào-Việt. 2. Ngân hàng Lào-Pháp 3. Ngân hàng Lào- Trung quốc
1. Ngân hàng Ngoài thương Lào. 2. Ngân hàng Phát triển Lào. 3. Ngân hàng Khuyến khích Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Văn phòng Đại lý Ngân hàng Nước ngoài 1. Ngân hàng ANZ Lào. 2. Ngân hàng Acilida Lào. 3. Ngân hàng Thương mại Quốc tế. 4. Ngân hàng Liên doanh thương mại Sài Ngòn Thương tính (Sacombank). 5. Ngân hàng AHB Lào. 6. Ngân hàng Kasikon Thái. 7. Ngân hàng Viettin Lào 8. Ngân hàng Canadia Lào 9. Ngân hàng Saigon-Ha noi Lào
Chi nhánh Ngân hàng Nước ngoài 1. Ngân hàng Kung thêp, chi nháhn Thủ đô Viêng Chăn. 2. Ngân hàng Kung thai, chi nhánh Thủ đô Viêng Chăn. 3. Ngân hàng Kung si ,chi nhánh Thu đô Viêng Chăn. 4. Ngân hàng Quân đội Thái, chi nhánh Thủ đô Viêng Chăn 5. Ngân hàng Thương mại Thái, chi nhánh Thủ đô Viêng Chăn. 6. Ngân hàng Public Berad 7. Ngân hàng Public, chi nhánh Si khay 8. Ngân hàng Public, chi nhánh Sa Văn Na Khệt 9. Ngân hàng Kung si, chi nhánh Sa Văn Na Khệt 10. Ngân hàng Cổ phần Thương mại Quân đội, chi nhánh Lào 11. Ngân hàng Công thương Trung quốc (ICBC). 12. Ngân hàng Công thương Việt Nam (Việttinbank), chi nhánh Lào 13. Ngân hàng Thương mại Sài Ngòn-Hà Nội, chi nhánh Lào 14. Ngân hàng Public, chi nhánh Pakse 15. Ngân hàng May, chi nháhn Lào 16. Ngân hàng CIMB Thái, chi nhánh Viêng Chăn. 17. Ngân hàng Carthe Unitet, chi nhánh Viêng Chăn. 18. Ngân hàng Bangkok, chi nhánh Pakse 19. Ngân hàng Malayan, chi nhánh Nongduang (Viêng Chăn)
Ngân hàng thương mại tư nhân 1. Ngân hàng Liên phát triển. 2. Ngân hàng Phông sa văn. 3. Ngân hàng ST. 4.Ngân hàng Indochina. 5. Ngân hàng Buyong. 6. Ngân hàng Xây dựng Lào. 7. Ngân hàng Maruhan Nhận-Lào
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Lào
Hình 3.2: Cấu trúc hệ thống Ngân hàng CHDCND Lào năm 2015
110
Hình 3.3 dưới đây biểu diễn sự thay đổi về tỷ trọng tài sản và tiền gửi của các loại hình NHTM tại CHDCND Lào trong giai đoạn 2008 – 2013. Nhìn vào Hình ta có thể thấy một số đặc điểm sau trong quá trình phát triển hệ thống ngân hàng tại CHDCND Lào:
Thứ nhất, mặc dù số lượng NHTM Nhà nước tại CHDCND Lào chiếm tỷ trọng không đáng kể trong hệ thống ngân hàng tại Lào (chỉ có 03 ngân hàng), song lại chiếm một tỷ trọng lớn về tài sản và lượng tiền gửi trong toàn hệ thống ngân hàng. Cụ thể về tài sản chiếm gần 50% và về tiền gửi chiếm trên dưới 60% lượng tiền gửi toàn hệ thống. Điều này cho thấy các NHTM Nhà nước tại CHDCND Lào vẫn đóng một vai trò rất quan trọng trong hệ thống ngân hàng tại Lào cũng như có những đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế quốc gia.
Thứ hai, hệ thống ngân hàng nước ngoài với sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng trong những năm gần đây, đã kéo theo sự gia tăng về tỷ trọng tài sản xét trong toàn hệ thống ngân hàng nước CHDCND Lào, cụ thể tăng từ 13% năm 2008 lên 18% năm 2013. Lượng tiền gửi vào các ngân hàng nước ngoài tại Lào cũng ngày càng tăng lên qua các năm, chiếm khoảng 10% lượng tiền gửi toàn hệ thống. Sự gia tăng nhanh chóng của các ngân hàng nước ngoài tại Lào trong những năm gần đây cho thấy lĩnh vực tài chính của CHDCND Lào đã và đang rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và các ngân hàng nước ngoài ngày càng trở thành một bộ phận ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của CHDCND Lào.
Thứ ba, khu vực ngân hàng thương mại tư nhân và ngân hàng liên doanh hiện nay đứng ở vị trí thứ hai khi xét về tỷ trọng tài sản và tiền gửi trong toàn hệ thống với tỷ trọng của cả hai yếu tố ổn định ở mức trên dưới 25% và chưa cho thấy sự tăng trưởng vượt bậc. Điều này cho thấy khu vực này vẫn chưa thực sự phát huy được sự năng động cần thiết.
111
Nguồn: IMF Country Report No. 15/45
Hình 3.3: Thông tin về tỷ trọng tài sản và tiền gửi của hệ thống ngân hàng nước CHDCND Lào giai đoạn 2008 - 2013
Hiện nay, các NHTM tại Lào hoạt động theo Luật Ngân hàng Nhà nước số 05/95/NA, ngày 14/10/2005, luật Ngân hàng thương mại số 3/NA, ngày 26/12/2006 và
điều lệ do mỗi NHTM ban hành, được Thống đốc NHNN Lào phê chuẩn và có điều
chỉnh phù hợp trong từng thời kỳ. Mặc dù có sự phát triển nhanh chóng về số lượng
trong những năm qua, song năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Lào hiện nay
vẫn còn nhiều hạn chế như tiềm lực tài chính nhỏ bé, thiếu vốn cho vay dài hạn, chất lượng sản phẩm dịch vụ chưa cao, cơ cấu tổ chức chưa thực sự hợp lý và chưa chuyên
nghiệp, trình độ quản lý điều hành còn thấp, công nghệ ngân hàng còn có khoảng cách
đáng kể so với trình độ của khu vực và thế giới, thiếu hụt nguồn nhân lực có chuyên môn cao về nghiệp vụ theo chuẩn mực quốc tế... Các NHTM quốc doanh, nguồn vốn kinh doanh chủ yếu được hình thành từ ngân sách Nhà nước Lào, vay các định chế tài
chính và tự huy động từ khách hàng. Trình độ học vấn trong ngành ngân hàng tính đến năm 2015 là: 65% có trình độ đại học và trên đại học, 23% có trình độ cao đẳng và trung cấp và 12% là số lao động chưa qua đào tạo.
Bên cạnh các ngân hàng còn có các TCTD phi ngân hàng như: Công ty Lan xang, Cục Bảo hiểm tiền gửi, Cục Bảo hiểm xã hội, Hợp tác xã tín dụng… cũng là chủ
thể tham gia vào việc cấp tín dụng. Để mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng
112
cho xã hội, Chính phủ Lào đã có nhiều chính sách khuyến khích và phát triển ngành tài chính vi mô như: Nghị định số 10/PM về dịch vụ cầm đồ ngày 02/02/2002; Chính sách phát triển tài chính nông thôn và tài chính vi mô năm 2003; Quy định số 10/BOL, của Ngân hàng Nhà nước về quản lý tổ chức tài chính vi mô, ngày 22/06/2005... Từ đó, các tổ chức tài chính vi mô, Quỹ phát triển làng, hợp tác xã tín dụng ... do các tổ chức xã hội như Đoàn phụ nữ, các tổ chức phi Chính phủ của nước ngoài... được thành lập tại Lào ngày càng phong phú và đa dạng. Năm 2015, tại CHDCND Lào có tất cả 123 tổ chức tài chính vi mô.
Qua quá trình hình thành và phát triển của các TCTD tại CHDCND Lào cho thấy, các TCTD chưa thực sự nhiều và vẫn còn non trẻ, cần phải phát triển và hoàn thiện hơn. Thêm vào đó, các TCTD tại Lào chưa thực sự phát huy được vai trò của mình đối với nền kinh tế, dẫn đến sự phát triển dịch vụ tín dụng tại Lào còn hạn chế.
3.2.2. Quá trình phát triển sản phẩm dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào
Ngân hàng Ngoại Thương Lào (Banque pour le Commerce Extérieur Lao Ltd. BCEL)
Ngân hàng Ngoại Thương Lào được thành lập từ khi Lào tuyên bố độc lập vào năm 1975. Trong thời gian 1975-1976, BCEL đã thực hiện vai trò đặc biệt và được giao cho một ngân hàng có thể tiến hành kinh doanh với quốc tế (Inter Banking) và được chỉ định thực hiện quản lý các khoản tài trợ và các khoản vay từ nước ngoài.
BCEL là NHTM Nhà nước, hoạt động theo Luật Ngân hàng thương mại số 03/NA, năm 2006 và các luật khác về lĩnh vực ngân hàng. BCEL có trách nhiệm cung cấp các dịch vụ tài chính - tiền tệ như tín dụng, thư bảo lãnh, tiền gửi, thanh lý và thanh toán thẻ quốc tế trong và ngoài nước, ATM, tư vấn và kinh doanh khác cho khách hàng, đơn vị kinh tế trong và ngoài nước. Hiện nay, BCEL đang tăng cường hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực bao gồm cả quản lý tài sản, tiền gửi, cho vay. BCEL hiện có trụ sở chính đặt tại Viêng Chăn, có 18 chi nhánh, 38 nhóm dịch vụ, 10 đơn vị cổ phiếu và đã có hơn 100 cơ quan ngân hàng trên thế giới.
Năm 2010, Ngân hàng Ngoại thương Lào được chuyển từ Ngân hàng Nhà nước sang NHTM cổ phần, với cổ phần của Chính phủ Lào chiếm 70% của vốn đăng ký; Nhà đầu tư trong nước và cán bộ ngân hàng 15%; Nhà liên doanh 10%; Cổ phần nước ngoài 5%. Có 2 công ty thuộc Ngân hàng Ngoại thương Lào bao gồm: Công ty cho thuê tín dụng (Ngân hàng và tài chính cổ đông 100%) và Công ty chứng khoán BECL- TK Thái Lan (Ngân hàng Ngoại thương cổ đông 70%) và có 03 công ty liên doanh là: Ngân hàng liên doanh Lào-Việt chiếm 35% cổ phần; Ngân hàng Lào-Pháp chiếm 46% cổ phần và Công ty bảo hiểm Lào-Việt chiếm 29% cổ phần. Hoạt động kinh doanh của
113
ngân hàng BECL là cung cấp dịch vụ, bao gồm cả huy động vốn và các khoản thu nhập, các khoản vay và tiền gửi ngắn hạn, trung và dài hạn của các tổ chức, cá nhân.
Ngân hàng Phát triển Lào (Lao Development Bank Ltd. LDB)
Đây là một NHTM Nhà nước thuộc sự quản lý của NHNN Lào và các cổ đông của Bộ Tài chính. LDB đã có sự mở rộng phạm vi phù hợp với vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của Lào trong từng giai đoạn.
Năm 1999, NHNN Lào đã thực hiện chính sách cải thiện hệ thống NHTM Nhà nước bởi có nhiều ngân hàng địa phương nằm rải rác trong khu vực, hạn chế về tiềm lực tài chính, tổ chức quản lý không hiệu quả, chi phí vận hành cao, khả năng cạnh tranh thấp, hoạt động kinh doanh hạn chế cả về thị trường trong nước và quốc tế. Khi đó, LDB đã được thành lập do sự sáp nhập của hai Ngân hàng (Ngân hàng Lane Xang và Ngân hàng LaoMay). Chức năng ban đầu của hai Ngân hàng đó là cung cấp các dịch vụ phổ biến như: nhận tiền gửi và cho vay đối với các doanh nghiệp trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, cho vay đối với cá nhân và cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, sau khi sáp nhập thành Ngân hàng Phát triển Lào, Ngân hàng tập trung vào nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay cá nhân, thực hiện các giao dịch tài chính thương mại quốc tế và thương mại chứng khoán của Chính phủ.
Trong quá trình phát triển, LDB tăng trưởng liên tục về nhân viên, đồng thời liên tục áp dụng hệ thống công nghệ và quản lý hiện đại nhằm mở rộng, phát triển và nâng cao sức cạnh tranh. Mục tiêu chính của LDB là cung cấp các dịch vụ tín dụng nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế, tạo việc làm cho người dân, cải thiện cuộc sống của người dân tốt hơn. Các dịch vụ tín dụng mà LDB cung cấp cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, và các cá nhân trong nền kinh tế ngày càng phát triển phong phú và đa dạng, bao gồm: Cho vay thông thường và quay vòng; cho vay cá nhân; cho vay nhà ở với lãi suất ngắn hạn, trung và dài hạn, cho vay với nhiều loại đồng tiền (kíp Lào, Bath Thái, USD)... tùy thuộc vào mục đích sử dụng vốn vay và thu nhập để trả nợ.
Ngân hàng khuyến khích nông nghiệp (The Agriculture Promotion Bank - APB)
Ngân hàng Khuyến khích Nông nghiệp (APB) được thành lập vào năm 1993 được coi là ngân hàng phát triển quốc gia tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp. Kể từ khi thành lập, APB là ngân hàng nông nghiệp Nhà nước đặc biệt, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật NHTM của Lào và không thuộc diện được giám sát theo quy định của NHNN. APB là công cụ chính của Nhà nước trong điều hành về tài chính nông
114
thôn, với nghiệp vụ nhận tiền gửi, tài trợ và cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp như cây trồng và động vật. Trụ sở chính của APB đặt tại Viêng Chăn và có các chi nhánh rải rác trên cả nước.
Tuy nhiên, năm 2002, kết quả kiểm toán độc lập đầu tiên của APB cho thấy rằng 88% các khoản cho vay của APB là không hiệu quả. Tình hình tài chính xấu bắt nguồn từ sự thiếu định hướng lợi nhuận, cơ chế cho vay người nghèo và trích lập dự phòng yếu. Năm 2003, APB đã chính thức thực hiện tái cơ cấu, loại bỏ dần các chính sách vay và cho vay bao cấp; áp dụng các nguyên tắc thị trường; cải thiện chính sách cho vay; tái cấp vốn và tăng cường hệ thống thông tin và khả năng quản lý. Năm 2007, NHNN Lào tiếp tục cơ cấu lại APB, từ một ngân hàng nông nghiệp Nhà nước đặc biệt chia thành hai ngân hàng đó là: Ngân hàng APB và Ngân hàng Chính sách (Nayoby).
Các Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng thương mại tư nhân, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, văn phòng đại lý ngân hàng nước ngoài tại CHDCND Lào
Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài được thông qua tháng 04/1988 và Nghị định về xây dựng và hoạt động của NHTM và tổ chức tài chính năm 1990 đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự mở rộng và phát triển của hệ thống ngân hàng tại CHDCND Lào trong những năm sau đổi mới. Các Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng tư nhân và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đã được Chính phủ Lào thông qua việc thành lập và cho phép tiến hành kinh doanh tại Lào. Tuy nhiên, hai cơ sở pháp lý trên vẫn chưa thực sự thúc đẩy sự phát triển trong lĩnh vực ngân hàng bởi còn hạn chế trong việc mở rộng chi nhánh ra các tỉnh khác. Chính vì vậy, tháng 03/1997, Chủ tịch nước đã thông qua Luật về NHTM số 01/CTN, sau đó Luật này tiếp tục được sửa đổi, bổ sung vào năm 2006. Trong giai đoạn 2006-2009, hệ thống NHTM đã phát triển nhanh chóng với nhiều ngân hàng tư nhân trong nước và nước ngoài thành lập như: Ngân hàng Phôngsavanh, Ngân hàng AMZ Viêng Chăn Thương mại, Ngân hàng Indochina, Ngân hàng ST, NHTM Quốc tế và Ngân hàng Acleda.. Ngoài ra, các chi nhánh của Ngân hàng liên doanh, tư nhân và chi nhánh nước ngoài cũng được mở rộng sang các tỉnh ngày càng nhiều hơn. Các dịch vụ tín dụng được các TCTD này cung ứng ra thị trường cơ bản bao gồm: Nhận tiền gửi; Cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính…
3.2.3. Thực trạng phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào
3.2.3.1. Thực trạng phát triển quy mô tín dụng
Quy mô dịch vụ tín dụng được đánh giá qua các chỉ tiêu: Quy mô khách hàng và tăng trưởng khách hàng; Doanh số cho vay và Tăng trưởng doanh số cho vay; Dư
115
nợ tín dụng và Tốc độ tăng trưởng tín dụng; Tỷ lệ tín dụng/GDP và Tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP. Trong giai đoạn 2000 - 2015, các chỉ tiêu tín dụng này ở CHDCND Lào được biểu hiện cụ thể như sau:
• Về quy mô khách hàng và tốc độ tăng trưởng khách hàng:
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, đối tượng khách hàng vay vốn tín dụng tại Lào ngày càng được mở rộng. Theo số liệu thống kê của Cục Thống kê Lào, năm 2015, số lượng các chủ thể kinh tế có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế chiếm 53% và tỷ lệ sử dụng vốn tín dụng của ngân hàng chiếm tới 69%.
Trong giai đoạn 2000 – 2015, quy mô khách hàng của hệ thống ngân hàng tại CHDCND Lào đã tăng nhanh qua các năm, ngoại trừ một số giai đoạn có sự sụt giảm nhẹ như 2000 – 2003; 2011 – 2013. Cụ thể, quy mô khách hàng đã tăng từ 1690 cá nhân, tổ chức năm 2000 lên 205.753 cá nhân, tổ chức năm 2015, gấp hơn 100 lần. Trong giai đoạn 2000 – 2003, quy mô khách hàng của hệ thống ngân hàng Lào có sự sụt giảm do đây là giai đoạn Chính phủ Lào đẩy mạnh thực hiện chính sách tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, thực hiện sáp nhập các NHTM quốc doanh với nhau, trong nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động và sức cạnh tranh của toàn hệ thống ngân hàng Lào. Kể từ thời điểm hệ thống ngân hàng Lào thực hiện tái cơ cấu, quy mô khách hàng của toàn hệ thống đã liên tục tăng lên trong suốt giai đoạn 2004 – 2011. Đặc biệt, quy mô khách hàng năm 2011 có sự tăng vọt với tốc độ tăng trưởng lên tới 464,45%, nguyên nhân là do sự gia tăng mạnh của đầu tư công và đầu tư của khu vực tư nhân trong các ngành sản xuất – kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng. Giai đoạn 2012 – 2013 có sự sụt giảm về quy mô khách hàng là do những tác động của cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước cũng như hoạt động xuất nhập khẩu của Lào sang EU khi EU là đối tác kinh tế lớn thứ tư của Lào. Kể từ năm 2013, khi Lào chính thức tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), quy mô khách hàng của hệ thống ngân hàng Lào lại chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ trở lại với tốc độ tăng trưởng khách hàng năm 2014 đạt 184,43% và năm 2015 đạt 71,7%.
116
205,753
512
464.45
119,831
65,645
42,130
256
27,829
184.43
11,630
128
64
3,255 5,625 6,547 8,129 72.81
1,905
1,690
51.39
1,359 1,641 1,478
71.70
70.87
43.07
1,287
32
24.16
%
28.89
16
14.19
20.75
16.39
8
5.59
4
2
1
262,144 131,072 65,536 32,768 16,384 8,192 4,096 2,048 1,024 512 256 128 64 32 16 8 4 2 1
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Lào
Hình 3.4: Quy mô khách hàng và tốc độ tăng trưởng khách hàng của hệ thống ngân hàng tại CHDCND Lào giai đoạn 2000 - 2015
• Doanh số cho vay và tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay
Nhìn vào doanh số cho vay và tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay của hệ thống ngân hàng nước CHDCND Lào trong giai đoạn 2000 – 2015, ta có thể được những kết quả tích cực (Hình 3.5)
Trong giai đoạn 2000 – 2015, doanh số cho vay của toàn hệ thống ngân hàng Lào đã tăng lên rất nhanh qua các năm. Nếu như năm 2000, doanh số cho vay chỉ là 1.968,88 tỷ Kíp, thì đến năm 2015 doanh số cho vay toàn hệ thống ngân hàng đã đạt 54.765,92 tỷ Kíp, gấp gần 28 lần. Điều này cho thấy hệ thống ngân hàng của Lào đang phát triển ngày càng lớn mạnh và ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu tiêu dùng của người dân, và qua đó cũng đóng góp cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
117
60,000
100
54,765.92
90.66
84.58
50,000
80
46,881.56
41,066.33
40,000
60
46.01
48.15
30,525.16
% 40
34.53
í
29.69
24,104.19
16.82
30,000 p K ỷ T
26.64
21.00
20,000
20
9.20
16,270.16
7.46
3.31
7.74
11,143.13
14.16
-9.14
-6.96
10,000
0
5,844.56
2,638.10
2,880.24
3,166.42
2,553.50
2,454.40 2,680.24
2,616.87
1,968.88
0
-20
Doanh số cho vay
Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Lào Về tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay, xét chung cho cả giai đoạn 2000 – 2015, tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay của toàn hệ thống ngân hàng Lào đi theo xu hướng đi lên, tăng từ mức 7,74% năm 2000 lên mức 16,82% năm 2015; trong đó, năm 2008 và 2009 là những năm mà hệ thống ngân hàng của Lào có tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay cao nhất, lần lượt đạt 84,58% và 90,66%. Năm 2003 và 2006 là hai năm duy nhất mà tăng trưởng doanh số cho vay của hệ thống ngân hàng Lào đạt kết quả âm (-6,96% năm 2003 và -9,14% năm 2006). Nguyên nhân cơ bản của sự sụt giảm này là do giai đoạn trước và sau năm 2003, hệ thống ngân hàng Lào đang trong công cuộc tái cơ cấu toàn hệ thống cũng như bước đầu phục hồi sau giai đoạn tái cơ cấu, khiến cho việc tìm kiếm khách hàng và thực hiện các mục tiêu tín dụng của các ngân hàng trong những năm này gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, nhờ có sự can thiệp của Chính phủ Lào thông qua chính sách khuyến khích đầu tư cũng như Ngân hàng Nhà nước Lào thông qua chính sách tiền tệ nới lỏng, tốc độ tăng trưởng doanh số tín dụng của hệ thống ngân hàng Lào trong giai đoạn 2006 – 2009 đã chứng kiến một sự tăng vọt, từ mức -9,14% năm 2006 lên 90,66% năm 2009. Trong giai đoạn này, vốn tín dụng của nền kinh tế chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: nông nghiệp, thương mại dịch vụ và thủ công mỹ nghệ. Từ năm 2010 trở lại đây, trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 -
Hình 3.5: Doanh số cho vay và tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay của hệ thống ngân hàng tại CHDCND Lào giai đoạn 2000 - 2015
118
2009 và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu diễn ra từ năm 2010, đặc biệt kể từ sau khi Lào gia nhập WTO vào năm 2013, những bất ổn của nền kinh tế thế giới đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế thành viên là Lào, dẫn đến tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay của hệ thống ngân hàng Lào liên tục giảm xuống. Năm 2015, tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay toàn hệ thống ngân hàng Lào chỉ đạt 16,82%, thấp hơn nhiều so với giai đoạn 2008 – 2013. Năm 2010 và 2011, tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay của hệ thống ngân hàng Lào vẫn đạt ở mức cao, trên 40%, nguyên nhân là do sự gia tăng mạnh của đầu tư công và đầu tư của khu vực tư nhân trong các ngành sản xuất – kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng trong giai đoạn này.
70
60,000.00
• Dư nợ tín dụng và tốc độ tăng trưởng tín dụng
63.65
60
48,290.80
50,000.00
49.13
50
40,290.50
45.49
40,000.00
37.04
40
35,424.30
42.11
38.56
í
33.43
p K
%
30
30,000.00
25.18
ỷ T
25,566.00
24.40
23.68
19.86 20
19,160.30
20,000.00
13.74
10.55
13,169.69
10
8,830.90
3.98
10,000.00
6,214.13
0.99
3,263.25
0
3,797.15
2,623.22
3,070.26
1,877.02
2,372.98
-5.91
1,895.60
1,369.70
0.00
-10
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Dư nợ tín dụng
Tốc độ tăng trưởng dư nợ
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Lào
Hình 3.6: Dự nợ tín dụng và tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng tại CHDCND Lào giai đoạn 2000 - 2015
Hình 3.6 đã cho thấy quy mô và tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng tại CHDCND Lào giai đoạn 2000 – 2015. Có thể thấy một xu hướng tương tự trong sự tăng trưởng của dư nợ tín dụng với tăng trưởng doanh số cho vay của hệ thống ngân hàng Lào.
119
Trong giai đoạn 2000 – 2015, dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng Lào đã tăng mạnh từ 1.369,7 tỷ Kíp năm 2000 lên 48.290,8 tỷ Kíp năm 2015, gấp hơn 35 lần. Có thể dễ dàng nhận thấy sự phát triển về dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng Lào chia rõ rệt thành ba giai đoạn. Giai đoạn 2000 – 2007, dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng Lào xét về cả quy mô và tốc độ tăng trưởng qua các năm đều không cao, đơn cử như tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2002 chưa đến 1%. Đây chính là thời điểm trước và ngay sau khi hệ thống ngân hàng Lào chứng kiến một công cuộc tái cơ cấu toàn hệ thống (năm 2003) nhằm khắc phục những hạn chế của hệ thống ngân hàng Lào lúc bấy giờ đó là kinh doanh kém hiệu quả, nợ xấu cao, năng lực cạnh tranh hạn chế. Việc sắp xếp lại hệ thống ngân hàng khiến các ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong vấn đề tìm kiếm khách hàng và tăng trưởng dư nợ trong thời điểm này. Giai đoạn 2006 – 2008, dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng Lào đã đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ, với tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2008 ở mức rất cao 63,65%; và đây là kết quả của những nỗ lực của Chính phủ và NHNN Lào trong vấn đề kích cầu tín dụng và áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng. Giai đoạn từ năm 2009 – 2015, mặc dù xét về quy mô tuyệt đối, tổng dư nợ trên toàn hệ thống ngân hàng Lào vẫn tăng song tốc độ tăng trưởng lại giảm sút, điều này một phần xuất phát từ những tác động khách quan đến từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009 và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu diễn ra từ năm 2010.
60
50
Tỷ lệ tín dụng/GDP (%)
• Tỷ lệ tín dụng/GDP và Tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP
40.90
40
48.09
50
44.36
44.17
29.88
Tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP (%)
30
26.33
33.04
40
22.06
17.95
20
19.30
%
30
%
36.19
24.29
10
30.68
8.41
8.10
2.27
18.70
3.47
0.43
20
-6.41
-9.60
14.06
0
10
-10
9.98
10.31 10.54 9.87 10.66
10.02
9.64
11.95
0
-20
-13.76
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Lào
Hình 3.7: Tỷ lệ tín dụng/GDP và Tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP của hệ thống ngân hàng tại CHDCND Lào giai đoạn 2000 – 2015
120
Chỉ tiêu tỷ lệ tín dụng/GDP là một chỉ tiêu cho thấy mức độ tăng trưởng của dịch vụ tín dụng trong tương quan với GDP của nền kinh tế. Trong giai đoạn 2000 – 2015, tỷ lệ tín dụng/GDP của hệ thống ngân hàng Lào không ngừng tăng lên, cụ thể tăng từ 10,02% năm 2000 lên 48,09% năm 2015, đảm bảo ở dưới ngưỡng 100%. Điều này cho thấy rằng hệ thống ngân hàng tại CHDCND Lào đã có những bước phát triển tương đối hợp lý và có những đóng góp lớn cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước trong những năm qua. Đáng chú ý là kể từ thời điểm CHDCND Lào gia nhập WTO vào năm 2013, tỷ lệ tín dụng/GDP liên tục ở mức cao, trên 40%, chứng tỏ rằng thị trường tài chính – tín dụng của Lào đang tăng dần sức nóng với ngày càng nhiều các TCTD trong và ngoài nước, thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia vào thị trường. Thực tế cũng đã cho thấy riêng trong năm 2014 và 2015 đã có tới 10 TCTD gia nhập thị trường dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào. Có thể nói đây là một cơ hội lớn đối với CHDCND Lào đến từ việc mở cửa hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Đánh giá về tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP, ta thấy chỉ tiêu này có sự tăng trưởng vượt bậc trong giai đoạn 2007 – 2008, nguyên nhân là do trong giai đoạn này dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng tại Lào đã đạt được mức tăng trưởng rất cao nhờ những chính sách khuyến khích đầu tư của Chính phủ và chính sách tiền tệ nới lỏng của NHNN Lào. Từ năm 2009 trở lại đây, trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu, GDP quốc gia và dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng tại Lào đều cho thấy sự giảm sút, kéo theo sự giảm xuống của chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tín dụng/GDP, cụ thể giảm từ 29,88% năm 2009 xuống còn 8,41% năm 2015. Điều này cũng đồng thời cho thấy, giai đoạn hiện nay vẫn chứa đựng đầy khó khăn và thử thách cho sự phát triển của nền kinh tế Lào nói chung và lĩnh vực tín dụng của Lào nói riêng.
3.2.3.2. Thực trạng phát triển cơ cấu cấp tín dụng
* Về cơ cấu tín dụng theo ngành
Bảng 3.3 dưới đây biểu diễn cơ cấu cấp tín dụng theo ngành của hệ thống ngân hàng Lào giai đoạn 2001 – 2015. Nhìn vào Bảng, ta có thể thấy tín dụng đầu tư vào các ngành trong nền kinh tế quốc dân đều tăng lên qua các năm, trong đó những lĩnh vực thu hút lượng tín dụng lớn là: Ngành công nghiệp và thủ công mỹ nghệ; Ngành thương mại; Ngành xây dựng; Ngành dịch vụ. Trong năm 2015, tín dụng đầu tư cho ngành công nghiệp và thủ công mỹ nghệ đứng đầu với 11.665,56 tỷ Kíp; đứng thứ hai là ngành thương mại với mức tín dụng 8.580,06 tỷ Kíp; tín dụng cho ngành xây dựng đứng thứ ba với 8.255,52 tỷ Kíp; tiếp đến là ngành dịch vụ với 4.952,08 tỷ Kíp; ngành nông nghiệp với 4.426,42 tỷ Kíp.
121
Bảng 3.3: Tín dụng theo ngành của hệ thống ngân hàng Lào giai đoạn năm 2001-2015
Đơn vị:Tỷ Kíp
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Số ngành
-
-
781,32
924,78 1.180,37 840,49
795,89
1.136,15 1.633,72 2.462,73 3.802,35 4.090,56 6.450,10 8.246,72 11.665,56
Tín dụng cho ngành công nghiệp và thủ công mỹ nghệ
-
-
147,18
135,72
220,29
103,69
148,19
235,19
353,24
1.619,87 2.407,52 4.601,88 7.279,66 7.889,08 8.255,52
Tín dụng cho công trình xây dựng
-
-
189,17
107,28
28,12
171,94
283,14
499,37
679,98
632,15
764,29
1.022,64 1.622,78 1.246,48 1.251,69
Tín dụng cho Vật liệu và vật tư kỹ thuật
-
-
256,75
259,83
318,69
262,83
291,42
765,36
1.192,17 2.067,64 2.560,38 2.045,28 3.648,11 3.994,34 4.426,42
Tín dụng cho Ngành Nông nghiệp
-
-
546,54
565,60
761,34
828,24
1.050,49 1.533,40 2.075,26 3.081,71 4.068,85 6.135,84 7.325,00 8.109,89 8.580,06
Tín dụng cho Ngành Thương mại
-
-
19,76
13,98
19,34
25,67
32,32
162,77
247,27
513,62
726,08
1.022,64 1.276,74 1.335,93 1.141,17
-
-
76,88
112,53
125,59
159,77
278,26
568,11
732,95
1.659,38 3.229,13 4.090,56 4.146,93 4.463,82 4.952,08
Tín dụng cho Ngành vận tải Tín dụng cho Ngành Dịch vụ
Tín dụng khác
-
-
352,38
503,50
609,53
677,64
917,43
1.313,77 1.916,31 1.132,59 1.547,70 2.556,60 3.674,98 5.004,24 8.018,30
Tổng số tín dụng 1.877,02 1.895,60 2.372,98 2.623,22 3.263,25 3.070,26 3.797,15 6.214,13 8.830,90 13.169,69 19.106,30 25.566,00 35.424,30 40.290,50 48.290,80
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Lào
122
Nhìn chung, tín dụng của hệ thống ngân hàng nước CHDCND Lào đang tập trung nhiều vào các ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ với giá trị gia tăng cao và đem lại sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Tín dụng đầu tư vào nông nghiệp cũng tăng qua các năm nhưng mức tăng chậm hơn so với đầu tư vào các ngành còn lại. Đây là một cơ cấu tín dụng phù hợp với mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa mà nước CHDCND Lào đang tiến tới.
* Về cơ cấu tín dụng theo đối tượng khách hàng vay vốn
Cơ cấu tín dụng xét theo đối tượng khách hàng vay vốn của hệ thống ngân hàng
Lào trong giai đoạn 2000 – 2015 được biểu diễn qua các Bảng, Hình dưới đây.
Bảng 3.4: Tín dụng theo đối tượng khách hàng của hệ thống ngân hàng Lào giai đoạn 2000 – 2015
Tín dụng cho doanh nghiệp có vốn
Năm
Tổng cộng
Tín dụng cho Khách hàng tư nhân (Bao gồm doanh nghiệp khối tư nhân và KH cá nhân, KH có yếu tố nước ngoài)
nhà nước
GIÁ TRỊ TÍN DỤNG (TỶ KÍP)
360,30
1.009,40
2000
1.369,70
495,42
1.381,60
2001
1.877,02
566,40
1.329,20
2002
1.895,60
974,10
1.398,88
2003
2.372,98
998,60
1.624,62
2004
2.623,22
1.119,49
2.143,76
2005
3.263,25
856,26
2.214,00
2006
3.070,26
812,88
2.984,27
2007
3.797,15
1.000,07
5.214,06
2008
6.214,13
1.058,19
7.772,71
2009
8.830,90
1.290,77
11.878,92
2010
13.169,69
1.394,60
17.712,70
2011
19.107,30
1.632,40
23.933,60
2012
25.566,00
2.793,00
32.631,30
2013
35.424,30
3.845,70
36.444,80
2014
40.290,50
4.814,80
43.476,00
2015
48.290,80
123
Tín dụng cho doanh nghiệp có vốn
Năm
Tổng cộng
Tín dụng cho Khách hàng tư nhân (Bao gồm doanh nghiệp khối tư nhân và KH cá nhân, KH có yếu tố nước ngoài)
nhà nước
CƠ CẤU (%)
26,31
73,69
2000
100
26,39
73,61
2001
100
29,88
70,12
2002
100
41,05
58,95
2003
100
38,07
61,93
2004
100
34,31
65,69
2005
100
27,89
72,11
2006
100
21,41
78,59
2007
100
16,09
83,91
2008
100
11,98
88,02
2009
100
9,80
90,20
2010
100
7,30
92,70
2011
100
6,39
93,61
2012
100
7,88
92,12
2013
100
9,54
90,46
2014
100
9,97
90,03
2015
100
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Lào
Nhìn vào Bảng 3.4 có thể thấy, tín dụng cho đối tượng khách hàng tư nhân (bao gồm doanh nghiệp khối tư nhân, khách hàng cá nhân, khách hàng có yếu tố nước ngoài) luôn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng Lào. Trong giai đoạn 2000 – 2015, tỷ trọng vốn tín dụng cấp cho đối tượng này không ngừng được tăng lên, cụ thể tăng từ 73,69% năm 2000 lên 90,03% năm 2015; trong khi tỷ trọng tín dụng cấp cho doanh nghiệp có vốn nhà nước lại giảm từ 26,31% năm 2000 xuống còn 9,97% năm 2015.
Xét về quy mô vốn tín dụng cấp cho từng đối tượng khách hàng, ta có thể thấy tín dụng cho doanh nghiệp có vốn Nhà nước và tín dụng cho khách hàng tư nhân đều tăng lên hàng năm, song quy mô và mức tăng trưởng của tín dụng khách hàng tư nhân cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng tín dụng cho các doanh nghiệp có vốn Nhà nước. Cụ thể, trong giai đoạn 2000 – 2015, tín dụng cho doanh nghiệp có vốn Nhà nước đã tăng từ 360,3 tỷ Kíp lên 4.814,8 tỷ Kíp, với tốc độ tăng trưởng bình quân cả giai đoạn đạt 21,32%/năm; tín dụng cho khách hàng tư nhân đã tăng từ 1.009,4 tỷ Kíp lên 43.476 tỷ Kíp, với tốc độ tăng trưởng bình quân cả giai đoạn đạt 30,18% (Hình 3.8).
124
6000
80.00
)
%
71.98
71.10
5000
60.00
37.69
37.50
4000
40.00
21.98
í
17.05
23.03
3000
20.00
i
8.04
2.52
25.20
14.33
p K ỷ T
12.11
5.81
-5.07
2000
0.00
ó c g n ụ d n í t g n ở ư r t g n ă t ệ
1000
-20.00
l
ỷ T
-23.51
( c ớ ư n à h N p ệ h g n h n a o d n ố v
0
-40.00
Tín dụng cho doanh nghiệp có vốn Nhà nước
74.72
)
52.83
49.11
36.87
35.12
í
49.07
36.34
34.79
31.95
p K ỷ T
19.29
16.14
-3.79
5.24
o h c g n ụ d n í t g n ở ư r t g n ă t ệ
11.69
3.28
l
ỷ T
80.00 70.00 % 60.00 ( n 50.00 â h n 40.00 ư t 30.00 g n à 20.00 h h 10.00 c á h 0.00 K -10.00
50,000.00 45,000.00 40,000.00 35,000.00 30,000.00 25,000.00 20,000.00 15,000.00 10,000.00 5,000.00 0.00
Tín dụng cho Khách hàng tư nhân
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Lào
Hình 3.8: Tốc độ tăng trưởng tín dụng đối với doanh nghiệp có vốn Nhà nước và đối với khách hàng tư nhân giai đoạn 2001-2015
94.2
92.5
100
91.5
90.7
89.1
82.3
92.3
90.3
91
80
87.4
64.8
64.8
64.1
67.1
60
64.7
Khu vực tư nhân luôn là một khu vực năng động, hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế. Do đó, đây là một cơ cấu cho vay hoàn toàn hợp lý nhằm đảm bảo sự phát triển của hệ thống Ngân hàng Lào về cả quy mô tín dụng và độ an toàn tín dụng. 3.2.3.3. Thực trạng phát triển về chất lượng và hiệu quả tín dụng
%
40
46.8
20
0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
125
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Lào
Hình 3.9: Tỷ lệ thu lãi
0.01
0.0089
0.009
0.0065
0.008 0.007
0.0069
0.0062
0.006
0.0059
0.005
0.005
0.0046
0.004
0.0038
0.0035
0.0032
0.003
0.0029
0.002
0.002
0.0018
0.0017
0.0015
0.0012
0.001
0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Hình 3.9 thể hiện sự thay đổi trong tỷ lệ thu lãi của hệ thống ngân hàng Lào giai đoạn 2000 – 2015. Cùng với sự tăng trưởng chung của toàn hệ thống ngân hàng, tỷ lệ thu lãi trong toàn giai đoạn 2000 – 2015 không ngừng tăng lên, ngoại trừ sự sụt giảm trong năm 2002, do những bất ổn thuộc về nội tại của hệ thống ngân hàng Lào. Từ năm 2003, tỷ lệ thu lãi của toàn hệ thống ngân hàng Lào đã không ngừng tăng lên, cụ thể tăng từ 64,1% năm 2003 lên 92,5% năm 2015. Đặc biệt, trong suốt giai đoạn từ 2008 – 2015, tỷ lệ thu lãi của toàn hệ thống ngân hàng Lào tương đối ổn định và được duy trì ở mức rất cao, trên 90%. Từ kết quả đó có thể thấy hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng Lào trong thời gian qua được thực hiện khá hiệu quả và đã có những đóng góp lớn cho sự phát triển chung của nền kinh tế.
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Lào
Hình 3.10: Vòng quay vốn
Một đồng vốn quay hết một vòng khi nó đã được giải ngân và đã được thu hồi về ngân hàng. Do đó, vòng quay vốn tín dụng sẽ đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng cũng như thời gian thu hồi nợ nhanh hay chậm. Vòng quay vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng Lào trong những năm qua có sự dao động lớn, giảm nhẹ vào năm 2007 trước khi tăng mạnh vào năm 2008, sau đó lại giảm xuống và tăng trở lại từ năm 2010. Giai đoạn 2007-2008, tình trạng lạm phát xảy ra, vì vậy có nhiều khách hàng đến gia hạn nợ, do đó thời gian đồng vốn quay trở lại ngân hàng để thực hiện cho vay đối tượng khác đã kéo dài. Đến năm 2010, tình hình trở lại ổn định nên vòng quay vốn tín dụng của ngân hàng đã tăng trở lại.
126
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Lào
30
Hình 3.11: Tỷ lệ nợ quá hạn
28.3
25
20
15.7
%
15
10.52
10
3.88
4.2
5
3.88
2.5
2.14
3
0
2000
2002
2006
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Nguồn: World bank
Hình 3.12: Tỷ lệ nợ xấu
Nhìn chung, tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng tại CHDCND Lào đều theo chiều hướng tích cực là giảm xuống. Từ Hình 3.11 và 3.12 có thể thấy tỷ lệ nợ quá hạn đạt mức thấp nhất là 0,5% vào năm 2011 và tỷ lệ nợ xấu đạt mức thấp nhất là 2,14% năm 2013. Trong suốt giai đoạn 2010 – 2014, tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Lào được duy trì ổn định ở mức thấp, cho thấy rằng các NHTM của Lào đã thực hiện khá tốt công tác rà soát tình hình tài chính của khách hàng trước khi cho vay, bên cạnh đó, công tác thu nợ cũng được quan tâm chú ý và ngân hàng đã có nhiều biện pháp hiệu quả nhằm thu hồi các khoản nợ vay theo thời hạn. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là trong năm 2015, cả hai tỷ lệ này đều tăng lên so với xu hướng ổn định của cả giai đoạn 2010 – 2014. Năm 2015, tỷ lệ nợ xấu của hệ
127
3.2.3.4. Sự phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào trong tương quan với một số quốc gia trong khu vực
thống ngân hàng tại CHDCND Lào là 3% đúng bằng mức an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Đây là một điều tương đối đáng lo ngại vì trong những năm tới các khoản nợ xấu vẫn có xu hướng gia tăng khi các đối tượng vay vốn hoạt động kinh doanh không hiệu quả hoặc không ổn định, đồng thời nền kinh tế thế giới hiện nay vẫn đang trong tình trạng bất ổn nên vẫn có thể tiếp tục có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế Lào. Do đó, vấn đề kiểm soát tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ khó đòi vẫn luôn là một vấn đề cấp thiết, đòi hỏi những biện pháp và những phản ứng kịp thời của ngân hàng để kiểm soát tỷ lệ này ở mức thích hợp, không gây thiệt hại cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Đánh giá chung về thị trường tài chính
Theo một đánh giá được các tổ chức quốc tế uy tín thực hiện năm 2012 về dung lượng thị trường tài chính của các quốc gia trong ASEAN, có thể thấy CHDCND Lào đứng ở một vị trí rất khiêm tốn, chỉ lớn hơn Myanmar và Brunei, trong khi thua xa các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là Malaysia, Thái Lan và Singapore (Hình 3.13).
Hình 3.13: Dung lượng thị trường tài chính của các quốc gia ASEAN (2012)
Nguồn: World bank, ADB, IMF Ghi chú: Dữ liệu của World Bank về tín dụng ngân hàng (2010 đối với Lào, 2011 đối với Việt Nam), Dữ liệu của IMF đối với Myanmar. Dữ liệu của ADB về trái phiếu. Không có dữ liệu cho các quốc gia Brunei, Cambodia, Lao PDR và Myanmar. Dữ liệu của World Bank về cổ phiếu Không có dữ liệu cho các quốc gia Brunei, Cambodia, Lao PDR, và Myanmar
128
Nhìn vào Hình 3.13 ta có thể thấy sự khác biệt lớn trong sự phát triển về lĩnh vực tài chính giữa các quốc gia thành viên ASEAN. Tại Malaysia và Singapore, dung lượng của thị trường tài chính là khá tương đương với trình độ các nước tiên tiến do thị trường vốn phát triển rất mạnh, trong khi ở Brunei, Campuchia, Lào và Myanmar vẫn rất nhỏ do sự chậm trễ trong việc thúc đẩy thị trường vốn. Bên cạnh đó, vẫn có một khoảng cách tương đối đáng kể giữa nhóm nước Thái Lan, Malaysia và Việt Nam với các nước Brunei, Lào, và Myanmar.
Trong một bức tranh đánh giá tổng quan về năng lực cạnh tranh toàn cầu của CHDCND Lào trong giai đoạn 2014 - 2015 so với một số quốc gia trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương và các các quốc gia đang phát triển, trong đó có sự phát triển về thị trường tài chính, ta cũng có thể thấy sự phát triển thị trường tài chính của Lào chỉ ở mức trung bình so với quốc gia còn lại với chỉ số điểm ở khoảng mức 4 (Hình 3.14).
Nguồn: World Economic Forum, Global Competitiveness Report 2014 - 2015
Hình 3.14: Chỉ số cạnh tranh toàn cầu của CHDCND Lào
129
Đánh giá về hệ thống ngân hàng thương mại
Sự phát triển về số lượng ngân hàng thương mại của CHDCND Lào và một số quốc gia trong ASEAN trong giai đoạn 2007 – 2014 được biểu diễn ở Hình 3.15 dưới đây.
Số lượng ngân hàng thương mại tại CHDCND Lào
40
40
36
Ngân hàng liên doanh
35
35
31
30
30
30
25
23
25
25
Văn phòng đại lý ngân hàng nước ngoài
20
20
20
16
15
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
15
15
10
10
Ngân hàng thương mại tư nhân
5
5
0
0
Ngân hàng thương mại Nhà nước
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
Hình 3.15: Số lượng NHTM tại CHDCND Lào và một số quốc gia trong ASEAN Nguồn: ASEAN Integration Report 2015, Báo cáo thường niên NHNN Lào
130
Nhìn vào Hình 3.15 trên ta có thể thấy số lượng NHTM tại CHDCND Lào mặc dù không ngừng tăng lên qua các năm song vẫn còn tương đối khiêm tốn so với nhiều quốc gia trong khu vực đã có lĩnh vực tài chính phát triển tương đối lâu dài. Tuy nhiên, nếu nhìn vào mức tăng số lượng NHTM qua từng năm, ta có thể thấy hệ thống NHTM tại CHDCND Lào có mức tăng trưởng về số lượng là cao so với các nước khác trong khu vực. Về xu hướng phát triển các loại hình NHTM, ta có thể thấy sự tương đồng trong mô hình của Lào và Singapore với sự gia nhập thị trường của ngày càng nhiều các NHTM nước ngoài. Đây là một định hướng đúng đắn nhằm thu hút được lượng vốn đầu tư lớn cũng như tiếp cận được với công nghệ và bí quyết quản lý từ các quốc gia phát triển. Tuy vậy, một điều cũng cần phải lưu ý thêm là trong khi hệ thống ngân hàng tư nhân nội địa của Indonesia, Philippine và Thái Lan rất phát triển và đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính của các quốc gia này thì hệ thống NHTM tư nhân của Lào vẫn còn khá mờ nhạt.
Về vấn đề áp dụng Hiệp ước Basel nhằm hạn chế rủi ro kinh doanh và tăng cường năng lực của toàn hệ thống tài chính, trong khi nhiều quốc gia trong khu vực đã hoàn tất việc áp dụng Basel II và chuẩn bị chuyển sang Basel III, thì đến nay việc áp dụng Basel II trong giám sát hoạt động ngân hàng tại CHDCND Lào mới chỉ dừng lại ở việc định hướng mà chưa rõ thời điểm được áp dụng (Hình 3.16).
Nguồn: Business Monitor International
Hình 3.16: Tình hình áp dụng BASEL tại các quốc gia
131
Đánh giá về tốc độ tăng trưởng tín dụng và tỷ lệ nợ xấu
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân của hệ thống ngân hàng nước CHDCND Lào là tương đối cao so với các nước trong khu vực, đặc biệt là trong giai đoạn 2012 – 2013. Điều này cho thấy sự phát triển đang dần nóng lên của thị trường dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào trong những năm gần đây. Giai đoạn 2014 – 2015, trước những bất ổn chung của nền kinh tế toàn cầu, cũng giống như các quốc gia khác trong khu vực, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân của hệ thống ngân hàng CHDCND Lào đã giảm xuống, tuy nhiên vẫn cao so với nhiều quốc gia, trong đó có Indonesia, Malaisia, Thái Lan, Việt Nam (Hình 3.17).
Nguồn: CEIC
Hình 3.17: Tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân ở các quốc gia Châu Á mới nổi giai đoạn 2012 - 2015
Đánh giá về tỷ lệ nợ xấu, ta có thể thấy tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng CHDCND Lào có cùng xu hướng với các quốc gia trong khu vực, cao trong giai đoạn 2000 – 2010 và tương đối ổn định từ năm 2010 trở lại đây ở mức được coi là an toàn. Có thể nhận thấy, so với các quốc gia trong khu vực, tỷ lệ nợ xấu của Lào đã có những cải thiện rất tích cực khi giảm từ mức rất cao 28,3% năm 2000 xuống còn 3% năm 2015 (Hình 3.18).
132
%
30 28 26 24 22 20 18 16 14 12 10 8 6 4 2 0 2000
2002
2004
2006
2008
2010
2012
2014
Lào
Thái Lan
Việt Nam
Trung Quốc
Hình 3.18: Tỷ lệ nợ xấu của một số quốc gia giai đoạn 2000 - 2015
Nguồn: World Bank 3.3. Thực trạng chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào
Để khuyến khích cạnh tranh và thúc đẩy kinh tế phát triển, trong năm 1986, Chính phủ Lào đã có cuộc cải cách kinh tế để cho việc phát triển kinh tế phù hợp với sự phát triển nền kinh tế mới tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Thông qua Đại hội Đảng lần thứ IV trong năm 1986, nước CHDCND Lào đã thiết lập sự thay đổi chính sách toàn diện bao gồm: Xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung và điều hành từ tâm và kiên quyết thực hiện quản lý kinh doanh một phần xã hội chủ nghĩa; Cải thiện tài chính - tiền tệ, chuyển đổi giữa tất cả các ngân hàng hoạt động trong kinh doanh của riêng mình, mở rộng sự hoạt động tiền tệ-tín dụng và việc quyết toán trên cơ sở kinh tế, sửa đổi các chính sách lãi suất - tỷ giá và quản lý ngoại tệ. Để mở rộng ý nghĩa của chính sách trên, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/CHDCND Lào, ngày 12/03/1988, bằng cách chuyển các hệ thống ngân hàng để quản lý một phần thị trường kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IV, đường lối đổi mới trong lĩnh vực Ngân hàng vẫn tiếp tục được hoạch định trong mỗi nghị quyết tiếp theo của các Đại hội:
- Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ V (năm 1991) đã xác định: “Tăng lên nhiệm vụ quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, cải thiện Ngân hàng Nhà nước trở thành Ngân hàng của các Ngân hàng thương mại, khuyến khích tổ chức thực hiện Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng liên doanh và cấp giấy phép Ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện và tổ chức kiểm tra hợp tác xã tín dụng”
133
- Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1996), đã xác định: “Giữ sự ổn định tiền tệ, bảo vệ không tăng trường mạnh mẽ chỉ số giá và lạm phát, ra chính sách lãi suất phù hợp để thu hút đầu tư trong nước”.
- Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 2001), đã xác định: “Khuyến khích sự huy động tiền gửi, phục hồi phù hợp hệ thống kinh tế vĩ mô. Trong đó, lạm phát phải ở tiêu chí phù hợp, tỷ giá ngoại tệ ổn định, củng cố cách thức bảo vệ lành mạnh ngoại tệ”.
- Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 2006), đã xác định: “Giải quyết vấn đề nợ xấu, nâng cao kết quả tối ưu trong hoạt động chính sách tài chính-tín dụng, phát triển thị trường tiền tệ. Trong đó, tạo cơ chế phát hành trái phiếu, cải thiện các công ty hoặc ngân hàng nào đó có điều kiện trở thành công ty đại chúng và nghiên cứu cách thức phát triển thị trường chứng khoán”.
- Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2011) đã xác định: Bắt nguồn từ nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VIII, Chính phủ đã tạo ra hệ thống quản lý và lập pháp có hiệu quả và kế hoạch khác của Đảng phát hành tạo chiến lược. Trong đó, được tạo và cải thiện pháp luật và các cách thức quản lý, củng cố bộ máy hành chính từ cấp trung ương đến địa phương, với mục tiêu trung ương quản lý vĩ mô và địa phương tổ chức thực hiện.
Kể từ ngày 22/07/1989, Đại hội Ngân hàng lần đầu tiên được tổ chức và đã xác định đường lối đổi mới của hệ thống Ngân hàng như sau: Cơ cấu lại các ngân hàng một cách nhanh chóng. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý tiền tệ vĩ mô, Ngân hàng thương mại có đa dạng các hình thức và phương thức hoạt động khác nhau để hoạt động kinh doanh tiền tệ và tài chính. Hệ thống Ngân hàng phải đóng góp: đảm bảo cho giá trị đồng tiền Kíp thấp; đảm bảo hiệu quả của số tiền vay; phát triển thị trường tiền tệ - lãi suất; đảm bảo vai trò trung tâm thanh toán; mở cửa cho hợp tác quốc tế để có được những kinh nghiệm, tài trợ và thực hiện hiệu quả; đóng góp chuyển đổi kinh tế tự nhiên thành kinh tế hàng hóa dần dần.
3.3.1. Thực trạng chính sách về phát triển chủ thể cung ứng dịch vụ tín dụng
3.3.1.1. Chính sách do Quốc hội Lào ban hành
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHDCND Lào. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Kể từ khi đất nước đổi mới đến nay, Quốc hội Lào đã thực hiện tốt vai trò xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật, tạo lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của
134
mọi lĩnh vực trong nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tín dụng nói riêng. Một số văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực ngân hàng tài chính đã được Quốc hội xây dựng và ban hành trong thời gian qua là:
- Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài được Quốc hội ban hành tháng 04/1988: Luật này cùng với Nghị định về xây dựng và hoạt động của NHTM và tổ chức tài chính do Chính phủ ban hành năm 1990 đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự mở rộng và phát triển của hệ thống ngân hàng tại CHDCND Lào trong những năm sau đổi mới. Bên cạnh các ngân hàng Nhà nước, nhiều Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng tư nhân và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đã được Chính phủ Lào cho phép thành lập và tiến hành hoạt động kinh doanh tại Lào trong giai đoạn này. Tính đến thời điểm năm 2000, ngoài 04 ngân hàng Nhà nước, tại Lào có 03 ngân hàng liên doanh là Ngân hàng Thương mại Viêng Chăn, Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Lào – Việt Nam; 06 chi nhánh ngân hàng nước ngoài bao gồm: Chi nhánh Ngân hàng Bangkok, Chi nhánh Ngân hàng thương mại Siam, Chi nhánh Ngân hàng Krungthai, Chi nhánh Ngân hàng nông dân Thái Lan, Chi nhánh Ngân hàng quân đội Thái Lan, Chi nhánh Ngân hàng Ayoudhya; 02 văn phòng đại diện nước ngoài của Ngân hàng Standard Chartered và Chi nhánh Ngân hàng đại chúng.
- Luật Ngân hàng Nhà nước Lào, số 5/95/NA, ngày 14/10/2005: Luật này quy định rõ vai trò, nhiệm vụ, trách nhiệm, phương thức tổ chức và hoạt động của NHNN Lào. Đây chính là cơ sở quan trọng để NHNN Lào hoạt động có hiệu quả, thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý vĩ mô các hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng; đảm bảo sự ổn định tiền tệ và an toàn cho cả hệ thống ngân hàng, qua đó thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế trong thời gian qua. Hiện nay, NHNN Lào vẫn thực hiện nhiệm vụ quản lý vĩ mô hệ thống tiền tệ của quốc gia trên cơ sở Luật Ngân hàng Nhà nước, số 5/95/NA, ngày 14/10/2005.
- Luật Ngân hàng thương mại số 03/NA, ngày 26/12/ 2006: Luật này thiết lập các nguyên tắc, quy định về việc thành lập, quản lý và giám sát các hoạt động Ngân hàng thương mại tại Lào, nhằm khuyến khích việc thành lập các Ngân hàng thương mại hiệu quả, ổn định, minh bạch, tài trợ cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, góp phần quan trọng duy trì sự ổn định tài chính và phát triển kinh tế - xã hội. Kể từ thời điểm Luật được ban hành, đặc biệt trong giai đoạn 2006 – 2009, hệ thống NHTM tại Lào đã phát triển rất nhanh chóng với nhiều ngân hàng tư nhân trong nước và nước ngoài được thành lập như: Ngân hàng Phôngsavanh, Ngân hàng AMZ Thương mại Viêng Chăn, Ngân hàng Indochina, Ngân hàng ST, NHTM Quốc tế và Ngân hàng Acleda... Ngoài ra, các chi nhánh của Ngân hàng liên doanh, tư nhân và chi nhánh nước ngoài cũng được mở
135
rộng sang các tỉnh ngày càng nhiều hơn. Các dịch vụ tín dụng được Ngân hàng và các TCTD cung cấp ra thị trường cũng ngày càng phong phú và đa dạng hơn.
- Luật Thuế (phiên bản sửa đổi), số 05/NA, ngày 20/12/2011: Luật này thiết lập các nguyên tắc, quy tắc, thủ tục và các biện pháp để quản lý và giám sát các chỉ số thuế, thu nhập trung bình của hoạt động sản xuất - kinh doanh. Việc ban hành Luật Thuế, ngoài vai trò huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, trong đó có lĩnh vực dịch vụ tín dụng. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hóa và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật thuế còn đóng vai trò như một công cụ để kiểm tra gián tiếp hoạt động kinh doanh. Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lý thuế cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy định gắn với chế độ chứng từ hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thức kinh doanh, cơ cấu tổ chức… Thêm vào đó, trên cơ sở việc thu thuế, Nhà nước sẽ có những biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô, đồng thời phát hiện và xử lí kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật thuế trong mọi lĩnh vực kinh doanh, góp phần đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng.
3.3.1.2. Chính sách do Chính phủ Lào ban hành
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước CHDCND Lào, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ có nhiệm vụ thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân.
Kể từ khi Đại hội lần thứ IV của Đảng Nhân dân cách mạng Lào năm 1986 đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó khâu then chốt là thực hiện mở cửa, điều chỉnh mạnh mẽ cơ cấu nền kinh tế để từng bước đưa CHDCND Lào hội nhập hiệu quả với khu vực và thế giới, Chính phủ Lào đã có nhiều nỗ lực cải thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng tại Lào.
Trên cơ sở đường lối đổi mới được Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đề ra năm 1986, Chính phủ Lào đã ban hành Nghị quyết số 11/CHDCND Lào về chuyển đổi hệ thống ngân hàng sang cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào
136
ngày 12/03/1988. Từ thời điểm đó, hệ thống ngân hàng của Lào đã có những thay đổi đáng kể, mà thay đổi cơ bản nhất là chuyển hệ thống ngân hàng Lào thì một cấp thành hai cấp với NHNN đóng vai trò quản lý vĩ mô hoạt động tài chính – tiền tệ và các NHTM đóng vai trò thực hiện các hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận. Cũng trong năm 1988, Chính phủ ban hành Nghị định số 03/PM về việc quản lý các hoạt động kinh doanh của NHTM và các tổ chức tài chính, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho hoạt động của NHNN Lào trong việc quản lý hoạt động kinh doanh của các NHTM và các TCTC trong nền kinh tế. Năm 1990, Chính phủ Lào tiếp tục ban hành Nghị định về xây dựng và hoạt động của NHTM và tổ chức tài chính, tạo dựng khuôn khổ pháp lý và điều kiện thuận lợi cho sự mở rộng và phát triển của hệ thống ngân hàng tại CHDCND Lào. Kết quả đạt được trong những năm sau đổi mới là hệ thống ngân hàng của Lào ngày càng phát triển về số lượng với đa dạng các hình thức sở hữu: ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng tư nhân, Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Văn phòng đại diện. Ngoài ra, đứng trước thực tế là năng lực tài chính và sức cạnh tranh của các Ngân hàng Nhà nước của Lào còn nhiều hạn chế, Chính phủ Lào đã hai lần đưa ra chính sách đổi mới cơ cấu hệ thống ngân hàng, thực hiện sáp nhập các NHTM quốc doanh với nhau, lần đầu tiên năm 1994 và lần thứ hai năm 2003. Đây được coi là những nỗ lực lớn nhằm nâng cao chất lượng hoạt động và sức cạnh tranh của toàn hệ thống ngân hàng Lào, là những bước chuẩn bị tốt cho viễn cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Lào với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Trong những năm gần đây, Chính phủ Lào tiếp tục ban hành các Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ, đồng thời nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh và pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của các Ngân hàng và các TCTD khác. Một số văn bản đã được Chính phủ Lào ban hành thời gian gần đây bao gồm:
- Nghị định thực thi luật Ngân hàng thương mại, số 275/PM, ngày 25/09/2009: Nghị định này được ban hành nhằm hướng dẫn việc thực hiện Luật Ngân hàng thương mại một cách chính xác, hiệu quả, thống nhất trên toàn quốc. Nghị định được áp dụng cho các ngân hàng doanh nghiệp trong nước, các chi nhánh, đơn vị, các nhóm công ty và đại diện ngân hàng doanh nghiệp trong nước hoạt động tại CHDCND Lào hoặc ở nước ngoài, chi nhánh Ngân hàng thương mại, các nhóm công ty và đại diện ngân hàng doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Lào.
- Nghị định số 287/PM, ngày 14/ 09/2011, về tổ chức thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội và kế hoạch ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015.
137
- Nghị định về chứng nhận và thông báo chiến lược tạo thuận lợi thương mại
của CHDCND Lào trong giai đoạn 2011-2015, số 0123/PM, ngày 18/07/2011.
- Sắc lệnh về tổ chức hoạt động của các Ngân hàng thương mại và tổ chức
tài chính.
- Đề xuất hoàn thiện các luật về Ngân hàng Nhà nước, Luật kinh doanh
bảo hiểm.
Có thể thấy, những chính sách mà Chính phủ Lào ban hành đều nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, thuận lợi cho sự phát triển của hệ thống TCTD trong nền kinh tế quốc dân.
3.3.1.3. Chính sách do Bộ Tài chính Lào ban hành
Bộ Tài chính là trung tâm hành chính trong cơ cấu của Chính phủ, có vai trò làm ban thư ký của Chính phủ về quản lý tài chính và ngân sách Nhà nước trên cả nước. Bộ Tài chính hoạt động theo quy định của Luật về Chính phủ và các luật khác có liên quan đến lĩnh vực tài chính và có nhiệm vụ nghiên cứu chiến lược, chính sách và kế hoạch để quản lý lĩnh vực tài chính, và hoàn thiện pháp luật và các văn bản khác liên quan đến lĩnh vực tài chính. Ngoài ra, Bộ Tài chính thực hiện các nghiên cứu và phân tích để tiếp thị tài chính, trái phiếu, tài sản chính và thị trường cổ phiếu; thực hiện quản lý ngân sách, tích lũy của quỹ tài chính quốc gia, tài sản, nợ, các khoản vay tiền mặt và hỗ trợ tài chính.
Chính sách tài chính là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng, được sử dụng song song với chính sách tiền tệ và chính sách thương mại để quản lý kinh tế xã hội, duy trì sự ổn định, đảm bảo và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Trong bối cảnh nền kinh tế Lào đang chuyển dần sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hệ thống chính sách tài chính đóng ba vai trò lớn:
Thứ nhất, Phân bổ nguồn lực tài chính ngân sách cho khu vực theo thứ tự ưu tiên, để tạo điều kiện thu hút sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế với cách đầu tư trong nước và nước ngoài.
Thứ hai, Điều chỉnh phân phối thu nhập công bằng trong xã hội bằng cách sử
dụng chính sách thuế và các chính sách hưởng lợi chi phí.
Thứ ba, Góp phần duy trì sự ổn định của kinh tế vĩ mô thông qua chính sách chi tiêu doanh thu và chính sách cân bằng cơ chế tài chính mở (Thâm hụt ngân sách ở mức độ kinh tế cơ bản chấp nhận được).
138
Nhằm khuyến khích sự phát triển của các lĩnh vực trong nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính nói riêng, thời gian qua, Bộ Tài chính Lào đã ban hành nhiều chính sách, cụ thể là:
Chính sách nguồn thu ngân sách:
- Nghiên cứu cải thiện một số chương trong luật hải quan, luật thuế và các luật
khác có liên quan để phù hợp với tình hình đổi mới kinh tế xã hội, thúc đẩy phát triển
trong mỗi ngành, tạo nguồn thu cho ngân sách ngày càng tăng lên theo hướng mở rộng
và tăng lên các đơn vị sản xuất-kinh doanh và dịch vụ.
- Nghiên cứu cải thiện các thủ tục trong hoạt động giao dịch cho đơn giản và
thuận lợi hơn, hoạt động chính sách phân cấp để tăng cường năng lực tài chính ở phía
địa phương do thực hiện theo Sắc lệch của Thủ tướng số 80/PM, ngày 28/02/2007, về
các tổ chức và hoạt động của Bộ Tài chính, đưa ra định hướng của Bộ trưởng về sự
quản lý tập trung theo chiều dọc của hải quan, thuế và ngân sách quốc tế.
Chính sách chi phí ngân sách:
- Chính sách chi phí ngân sách trở thành công cụ điều chỉnh thị trường, giá cả,
định hướng cho sản xuất và là công cụ điều chỉnh thu nhập chẳng hạn như: qua dự án
phát triển địa phương và chính sách hỗ trợ cứu tế của Chính phủ cho nhân dân nghèo
hoặc hoàn cảnh khó khăn. Một mặt, với việc thực hiện các biện pháp chi tiêu nghiêm
ngặt do thông qua xóa bỏ sự nâng đỡ ngân sách với giá cả, tiền lương và trợ giúp cho
các doanh nghiệp Nhà nước, dần dần giảm chi tiêu xa xỉ và không cần thiết. Đồng
thời, tỷ lệ tăng chi phí phổ biến bị hạn chế cho thấp hơn thu nhập ngân sách trong
nước, tập trung tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển ngày càng nhiều hơn.
- Với điều kiện nước CHDCND Lào là nước kém phát triển, đầu tư tư nhân còn
nhỏ, đầu tư Nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng là sự cần thiết và còn chiếm tỷ lệ
phần lớn. Để ráo riết sự phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia. Trong mỗi năm, đầu tư
Nhà nước để phát triển chiếm 50-60% của tổng chi phí. Để giảm các chi phí không cần
thiết Bộ Tài chính đã thúc đẩy theo dõi và kiểm tra nghiêm ngặt giai đoạn đầu tư xây
dựng cơ sở từ thời gian xây dựng dự án, đánh giá dự án, thanh toán và kết luận xây
dựng cơ sở.
Chính sách thu hút nguồn vốn:
- Thực hiện chính sách huy động vốn được sử dụng trong các hình thức cho vay
nội bộ, bằng cách phát hành trái phiếu kho bạc và cổ phiếu quỹ cho các ngân hàng
139
thông qua lãi suất đấu thầu. Ngoài ra, tìm cách sử dụng các khoản tài trợ và các khoản
3.3.1.4. Chính sách do Ngân hàng Nhà nước Lào ban hành
vay từ nước ngoài một cách hiệu quả, góp phần giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước.
NHNN Lào là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là ngân hàng của nước CHDCND Lào thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ, hoạt động của Ngân hàng và ngoại hối. NHNN Lào thực hiện chức năng phát hành tiền, ngân hàng của các ngân hàng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Bên cạnh đó NHNN Lào quản lý cơ chế hệ thống thanh toán qua ngân hàng có hiệu quả, quản lý cán cân thanh toán, quản lý hệ thống tiền tệ và tín dụng quốc gia ổn định và có tính minh bạch. NHNN Lào sử dụng các công cụ chủ yếu bao gồm: hạn mức tín dụng; lãi suất; dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở, tỷ giá hối đoái phối hợp với nhau trong từng thời kỳ để điều hành chính sách tiền tệ nói chung và chính sách tín dụng nói riêng.
Trong thời gian qua, NHNN Lào đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm thực hiện tốt chức năng quản lý vĩ mô các hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng; đảm bảo sự ổn định tiền tệ và an toàn cho cả hệ thống ngân hàng, qua đó thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Các văn bản quy phạm pháp luật này bao gồm:
- Quy định để bảo vệ sự ổn định của Ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính thuộc NHNN Lào, số 04/BOL, ngày 15 tháng 01 năm 1996: Quy định này tập hợp các quy tắc và các biện pháp xử lý để ngăn ngừa hành vi lừa đảo trong hoạt động của các NHTM và các tổ chức tài chính tại Lào.
- Quyết định về chính sách tín dụng của các NHTM và tổ chức tài chính để cung cấp cho người quản lý và người tham gia tín dụng, số 05/BOL, ngày 15/01/1996: Quyết định này đã đề ra những yêu cầu để các Chủ tịch, Phó Chủ tịch, thành viên quản lý và giám đốc của các ngân hàng và các tổ chức tài chính nói chung những cổ đông có cổ phiếu hơn 10% đều không được vay ngân hàng hoặc những tổ chức tài chính của mình hoặc là các tổ chức đảm bảo cho chính mình đi vay mượn tiền với người khác và cũng không được lợi dụng cơ quan để thực hiện bảo đảm những khoản vay cho người khác vay mượn tín dụng của ngân hàng cũng như các tổ chức thuộc với mình.
- Quy định về thị trường giữa các ngân hàng với nhau, số 395 / BOL, thủ đô Viêng Chăn, ngày 29/11/1999: Quy định này đảm bảo việc thiết lập thị trường ngân hàng và mối quan hệ giữa các ngân hàng trong nước CHDCND Lào.
140
- Quyết định về an toàn vốn cho các ngân hàng, các doanh nghiệp, số 135/BOL, ngày 20/03/2007: Quyết định này đảm bảo việc duy trì đủ vốn cho Ngân hàng thương mại dưới sự quản lý của NHNN Lào, đảm bảo sự ổn định của hệ thống Ngân hàng thương mại.
- Quyết định về phạm vi hoạt động tín dụng của ngân hàng, số 330/BOL, ngày 02/07/2007: Quyết định này đảm bảo sự an toàn của các khoản cho vay hạn mức giao dịch ngân hàng cho các cá nhân hoặc nhóm của bất kỳ người nào, nhằm giảm rủi ro tín dụng, đảm bảo chất lượng tín dụng và có thể đáp ứng các yêu cầu của tín dụng rộng rãi.
- Quy chế nghiệp vụ thị trường mở, số 05/BOL, thủ đô Viêng Chăn ngày 07/08/2007: Quy chế thiết lập về tổ chức và hoạt động của thị trường mở để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng của Lào.
- Quy định về việc sử dụng vốn và tài trợ, số 01/BOL, Thủ đô Viêng Chăn, ngày 28/01/2010: Quy định này thiết lập các quy tắc về việc sử dụng vốn của các NHTM và chi nhánh NHTM nước ngoài để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM.
- Quyết định về Điều chỉnh tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay, số 242/ BOL, ngày 02/04/2010: Trong quá khứ, để phù hợp với chính sách tiền tệ của NHNN Lào và đảm bảo sự ổn định của NHTM, NHNN Lào đã đưa ra quyết định về dự phòng rủi ro cho vay, số 342/BOL, ngày 13/05/2008, thiết lập một mức chung là 0,5% tổng tín dụng thường xuyên. Đến ngày 02/04/2010, để đảm bảo tính linh hoạt và tăng quyền sở hữu của Ngân hàng thương mại trong phòng chống rủi ro đối với cấp tín dụng và cụ thể là xác định tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay, NHNN Lào đã sửa đổi Điều 1 của Quyết định số 342/ BOL, ngày 13/5/2008 bằng cách xác định tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay nằm trong khoảng 0,5-1% tổng tín dụng thường xuyên.
- Quyết định về các biện pháp chống vi phạm của NHTM, số 811/BOL, ngày 20/10/2010: Quyết định này đã thiết lập các biện pháp và quy định để giáo dục, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, đảm bảo sức mạnh Ngân hàng thương mại, an ninh và ổn định. Quyết định này áp dụng cho các NHTM, cổ đông kinh doanh lớn, giám đốc điều hành và cán bộ của các NHTM mà vi phạm pháp luật NHTM và pháp luật khác mà NHNN Lào cấp. Ngoài ra, văn bản này cũng đưa ra quyết định về các biện pháp chống vi phạm của NHTM, được sửa đổi, bổ sung trong Quyết định số 847/BOL, ngày 30/9/2013, bằng cách yêu cầu phạt tiền từ 1 triệu -10 triệu Kíp mỗi ngày cho đến khi các ngân hàng vi phạm giải quyết xong những vi phạm đó.
141
- Quyết định về phân loại nợ và khấu trừ các tài khoản dự trữ đã mua của các NHTM, số 324/BOL, ngày 19/04/2011: Quyết định này quy định điều kiện về phân loại nợ, điều kiện được khấu trừ, cơ cấu lại các khoản nợ, loại bỏ nợ và thu hồi nợ của NHTM.
- Quyết định về phạm vi quản lý các ngân hàng doanh thương mại và các tổ chức tài chính của Cục Quản lý Ngân hàng thương mại, Cục Quản lý các tổ chức Tài chính và đại diện Ngân hàng của Lào, số 340 / BOL, thủ đô Viêng Chăn, ngày 28/04/2011: Quyết định nhằm xác định thẩm quyền và phạm vi quản lý của các cấp chính quyền, bao gồm Cục quản lý Ngân hàng thương mại, Cục quản lý các tổ chức Tài chính và đại diện Ngân hàng của Lào, trong quản lý NHTM, cụ thể là xem xét các yêu cầu đối với việc thành lập, kiểm tra, kiểm tra tài liệu và thực hiện các nhiệm vụ khác.
- Quyết định về các thành viên và phí thông tin tín dụng, số 927/BOL tại Thủ đô Viêng Chăn vào ngày 20/09/2012: Quyết định này đã thiết lập nên những quy tắc thu phí các thành viên và phí thông tin tín dụng của Trung tâm thông tin để cho các NHTM có thể tham khảo và thống nhất những TCTC đã là thành viên thực hành.
- Hiệp định về hoạt động thông tin tín dụng, số 928 / BOL, thủ đô Viêng Chăn, ngày 20/09/2012: Hiệp định này bao gồm các quy định về hoạt động thông tin thế chấp Ngân hàng của Lào và tổ chức tài chính về vấn đề lưu trữ, báo cáo thông tin cho khách hàng tín dụng để cung cấp thông tin để tín dụng như một thông tin trung tâm thành viên vay vốn nhằm giảm thiểu và hạn chế những rủi ro tiềm tàng trong cho vay của các NHTM và tổ chức tài chính.
- Thông báo huỷ bỏ về thực hiện tỷ lệ cho vay tín dụng cho tài trợ, số 555/DB, Thủ đô Viêng Chăn, ngày 22/08/2013: Nhằm tạo điều kiện để các NHTM có thể sử dụng các quỹ để tiến hành kinh doanh theo tình hình kinh tế và tài chính của các ngân hàng trong từng thời kỳ. Vì vậy, Sở Ngân hàng thương mại, NHNN Lào hủy bỏ về thực hiện tỷ lệ cho vay tín dụng cho tài trợ giữa 60-80% trong tập 2 Chỉ dẫn số 13/DCD ngày 12/01/1996 và chỉ dẫn số 168/DB ngày 24/2/1999.
- Quyết định về lãi suất cấp cơ sở của NHNN Lào, số 528/BOL, Thủ đô Viêng
Chăn, ngày 21/07/2015, do Sở dịch vụ NHNN Lào, tại chi nhánh của Ngân hàng của
Lào, các NHTM và các ban ngành quản lý có liên quan.
- Quyết định về việc xác định lãi suất kinh doanh của ngân hàng, số 529/ BOL,
tại thủ đô Viêng Chăn vào ngày 21/07/2015: Đã tạo ra các biện pháp thiết lập lãi suất
giữa tiền gửi và cho vay trung bình không vượt quá 4%. Theo thông tin đề ra để tính
142
toán sự chênh lệch khác biệt thì Ngân hàng của Lào đã ban hành cách hướng dẫn để
tính toán sự chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và cho vay Ngân hàng thương mại, số
662/ BOL tạo thủ đô Viêng Chăn vào ngày 21/07/2015.
Về cơ bản, trong thời gian qua, NHNN Lào đã thực hiện chính sách thắt chặt
tiền tệ một cách khôn ngoan để tăng cung tiền phù hợp với tốc độ tăng của nền kinh tế,
góp phần ổn định tỷ lệ lạm phát và giá trị của đồng Kíp. Trong năm tài chính 2010 –
2011, lượng cung tiền M2 tăng 38% so với cùng kỳ năm trước. Lý do của sự gia tăng
này là do tín dụng đối với lĩnh vực kinh tế tăng lên 6.499 tỷ Kíp, tương ứng tăng
43,89%, trong đó các khoản tín dụng tư nhân tăng lên 4,787.7 tỷ Kíp, tương ứng tăng
42,7% và tín dụng cho doanh nghiệp tăng lên 1,296.8 tỷ, tương ứng tăng 67,59%.
Trong năm tài chính 2011-2012, lượng cung tiền M2 tăng 28% so với cùng kỳ năm
trước; và trong năm tài chính 2012-2013, M2 tăng 20,61% so với cùng kỳ năm trước.
Sự gia tăng cung tiền M2 trong năm tài chính 2012 – 2013 là do: (i) Sự gia tăng tài sản
trong nước ròng cùng với các khoản tín dụng ngân hàng trong lĩnh vực kinh tế; (ii) các
NHTM cung cấp vốn cho các lĩnh vực kinh tế và các tổ chức tài chính nhằm thúc đẩy
sản xuất hàng hóa, xóa đói giảm nghèo, mua ngoại tệ và thực hiện các dự án ưu tiên
của Chính phủ. Trên lý thuyết, sự gia tăng cung tiền M2 sẽ tác động đến lạm phát, tuy
nhiên đối với trường hợp của Lào, trong ngắn hạn, sự gia tăng cung tiền M2 đã góp
phần kích thích tăng trưởng kinh tế trong khi đảm bảo ổn định về tỷ lệ lạm phát. Trong
suốt giai đoạn 2005-2015, CHDCND Lào đã kiểm soát lạm phát ở mức một con số, và
duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn cao hơn so với tỷ lệ phạm phát, đặc biệt
năm 2009, tỷ lệ lạm phát ở mức rất thấp, chỉ khoảng 0,63% (Hình 3.19). Tuy nhiên, về
lâu dài, nếu cung tiền M2 vẫn tiếp tục tăng ở mức 30% như hiện nay sẽ có thể làm
tăng rủi ro cho các ngân hàng, đặc biệt là nợ xấu, và rủi ro đối với nền kinh tế nói
chung, cũng như đặt áp lực lên tỷ lệ lạm phát.
143
70
60
50
40
30
%
20
10
0
-10
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Tốc độ tăng trưởng tín dụng 3.98 37.04 0.99 25.18 10.55 24.40 -5.91 23.68 63.65 42.11 49.13 45.49 33.43 38.56 13.74 19.86
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
5.84
5.76
5.91
5.84
6.88
7.3
8.3
7.9
7.9
7.5
7.9
8.1
8.3
8
7.8
7.2
Tỷ lệ lạm phát
10.56 7.81 10.63 15.49 10.15 7.16
6.81
4.51
7.63
0.63
5.98
6.5
6.9
7
4.13
5.3
Tốc độ tăng trưởng tín dụng
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tỷ lệ lạm phát
Nguồn: NHNN Lào
Hình 3.19: Tốc độ tăng trưởng tín dụng, tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát tại CHDCND Lào giai đoạn 2000 - 2015
Thời gian qua, NHNN Lào tiếp tục sử dụng tỷ giá hối đoái làcông cụ để duy trì sự ổn định của đồng tiền quốc gia và điều hành thông qua chính sách tỷ giá thả nổi. NHNN Lào xác định tỷ giá tham chiếu giữa đồng Kíp Lào và USD hàng ngày để cung cấp thông tin tham khảo cho các NHTM trong việc xác định tỷ giá của cơ sở, cho phép ngân hàng thương mại xác định tỷ giá trong biên độ ±0.25%. Kết quả là, NHNN Lào về cơ bản đã kiểm soát được tỷ giá, đồng Kíp Lào so với USD và Bạt Thái không bị mất giá. Trong cả giai đoạn 2000-2015, đồng Kíp Lào đã tăng giá so với USD là 6% và so với Bạt Thái là 5%.
Bảng 3.5: Tỷ giá ngoại tệ
2009 -2010 2010 - 2011
2011 - 2012
2012 - 2013
2013 – 2014 2014-2015
Tiền tệ
LAK/USD
8.372
8.037,49
8.010.73
7.868,21
8.022,57
8.131,14
Tỷ lệ thay đổi
+4,17%
+0,33%
+0,74%
-1,92%
1,34%
LAK/Baht
257,39
266,44
258,12
259,33
250,47
240,51
Tỷ lệ thay đổi
-3,39%
+3,22%
-0,46%
+3,53%
-3,98%
Nguồn: NHNN Lào
Trong những năm qua, dự trữ ngoại tệ được NHNN Lào duy trì ở mức đủ cho nhập khẩu trong thời gian trung bình là khoảng 5-6 tháng, bên cạnh đó luôn có những điều chỉnh khi cần thiết nhằm đảm bảo nguồn cung ngoại tệ cho nhu cầu của nền kinh tế. Trong năm tài chính 2010-2011, dự trữ ngoại tệ là 718.100.000 USD, tăng 35% so
144
với cùng kỳ năm trước và đủ cho khoảng 5-6 tháng nhập khẩu. Năm tài chính 2011- 2012, dự trữ ngoại tệ là 658.570.000 USD, giảm 9% so với cùng kỳ năm trước và đủ cho khoảng 5-6 tháng nhập khẩu. Năm tài chính 2012-2013, dự trữ ngoại tệ là 582.000.000 USD và đủ cho khoảng 5-6 tháng nhập khẩu. Năm tài chính 2013-2014, dự trữ ngoại tệ là 739.530.000 USD và đủ cho khoảng 5-6 tháng nhập khẩu.
Về chính sách lãi suất, tính đến năm 2015, NHNN Lào tiếp tục duy trì chính sách lãi suất ở mức 5% đối với khoản cho vay dưới 1 tuần; tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức 5% đối với Kíp Lào và 10% đối với ngoại tệ. Ngoài ra, NHNN Lào cũng thường xuyên tiến hành các hoạt động thị trường mở cũng như hoạt động cho vay đối với các NHTM trong hệ thống ngân hàng của Lào.
Bảng 3.6: Chính sách lãi suất của NHNN Lào
2010
2011
2012
2013
2014
Chỉ tiêu
2015
5
5
5
5
5
5
6,50
6,50
6,50
6,50
6,50
6,5-7,00
3,70
3,70
3,70
3,70
I. Lãi suất cơ bản (%) II.Trái phiếu của NHNN (%) (1 năm ) Kíp Lào: USD:
3,00-3,75
3,70 Nguồn: NHNN Lào
Bên cạnh đó, nhằm tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho các NHTM và các TCTD khác trong nền kinh tế, NHNN Lào không ngừng thúc đẩy việc sử dụng đồng Kíp qua các phương tiện khác nhau cũng như phát triển và cải thiện các quy tắc trong lĩnh vực ngân hàng tài chính như: các quy tắc phát hành và các quy định về yêu cầu chuyển tiền ra nước ngoài của các NHTM; cải thiện các quy tắc và các quy định về đại lý thu đổi ngoại tệ; thúc đẩy việc sử dụng đồng Kíp bằng cách tăng các giao dịch giám sát của các doanh nghiệp và các đại lý thu đổi ngoại tệ tư nhân; ổn định giá hàng hóa và dịch vụ, đặt ra quy định phải sử dụng nội tệ đối với hoạt động mua bán trong nước; tăng cường chất lượng hệ thống báo cáo tài chính ngân hàng; thúc đẩy các hoạt động giao dịch thông qua hệ thống ngân hàng và gia tăng số lượng các đại lý thu đổi ngoại tệ.
Với một hệ thống khuôn khổ pháp lý rõ ràng, môi trường kinh doanh có nhiều thuận lợi cùng với những cơ hội lớn do hội nhập kinh tế quốc tế đem lại, số lượng các NHTM và TCTD tại Lào đã tăng lên nhanh chóng trong những năm qua. Riêng trong năm 2014 và 2015 đã có tới 10 Ngân hàng được thành lập mới, nâng tổng số NHTM của Lào lên 41 ngân hàng, tăng hơn nhiều so với con số 15 ngân hàng năm 2000. Số lượng các TCTD vi mô cũng tăng lên con số 123 tổ chức vào năm 2015. Một điều đáng mừng nữa là hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM của Lào trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Trong suốt giai đoạn 2001 – 2015, doanh số
145
cho vay trên toàn hệ thống ngân hàng của Lào đã không ngừng tăng lên. Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay cũng ngày càng được nâng cao, điển hình là năm 2008 tỷ lệ tăng trưởng doanh số cho vay đạt 84,58% và năm 2009 đạt 90,66%, trong khi đây là giai đoạn nhiều quốc gia phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng đạt ở mức cao, đặc biệt trong các năm 2008 (63,65%) và 2010 (49,13%). Trong suốt giai đoạn 2000 – 2015, mức tăng trưởng tín dụng đều cao hơn mức tăng trưởng GDP, ngoại trừ năm 2002 và 2006 do những bất ổn còn tồn tại trong hệ thống ngân hàng của Lào. Tất cả những kết quả tích cực này đã cho thấy sự phát triển khá mạnh mẽ của các TCTD nói riêng và lĩnh vực ngân hàng tài chính của CHDCND Lào nói riêng trong những năm qua.
Để quản lý và đảm bảo sự phát triển bền vững của hệ thống NHTM, chuẩn bị cho hội nhập khu vực và quốc tế, NHNN Lào đang tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc quản lý và giám sát hoạt động của các ngân hàng doanh nghiệp bằng cách sử dụng các nguyên tắc CAMELS6 và BASEL I, đồng thời đang nghiên cứu lại hệ thống quản lý NHTM để quản lý theo nguyên tắc BASEL II. Với hoạt động giám sát đang được thực hiện có hiệu quả của NHNN Lào, chất lượng hoạt động của các NHTM đang ngày càng được nâng cao, thể hiện qua sự giảm xuống và ổn định tỷ lệ nợ xấu ở mức 3% năm 2015; tỷ lệ thu lãi ở mức cao, trên dưới 90%; hệ số an toàn vốn tăng lên; cơ cấu cấp tín dụng hợp lý, qua đó tăng cường được yếu tố lòng tin của các tổ chức, cá nhân trong xã hội đối với hoạt động của hệ thống NHTM tại Lào.
3.3.2.1. Chính sách do Quốc hội Lào ban hành
Nhìn chung, trong thời gian qua, NHNN Lào đã luôn chú trọng tăng cường chính sách quản lý ngoại tệ, qua đó đảm bảo sự ổn định tiền tệ và an toàn cho cả hệ thống ngân hàng, đồng thời thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước. 3.3.2. Thực trạng chính sách về phát triển chủ thể sử dụng dịch vụ tín dụng
Để tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ tín dụng, bên cạnh việc hình thành nên khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh của hệ thống TCTD, Quốc hội Lào cũng rất chú trọng đến việc hoàn thiện môi trường pháp lý đối với hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế nói chung, những chủ thể sử dụng dịch vụ tín dụng, đồng thời Quốc hội cũng ban hành nhiều văn bản Luật để bảo vệ quyền lợi cho nhóm chủ thể này. Những văn bản Luật này bao gồm: 6CAMELS (Capital Adequacy-Mức độ an toàn vốn) Được áp dụng nhằm đánh giá độ an toàn, khả năng sinh lời và thanh khoản của ngân hàng. An toàn được hiểu là khả năng của ngân hàng bù đắp được mọi chi phí và thực hiện được các nghĩa vụ của mình và được đánh giá thông qua đánh giá mức độ đủ vốn, chất lượng tín dụng và chất lượng quản lý.
146
- Luật doanh nghiệp, số 11/NA, ngày 09/11/2005: Luật này quy định các nguyên tắc, quy tắc hoạt động và quản lý của các doanh nghiệp trong nước để thúc đẩy sản xuất - kinh doanh trong cả lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế - xã hội quốc gia. Luật này áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp được thành lập và kinh doanh tại Lào.
- Luật khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ, số 11/NA, ngày 21/12/2011, của Quốc hội Lào: Luật này thiết lập các nguyên tắc, thủ tục, biện pháp, tổ chức và công tác hoạt động để thúc đẩy sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế, qua đó, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thương mại và dịch vụ, tạo ra công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống của người dân, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế - xã hội quốc gia. Luật này áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập và kinh doanh tại Lào.
- Luật bảo đảm thực hiện hợp đồng, số 06/NA, ngày 20/05/2005: Luật này xác định các nguyên tắc, quy định và các biện pháp để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng, tăng cường các mối quan hệ tài sản trong cuộc sống của người dân, khuyến khích sản xuất và hoạt động doanh nghiệp, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế, xã hội, hòa bình và công lý.
- Luật về giải quyết xung đột kinh tế, số 02/NA, ngày 19/05/2005: Luật này xác định các nguyên tắc, quy định và các biện pháp để giải quyết các cuộc xung đột kinh tế bằng cách hòa giải hoặc theo quyết định của Ủy ban nhằm giải quyết các xung đột kinh tế một cách công bằng, nhanh chóng, góp phần đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh để phát triển và đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Luật về cam kết trong và ngoài hợp đồng, số 01/NA, ngày 08/12/1998: Luật này xác định các nguyên tắc, quy định và các biện pháp về thực hiện hợp đồng, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và thiệt hại phát sinh từ Hợp đồng nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên, những người đã bị mất và người hư hỏng, bảo đảm pháp luật chính xác và công bằng trong xã hội để phát triển và đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Luật về đảm bảo người sử dụng, số 02/NA, ngày 30/06/2010: Luật này có nội dung về các thức tổ chức, quản lý, theo dõi và giám sát hoạt động bảo vệ người tiêu dùng, để đảm bảo lợi ích và sự an toàn của người dùng từ tiêu cực do hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy sản xuất trong nước, nhập khẩu, phân phối, sản phẩm và dịch vụ chất lượng, tiêu chuẩn, chính xác và phù hợp với pháp luật, nhằm tạo lập công bằng xã hội, hòa bình, trật tự và làm cho cuộc sống của người dân tốt hơn.
147
3.3.2.2.Chính sách do Chính phủ Lào ban hành
- Luật hải quan (phiên bản sửa đổi), số 04/NA, ngày 20/12/2011: Luật này quy định nguyên tắc, chính sách, quy định và tiêu chuẩn về xuất nhập khẩu, quá cảnh và vận chuyển hàng hóa để thúc đẩy bảo hộ đầu tư mang lại lợi ích kinh tế và xã hội, và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Luật này được áp dụng cho mọi công dân, cá nhân, tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa, quá cảnh và vận chuyển hàng hóa.
Trong thời gian qua, Chính phủ Lào đã tiến hành cải thiện môi trường pháp luật và hệ thống chính sách theo hướng thông thoáng hơn, minh bạch hơn, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mọi loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế. Đặc biệt, Chính phủ Lào đã ban hành nhiều văn bản pháp luật theo hướng hỗ trợ cho sự phát triển của hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) trong nền kinh tế quốc dân. Cụ thể là:
- Cải thiện môi trường pháp lý, hệ thống chính sách
+ Cải thiện Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài và hệ thống chính sách liên
quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Lào.
+ Minh bạch hóa hệ thống pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi và niềm tin cho
quá trình hợp tác của các nhà đầu tư nước ngoài tại Lào.
+ Ban hành hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư, đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình và kinh tế tư nhân.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận kinh tế Nhà nước, tổ chức lại doanh nghiệp theo hướng đẩy mạnh tự do hóa tài chính, giảm thiểu sự can thiệp của Chính phủ, đẩy mạnh việc giải quyết các vấn đề thua lỗ và nợ xấu của doanh nghiệp Nhà nước.
+ Cải thiện hệ thống quy định, chính sách theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Trong giai đoạn 2011 – 2015, Chính phủ Lào đã ban hành những chính sách theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm chi phí cho doanh nghiệp như: cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho việc thành lập doanh nghiệp; đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh và nộp thuế; giảm thuế kinh doanh và thời gian xuất nhập khẩu hàng hóa thông qua việc áp dụng hệ thống thuế và hải quan (ASYCUDA) tại cửa khẩu Hữu Nghị và biên giới “Thanaleng”. Một số kết quả tích cực đã thu được trong thời gian qua là:
148
* Thủ tục và quy trình đăng ký kinh doanh được cải thiện: quá trình đăng ký nhanh chóng, dễ dàng với chi phí rẻ hơn. Trước đây, chi phí đăng ký từ 100.000 Kíp đến 200.000 kíp và bây giờ giảm xuống chỉ còn từ 40.000 Kíp đến 90.000 Kíp. Quá trình đăng ký trước đây mất từ 60 – 90 ngày, tuy nhiên hiện nay chỉ mất từ 3 – 10 ngày làm việc.
* Về thủ tục cấp các giấy phép, trước đây yêu cầu khoảng 18 bản sao các tài liệu, tuy nhiên hiện nay chỉ cần từ 4 – 6 bản sao, và các giấy phép được cấp vĩnh viễn, không có yêu cầu phải đổi mới giấy phép.
- Hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs)
Sự phát triển của các doanh nghiệp là mục tiêu và cũng là một nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm lần thứ VI (2006- 2010) và lần thứ VII (2011- 2015) của Chính phủ.
Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp tại Lào là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm tới hơn 96%, và khó khăn cơ bản đối với các doanh nghiệp này là thiếu vốn. Mặc dù, hoạt động cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng tại Lào không ngừng tăng trưởng qua các năm, song thực tế là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Từ thực tế đó, nhằm thúc đẩy sự phát triển của các SME trong nền kinh tế, đồng thời thúc đẩy sự tăng trưởng trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, trong thời gian qua, Chính phủ Lào đã ban hành và thực thi nhiều chính sách, cụ thể là:
+ Hoàn thiện Nghị định Số 42/PM ngày 21/12/2011, quy định chi tiết về Luật
doanh nghiệp vừa và nhỏ Số 11/NA, ngày 21 Tháng 12 năm 2011;
+ Thành lập quỹ cho vay đối với các SME; và ký hợp đồng vay vốn với Ngân
hàng Phát triển Lào với số vốn gần 14 tỷ Kíp cho vay đối với các SME;
+ Ban hành các khoản vay đối với các SME thông qua 03 NHTM với số vốn là
430 triệu Kíp;
+ Thành lập mạng lưới các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn phát triển kinh doanh
với số lượng thành viên hiện nay là 21 người.
+ Thành lập các mô hình doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả.
Việc ban hành và thực thi những chính sách trên đã đem lại những kết quả khả quan, góp phần vào sự phát triển của các SME trong nền kinh tế. Những kết quả cụ thể có thể kể đến là:
149
- Khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các SME được nâng cao với việc Chính phủ hoàn thành việc thành lập các quỹ cho vay và ký hợp đồng với Ngân hàng Phát triển Lào với số tiền 14 tỷ Kíp để cho vay đối với các SME; Ban hành các khoản vay đối với các SME thông qua 03 NHTM với số vốn là 430 triệu Kíp; Ban hành Quy định số 123/PM của Chính phủ ngày 03/03/2010 về Hệ thống quy định quản lý quỹ cho vay đối với các SME; Hoàn thiện các quy định liên quan đến doanh thu, chi phí của quỹ, trên cơ sở tuân thủ các quy định của Kho bạc Nhà nước.
- Xây dựng thành công mạng lưới các nhà cung cấp dịch vụ nhằm cung cấp dịch vụ tư vấn phát triển kinh doanh, nghiên cứu, hỗ trợ việc thành lập doanh nghiệp, tạo điều kiện để các SME cung cấp các dịch vụ mua sắm cho Chính phủ.
- Hoạt động nghiên cứu và phối hợp giữa các DN lớn với các SME được đẩy
mạnh, thúc đẩy mỗi bên tăng cường sử dụng các sản phẩm và dịch vụ trong nước.
- Chính phủ đã thực hiện thành công các dự án thí điểm trong việc xây dựng các mô hình nhà máy hiệu quả, từ đó thúc đẩy việc tăng chất lượng và tiêu chuẩn của các SME trong nền kinh tế. Hiện nay, đã có 4 mô hình nhà máy được thành lập, trong đó có Nhà máy bột sắn Đông Dương đã được nhận giải thưởng SME tốt nhất khu vực ASEAN hiện nay.
3.3.2.3.Chính sách do Bộ Tài chính Lào ban hành
- Khuyến khích tiếp cận thị trường và mở rộng thị trường cho các SME: Chính phủ luôn chú trọng đến việc cung cấp thông tin về các chính sách của chính phủ, các cơ hội kinh doanh và thị trường cho các SME; thúc đẩy việc phát triển các kỹ thuật chuyên môn nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các lĩnh vực sản xuất gỗ, đồ trang sức, các linh phụ kiện... Ngoài ra, kỹ thuật về chuỗi giá trị gia tăng cũng được áp dụng để thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến nông sản.
Đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế, vai trò của Bộ Tài chính Lào thể
hiện trên các góc độ sau:
- Thống nhất quản lý, chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện công tác thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác của ngân sách Nhà nước theo đúng quy định của pháp luật.
- Phát triển đồng bộ các loại thị trường, mở rộng và đa dạng hóa các hình thức hoạt động trên thị trường để động viên các nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo tiền đề đẩy mạnh cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng.
150
- Xử lý hiệu quả mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa tiết kiệm và đầu tư; có chính sách khuyến khích tăng tích lũy cho đầu tư phát triển, hướng dẫn tiêu dùng; thu hút hợp lý các nguồn lực xã hội cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
- Theo dõi, tổng hợp tình hình quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước và phân tích đánh giá thực trạng tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước, các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước theo quy định của pháp luật.
3.3.2.4.Chính sách do Bộ Công Thương Lào ban hành
Nhìn chung, trong thời gian qua, Bộ Tài chính Lào đã thực hiện tốt vai trò định hướng phát triển cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế; kiểm tra, giám sát gián tiếp đối với hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thông qua công tác thu thuế, phí; phối hợp với các bộ ban ngành khác thực hiện tốt công tác hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế. Trong giai đoạn 2011 – 2015, Bộ Tài chính Lào đã tăng cường nghiên cứu để đề xuất cải thiện các chính sách về đầu tư trong nước và nước ngoài, phát luật hải quan và thuế, đặc biệt là các tỷ lệ hải quan-thuế cho phù hợp hơn để hỗ trợ khuyến khích sản xuất và đầu tư, thúc đẩy tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào sự đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính Lào cũng ban hành các chính sách đầu tư kinh phí nhằm phát triển lĩnh vực nông nghiệp và sản xuất hàng hóa, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng.
Bộ Công Thương đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung. Vai trò của Bộ Công Thương Lào trong thời gian qua được thực hiện nổi bật trên các khía cạnh:
- Ban hành các văn bản pháp luật nhằm thực thi các Nghị được và các Sắc lệnh được Chính phủ ban hành, trong đó có các văn bản theo hướng cải thiện môi trường kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bộ Công Thương Lào là đơn vị trực tiếp quản lý việc cấp, điều chỉnh, thu hồi, gia hạn giấy phép kinh doanh, và trong thời gian qua đã thực hiện tốt những cải cách theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm chi phí cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Về hệ thống chính sách hỗ trợ cho các SME, Bộ Công Thương Lào đã ban hành Quy định quản lý quỹ cho vay phát triển đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Số 1163/MOIC ngày 18/06/2012, bên cạnh đó Bộ Công Thương cũng đang cùng với các Bộ ngành liên quan xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đối với các SME và hệ thống văn phòng đại diện đóng vai trò chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng của các SME. Nhằm nâng cao trình độ nguồn nhân lực, một cơ sở quan trọng để tăng cường năng lực cạnh tranh của các tổ chức kinh tế, Bộ Công
151
Thương cũng đang phối hợp với Bộ Giáo dục và Thể thao cùng với các cơ quan có liên quan khác nghiên cứu và phát triển chương trình đào tạo cho các SME và sách hướng dẫn giảng dạy cho giảng viên. Hiện nay, chương trình đã được thí điểm tại một số trường học và sẽ sớm được triển khai áp dụng tại các trường dạy nghề và các trường đại học.
- Quỹ cho vay phát triển đối với các SME đã được Bộ Công Thương thiết lập vào cuối năm 2010 và bắt đầu cấp vốn cho 49 đơn vị vào đầu năm 2012, với mức lãi suất tín dụng là 9 và 10%. Trong giai đoạn 2013- 2014, Ngân hàng phát triển Lào đã cung cấp khoản vay 14 tỷ Kíp (1 triệu 750 nghìn USD). Năm 2013, lượng tín dụng cung ứng cho các SME chiếm 35% GDP, tăng 14% so với năm 2011. Giai đoạn 2014 - 2015, Quỹ cung cấp khoảng 112 tỷ Kíp (14 triệu USD), trong đó bao nguồn tài chính của Chính phủ 1,6 tỷ Kíp (2 trăm nghìn USD) và các khoản vay và viện trợ từ Ngân hàng Thế giới 96 tỷ Kíp (12 triệu USD).
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch quy hoạch ngành và lĩnh vực; quy hoạch vùng, lãnh thổ và các chương trình phát triển, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình kinh tế - kỹ thuật, các dự án quan trọng thuộc phạm vi các ngành, lĩnh vực do Bộ quản lý.
- Hướng dẫn, kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các quy định của pháp luật về kinh doanh, lưu thông hàng hoá, các hoạt động thương mại trên thị trường, hàng hoá và hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, dịch vụ thương mại; xử lý các hành vi vi phạm pháp luật theo quy định; đảm bảo trật tự kỷ cương trên thị trường.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng kế hoạch, chương trình xúc tiến thương mại quốc gia hàng năm nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước phát triển.
3.3.2.5. Chính sách do Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội Lào ban hành
Nhờ những chính sách hỗ trợ đối với các SME của Chính phủ và việc thực thi có hiệu quả của Bộ Công Thương trong thời gian qua, đối tượng khách hàng vay vốn tín dụng ngày càng được mở rộng và gia tăng nhanh về số lượng. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng khách hàng vay tín dụng chỉ đạt 39%, song đã tăng lên 73% năm 2007, đạt mức tăng trưởng cao nhất là 464,45% năm 2011 và duy trì ở mức cao trong năm 2014 là 184,43%.
Trong nhiều năm trở lại đây, cơ cấu lao động nước CHDCND Lào đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Do đó, việc nâng cao năng lực cho lực lượng lao động đáp ứng được các yêu cầu của thị trường lao
152
động, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, là vô cùng quan trọng nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội Lào là cơ quan của Chính phủ, thực hiện việc quản lý các lĩnh vực lao động và phúc lợi xã hội trên toàn quốc. Trong thời gian qua, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội Lào đã chỉ đạo có hiệu quả công tác đào tạo phát triển lực lượng lao động, giải quyết việc làm và đảm bảo phúc lợi xã hội cho người lao động.
Về kết quả đào tạo, thông qua các khóa đào tạo nghề và phát triển kỹ năng, số lượng lao động có tay nghề và chuyên môn trên thị trường không ngừng tăng lên qua các năm. Con số này là 5.070 người năm 2010; 5.374 người năm 2011; 16.158 người năm 2012 và 29.766 người năm 2013. Trong đó, xét về cơ cấu, lao động trong lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất, khoảng trên 50%.
Về giải quyết việc làm cho người lao động, đã có nhiều doanh nghiệp dịch vụ việc làm được phép thành lập tại Lào góp phần giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động. Số lượng doanh nghiệp dịch vụ việc làm đã tăng từ 3 công ty năm 2005 lên 25 công ty năm 2014, giải quyết việc làm cho 6.404 lao động năm 2010; 21.009 lao động năm 2011; 74.992 lao động năm 2012; 241.949 lao động năm 2013 và hơn 300.000 lao động năm 2014.
Về hoàn thiện hệ thống pháp lý trong lĩnh vực lao động, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội Lào đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện Luật lao động, số 06/NA, ngày 27/12/2006; Ban hành Nghị định về giá trị lao động thấp nhất, số 1450/BLDPLXH, ngày 30/04/2009, từ 290.000 Kíp (37.2 USD) tăng lên 348.000 Kíp (45 USD); Ban hành Quy định đào tạo và phát triển kỹ năng lao động, số 036/TT, ngày 22/01/2010; Ban hành Quy định về thành lập và quản lý doanh nghiệp dịch vụ việc làm, số 043/BLDPLXH, ngày 12/01/2010; Ra quyết định về tổ chức và hoạt động của các quan chức thanh tra lao động, số 5523/ BLDPLXH, ngày 01/12/2009; Ban hành quyết định sử dụng lao động nước ngoài, số 5418/BLDPLXH, ngày 10/12/2007; Căn cứ trên Nghị định về xuất khẩu lao động của Lào ra nước ngoài, số 68/PM, ngày 28/05/2002 đề xây dựng Hướng dẫn thực hiện số 2417/BLDPLXH, ngày 29/07/2002; Ban hành quy định về loại nghề nghiệp và khu vực cấm xuất khẩu lao động của Lào ra nước ngoài để làm việc, số 3824/BLDPLXH, ngày 18/12/2002.... Bên cạnh đó, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội Lào cũng đã ban hành dự thảo quy định về quản lý và sử dụng lao động, dự thảo hiệp định lao động và bảo vệ lợi ích của cả người sử dụng lao động và người lao động theo quy định và pháp luật.
153
3.3.2.6. Chính sách do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Lào ban hành
Về phúc lợi xã hội, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội Lào đã thực hiện hiệu quả Luật phúc lợi xã hội, số 34/NA, ngày 26/07/2013; Ra quyết định về tổ chức và hoạt động của Ủy ban về an toàn và sức khỏe của người lao động cấp Trung ương, số 4321/BLDPLXH, ngày 08/09/2009; thực hiện Nghị định của Thủ tướng về chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động trong các doanh nghiệp, số 207/PM, ngày 23/12/1999; Ban hành quy định tạm thời về quản lý các quỹ an sinh xã hội. Hiện nay, quỹ an sinh xã hội đang hoạt động rất hiệu quả, góp phần hỗ trợ hiệu quả và nâng cao cho người dân.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói chung các Sở khác có liên quan tới việc khuyến khích và thu hút đầu tư như: Sở Khuyến khích đầu tư, Sở Kế hoạch, Sở Đánh giá dự án... đã thực hiện nhiều biện pháp và ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài trong thời gian vừa qua như: Cải thiện pháp luật khuyến khích đầu tư, số 02/NA, ngày 08 tháng 07 năm 2009; Hoàn thiện Cơ chế phê duyệt đầu tư thông qua một cửa (One door services), phân chia quyền và nghĩa vụ trong việc phê duyệt và quản lý đầu tư nước ngoài; Tổ chức hội nghị đầu tư cả trong và ngoài nước mỗi năm một lần để thu thập các tình huống khó khăn và tìm giải pháp.
Đầu tư có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Hoạt động này góp phần chuyển đổi nền kinh tế, sản xuất hàng hoá, tạo việc làm, phát triển địa phương và cũng kích thích kinh tế phát triển và cải tiến thường xuyên. Trong giai đoạn 5 năm (2009-2011), nước CHDCND Lào đã thu hút được đầu tư tư nhân trong và ngoài nước với tổng số 1.022 dự án với trị giá được phê duyệt khoảng 11 tỷ USD, và đầu tư của các doanh nghiệp trong nước là 2,2 tỷ USD. Trong đó, vốn đầu tư được phê duyệt trong ngành điện là 3,44 tỷ USD chiếm 31,24%; khai thác là 2,88 tỷ USD chiếm 25,85%; khu vực dịch vụ là 1,48 tỷ USD chiếm 13,44% và các ngành khác là 3,21 tỷ USD, chiếm 29,15% trong tổng vốn được phê duyệt. Trong năm 2012-2013, nước CHDCND Lào đã phê duyệt tổng vốn đầu tư 4,3 tỷ USD, trong đó đầu tư nhiều nhất vào CHDCND Lào là: Việt Nam, Thái Lan và Trung Quốc.
154
3.3.3. Thực trạng chính sách về phát triển sản phẩm dịch vụ tín dụng
Trong thời gian qua, các cơ quan quản lý Nhà nước của CHDCND Lào cũng đã ban hành một số văn bản nhằm phát triển các sản phẩm dịch vụ tín dụng thông qua việc khuyến khích các TCTD tạo lập và phát triển các loại hình dịch vụ tín dụng mới, đồng thời tạo dựng khuôn khổ pháp lý minh bạch, rõ ràng cho việc kinh doanh các loại hình dịch vụ tín dụng mới này. Các văn bản này bao gồm:
- Nghị định thuê tín dụng, số 11/PM, ngày 18 tháng 02 năm 1999: Nghị định này được đặt ra nhằm phát triển và thúc đẩy hoạt động kinh doanh dịch vụ cho thuê tín dụng nhằm đáp ứng các yêu cầu về tài chính và vật chất cho người dân, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Sắc lệnh quản lý lưu thông ngoại tệ và tài sản có giá trị; Sắc lệnh cho thuê tín dụng; Sắc lệnh cầm cố… do Chính phủ ban hành nhằm tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh các loại hình dịch vụ tín dụng này.
- Quyết định về việc cho vay bằng ngoại tệ của các ngân hàng doanh nghiệp, số 792/BOL, Thủ đô Viêng Chăn, ngày 11/09/2013: Quyết định này thiết lập các quy tắc và các biện pháp để cung cấp tiền vay bằng tiền ngoại tệ của Ngân hàng thương mại, qua đó nhằm giảm thiểu rủi ro trong quản lý và cung cấp các khoản vay, thúc đẩy việc sử dụng đồng tiền Kíp và duy trì sự ổn định của đồng tiền quốc gia.
Có thể nói, thời gian qua, NHNN Lào đã ban hành nhiều chính sách và quy định cho phép các NHTM xét duyệt cho vay với chi phí thấp và phát triển mạnh các sản phẩm cho vay. Với những quy định thuận lợi đó, các NHTM cũng đã đẩy mạnh cung cấp dịch vụ tín dụng cho nhiều đối tượng khách hàng và hướng đến các dự án có hiệu quả thông qua việc cải thiện các quy định, cơ chế và thủ tục cho vay trong khi vẫn đẩy mạnh hoạt động kiểm soát tín dụng để đảm bảo chất lượng cho vay và kiểm soát nợ xấu ở mức dưới 3%.
3.4. Đánh giá thực trạng chính sách nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại nước CHDCND Lào
3.4.1. Kết quả trong chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào
Có thể nói, chính sách phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào được hoạch
định và thực thi khá bài bản, từ đó đạt được những thành tựu nổi bật sau:
Thứ nhất, Chính sách phát triển DVTD đã thực sự tác động, thúc đẩy sự phát triển các tổ chức tín dụng ở CHDCND Lào. Các NHTM cổ phần, các NHTM liên doanh
155
và nước ngoài phát triển đã làm cho diện mạo các TCTD ở Lào thay đổi theo hướng tích cực. Xét về mặt số lượng, trong giai đoạn 2000 – 2015, tổng số ngân hàng hoạt động kinh doanh trên thị trường Lào đã tăng từ 15 ngân hàng lên 41 ngân hàng, gấp gần ba lần, trong đó có tỷ trọng lớn các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, chất lượng DVTD ngày càng được nâng cao, nợ xấu của các TCTD được kiểm soát, độ phủ sóng của DVTD theo phạm vi địa bàn lãnh thổ được mở rộng, tạo điều kiện tốt hơn cho các doanh nghiệp và người dân tiếp cận với DVTD. Phát biểu trên Báo của NHNN Lào ngày 25/05/2015, TS. Akhom Prasead, Cục trưởng Quản lý Tổ chức tài chính, NHNN Lào đã nhận định:“Các tổ chức tài chính đang phát triển ngày càng mạnh mẽ và là một nguồn vốn vô cùng quan trọng trong thị trường tiền tệ và thị trường vốn của Lào. Trong năm 2014, việc tiến hành hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính vi mô và công đoàn tín dụng – tiền gửi tiết kiệm tạo lợi nhuận khoảng 6,43 tỷ Kíp, tài sản 217,62 tỷ Kíp tăng khoảng 26%, nợ tăng 15,7%, vốn đầu tư tăng 72% và cho vay tăng 38% so với năm trước. Hiện nay, các tổ chức tài chính đã đăng ký với NHNN Lào bao gồm: 12 tổ chức tài chính nhận tiền gửi; 27 tổ chức tài chính không nhận tiền gửi; 21 công đoàn tín dụng – tiền gửi tiết kiệm; 30 tổ chức cầm đồ; 12 công ty cho thuê tín dụng; 05 công ty đại diện chuyển giao tiền gửi; 01 tổ chức tiết kiệm bưu điện; 01 quỹ để phát triển kinh tế”. Bên cạnh đó, tại Đại hội Đảng của NHNN Lào lần thứ III được tổ chức vào ngày 08/05/2015 tại Thủ đô Viêng Chăn, TS. Somphao Phaysith, Thống đốc NHNN Lào cũng phát biểu: “Ngành ngân hàng đã đạt được nhiều thành công trong thời gian qua. Tỷ lệ tiền gửi trên GDP đã tăng từ 31% lên 51%; Tỷ lệ tín dụng trên GDP tăng từ 29% lên 53%; Lượng tín dụng cung ứng để giải quyết tình trạng đói nghèo hiện nay là 2.294 tỷ Kíp; Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng là 2,5%, phù hợp với mức độ yêu cầu. Hệ thống ngân hàng, tổ chức tài chính ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, nước CHDCND Lào có tất cả 37 Ngân hàng thương mại, 89 chi nhánh, 423 đơn vị dịch vụ, 865 ATM, 123 tổ chức tài chính dưới sự quản lý của NHNN. Tài sản hệ thống ngân hàng tăng trung bình 64,75%/năm; tài sản tổ chức tài chính tăng trung bình 57%/năm. Dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển, qua đó cung cấp đa dạng các sản phẩm dịch vụ tín dụng cho doanh nghiệp và cá nhân trong xã hội. Thị trường vốn cũng phát triển để có thể huy động vốn dài hạn từ việc phát hành cổ phiếu trong nước và nước ngoài khoảng 5,23% GDP”.
Thứ hai, hệ thống chính sách phát triển DVTD đã tác động một cách toàn diện và thu được nhiều kết quả tích cực trên tất cả các mặt: chủ thể cung ứng DVTD, chủ thể sử dụng DVTD, các sản phẩm DVTD, là cơ sở đảm bảo sự phát triển bền vững của lĩnh vực tín dụng trong nền kinh tế trong những năm tới. Trong thời gian qua, NHNN
156
Lào đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó đưa ra những quy định chi tiết, chặt chẽ đối với hoạt động của các NHTM và các TCTD khác trong nền kinh tế, qua đó giảm tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng của các ngân hàng qua các năm, góp phần ổn định hoạt động của các tổ chức này, và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính quốc gia. Từ năm 2000 đến nay, tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng nước CHDCND Lào đều theo chiều hướng tích cực là giảm xuống; riêng tỷ lệ nợ xấu đã được duy trì ổn định ở mức dưới 3%, mức an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế, từ năm 2013 trở lại đây. Nhằm phát triển các chủ thể sử dụng DVTD và các sản phẩm DVTD, Chính phủ và các Bộ ban ngành trong thời gian qua đã rất chú trọng cải thiện môi trường pháp lý theo hướng minh bạch, cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng thuận lợi, khuyến khích đầu tư, đặc biệt có nhiều chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ ba, Chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng đã hướng vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp hơn, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Nhìn chung, trong những năm qua, tín dụng đầu tư vào các ngành kinh tế quốc dân đều tăng lên qua các năm, song tín dụng đang tập trung nhiều vào các ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ với giá trị gia tăng cao và đem lại sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Ngoài ra, cơ cấu vốn tín dụng của các ngân hàng cũng đang hướng tới việc đầu tư nâng cấp các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Đây là một xu hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng tích cực, đóng góp vào quá trình hiện đại hóa, đô thị hoá nông thôn, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Thứ tư, Chính sách phát triển DVTD đã góp phần phát triển khu vực kinh tế tư nhân, tạo điều kiện khai thác các tiềm năng thế mạnh của khu vực kinh tế này trong phát triển đất nước. Trong giai đoạn 2000 - 2015, tín dụng cho khách hàng tư nhân ngày càng gia tăng với tốc độ tăng trưởng bình quân cả giai đoạn đạt 30,18%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng của tín dụng cho doanh nghiệp có vốn Nhà nước (21,32%). Tín dụng cho khách hàng tư nhân cũng là bộ phận chiếm tỷ trọng chủ yếu trong dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng nước CHDCND Lào, năm 2015 tỷ trọng này là 90,03%. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là bộ phận hoạt động có hiệu quả cao, đóng góp lớn cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước, do đó, đẩy mạnh cho vay đối với thành phần kinh tế này là một yêu cầu tất yếu của đầu tư tín dụng.
Thứ năm, hệ thống chính sách điều hành thị trường tài chính – tiền tệ nói chung và phát triển dịch vụ tín dụng nói riêng của nước CHDCND Lào trong thời gian qua đã đạt được các mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, góp phần ổn
157
định kinh tế vĩ mô và tạo điều kiện thuận lợi cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Tốc độ phát triển DVTD với một quy mô phù hợp trong thời gian qua đã tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định và tăng trưởng kinh tế cao của CHDCND Lào. Trong một thời gian dài, mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng khu vực và quốc tế, song CHDCND Lào vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định ở mức trên 7%. Bên cạnh đó, thông qua việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Lào, trong đó có chính sách tín dụng linh hoạt, nước CHDCND Lào đã kiểm soát được lạm phát ở mức một con số, đồng thời duy trì tốc độ lạm phát ở mức thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế trong suốt giai đoạn từ năm 2005 trở lại đây. Năm 2015, tỷ lệ lạm phát của Lào chỉ là 5,3%. Có thể nói tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với kiểm soát lạm phát dưới mức tăng trưởng là một thành công nổi bật của công tác điều hành chính sách tiền tệ của nước CHDCND Lào.
Thứ sáu, việc quản lý và điều hành thị trường tài chính nói chung và dịch vụ tín dụng nói riêng hiện nay được các cơ quan quản lý Nhà nước nước CHDCND Lào thực hiện mang tính linh hoạt theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, chất lượng tín dụng, đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn vay ngân hàng; thực hiện những giải pháp mang tính đồng bộ nhằm quản lý chặt chẽ và có hiệu quả cao thị trường ngoại tệ nhằm ổn định tỷ giá, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng dự trữ ngoại hối; tiếp tục đẩy mạnh triển khai việc cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, xử lý nợ xấu nhằm lành mạnh hóa hoạt động của các tổ chức tín dụng, đảm bảo an toàn hệ thống, giảm tỷ lệ nợ xấu của toàn ngành. Nhìn chung, đây là những định hướng quản lý có tính hợp lý và đồng bộ cao.
Thứ bảy, thị trường tài chính – tiền tệ nói chung và tín dụng nói riêng được điều hành theo hướng linh hoạt hơn, phù hợp với diễn biến thị trường và bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước. Trong thời gian qua, NHNN Lào đã sử dụng linh hoạt và phối hợp hiệu quả hơn các công cụ của chính sách tiền tệ để ổn định thị trường, phù hợp với mục tiêu đề ra trong từng giai đoạn là kiềm chế lạm phát hay thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính sự linh hoạt trong điều hành thị trường tài chính – tiền tệ của nước CHDCND Lào đã góp phần giảm thiểu những tác động đến từ những cú sốc của nền kinh tế thế giới như: giá cả hàng hoá thế giới tăng (điều hành thận trọng lãi suất, cung tiền, tín dụng để tránh tình trạng lạm phát từ phía cầu kết hợp với lạm phát từ phía cung gia tăng); khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu (mở rộng tín dụng nội địa để bảo đảm nguồn vốn cho sản xuất và tiêu dùng). Công tác điều hành chính sách tỷ giá cũng tương đối thành công khi theo đuổi nhất quán cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết. Với mục tiêu duy trì sự ổn định của tỷ giá, các hoạt động can thiệp của của Ngân hàng nước CHDCND Lào đã bảo đảm cho đồng Kíp Lào không biến động quá
158
mạnh so với các đồng ngoại tệ khác như USD và Bạt Thái, đồng thời cũng cho phép sự linh hoạt nhất định trong xác định tỷ giá. Trong cả giai đoạn 2000-2015, đồng Kíp Lào đã tăng giá so với USD là 6% và so với Bạt Thái là 5%. Như vậy, về cơ bản, NHNN Lào đã kiểm soát được tỷ giá, Đồng Kíp Lào so với USD và Bạt Thái đều không bị mất giá. Nhờ tỷ giá ổn định mà các hoạt động ngoại thương được diễn ra thuận lợi khi Lào tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế. Bên cạnh sự ổn định về tỷ giá, mức lãi suất trên thị trường có xu hướng giảm xuống, khuyến khích đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Cơ chế quản lý ngoại tệ theo hướng thắt chặt việc thanh toán để khuyến khích xã hội thanh toán bằng nội tệ, kiểm soát hiệu quả tình trạng đôla hóa nền kinh tế.
Thứ tám, hệ thống công cụ của chính sách tiền tệ được sử dụng hiệu quả và linh hoạt hơn. Trong điều hành thị trường tài chính – tiền tệ, NHNN Lào đã chuyển dần từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp. Cụ thể, các công cụ như dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, lãi suất trên thị trường mở dần được sử dụng với tần suất cao hơn thay cho việc sử dụng những công cụ như áp hạn mức tăng trưởng tín dụng hay quy định trần lãi suất cho hệ thống NHTM vào những năm trước 2005. Nghiệp vụ thị trường mở cũng được sử dụng thường xuyên hơn ở cả hai chiều mua và bán với quy mô hoạt động được mở rộng.
3.4.2. Hạn chế trong chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hệ thống chính sách phát triển DVTD ở
nước CHDCND Lào vẫn còn tồn tại những điểm hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, tính hiệu lực của chính sách phát triển DVTD chưa cao. Mức độ tuân thủ của các TCTD đối với các quy định của pháp luật hiện nay còn thấp, chưa nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về đối tượng cấp tín dụng, nguyên tắc, điều kiện và quy trình cấp tín dụng, phân loại và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, xử lý rủi ro tín dụng và các quy định pháp luật có liên quan đến quá trình phát triển DVTD.
Thứ hai, hiệu quả của chính sách phát triển DVTD chưa thực sự cao. Năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM và các TCTD của Lào hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, biểu hiện ở quy mô tín dụng nhỏ; đối tượng, phạm vi cung cấp dịch vụ còn hạn hẹp; phương thức cung ứng dịch vụ còn đơn giản; chất lượng, hiệu quả dịch vụ chưa cao; sản phẩm dịch vụ tín dụng cung ứng chưa phong phú, đa dạng, mới chủ yếu là các dịch vụ cơ bản như cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính…, nhiều khi các dịch vụ tín dụng được cung ứng chưa xuất phát từ thị trường và chưa có định hướng dài
159
hạn... Về vấn đề tiếp cận tín dụng, theo đánh giá của Ông Sengchan Keosongseng, Chủ
tịch Công đoàn của Ngân hàng chính sách Lào tại buổi họp Liên đoàn Quốc hội Công
Đoàn NHNN Lào lần thứ VII ngày 06/05/2015, “Việc tiếp cận tín dụng của người dân
bây giờ đã nhanh hơn so với những năm trước đây. Tuy nhiên, việc cấp tín dụng còn
chưa đáp ứng được tình hình thực tế, các TCTD vẫn chưa xác định được trọng tâm và
mục tiêu cụ thể, rõ ràng trong hoạt động cấp tín dụng, làm hạn chế sự phát triển của
hoạt động cấp tín dụng”. Đối với khu vực tư nhân và doanh nghiệp trong nền kinh tế,
đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mặc dù trong thời gian qua đã có những bước phát triển nhất định do nhận được sự hỗ trợ từ phía các cơ quan chức năng, song khả
năng cạnh tranh cũng chưa cao và mức độ tiếp cận với tín dụng ngân hàng vẫn còn
những hạn chế. Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh 2015 được Ngân hàng thế giới
công bố, CHDCND Lào xếp thứ hạng 116 trong tổng số 189 nền kinh tế được đánh giá
về mức độ dễ dàng trong việc tiếp cận vốn tín dụng, thấp hơn nhiều so với nhiều quốc
gia trong khu vực (Hình 3.20). Có thể thấy đây là minh chứng rõ ràng nhất cho những khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng của khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, tại CHDCND Lào hiện nay.
Nguồn: Báo cáo Môi trường kinh doanh 2015
Hình 3.20: Xếp hạng về mức độ dễ dàng trong việc tiếp cận vốn tín dụng của một số quốc gia
Việc phát triển nguồn nhân lực hiện nay được thúc đẩy bởi cả khu vực tư nhân
và công cộng nhưng chất lượng lao động vẫn còn thấp. Lao động vẫn thiếu kỹ năng cần
160
thiết, thêm vào đó định hướng phát triển nguồn nhân lực chưa xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong điều kiện Lào hội nhập kinh tế ASEAN và là thành viên của WTO. Đến nay, cả nước chưa thể cung cấp lao động có tay nghề cao và có kỷ luật đáp ứng được các nhu cầu của nhà đầu tư, đồng thời nhiều lao động Lào lại có xu hướng di cư hợp pháp và bất hợp pháp ra nước ngoài.
Thứ ba, mức độ phù hợp của chính sách phát triển DVTD còn thấp. Nội dung các chính sách phát triển DVTD còn chồng chéo, chưa sát hợp với mức độ phát triển của từng loại hình tổ chức cung cấp DVTD. Hiện nay, vẫn còn một số văn bản pháp luật chưa được thực tế và chưa khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài như Luật Thuế và Luật Thuế giá trị gia tăng. Ngoài ra, hệ thống văn bản pháp luật hiện nay còn thiếu những ưu đãi đặc biệt để khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực kinh tế đặc biệt, các khu kinh tế, các vùng còn khó khăn. Mức vốn pháp định quy định cho mỗi loại hình TCTD còn chưa phù hợp và nhìn chung là còn thấp, các quy định về cấp tín dụng, chỉ tiêu an toàn, các quy định về công tác kiểm soát rủi ro, công tác thanh tra, giám sát, v.v… còn chưa phù hợp với thực tế.
Thứ tư, vẫn chưa xác lập được sự công bằng giữa các TCTD, giữa các đối tượng vay vốn trong chính sách phát triển DVTD. Sự ưu ái đối với các doanh nghiệp nhà nước, các TCTD nhà nước và các đối tượng ưu tiên làm giảm hiệu quả trong phân phối vốn, thậm chí, làm tăng rủi ro đối với các TCTD và khuyến khích sử dụng vốn thiếu hiệu quả của các đơn vị sử dụng vốn. Chính sự thiếu công bằng này làm cho cơ cấu tín dụng bị phá vỡ và thiếu đi sự tăng trưởng bền vững của DVTD. Bên cạnh đó, chính sách thiếu công bằng làm cho khu vực kinh tế tư nhân (Bao gồm cả các TCTD và các đối tượng doanh nghiệp vay vốn) chậm phát triển, ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng tích tụ, tập trung vốn từ khu vực kinh tế tư nhân cũng như tốc độ phát triển của khu vực kinh tế này.
Thứ năm, mức độ bền vững trong chính sách phát triển DVTD còn chưa cao. Hiện nay, tính minh bạch và ổn định của hệ thống chính sách cũng như hệ thống thông tin tín dụng vẫn còn những hạn chế làm cho cả đối tượng cung cấp DVTD lẫn các đối tượng hưởng thụ dịch vụ khó khăn trong hoạch định chiến lược phát triển dài hạn. Theo đánh giá trong Báo cáo Môi trường kinh doanh 2015 của Ngân hàng thế giới về hệ thống thông tin tín dụng của Lào, chỉ số điểm về mức độ sẵn có và dễ tiếp cận của hệ thống thông tin tín dụng trong nền kinh tế gần như bằng 0 trong thang điểm 0 – 8, thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia trong khu vực có mức điểm trong khoảng từ 5 – 7 (Hình 3.21). Bên cạnh đó, chỉ số điểm về mức độ sâu sắc của hệ thống thông tin tín dụng trong nền kinh tế của Lào cũng chỉ đạt ở mức 0 (Bảng 3.7).
161
Hình 3.21: Mức độ sẵn có và dễ tiếp cận về thông tin tín dụng trong nền kinh tế Nguồn: Báo cáo Môi trường kinh doanh 2015
Bảng 3.7: Mức độ sâu sắc của hệ thống thông tin tín dụng của CHDCND Lào
Mức độ sâu sắc của hệ thống thông tin tín dụng (0-8)
Chỉ số điểm
Đơn vị lưu trữ hồ sơ tín dụng Không
Đơn vị Đăng ký tín dụng Không
0
Không
Không
0
Không
Không
0
Không Không
Không Không
0 0
Không
Không
0
Không
0
Không
Không
0
Không
Có phải dữ liệu của các doanh nghiệp và cá nhân được phân loại? Có phải cả 2 loại dữ liệu tín dụng tích cực và tiêu cực đều được phân loại? Có phải dữ liệu từ những nhà bán lẻ hoặc các công ty dịch vụ công, bên cạnh những dữ liệu từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng được phân loại? Dữ liệu quá khứ ít nhất là 2 năm được phân loại? Có phải dữ liệu về khoản cho vay dưới 1% thu nhập bình quân được phân loại Theo luật, khách hàng vay có quyền tiếp cận dữ liệu của họ ở các đơn vị lưu trữ hồ sơ tín dụng hoặc các đơn vị đăng ký tín dụng Các ngân hàng và tổ chức tín dụng có thể tiếp cận thông tin tín dụng của người vay trực tuyến được không? Có phải các đơn vị lưu trữ hồ sơ tín dụng hoặc các đơn vị đăng ký tín dụng sẽ cung cấp những dịch vụ giá trị gia tăng để hỗ trợ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng vay?
Nguồn: Báo cáo Môi trường kinh doanh 2015
162
Bên cạnh những hạn chế về tính minh bạch của hệ thống chính sách cũng như hệ thống thông tin tín dụng, mức độ thiếu bền vững trong chính sách phát triển DVTD của CHDCND Lào còn thể hiện ở một số điểm, đó là: Nội dung văn bản được ban hành bởi các cơ quan quản lý Nhà nước đôi khi còn chồng chéo, song lại vẫn còn thiếu sót; Việc thúc đẩy mối quan hệ giữa các ngân hàng với nhau, và giữa ngân hàng với doanh nghiệp chưa được chú trọng quan tâm; Lợi ích của các TCTD, khách hàng và lợi ích chung của nền kinh tế - xã hội chưa đảm bảo hài hòa; Việc tuyên truyền về chính sách hội nhập thương mại chưa được các cơ quan QLNN quan tâm chú trọng dẫn đến hiểu biểu của doanh nghiệp về tiến trình hội nhập của đất nước, những cơ hội, thách thức và cơ chế phản ứng thích hợp còn hạn chế; Nhà nước đẩy mạnh khuyến khích đầu tư song công tác giám sát và đánh giá dự án đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài lại không được thực hiện thường xuyên và rộng rãi, dẫn đến nhiều dự án không phù hợp với hoàn cảnh, gây thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế.
Thứ sáu, tính kịp thời trong việc ban hành hệ thống chính sách phát triển DVTD chưa được đảm bảo. Có trường hợp ban hành Luật nhưng chậm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Luật, dẫn đến khó khăn cho việc áp dụng luật của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.
3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế
3.4.3.1. Nguyên nhân chủ quan
- Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước còn cồng kềnh, kém hiệu quả.
- Sự phối kết hợp giữa các cơ quan ban hành và thực thi chính sách còn chưa chặt chẽ, thiếu hiệu quả, còn tình trạng dẫm chân nhau nên chính sách phát triển dịch vụ tín dụng còn hiện tượng chồng chéo, song lại tạo nhiều khoảng trống…
- Quy trình hoạch định, ban hành và thực thi chính sách còn chưa khoa học, hoàn thiện. Một số tồn tại hiện nay trong quy trình hoạch định, ban hành và thực thi các chính sách kinh tế nói chung và chính sách Nhà nước về phát triển tín dụng nói riêng đó là: (i) Sự tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng góp vào xây dựng các phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh hưởng bởi chính sách là rất hạn chế, dẫn đến một số chính sách tính khả thi thấp, hoặc khi thực thi không đem hiệu quả như nhà quản lý mong muốn; (ii) Việc thiếu sự phối hợp giữa các Bộ ban ngành cũng khiến nhiều chính sách thiếu tính toàn diện, không gắn với chính sách tổng thể của nền kinh tế; (iii) Vẫn còn tình trạng một vấn đề có nhiều bộ, ban ngành ra chính sách thực hiện, nhưng có những vấn đề lớn thì lại không có bộ, ngành nào tham gia đề xuất, xây dựng chính sách, dẫn đến khoảng trống về chính sách điều chỉnh; (iv) Tính dự báo của chính sách là vô cùng quan trọng, tuy nhiên việc tham vấn ý kiến của chuyên gia,
163
nhà khoa học còn hạn chế; (v) Vẫn tồn tại trường hợp chính sách đã ban hành nhưng việc xử lý chưa nghiêm minh dẫn đến tác động răn đe chưa cao.
- Nội dung chính sách chưa tác động toàn diện trên cả hai mặt cung và cầu tín
dụng, chú trọng đến cả yếu tố số lượng và chất lượng.
- Hệ thống công cụ chính sách thiếu hoàn thiện: chưa đầy đủ, đơn giản, hiệu
quả chưa cao.
- Hệ thống thông tin quản lý tại nước CHDCND Lào, bao gồm: Hệ thống thông tin kinh tế nội bộ của các đơn vị kinh tế; Hệ thống thông tin thị trường; Hệ thống thông tin kinh tế của Chính phủ còn chưa hoàn thiện.
- Đội ngũ cán bộ trong hoạch định và thực thi chính sách vừa thiếu, vừa yếu.
- Công tác giám sát tài chính chưa tốt: Mô hình giám sát theo thể chế còn chưa phù hợp, chưa xác lập được cơ quan giám sát hợp nhất, công tác giám sát từ xa chưa hỗ trợ cho hoạt động thanh tra tại chỗ làm cho hoạt động giám sát tập trung ở hoạt động thanh tra tại chỗ, gây cản trở tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng, hiệu quả thanh tra, kiểm tra thấp.
3.4.3.2. Nguyên nhân khách quan
- Các cơ quan quản lý Nhà nước chưa thực hiện tốt vai trò kết nối giữa các TCTD với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế, dẫn đến một thực tế tại CHDCND Lào hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng.
- Sự tăng trưởng mạnh mẽ của các doanh nghiệp vay vốn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đều ở quy mô nhỏ, năng lực quản lý điều hành thấp, năng lực vay vốn hạn chế.
- Các TCTD chưa có sự chủ động trong hợp tác với các TCTD cũng như các tổ chức kinh doanh khác trong nền kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh Lào đang đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
- Các TCTD chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc phải đẩy mạnh thiết lập mối quan hệ với các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế. Hiện tại, mối quan hệ giữa các ngân hàng với doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tại Lào là chưa tốt. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phản ánh TCTD không tạo điều kiện cho vay còn các TCTD cho rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ điều kiện để vay hoặc do lãi suất cao nên không vay. Nguyên nhân của thực tế này xuất phát từ cả hai phía: phía các TCTD và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Về phía doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiện nay còn một số tồn tại, đó là:
+ Một trong những điều kiện cơ bản của các khế ước vay là các tài sản bảo đảm vay (collateral). Tuy nhiên, đây cũng là điểm yếu của các SME vì các tài sản bảo đảm
164
chủ yếu có nguồn gốc từ tài sản cá nhân của chủ doanh nghiệp và giá trị của các tài sản cá nhân thường thấp hơn rất nhiều so với nhu cầu các khoản vay để phát triển doanh nghiệp.
+ Việc thiếu một hệ thống thông tin tài chính mang tính trung thực, minh bạch và hệ thống kiểm soát hiệu quả, đồng bộ trong các SME làm cho các TCTD khó đánh giá được tình trạng tài chính của doanh nghiệp, do đó cản trở việc ra các quyết định cho vay. Hiện nay, để giảm thiểu rủi ro trong cho vay, các TCTD có xu hướng dựa vào điều kiện về tài sản bảo đảm hoặc sự tin cậy và các mối quan hệ cá nhân với chủ doanh nghiệp để ra quyết định cho vay.
+ Tính khả thi và khả năng sinh lời của các dự án, các phương án kinh doanh được coi là một yếu tố then chốt trong việc ra các quyết định liên quan đến hồ sơ xin vay của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, do các SME thường yếu về kỹ năng quản lý và tài chính nên việc xây dựng các phương án kinh doanh gặp nhiều khó khăn.
Về phía các TCTD có một số nguyên nhân:
+ Thủ tục vay vốn phức tạp và điều kiện về tài sản đảm bảo là hai rào cản cơ bản khiến các SME khó tiếp cận được nguồn vốn tín dụng. Quá trình xin vay vốn đòi hỏi nhiều văn bản giấy tờ; thủ tục công chứng gây mất thời gian và chi phí; các yêu cầu xây dựng phương án/dự án sản xuất kinh doanh và chứng minh hiệu quả của phương án/dự án vượt quá khả năng của nhiều SME. Tài sản đảm bảo chủ yếu yêu cầu phải là bất động sản, trong khi đó, giá trị bất động sản của các SME thường rất nhỏ, không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng.
+ Các sản phẩm DVTD dành cho các SME chưa phong phú, một số doanh nghiệp không tìm được các sản phẩm tín dụng phù hợp, do đó cũng không tiếp cận được vốn vay ngân hàng. Với hơn 40% SME hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, các dự án kinh doanh thường chỉ diễn ra trong thời gian rất ngắn, đòi hỏi khả năng huy động vốn nhanh. Trong khi đó, các TCTD hiện nay hầu như không phục vụ các khoản vay có thời hạn dưới 1 tháng, thủ tục vay vốn ngân hàng thường kéo dài, thời gian giải ngân lâu, do vậy không phù hợp với nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực mới, lĩnh vực đặc thù cũng khó tiếp cận được các khoản vay từ các TCTD do thông tin từ các lĩnh vực đó quá ít, các TCTD không có đầy đủ thông tin cũng như không đánh giá được tính hiệu quả của phương án/dự án sản xuất kinh doanh.
+ Thực tế cho thấy có sự phân biệt đối xử khi các doanh nghiệp lớn thường được các TCTD ưu tiên vay vốn hơn các SME do những doanh nghiệp lớn có ưu thế hơn về tài sản, có mối quan hệ tốt hơn với các TCTD. Các doanh nghiệp nhà nước cũng có lợi thế hơn khi tiếp cận tín dụng từ các tổ chức tín dụng so với các DN tư nhân
165
bên cạnh lý do tài sản đảm bảo lớn còn có tâm lý các TCTD coi cho vay các DNNN là an toàn vì những doanh nghiệp này được Nhà nước bảo lãnh.
+ Quy mô vốn vay và thời hạn khoản vay chưa thỏa mãn được nhu cầu của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp phải chấp nhận vay với số vốn thấp hơn và thời hạn ngắn hơn thực tế đòi hỏi của dự án kinh doanh. Do đó, doanh nghiệp phải tiếp cận các khoản vay phi chính thức để bù đắp phần vốn bị thiếu, làm tăng chi phí vốn và giảm mức lợi nhuận của dự án. Chênh lệch về kỳ hạn cũng khiến cho doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc kiểm soát dòng tiền, khó khăn trong quản trị tài chính. Những điều này có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của phương án/ dự án sản xuất kinh doanh, và do vậy cũng ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực trả nợ và lợi nhuận của SME.
+ Trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế hiện nay, các SME là đối tượng khách hàng chiếm tỷ trọng lớn và chủ đạo của các ngân hàng. Tuy nhiên, việc nhìn nhận về vai trò của đối tượng khách hàng này còn nhiều hạn chế. Các TCTD còn xem xét mức độ và chất lượng cung ứng dịch vụ cho vay đối với các SME chủ yếu dựa vào số lượng khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa được vay vốn mà chưa xem xét trong mối quan hệ với tốc độ phát triển của chúng. Nhìn chung, niềm tin giữa các TCTD và doanh nghiệp còn hạn chế, mức độ cộng tác và hỗ trợ còn chưa cao.
- Môi trường kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước có những biến động lớn đồng thời với những thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. Trong cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á năm 1997, Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Do đó, nền kinh tế của Lào cũng phải chịu những ảnh hưởng nặng nề do lúc bấy giờ Thái Lan là đối tác thương mại lớn và là nhà đầu tư chính của Lào. Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, mặc dù không phải chịu ảnh hưởng trực tiếp song một số ngành kinh tế chủ lực của Lào đã chứng kiến sự giảm sút mạnh, đó là các ngành du lịch, năng lượng, khai thác mỏ, dệt may; giá trị của đồng Kíp liên tục tăng cũng tác động không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu của Lào. Cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu diễn ra năm 2010 cũng có những tác động không nhỏ đến nền kinh tế Lào do EU là đối tác kinh tế lớn thứ tư của Lào, chiếm 12% sản lượng hàng hóa xuất khẩu; đồng thời EU cũng là nhà đầu tư lớn, nhà viện trợ vốn ODA lớn dành cho chính phủ Lào. Sự sụt giảm và những khó khăn của các ngành kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng cũng chính là nguyên nhân khách quan kéo theo sự sụt giảm của nhu cầu vốn tín dụng trong nền kinh tế, từ đó có những tác động lớn đến sự phát triển của dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào trong thời gian qua.
166
Kết luận Chương 3
Nội dung Chương 3 tập trung trình bày quá trình phát triển của các tổ chức tín dụng của nước CHDCND Lào cũng như quá trình phát triển các dịch vụ tín dụng được cung cấp bởi các tổ chức tín dụng này. Bên cạnh đó, Chương 3 cũng đã đi sâu phân tích thực trạng phát triển các dịch vụ tín dụng tại nước CHDCND Lào từ năm 2000 trở lại đây trên cả ba nhóm chỉ tiêu: quy mô tín dụng; tăng trưởng cơ cấu tín dụng; chất lượng và hiệu quả tín dụng; đồng thời so sánh sự phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào trong tương quan với một số quốc gia trong khu vực. Hệ thống chính sách Nhà nước về phát triển DVTD được tiếp cận và phân tích sâu trên cả ba góc độ: chính sách Nhà nước về phát triển các TCTD; Chính sách Nhà nước về phát triển các chủ thể sử dụng DVTD; và chính sách Nhà nước về phát triển các sản phẩm DVTD. Qua đó, Luận án chỉ ra những thành tựu và những hạn chế của chính sách Nhà nước về phát triển DVTD tại Lào hiện nay về các mặt: hiệu lực, hiệu quả, phù hợp, công bằng, bền vững và kịp thời. Đặc biệt, có ba vấn đề lớn mà chính sách Nhà nước của Lào chưa giải quyết được hiện nay đó là: năng lực cạnh tranh của các TCTD chưa cao; các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; các sản phẩm DVTD chưa phong phú, đa dạng và chưa xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của thị trường. Chương 3 cũng chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, làm cơ sở khách quan cho việc đề xuất hệ thống giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển dịch vụ tín dụng tại nước CHDCND Lào đến năm 2020.
167
CHƯƠNG 4 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÍN DỤNG Ở CHDCND LÀO
Xây dựng và thực thi chính sách phù hợp với cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Đây là một lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, đòi hỏi vừa phải có một cơ sở lý luận vững chắc và phù hợp, vừa phải dựa trên những thực tế và đặc thù của nền kinh tế Lào. Trên cơ sở nghiên cứu những lý luận cơ bản trong Chương 1 vừa mang tính phổ biến chung của kinh tế thị trường, vừa chú ý đến kinh nghiệm đã trải qua của một số nước được đề cập trong Chương 2, cùng với những phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động dịch vụ tín dụng và chính sách phát triển tín dụng của Nhà nước trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế Lào vừa qua và hiện nay được trình bày ở Chương 3, là căn cứ xác định bước đi tiếp theo, kiến nghị những giải pháp cơ bản để tiếp tục hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng theo cơ chế thị trường, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4.1. Định hướng và quan điểm hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào
4.1.1. Định hướng phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020 và xu hướng mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của CHDCND Lào
4.1.1.1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của CHDCND Lào đến năm 2020
Căn cứ Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội quốc gia giai đoạn 2011 – 2020, định hướng phát triển kinh tế-xã hội nước CHDCND Lào giai đoạn 2016 – 2020 được xác định cụ thể như sau:
- Đến năm 2020, ước tính tỷ lệ dân số Lào khoảng 7,6 triệu người, với tỷ lệ tăng
trưởng khoảng 2,2%.
- Kinh tế quốc gia phát triển liên tục và ổn định, tổng sản phẩm trong nước GDP tăng trên 8,5% mỗi năm.Trong đó, ngành nông nghiệp tăng khoảng 3,3% chiếm 18,2% GDP năm 2020, ngành công nghiệp tăng 15% chiếm 45,4% GDP và ngành dịch vụ tăng 6,5% chiếm 32,6% GDP. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người lên tới 3,253 USD.
168
- Đến năm 2020, tỷ lệ hộ gia đình nghèo còn dưới 5% tổng số hộ gia đình trong
cả nước.
- Đảm bảo sự ổn định trong nền kinh tế vĩ mô, cụ thể là: làm cho tỷ lệ lạm phát giảm xuống hoặc tăng lên chậm hơn so với sự phát triển kinh tế, duy trì sự ổn định tỷ giá hối đoái, đảm bảo hoạt động tăng và giảm của đồng tiền Kíp Lào ở mức thấp hơn 5% so sánh với đồng tiền ngoại tệ mỗi năm.
4.1.1.2. Xu hướng mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của CHDCND Lào
- Cân đối lao động, ước tính trong năm 2020 đạt khoảng 3,5 triệu người. Tỷ lệ tăng trưởng lao động mới khoảng 590 nghìn người (trung bình là 59 nghìn người/năm).
Trong những năm qua, CHDCND Lào đã rất tích cực theo đuổi chủ trương hội nhập khu vực và toàn cầu, đẩy mạnh hợp tác với các nước bạn bè và các đối tác chiến lược nhằm đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong từng thời kỳ, trong đó, những dấu mốc hội nhập quan trọng cần phải kể đến đó là: gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1997; gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2013 và gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào ngày 31/12/2015. Việc tham gia AEC hứa hẹn mở ra nhiều cơ hội, song cũng đem lại không ít thách thức cho CHDCND Lào – quốc gia giữ cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2016.
Thủ tướng Lào Thongsing Thammavong nhấn mạnh lợi ích AEC mang lại cho Lào là rất lớn, bởi các thị trường đều trở nên rộng mở và hấp dẫn hơn. Việc các nước thành viên ASEAN xóa bỏ rào cản thuế quan sẽ tạo cơ hội cho hàng hóa xuất khẩu của Lào ra thị trường nội khối, và ngược lại, hàng hóa nhập khẩu từ các nước ASEAN vào Lào, sẽ có giá thành rẻ hơn. Theo các chuyên gia, Lào sẽ tích lũy được nhiều kinh nghiệm khi gia nhập AEC, nhất là trong các lĩnh vực như đào tạo nguồn nhân lực, lao động có tay nghề cao, cũng như nâng cao kiến thức, khả năng trong quản lý kinh tế, quản lý lao động, quản lý đầu tư, quản lý xuất nhập cảnh. Tuy nhiên, mặt khác, Lào cũng đứng trước nhiều thách thức, đó là: (i) Các nhà đầu tư trong nước đứng trước sự cạnh tranh ngày càng lớn của các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời hàng hóa xuất khẩu của Lào ra thị trường ASEAN cũng đối mặt với thách thức tương tự; Cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải và dịch vụ chưa phát triển cùng hệ thống ngân hàng còn nhiều hạn chế có thể đặt Lào vào thế bất lợi khi hội nhập; (iii) Lao động Lào vừa thiếu, vừa yếu, đa phần là lao động phổ thông, lao động có tay nghề cao còn ít, trình độ ngoại ngữ cũng như kinh nghiệm làm việc trong môi trường quốc tế còn yếu.
169
Để khắc phục những mặt hạn chế trên và nhanh chóng hội nhập với AEC, các bộ, ban, ngành của Lào đang nỗ lực chuẩn bị về mọi mặt. Lào đang đẩy mạnh thực hiện chủ trương “Thu hẹp khoảng cách và phát triển theo hướng hội nhập ASEAN" , tập trung vào 4 khía cạnh: (i) nâng cao sự hiểu biết về liên kết kinh tế khu vực và quốc tế; (ii) tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân; (iii) nghiên cứu về sản xuất thương mại, bao gồm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ; (iv) cải thiện các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh.
Những bước chuẩn bị cụ thể đang và sẽ được Nhà nước CHDCND Lào đẩy
mạnh triển khai trong thời gian tới đó là:
- Phổ biến những thông tin về AEC tới rộng rãi công chúng, đặc biệt là giới
doanh nghiệp, để nâng cao nhận thức và chuẩn bị tốt hơn cho sự hội nhập AEC.
- Hoàn thiện cơ chế và cải thiện hệ thống thủ tục hành chính, hệ thống giao dịch việc giữa khu vực và địa phương để đảm bảo sự đồng bộ trong tổ chức hoạt động và sự hợp tác với nước ngoài trong từng công việc.
- Nghiên cứu dự án sản xuất những sản phẩm gắn liền với thế mạnh của Lào để có thể buôn bán và cạnh tranh trong thị trường ASEAN. Hiện tại, một số mặt hàng xuất khẩu mà CHDCND Lào đang có lợi thế đó là: chuối, hạt vừng, quả dâu, trái cây và rau đã được chế biến.
- Cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng minh bạch, thuận lợi để các
doanh nghiệp trong nền kinh tế tự cải thiện mình và nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng khi tham gia vào AEC, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển nguồn nhân lực cần chú ý các vấn đề: (i) Tăng cường đào tạo về chuyên môn và ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh); (ii) Định hướng đào tạo nguồn nhân lực phải gắn với định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước và đáp ứng yêu cầu của từng ngành kinh tế.
- Cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng và chất lượng dịch vụ.
- Quan tâm đến việc giữ gìn phát triển văn hóa và truyền thống tốt đẹp của quốc gia.
4.1.2. Định hướng phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào
Căn cứ Chiến lược phát triển thị trường vốn của CHDCND Lào giai đoạn 2006 – 2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định Số 79/PM ngày 27/03/2015, một số điểm cơ bản trong định hướng phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào được đề ra đó là:
170
Thứ nhất, Đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng cung ứng cho khách hàng
Có thể nói, đa dạng hoá các loại hình sản phẩm tín dụng là một đòi hỏi cấp thiết, một giải pháp cơ bản đối với các ngân hàng thương mại của Lào bởi nó góp phần gia tăng khả năng cạnh tranh, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Bên cạnh đó, đa dạng hoá sản phẩm tín dụng ngân hàng còn nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của khách hàng, đây chính là điều kiện sống còn đối với mỗi ngân hàng.
Trong bối cảnh nước CHDCND Lào đang hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, song đa phần các doanh nghiệp tại Lào thuộc loại nhỏ và vừa, khả năng tài chính cũng như năng lực thế chấp yếu, các sản phẩm tín dụng mà hệ thống ngân hàng của Lào nên tập trung phát triển trong thời gian tới là:
- Dịch vụ tín dụng khép kín: Đây là hình thức tín dụng áp dụng theo hình thức ngân hàng đầu tư khép kín từ cho vay, sản xuất, chế biến và thu tiền xuất khẩu dựa trên nhu cầu vay vốn thực hiện các hợp đồng ngoại thương của khách hàng. Hình thức này có thể cho khách hàng áp dụng tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay. Tuy nhiên ngân hàng cần thận trọng trong xác thực về hợp đồng ngoại thương cũng như giám sát khách hàng trong việc thực hiện hợp đồng ngoại thương.
- Dịch vụ bao thanh toán: Đây là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán thông qua việc ứng trước một khoản tiền và thu hộ các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hoá đã được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong hợp đồng mua bán hàng hoá. Bao thanh toán giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về ngân quỹ, mở rộng nguồn vốn hoạt động, tăng lợi thế cạnh tranh khi chào hàng với các điều khoản thanh toán trả chậm mà không ảnh hưởng đến nguồn vốn kinh doanh. Các ngân hàng cung cấp bao thanh toán ngoài việc thu phí, còn có thể quản lý sổ cái bán hàng của khách hàng. Bao thanh toán có thể thực hiện trong một quốc gia hoặc trên phạm vi quốc tế. Nhìn chung, bao thanh toán là hình thức tín dụng có lợi cho cả khách hàng và ngân hàng, song để phát triển ở Lào thì cần phải có hai điều kiện cơ bản là: Hệ thống khuôn khổ pháp lý cho nghiệp vụ và Hệ thống thông tin minh bạch về doanh nghiệp.
- Dịch vụ cho vay luân chuyển theo hạn mức tín dụng: Theo hình thức này, người vay có thể ký hợp đồng thế chấp tài sản (Hợp đồng tín dụng từ 12 tháng đến 36 tháng) và trong thời gian thực hiện hợp đồng có thể bổ sung, sửa đổi hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp theo yêu cầu của mỗi bên. Người vay vốn chủ động thời gian và tiết kiệm vốn, khi cần vốn chỉ cần viết giấy nhận nợ hoặc ký nhận tiền vay trong
171
hợp đồng tín dụng của ngân hàng và khách hàng. Về phía ngân hàng tiết kiệm được vốn trong quá trình luân chuyển. Điều kiện đặt ra cho khách hàng được vay luân chuyển là: Khách hàng vay vốn kinh doanh có lãi, được ngân hàng tín nhiệm hoặc có hệ số định mức tín nhiệm tốt; Khách hàng có kế hoạch tài chính cho chu kỳ kinh doanh; và Khách hàng có tài sản thế chấp, số lượng và tính thanh khoản cao.
Thứ hai, Áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại trong thực hiện các nghiệp vụ
ngân hàng nói chung và nghiệp vụ tín dụng nói riêng
Việc ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật hiện đại sẽ góp phần phát triển đa dạng các sản phẩm dịch vụ cung ứng cho khách hàng, mặt khác nâng cao được chất lượng và tính chuyên nghiệp trong cung ứng dịch vụ.
Các ngân hàng của Lào cần phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các nghiệp vụ ngân hàng, đặc biệt ưu tiên hoàn thiện hệ thống thanh toán theo hướng hiện đại hóa, tự động hóa, coi đây là mũi nhọn trọng tâm trong tiến trình cải tiến công nghệ, tạo nền tảng cơ sở kỹ thuật vững chắc cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng cần tập trung đầu tư, nâng cấp hệ thống thông tin quản lý phục vụ cho công tác điều hành kinh doanh, kiểm soát hoạt động ngân hàng, quản lý khách hàng, quản lý rủi ro và công tác kế toán. Trong việc đầu tư công nghệ và thiết bị, các ngân hàng cần lựa chọn những kỹ thuật và công nghệ hiện đại, phù hợp, có tính tương thích cao và có khả năng mở rộng và phát triển trong tương lai.
Thứ ba, Từng bước hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy và phương thức điều hành tín dụng theo hướng nâng cao năng lực, phẩm chất của cán bộ tín dụng
Chất lượng của đội ngũ cán bộ tín dụng là một trong những nhân tố quan trọng quyết định chất lượng và hiệu quả tín dụng. Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ tín dụng năng động, có trình độ, kinh nghiệm, bản lĩnh và đạo đức tốt thì sẽ có nhiều lợi thế và khả năng cạnh tranh cao.
Thực tiễn hiện nay cho thấy trình độ học vấn và công nghệ của cán bộ tại các ngân hàng thương mại ở CHDCND Lào tương đối cao so với các ngành khác, đa số đều có trình độ đại học hoặc trên đại học. Tuy nhiên, nguồn lực này lại chưa được sử dụng hiệu quả do những bất cập trong việc bố trí sắp xếp, phân công nhiệm vụ cho đội ngũ nhân sự cũng như việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn. Do đó, để tạo dựng một đội ngũ cán bộ ngân hàng nắm vững kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, hiểu biết về pháp luật, trình độ tin học và ngoại ngữ đồng thời phải có phẩm chất đạo đức tốt, nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động tín dụng ngân hàng trong sự nghiệp xây dựng cơ
172
sở vật chất cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa của Lào, hệ thống ngân hàng tại Lào cần chú trọng đến những vấn đề sau:
- Nghiên cứu ban hành quy định cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ nói chung, cán bộ tín dụng nói riêng, trên cơ sở đó tiến hành chọn lọc đội ngũ cán bộ hiện tại cũng như tuyển chọn, bổ sung đội ngũ cán bộ trẻ, đáp ứng yêu cầu đặt ra.
- Tăng cường đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng một cách toàn diện, liên tục, có hệ thống những kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức về pháp luật, thị trường, ngoại ngữ, tin học, kinh tế ngành... Các hình thức đào tạo cần phải được nghiên cứu, áp dụng phù hợp với điều kiện thực tế: đào tạo tại chỗ, đào tạo tập trung, đào tạo ngắn ngày hay đào tạo tại các trường chuyên ngành.
- Bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ tín dụng hợp lý, đúng người, đúng việc bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, đồng thời tăng cường khâu quản lý, kiểm tra giám sát phát huy được tính tự giác, linh hoạt của mỗi cán bộ.
- Có chế độ tiền lương, khen thưởng và đãi ngộ hợp lý cho cán bộ tín dụng, đồng thời có chế độ thưởng phạt nghiêm minh, trang bị phương tiện, điều kiện làm việc, chỉ đạo hỗ trợ chặt chẽ trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ được phân công.
Thứ tư, Xây dựng cơ cấu tín dụng hợp lý, gắn với mục tiêu công nghiệp hóa
– hiện đại hóa nền kinh tế
Cơ cấu tín dụng có những tác động lớn và trực tiếp đến việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Do đó, yêu cầu đặt ra cho công tác quản lý và điều hành hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại tại nước CHDCND Lào không chỉ là tập trung vào gia tăng quy mô dư nợ tín dụng để đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, mà còn phải hướng đến việc xây dựng và chuyển dịch cơ cấu tín dụng phù hợp với quá trình chuyển dịch chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng vùng miền, địa phương. Những định hướng lớn trong việc xây dựng cơ cấu tín dụng trong thời gian tới cụ thể là:
- Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng theo nhóm ngành kinh tế, tập trung vào các ngành công nghiệp chủ yếu nhằm phục vụ nông nghiệp và chế biến nông lâm sản; các ngành dịch vụ và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Lào là quốc gia đang phát triển với kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông lâm nghiệp, do đó chủ trương của Đảng và Nhà nước Lào là coi trọng CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Chính vì vậy, hoạt động tín dụng của các NHTM tại Lào cần phải trở thành nơi cung cấp nguồn lực tài chính quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển ngành nông - lâm nghiệp lên một trình độ mới. Theo đó, vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại tại CHDCND Lào cần
173
tập trung vào các lĩnh vực áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới giống và cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên một đơn vị diện tích; tập trung cho vay phát triển các cây trồng nông nghiệp là lợi thế của các vùng, cho giá trị hàng hóa và xuất khẩu cao. Bên cạnh đó, hướng vào cho vay chăn nuôi gia súc gia cầm quy mô lớn, và đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá và điện khí hoá trong sản xuất nông nghiệp; đồng thời, tham gia giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá trong lĩnh vực nông nghiệp, bởi đây là một trong những đầu mối tháo gỡ khó khăn trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp hiện nay của CHDCND Lào.
- Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng gắn với chủ trương phát triển các vùng kinh tế sản xuất tập trung và các khu, cụm công nghiệp. Trong lĩnh vực kinh tế nông thôn, hoạt động tín dụng cần tham gia tích cực vào quá trình đầu tư phát triển mạng lưới công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng ở nông thôn; phát triển ngành nghề đa dạng, nhất là công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, các loại dịch vụ. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng cần phải tích cực tham gia vào quá trình phát triển mạng lưới đô thị địa phương theo định hướng hiện đại hoá, thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn. Vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại tập trung đầu tư nâng cấp các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao hướng đến hình thành các khu công nghiệp - đô thị, khu công nghiệp công viên.
- Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng tập trung vào cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn. Có thể nói nhu cầu vốn cho CNH - HĐH là rất lớn và trước hết phải là vốn đầu tư trung và dài hạn. Trong khi thị trường chứng khoán chưa hình thành, các phương thức tài trợ vốn trực tiếp cũng còn hạn chế thì việc đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế chủ yếu là thông qua các ngân hàng thương mại. Để chuyển dịch nhanh cơ cấu tín dụng trung và dài hạn, các NHTM tại CHDCND Lào cần tích cực huy động các nguồn vốn trung và dài hạn thông qua việc tăng cường phát hành các loại chứng chỉ, trái phiếu trung và dài hạn. Ngoài ra, bên cạnh thực hiện có hiệu quả các phương thức cho vay trung, dài hạn truyền thống các NHTM tại CHDCND Lào cần tập trung phát triển các phương thức cho vay đồng tài trợ, cho vay hợp vốn…Mỗi ngân hàng thương mại cũng cần phải tính toán và cân đối được các dòng tiền vào, ra để đảm bảo chắc chắn rằng việc sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn không bị ảnh hưởng đến khả năng thanh toán hay chi trả cho khách hàng vào bất cứ thời điểm nào.
- Chuyển dịch cơ cấu tín dụng tập trung cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là bộ phận hoạt động có hiệu quả cao, đóng góp lớn cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước, do đó, đẩy
174
mạnh cho vay đối với thành phần kinh tế này là một yêu cầu tất yếu của đầu tư tín dụng. Để mở rộng tín dụng ngoài quốc doanh có hiệu quả, trước tiên các ngân hàng thương mại cần phải thu hút được khách hàng, song bên cạnh đó các ngân hàng cần phải có cơ chế tín dụng và chính sách khách hàng phù hợp, hiệu quả trên cơ sở cân đối lợi ích của các chủ thể, không phải chỉ chú trọng mục tiêu trước mắt mà phải có tầm nhìn lâu dài.
Thứ năm, Đơn giản hoá thủ tục cho vay tín dụng nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho khách hàng doanh nghiệp và cá nhân tiếp cận nguồn vốn
Thực tế hiện nay cho thấy quy chế cho vay của các TCTD tại Lào còn mang nặng tính hành chính. Thủ tục mỗi lần cho vay gồm rất nhiều loại giấy tờ như phương án kinh doanh, giấy đề nghị vay vốn, hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp cầm cố, bảo lãnh tài sản, khế ước nhận nợ, báo cáo tài chính các năm gần nhất, giấy lĩnh tiền vay hoặc uỷ nhiệm chi chuyển khoản. Mỗi loại lại phải làm rất nhiều liên để khách hàng giữ, NHTM giữ, công chứng giữ. Hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh qua nhiều cơ quan xác nhận như chính quyền địa phương, công chứng.
Do đó, để tạo thuận lợi cho việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, tiêu dùng của xã hội, vấn đề thủ tục hành chính cần được đơn giản hóa. Thủ tục cho vay cần phải được đơn giản và rõ ràng, quy trình cho vay phải được tiếp tục cải tiến nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay. Tuy nhiên, việc đơn giản hoá các thủ tục cho vay và mở rộng đầu tư tín dụng không phải bằng bất cứ giá nào mà phải tôn trọng các nguyên tắc của tín dụng, đảm bảo, an toàn vốn đầu tư, đảm bảo tính pháp lý và đem lại hiệu quả kinh tế. Thực hiện tốt công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay một cách thường xuyên, xác định chu kỳ sản xuất kinh doanh một cách chính xác để định kỳ hạn trả nợ một cách hợp lý, hợp tình.
Thứ sáu, Nâng cao chất lượng và an toàn tín dụng thông qua việc tăng khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng và giảm tỷ lệ nợ quá hạn theo tiêu chuẩn quốc tế.
Mỗi ngân hàng thương mại của Lào cần phải áp dụng phương pháp quản trị ngân hàng hiện đại để hình thành cơ cấu tín dụng với thời hạn một cách tối ưu, bảo đảm sự cân xứng về thời hạn giữa nguồn vốn và dư nợ cho vay, giảm thiểu rủi ro về cơ cấu thời hạn, rủi ro lãi suất và những rủi ro về ngoại hối có thể xảy ra, góp phần tạo cho hoạt động tín dụng phát triển bền vững. Bên cạnh đó, mỗi ngân hàng cũng cần phải đổi mới và nâng cao hiệu quả của hệ thống giám sát hoạt động tín dụng ngân hàng của đội ngũ cán bộ thanh tra cũng như tín dụng, nâng cao chất lượng thẩm định
175
dự án đầu tư để cho vay có hiệu quả, nâng cao trình độ quản trị kinh doanh ngân hàng nhằm đảm bảo hoạt động tín dụng theo đúng luật pháp, an toàn.
Thứ bảy, Xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng trong từng thời kỳ bảo
đảm tính khả thi
Việc xây dựng và triển khai kế hoạch tăng trưởng tín dụng hàng năm cho các ngân hàng thương mại cần dựa vào ngành nghề hoặc quy mô của khách hàng, quy mô tín dụng để đảm bảo tăng trưởng tín dụng theo cơ cấu phù hợp với cơ cấu các ngành, các lĩnh vực kinh tế; bên cạnh cần xét đến các yếu tố về năng lực tài chính, khả năng huy động vốn, năng lực quản trị, quản lý rủi ro…
4.1.3. Quan điểm và phương hướng hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào
Căn cứ vào Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và định hướng phát triển dịch vụ tín dụng của CHDCND Lào trong thời gian tới, cùng với những hạn chế trong hệ thống chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào và các nguyên nhân cơ bản đã được chỉ ra, Luận án đề xuất hệ thống quan điểm và phương hướng hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng tại CHDCND Lào trong thời gian tới cụ thể như sau:
4.1.3.1. Quan điểm hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào
Thứ nhất, hệ thống chính sách phát triển dịch vụ tín dụng trước hết phải bảo
đảm tích tụ, tập trung phân phối vốn có hiệu quả trong toàn bộ nền kinh tế.
Nhà nước phát huy vai trò thúc đẩy thị trường dịch vụ tín dụng hoạt động có hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Việc thúc đẩy của Nhà nước qua các chính sách động viên, thu hút các nguồn lực về tài chính, kỹ thuật, công nghệ, nhân lực...trong và ngoài nước. Phát huy mọi tiềm năng của nền kinh tế, khai thác những lợi thế về kinh tế trong từng vùng, từng khu vực, địa bàn, nhằm phát triển hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ hai, hệ thống chính sách phát triển dịch vụ tín dụng phải đảm bảo tính an toàn, bao gồm hạn chế rủi ro cá thể của từng tổ chức tín dụng và hạn chế rủi ro tổng thể của nền kinh tế.
Nhà nước can thiệp hoạt động tín dụng ngân hàng trong một mức độ cần thiết theo những nguyên tắc phù hợp với sự vận động của các quy luật trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước can thiệp kịp thời, đúng thời điểm bằng những công cụ và phương
176
pháp quản lý Nhà nước phù hợp, nhằm ổn định hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng và hạn chế các rủi ro bảo đảm an toàn hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng. Hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng thuộc lĩnh vực rất nhạy cảm và dể bị tác động bởi nhiều nhân tố gồm môi trường kinh tế, chính sách của Nhà nước, hoạt động các TCTD...dẫn đến các rủi ro về lãi suất, rủi ro về ngoại hối, rủi ro về tín dụng, rủi ro về thanh khoản... Do đó, cần có sự can thiệp kịp thời, đúng lúc của Nhà nước, tránh dẫn đến tổn thất trong hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng, gây mất an toàn hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Thứ ba, hệ thống chính sách phát triển tín dụng phải chú trọng tạo điều kiện và
môi trường thuận lợi về mọi mặt cho sự phát triển của lĩnh vực này.
Nhà nước có chính sách tiền tệ phù hợp trong từng giai đoạn phát triển kinh tế, chính sách tín dụng về vốn, điều kiện cấp tín dụng và tạo môi trường kinh tế, môi trường pháp lý thuận lợi cho động tiền tệ, tín dụng ngân hàng phát triển. Bên cạnh đó, chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng cũng phải đảm bảo mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
4.1.3.2. Phương hướng hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào
Thứ nhất, Bảo đảm tính hiệu lực và hiệu quả trong quản lý đối với lĩnh vực tài
chính – tiền tệ nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng
Để đảm bảo được hiệu lực quản lý đòi hỏi việc ban hành các văn bản pháp quy phải đáp ứng các yêu cầu về tính đồng bộ, tính khoa học, tính công khai và minh bạch.
Tính đồng bộ thể hiện ở sự thống nhất giữa các văn bản được ban hành với các văn bản được ban hành bởi các cơ quan, đơn vị có liên quan trong cùng lĩnh vực quản lý. Tính khoa học thể hiện ở sự chính xác, hợp lý và tính khả thi của các văn bản pháp quy được ban hành. Tính công khai của văn bản quy phạm pháp luật nghĩa là văn bản được công khai cho mọi người được biết, đảm bảo cho mọi người quyền tiếp cận với các quy định trong văn bản đó. Tính minh bạch của văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện ở sự rõ ràng, ổn định và có thể dự đoán trước.
Tính hiệu quả trong quản lý được thể hiện trước tiên ở tính hiệu lực, sau đó đến việc đánh giá kết quả đạt được có phù hợp với mục tiêu đặt ra và những chi phí về nhân lực, tài lực, vật lực có hợp lý hay không. Do đó, để đảm bảo hiệu quả trong việc quản lý và điều hành hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng nước CHDCND Lào, các cơ quan quản lý Nhà nước cần phải chú ý một cách đồng bộ và toàn diện trên tất cả các mặt sau:
177
- Hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý, bởi các quy định của pháp luật chính là cơ sở pháp lý để các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước gọn
nhẹ, hiệu quả.
- Đảm bảo điều kiện vật chất và kinh phí cho hoạt động quản lý một cách hiệu quả.
- Thường xuyên đánh giá những kết quả đã đạt được và kịp thời điều chỉnh
những tồn tại.
Thứ hai, Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ, đáp ứng được yêu
cầu quản lý, giám sát và hội nhập với thị trường tài chính của khu vực và quốc tế
Các cơ quan quản lý Nhà nước của nước CHDCND Lào cần thực hiện điều chỉnh và xây dựng các cơ chế, chính sách tài chính phù hợp với các quy định và cam kết trong khuôn khổ đa biên, khu vực và điều kiện kinh tế - xã hội của Lào; và thực hiện có trách nhiệm các cam kết hội nhập trong lĩnh vực tài chính mà Lào đã đưa ra. Bên cạnh đó, cần chủ động xây dựng chính sách hội nhập tài chính hiệu quả, nhất quán; tăng cường theo dõi, giám sát thực hiện quá trình hội nhập, kịp thời điều chỉnh hợp lý, hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của quá trình này.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước cần áp dụng các tiêu chuẩn giám sát thị trường tài chính theo thông lệ quốc tế; đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các thành viên tham gia thị trường; tăng cường năng lực giám sát, cưỡng chế thực thi của cơ quan giám sát thị trường. Bên cạnh đó, cần bổ sung các chế tài xử lý nghiêm minh về dân sự, hình sự để phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm trên thị trường tài chính.
Thứ ba, Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính
Đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính; cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính; đơn giản hóa và công khai hóa quy trình, thủ tục hành chính theo hướng bình đẳng, minh bạch, khả thi, phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của Lào và tiến trình hội nhập quốc tế.
Thứ tư, Thực hiện hiện đại hóa nền tài chính quốc gia với trọng tâm là đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực tài chính, phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành xây dựng và triển khai các hệ thống thông tin lớn trong ngành tài chính; tích hợp và đồng bộ các hệ thống thông tin tài chính.
178
Cơ bản hình thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu tài chính quốc gia và xây dựng các cơ sở dữ liệu chuyên ngành; thiết lập hệ thống thông tin, quản lý và tăng cường khai thác hiệu quả các hệ thống thông tin phục vụ công tác chỉ đạo điều hành.
Xây dựng mạng lưới thông tin theo hướng quản lý rủi ro tín dụng và dự báo thông tin, Trung tâm thông tin tín dụng phải trở thành công cụ giám sát hữu hiệu từ xa của Ngân hàng Nhà nước, giảm thiểu đến mức thấp nhất những rủi ro tiềm tàng có thể xảy ra cho hệ thống ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng nên xây dựng phần mềm đa năng ứng dụng thống nhất cho các ngân hàng thương mại, chuyên môn hóa kỹ thuật ứng dụng công nghệ tin học trong các công tác phân tích, đánh giá, cập nhật lưu trữ thông tin khách hàng, đảm bảo được tính chính xác cho phép ngân hàng có thể rút ngắn được thời gian thẩm định.
Thứ năm, Hoàn thiện phương thức điều hành chính sách tài chính
Hoàn thiện phương thức điều hành chính sách tài chính theo hướng chủ động đảm bảo các cân đối tài chính vĩ mô theo từng giai đoạn phát triển; nghiên cứu triển khai áp dụng phương thức điều hành ngân sách theo chu kỳ kinh tế.
Củng cố năng lực tổ chức thực hiện, đánh giá tác động và dự báo chính sách. Phát triển công tác phân tích và dự báo tài chính - ngân sách. Nâng cao sự phối hợp và trao đổi thông tin giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa ngay từ khâu xây dựng và hoạch định chính sách.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông tin chính sách. Hình thành hệ thống thu nhận thông tin phản hồi về các chính sách, cơ chế tài chính từ người dân và doanh nghiệp.
Thứ sáu, Nâng cao hiệu quả giám sát của Nhà nước đối với thị trường tài chính
và dịch vụ tài chính
Tăng cường vai trò, chức năng giám sát của Nhà nước đối với hoạt động của thị trường tài chính và dịch vụ tài chính trên nguyên tắc tôn trọng các quy luật thị trường.
Hoàn thiện cơ chế giám sát và áp dụng các tiêu chí, chuẩn mực giám sát, đảm
bảo tính đồng bộ, thống nhất, minh bạch và phù hợp với các thông lệ quốc tế.
Kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực tổ chức giám sát tài chính; tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin giữa các cơ quan giám sát tài chính; hình thành hệ thống giám sát quốc gia toàn diện, hiệu lực và hiệu quả.
Đổi mới phương thức và cách thức giám sát tài chính vĩ mô thông qua việc thiết
lập hệ thống cảnh báo sớm về tài chính - tiền tệ.
179
Hoàn thiện cơ sở thông tin dữ liệu và hệ thống hóa các chỉ tiêu thu thập thông
tin, phân tích và xử lý các dữ liệu kinh tế - tài chính vĩ mô.
Xây dựng và ứng dụng các mô hình phân tích và dự báo kinh tế - tài chính vĩ mô.
Thứ bảy, Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý tài chính, đảm bảo sự điều hành
thống nhất và quản lý chặt chẽ nền tài chính quốc gia
Thực hiện phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương đảm bảo nguyên tắc
quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia.
Xây dựng bộ máy ngành Tài chính hiệu quả, hợp lý theo nguyên tắc quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ mô bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và thanh tra, kiểm tra thực hiện.
Phát triển nguồn nhân lực ngành tài chính để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong quá trình chuyển đổi của nền kinh tế. Xây dựng chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức ngành tài chính; nâng cao hiệu quả của công tác đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. 4.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào
4.2.1. Hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước
Để Nhà nước CHDCND Lào giữ được vai trò trụ cột của hệ thống chính trị, điều hành nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng ngày càng phát triển lớn mạnh, việc hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước là một việc làm vô cùng cần thiết nhằm đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu, nhiệm vụ mới đặt ra. Một số giải pháp để hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước của nước CHDCND Lào trong thời gian tới bao gồm:
Thứ nhất, thực hiện kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước theo hướng:
- Phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị do một Đảng duy nhất lãnh đạo; phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đảm bảo các cơ quan trong tổ chức bộ máy Nhà nước hoạt động có hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng quan liêu, trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Nhà nước cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi tổ chức để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị.
180
- Đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, đồng
thời đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong toàn hệ thống chính trị.
- Đổi mới, kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước trên cơ sở kế thừa những thành quả, kinh nghiệm đã đạt được, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, Đổi mới nhận thức về vai trò, chức năng của Nhà nước trong điều
hành nền kinh tế.
- Mọi mặt tổ chức và hoạt động của Nhà nước đều phải đặt trên cơ sở pháp luật, chịu sự quản lý thống nhất của pháp luật. Nhà nước và công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
- Nhà nước có các nhiệm vụ: tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh cho hoạt động của nền kinh tế thị trường; hoạch định các chính sách kinh tế, điều tiết kinh tế, bảo đảm các dịch vụ công cộng; bảo đảm xã hội, bảo vệ những người dễ bị tổn thương; phối hợp với các thể chế quốc tế, tạo thuận lợi cho mở cửa và hội nhập...
- Nhà nước của dân nghĩa là Nhà nước trong đó tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể cao nhất, duy nhất của quyền lực Nhà nước. Nhà nước giữ gìn kỷ cương phép nước, thực hiện công bằng công lý. Nhà nước không can thiệp sâu vào các lĩnh vực hoạt động cụ thể của dân mà chỉ đóng vai trò định hướng, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân. Điều quan trọng nữa là Nhà nước phải bảo đảm được quyền làm chủ của nhân dân để người dân phát huy được tính sáng tạo, sức mạnh, thực sự làm chủ đất nước.
- Nhà nước cần nhận thức đúng đắn và đầy đủ về ba quyền: lập pháp, hành pháp
và tư pháp và thực hiện có hiệu lực, hiệu quả ba quyền này.
Thứ ba, kiện toàn tổ chức Quốc hội và nâng cao chất lượng hoạt động
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước CHDCND Lào. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. Do vậy, việc kiện toàn tổ chức Quốc hội và nâng cao chất lượng hoạt động liên quan đến việc tăng cường năng lực xây dựng Luật của Quốc hội theo hướng đảm bảo tính khả thi, rõ ràng, phù hợp của các văn bản Luật được ban hành; giữa các văn bản pháp luật cần phải đảm bảo tính thống nhất, khách quan.
Quốc hội Lào cần đổi mới quy trình xây dựng Luật, khắc phục tình trạng ban hành luật khung, hạn chế tối đa luật phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành. Các văn bản pháp luật ban hành phải quán triệt tinh thần đẩy mạnh cải cách hành chính; quy định rõ
181
chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; hạn chế tối đa việc quy định về tổ chức bộ máy ngay trong các luật chuyên ngành và quy định thủ tục hành chính phức tạp, gây phiền hà cho doanh nghiệp và người dân.
Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực và chất lượng giám sát của Quốc hội, xác định rõ cơ chế giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ; đổi mới việc xem xét báo cáo công tác và việc trả lời chất vấn của Chính phủ, của Toà án nhân dân Tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao.
Ngoài ra, Quốc hội cần hoàn thiện quy chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội và đề cao vai trò và trách nhiệm của từng đại biểu Quốc hội; nâng cao chất lượng các kỳ họp Quốc hội; tổ chức lại một số Uỷ ban của Quốc hội theo hướng chuyên sâu hơn, tăng thêm các thành viên chuyên trách.
Thứ tư, kiện toàn bộ máy Chính phủ
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh và đối ngoại theo đúng chức năng, thẩm quyền theo luật định.
Để nâng cao hiệu quả quản lý, Chính phủ cần đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại, đảm bảo thực hiện có hiệu quả những vai trò sau:
- Hoạch định thể chế, cơ chế, chính sách, xây dựng giải pháp, bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Xây dựng chiến lược quy hoạch, kế hoạch và nâng cao năng lực chỉ đạo tổ
chức thực hiện.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra.
- Xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý Nhà nước của các cơ quan hành
chính nhà nước các cấp.
- Xác định rõ chức năng quản lý nhà nước của cơ quan hành chính và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị sự nghiệp, phân cấp mạnh cho các đơn vị sự nghiệp về sử dụng ngân sách, kinh phí, tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ.
- Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công.
182
Bên cạnh đó, bộ máy của Chính phủ cần được tổ chức lại theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, giảm bớt đầu mối trực thuộc Chính phủ, đưa một số cơ quan làm chức năng quản lý Nhà nước thuộc Chính phủ về các bộ quản lý. Bộ tập trung làm tốt chức năng chủ yếu là xây dựng thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đối với các lĩnh vực được phân công; tổ chức chỉ đạo việc thực hiện và đôn đốc kiểm tra, thanh tra việc chấp hành. Cơ cấu bên trong của các bộ phải được sắp xếp hợp lý, bỏ cấp trung gian, giảm tầng nấc, thủ tục, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, tránh chồng chéo, nâng cao trách nhiệm của từng bộ phận và đề cao trách nhiệm cá nhân trong thực hiện công việc. Song song với việc kiện toàn bộ máy của Chính phủ phải kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp trên cơ sở xác định rõ phân cấp trách nhiệm và thẩm quyền giữa Trung ương và địa phương, theo hướng tăng cường quản lý tập trung của Trung ương trên các lĩnh vực bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia, pháp luật kỷ cương thống nhất và sự phát triển công bằng, ổn định, đồng thời phân cấp mạnh mẽ cho các địa phương về các lĩnh vực khác kết hợp hài hoà lợi ích toàn cục với lợi ích cục bộ. Vấn đề phân định phân cấp rõ thẩm quyền, trách nhiệm cũng như chức năng, nhiệm vụ giữa các ngành, các cấp, các cơ quan là vấn đề cơ bản, là điều kiện tiên quyết của việc cải cách xây dựng bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, thông suốt, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Thứ năm, kiện toàn hệ thống các cơ quan tư pháp
Hệ thống các cơ quan tư pháp bao gồm: Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân có trách nhiệm giữ gìn pháp luật, bảo đảm quyền công dân, công bằng xã hội và công lý.
Để cải cách tư pháp, trước tiên phải kiện toàn hệ thống tòa án, mà cốt lõi là bảo đảm tính độc lập xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Toà án xét xử độc lập và chỉ tuân thủ theo pháp luật. Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, bỏ thủ tục xét xử sơ chung thẩm của Toà án nhân dân Tối cao và Toà án Quân sự Trung ương. Mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, hình sự cho Toà án nhân dân cấp huyện, quận.
Cần phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới quy trình, thủ tục giải quyết công việc của các Toà án. Nâng cao phẩm chất, năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ quan tư pháp các cấp để đủ sức phát hiện, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật các loại tội phạm và giải quyết tranh chấp phát sinh trong xã hội, nhất là ở cấp sơ thẩm, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
183
Bên cạnh việc kiện toàn hệ thống toà án, cần phải nâng cao chất lượng hoạt động của Viện Kiểm sát, tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm soát hoạt động tư pháp, sắp xếp lại các cơ quan điều tra theo hướng gọn đầu mối, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm sự thống nhất trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm quyền dân chủ và sự an toàn của công dân.
Ngoài ra, cần tăng cường các tổ chức luật sư, các tổ chức tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động của các cơ quan tư pháp, mặt khác giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho doanh nghiệp và người dân theo quy định của pháp luật.
4.2.2. Quy định rõ vai trò, trách nhiệm quản lý trong lĩnh vực tín dụng của các cơ quan quản lý Nhà nước và tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan này
Thực tế hiện nay cho thấy sự phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước Lào trong việc ban hành và thực thi các chính sách trong lĩnh vực tài chính ngân hàng còn thiếu hiệu quả và chồng chéo lên nhau. Do đó, giải pháp trước mắt cần phải thực hiện một cách khẩn trương đó là xác định rõ vai trò và nhiệm vụ liên quan đến việc quản lý dịch vụ tín dụng của mỗi cơ quan bộ ngành để tránh được tình trạng làm việc chồng chéo, dẫm chân lên nhau, đồng thời thúc đẩy cơ chế làm việc theo một chiều.
Bên cạnh đó, việc xây dựng một cơ chế phối hợp giữa các cơ quan ban ngành của Lào trong việc quản lý lĩnh vực tín dụng cũng là một giải pháp cần thiết. Trên khía cạnh quản lý Nhà nước, phối hợp là một phương thức, một quy trình kết hợp hoạt động của các cơ quan, tổ chức lại với nhau để bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức này thực hiện được đầy đủ, có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhằm đạt được các lợi ích chung. Phối hợp tồn tại trong suốt quá trình quản lý Nhà nước, từ hoạch định chính sách, ban hành và thực thi chính sách. Mục tiêu cuối cùng của phối hợp là tạo ra sự thống nhất, đồng thuận, bảo đảm chất lượng và hiệu quả trong quản lý.
Trong quản lý nhà nước, phối hợp có thể được thực hiện theo chiều ngang hoặc theo chiều dọc. Phối hợp theo chiều ngang là phối hợp xây dựng và thực hiện chính sách giữa các cơ quan cùng cấp, chẳng hạn phối hợp giữa các bộ, ngành. Phối hợp theo chiều dọc là phối hợp giữa các cơ quan không cùng cấp, chẳng hạn phối hợp giữa cơ quan trung ương và cơ quan địa phương. Yêu cầu phối hợp đặt ra bất cứ khi nào công việc phải thực hiện với sự tham gia của hơn một cơ quan, tổ chức.
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước mang nhiều ý nghĩa: Giúp chia
sẻ vấn đề trong quá trình hoạch định chính sách; Đảm bảo sự đồng bộ, nhất quán của
184
hệ thống chính sách; Đảm bảo thực thi đầy đủ, hiệu quả hệ thống chính sách; Giúp
phân bổ hiệu quả các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu chính sách; Đảm bảo tất
cả các cơ quan liên quan có những hành động cần thiết nhằm thực hiện các chính sách
của Chính phủ. Hệ quả của sự thiếu phối hợp trong quản lý là chậm trễ, chồng chéo, hệ
thống chính sách không phát huy được vai trò của mình.
Trong quản lý Nhà nước về lĩnh vực tín dụng, sự phối hợp giữa các cơ quan
quản lý cần tập trung vào hai khía cạnh:
Thứ nhất, Trao đổi, chia sẻ thông tin
Các nội dung thông tin về doanh nghiệp cần được các cơ quan chức năng trên
địa bàn tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương trao đổi, cung cấp và công khai bao
gồm: Thông tin đăng ký doanh nghiệp (tên doanh nghiệp, mã số doanh nghiệp...);
Thông tin về tình trạng hoạt động của doanh nghiệp; Thông tin về tình hình sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp và Thông tin về xử lý doanh nghiệp có hành vi vi phạm
phát luật.
Thứ hai, Tăng cường phối hợp trong thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan đầu mối xây dựng
kế hoạch thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp để báo cáo UBND cấp tỉnh. Kế hoạch
thanh, kiểm tra doanh nghiệp có thể được xây dựng độc lập hoặc là một trong các nội
dung của kế hoạch thanh, kiểm tra của tỉnh, thành phố.
Các cơ quan chức năng có trách nhiệm phối hợp triển khai kế hoạch thanh,
kiểm tra doanh nghiệp hàng năm trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của
mình. Trong kế hoạch thanh, kiểm tra hàng năm, cơ quan chức năng phải xác định cụ
thể doanh nghiệp, đơn vị trực thuộc doanh nghiệp dự kiến thanh, kiểm tra.
Sau kế hoạch thanh, kiểm tra được cấp có thẩm quyền phê duyệt, các cơ quan
chức năng có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác thanh, kiểm tra doanh nghiệp
theo kế hoạch đã được cấp.
Trường hợp thành lập đoàn thanh tra liên ngành, thanh tra tỉnh có trách nhiệm
chủ trì, các cơ quan liên quan cử cán bộ tham gia. Kết quả thanh tra liên ngành phải
được gửi cho các cơ quan chức năng tham gia. Hành vi vi phạm của doanh nghiệp
trong từng lĩnh vực được xử lý theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Căn cứ kết
luận của đoàn thanh tra liên ngành để quyết định hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định xử lý theo quy định.
185
4.2.3. Hoàn thiện quy trình hoạch định, ban hành và thực thi chính sách
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ thống chính sách, cần có sự hoàn thiện quy trình hoạch định, ban hành và thực thi chính sách, trong đó, đóng vai trò quyết định nhất là quy trình hoạch định chính sách.
Quy trình hoạch định chính sách cần được hoàn thiện theo hướng làm rõ các đề
xuất chính sách, dự báo sơ bộ tác động kinh tế - xã hội, xác định lộ trình ban hành, cơ
quan soạn thảo và các điều kiện bảo đảm... nhằm làm cho hoạt động xây dựng pháp
luật sát hơn với yêu cầu của thực tiễn. Đặc biệt, cần có sự tham gia của người dân, các
chuyên gia và đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chính sách ngay từ khâu hoạch
định chính sách chứ không phải đợi đến khi có dự thảo văn bản pháp luật mới được lên
tiếng để đảm bảo tính thực tế và khả thi của chính sách. Sau một thời gian thực hiện,
hệ thống chính sách cần phải được phân tích để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện nhằm
phù hợp với những điều kiện mới trong thực tiễn.
Thời gian văn bản chính sách được thông qua cho đến khi có hiệu lực cần phải
có một độ trễ hợp lý để các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hiểu, nắm bắt và thực hiện
đúng theo chính sách. Trong lĩnh vực tín dụng, để giảm thời gian từ khi ban hành
chính sách đến khi chính sách tác động tới các mục tiêu thì cần phải có các biện pháp
tăng cường mức độ nhạy cảm của đầu tư và tiêu dùng với lãi suất, mức độ nhạy cảm
của cầu tiền đối với lãi suất; gắn với việc lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng. Ngân
hàng Nhà nước Lào có thể nghiên cứu và xây dựng các mô hình kinh tế lượng về cơ
chế truyền dẫn tiền tệ nhằm tiến hành phân tích và hoạch định chính sách tiền tệ. Kết
quả của các mô hình này sẽ giúp đo lường được mức độ phản ứng của của các mục
tiêu trung gian cũng như mục tiêu cuối cùng trước những điều chỉnh của các công cụ
chính sách tiền tệ và khoảng thời gian trễ của các phản ứng này. Ngoài ra, các tổ chức
tín dụng cũng cần có thời gian tiếp xúc trước với hệ thống văn bản trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện văn bản để nhận thức được những mục tiêu mà Ngân hàng Nhà
nước đặt ra, từ đó nhanh chóng điều chỉnh hành vi và có sự cam kết thực hiện chính
sách. Từ đó, các chính sách tài chính – tiền tệ, trong đó có chính sách tín dụng sẽ phát
huy hiệu quả nhanh hơn.
Bên cạnh đó, việc thực thi chính sách của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng
cần phải được thực hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, khách quan, công bằng để có
tính răn đe, đồng thời tạo dựng niềm tin của các tổ chức, cá nhân vào hệ thống pháp
luật của Nhà nước.
186
4.2.4. Hoàn thiện nội dung chính sách phát triển dịch vụ tín dụng
Thứ nhất, Hoàn thiện hệ thống chính sách và quy định pháp luật về tiền tệ, hoạt động ngân ngân hàng nói chung và dịch vụ tín dụng nói riêng, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn Luật, Nghị định và các quy định quản lý dịch vụ ngân hàng. Hệ thống chính sách và quy định pháp luật của Nhà nước cần đáp ứng các yêu cầu cụ thể sau:
- Mục tiêu đề ra của các chính sách phát triển dịch vụ ngân hàng nói chung và dịch vụ tín dụng nói riêng cần sát hợp với mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Nội dung các chính sách và quy định pháp luật về dịch vụ ngân hàng nói chung và dịch vụ tín dụng nói riêng cần phù hợp với từng loại hình tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng, đặc biệt là các quy định về mức vốn pháp định quy định cho mỗi loại hình tổ chức tín dụng; các quy định về cấp tín dụng, chỉ tiêu an toàn, các quy định về công tác kiểm soát rủi ro, công tác thanh tra, giám sát….
- Các quy định về hoạt động tín dụng ngân hàng cần cho phép các tổ chức tín dụng được cung cấp không hạn chế các sản phẩm dịch vụ tín dụng thuộc phạm vi hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng nhằm tạo động lực cho các tổ chức tín dụng phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng cung ứng cho khách hàng.
- Hệ thống chính sách và các quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng nói chung và dịch vụ tín dụng nói riêng cần đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng và công bằng giữa các tổ chức tín dụng và các đơn vị vay vốn nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực cho các tổ chức tín dụng phát triển.
Thứ hai, Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phát triển dịch vụ tín dụng theo hướng đa dạng hóa các định chế tài chính và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ tín dụng phù hợp với cơ chế thị trường và tiến trình luật hóa các quan hệ tín dụng. Để thực hiện được điều này, Nhà nước cần:
- Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước tham gia vào thị trường trên cơ sở thuận lợi hoá các hoạt động tín dụng, giảm thiểu quy định hạn chế hoạt động dịch vụ, nhất là các dịch vụ tín dụng nội và ngoại tệ.
- Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng các hoạt động đầu tư, bảo lãnh vay vốn và bảo lãnh thanh toán, phát hành trái phiếu, môi giới tiền tệ, các hoạt động cho thuê tài chính và quản lý tài sản.
- Đổi mới phương thức và thủ tục tín dụng theo hướng tạo thuận lợi và cơ hội
bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
187
- Đa dạng hoá các phương thức tài trợ tín dụng trong cả lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, như cho thuê tài chính, mua trả góp, góp vốn đầu tư, đồng tài trợ, các hình thức tín dụng thế chấp, tín chấp... đồng thời mỗi tổ chức tín dụng cũng cần tích cực giới thiệu sản phẩm, maketing thu hút khách hàng, tạo tính hấp dẫn của các dịch vụ và sản phẩm tín dụng bao gồm cả huy động và cho vay.
Thứ ba, Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phát triển dịch vụ tín dụng theo hướng tăng cường năng lực tài chính, nâng cho hiệu quả quản lý điều hành và phòng chống rủi ro cho các tổ chức tín dụng:
- Nhà nước cần xem việc tăng vốn điều lệ cho các NHTM, bao gồm cả các NHTM Nhà nước, như là một mục tiêu quan trọng nhằm phát triển thị trường tiền tệ và ổn định thị trường tín dụng. Từ đó, xây dựng lộ trình thực hiện tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển của nền kinh tế.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về giải thể, sáp nhập và tái cơ cấu ngân hàng với những cơ chế đặc thù phù hợp với tình hình thực tế của Lào hiện nay và thông lệ quốc tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần kiên quyết xử lý các ngân hàng thương mại hoạt động yếu kém và có khả năng gây rủi ro cho hệ thống ngân hàng.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật tạo điều kiện cho phép các ngân hàng thương mại mua, bán, sáp nhập, liên doanh để gia tăng năng lực tài chính, tăng khả năng cạnh tranh và quy mô hoạt động trên cơ sở đảm bảo mức vốn tự có theo quy định của pháp luật.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý theo hướng sắp xếp, tổ chức bộ máy của các
ngân hàng thương mại từ trung ương đến các chi nhánh theo hướng nâng cao hiệu quả
kinh doanh và đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; Khuyến khích các ngân
hàng thương mại chuyển đổi mô hình tổ chức theo chức năng và theo địa giới hành
chính sang mô hình tổ chức theo nhóm khách hàng kết hợp với nhóm dịch vụ; Khuyến
khích và tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tăng vốn tự có bằng lợi nhuận để
lại; phát hành cổ phiếu; trái phiếu; sáp nhập; hợp nhất; mua lại.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý điều tiết hệ thống thị trường tài chính và dịch
vụ tín dụng theo hướng tăng cường sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước và thực hiện giám
sát hiệu quả các hoạt động tài chính trên thị trường. Đặc biệt, cần tăng cường vai trò
của Ngân hàng Nhà nước Lào trong giám sát, điều hành hoạt động trên thị trường tài
chính với tư cách là người tổ chức thị trường đồng thời là thành viên thị trường có khả
188
năng kiểm soát và xử lý tình trạng mất cân đối cung, cầu về tiền tệ trên thị trường để
định hướng lãi suất và tỷ giá hối đoái theo các nguyên tắc thị trường. Ngoài ra, cần mở
rộng sự tham gia của cơ quan kiểm toán độc lập, giám sát của khách hàng đối với hoạt
động của các tổ chức tín dụng trên thị trường.
- Nhà nước cần nghiên cứu và ban hành hệ thống các quy định an toàn hoạt
động ngân hàng và quản trị rủi ro các tổ chức tín dụng phù hợp với nguyên tắc, chuẩn
mực của Basel; Hệ thống chuẩn mực thống nhất về công nghệ trong lĩnh vực ngân
hàng, đồng thời cần có cơ chế hỗ trợ về vốn cho đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng công
nghệ và hệ thống thanh toán của hệ thống ngân hàng. Mặt khác, cần giảm thiểu các
quy định có tính can thiệp vào quy trình nghiệp vụ, vào thẩm quyền và trách nhiệm đối
với các quyết định kinh doanh, quyền tự chủ về nhân sự, tài chính, tiền lương của các
tổ chức tín dụng. Đẩy mạnh thực hiện các biện pháp hỗ trợ an toàn tín dụng, như tăng
cường chất lượng dịch vụ của Trung tâm thông tin tín dụng, thực hiện đánh giá tín
nhiệm đối với các doanh nghiệp, xây dựng hệ thống cảnh báo sớm.
Thứ tư, Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phát triển dịch vụ tín dụng theo hướng
tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn của mọi đối tượng khách hàng cá nhân và tổ
chức thông qua các biện pháp:
- Đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng
theo hướng đồng bộ hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục hành chính;
cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính; đơn giản hóa và công khai hóa
quy trình, thủ tục hành chính theo hướng bình đẳng, minh bạch, khả thi, phù hợp với
điều kiện và trình độ phát triển của Lào nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi đối
tượng vay vốn tiếp cận nguồn vốn.
- Đẩy mạnh công tác truyền thông đại chúng về dịch vụ ngân hàng nói chung và
dịch vụ tài chính nói riêng nhằm định hướng, nâng cao nhận thức của công chúng về
tầm quan trọng của các dịch vụ ngân hàng đối với sản xuất và đời sống, từ đó gia tăng
nhu cầu sử dụng các dịch vụ tài chính.
- Nhà nước cần khuyến khích việc thành lập các định chế tài chính chuyên biệt,
các chi nhánh ngân hàng thương mại hoạt động ở khu vực nông thôn, miền núi, góp
phần tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn của dân cư, đồng thời đóng góp vào công cuộc
xóa đói, giảm nghèo, hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn.
189
4.2.5. Hoàn thiện hệ thống công cụ thực hiện chính sách phát triển dịch vụ tín dụng
Bên cạnh hệ thống khuôn khổ pháp lý, một hệ thống công cụ chính sách tài chính – tiền tệ hợp lý, hiệu quả cũng là nhân tố quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính – tiền tệ nói chung và dịch vụ tín dụng nói riêng. Mỗi loại công cụ tài chính có cơ chế vận hành riêng và ưu nhược điểm riêng. Do đó, hệ thống công cụ chính sách tài chính – tiền tệ cần phải được hoàn thiện theo hướng đảm bảo tính đồng bộ, hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện được các mục tiêu tài chính đặt ra.
* Công cụ hạn mức tín dụng
Công cụ hạn mức tín dụng là một công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Nhà nước. Công cụ này cho phép Ngân hàng Nhà nước ấn định trước lượng tín dụng cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, nó có một số hạn chế là: Có thể làm tăng lãi suất do cung tiền hạn chế; Làm giảm khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng; Gây tiêu cực trên thị trường vốn; Gây khó khăn cho doanh nghiệp nhỏ trong vay vốn do các NHTM thường chọn doanh nghiệp lớn để cho vay nhằm giảm chi phí và bảo đảm an toàn trong giới hạn tín dụng được phép.
Đây không phải là một công cụ thường xuyên của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên để đảm bảo tính an toàn của toàn hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Lào cần phải định kỳ theo dõi tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại ở từng giai đoạn cụ thể, từ đó có những biện pháp can thiệp hợp lý, kịp thời.
* Công cụ lãi suất
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn. Việc thay đổi của lãi suất sẽ kéo theo sự biến đổi của chi phí tín dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay mở rộng quy mô tín dụng trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, Ngân hàng Nhà nước Lào cần kiểm soát tốt lãi suất trên thị trường.
Để có được chính sách lãi suất hợp lý, vừa kích thích được đầu tư, vừa tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh hiệu quả, tăng cường cạnh tranh, Ngân hàng Nhà nước cần xác định được mức lãi suất cơ bản hợp lý dựa trên các cơ sở sau:
- Căn cứ trên lợi nhuận bình quân của xã hội.
- Đặt trong mối tương quan với lãi suất tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc để
có thể khai thác tối đa mọi nguồn lực trong xã hội.
190
- Đặt trong tương quan với tỷ giá của đồng Kíp Lào so với các đồng tiền mạnh trên thế giới và trong khu vực đặc biệt là đồng USD, đồng EURO, đồng Yên, đồng Nhân dân tệ, đồng VNĐ... Bởi lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nhau, một khi có sự tăng giảm, chuyển đổi nội tệ sang ngoại tệ, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tiền gửi và cho vay của các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước Lào cần điều hành chính sách lãi suất một cách linh hoạt,
phù hợp với tình hình thực tiễn và diễn biến thị trường, cụ thể:
- Tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và tiền vay dài hạn cao hơn lãi suất tiền gửi và tiền vay ngắn hạn nhằm huy động vốn dài hạn đầu tư cho nền kinh tế. Việc xác định lãi suất cho vay dài hạn cần tính đến xu hướng tăng hay giảm lãi suất ngắn hạn trong từng thời kỳ .
- Duy trì mức chênh lệch hợp lý giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ.
- Việc duy trì mức lãi suất ưu đãi cho các đối tượng dân cư gặp khó khăn là cần thiết; song Chính phủ cần tìm thêm các nguồn ngân sách và các kênh tài trợ hoạt động này bên ngoài hoạt động kinh doanh của các NHTM quốc doanh.
- Việc điều chỉnh lãi suất cần gắn với thị trường trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích của cả người gửi tiền, tổ chức tín dụng và người vay tiền, tạo điều kiện tập trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế.
- Do xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, việc điều chỉnh lãi suất cũng cần phải căn cứ vào mức lãi suất trên thị trường quốc tế và khu vực. Ngoài ra, việc điều chỉnh lãi suất cần căn cứ vào định hướng chính sách tiền tệ, tập quán và thói quen của người dân cũng như các yếu tố tâm lý của người dân trong từng thời kỳ nhất định.
Hiện nay, CHDCND Lào chưa thể tiến hành tự do hoá lãi suất. Tuy nhiên, cần phải hướng theo mục tiêu đó và thực hiện từng bước bởi đó là xu hướng tất yếu. Tự do hoá lãi suất có rất nhiều ưu điểm. Do lãi suất được tự do hoá, biến động theo cung - cầu về vốn nên có thể phân bổ nguồn vốn tín dụng khan hiếm một cách hiệu quả; đồng thời đảm bảo thu hút tiền gửi cho ngân hàng với chi phí hợp lý nhất. Lãi suất tự do hoá có khả năng linh hoạt điều tiết để thích nghi với điều kiện thay đổi, tạo động lực cho tăng trưởng tài chính. Bên cạnh đó, tự do hoá lãi suất cũng là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính, giúp các nước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều trường hợp mà tự do hóa không thực hiện tốt được vai trò của mình. Tự do hoá lãi suất sẽ kém hiệu quả nếu xã hội áp đặt vào hệ thống tài chính quá nhiều các mục tiêu quốc gia. Ngoài ra, thị trường tín dụng không phải lúc nào cũng điều chỉnh đủ nhanh để cân bằng giữa cung - cầu khi điều kiện thay đổi và tình trạng mất
191
cân bằng vẫn là đặc trưng của bất kỳ một nền kinh tế đang phát triển nào. Do vậy, để phát huy hiệu quả vai trò của tự do hóa lãi suất, CHDCND Lào cần chuẩn bị đầy đủ những điều kiện, đó là: Đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô phát triển ổn định; Đảm bảo hành lang pháp lý hoàn thiện, rõ ràng, minh bạch và đồng bộ; Hệ thống ngân hàng năng động, cạnh tranh và hoạt động hiệu quả; Thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán) đã hình thành và vận hành có hiệu quả; Các nguồn lực trong nước đã được phân phối và sử dụng có hiệu quả; Các tổ chức kinh tế đều đảm bảo khả năng sử dụng vốn triệt để và có hiệu quả. Tóm lại, CHDCND Lào cần phải từng bước xây dựng những điều kiện cần thiết để tiến tới từng bước tự do hoá lãi suất mà vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của NHNN đối với thị trường tiền tệ.
* Công cụ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm trên lượng tiền gửi mà NHTM huy động được và phải để dưới dạng dự trữ. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước quy định. Mỗi ngân hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt buộc, do đó thông qua việc tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, Ngân hàng Nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến khả năng huy động và cung ứng tín dụng cho nền kinh tế của các tổ chức tín dụng. Việc áp dụng công cụ dự trữ bắt buộc là cần thiết để tạo sự ổn định, an toàn cho hệ thống ngân hàng và góp phần giải quyết tình trạng đô la hoá đang khá phổ biến tại Lào.
Ngân hàng Nhà nước Lào cần phải có cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thích hợp để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh,bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng, cụ thể là:
- NHNN nên mở rộng đối tượng áp dụng quy chế dự trữ bắt buộc với tỷ lệ dự trữ bắt buộc phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ, mục tiêu chính sách tiền tệ và đặc điểm cụ thể của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế.
- NHNN cần tăng cường kiểm tra việc chấp hành dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng; đồng thời xử phạt nghiêm minh đối với những trường hợp vi phạm quy định nhằm đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống tổ chức tín dụng trong nền kinh tế.
-NHNN nên có các biện pháp khuyến khích các NHTM thực hiện tốt quy định
về dự trữ bắt buộc.
- Hiện tại, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải giảm ở mức độ phù hợp nhằm tạo điều kiện cho các NHTM thúc đẩy quá trình huy động và cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong tương lai, khi thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã phát triển, các công cụ khác có thể phát huy tác dụng một cách một
192
cách mạnh mẽ thì Ngân hàng Nhà nước có thể thắt chặt quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm đảm bảo sự ổn định và an toàn của toàn hệ thống tín dụng trong nền kinh tế.
* Công cụ tái chiết khấu, tái cấp vốn
Tái cấp vốn là một phương pháp mà qua đó NHNN sẽ cung ứng tiền cho nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các NHTM trên cơ sở nhận tái chiết khấu, tái cầm cố các chứng từ có giá của các NHTM. Thông qua việc điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu, NHNN sẽ tác động đến việc giảm hoặc tăng lượng tiền trong lưu thông.
Để đảm bảo tính hiệu quả của công cụ tái chiết khấu, tái cấp vốn, Ngân hàng
Nhà nước cần:
- Xây dựng đầy đủ các quy định cho các hình thức tái cấp vốn khác nhau về điều kiện và lãi suất. Việc xác định lãi suất tái cấp vốn cần căn cứ theo quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ.
- Mở rộng đối tượng được vay tái chiết khấu và chủ động định hướng khuyến
khích các NHTM thực hiện tái chiết khấu các chứng từ có giá.
- Có cơ chế phù hợp để kiểm soát chặt chẽ các dự án cho vay tái cấp vốn, tái
chiết khấu vì điều này ảnh hưởng lớn tới hiệu quả điều chỉnh mức cung tiền.
- Phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng, tạo điều kiện để NHNN có cơ sở
định ra mức lãi suất cho vay tái chiết khấu hợp lý.
* Công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động giao dịch, mua bán các chứng khoán của NHNN với các đối tác được lựa chọn trên thị trường tiền tệ, từ đó tác động trực tiếp đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM và gián tiếp đến lãi suất thị trường nhằm điều tiết mức cung tiền thông qua những ảnh hưởng về mặt lượng và giá. Nghiệp vụ thị trường mở có ưu điểm đó là NHNN có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ, từ đó tác động trực tiếp đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM. Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào.
Để phát huy tính hữu hiệu của công cụ nghiệp vụ thị trường mở, NHNN cần phải:
- Hoàn thiện các văn bản pháp lý về phát hành, chuyển nhượng giấy tờ có giá, tiêu chí các thành viên tham gia thị trường và các quy định về hoạt động, giao dịch trên thị trường mở.
193
- Cải tiến quy trình nghiệp vụ thị trường mở, áp dụng chương trình phần mềm hỗ trợ quản lý; Đơn giản các thủ tục, sửa đổi theo hướng tạo điều kiện thuận lợi và thu hút thành viên tham gia thị trường.
- Cần phát hành nhiều loại tín phiếu kho bạc nhà nước, có phương thức thanh
toán thuận lợi, nhiều kỳ hạn, tỷ trọng tín phiếu vô danh là chủ yếu.
- Hoàn thiện cơ chế thu thập thông tin, phương pháp theo dõi, tính toán, dự báo vốn khả dụng của các ngân hàng, diễn biến lạm phát, lãi suất, đầu tư... Trên cơ sở đó, NHNN ra quyết định can thiệp vào thị trường mở một cách hợp lý.
-Thúc đẩy quá trình tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở: làm đại lý phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN, cho phép NHTM phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi... trên cơ sở NHNN tạo ra tính thanh khoản, hấp dẫn cao cho các công cụ trên thị trường mở.
- Phát triển đồng bộ của các thị trường khác đặc biệt là thị trường tiền tệ liên
ngân hàng và thị trường thứ cấp để hạn chế sự tăng trưởng nóng của các TCTD.
- Tạo điều kiện để các nhà môi giới trên thị trường tiền tệ có điều kiện hình
thành và phát triển, góp phần làm tăng tính minh bạch và hiệu quả của thị trường này.
* Công cụ tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được biểu hiện bằng một số lượng đơn vị tiền tệ nước khác. Sự biến động của tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động kinh tế, từ hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu. Do đó, NHNN cần ổn định tỷ giá hối đoái ở mức hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tiễn của quốc gia trong từng giai đoạn.
Với điều kiện thực tế hiện nay, NHNN nước CHDCND Lào cần đặt mục tiêu ổn định giá trị của đồng Kíp, giảm tình trạng đô la hoá, gia tăng dự trữ ngoại hối và tiến tới cán cân thanh toán ổn định. Cơ chế tỷ giá hiện nay là cơ chế thả nổi có điều tiết dưới sự quản lý của Nhà nước. Để thực hiện hiệu quả cơ chế này đòi hỏi hệ thống ngân hàng thương mại phải có các biện pháp quản lý các nguồn thu về ngoại tệ, nhất là từ các hoạt động xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài, viện trợ cũng như thiết lập một cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt nhằm kiểm soát hiệu quả hơn các giao dịch ngoại tệ.
4.2.6. Hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý
Tại cuộc họp “Công bố thông tin tín dụng” được tổ chức ngày 10/01/2015, TS. AkhomPrasead, Cục trưởng Quản lý Tổ chức tài chính, NHNN Lào cũng đã khẳng
194
định về tầm quan trọng của việc công bố thông tin tín dụng: “Để hạn chế rủi ro tiềm ẩn có thể phát sinh từ hoạt động tín dụng đòi hỏi một hệ thống dữ liệu tín dụng tập trung và cung cấp thông tin tín dụng chính xác, rõ ràng giữa các thành viên như NHTM, các tổ chức tài chính và doanh nghiệp để xem xét, phê duyệt tín dụng”.
Do đó, việc hoàn thiện một hệ thống thông tin quản lý, bao gồm Hệ thống thông tin kinh tế nội bộ của các đơn vị kinh tế, Hệ thống thông tin thị trường, Hệ thống thông tin kinh tế của Chính phủ, là một hoạt động cấp bách hiện nay, nhằm góp phần cung cấp các thông tin đảm bảo tính chính xác, kịp thời, tạo điều kiện cho việc hoạch định chính sách của Nhà nước cũng như xây dựng kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung và ra quyết định cấp tín dụng tại các TCTD.
Nhà nước Lào nên có kế hoạch xây dựng Trung tâm tín dụng quốc gia (CIC) là nơi lưu dữ liệu quốc gia hàng đầu trên cơ sở nền tảng công nghệ tiên tiến hiện đại, hỗ trợ cho việc quản lý, điều hành của Nhà nước đối với hệ thống ngân hàng nói riêng và các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung. Trung tâm này cần được xây dựng và hoàn thiện theo hướng:
- Hiện đại hóa và hoàn thiện quy trình xử lý thông tin liên tục từ khâu thu thập, lựa chọn, phân tích xử lý và dự đoán thông tin để cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác và hiệu quả. Các thông tin tín dụng cần thiết về khách hàng doanh nghiệp bao gồm: năng lực tài chính, độ tin cậy của phương án trả nợ, lý lịch tiếp cận tín dụng, năng lực ban điều hành doanh nghiệp, tiềm năng thị trường đầu ra của doanh nghiệp. Đây sẽ là một kênh thông tin quan trọng đế các TCTD tham khảo và đưa ra quyết định cho vay.
- Việc thu thập thông tin doanh nghiệp cần phù hợp với chế độ kế toán và chuẩn mực quốc tế. Cần có chế độ khuyến khích doanh nghiệp hoàn thành báo cáo tài chính theo đúng quy định, đảm bảo nguyên tắc công khai hóa tài chính; đồng thời có chế tài xử phạt nghiêm minh đối với những doanh nghiệp cố tình gian lận báo cáo tài chính.
- Đẩy mạnh công tác đánh giá xếp loại doanh nghiệp, công bố lên website của
Trung tâm để các NHTM tham khảo và ra quyết định cho vay.
- Xây dựng phần mềm đa năng, ứng dụng thống nhất cho các NHTM, chuyên môn hóa kỹ thuật ứng dụng công nghệ tin học trong các công tác phân tích, đánh giá, cập nhật lưu trữ thông tin khách hàng, đảm bảo được tính chính xác và kịp thời của thông tin.
195
Ngân hàng Nhà nước Lào cần xây dựng mạng lưới thông tin theo hướng quản lý rủi ro tín dụng và dự báo thông tin để trở thành công cụ quản lý hữu hiệu từ xa, giúp giảm thiểu đến mức thấp nhất những rủi ro tiềm ẩn cho toàn hệ thống ngân hàng.
Các cơ quan chức năng như: Thuế, Thống kê và các Bộ ngành có liên quan cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc thu thập, sàng lọc, cập nhật thông tin về hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng như hiệu quả hoạt động của toàn nền kinh tế.
Các doanh nghiệp cũng cần quan tâm đầu tư đúng mức xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu quả, tổ chức hệ thống thông tin tài chính trung thực, khách quan và minh bạch.
4.2.7. Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung và lĩnh vực ngân hàng tài chính nói riêng, đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước cần phải hội tụ những phẩm chất cơ bản sau:
Thứ nhất, Đội ngũ cán bộ phải có trình độ, năng lực. Đây là yêu cầu cơ bản và quan trọng nhất của đội ngũ cán bộ trong mọi thời kỳ. Trình độ chuyên môn là cơ sở nền tảng để đội ngũ cán bộ hoàn thành những công việc được giao và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng thời kỳ. Trong nền kinh tế hiện đại, ngoài trình độ chuyên môn nghề nghiệp, đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước còn cần phải biết vận dụng và làm chủ công nghệ trong lĩnh vực chuyên môn của mình.
Thứ hai, Đội ngũ cán bộ phải có văn hóa làm việc khoa học, hiệu quả, vì dân. Lối làm việc tùy tiện, nặng về hành chính, quan liêu, thói cửa quyền, hách dịch của một bộ phận cán bộ tồn tại khá lâu đã làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, chính quyền, làm giảm hiệu quả công việc trong các cơ quan nhà nước. Chính vì vậy, xây dựng văn hóa làm việc chuyên nghiệp, có tính kế hoạch cao, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước là việc làm vô cùng cần thiết.
Thứ ba, Người cán bộ phải có bản lĩnh vững vàng. Với bản lĩnh vững vàng, mà trước hết là bản lĩnh chính trị, người cán bộ sẽ không bị tác động, ảnh hưởng bởi những yếu tố tiêu cực trong xã hội.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực thực sự ngang tầm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay, cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, Hoàn thiện chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ phù hợp với yêu cầu của thời kỳ CNH-HĐH đất nước và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, lấy đào tạo,
196
bồi dưỡng cán bộ làm trọng tâm. Trong đào tạo, bồi dưỡng không chỉ chú ý đến bồi dưỡng về chính trị mà phải đặc biệt chú ý đến bồi dưỡng trình độ chuyên môn, xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên gia giỏi trên nhiều lĩnh vực, đồng thời phải bồi dưỡng cả về phẩm chất đạo đức.
Thứ hai, Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ: Phải làm cho mọi cán bộ, nhận biết rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới; quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn của Đảng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác cán bộ đáp ứng những yêu cầu mới đang đặt ra.
Thứ ba, Tạo chuyển biến sâu sắc trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng nâng cao chất lượng, bảo đảm sự đồng bộ, kế thừa và phát triển.
Ngay từ khâu tuyển chọn người đi đào tạo, bồi dưỡng phải thực sự công tâm, công bằng để chọn được người xứng đáng, tránh tình trạng cán bộ được lựa chọn đi đào tạo, bồi dưỡng không đủ trình độ tiếp thu kiến thức, không đủ phẩm chất trở thành người lãnh đạo, quản lý. Điều này không chỉ dẫn đến thiếu hụt cán bộ quản lý Nhà nước, mà còn gây lãng phí tiền bạc của xã hội.
Công tác đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, theo chức danh cần phải được nâng cao chất lượng thông qua các biện pháp: Củng cố, nâng cao chất lượng các học viện, trường, trung tâm chính trị - hành chính; Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học trong cả nước và các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị; Huy động mọi nguồn lực và tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ; Mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước cần cụ thể hóa vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ; hoàn thiện chế độ bầu cử, cơ chế tuyển chọn cán bộ, công chức; cơ chế bổ nhiệm, miễn nhiệm và từ chức của cán bộ; cơ chế sàng lọc, thay thế những người kém phẩm chất và năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ; cơ chế tham gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ.
Thứ tư, Cải thiện môi trường làm việc để tạo động lực cống hiến, phấn đấu vươn lên của cán bộ. Bên cạnh đó, làm tốt công tác luân chuyển công việc, tạo điều kiện cho cán bộ trưởng thành trong thực tiễn. Những môi trường và điều kiện làm việc khác nhau sẽ giúp cho cán bộ phát huy được năng lực, sức sáng tạo, đồng thời tránh được tình trạng xa rời thực tiễn trong việc hoạch định và thực thi chính sách.
197
Thứ năm, Các cơ quan quản lý Nhà nước cần tiến tới cải cách chế độ tiền lương, tiền tệ hóa tiền lương và các chế độ theo lương bảo đảm sự hợp lý, công bằng; phấn đấu để tiền lương là nguồn thu nhập cơ bản, bảo đảm cho cán bộ có đời sống ổn định, chuyên tâm vào công việc, góp phần hạn chế tệ tham ô, nhận hối lộ, tham nhũng; tạo động lực, kích thích sự phấn đấu vươn lên và góp phần thu hút người có đức, có tài vào bộ máy lãnh đạo, quản lý các cấp.
Thứ sáu, Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ về chất lượng, hiệu quả công việc, về tư tưởng, lập trường. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với cấp dưới trong việc giáo dục, quản lý cán bộ; kịp thời kiểm tra, xử lý các vụ việc có liên quan đến cán bộ để đảm bảo một môi trường làm việc công bằng, tạo động lực làm việc hiệu quả cho đội ngũ cán bộ.
4.2.8. Hoàn thiện công tác thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng
Hiện nay, tình trạng thiếu an toàn và chất lượng tín dụng thấp của nhiều TCTD vẫn diễn ra trên thị trường. Để khắc phục tình trạng này và đảm bảo an toàn, nâng cao chất lượng tín dụng, NHNN cần xây dựng hệ thống thanh tra, giám sát các TCTD hiện đại và hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của hệ thống TCTD Lào, bên cạnh đó đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng.
Để tăng cường chất lượng công tác thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng và
các TCTD khác, Ngân hàng Nhà nước Lào cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, Đảm bảo các yếu tố tiên quyết cho công tác thanh tra và giám sát hệ
thống ngân hàng.
- Xây dựng và ban hành Luật thanh tra, giám sát ngân hàng để tạo cơ sở vững chắc và rõ ràng cho hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Luật giám sát an toàn hoạt động ngân hàng cần được xây dựng trên nguyên tắc cải thiện tính độc lập, nâng cao tinh thần trách nhiệm và minh bạch của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng.
- Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy thanh tra theo chiều dọc từ NHNN tới các chi nhánh. Mặt khác có thể tăng tính độc lập cho hoạt động thanh tra và giám sát thông qua việc thành lập Cơ quan thanh tra giám sát để thực hiện đầy đủ các chức năng cấp phép, ban hành quy chế an toàn hoạt động ngân hàng, giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ, xử lý vi phạm. Cần phải đảm bảo Cơ quan thanh tra giám sát có đầy đủ quyền hạn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bao gồm: yêu cầu báo cáo thông tin, thực hiện các nghiệp vụ thanh tra, kiến nghị xử lý, và thực hiện xử lýmột cách độc lập và khách quan.
198
Thứ hai, Đổi mới phương pháp thanh tra, giám sát ngân hàng.
- Cần kết hợp chặt chẽ phương thức thanh tra, giám sát từ xa và thanh tra tại
chỗ của NHNN đối với các ngân hàng.
- Đổi mới phương thức thanh tra, giám sát theo hướng phù hợp với thông lệ
- Hoàn thiện hệ thống quy chế quản lý và biện pháp thận trọng trong lĩnh vực ngân hàng theo hướng phù hợp với nguyên tắc thị trường và cam kết mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng; Tạo ra sân chơi bình đẳng, loại bỏ các rào cản gia nhập thị trường và tiếp cận dịch vụ ngân hàng trước đây.
- Xây dựng thể chế giám sát ngân hàng đi đôi với thực hiện cơ chế giám sát dựa
quốc tế, nghiên cứu áp dụng chuẩn mực thanh tra ngân hàng thế giới Basel II.
trên cơ sở rủi ro.
- Đổi mới hệ thống kế toán ngân hàng phù hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế, tạo điều kiện cho các ngân hàng áp dụng công nghệ quản trị ngân hàng hiện đại và tạo rào chắn chống lại sự lạm dụng và gian lận.
- Tăng cường quy chế công bố thông tin, nâng cao chất lượng và mức độ tin cậy của thông tin thông qua cải thiện chất lượng và hiệu quả của kiểm toán độc lập. NHNN cần phải yêu cầu các NHTM công khai thông tin đầy đủ, kịp thời và minh bạch theo nguyên tắc thị trường bao gồm các tài liệu, thông tin, báo cáo về tình hình hoạt động kinh doanh theo định kỳ hay đột xuất. Thông qua đó, NHNN sẽ kịp thời có các biện pháp chấn chỉnh vi phạm, đảm bảo an toàn trong toàn hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, NHNN có thể áp dụng “Hệ thống cảnh báo sớm” nhằm dự báo sớm rủi ro trong hệ thống ngân hàng để kịp thời có biện pháp xử lý.
- Giảm thiểu sử dụng công cụ nâng cao uy tín báo cáo tài chính ngân hàng bằng nguồn chi phí trước thuế để giải quyết nợ khó đòi ngoại bảng, đồng thời nên đề ra cơ chế rõ ràng nhằm tăng cường thu hồi các khoản tín dụng ngoại bảng.
- Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng cần tăng cường trao đổi thông tin và phối hợp với các cơ quan giám sát tài chính trong và ngoài nước trong việc triển khai giám sát các ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ Lào.
- Đổi mới Thanh tra ngân hàng trên cơ sở chương trình, kế hoạch, có chiến lược
phát triển rõ ràng, gắn với nâng cao năng lực tự quản trị của hệ thống ngân hàng.
- Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm các quy định về hoạt động ngân hàng như: vi phạm về biên độ tỷ giá, về trần lãi suất trong cho vay hỗ trợ lãi suất, vi phạm
199
của các đại lý thu đổi ngoại tệ... nhằm củng cố và chấn chỉnh lại kỷ cương thị trường tín dụng.
Thứ ba, Nâng cao trình độ và khả năng của hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng.
- Chú trọng nâng cao trình độ nghiệp vụ của thanh tra viên, trong đó tập trung vào kỹ năng quản trị rủi ro, công nghệ ngân hàng và dịch vụ tài chính mới, quản trị ngân hàng hiện đại, kỹ năng phân tích tài chính, hoạt động NHTM.
- Có chế độ đãi ngộ phù hợp đối với những thanh tra viên có năng lực, trình độ chuyên môn giỏi đồng thời xử lý nghiêm những vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong quá trình hoạt động của đội ngũ thanh tra viên.
Thứ tư, Tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ công tác thanh tra, giám sát hệ thống
ngân hàng, cụ thể:
- Đảm bảo hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý bởi đây là nền tảng cho
một thị trường tài chính ổn định.
- Đảm bảo kết cấu hạ tầng công cộng phát triển tốt, bao gồm:
+ Hệ thống các luật doanh nghiệp, bao gồm luật hợp nhất, luật phá sản, luật bảo vệ người tiêu dùng và luật tài sản cá nhân… được thi hành nghiêm chỉnh và là cơ sở để giải quyết ổn thoả những tranh chấp.
+ Hệ thống chuẩn mực kế toán toàn diện, được quốc tế chấp nhận;
+ Bộ máy tư pháp hoạt động hiệu quả và độc lập.
+ Hệ thống kế toán, kiểm toán được kiểm soát tốt và ngành luật phát triển;
+ Hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng thanh toán được hiện đại hóa.
+ Thị trường hiệu quả: các chủ thể tham gia thị trường nắm được thông tin một cách tương đối đầy đủ, hạn chế tình trạng thông tin mất cân xứng làm ảnh hưởng đến quyết định của chủ thể tham gia thị trường.
4.2.9. Nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tín dụng của Ngân hàng Nhà
nước Lào
Trong điều hành chính sách tín dụng, cần có sự tách bạch giữa chức năng kiểm
tra, giám sát, đảm bảo an toàn tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng của Ngân hàng
Nhà nước với chức năng hoạt động kinh doanh của các NHTM. Bên cạnh đó, trong bối
cảnh CHDCND Lào đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, những cơ hội
và thách thức ngày càng nhiều đối với vấn đề kiểm soát luồng vốn, điều tiết lượng
tiền, lãi suất và tỷ giá… trước những biến động mạnh và thường xuyên của thị trường
tài chính quốc tế cũng như sự vận hành ngày càng phức tạp và đa dạng hơn của thị
200
trường tài chính trong nước, NHNN Lào cần phải linh hoạt, chủ động trong điều hành
chính sách để ứng phó với biến động bất lợi và tận dụng cơ hội từ bên ngoài.
Chính sách tín dụng do Ngân hàng Nhà nước đặt ra đóng vai trò cơ sở, nền
tảng, định hướng cho các tổ chức tín dụng xác định mục tiêu, cơ cấu huy động vốn và
cho vay. Do đó, nhóm chính sách này cần được hoạch định phù hợp với mục tiêu tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu phân bố nguồn lực, cơ cấu thị trường và
thay đổi cơ cấu sản phẩm.
Về cơ chế tín dụng, NHNN cần tiếp tục rà soát lại toàn bộ quy định hiện hành
về chế độ và thể lệ tín dụng. Thể lệ tín dụng là khung pháp lý quy định chung về tất cả
các loại hình, các phương thức cấp tín dụng cả bằng đồng Kíp và bằng ngoại tệ, đồng
thời có thể quy định rõ cơ chế quản lý và điều hành nguồn vốn. Thể lệ tín dụng cần
được xây dựng theo hướng mang tính chất khuôn khổ pháp lý chung cho tất cả loại
hình tín dụng trên thị trường, không nên quy định quá chi tiết về các nghiệp vụ kinh
doanh của các TCTD để hạn chế sự can thiệp quá sâu của NHNN vào hoạt động kinh
doanh của các TCTD đồng thời tăng sự chủ động cho các TCTD này. Bên cạnh dó, thể
lệ tín dụng nên được xây dựng theo hướng chỉ quy định những điều hạn chế hoặc
không được thực hiện, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng phát triển thêm nhiều sản
phẩm tín dụng mới như: cho vay trực tiếp, chiết khấu thương phiếu, cho vay dự án,
hợp vốn đồng tài trợ, cho thuê tài chính, bảo lãnh, tín dụng tiêu dùng, tín dụng ứng
trước, tín dụng trả góp... Đối với tín dụng đầu tư ưu đãi và tín đụng chính sách phải
dựa trên cơ sở kế hoạch hoá và quản lý chặt chẽ theo phương thức như đối với vốn tín
dụng ngân hàng; Đảm bảo các nguyên tắc cơ bản trong cho vay bao gồm: cho vay theo
thứ tự ưu tiên về mức độ hiệu quả và nhu cầu cấp thiết của các dự án đầu tư xây dựng
cơ bản; cho vay có lựa chọn những đối tượng chính sách xã hội thực sự cần thiết hỗ trợ
bằng tín dụng chính sách. Về cơ chế quản lý vốn tín dụng, NHNN cần phải quy định
rõ quy trình kiểm tra, kiểm soát, trách nhiệm dân sự và xử lý vi phạm hợp đồng tín
dụng theo luật pháp để các TCTD thực hiện.
Về cơ chế huy động vốn, Nhà nước Lào cần đảm bảo quyền lợi của người gửi
tiền bằng việc phát triển phương thức bảo hiểm tiền gửi của cơ quan Bảo hiểm tiền gửi
đã được thành lập; Ràng buộc trách nhiệm của TCTD trong việc chi trả tiền gửi, trách
nhiệm của khách hàng trong việc bảo quản lưu giữ các chứng chỉ, thẻ tiền gửi.
201
4.2.10. Tăng cường vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước trong vấn đề
kết nối giữa các tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp trong nền kinh tế
Có thể nói việc tăng cường mối quan hệ giữa các TCTD và các doanh nghiệp
trong nền kinh tế sẽ là một bước đi quan trọng nhằm tạo nên sự phát triển của lĩnh vực
dịch vụ tín dụng cũng như đảm bảo cho sự phát triển các doanh nghiệp thuộc nhiều
lĩnh vực trong nền kinh tế. Để tăng cường mối quan hệ giữa các TCTD với các doanh
nghiệp trong nền kinh tế quốc dân tại CHDCND Lào trong thời gian tới, Nhà nước
CHDCND Lào cần thực hiện những biện pháp sau:
- Phát triển thị trường tín dụng dành cho SME thông qua việc đa dạng hóa nhà
cung cấp, tăng cường cạnh tranh trên thị trường nhằm nâng cao năng lực cho vay và
hình thành các sản phẩm mới.
- Đẩy mạnh tái cơ cấu các TCTD nhằm nâng cao năng lực hoạt động cũng như
năng lực cho vay của các TCTD, qua đó, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững.
Đẩy mạnh việc cơ cấu lại các công ty cho thuê tài chính, công ty tài chính, nâng cao
năng lực quản trị, điều hành, năng lực tài chính để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt
động, tạo ra những kênh cung cấp tín dụng mới và phù hợp cho các SME. Hoàn thiện
cơ chế quản lý và nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô, các
quỹ tín dụng nhân dân, để khuyến khích các tổ chức này có thể vươn đến nhóm khách
hàng là các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp hộ gia đình.
- NHNN phối hợp với các bộ chuyên ngành, hỗ trợ các NHTM trong việc phát
triển hoạt động cho vay khép kín từ khâu vay thu mua, sản xuất đến khâu chế biến và
xuất khẩu cho các nhóm SME có liên kết với nhau theo cùng một chuỗi, tăng cường
cung cấp thông tin và chủ trương phát triển ngành đó cho ngân hàng.
- NHNN hỗ trợ việc xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng của các TCTD
thông qua việc triển khai nghiên cứu ban đầu để lượng hóa rủi ro trong thị trường cho
vay các SME, dựa trên dữ liệu cho vay SME của toàn ngành để xác định tỷ lệ vỡ nợ
trung bình, các đặc trưng cơ bản ảnh hưởng đến mức độ rủi ro trong cho vay đối với
SME, từ đó làm thông tin đầu vào giúp các TCTD dự báo rủi ro, thiết lập mô hình
chấm điểm tín dụng của riêng mình.
- Xây dựng và phát triển các chương trình đào tạo về quản lý rủi ro, phân tích
quản trị rủi ro đối với cho vay SME cho đội ngũ cán bộ về quản trị rủi ro tại các
TCTD. Hỗ trợ cán bộ tín dụng ngân hàng nâng cao kiến thức về doanh nghiệp, các
ngành kinh tế để có đánh giá chính xác hơn trong quá trình thẩm định tín dụng.
202
- Nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tín dụng đối với SME: (i) Mở rộng và
nâng cao năng lực tài chính cho các Quỹ bảo lãnh tín dụng SME đã được thành lập và
tạo nguồn vốn để hình thành các quỹ địa phương mới; (ii) Sửa đổi quy chế bảo lãnh
của các Quỹ bảo lãnh tín dụng SME hiện nay theo hướng: giảm thiểu các thủ tục hành
chính và tăng cường sự tư vấn hỗ trợ cho doanh nghiệp trong hoạt động thẩm định các
hồ sơ xin bảo lãnh tín dụng; phối hợp với TCTD cho doanh nghiệp vay tăng cường
kiểm soát sau khi cho vay; (iii) Nâng cao chất lượng cán bộ để xây dựng quỹ hoạt
động hiệu quả; (iv) Tăng cường khả năng thu thập thông tin sâu về khách hàng và
thẩm định dự án, có cơ chế xử lý rủi ro phù hợ; (v) Mở rộng thêm các nghiệp vụ như
tư vấn, quản lý tài chính… nhằm tăng thêm nguồn thu cho quỹ và tạo sự thuận lợi cho
doanh nghiệp, thiết lập quan hệ sâu rộng với các hiệp hội ngành nghề để có thể thiết kế
các sản phẩm phù hợp; (vi) Tăng cường phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHNN trong
việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho SME, các cấp chính
quyền địa phương hỗ trợ kết nối giữa Quỹ bảo lãnh tín dụng SME và các TCTD tại địa
phương; (vii) Khuyến khích thành lập các loại quỹ khác như Quỹ khởi nghiệp, Quỹ
vườn ươm doanh nghiệp nhằm khuyến khích sự tham gia đầu tư vào các doanh nghiệp
mới thành lập.
- Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ phát triển cho các SME: (i) Mở rộng các hoạt
động tư vấn/hỗ trợ đào tạo nâng cao năng lực SME, tăng cường vai trò của các hiệp
hội doanh nghiệp trong hoạt động hỗ trợ đào tạo; (ii) Bổ sung các nội dung về xây
dựng kế hoạch kinh doanh và quản lý dòng tiền trong các nội dung đào tạo nâng cao
năng lực cho SME đang được triển khai; (iii) Xây dựng tài liệu hướng dẫn và phổ biến
kiến thức về xây dựng hồ sơ vay vốn tại các TCTD để cung cấp cho các SME; (iv)
Thông qua hoạt động tuyên truyền, nâng cao hiểu biết của doanh nghiệp về trách
nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin cho TCTD khi tham gia các quan hệ tín dụng.
4.3. Kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào
4.3.1. Kiến nghị đối với các tổ chức tín dụng tại CHDCND Lào
Thứ nhất, Để tăng cường nguồn vốn phục vụ cho nền kinh tế tăng trưởng và
phát triển bền vững, các TCTD cần đẩy mạnh việc huy động vốn, nhất là nguồn vốn
trung và dài hạn, thông qua các biện pháp sau:
- Phát hành trái phiếu trung và dài hạn: Các ngân hàng lớn, có năng lực kinh
doanh, có uy tín trong xã hội có thể xem xét tăng lượng phát hành trái phiếu ngân
203
hàng để huy động vốn trong dân cư. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, các ngân
hàng cần phải cân nhắc các điều kiện thực tế và đặc biệt phải tính đến việc sử dụng
có hiệu quả các nguồn vốn này, tránh sự huy động ồ ạt, tạo gánh nặng cho tương
lai, mặc khác, cần phát triển thị trường thứ cấp để đảm bảo tính thanh khoản cao
cho các loại sản phẩm này.
- Tăng cường huy động các tài khoản tiền gửi: Các ngân hàng cần phải khuyến
khích người dân mở tài khoản tại các ngân hàng và khuyến khích thực hiện các giao
dịch không dùng tiền mặt. Để làm được điều này, các ngân hàng phải áp dụng mức lãi
suất có tính cạnh tranh, cùng với chính sách lãi suất linh hoạt, ưu đãi các khách hàng
có quan hệ tín dụng lâu dài, uy tín; Tạo ra các sản phẩm tiết kiệm mới với thời gian
đáo hạn tương đối dài, như phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát triển các loại hình tiết
kiệm gắn với các khoản vay như tiết kiệm tuổi già, tiết kiệm mua nhà...; Có các biện
pháp marketing phù hợp để thu hút khách hàng như khuyến mãi tặng quà, tiết kiệm dự
thưởng...; Hoàn thiện công nghệ thanh toán để đưa ra những dịch vụ ngân hàng với
chất lượng cao, giá rẻ; Cải thiện các điều kiện giao dịch theo hướng tạo điều kiện
thuận lợi và phù hợp hơn với yêu cầu của khách hàng...
Thứ hai, Các TCTD cần đẩy mạnh công tác tiếp thị, thông tin kịp thời đến
khách hàng về ngân hàng và các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, chủ động tìm kiếm
các dự án, tìm kiếm khách hàng và tư vấn cho khách hàng trong việc lựa chọn phương
án kinh doanh… Bên cạnh đó, mỗi TCTD cần phải nghiên cứu khách hàng và chiến
lược của đối thủ cạnh tranh để nắm rõ nhu cầu hiện tại của khách hàng và cách thức
phản ứng của đối thủ cạnh tranh, từ đó đề ra chính sách phù hợp.
Thứ ba, Các TCTD cần thực hiện tốt và hiệu quả việc phân tích và xếp loại
khách hàng để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. Việc phân tích khách hàng
nên thực hiện trên cả hai khía cạnh: Phân tích tài chính và Phân tích phi tài chính. Sau
khi phân tích, Ngân hàng cần tiến hàng xếp loại khách hàng dựa trên những tiêu chí
nhất định. Từ đó đánh giá các khoản vay, khả năng trả nợ...để đảm bảo khả năng thu
hồi vốn và độ an toàn trong hoạt động tín dụng.
Thứ tư, Các TCTD cần mở rộng tín dụng đầu tư phục vụ quá trình tăng trưởng
và phát triển kinh tế, trong đó đặc biệt chú trọng mở rộng tín dụng trung và dài hạn.
Để làm được điều đó, cần tập trung tín dụng vào các dự án mang tính khả thi cao nằm
trong chương trình phát triển kinh tế của từng vùng, từng ngành kinh tế. Đồng thời,
đẩy mạnh chương trình hỗ trợ vốn đối với tín dụng vốn nông thôn và các dự án, đơn vị
204
sản xuất hàng xuất khẩu bằng cách cải tiến thủ thục cho vay, mức vốn và thời hạn cho
vay, song phải đảm bảo hiệu quả tín dụng và tăng cường khả năng thu hồi vốn đối với
những đối tượng cho vay này.
Thứ năm, Các TCTD cần quản lí chặt chẽ cơ cấu tín dụng thông qua các biện pháp:
- Thực hiện đúng các chỉ tiêu được giao để đạt được kết quả kinh tế, phân tán
rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh
- Tiếp tục quản lý và cải thiện danh mục tín dụng, sàng lọc khách hàng hiện tại
để đạt mục tiêu tăng tỷ trọng cho vay có tài sản đảm bảo.
- Tăng cường kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế việc phát sinh nợ xấu.
- Định hướng cho vay có tài sản đảm bảo hay tài sản thế chấp để giảm thiểu rủi
ro tín dụng.
Thứ sáu, Các TCTD cần tích cực giải quyết các khoản nợ quá hạn như giải tỏa
các tài sản thế chấp thu hồi vốn, xử lý các khoản nợ quá hạn của ngân hàng theo quy
định của Chính phủ,…
Thứ bảy, Các TCTD cần nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công nhân viên
thông qua các hoạt động:
- Nâng cao trình độ chuyên môn của nhân viên Ngân hàng, đặc biệt là chuyên
viên thẩm định.
- Định kỳ tổ chức các cuộc thi về nghiệp vụ chuyên sâu nhằm khuyến khích
nhân viên tự học tập, trau dồi kiến thức.
- Bổ sung thêm kiến thức về các lĩnh vực kinh doanh khác để phục vụ tốt cho
công việc của nhân viên.
- Tạo cơ hội cho nhân viên tiếp xúc trao đổi kinh nghiệm trong công việc.
- Tạo môi trường làm việc thuận lợi để nhân viên có thể phát huy năng lực và
tính sáng tạo của mình.
- Chú trọng nâng cao nhận thức và đạo đức nghề nghiệp cho nhân viên.
- Xây dựng chế độ lương, thưởng, thu nhập, đề bạt xứng đáng với kết quả làm
việc của nhân viên; mặt khác cần xử lý công bằng, khách quan những hành vi vi phạm
quy định, nội quy để đảm bảo tính răn đe.
205
Thứ tám, Các TCTD cần tăng cường liên kết với nhau cũng như liên kết với
các đối tác khác trong nền kinh tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh
CHDCND Lào đang đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong bối cảnh mở cửa thị trường sâu rộng, mức độ cạnh tranh tranh trên thị
trường tài chính - ngân hàng ngày càng quyết liệt. Do đó, để củng cố thị phần cũng
như cạnh tranh được với những đối thủ lớn đến từ nước ngoài, các ngân hàng nội địa
của các quốc gia trên thế giới có xu hướng đẩy mạnh liên kết với nhau. Việc liên kết
có thể diễn ra giữa ngân hàng lớn và ngân hàng nhỏ hoặc giữa các ngân hàng lớn với
nhau hoặc giữa các ngân hàng nhỏ với nhau. Trong liên kết giữa ngân hàng lớn và
ngân hàng nhỏ, ngân hàng nhỏ có được thêm uy tín, thêm sức mạnh về tài chính, thêm
khách hàng. Thêm vào đó, việc liên kết này góp phần tạo thêm sức mạnh cho các ngân
hàng trong nước củng cố thị phần, củng cố thương hiệu, mở rộng kênh phân phối, đẩy
mạnh thu hút khách hàng, phát triển các sản phẩm dịch vụ, gia tăng năng lực tài chính
và kinh nghiệm tổ chức quản lý. Từ đó, các ngân hàng có thể tận dụng tốt những cơ
hội trong quá trình hội nhập, khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh “trên sân nhà”.
Trong thời gian tới, các ngân hàng của Lào cần chủ động tìm kiếm các đối tác
chiến lược từ các ngân hàng trong nước và đẩy mạnh liên kết, hợp tác theo các hướng
hỗ trợ nhau trong quá trình thiết kế sản phẩm, hợp tác trong phát hành và thanh toán
thẻ ghi nợ, trong lĩnh vực đào tạo nghiệp vụ và phát triển các công nghệ ngân hàng,
liên kết đầu tư, tài trợ cho các dự án hoặc cung cấp một dịch vụ nào đó.... Đây là một
hành động phù hợp với xu thế của thị trường và định hướng phát triển của ngành ngân
hàng Lào trong thời gian tới.
Bên cạnh việc hợp tác với các ngân hàng, các NHTM Lào cũng có thể đa dạng
hóa sản phẩm dịch vụ tín dụng trên cơ sở hợp tác với các đối tác khác trong nền kinh
tế. Một ví dụ là mô hình liên kết giữa ngân hàng và bảo hiểm (bancassurance) mang lại
những thuận lợi lớn nhờ kết hợp ưu thế của 2 loại hình tài chính, cho phép phân phối
sản phẩm qua lại trên các kênh của nhau, tạo ra những sản phẩm phù hợp với khách
hàng hiện hữu của ngân hàng và ngược lại. Mô hình này có thể so sánh với mô hình
“one-stop shop” trong lĩnh vực tài chính cá nhân. Khách hàng vừa được cung cấp các
sản phẩm tài chính từ ngân hàng, vừa có cơ hội tiếp cận các sản phẩm bảo hiểm.
Giống xu thế cửa hàng tiện lợi, việc tập trung các sản phẩm tài chính, bảo hiểm về một
chỗ sẽ mang lại sự thuận tiện cho khách hàng.
206
Thứ chín, Các TCTD cần đẩy mạnh mối quan hệ với các doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế, do trong mối quan hệ hợp tác
cùng phát triển, TCTD và doanh nghiệp là những đối tác quan trọng, có ý nghĩa quyết
định đến sự thành bại của nhau.
Hiện nay, mối quan hệ giữa các ngân hàng với doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, tại Lào là chưa tốt. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phản ánh
TCTD không tạo điều kiện cho vay còn các TCTD cho rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ
không đủ điều kiện để vay hoặc do lãi suất cao nên không vay. Để giải quyết vấn đề
này, các TCTD cần thực hiện những bước đi sau:
- Các TCTD cần tiếp tục cải tiến, hoàn thiện các thể lệ, quy chế, quy trình tín
dụng, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trên cả hai mặt của quá trình hoạt động
là huy động vốn và cho vay vốn trên cơ sở vốn đã huy động được. Đồng thời, các ngân
hàng cần đa dạng hoá các phương pháp tiếp cận doanh nghiệp nhằm gia tăng khả năng
thu thập thông tin và giảm thiểu rủi ro các khoản cho vay của doanh nghiệp.
- Tăng cường nhận thức của các nhân viên ngân hàng về mối quan hệ tín dụng
giữa ngân hàng với các SME, để họ thấy được đó là quan hệ tác động qua lại trong quá
trình hoạt động sản xuất - kinh doanh. Các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ nhưng số
lượng lại chiếm phần đông nên vẫn có thể tạo ra thị trường tín dụng lớn. Bên cạnh đó,
các cán bộ này cần nhận thức được rằng những tồn tại, yếu kém trong mối quan hệ tín
dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp không chỉ về phía các doanh nghiệp, mà còn về
phía các ngân hàng. Việc thiếu hiểu biết về đặc điểm hoạt động của các SME dẫn đến
việc xây dựng các quy trình và thủ tục cho vay không hợp lý và do đó, làm cản trở
hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
- Các TCTD cần nghiên cứu phát triển các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của
SME, đặc biệt là các sản phẩm cho vay ngắn hạn có thủ tục đơn giản, thời hạn giải
ngân nhanh; các dịch vụ tư vấn lập kế hoạch/phương án sản xuất kinh doanh, quản lý
tài chính, quản lý dòng tiền; thiết lập các phương thức kết hợp với các sản phẩm ngân
hàng hiện tại như kết hợp dịch vụ cho SME với các dịch vụ ngân hàng cá nhân của chủ
sở hữu doanh nghiệp.
- Dựa trên cơ sở chất lượng thông tin doanh nghiệp được nâng lên và mối quan
hệ ngân hàng – doanh nghiệp chặt chẽ, các TCTD nghiên cứu phát triển các sản phẩm
tín dụng không yêu cầu tài sản đảm bảo đối với SME.
207
- Nâng cao chất lượng hệ thống chấm điểm tín dụng của các TCTD và năng lực
thẩm định của cán bộ tín dụng, nhằm tăng cường chất lượng cho vay, giảm tỷ lệ nợ
xấu, rút ngắn thời gian thẩm định tín dụng. Đặc biệt, các TCTD nên xây dựng hệ thống
chấm điểm tín dụng riêng biệt cho các khách hàng là SME, trong đó ưu tiên sử dụng
các phương thức chấm điểm tự động như thẻ chấm điểm tín dụng (score card).
- Các TCTD nên thành lập một bộ phận riêng nhằm hỗ trợ tối đa cho SME
trong quá trình vay vốn. Bộ phận này có nhiệm vụ cập nhật, cung cấp đầy đủ các
thông tin tin cậy về tài chính ngân hàng, các thông tin liên quan đến lĩnh vực hoạt
động sản xuất kinh doanh của các SME qua một số kênh như: Tư vấn trực tiếp qua cán
bộ quan hệ khách hàng; thông qua các hội nghị, hội thảo về giải pháp tín dụng.
4.3.2. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp và cá nhân tại CHDCND Lào
4.3.2.1. Đối với các doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp cần phải luôn nỗ lực để nâng cao năng lực quản trị, nâng
cao trình độ khoa học công nghệ cũng như chất lượng nguồn nhân lực, chủ động trong
việc xây dựng dự án, phương thức đầu tư phù hợp với năng lực về vốn, công nghệ và
con người.
- Doanh nghiệp phải tạo uy tín với Ngân hàng: thanh toán nợ đúng hẹn, lập các
báo cáo tài chính đầy đủ, minh bạch, đảm bảo tỷ lệ nợ trên tài sản ở mức hợp lý.
- Tài sản đảm bảo của doanh nghiệp được định giá cao hay thấp là tùy vào chất
lượng và tính thanh khoản của chúng. Do đó, doanh nghiệp cần phải chứng minh được
tài sản đảm bảo của mình có tính thanh khoản cao.
- Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế, để có thể
tiếp cận với nguồn vốn tín dụng dễ dàng hơn trong thời gian tới, cần phải có những cải
thiện cụ thể như sau:
+ Nâng cao chất lượng thông tin tài chính. Các SME cần quan tâm đầu tư
đúng mức xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu quả, tổ chức hệ thống thông tin
tài chính trung thực, khách quan và minh bạch. Ngoài việc vận dụng báo cáo tài chính,
một trong những phương án khả thi là xây dựng hệ thống báo cáo nhanh bao gồm các
chỉ tiêu thể hiện rõ khả năng thanh toán của các doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này có
thể dựa trên một phạm vi hẹp trên cơ sở đánh giá khả năng sinh lời, các tài sản kinh
doanh và tài sản cá nhân.
208
+ Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, xây dựng được những dự án và
phương án sản xuất – kinh doanh khả thi, hiệu quả.
+ Thực hiện cơ cấu lại tổ chức, ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại vào
sản xuất - kinh doanh, đẩy mạnh liên kết với các doanh nghiệp khác nhằm tăng cường
4.3.2.2. Đối với các cá nhân
năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Về cơ bản, để có thể vay vốn tín dụng ngân hàng, các cá nhân cần chú ý để đảm
bảo được những yêu cầu sau:
- Có đầy đủ năng lực pháp lý được thể hiện qua năng lực pháp luật dân sự, hành
vi dân sự và có đủ tư cách để chịu trách nhiệm về dân sự theo quy định của pháp luật.
- Có mục đích vay vốn hợp pháp và phù hợp với chính sách của ngân hàng.
- Có phương án sử dụng vốn hiệu quả
- Chứng minh được năng lực tài chính cá nhân và khả năng hoàn trả tiền vay
đầy đủ và đúng hạn.
- Không có điểm đen trong lịch sử tín dụng như lừa đảo, chiếm đoạt,…
- Không có nợ quá hạn từ nhóm 2 trở lên tại các ngân hàng.
209
Kết luận Chương 4
Nội dung Chương 4 tập trung trình bày định hướng phát triển dịch vụ tín dụng
và quan điểm hoàn thiện chính sách phát triển tín dụng của CHDCND Lào trong thời
gian tới. Trên cơ sở đó, Chương 4 đã đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách
phát triển tín dụng trên các góc độ: Hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà
nước; Quy định rõ vai trò, trách nhiệm quản lý trong lĩnh vực tín dụng của các cơ quan
quản lý Nhà nước và tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan; Hoàn thiện quy
trình hoạch định, ban hành và thực thi chính sách; Hoàn thiện nội dung chính sách
phát triển dịch vụ tín dụng; Hoàn thiện hệ thống công cụ thực hiện chính sách phát
triển dịch vụ tín dụng; Hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý; Tăng cường năng lực
đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước; Hoàn thiện công tác thanh tra, giám sát hệ thống
ngân hàng; Nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tín dụng của Ngân hàng Nhà nước
Lào; Tăng cường vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước trong vấn đề kết nối giữa
các TCTD với các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nhìn chung, hệ thống chính sách
Nhà nước về phát triển tín dụng cần phát triển theo hướng đảm bảo tính đồng bộ giữa
các quy định; tính minh bạch; tính phù hợp giữa hệ thống chính sách với mục tiêu
phát triển kinh tế đất nước và những cam kết trong hội nhập; tính công bằng giữa các
thành phần kinh tế; tính bền vững của chính sách và tính kịp thời của việc ban hành
các văn bản hướng dẫn thực hiện. Mặt khác, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
của Ngân hàng Nhà nước đối với hệ thống NHTM cũng cần được chú trọng và triển
khai hiệu quả nhằm nâng cao mức độ an toàn của hệ thống tín dụng và chất lượng
vốn tín dụng, giảm tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu và mất vốn đối với các NHTM. Bên cạnh
đó, các TCTD và các doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng cần chủ động trong việc
nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của mình.
210
KẾT LUẬN
Luận án đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ tín dụng và phát triển dịch vụ tín dụng, làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển dịch vụ tín dụng trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, Luận án cũng đã tổng kết bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng chính sách nhằm phát triển dịch vụ tín dụng ở một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới, từ đó, rút ra các bài học kinh nghiệm cho Lào. Có thể thấy dịch vụ tín dụng tại Lào đã có sự phát triển nhanh chóng trong những năm qua với sự gia tăng của các tổ chức tín dụng, sự gia tăng sản phẩm tín dụng và sự chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng hợp lý. Tuy nhiên, đánh giá về hệ thống chính sách phát triển tín dụng vẫn cho thấy bên cạnh những thành tựu vẫn còn tồn tại những hạn chế về tính hiệu lực của chính sách; mức độ phù hợp của chính sách; tính công bằng giữa các thành phần kinh tế; mức độ bền vững trong chính sách phát triển dịch vụ tín dụng; tính rõ ràng, minh bạch và ổn định của chính sách cho cả đối tượng cung cấp dịch vụ tín dụng lẫn các đối tượng hưởng thụ; tính kịp thời trong ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện. Để hoàn thiện chính sách phát triển tín dụng cần có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan chức năng, từ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư…. và hệ thống giải pháp trên nhiều góc độ: Hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước; Quy định rõ vai trò, trách nhiệm quản lý trong lĩnh vực tín dụng của các cơ quan quản lý Nhà nước và tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan; Hoàn thiện quy trình hoạch định, ban hành và thực thi chính sách; Hoàn thiện nội dung chính sách phát triển dịch vụ tín dụng; Hoàn thiện hệ thống công cụ thực hiện chính sách phát triển dịch vụ tín dụng; Hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý; Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước; Hoàn thiện công tác thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng; Nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Lào; Tăng cường vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước trong vấn đề kết nối giữa các TCTD với các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Thêm vào đó, để thúc đẩy sự phát triển lĩnh vực tín dụng tại nước CHDCND Lào, bên cạnh những nỗ lực từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước, bản thân các TCTD và các doanh nghiệp, tổ chức vay vốn tín dụng trong nền kinh tế cũng cần chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh và đẩy mạnh thiết lập mối quan hệ giữa các TCTD với doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như giữa các TCTD và giữa TCTD với các tổ chức kinh tế khác nhằm phát triển sản phẩm dịch vụ tín dụng và khai thác được nhiều cơ hội kinh doanh mới.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Vongsay Soukthavone, Trần Đăng Khâm (2014), "Kinh nghiệm quốc tế về hệ thống chính sách của Nhà nước nhằm khơi thông nguồn vốn tín dụng". Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia “Khơi thông nguồn vốn cho phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (Tập II), NXB ĐHKTQD, Hà Nội tháng 12/2014.
2. Vongsay Soukthavone, Trần Đăng Khâm (2015), "Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện chính sách của Nhà nước về phát triển dịch vụ tín dụng ở CHDCND Lào".Tạp chí Ngân hàng số 12 tháng 6 năm 2015.
3. Vongsay Soukthavone (2015), "Hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ tín dụng ở
nước CHDCND Lào" . Tạp chí Kinh tế Dự báo số 21, tháng 11/2015.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Axel, G. S. and Selbherr, G. (2013), Tasks, Organization and Economic
Benefits of German Guarantee Banks, Small and Medium Enterprise Credit
Guarantee Fund of Taiwan, truy cập ngày 02 tháng 06 năm 2013, từ
http://www.smeg.org.tw/doc/JSD-11-3.pdf .
[2] Bạch Văn Mừng (2006), Phát triển thương mại dịch vụ trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
[3] Balaceanu, V. A. (2013) , Promoting banking services and products, Romanian
Academy national institute of economic research, truy cập ngày 02 tháng 06
năm 2013, từ
http://www.ince.ro/Balaceanu%20Arina_rezumat%20eng.pdf.
[4] Basel Committee on Banking Supervision (2011), Core Principles for Effective
Banking Supervision, Bank for International Settlements, truy cập ngày 02
tháng 06 năm 2013, từ http://www.bis.org/publ/bcbs213.pdf.
[5] Bethlendi, A. (2009), Studies on the Hungarian credit market, market trend,
macroeconomic and financial stability consequences, truy cập ngày 02 tháng 06
năm 2013, từ
https://repozitorium.omikk.bme.hu/bitstream/handle/10890/782/tezis_eng.pdf?s
equence=3&isAllowed=y.
[6] Bounyadeth, D. (2005), Economic reforms in Laos since 1986, Luận văn thạc sĩ
Kinh tế, Trường Đại học Tsukuba, Nhật Bản.
[7]
(ກະຊວງອຸດສາຫະກໍາ ແລະ ການຄ້າ ທະນາວິສາຫະກິດຂະໜາດໜ້ອຍ
2011-2015, ສົກປີ
Bộ Công thương Lào (2009), Chiến lược phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2011-2015, NXB Cục quản lý các doanh nghiệp nhỏ và vừa, CHDCND Lào. (2009), ແລະ ຍຸດທະສາດການພັດ ຂະໜາດກາງ ພີມໂດຍ ກົມຄຸ້ມຄອງວິສາຫະກິດຂະໜາດນ້ອຍ ແລະ ຂະໜາດກາງ, ສປປ
ລາວ).
[8] Bộ Công Thương Lào (2011), Văn kiện chính sách, pháp luật tổ chức nguồn gốc chính sách và các kết quả đạt được, NXB Cục Nội thương, CHDCND Lào
ເອກະສານນະໂຍບາຍ, (2011),
(ກະຊວງອຸດສາຫະກໍາ ແລະ ການຄ້າ ການບັງຄັບໃຊ້ກົດໝາຍ ແລະ ທີ່ເປັນຕົ້ນກໍາເນີດຂອງນະໂຍບາຍອົງກອນ ບັນດາໝາກຜົນທີ່ໄດ້ຮັບ, ພີມໂດຍ ກົມການຄ້າພາຍໃນ, ສປປ
ລາວ).
[9] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Thách thức đối với hội nhập của Lào, NXB Cục Kế hoạch, CHDCND Lào. (ກະຊວງແຜນການ ແລະ ການລົງທຶນ (2005), ຄວາມທ້າທາຍໃນການໂຮມໂຕຂອງ ສປປ ລາວ, ພີມໂດຍ ກົມແຜນການ, ສປປ ລາວ).
[10]
‘Bridge loans’ (2013), Scurity national capital, truy cập ngày 27/ tháng 09 năm 2013, từ http://www.sncloans.com/bridge-loans.php.
[11] ‘Bank credit noun-definition’ (2013), Cambridge dictionaries online, truy cập
ngày 02 tháng 06 năm 2013, từ
http://dictionary.cambridge.org/dictionary/business-english/bank-credit.
[12]
‘Credit Diversification’ (2008), Wikinvest, truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013, từ http://www.wikinvest.com/stock/U.S._Bancorp_%28USB%29/Credit_Diversifi cation.
[13] Central Bank of Malaysia (2013), Banking and Financial Institutions Act 1989,
truy cập ngày 02 tháng 06 năm 2013, từ
http://www.bnm.gov.my/documents/act/en_bafia.pdf.
[14] Chính phủ Lào (2000), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2000 – 2020, NXB Chính phủ, CHDCND Lào. (ລັດຖະບານແຫ່ງ ສປປ ລາວ (2000), ຍຸດທະສາດການພັດທະນາເສດຖະກິດ-ສັງ ຄົມ ສົກປີ 2000-2020,
ພີມໂດຍ ລັດຖະບານ, ສປປ ລາວ).
ສປປ ລາວ
[15] Chính phủ Lào (2006), Chiến lược phát triển thị trường vốn của CHDCND Lào giai đoạn 2006 – 2025,Nhà xuất bản Chính phủ, CHDCND Lào. (ລັດຖະບານແຫ່ງ (2006), ຍຸດທະສາດການພັດທະນາຕະຫຼາດທຶນຂອງ ສປປ ລາວ ສົກປີ
2006-2025, ພີມໂດຍ ລັດຖະບານ, ສປປ ລາວ).
[16] Chính phủ Lào (2015), Nghị định số 79/PM về Chiến lược phát triển thị trường vốn của CHDCND Lào giai đoạn 2006 – 2025, ban hành ngày 27/03/2015.
[17] Chính phủ Lào (2005), Văn kiện Phong trào xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển Kinh tế-Xã hội 30 năm (1975-2005), Nhà xuất bản Chính phủ,
CHDCND Lào. (ລັດຖະບານແຫ່ງ ສປປ ລາວ (2005),
ເອກະສານການດໍາເນີນການກໍ່ສ້າງ ແລະ ຈັດຕັ້ງປະ ຕິບັດ ແຜນພັດທະນາເສດຖະກິດ-ສັງຄົມໄລຍະ30 ປີ (1975-2005), ພີມໂດຍ
ລັດຖະບານ, ສປປ ລາວ).
[18] Chính phủ Lào (2001-2015), Văn kiện Kế hoạch phát triển Kinh tế-Xã hội giai đoạn (2001-2005, 2006-2010, 2011-2015), Nhà xuất bản Chính phủ, CHDCND Lào. ລັດຖະບານແຫ່ງ ສປປ ລາວ, ເອກະສານແຜນການພັດ ທະນາເສດ ຖະກິດ-ສັງຄົມ ສົກປີ (2001-2005, 2006-2010, 2011-2015), ພີມໂດຍ ລັດຖະບານ, ສປປ ລາວ.
[19] Dương Phú Hiệp (1998), Những thay đổi về văn hóa - xã hội trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường ở một số nước châu Á, Nhà xuất bản Khoa
học - xã hội, Hà Nội.
[20] Dobson, W. and Jacquet, P. (2002), Tự do hoá dịch vụ tài chính trong khuôn
khổ WTO: Kinh nghiệm của các nước, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
[21] ‘Definition of cash flow loan’ (2013), Investopedia, truy cập ngày 02 tháng 06
năm 2013, từ http://www.investopedia.com/terms/c/cashflowloan.asp.
[22] Đảng NDCM Lào (1986-2015), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, VIII, IX, CHDCND Lào. (ພັກປະຊາຊົນ ປະຕິວັດລາວ (1986-2015), ເອກະສານກອງປະຊຸມພັກທົ່ວປະເທດ ຄັ້ງທີ່ IV; VIII; IX, ສປປ
ລາວ).
[23] Đoàn Thị Thu Hà và Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2007), Giáo trình Chính sách
Kinh tế - Xã hội, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
[24] Good friend Marvin (2010), ‘Clarifying Central Bank Responsibilities for
Monetary Policy, Credit Policy and Financial Stabilit’, Carnegie Mellon
University and National Bureau of Economic Research Shadow.
[25] Hà Quang Đào và Võ Thị Kim Phương (2005), 'Phát triển dịch vụ tài chính của
hệ thông ngân hàng Việt Nam', Nghiên cứu kinh tế số 8, tr 15-20.
[26] Hilbers, P., Krueger, R., and Morett, M. (2000), New Tools for Assessing
Financial System Soundness, International Monetary Fund, truy cập ngày 02
tháng 06 năm 2013, từ
http://www.imf.org/external/pubs/ft/fandd/2000/09/hilbers.htm.
[27] Hoàng Đình Thắng (2012), 'Đổi mới tổ chức thanh tra ngân hàng theo quy định
của pháp luật về thanh tra’, Tạp chí thanh tra, truy cập ngày 25 tháng 06 năm
http://www.thanhtravietnam.vn/viVN/News/diendanthanhtra/2011/04/12119.aspx.
2012, từ
[28] Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng phối hợp Trung tâm từ điển
học. International Monetary Fund (IMF) (2014) ‘Lao People’s Democratic Republic: [29]
Staff report for the 2014 article IV consultation’, IMF country report số 15/45,
International Monetary Fund, Washington, D.C.
[30] Joseph, F. and Sinkey, JR. (1998), 'Financial management of the commercial
bank', University of Georgia, Athens.
[31] Kamp, A., Pfingsten, A., and Porath, D. (2013), 'Do banks diversify
loanportfolios? A tentative answer base on individual bank loan portfolios',
Banking and financial studies-Deutsche Bundesbank, Truy cập ngày 02 tháng
06 năm 2013, từ
http://www.bundesbank.de/Redaktion/EN/Downloads/Publications/Discussion_
Paper_2/2005/2005_06_10_dkp_03.pdf?__blob=publicationFile.
[32] Kotler, Ph. (2003), Quản trị Marketing, dịch bởi Vũ Trọng Hùng, Nhà xuất bản
thống kê, Hà Nội (Sách gốc xuất bản năm 1967).
[33] Lawal, J.O. and Sanusi, R.A. (2011), 'Diversification of Nigerian Agricultural
Credit and Rural Development Bank’s Credit for Agricultural Production: A
Sub-Sectoral Analysis', Tạp chí Medwell: International Business Management,
số 5, tr. 214-217, truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013, từ
http://medwelljournals.com/abstract/?doi=ibm.2011.214.217.
[34] Laws of the People's Republic of China (2004), Measures for the Management
of Auto Loans, Asian Legal Information Institute, truy cập ngày 02 tháng 06
năm 2013, từ http://www.asianlii.org/cn/legis/cen/laws/mftmoal370/.
[35] Lê Ngọc Lân (2011), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng của các ngân
hàng thương mại ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện khoa học xã hội,
Hà Nội.
[36] Lê Tiến Phúc (2001), Phát triển thị trường dịch vụ tài chính – kế toán ở Việt
Nam, tr.131, Nhà xuất bản tài chính, Hà Nội.
[37] Lê Thẩm Dương (2006), Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng, Chương trình đào
tạo Từ xa qua truyền hình – truyền thanh – mạng internet, Tái bản lần 2, truy
cập ngày 1 tháng 12 năm 2013, từ
http://tailieu.vn/doc/giao-trinh-nghiep-vu-ngan-hang-ts-le-tham-duong-
1630201.html.
[38] Lê Trúc Thuận (2016), Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: Kết quả và lộ trình
cho giai đoạn mới, truy cập ngày 15 tháng 04 năm 2016, từ
http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/tai-cau-truc-he-
thong-ngan-hang-ket-qua-va-lo-trinh-cho-giai-doan-moi-79935.html.
[39] Lê Trung Thành (2002), Giáo trình Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Kinh tế
quản lý, Trường đại học Đà Lạt.
[40] Miller, S. (2013), What is a Leveraged Loan?, Standard & Poor’s Financial
Services LLC (S&P), a subsidiary of The McGraw-Hill Companies, Inc, truy
cập ngày 27 tháng 09 năm 2013, từ
http://www.leveragedloan.com/primer/#!credit-risk-overview.
[41] Monetary Authority of Singapore (2010), Bridging Loans for the Purchase of
Immovable Properties, truy cập ngày 02 tháng 06 năm 2013, từ
http://www.mas.gov.sg/~/media/resource/legislation_guidelines/banks/notices/
MAS633_01Apr2010.pdf.
[42] Monetary Authority of Singapore (2013), Guidelines for Operation of Merchant
Banks, truy cập ngày 02 tháng 06 năm 2013, từ
http://www.mas.gov.sg/~/media/resource/legislation_guidelines/banks/m_guide
lines/Guidelines%20for%20Operation%20of%20Merchant%20Banks.pdf.
[43] Ngân hàng phát triển Châu Á (2010), Báo cáo về các chỉ tiêu chính cho khu vực Châu Á, Thái Bình Dương, CHDCND Lào (ທະນາຄານພັດທະນາອາຊີ (2010), ບົດລາຍງານກ່ຽວກັບບັນດາໂຕຊີ້ວັດທີ່ສໍາຄັນສໍາລັບຂົງເ ຂດອາຊີປາຊີພິກ, ສປປ ລາວ).
[44] Ngân hàng Nhà nước Lào giai đoạn (2000-2015), Báo cáo thường niên, Nhà Lào. CHDCND nước, Ngân hàng xuất Nhà bản
(ທະນາຄານແຫ່ງປະເທດລາວ(2000-2015), ບົດລາຍງານປະຈໍາປີ,
ພີມໂດຍ ທະນາຄານແຫ່ງປະເທດລາວ, ສປປ ລາວ).
[45] Ngân hàng Nhà nước Lào, Thống kê Tiền tệ giai đoạn (2008-2014), Nhà xuất bản Ngân hàng Nhà nước, CHDCND Lào. (ທະນາຄານແຫ່ງປະເທດລາວ, ພີມໂດຍ ສະຖິຕິເງິນຕາ (2008-2014), ສົກປີ
ທະນາຄານແຫ່ງປະເທດລາວ, ສປປ ລາວ).
[46] Ngân hàng Nhà nước Lào (2011), Tình hình hoạt động của NHNN Lào đối với Chính phủ, Nhà xuất bản Ngân hàng Nhà nước, CHDCND Lào. (ທະນາຄານແຫ່ງປະ (2011), ເທດລາວ ສະພາບການຈັດຕັ້ງປະຕິບັດຂອງທະນາຄານ ແຫ່ງປະເທດລາວ ຕໍ່ກັບລັດຖະບານ, ພີມໂດຍ ທະນາຄານແຫ່ງປະເທດລາວ, ສປປ
ລາວ).
[47] Ngân hàng Nhà nước Lào, Định hướng hoạt động hệ thống ngân hàng giai đoạn (2011-2020), Nhà xuất bản Ngân hàng Nhà nước,,,, CHDCND Lào.
ແຫ່ງປະເທດລາວ
(ທະນາຄານ ທິດທາງການຈັດຕັ້ງປະຕິບັດລະບົບທະນາຄານ, (2011-2020), ໂດຍ ພີມ
ທະນາຄານແຫ່ງປະເທດລາວ, ສປປ ລາວ).
[48] Ngân hàng Nhà nước Lào (2010), Văn kiện Phát triển thị trường chứng khoán nước, CHDCND Lào. bản Ngân hàng Nhà
Lào, Nhà xuất (ທະນາຄານແຫ່ງປະເທດລາວ (2010), ເອກະສານການພັດທະນາຕະຫຼາດຫຸ້ນ ຂອງ ສປປ ລາວ, ພີມໂດຍ
ທະນາຄານແຫ່ງ ປະເທດລາວ, ສປປ ລາວ).
[49] Ngô Hoàng Oanh (2011), Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng
trong hội nhập kinh tế quốc tế, truy cập ngày 02 tháng 06 năm 2013, từ
http://luatdoanhnghiep.info/nguon-phap-luat-dieu-chinh-hoat-dong-ngan-hang-
trong-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te.html.
[50] Nguyễn Duệ (2005), Giáo trình Ngân hàng Trung ương, Nhà xuất bản Thống kê,
Hà Nội.
[51] Nguyễn Đăng Đờn, Đỗ Quang Trị, TS. Nguyễn Tấn Hoàng và THS. Nguyễn
Quốc Anh, 'Thị trường tài chính', Nhà xuất bản Phương đông, Hà Nội.
[52] Nguyễn Trọng Hòa và Vũ Sỹ Cường (2014), Bài giảng gốc môn học Chính
sách công, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
[53] Nguyễn Thị Minh Huệ (2010), Hoạt động giám sát của ngân hàng nhà nước
Việt nam đối với ngân hàng thương mại, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
[54] Nguyễn Ngọc Long và Nguyễn Hữu Vui (2006), Giáo trình Triết học Mác –
Lênin, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[55] Nguyễn Văn Tiến (2013), Giáo trình Tín dụng ngân hàng, Nhà xuất bản Thống
kê, Hà Nội.
[56] Nguyễn Kim Thanh (2012), Cửa sổ định hướng-Công cụ quản lý tín dụng của
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, Trang tin điện tử Ngân hàng nhà nước, truy cập
ngày 25 tháng 06 năm 2012, từ
http://www.sbv.gov.vn/portal/faces/vi/vilinks/videtail/vicm255/vict255?dDocName
=CNTHWEBAP01162525230&_afrLoop=1459914432289600&_afrWindowMod
e=0&_afrWindowId=null#%40%3F_afrWindowId%3Dnull%26_afrLoop%3D14
59914432289600%26dDocName%3DCNTHWEBAP01162525230%26_afrWindo
wMode%3D0%26_adf.ctrl-state%3Drj0osikhx_4.
[57] Nguyễn Tấn Vinh (2008), Hoàn thiện quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn
tỉnh Lâm đồng, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
[58] Nguyễn Thị Hồng Nhung (2016), Pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
của Hàn Quốc và một số kiến nghị tham khảo, truy cập ngày 02/05/2016 từ
http://nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?MaTT=25201668
2885826&MaMT=25.
[59] Nguyễn Ngọc Quang (2013), Phân tích Báo cáo tài chính, tr. 300, Nhà xuất bản
tài chính.
[60] Nguyễn Đức Trung (2016), ‘Đảm bảo an toàn vĩ mô trong Basel III và việc áp
dụng tại Việt Nam’, Tạp chí Tài chính Kỳ 2 - Tháng 4/2016 (631), tr. 8.
[61] Ortiz, G. (2009), Issues in the Governance of Central Banks, Bank for
International Settlements, truy cập ngày 02 tháng 06 năm 2013, từ
http://www.bis.org/publ/othp04.pdf.
[62] Phan Thị Cúc (2008), Giáo trình Tín dụng ngân hàng, Nhà xuất bản Thống kê, Hà
Nội.
[63] Phạm Tường Phán (2012), Triển vọng kinh tế 6 tháng cuối năm 2012, Công ty cổ phần
Tài Việt, truy cập ngày 02 tháng 06 năm 2013, từ http://vietstock.vn/2012/07/trien-
vong-kinh-te-6-thang-cuoi-nam-2012-761-228616.htm.
[64] Putnis, J. (2010), 'The Banking Regulation Review', Bublisher Gideon
Roberton, London.
[65] Smerchai, S. (2006), Giáo trình Service Marketing and Management, Thái Lan.
[66] Sỉ Su Lit, Th. L. (2005), Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Lào, CHDCND Lào. (ທ່ານ ທອງລຸນ ສີສຸລິດ (2005), ບົດລາຍງານ ສະພາບການຈັດຕັ້ງປະຕິບັດແຜນພັດທະນາ ເສດຖະກິດ-ສັງຄົມຂອງ ລາວ, ສປປ ລາວ).
[67] Takashi, Y. (2014) ‘Integration of the ASEAN Banking sector’, số 1, Institute for
International Monetary Affairs (IIMA), Tokyo, Japan.
[68] Thanh Hải (2012), 'Cái được của tăng trưởng tín dụng thấp', Diễn đàn kinh tế
Việt Nam, truy cập ngày 25 tháng 06 năm 2012, từ
http://vef.vn/2012-06-21-cai-duoc-cua-tang-truong-tin-dung-thap.
[69] Thái Bá Cẩn và Trần Nguyên Nam (2004), Phát triển thị trường dịch vụ tài
chính của Việt Nam trong tiến trình hội nhập, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
[70] The Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) (2015) ‘ASEAN
integration report 2015’, The ASEAN Secretariat, Jakarta, Indonesia.
[71] The Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD) (2016)
‘Economic Outlook for Southeast Asia, China and India 2016: Enhancing
Regional Ties’, OECD Publishing, Paris, France.
[72] The People's Bank of China (2013), Law of the People's Republic of China on
Commercial Banks, truy cập ngày 27 tháng 09 năm 2013, từ
http://www.pbc. gov.cn/publish/english/964/1952/19524/19524_.html.
[73] The People's Bank of China (2013), Law of the People's Republic of China on
Negotiable Instruments, truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2013, từ
http://www.pbc.gov.cn/publish/english/964/1952/19525/19525_.html.
[74] The People's Bank of China (2013), Law of the People’s Republic of China on
Banking Regulation and Supervision, truy cập ngày 27 tháng 09 năm 2013, từ
http://www.pbc.gov.cn/publish/english/964/1956/19566/19566_.html.
[75] The council of the European communities (1998), Directive 98/7/EC of the
European Parliament and of the Council of 16 February 1998 amending
Directive 87/102/EEC for the approximation of the laws, regulations and
administrative provisions of the Member States concerning consumer credit,
truy cập ngày 27 tháng 09 năm 2013, từ http://eur-lex.europa.eu/legal-
content/EN/TXT/PDF/?uri=CELEX:31998L0007&from=EN
[76] Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2013), Thông tư Số 02/2013/TT-
NHNN, Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự
phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ban hành ngày 21/01/2013.
[77] Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2014), Thông tư Số 09/2014/TT-
NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 02/2013/TT-
NHNN, ban hành ngày 18/03/2014.
[78] Trần Cao Thanh (1995), Hai mươi năm xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội,
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[79] Trần Huy Tùng và Nguyễn Minh Phương (2015), 'Nhìn lại giải pháp thúc đẩy
tăng trưởng tín dụng tại Hàn Quốc và Thái Lan – Bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam', Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, Số 154, trang 70 – 80.
[80] Trung tâm Thông tin Tư liệu – Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung Ương
(2013), 'Giải quyết nợ xấu – Vấn đề mấu chốt trong tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng', Số 1 năm 2013.
[81] Trương Thanh Hà (2007), 'Hội nhập trên lĩnh vực tài chính trong ASEAN với sự
phát triển các dịch vụ tài chính ở Việt Nam', Hà Nội.
[82] Văn phòng xúc tiến và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (2010), Tình hình phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nhà xuất bản Cục Quản lý các doanh nghiệp nhỏ và vừa, CHDCND Lào. (ຫ້ອງການສົ່ງເສີມ ແລະ ພັດທະນາບັນດາວິສາຫະ ກິດຂະໜາດນ້ອຍ ແລະ ຂະໜາດກາງ (2010),
ກິດຂະໜາດນ້ອຍ
ສະພາບການພັດທະນາບັນດາວິສາຫະ ແລະ ຂະໜາດກາງ, ພີມໂດຍ ກົມຄຸ້ມຄອງວິສາຫະກິດຂະໜາດ ນ້ອຍ ແລະ ຂະໜາດກາງ, ສປປ ລາວ).
[83] Viện Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Lào (2012), Kinh tế vĩ mô năm 2011 và xu hướng năm 2012, Nhà xuất bản Viện Nghiên cứu Quốc gia, CHDCND Lào. (ສະຖາບັນເສດຖະກິດແຫ່ງຊາດລາວ (2012), ເສດຖະກິດມະຫາພາກ ພີມໂດຍ ປີ ທິດທາງປີ 2012, 2011 ແລະ
ສະຖາບັນເສດຖະກິດແຫ່ງຊາດ, ສປປ ລາວ).
[84] Võ Đại Lược (1992), Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế kinh nghiệm Nhật
Bản, ASEAN và Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học - xã hội, Hà Nội.
[85] Vũ Đinh Bạch và Trần Minh Đạo (2009), Đặc điểm cụ thể kinh tế thị trường theo
hướng Chủ nghĩa Xã hội của Việt Nam, Nhà xuất bản quốc gia, Hà Nội.
[86] Vũ Hạnh (2012), Giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 4 nhóm TCTD, nhóm cao
nhất 17%, Báo điện tử Đài tiếng nói Việt nam, truy cập ngày 25 tháng 06 năm
2012, từ http://vov.vn/Kinh-te/Giao-chi-tieu-tang-truong-tin-dung-4-nhom-
TCTD-nhom-cao-nhat-17/199949.vov.
[87] Vũ Thị Xuân Hương (2008), Phát triển dịch vụ tài chính trong tập đoàn bưu
chính viễn thông Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội.
[88] Vũ Viết Ngoạn (2013), Cải cách tài chính trong chiến lược phát triển bền vững
của Việt Nam (2011 – 2020), Website Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, truy
cập ngày 02 tháng 06 năm 2013, từ http://nfsc.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/cai-
cach-tai-chinh-trong-chien-luoc-phat-trien-ben-vung-cua-viet-nam-2011-2020.
[89] ‘What is bank credit? definition and meaning’, WebFinance, truy cập ngày 02
tháng 6 năm 2013, từ
http://www.businessdictionary.com/definition/bank-credit.html.
[90] ‘What is a payday loan’ (2013), Financialplan, truy cập ngày 02 tháng 06 năm
2013, từ http://financialplan.about.com/od/creditdebtmanagement/.
[91] Xi Phăn Đon, Kh. T. (2001), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, CHDCND Lào. (ທ່ານຄໍາໄຕ ສີ່ພັນດອນ (2001), ບົດລາຍ ງານການເມືອງ ໃນສະພາແຫ່ງຊາດ ທົ່ວປະເທດ ຄັ້ງທີ່ VII, ສປປ ລາວ).
[92] Yosi, M. (2008), ‘Economic Development in Laos in the field ASEAN-AFTA’,
Viêng Chăn, CHDCND Lào.