intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp TC “Hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội”

Chia sẻ: Le Dinh Thao | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:72

144
lượt xem
62
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngày nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một su thế tất yếu của mọi nền kinh tế trên thế giới. Bởi vì, chỉ có sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì nền kinh tế của một quốc gia mới có thể phát huy hết những thế mạnh của mình, đồng thời tiếp thu được những tinh hoa của thế giới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp TC “Hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội”

  1. Chuyên đề thực tập Tốt nghiệp TC “Hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội”
  2. MỤ C LỤC Chương1 - Công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại ...................... 4 V iệt Nam Chi nhánh Nam Hà Nội ................................................................ .. 4 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của ngân hàng thương mại ............................. 5 1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại ........................ 10 Mua bán ngoại tệ ......................................................................................... 10 Nhận tiền gửi................................................................................................ 10 Cho vay ................................................................ ........................................ 11 Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ...................................................... 13 Cho thuê thiết bị trung và dài hạn ................................................................ 14 Cung cấp dịch vụ uỷ thác tư vấn................................................................... 14 Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán............................................ 15 Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm .................................................................... 15 Cung cấp các dịch vụ đại lý................................................................ .......... 15 1.2.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại ............................................ 16 Vốn nợ................................................................................................ .......... 18 Công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại ................................... 18 Theo đ ối tượng huy động .............................................................................. 18 Các nguồn khác :.......................................................................................... 23 1.3.1.Nhân tố chủ quan .............................................................................. 27 1.3.2. Nhân tố khách quan ......................................................................... 29 2.1. Khái quát về NHNN&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà N ội....... 32 2.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển ...................................................... 32 2.1.3. Sơ lược về hoạt động kinh doanh của Chi nhánh năm 2005. ........ 36 2.1.3.1. Nguồn vốn. ..................................................................................... 36
  3. Lời nói đầu N gày nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một su thế tất yếu của mọi nền kinh tế trên thế giới. Bởi vì, chỉ có sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì nền kinh tế của một quốc gia mới có thể phát huy hết những thế mạnh của mình, đồng thời tiếp thu được những tinh hoa của thế giới. Và cùng với sự hội nhập thì m ột điều tất yếu là các doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngo ài, điều đó đời hỏi các doanh nghiệp luôn phải đ ổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới trang thiết bị công nghệ. Do đó cần có một thị trường tài chính hiện đ ại để đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp, cũng như các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc đ ẩy mạnh vai trò của các ngân hàng trên thị trường tài chính là một điều tất yếu. H iện nay, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta đ ã đạt được những bước phát triển rất mạnh mẽ, và đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành sự vận động liên tục của nền kinh tế. Cùng với các thành phần khác trong thị trường tài chính hệ thống ngân hàng thương mại đóng một vai trò quan trọng trong việc tham gia bình ổ n thị trường tiền tệ, kìm chế lạm phát, phát triển thị trường ngoại hối. Trong những năm qua các ngân hàng thương mại nước ta đã thực hiện huy đông được một lượng vốn đánh kể cho việc phát triển kinh tế, từ đó tạo công ăn việc làm cho người lao động. N gân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chi nhánh N am Hà Nội là một chi nhánh của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Ngay từ khi thành lập, ngân hàng đã không ngừng từng bước lớn mạnh bắt nhịp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Thấy đ ược tầm quan trọng của công tác huy động vốn đối với hoạt động của mình, chi nhánh đã đề ra rất nhiều
  4. những biệm pháp để tăng cường công tác huy động vốn. Vì vậy, sau quá trình thực tập tại chi nhánh em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN&PTNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội” Nội dung chuyên dề gồm có 3 chương: Chương1 - Công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại Chương2 - Thực trạng công tác huy động vốn của NHNN&PTNT Việt Nam Chi nhánh Nam Hà Nội Chương3 - G iải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn tại NHNN&PHNT Việt Nam chi nhánh Nam Hà Nội V ì kinh nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế, nên những vấn đề mà em xem xét trong nội dung chuyên đề thực tập còn rất nhiều thiếu góp ý. Em rất mong nhận đ ược sự góp ý của các thầy cô giáo, các anh chị, cô chú tại NHNN&PHNT Việt Nam chi nhánh Nam H à Nội để đề tài được ho àn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo và giúp đ ỡ tận tình của thầy giáo tiến sĩ Trần Đăng Khâm và toàn thể nhân viên NHNN&PTNT chi nhánh Nam H à Nội đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành chuyên đề này.
  5. CHƯƠNG 1:CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của ngân hàng thương mại H ình thức sơ khai của các ngân hàng thương mại đ ược hình thành và phát triển từ hoạt động kinh doanh của thợ vàng trước đây. Các thợ vàng trước đây thường là những người giàu có, vì vậy họ có điều kiện về vốn để thực hiện hoạt động cho vay để thu lãi. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu cất trữ tiền, họ thường có két tốt để cất trữ tiền một cách an toàn. Do yêu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa, cũng như các nhà buôn… các thợ vàng cũng thực hiện luôn việc cất trữ tiền hộ để thu các khoản phí. Và chính hoạt động cất trữ hộ đã làm tăng lượng tiền tạm có của các thợ vàng. Thực tiễn cho thấy luôn có một lượng tiền đ ược gửi vào và một lượng tiền được rút ra, song tất cả người gửi tiền và người rút tiền đều không thực hiện cùng một lúc, đã tạo số dư thường xuyên trong két. Do vậy, họ có thể sử dụng tạm thời khoản tiền này để thực hiện hoạt động cho vay, từ đây bắt đầu hình thành các hoạt động tín dụng sơ khai của ngân hàng thương mại. Mặt khác, với việc mỗi một quốc gia đều có một đồng tiền riêng được sử dụng trong hoạt động lưu thông trao đổi mua bán hàng hoá đã tạo điều kiện cho những người thợ vàng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuân thu được là chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Đó là hoạt động mua bán ngoại tệ sơ khai, từ đó hính thành lên hoạt động trao đổi mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật cũng như của toàn bộ nền kinh tế thế giới, thì quá trình ho ạt động kinh doanh trên thị trường của các ngân hàng thương mại cũng đã có rất nhiều thay đổi quan trọng. Ngày nay, các ngân hàng hoạt động d ưới rất nhiều các hình thức khác
  6. nhau để đáp ứng nhu cầu hoạt động riêng. Quá trình gia tăng nguồn vốn để đưa và kinh doanh đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của các ngân hàng cổ phần. V à để tăng cường khả năng kiểm soát, cũng như điều tiết kinh tế của nhà nước đã dẫn đến sự hình thành lên các ngân hàng quốc doanh, ngoài ra các ngân hàng còn tồn tại dưới hình thức là các ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng… Và song song với quá trình đó là quá trình đa dạng hoá trong hoạt động của các ngân hàng, nhiều nghiệp vụ ngân hàng mới đang ngày càng phát triển. Ngân hàng thương mại từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã đ i đến cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Ngo ài ra, nhiều ngân hàng còn tiến hành cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khoán, cho thuê… Bên cạnh đó, các hình thức huy động vốn cũng trở lên ngày càng phong phú. Bên cạnh các hình thức huy động vốn truyền thống như nhận tiền gửi, các ngân hàng còn mở rộng các hình thức đi vay như vay ngân hàng trung ương, vay trên thị trường tín dụng. N gày nay, tuy hệ thống ngân hàng thương mại cũng như ngân hàng quốc doanh đã trở lên rất đa dạng và phong phú về loại hình ho ạt động, cũng như các dịch vụ cung cấp, nhưng nhìn chung các hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại vẫn không thay đổi về bản chất, mà nó chỉ tiện lợi hơn, đa dạng hơn. Sự hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng ngay từ đầu đã luôn đóng vai trò quan trọng là thước đo, là huyết mạch và còn là thước đo cho sự ho ạt động của một nền kinh tế. Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ, ho ặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Thực tế, rất nhiều tổ chức trung gian tài chính- bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng
  7. khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiệm vụ môi giới khác. Mặc dù đã trải qua quá trình phát triển lâu d ài, nhưng cho đ ến nay khái niệm về cụ thể về Ngân hàng thương mại vẫn chưa được thực sự thống nhất, mà vẫn còn có nhiều các khái niệm khác nhau. Theo cách tiếp cận trên phương diện các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì cho rằng: “ Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tài chính, cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và th ực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” . Cũng có một quan điểm khác cho rằng: “ Ngân hàng thương mại là một loại h ình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng “ . V à theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng ho à xã hội chủ nghĩa V iệt Nam được Quốc hội khoá X ( kỳ họp thứ hai, từ ngày 21 tháng 11 đ ến ngày 12 tháng 12 năm 1997) thông qua thì “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung th ường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. N hư vậy, ta có thể thấy có rất nhiều những quan điểm cũng như những cách nhìn nhận khác nhau về khái niệm ngân hàng thương mại. Các quan điểm nhìn nhận về khái niệm ngân hàng thương mại tuỳ thuộc vào từng quốc gia, từng khu vực, cũng như từng khía cạnh. Tuy nhiên nhìn chung thì các quan niệm này đều cho thấy các hoạt động và các dịch vụ mà các ngân hàng cung cấp. Đặc điểm Đ ặc điểm đầu tiên phải kể đến của các ngân hàng thương mại chính là nó có một sự ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế. Bởi vì, ngân hàng là tổ chức huy động tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế.
  8. H àng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội đều gửi tiền trong ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ của toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng còn là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước ( thành phố, tỉnh ). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng là tổ chức cung cấp hệ thống tín dụng để phục vụ cho việc mua sắm trang thiết bị, xây dựng nhà máy, mua hàng hoá d ự trữ. Khi doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài kho ản điện tử… Và khi cần thông tin tài chính hay lập kế ho ạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng để được tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ ( thông qua mua chứng khoán Chính phủ ) là nguồn tài chính qua trọng cho đầu tư và phát triển. Ngân hàng thực hiện các chính sách về kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là công cụ quan trong trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững. Do đó vấn đề nghiên cứu và hiểu một cách cặn kẽ về loại hình tổ chức này để từ đó làm cơ sở cho việc đề ra các phương thức vận hành và quản lý nó một cách hiệu quả là một điều hết sức cần thiết. Trong thị trường tài chính thì các ngân hàng thương mại đóng vai trò là một trung gian tài chính. Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp súc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế là các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và thứ hai là các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu sẽ chuyển tiền từ nhóm thứ hai đến nhóm thứ một nếu cả hai cùng có lợi. Tuy nhiên quan hệ trực tiếp nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy
  9. mô thời gian và không gian… Điều này cảm trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá các trung gian tài chính sẽ giảm được các chi phí giao dịch. Mặt khác, các ngân hàng sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các loại chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế ngân hàng đã tham gia vào kinh doanh rủi ro. Đ ặc điểm tiếp theo phải kể đến là ngân hàng thương mại đóng vai trò tạo ra các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Tiền có một vai trò quan trọng là lam phương tiện thanh toán. Giấy nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã đựơc sự chấp nhân rộng rãi. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đ ã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế , dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế cho tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phươn tiện cất trữ nó trở thành tiền giấy. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy họ có số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông, thứ hai là số d ư tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các khoản tài khoản gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn… Khi ngân hàng cho vay, số dư tiền gửi trên tài khoản của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng mua hàng hoá hay dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay, các ngân hàng đã tạo ra phương tiên thanh toán. Toàn bộn hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đ ến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng sử dụng một khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo lên một khoản thu ( tức làm tăng số dư tiền gửi ) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, to àn b ộ hệ thống ngân hàng có thể toạ ra một khối lượng tiền gửi gấp bội thông qua hoạt động cho vay
  10. N goài ra các ngân hàng thương mại còn đóng vai trò của trung gian thanh toán. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá dịch vụ. Để việc thanh toán được nhanh chóng và thuận tiện, đồng thời tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra nhiều hình thức thanh toán khác nhau như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung gian thanh toán. 1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại Cùng với sự phát triển của kinh tế, thì các ho ạt động của ngân hàng thương mại cũng dần dần được mở rộng và trở lên đa d ạng hơn. Các ngân hàng thương mại ngày nay là một doanh nghiệp cung cấp rất nhiều các dịch vụ khác nhau cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của một ngân hàng phụ thuộc vào năng lực cung cấp và xác định các d ịch vụ tài chínhàm xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Dưới đây là một số những dịch vụ mà các ngân hàng thương mại thường hay cung cấp cho khách hàng. Mua bán ngoại tệ D ịch vụ mau bán, trao đổi ngoại tệ là một trong những dịch vụ đầu tiên mà ngân hàng thực hiện. Với dịch vụ này, các ngân hàng thương mại sẽ đứng ra mua một loaị ngoại tệ này đ ể đổi lấy một loại ngoại tệ khác, từ đó thu về chênh lệch và hưởng phí giao dịch. Hiện nay điều này trở lên rất quan trọng đối với thương m ại quốc tế, đặc biệt là đối với ngành du lịch. Đồng thời, dịch vụ này còn là một kênh huy động vốn cho ngân hàng, cho vay ngoại tệ. Nhận tiền gửi Cho vay được coi là một hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm m ọi cách để huy động tiền. V à một trong những nguồn quan trọng nhất trong việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại đó là các khoản tiền
  11. gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho khoản tiền gửi như một phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu chi tiêu trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời số tiền này để đưa vào kinh doanh. Cho vay Hoạt động cho vay cũng là một trong những hoạt động đầu tiên của các ngân hàng thương mại. Hiện nay, các ngân hàng thương mại có các hình thức cho vay như sạu: - Cho vay thương m ại và chiết khấu thương phiếu: Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng thương mại đã chiết khấu thương phiếu mà thực ra là cho vay đối với người bán ( người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng ( là người mua ), giúp họ có vốn để mua hàng hoá để mở rộng sản xuất kinh doanh. - Cho vay tiêu dùng:Trong giai đoạn đầu thành lập, các ngân hàng thương mại đều không tích cực với hoạt động cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình trong việc tiêu dùng, bởi vì họ tin rằng hoạt động cho vay tiêu dùng hàm chứa rủi ro cao, rất dễ dẫn đến phá sản. Tuy nhiên sau đó, cùng với sự phát triển không ngừng của các nền kinh tế, kéo theo sự tăng kên của thu nhập cá nhân, nhu cầu cho tiêu của cá nhân, cũng như hộ gia đình tăng cao hoạt động cho vay tiêu dùng cũng theo đó mà trở thành một hoạt động sinh lới cao. Mặt khác, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường ngày càng trở lên khốc liệt trong việc huy động vốn, điều này đã buộc các ngân hàng phải hướng đến các cá nhân và hộ gia đình như một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. Mặc dù hiện nay tốc độ đã chậm lại do cành tranh
  12. tín d ụng ngày càng lớn trong khi nền kinh tế phát triển chậm lại. Tuy nhiên cho vay tiêu dùng vẫn luôn là một hoạt động quan trong của các ngân hàng thương m ại. -Cho vay tài trợ cho các dự án: Ngày nay, ngoài các hoạt động mang tính truyền thống như là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng thương mại còn tham gia vào các hoạt động tài trợ và đồng tài trợ cho các dự án như xây dựng nhà máy , phát triển công nghệ cao, một số ngân hàng còn tham gia vào ho ạt động cho vay để đàu tư vào đất. Hoạt động cho vay tài trợ cho các dự án nói chung thường hàm chứa rủi ro cao. Do vậy, hoạt động này thường đ ược thực hiện với một công, hoặc một số công ty đầu tư, các thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự hợp tác của các công ty khác để chua sẻ rủi ro. Ngoài ra, các ngân hàng còn tham gia vào việc tài trợ cho các chương trình văn hoá x ã hội, các chương trình thể thao, các trương trình văn hoá x ã hội… Bảo quản tài sản hộ Các ngân hàng thực hiệc việc lưu giữ vàng, các giấy tời có giá và các tài sảm khác cho khách hàng trong két (vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng thường giữ hộ các tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng khác của khách hàng với nguyên tắc an toán bí mật và thuận tiện. Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác như mau bán hộ các giấy tờ có giá khác cho khách, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ… Mặt khác, các giấy chứng nhận do ngân hàng ký và phát cho khách hàng (ghi nhận về tái sản đang đ ược lưu giữ ) có thể trao đổi mau bán như một loại tiền và đây là nền tảng cho việc hình thành các loại hình thanh toán hiện nay như séc, các loại thẻ… Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán K hi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ thực hiện bảo quản mà còn thay mặt khách hàng thực hiện các hoạt động chi trả hộ khách hàng. Và quá trình thanh toán thông qua ngân hàng đã mở đầu cho việc thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến
  13. ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng, sau đó khách hàng chỉ việc mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận đ ược tiền. Phương thức thanh toán không dùng tiền mặt có rất nhiều những tiện ích như : an toán, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí… đ ã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và tiết kiệm cho phí cho khách hàng, thông qua đó cũng phần nào nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán của ngân hàng được mở rộng, càng toạ ra nhiều tiện ích hơn. Điều này khuyến khích việc gửi tiền vào ngân hàng đ ể nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, b ên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi , nhờ thu, đã phát triển hình thức thanh toán mới bằng thẻ… Quản lý ngân quỹ Các ngân hàng mở tài kho ản và tiền gửi của phần lớn các doanh nghiệp và cá nhân. Nhờ đó, các ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Đó cũng là điều kiện để ngân hàng có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong dó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đ ầu tư phần thặn dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ Các hoạt động của ngân hàng thương mại luôn có tác động cũng như ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Vì vậy, ngay từ khi được thành lập các ngân hàng đ ã phải hoạt động theo những quy định chung của chính phủ các nước. Mặt khác, ngân hàng thương mại có một khả năng huy động vốn vay rất lớn. Do đó, các ngân hàng thương mại đ ã trở thành trọng tâm chú ý của chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu của chính phủ thường là lớn và cấp bách trong khi các nguồn thu không đủ, nên chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản vay của ngân hàng. Ngày nay m chính phủ
  14. các nước đều giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp phép thành lập với cam kết họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chinh sách của chính phủ và tài trợ cho chính phủ. Các ngân hàng thường mua trài phiếu chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được Bảo lãnh Do khả năng thanh toán của một ngân hàng cho một khách hàng là rất lớn và do ngân hàng năm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng trở lên đã d ạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá, trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác… Cho thuê thiết bị trung và dài hạn N hằm đẻ bán được các thiết bị, đặn biệt alf các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê khách hàng có thể mua ( do vậy còn gọi là lợp đồng thuê mua ). Rất nhiều các ngân hàng tích cực cho khách hàng lựa chọn quyền thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua các hợp đồng thuê mua, trong đó các ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn. Cung cấp dịch vụ uỷ thác tư vấn Hoạt động của ngân hàng chính là hoạt động đặc chưng của một tổ chức tài chính, do đó điều tất yếu là ngân hàng phải có rất nhiều chuyên gia về lĩnh vực tài chính giàu kinh nghiệm cũng như chuyên môn. Và đó cũng là lý do mà rất nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhớ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. K hi khách hàng có nhu cầu thì ngân hàng sẽ tiến hành các tư vấn về đầu tư,về quản lý, về thành lập, tách gộp công ty, hay mua bán chứng khoán. Thậm chí các ngân hàng còn tiến hành các dịch vụ như
  15. uỷ thác di chúc, quản lý tài sản của khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn về tài chính. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán Cùng với sự phát triển không ngừng của các nền kinh tế trên thế giới, thì cùng với nó là sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp nói chung và giữa các ngân hàng nói riêng, đã buộc các ngân hàng phải ngày càng lỗ lực trong việc thực hiện cung cấp ngầy càng đầy đủ các dịch vụ cho khách hàng, nhằm thoả mãn mọi nhu cầu cho khách hàng. Và đây cũng là một trong những ly do khiến các ngân hàng bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Hiện nay, các ngân hàng còn thành lập ra các công ty chứng khoán hoặc các công ty môi giới chứng khoán đẻ cung cấp các dịch vụ về chứng khoán cho khách hàng. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm N gày nay hoạt động của các ngân hàng đ ã lan sang cả lĩnh vực bảo hiểm. Các ngân hàng đ ã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế do gặp rủi ro trong ho ạt động mất khả năng thanh toán. Ngoài ra ngân hàng còn liên doanh với các công ty bảo hiểm, hoặc tổ chức ra các công ty bảo hiểm con, ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí… Cung cấp các dịch vụ đại lý Do nhiều yếu tố khác nhau lên nhiều ngân hàng không thể thiêt lập các chi nhánh và văn phòng đại diện ở khắp mọi nơi. V ì vậy một nhu cầu tất yếu sinh ra đó là nhu cầu về dịch vụ đại lý. Chính vì vậy, mà các ngân hàng lớn có khả năng sẽ cung cấp các dịch vụ đại lý cho các ngân hàng khác không có điều kiện. Các dịch vụ đó có thể là thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối cho đồng tài trợ…
  16. 1.1.3.Vai trò của công tác huy động vốn trong hoạt động của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy độ ng, cho vay, đ ầu tư và cung cấp các d ịch vụ khác. Vì vậy công tác huy động vốn- hoạt độ ng tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại đóng một vai trò hết sức quan trọng. Hoạt động của các ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đến các thành phần trong nền kinh tế, bởi vì các ngân hàng nắm giữ một lượng vố n rất lớn của các khách hàng, và cũng từ đó các ho ạt động của ngân hàng sẽ có tác độ ng rất lớn đến sự phát triển của mộ t nền kinh tế nói chung. Vì vậy luất pháp của các quố c gia luôn buộc các ngân hàng phải duy trì một lượng vố n lớn. Đó sẽ là yếu tố đảm bảo một phần cho các rủi ro có thể xảy ra. Đó cũng là lý do khiến cho việc huy động vốn là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong hoạt độ ng của ngân hàng. 1.2. Công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại 1.2.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại N guồn vốn là yếu tố cần thiết đầu tiên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, luật pháp của mỗi quốc gia đều quy định mức vốn tối thiểu m à ngân hàng phải có ngay từ khi thành lập. Mặt khác trong quá trình ho ạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường, các ngân hàng có thể huy động thêm vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau như: Vốn chủ sở hữu: Để bắt đầu hoạt động (được pháp luật cho phép ) chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành lên trang thiệt bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành của loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
  17. - Nguồn vốn hình thành ban đầu: Tuỳ theo tính chất của mỗi loại ngân hàng mà nguồn gốc hình thành ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, ngân hàng Nhà nước cấp vốn ( vốn Nhà nước ). Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông góp vốn thông qua mua cổ phiếu hoặc cổ phần. N gân hàng liên doanh do các bên liên doanh tham gia góp vốn, ngân hàng thư nhân là thuộc sở hữu tư nhân. - Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động các ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. Nguồn từ lợi nhuận, trong điều kiện thu nhập dòng lớn hơn không, chủ ngân hàng có su hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập dòng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích luỹ và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập dòng lớn hơn, nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận sẽ cao sơ với vốn của chủ hình thành ban đầu. Nguồn vốn bổ sung từ quá trình phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động, ho ặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu cầu tăng vốn của chủ. Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết. - Các quỹ: Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có một mục đích riêng. trước tiên là dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp lại những tổn thất có thể xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn mục đích bù đắp sự hao mòn của vốn dưới tác động của lạm pháp. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của khách hàng và chênh lệnh giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo quy định của từng nước, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng quỹ giám đốc… Các quỹ của ngân hàng thuộc chủ sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên một số quỹ ngân hàng không thể sử dụng lâu dài.
  18. - Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể coi là b ộ phận của vốn sở hữu của ngân hàng ( vốn bổ sung ) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai, và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. Vốn nợ Vốn nợ chính là nguồn vốn mà ngân hàng thương mại huy động đ ược trên thị trường trong quá trình hoạt động kinh doanh. V ì nguồn vốn chủ sở hữu là có hạn, mà hoạt động của ngân hàng thương mại đòi hỏi cần một lượng vốn lớn, do đó các ngân hàng thường xuyên có các kênh huy động vốn. Các nguồn này bao gồm : tiền gửi của khách hàng, tiền vay. Công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại N gân hàng thương mại có thể huy động vốn theo nhiều phương thức khác nhau, tuy nhiên có thể chia các nguồn huy động vốn của ngân hàng thương m ại như sau Theo đ ối tượng huy động - Nguồn vốn huy động từ dân cư: một trong những kênh huy động vốn rất quan trọng đối với ngân hàng, đó là nguồn vốn nhàn dỗi từ trong dân cư. Trên thực tế, trong dân cư luôn tồn tại một nguồn vốn rất lớn m à chưa sử dụng đến, do đó các ngân hàng thương mại có thể tiến hành huy động nguồn vốn này thông qua các hình thức như: tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, uỷ thác đầu tư. Đặc điểm của nguồn vốn này là tương đối ổn định, các khoản chi phí cho giao d ịch đối với nguồn này tương đối thấp. - Huy động từ các doang nghiệp: trong nền kinh tế mỗi một doanh nghiệp, mỗi một tổ chức thường hoạt động theo một chu kỳ nhất định. Và vì vậy, vào mỗi một thời điểm khác nhau thì doanh nghiệp cũng có nhu cầu về vốn khác nhau. Do đó, trên cơ sở nắm bắt được chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp, chu kỳ hoạt động của các tổ chức, mà ngân hàng có thể huy động vốn tuỳ theo thảo thuận với các doanh nghiệp.
  19. - Huy động từ các tổ chức tín dụng: trong qua trình hoạt động trên thị trường tài chính sẽ có thời điểm các ngân hàng thương mại xảy ra tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời để thanh toán cho khách hàng, hoặc trong trường hợp thiếu hụt dự trữ bắt buộc theo quy đinh của Ngân hàng nhà nước, hoặc để đáp ứng các nhu cầu bất khả kháng. Khi đó, ngân hàng sẽ tiến hành vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cẩu trước mắt. Tuy nhiên, nguồn này thường có tỷ trọng rất thấp, tính ổn định không cao và không thường xuyên. Các ngân hàng thường rất hạn chế sử dụng tới nguồn huy động này. Theo m ục đích gửi tiền: - Tiền gửi tiết kiệm: đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguốn vốn huy động của ngân hàng. Theo tình hình cụ thể của bản thân ngân hàng, cũng như tình hình thực tế trên thị trường, mà các ngân hàng thương mại sẽ có những chính sách phù hợp để huy động nguồn vốn thông qua tiết kiệm. Công cụ chính mà các ngân hàng sử dụng để huy động tiền gửi tiết kiệm chính là lãi suất, thông qua lãi suất các ngân hàng sẽ thu hút khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. - Tiền gửi thanh toán: nguồn tiền này thường có mục đích là phục vụ cho việc thanh toán thường xuyên hay tiêu dùng hàng ngày của khách hàng. Do vậy nó có tính ổn định không cao, tuy nhiên ngân hàng có thể sử dụng một phần nguồn này để phục vụ cho các mục đích nhất định trên cơ sở tính toán hợp lý quy luật biến động của loại tiền gửi này. - Tiền gửi uy thác đầu tư: hiện tại có nhiều doanh nghiệp có lượng vốn để đưa vào hoạt động đầu tư, tuy nhiên họ lại thiếu kinh nghiêm trong lĩnh vực tài chính, hoặc thiếu thông tin trên thị trường. Khi đó họ có thể uỷ thác đầu tư cho ngân hàng theo thoả thuận. Hoặc có những doanh nghiệp hay tổ chức không được phép gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng, nên họ biến tướng dưới hình thức uỷ thác đầu tư Các nguồn vay khác như phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, thương phiếu…
  20. 1.2.2.Các phương pháp huy động vốn của ngân hàng thương mại Tiền gửi : Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, b ằng cách đó ngân hàng huy động tiêng của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. - Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi giao dịch, hoặc tiền gửi thanh toán ). Để đáp ứng nhu cầu chi trả cho các hoạt động thanh toán, giao dịch, các cá nhân và tổ chức sẽ gửi tiền vào ngân hàng, và trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đề được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đề có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp ( hoặc bằng không ), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với mức phí thấp. Hiện nay, với sự cạnh tranh ngày càng trở lên khốc liệt trên thị trường, các ngân hàng luôn lỗ lực rút ngắn thời gian, thủ tục một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Ngo ài ra, đ ể thu hút khách hàng các ngân hàng còn kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay ( thấu chi – chi trội hơn số dư tài khoản tiền gửi thanh toán). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức biến tướng của thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. - Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội : Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả trong một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện trong hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng như cầu tăng thu của người
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2