Cơ hội nào cho hàng

'made in Vietnam' tại

Mỹ?

Ls. Phạm Huy Phong cho rằng, doanh nghiệp nên nghiên cứu thị trường Mỹ

trước khi đưa sản phẩm vào kinh doanh.Bạn có sản phẩm tốt, giá cạnh tranh

muốn xuất khẩu tới Mỹ, nhưng có thể điều đó là không dễ dàng. Đây là một

thị trường khổng lồ với nhiều đối thủ cạnh tranh, họ đều đang cố gắng thâm

nhập và bán sản phẩm.

Sẽ rất hữu ích khi bạn phân biệt giữa "Selling to" (bán tới) Mỹ và "selling

in" (bán ở) Mỹ. "Selling to" là bán thẳng với giá FOB. Bạn thương lượng giá

cả, các điều kiện với người mua Mỹ giao hàng hóa của bạn tới bến cảng

hoặc sân bay, chuyển vận đơn tới ngân hàng và nhận tiền mặt theo L/C của

bạn.

"Selling in" có nghĩa là nhận thêm nhiều trách nhiệm, chi phí và rủi ro hơn.

Phải đầu tư nhiều thời gian và công sức hơn là ở thị trường của nước bạn.

Phải thiết lập hệ thống phân phối, quan hệ với người bán lẻ hay người tiêu

dùng, triển khai và thực hiện kế hoạch tiếp thị, lập văn phòng, và cần phải

phải cố vấn về các quy định và luật lệ của Chính phủ Mỹ.

Đối với hầu hết nhà xuất khẩu, trước tiên phải thử nghiệm sự tiếp nhận của

thị trường đối với sản phẩm qua việc bán cho người mua. Sau đó, nếu sản

phẩm được tiếp nhận tốt ở Mỹ, bạn có thể thăm dò khả năng phát triển vào

thị trường. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc thuê những

chuyên gia phân phối và tiếp thị, qua những đại lý hoa hồng, liên doanh hay

những công ty có liên quan đến lĩnh vực của bạn. Hãy để nhu cầu xác định

đường lối hành động và mức độ cam kết về tài chính của bạn.

Nghiên cứu thị trường Mỹ

Các nhà sản xuất hay nhà thương mại khôn ngoan đang quan tâm đến thị

trường Mỹ rộng lớn thường sử dụng một công ty tư vấn nghiên cứu tốt để

khảo sát tiềm năng. Nó có thể tiết kiệm một khối lượng lớn tiền bạc, thời

gian cho việc mở một chiến dịch thử nghiệm và điều chỉnh, rồi nhiều năm

sau mới nhận ra rằng không có một thị trường quan trọng cho hàng hóa ở

Mỹ.

Nhiều công ty Mỹ cung cấp các dịch vụ nghiên cứu toàn diện cho các công

ty nước ngoài, các công ty kế toán chính như Dun & Bradstreet có nhiều

nguồn để khảo sát triển vọng bán cho sản phẩm, đối thủ cạnh tranh, những

rào cản phải đương đầu khi thâm nhập vào thị trường. Việc nghiên cứu tiếp

thị trước xuất khẩu luôn là một ý tưởng tốt. Không những nó có thể rọi sáng

một thị trường rộng lớn chưa được biết rõ, mà còn giúp cảnh giác với những

cạm bẫy bạn không bao giờ nghĩ đến. Việc nghiên cứu không phải rẻ, thậm

chí một khảo sát cơ bản phải chi phí nhiều nghìn USD; nhưng nó có thể

tránh cho bạn phải chi thêm hàng nghìn USD nữa.

Những mặt hàng nào của Việt Nam có thể bán cho Mỹ?

Mỹ là một thị trường lớn nhất thế giới và là nền kinh tế lớn với GDP khoảng

gần 8.000 tỷ USD, chiếm 22% GDP thế giới. Thực tế, các nước châu Á như

Nhật, Hàn Quốc, ASEAN và Trung Quốc đều rất coi trọng thị trường Mỹ.

Nhu cầu hàng hóa Mỹ cũng rất đa dạng về chủng loại và chất lượng, từ loại

phổ thông đến cao cấp.

Do chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc nên giá trị và chủng loại hàng

hóa của Việt Nam xuất sang Mỹ còn nhiều hạn chế. Đến nay Việt Nam mới

xuất được một số mặt hàng như gạo, cà phê, hạt điều, cao su, gỗ gia dụng,

rau quả và hải sản... một số hàng như giày dép, dệt, may có vào Mỹ nhưng bị

đánh thuế cao từ 40% - 90% giá nhập và bị chính sách quota.

Trong thời gian vừa qua, Việt Nam và Mỹ đã trải qua một số vòng đàm phán

về hiệp định thương mại, đã ký hiệp định bản quyền. Tuy vậy quan hệ kinh

tế giữa hai nước vẫn chưa đầy đủ.

Vậy hàng hóa nào của Việt Nam đủ sức cạnh tranh tại Mỹ?

Thông thường chúng ta hay dựa vào thế mạnh hàng hóa riêng biệt của Việt

Nam để quyết định đưa vào thị trường mới. Các loại hàng quen thuộc được

đề cập đến là nông lâm sản, thủy hải sản, may mặc và thủ công mỹ nghệ.

Đối với nông sản:

Đây không phải là loại hàng mà Mỹ cần nhập khẩu. Ngược lại, Mỹ là một

trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu. Hơn nữa, FDA (Food and

Drug Administration) - Cơ quan quản lý thực phẩm và thuốc men của Mỹ -

kiểm tra khá nghiêm ngặt các loại hàng này vào Mỹ.

Đối với hàng may mặc:

Tỷ trọng nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ trong những năm gần đây tăng

mạnh. Các bạn hàng chủ yếu về loại hàng này là Hong Kong, Trung Quốc,

Hàn Quốc, Đài Loan... chiếm tỷ lệ 50% trong tổng số hàng nhập loại này

vào Mỹ.

Thế nhưng Hiệp định quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đến nhập khẩu hàng

may mặc vào Mỹ là NAFTA (North American Free Trade Agreement) có

hiệu lực từ tháng 1/1994. Đường vận chuyển xa xôi, giá thành cao, chưa

được hưởng Tối huệ quốc và đặc biệt hiệp định NAFTA, đã làm cho hàng

may mặc Việt Nam vào Mỹ khó khăn không kém.

Các hàng thủ công mỹ nghệ:

Ngoài giá thành cao, chịu thuế nặng, vận chuyển xa, tính thẩm mỹ còn chưa

phù hợp với thị hiếu của Mỹ.

Mỹ là một thị trường khổng lồ, nhưng không kém phần khắc nghiệt đối với

hàng hóa "Made in Việt Nam." Nếu xu thế nhập khẩu của Mỹ không trùng

khớp với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam thì rõ rà hàng Việt Nam sẽ mất

đi tính cạnh tranh, ít nhất là trong vài năm tới.

Cải tổ chiến lược kinh doanh, một vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện

nay?

Các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước thường không coi trọng việc tiếp thị

mặt hàng xuất khẩu. Thông thường, các công ty thụ động chờ các nhà nhập

khẩu nước ngoài tự tìm đến để giao dịch mua bán hoặc tổ chức những cuộc

triển lãm địa phương để chào đón bạn hàng từ nước ngoài.

Khi có khách hàng liên hệ tìm hiểu để đặt hàng, các doanh nghiệp thường

chú trọng gia tăng số lượng đơn đặt hàng hơn là vấn đề hợp đồng thanh toán

hóa đơn. Chính điểm này đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho các thủ

đoạn lừa gạt tinh vi của các tư nhân hoặc công ty nước ngoài.

Một điểm khác là các nhà xuất khẩu trong nước thường giao dịch với các

môi giới trung gian ngoài nước để kiếm đơn đặt hàng nhưng lại không tìm

hiểu kỹ lý lịch hoạt động của họ. Đa phần các môi giới trung gian làm ăn

theo phương pháp "mượn đầu heo nấu cháo".

Họ chào hàng với khách bằng các sản phẩm đã săn lùng từ nước ngoài. Sau

đó biến mất cùng với tiền khách hàng đã trả cho họ. Điều đáng lo ngại là luật

pháp Việt Nam ít có tác dụng trên thị trường Mỹ, doanh nghiệp trong nước

lại không đủ kinh nghiệm đối phó với các thủ đoạn quá tinh vi của giới mua

bán quốc tế.Trong giai đoạn hiện nay, không cần tiếp thị ở mãi bên kia nửa

vòng trái đất. Các hãng lớn của Mỹ chỉ thuần túy mua hàng các các nhà nhập

khẩu Mỹ, do đó sức cạnh tranh để được hợp đồng của các nhà nhập khẩu

này rất lớn. Các công ty thương mại Mỹ mua hàng trực tiếp tại Việt Nam

còn quá ít và quy mô không đáng kể.

Các doanh nghiệp cần thay đổi chiến lược kinh doanh để phù hợp với hoàn

cảnh hiện tại. Cụ thể là cần mở rộng mạng lưới tiếp thị trực tiếp vào thị

trường Mỹ, kết hợp các doanh nghiệp nhỏ và vừa để thành lập các tập đoàn

kinh tế nhập khẩu trực tiếp hàng hóa vào Mỹ, mở rộng mạng lưới kinh

doanh nhắm trực tiếp vào giới tiêu thụ Mỹ. Đây là điều chúng ta còn thiếu

và cần điều chỉnh để phát triển kinh doanh trong những thời kỳ kinh tế

khủng hoảng hiện nay. Luật sư Phạm Huy Phong