intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặc trưng của tiểu thuyết Julie hay nàng Héloise mới của J.J. Rousseau

Chia sẻ: Lê Quốc Hiếu | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:104

314
lượt xem
65
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Engels nhận định: “Thế kỷ XVIII chủ yếu là thế kỷ Pháp”. Văn học Pháp thế kỷ XVIII tuy nhiều hình nhiều vẻ, nhưng đều diễn ra trên những dấu hiệu chung của thời đại. Đó là một nền văn học xa lạ với quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Các nhà văn tuy mức độ khác nhau, nhưng đều có ý thức sử dụng ngòi bút như một thứ vũ khí để phơi bày ra ánh sáng triều đình phong kiến mục nát, xã hội đầy rẫy những tệ nạn xấu xa, phi lý cũng như cuộc sống...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặc trưng của tiểu thuyết Julie hay nàng Héloise mới của J.J. Rousseau

  1. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Thế kỷ XVIII đánh dấu một bước chuyển mình quan trọng trong quá trình phát triển của các nước phương Tây. Nó tồn tại trong lịch sử với cái tên đẹp: Th ế k ỷ Ánh sáng. Engels nhận định: “Thế kỷ XVIII chủ yếu là thế kỷ Pháp”. Văn học Pháp thế kỷ XVIII tuy nhiều hình nhiều vẻ, nhưng đều diễn ra trên những dấu hiệu chung của thời đại. Đó là một nền văn học xa lạ với quan điểm ngh ệ thu ật v ị ngh ệ thuật. Các nhà văn tuy mức độ khác nhau, nhưng đều có ý th ức s ử d ụng ngòi bút như một thứ vũ khí để phơi bày ra ánh sáng triều đình phong kiến mục nát, xã hội đầy rẫy những tệ nạn xấu xa, phi lý cũng nh ư cuộc sống kh ổ c ực c ủa nhân dân. Nhiều tác phẩm vang lên ý chí đấu tranh cho quyền tự do chính trị và quyền bình đẳng công dân, có giá trị như những lời kêu gọi, động viên qu ần chúng ti ến lên làm cách mạng. Kế thừa và phát triển những thành tựu về tư tưởng các th ế kỷ trước, th ế k ỷ XVIII, tiểu thuyết phát triển rực rỡ, đầy khí th ế, đầy triển vọng. Các nhà văn đồng thời là các nhà triết học nổi tiếng thời đó nh ư: Montesquieu, Voltaire, Diderot, J.J. Rousseau,... không phải chỉ đại diện cho tiếng nói của giai cấp t ư sản đương lên đấu tranh để tiêu diệt chế độ phong kiến, mà còn nói lên những tâm tư và nguyện vọng của toàn thể nhân dân bị áp bức. Vì thế, Engels rất ca ngợi “các nhà triết học vĩ đại” ở Pháp th ế kỷ XVIII, coi h ọ là “nh ững vĩ nhân... đã soi sáng đầu óc mọi người để chuẩn bị cho cuộc cách mạng sắp bùng n ổ” là “những nhà cách mạng phi thường” [36, 14]. Cũng trong bối c ảnh đó, xu ất hi ện một trào lưu tư tưởng mới gắn liền với tên tuổi rực rỡ J.J. Rousseau - nhà văn mở đường cho trào lưu tư tưởng có khuynh hướng dân chủ và là nhà văn tiêu biểu cho chủ nghĩa tình cảm ở Pháp và ở châu Âu. Rousseau chống l ại s ự tôn
  2. sùng lý trí và đề xướng ra triết học tình cảm, nhưng không phải vì thế mà ông không công kích kịch liệt chế độ phong kiến và trở thành một nhà văn cách mạng nhất, có tư tưởng dân chủ tiến bộ nhất trong các nhà văn Pháp th ế k ỷ XVIII. Năm 1761, Rousseau cho ra đời một cuốn tiểu thuyết tình Julie hay nàng Héloise mới (Julie ou la Nouvelle Héloise), cuốn sách đó đã trở thành tác phẩm mẫu mực của chủ nghĩa tình cảm. Rousseau đã trở thành người đặt nền móng cho ch ủ nghĩa tình cảm trong văn học Pháp, đóng góp một sắc thái riêng vào s ự nghi ệp đấu tranh giải phóng và nền văn học giàu tính chiến đ ấu c ủa th ế k ỷ này. Quy ển sách vừa xuất hiện, dư luận đã xôn xao. Từ năm 1761 đến 1800, sách được xu ất bản xấp xỉ bảy mươi lần, trong số đó có bốn m ươi lần in riêng. Có th ể nói, tr ừ Voltaire thì “Nàng Héloise mới” của Rousseau chiếm kỷ lục xuất bản của thế kỷ. Độc giả, nhất là giới nữ say sưa đọc quên ăn quên ngủ, nước mắt ròng ròng. Cuốn tiểu thuyết đã gây chấn động sâu sắc trong đời sống văn học nước Pháp. Đối với chúng tôi, Julie hay nàng Héloise mới mang đến cho chúng tôi niềm cảm thông vô hạn trước số phận của những chàng trai, cô gái yêu nhau nh ưng không đến được với nhau bởi những ràng buộc khắt khe của xã hội phong ki ến đương thời. Sức lôi cuốn của chủ đề tình yêu và giá trị xã hội mà tác phẩm mang l ại cùng với sức hấp dẫn về giá trị thể loại đã tạo niềm hứng khởi cho chúng tôi tiếp cận tác phẩm. Qua nghiên cứu đặc trưng thi pháp c ủa ti ểu thuy ết Julie hay nàng Héloise mới, chúng tôi muốn góp phần lý giải thêm nh ững đóng góp v ề mặt nghệ thuật của tác phẩm, đồng thời trang bị cho chúng tôi cách ti ếp c ận một tiểu thuyết được viết dưới dạng những bức thư, từ đó giúp chúng tôi có cái nhìn toàn diện hơn đối với một tác phẩm gây chấn động trên văn đàn th ế k ỷ XVIII. II. Lịch sử nghiên cứu
  3. J.J. Rousseau là nhà văn, nhà triết học tiến bộ Pháp thế kỷ XVIII, người tiên khu của cách mạng 1789, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của tư tưởng và văn học Pháp thế kỷ XVIII. Julie hay nàng Héloise mới vừa ra đời được độc giả dành cho nó một tình cảm hết sức trìu mến và được đón nhận nồng nhiệt. Ở Việt Nam , các nhà nghiên cứu, phê bình cũng đi sâu nghiên cứu chủ đề tình yêu và giá trị phê phán xã hội của tác phẩm. Hầu hết trong tất cả các giáo trình văn học Pháp, văn học phương Tây đều dành cho tác giả Rousseau và tác phẩm Julie hay nàng Héloise mới những trang viết thật cảm động giúp người đọc hiểu thêm về cuộc đời bất hạnh của một tác gia và giá trị nội dung, nghệ thuật của tác ph ẩm đ ược ông sáng tạo ra. - Phùng Văn Tửu trong Lịch sử văn học Pháp (Tập 3), bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc của mình về tác phẩm Julie hay nàng Héloise mới bằng nhận định: “Tiểu thuyết ra đời năm 1761, mang nhiều chất thơ, chất nhạc về tình yêu và cu ộc s ống. Nó là thế giới của tình cảm, tiếng nói của yêu thương, là thiên nhiên trữ tình tràn ngập âm thanh hiền hòa, du dương, là cái tôi trữ tình. Nó là tình bạn, tình yêu, tình vợ chồng trong cảnh điền viên giữa thiên nhiên bao la” [36, 184]. - Cũng Phùng Văn Tửu trong Văn học phương Tây thế kỷ XVIII lại dành cho Rousseau tình cảm trân trọng bằng nhận định: “ Julie hay nàng Héloise mới đem lại cho văn học Pháp yếu tố tình cảm chứa chan xưa nay ch ưa tùng bi ết đ ến” [38, 376]. - Trong Từ điển Văn học, mục Julie hay nàng Héloise mới do Phùng Văn Tửu viết đề cập đến giá trị nội dung của tác ph ẩm. Ông nói rằng: “Cuốn ti ểu thuy ết mở đầu cho trào lưu chủ nghĩa tình cảm trong văn h ọc Pháp và ghi m ột cái m ốc quan trọng trong lịch sử văn học châu Âu” [16, 701].
  4. - Đỗ Đức Hiểu trong Lịch sử văn học phương Tây (Tập 1), cho rằng: “Julie hay nàng Héloise mới có tiếng vang rộng rãi ở Pháp và ở Tây Âu thời bấy giờ. Nó có ảnh hưởng không những đối với trào lưu văn học tình cảm chủ nghĩa mà còn ảnh hưởng đến cả dòng văn học lãng mạn xuất hiện đầu thế k ỷ XIX. Cu ốn tiểu thuyết đẫm nước mắt, nhân vật khóc nhiều, nh ưng ti ếng khóc trong tác phẩm của Rousseau nói lên được tâm trạng khao khát giải phóng tình cảm của những con người bình thường sống dưới chế độ phong kiến, nhất là phụ nữ” [17, 440]. - Tạp chí Văn học số 4 - 1994 có bài “Quan điểm th ẩm m ỹ c ủa J.J. Rousseau v ề tình yêu - hạnh phúc gia đình trong Julie hay nàng Héloise mới” của Phong Tuyết nói rằng: “Tình yêu, theo Rousseau là cái gì đó rất t ự nhiên, r ất b ản năng, là nhu cầu tự nhiên của mỗi con người. Cấm yêu tức là chà đạp lên tự nhiên... Hạnh phúc gia đình phụ thuộc cả vợ lẫn chồng. Họ phải tự tìm thấy cho mình hạnh phúc ở cái mình đang có. Vợ chồng phải cảm thông, hiểu biết lẫn nhau, nh ất là ông chồng phải là người cao thượng, đức hạnh. Tất cả nh ững điều đó, theo Rousseau, làm cho gia đình bền vững” [42, 44 - 45]. - Tạp chí Văn học số 6 - 1994 có bài “Vấn đề văn bản nghệ thuật và tiểu thuy ết tình Julie của Rousseau” do Phong Tuyết viết đề cập đến tất cả những vấn đề liên quan đến văn bản nghệ thuật của tác phẩm Julie hay nàng Héloise mới bao gồm: Tên sách, đề từ, nội dung tác phẩm, lời nói đầu và lời tựa, kể c ả ph ần chú thích. Văn bản cũng là ngôn từ, những kỹ xảo văn chương, phép tu t ừ, là b ố cục... Các bài viết, các công trình nghiên cứu nói trên ít nhiều có liên quan đến đề tài nghiên cứu của chúng tôi. Đó là những gợi ý, phát hiện có tính ch ất g ợi m ở giúp cho chúng tôi kế thừa và phát triển để hoàn thành đề tài của mình. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
  5. III.1. Đối tượng nghiên cứu Khóa luận nghiên cứu một số đặc trưng thi pháp tiểu thuyết Julie hay nàng Héloise mới của J.J. Rousseau (bản dịch Hướng Minh). III. 2. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận này tập trung khảo sát những điểm đặc sắc trên các phương di ện: Kết cấu, cốt truyện, không - thời gian nghệ thuật, nhân vật, ngôn ng ữ, gi ọng điệu để từ đó rút ra những đặc sắc về mặt thi pháp tiểu thuyết bằng th ư Julie hay nàng Héloise mới của Rousseau. IV. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành khóa luận này, chúng tôi sử dụng một số ph ương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp tiếp cận hệ thống: Giải mã cấu trúc văn bản ngh ệ thuật ngôn t ừ dưới góc độ thi pháp học. Khai thác các thủ pháp nghệ thuật của từng yếu tố trong hệ thống văn bản: Kết cấu, cốt truyện, nhân vật, không - thời gian ngh ệ thuật, nghệ thuật trần thuật, giọng điệu, ngôn ngữ... - Phương pháp phân tích - tổng hợp: Nhằm phân tích và khái quát được đặc điểm nổi bật về mặt thi pháp của tác phẩm. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: So sánh tác phẩm được khảo sát với các tác phẩm khác cùng thời, cùng thể loại, cùng đề tài để từ đó kh ẳng đ ịnh nh ững đóng góp riêng của Rousseau từ bình diện thi pháp tiểu thuyết. - Phương pháp thống kê: Phương pháp này giúp chúng tôi chỉ ra được các loại hình nhân vật khác nhau trong tác phẩm. Chúng tôi còn th ống kê số l ượng th ư t ừ các nhân vật gửi cho nhau từ đầu đến cuối tác phẩm. - Phương pháp liên ngành: Đó là phương pháp thi pháp học, phong cách h ọc, lý thuyết tiếp cận hiện đại... để tìm ra những nét riêng trong phong cách nghệ thuật của Rousseau.
  6. V. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, khóa luận của chúng tôi được kết cấu trong ba chương: Chương I: J.J. Rousseau với tiểu thuyết Julie hay nàng Héloise mới Chương II: Kết cấu, cốt truyện, không - thời gian nghệ thuật trong tiểu thuy ết Julie hay nàng Héloise mới Chương III: Thế giới nhân vật, nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ - gi ọng đi ệu trong tiểu thuyết Julie hay nàng Héloise mới. PHẦN NỘI DUNG Chương I J. J. ROUSSEAU VỚI TIỂU THUYẾT
  7. JULIE HAY NÀNG HÉLOISE MỚI I. Giới thuyết về thư và tiểu thuyết bằng thư I.1. Thư từ Thư từ là phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết, xuất hiện khá s ớm, vào khoảng thế kỷ XIX Tr. CN [41]. Người ta dùng thư từ để trao đổi thông tin. Thư từ là thể loại gần với giao tiếp hằng ngày nhất. Nó có tính xác th ực r ất cao và đồng thời thể hiện đời sống tình cảm riêng tư rõ rệt. Th ư là đ ể thông báo s ự kiện hoặc để bày tỏ cảm xúc. Thư từ không đơn giản chỉ là một phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ viết mà bản thân nó còn chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật. Vì thế, ng ười ta v ận dụng nhiều thư từ vào trong tác phẩm văn học. Trong tác phẩm văn học, đặc biệt là trong truyện ngắn và tiểu thuyết, thư từ được sử dụng như một mô típ ngh ệ thuật. Nó thường sử dụng với mục đích nhấn mạnh tính xác thực, thuyết phục độc giả về vấn đề được đặt ra trong truyện. Ở Việt Nam , đầu th ế k ỷ XX, Hoàng Ngọc Phách đã cho ra đời cuốn tiểu thuy ết Tố Tâm. Gần một nửa tác phẩm được kết cấu bằng những lá thư của hai nhân vật Tố Tâm và Đ ạm Thu ỷ gửi cho nhau cùng những trang nhật kí đầy xúc động là một minh chứng cho mối tình đầy bi kịch của hai người. Có thư từ là đầu mối của sự kiện, trung tâm của cốt truyện, có những bức th ư chỉ xuất hiện vào một thời điểm nào đó trong tiến trình của câu chuy ện, nh ư Bà Bôvary của G. Flaubert, Đỏ và Đen của Stendhal, Hội chợ phù hoa của W.M. Thackeray, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Nhưng nhìn chung, trừ một số bức thư tham gia đắc lực vào tiến trình hành động, dẫn dắt sự kiện hoặc thực sự gây “biến cố”, sự có mặt của các bức thư trong truyện thường làm chậm nhịp kể. Lượng thông tin trong thư thường không đủ để lặp lại tính liên tục của câu chuyện. Nhưng ở góc độ khác, thư từ không những là ph ương tiện hữu hi ệu đ ể
  8. rút ngắn khoảng cách, duy trì liên hệ mà còn duy trì thông tin cho ng ười đ ọc những lúc nhân vật thực hiện những chuyến du hành của họ hay những lúc họ phải cách ngăn. Điểm nhìn bên trong của tiểu thuyết và truy ện ngắn đ ược nhân lên qua các b ức thư, trong đó có các nhân vật bộc lộ cảm nghĩ, đánh giá của mình về các sự kiện và về các nhân vật khác. Thư từ cũng phân biệt lượng thông tin giữa độc giả và nhân vật. Độc giả biết nội dung của bức thư trước khi nhân vật được đọc và ngay c ả khi nhân v ật không hề được đọc, hoặc ngược lại cũng có khi độc giả có ít thông tin hơn nhân vật bởi thư từ chỉ được nhắc đến mà không được trích dẫn văn bản nh ư trong Hội chợ phù hoa, người kể chuyện nói rõ nguyên do: “Song nếu những bức th ư của Ôxborn đều cộc lốc một cách rất nhà binh thì ta phải thú th ực rằng gi ả sử phải đem in cả những lá thư cô Xetlê gửi cho Ôxborn ắt phải kéo dài cuốn truyện này thành nhiều tập, ngay cả những bạn đọc đa cảm nhất cũng không thể chịu nổi” [41]. I.2. Tiểu thuyết bằng thư Tiểu thuyết bằng thư là hình thức tiểu thuyết sử dụng thư như một phương tiện chuyển tải hữu hiệu của quá trình tự sự, sử dụng lối kể và h ư c ấu c ủa ti ểu thuyết, vay mượn hình thức của thư từ, trong đó các bức thư đóng vai trò quan trọng trong tổ chức cốt truyện. Tiểu thuyết bằng thư ra đời từ các nước phương Tây, đặc biệt là ở Pháp. Nó có tiền đề từ những sáng tác trữ tình bằng thơ Héroides của Ovide (43 Tr. CN), Những bức thư của Abélard và Héloise, tác phẩm của Dante, Boccase... Tiểu thuyết bằng thư bắt đầu nảy sinh từ thế kỉ XVII. Đó có thể là thư trao đổi, tranh luận triết học, có thể là thư bày tỏ tình yêu. Năm 1656, Pascal cho ra đ ời Những bức thư gửi bạn tỉnh nhỏ gồm 18 bức thư gây chấn động nước Pháp. Người ta
  9. tranh nhau mua, đọc, chuyền tay nhau những bức thư nhỏ của Pascal. Cùng với Những bức thư gửi bạn tỉnh nhỏ của Pascal, Những bức thư tình yêu của B. de Fontelle là một sự kết hợp tuyệt vời đầy đủ nhất về các dạng của tiểu thuy ết bằng thư. “Thành công này được chuẩn bị trong một th ời gian dài cùng v ới bi ểu hiện trữ tình, nhất là tình yêu và sự phát tri ển c ủa hình th ức ngh ệ thu ật th ư tín. Bi kịch của Racin, nghệ thuật hùng biện của Bosuet, tiểu thuyết tâm lý của bà De La Fayette mách bảo cho tiểu thuyết bằng thư nói về tình yêu một cách thành thực nhưng vẫn theo khuôn mẫu đạo đức thời đại” [41]. Những bức thư của một nữ tu sĩ người Bồ Đào Nha của G. De Lavergne De Guilleragues ra đời vào năm 1669 là cuốn tiểu thuyết đơn thanh đ ầu tiên đánh dấu sự ra đời của tiểu thuyết bằng thư. Thế kỉ XVIII, tiểu thuyết bằng thư đặc biệt phát triển nở rộ, bởi với th ể loại này các nhà văn có thể đưa vào tiểu thuyết của mình nhiều nghị luận ngoại đề về chính trị, triết học, luân lý...mà một cuốn tiểu thuyết thông th ường không dung nạp được. Những bức thư Ba Tư (1721) của Montesquieu, Những bức thư triết học (1734) của Voltaire ra đời thể hiện sự thông dụng của tiểu thuyết bằng thư trong thế kỷ Ánh sáng. Năm 1761, J.J. Rousseau viết Julie hay nàng Héloise mới với một dàn hợp xướng nhiều giọng xoay quanh hai giọng chủ đạo của nhân vật chính, diễn tả sự giằng xé giữa tình yêu và đạo đức. Cùng với Nôi đau khổ cua chang Werthers (1774) ̃ ̉ ̀ cua Goethe, Julie hay nàng Héloise mới của Rousseau là tác phẩm đỉnh cao của ̉ văn học thư từ nói chung và tiểu thuyết bằng thư nói riêng. Sang thế kỷ sau, khoảng cách không gian và thời gian c ủa vi ệc trao đ ổi liên l ạc được rút ngắn. Thư từ không còn là những bí mật cá nhân mà đ ược công bố rộng rãi, đặc biệt là thư từ của các nhà tiểu thuy ết lớn nh ư Victor Hugo, Balzac, G. Flaubert. Hồi ký của hai người vợ trẻ (1841) của Balzac khá độc đáo với
  10. dạng hồi ký sử dụng năm mươi bảy bức thư trong suốt mười hai năm của hai giọng nữ, hai người bạn Renée Maucombe và Louise De Chaulieu bàn luận, tranh cãi về cuộc sống hôn nhân, hạnh phúc gia đình. Vào nh ững th ập niên cu ối thế kỷ XIX, ở Pháp, trường phái tự nhiên không hứng thú với loại ti ểu thuy ết bằng thư và nhìn chung tiểu thuyết bằng thư đã có những bước phat triên chậm. ́ ̉ Sang thế kỉ XX, tiêu thuyêt băng thư dân dân lây lai vị trí cua nó trên văn đan. ̉ ́ ̀ ̀ ̀ ́ ̣ ̉ ̀ Nhiêu tac phâm được viêt dưới dang thư nhưng có nhiêu cach tân hơn. Ví dụ ở ̀ ́ ̉ ́ ̣ ̀ ́ Viêt Nam có Vi hanh (1923) cua Nguyên Ai Quôc, Tố Tâm (1925) cua Hoang ̣ ̀ ̉ ̃ ́ ́ ̉ ̀ Ngoc Phach, gân đây có Bức thư gửi mẹ Âu Cơ cua Yban...Có môt tac phâm được ̣ ́ ̀ ̉ ̣ ́ ̉ xêp vao môt trong những tac phâm hay nhât cua thế giới thế kỉ XXI đó là Bức thư ́ ̀ ̣ ́ ̉ ́ ̉ cua môt người đan bà không quen cua nhà văn Ao Stefan Zweig. ̉ ̣ ̀ ̉ ́ Con người hiện đại mong muốn gìn giữ chút gì còn sót l ại của tính nhân văn và tính cá nhân (tiêu biểu cho tiểu thuy ết bằng th ư th ời kỳ đ ỉnh cao) - nét hi ếm thấy trong một thời đại mà con người đánh mất cả chính mình. II. J. J. Rousseau và những bước đường tư tưởng II.1. Hành trình cuộc đời và con đường sự nghiệp J. J. Rousseau - người gieo tư tưởng tự do dân chủ của thế kỷ Ánh sáng Pháp, người thầy rất mực tôn sùng của những nhà lãnh đạo trẻ tuổi Mara và Robespierre trong cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789, đã qua một cuộc đ ời thi ếu niên gian khổ, thân tự lập thân, tự trang bị cho mình c ả cái v ốn h ọc th ức sâu rộng đã giúp ông làm nên sự nghiệp. J. J. Rousseau sinh ngày 28-5-1712 tại Genève (Thuỵ Sĩ). Ông thu ộc dòng dõi người Pháp nhưng vì gia đình theo đạo Tin lành, bị nhà th ờ thiên Chúa giáo truy nã nên phải lánh sang Thuỵ Sĩ từ thế kỷ XVI. Ông xuất thân trong m ột gia đình lao động, ông nội và cha đều là thợ đồng hồ. Từ bé, Rousseau đã gặp nhiều gian khổ: khi Rousseau mới ra đời thì mẹ mất; khi Rousseau lên 10, bố ông phải
  11. từ giã gia đình rời khỏi Genève để tránh khỏi sự truy nã c ủa các nhà c ầm quy ền vì đã lăng mạ bọn quý tộc. Cậu bé Rousseau được đưa về nhà quê gửi cô, cậu nuôi và cho theo học mục sư Lăngbecxiê để học tiếng La-tinh trong 2 năm. Hai năm đó hầu như là khoảng thời gian duy nhất ông được theo học dưới sự hướng dẫn của một người khác. Từ năm 13 tuổi, Rousseau phải sống t ự l ập, gian kh ổ. Ông trải qua rất nhiều nghề để kiếm ăn, khi học ngh ề th ợ kh ắc, lúc làm gia s ư, lúc dạy âm nhạc, thậm chí có lúc phải đi ở... Cuộc sống khổ cực của bản thân và những người xung quanh ông trong xã hội Pháp thối nát, tù túng lúc bấy giờ khiến Rousseau sớm có tư tưởng chán ghét, căm thù ch ế độ quân ch ủ chuyên chế và tiếp thu những tư tưởng tiên tiến của thời đại. Rousseau đến với văn học và thành công trong văn học khá đột ngột. Trong 37 năm đầu của đời mình, Rousseau không sáng tác gì. Nh ưng m ột hôm vào mùa hè năm 1749, Rousseau đến thăm người bạn là Diderot lúc bấy gi ờ đang b ị giam ở Vanhxennơ vì đã viết một cuốn sách chống lại thần học và tôn giáo. Trên đ ường đi, ông giở xem một số tạp chí văn học, chợt nhìn thấy đề tài thi viết do Vi ện Hàn Lâm Dijon tổ chức: Sự tiến bộ của khoa học và nghệ thuật góp phần làm cho phong tục thuần khiết hay đồi bại? . Bao nhiêu ý nghĩ lóe lên trong đầu óc ông; ông ngây ngất ngồi ngã vào một góc cây bên đường, suy nghĩ miên man, vạt áo đẫm nước mắt. Sau này, trong tác phẩm tự thuật Sám hối, ông viết: “Ngay khi đọc những dòng chữ ấy, tôi trông thấy một thế giới khác và tôi trở thành một người khác” [17, 418]. Rousseau viết tác phẩm dự thi, chiếm được gi ải th ưởng và danh tiếng của ông bắt đầu lừng lẫy. Từ đó ông say sưa với sự nghiệp sáng tác và chỉ trong vòng mười ba năm (1749 - 1762), hầu hết các kiệt tác của ông đã ra mắt độc giả: các tác phẩm luận văn chính trị Luận về nguồn gốc và nền tảng của sự bất bình đẳng giữa người với người (1753), Luận về khế ước xã hội (1762), cuốn tiểu thuyết bằng thư Julie hay nàng Héloise mới (1761), tập luận
  12. văn về giáo dục dưới hình thức tiểu thuyết Emille hay về vấn đề giáo dục (1762) và một số tác phẩm khác. Bọn phong kiến và tăng lữ phản động rất căm ghét Rousseau và các tác phẩm của ông. Cuốn Emille ra đời chưa đầy hai mươi hôm thì tác giả bắt đầu ph ải sống một chuỗi ngày vô cùng gian khổ. Tác phẩm Emille và Khế ước xã hội bị chính quyền chuyên chế kết án và đốt đi. Đốt tác phẩm chưa đủ, bọn phản động còn tuyên bố cần phải thiêu sống tác giả nữa. Rousseau b ị truy nã, ph ải tr ốn tránh, khi ở Thuỵ Sĩ, khi ở Phổ trong một làng nh ỏ trên núi Giuy-ra. Tuy v ậy, cái nơi cằn cỗi, xa xôi ấy cũng không cưu mang Rouseau. Tháng 8-1762, tên t ổng giám mục Paris gửi cho khắp các nhà thờ một bức thông đi ệp tuyên b ố r ằng Rousseau là kẻ thù của Chúa và của người. Rousseau phải trốn ra một hòn đ ảo nhỏ ở giữa hồ Biên-nơ nhưng cũng không được yên thân: Chính ph ủ xứ Béc-nơ ra lệnh ông phải rời khỏi đảo. Năm 1766, Rousseau sang Anh theo lời mời của nhà triết học Anh Đavithium, nhưng chẳng bao lâu hai người lại mâu thu ẫn với nhau. Tháng 5 năm 1767, Rousseau trở về Pháp sống lén lút nay đây, mai đó. Cuối cùng, ông được phép trở về Paris, sống trong một căn nhà tồi tàn ở ph ố Platơrierơ, nay là phố Jean Jacques Rousseau, sinh sống bằng ngh ề chép thuê nhạc, ăn bánh mì đen và uống nước lã. Rousseau vẫn tiếp tục sáng tác nh ưng tính cách các tác phẩm của ông có thay đổi. Ông răn dạy người đời bằng cách trình bày thí dụ bản thân mình, tự thanh minh với hậu th ế và ch ống l ại nh ững lời vu oan, những lời buộc tội bất công. Các sáng tác chính của ông trong giai đoạn này là tác phẩm tự thuật Sám hối (1766 - 1770) và tác phẩm Những mơ mộng của một người dạo chơi cô độc (1772). Rousseau mất ngày 2 tháng 7 năm 1778 ở Écmơnôngvin, cách Paris hai d ặm. Hai mươi năm sau, khi cách mạng tư sản Pháp thắng lợi, thi hài ông đ ược qu ần chúng cách mạng đưa về mai táng ở điện Panthéon.
  13. II.2. Những bước đường tư tưởng II.2.1. Quan điểm tôn giáo Rousseau đứng trong hàng ngũ các nhà văn tiến bộ thế kỷ XVIII đấu tranh chống phong kiến và tăng lữ, nhưng tư tưởng của ông có nhiều điểm đặc biệt so với các nhà văn khác. Rousseau chưa tiến tới chủ nghĩa duy vật; ông không phải là một nhà văn có tư tưởng vô thần; trái lại ông còn tin vào th ượng đ ế. Tuy nhiên, tín ngưỡng của nhà văn là tự nhiên thần giáo. Hồi còn nhỏ, Rousseau bị ép buộc phải bỏ đạo Tin lành theo đạo Cơ đốc. Sau cuốn lu ận văn Luận về sự bất bình đẳng giữa người với người (1753), Rousseau quay trở về với đạo Tin lành của quê hương, của gia đình và của mình khi xưa. Rousseau ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi sự hài hòa và trật tự kỳ diệu trong thiên nhiên. Rousseau đã trình bày quan điểm tín ngưỡng của mình trong tác phẩm Emille chương “Quan điểm tín ngưỡng của một tu sĩ xứ Xa-voa”, tu sĩ nói: “Tôi đã gấp t ất c ả mọi quy ển sách lại, chỉ có một cuốn sách được mở ra trước mắt mọi người, đó là quy ển sách của thiên nhiên. Chính qua cuốn sách vĩ đại và tác tuy ệt ấy, tôi bi ết sùng mộ và tôn thờ vị tác giả thần minh của nó” [17, 420]. Vì thế nhà thờ thiên Chúa thời bấy giờ rất căm ghét nhà văn và đã tuyên b ố ông là kẻ thù của Chúa. Voltaire có tư tưởng vô thần, ông theo tôn giáo t ự nhiên th ần và chủ trương tin Chúa, chẳng qua chỉ là biện pháp để ngăn cản nh ững s ự ph ản kháng của quần chúng. Trái lại Rousseau tin Chúa là tin với tất c ả t ấm lòng c ủa mình; Rousseau tin có một vị Chúa nhân từ biết yêu th ương nh ững người nghèo khổ. Quan điểm triết học của Rousseau không tiến bộ bằng quan điểm triết học của Voltaire và Diderot. Tuy vậy, lý thuyết tự nhiên thần giáo c ủa ông trong th ời kỳ đấu tranh với chế độ phong kiến và nhà th ờ thiên Chúa giáo, có m ột nhân t ố cách mạng đặc biệt đáng kể, đồng thời với việc ca ngợi thiên nhiên và sự hài hoà kỳ diệu trong thiên nhiên, nhà văn đã th ẳng tay vạch ra cái vô tr ật t ự và m ọi
  14. sự bất công trong xã hội loài người, vạch ra những điều xảo trá, ngu muội của giáo hội, thành trì của chế độ phong kiến. Vì vậy, bọn quý tộc, tăng lữ có v ẻ chịu đựng được Voltaire “vô thần” và “nhạo báng thần thánh” hơn là Rousseau theo tôn giáo. II.2.2. Quan điểm chính trị và triết học Xét về quan điểm chính trị, Rousseau vượt các nhà văn và các nhà ho ạt đ ộng xã hội khác một bước khá xa. Montesquieu phê phán chế độ quân chủ chuyên ch ế và chủ trương chế độ quân chủ lập hiến ở nước Anh. Voltaire và Diderot không vượt được ra ngoài lý tưởng một nền quân chủ sáng suốt do một vị minh quân, một nhà vua hiền triết trị vì. Rousseau thì khác, lý tưởng của ông là chế độ cộng hoà. Ngay từ khi còn nhỏ tuổi, Rousseau rất tự hào được sinh ra ở Genève. Ông yêu Genève không những vì đấy là nơi chôn rau cắt rốn của ông mà còn vì Genève thời bấy giờ về hình thức theo chỉnh th ể cộng hoà. Khi Châu Âu đ ương chìm ngập trong chế độ phong kiến thì Genève lại tồn tại nh ư m ột qu ốc gia riêng biệt và thiết lập chế độ dân chủ tư sản. Tình cảm yêu mến tự do sớm nảy nở trong tâm hồn cậu bé Jean Jacques. Lúc còn nhỏ, Rousseau đã say s ưa đ ọc cuốn Danh nhân liệt truyện của Phy-tác-cơ, là cuốn sách mà những người có tư tưởng cộng hoà rất ham thích. Trong tác phẩm Luận về nguồn gốc và nền tảng của sự bất bình đẳng, sau khi tìm nguyên nhân sinh ra sự bất bình đ ẳng trong xã hội, nhà văn đã đi đến kết luận chế độ chuyên chế chà đạp lên mọi quy ền l ợi của nhân dân cũng là một hình thức của sự bất bình đẳng. Ông cho rằng nhân dân “bạo động giết chết hoặc truất ngôi bạo Chúa là m ột vi ệc làm chính đáng” [17, 422]. Nhà văn phát triển tư tưởng ấy trong Luận về khế ước xã hội. Luận về khế ước xã hội là một tác phẩm luận văn chính trị trình bày m ột cách rất chi tiết những nguyên tắc xây dựng một quốc gia lý tưởng bảo đ ảm quy ền tự do và bình đẳng trước pháp luật cho tất cả mọi công dân. Như th ế là trong l ịch s ử t ư tưởng của nhân dân Pháp thế kỷ XVIII, Rousseau đánh dấu một bước ngo ặt;
  15. ông tiêu biểu cho trào lưu tư tưởng có khuynh hướng dân chủ. Romain Rolland tặng ông danh hiệu “Người báo tin của nhà nước cộng hoà” [17, 423]. Mark nhận định về nhà văn như sau: “Rousseau luôn luôn ph ủ nhận bất kỳ m ột s ự thoả hiệp nào, dù là bề ngoài, với những chính quyền đã thiết lập” [17, 423]. Rousseau kịch liệt phê phán chế độ phong kiến nhưng đồng thời nhà văn cũng không muốn thay thế xã hội phong kiến quý tộc bằng xã h ội t ư s ản. Nhà văn s ợ thời đại thống trị của những nhà tài chính, những chủ ngân hàng, những kỹ nghệ gia, thời đại đồng tiền làm mưa làm gió. Rousseau chống lại chính cái xã hội tư sản đang từng ngày từng gi ờ nảy sinh trên sự đổ nát của chế độ phong kiến. Ông căm ghét nh ững kẻ giàu có, th ấy h ọ “giống như những con sói đói ăn, khi đã nếm mùi thịt người rồi thì chúng chán bỏ tất cả các thức ăn khác, chỉ còn muốn cắn xé người mà thôi” [17, 424]. Rousseau đại diện cho tư tưởng của giai cấp tiểu tư sản trong đ ẳng c ấp th ứ ba, là giai cấp tiến bộ hơn giai cấp tư sản vì bị áp b ức n ặng n ề h ơn. Do đó, t ư tưởng của Rousseau có nhiều điểm tiến bộ và độc đáo so với các nhà văn khác đại biểu cho tư tưởng của giai cấp tư sản. Nhưng chính quan điểm ti ểu tư sản cũng hạn chế Rousseau. Trong một xã hội mà những công cụ sản xuất do một thiểu số chiếm đoạt làm của riêng, thì những tiến bộ của khoa h ọc và k ỹ thu ật được dùng vào mục đích nô lệ hoá con người hơn là phục vụ con người. Trình độ kỹ thuật trong sản xuất càng phát triển, giai cấp tư sản càng lớn m ạnh thì giai cấp tiểu tư sản càng bị chèn ép, càng chóng đi đến chỗ phá s ản và b ần cùng hoá. Vì thế Rousseau sợ sự tiến hóa ấy. Nhà văn đấu tranh ch ống ch ế đ ộ phong kiến, muốn cho lịch sử tiến triển nhưng đồng thời lại muốn duy trì hình th ức sản xuất tiểu thủ công có tính chất phường hội của chế độ phong kiến. Đó là mâu thuẫn của Rousseau. Nhà văn thấy bản chất xấu xa của chế độ tư hữu tài sản, nhưng ông chưa thấy được cần phải tiến hành đấu tranh giai cấp để tiêu diệt chế độ tư hữu tài sản ấy. Ông chủ trương hạn chế tài sản tư hữu làm sao
  16. trong xã hội chỉ có toàn những người tiểu tư hữu. Rousseau và nh ững nhà t ư tưởng khác của thế kỷ XVIII “đều không thể vượt qua được những giới hạn mà thời đại riêng của họ đã quy định” [17, 425]. Xuất phát từ lòng căm ghét xã hội thối nát lúc bấy giờ, J.J. Rousseau đi đ ến ch ỗ đối lập tự nhiên với xã hội , một luận điểm căn bản, quán xuyến hầu hết các tác phẩm của ông. Theo Rousseau, con người bẩm sinh ra tốt, xã hội làm cho con người thành độc ác; con người bẩm sinh ra tự do, xã h ội làm cho con ng ười thành nô lệ; con người bẩm sinh ra sung sướng, xã h ội làm cho con ng ười thành ra cực khổ. Nói khác đi, nếu con người sống theo tự nhiên thì m ọi s ự đ ều t ốt lành, xã hội làm cho cuộc sống của người ta trở thành đồi bại. Rousseau phát triển luận điểm triết học về con người tự nhiên ấy trong các tác phẩm viết về các đề tài khác nhau của ông như Luận về sự bất bình đẳng, Khế ước xã hội, Emille, Julie hay nàng Héloise mới. Do đó, tuy Rousseau viết theo nhiều loại hình khác nhau và viết về các đề tài khác nhau nhưng các tác ph ẩm của ông có một sự thống nhất hữu cơ. Đem đối lập con người tự nhiên với con người xã hội tức là phủ nhận xã hội xấu xa tồn tại lúc bấy gi ờ và đ ấu tranh cho con người được sống tự do, hạnh phúc. Luận điểm triết học của Rousseau trong hoàn cảnh ấy có ý nghĩa cách mạng. Rousseau đối lập con người tự nhiên với con người xã hội hoàn toàn không có nghĩa là nhà văn muốn kéo lùi l ịch sử trở về với thời quá khứ. Nhà văn chỉ băn khoăn làm thế nào cho cuộc sống xã hội trở thành một cuộc sống nhân đạo. Qua các tác ph ẩm của ông, chúng ta th ấy n ổi bật lên một nét độc đáo so với các nhà văn đương thời: song song với mặt phá hoại cái cũ, Rousseau còn tiêu biểu cho mặt xây dựng cái mới. Mặc dù có nhiều điểm cực đoan và mâu thuẫn nhưng tư tưởng của Rouseau là tư tưởng tiến bộ của thời đại. Tư tưởng tiến bộ của Rousseau có ảnh hưởng rất to lớn. Rousseau là bậc thầy về tư tưởng của các nhà cách m ạng phái Giacôbanh như Rôbexpierơ, XanhGiuýt. Nhiều đoạn văn hùng hồn của Rousseau
  17. đã được mang đọc trước công chúng trong những ngày cách mạng. Nhiều điểm trong chương trình chính trị của ông đã được những người Giacôbanh đem ra thực hiện. Tư tưởng yêu tự do và công lý, tinh thần đấu tranh quy ết liệt vì chính nghĩa, vì những người nghèo khổ bị áp bức, cũng như tư tưởng chính trị dân ch ủ của ông đã ảnh hưởng đến nhiều cuộc cách mạng trên thế giới. Cho mãi tới nay, nhân dân thế giới vẫn coi Rousseau là người bạn chiến đấu của mình trong cuộc đấu tranh hoà bình và dân chủ. Hội đồng hoà bình thế giới đã quyết định tổ chức kỷ niệm 250 năm ngày sinh của ông năm 1962. Quan điểm tự nhiên thần giáo, triết lý về con người tự nhiên và lý t ưởng v ề một xã hội cộng hoà luôn luôn xuất hiện trong các sáng tác của ông. II.2.3. Quan niệm nghệ thuật của Rousseau “Con người ta không phải ai cũng tự hiểu biết mình một cách sâu sắc ngay từ đầu. Cũng giống như biển cả ào ào vỗ sóng đêm ngày mà đâu có bi ết trong lòng mình có chất muối mặn, phải chờ đến một lúc nào đó sóng tràn qua con đ ập vào ruộng, lắng lại một thời gian, nước dần dần bay hơi hết, chất muối mới k ết tinh” [37,182]. Rousseau cũng như vậy, suốt mấy chục năm trời, trong thế giới tinh th ần c ủa ông ngổn ngang bao điều băn khoăn, suy nghĩ và những tình cảm đủ màu sắc, có vui, có buồn, có lòng biết ơn, có niềm uất hận, có yêu, có ghét. Nh ưng tất c ả đều tản mạn, chưa định hình rõ rệt, có tính chất bột phát. Tác phẩm dự thi đầu tiên gửi đến Viện Hàn Lâm Dijon đoạt gi ải th ưởng r ồi sau đó được xuất bản. Những cái gì trước kia tản mạn, bây giờ được sắp xếp lại, kết tụ lại thành hệ thống. Những nét tâm hồn trước kia ông mới chỉ cảm thấy một cách mơ hồ, bây giờ hiện rõ dần ra, những phản ứng t ự phát được chuy ển dần sang tự giác. Rousseau bắt đầu có ý thức rõ rệt v ề b ản thân mình, yêu, ghét rõ rệt hơn; bạn, thù phân minh hơn. Ông hiểu rằng h ạnh phúc của ông gần v ới
  18. hạnh phúc của tầng lớp nghèo khổ bị áp bức, lòng căm thù của ông hướng vào chế độ phong kiến đã mục ruỗng, không loại trừ bọn vua Chúa s ống xa hoa, ăn chơi trụy lạc trong triều đình Véc-xây. Ông cũng không đứng cùng trận tuy ến với giai cấp tư sản, mặc dầu họ cũng có những khía cạnh ti ến b ộ trong th ời đ ại bấy giờ và giương cao ngọn cờ phản phong. Khi đã xem văn chương là một nghề, là cái nghiệp của đời mình thì ai cũng đ ều có quan niệm rõ ràng về văn chương, về mục đích sáng tạo, về cái đích hướng tới của tác phẩm nghệ thuật. Rousseau là nhà văn có trách nhiệm cao với nghề cầm bút của mình. Viết văn đối với ông không phải là đ ể tư l ợi mà là đ ể chi ến đấu vì lợi ích chung của cộng đồng. Rousseau trực tiếp phát biểu quan niệm của mình trong Những điều bộc lộ như sau: “Ngòi bút vụ lợi không thể viết ra được cái gì khoẻ khoắn lớn lao. Một xu lợi tức đồng niên ta cũng không có. Nh ưng ta đã quen sống giản dị và nghề chép nhạc tuy chẳng kiếm chác được gì nhi ều nhưng cũng đủ sống. Ta sẽ tiếp tục chép thuê nh ạc và tin rằng công vi ệc không thiếu” [37, 235]. Ông còn nói: “Viết văn là để nói những sự th ật l ớn lao c ủa cuộc đời. Sách in ra là để trình bày một vấn đề gì đó liên quan đến lợi ích chung, ngoài ra ta chẳng hề băn khoăn đến mục đích nào khác. Đầu óc khó có th ể suy nghĩ một cách cao thượng thì người ta còn trông vào cái suy nghĩ ấy đ ể ki ếm ra tiền. Còn ta, nếu sách không bán được thì ngh ề chép nhạc thuê cũng đ ủ nuôi sống gia đình rồi. Mà cũng chính vì thế mà sách lại sẽ bán chạy kia đấy” [37, 235 - 236]. Cái “sự thật lớn lao” mà tác giả nói đó là sự bất bình đẳng xã h ội, s ự đ ối l ập giàu nghèo giữa giai cấp phong kiến quý tộc với nhân dân lao đ ộng, đó là s ự áp bức bóc lột một cách quá đáng, chà đạp lên quyền sống của quần chúng lao khổ. Vì thế ông đứng về phía nhân dân, phía những người nghèo kh ổ để đấu tranh cho sự bất bình đẳng xã hội. Ông cho rằng bất bình đẳng là do chế độ tư hữu tài sản gây ra, đó là nội dung cuốn Luận về nguồn gốc sự bất bình đẳng. Ông ca
  19. ngợi tình yêu tự do theo thiên tính và phê phán các thành kiến về đẳng cấp, v ề giàu nghèo, sang hèn đã vùi dập tình yêu, hạnh phúc của con người, đó là điều ông muốn gửi gắm trong Julie hay nàng Héloise mới. Tuy nhiên quan niệm đó mâu thuẫn ngay trong chính bản thân ông. Là một nhà văn có trách nhiệm với nghề, nhưng trong một tác phẩm luận văn Luận về khoa học nghệ thuật ông lại phủ nhận nghệ thuật, phủ nhận toàn bộ nền văn minh của con người nói chung và của xã hội thời đại Rousseau nói riêng. Ông cho rằng mọi tội lỗi, mọi cái xấu xa đều do khoa học và nghệ thuật gây ra, chúng khiến con người yêu mến kiếp nô lệ, mất đi tình cảm cội rễ tự do mà dường như vì nó con người mới sinh ra. Theo ông, “tâm hồn chúng ta bị suy đồi theo cùng với sự hoàn thiện của khoa học nghệ thuật” [36, 177]. Rousseau cho rằng khoa học và nghệ thuật ra đời do lòng kiêu ngạo của con người. Các khoa học khuyến khích sự lười biếng, còn các ngành nghệ thuật bao giờ cũng đi kèm với sự xa hoa, động lực của sự hư hỏng và đồi bại. Sau cùng, khoa h ọc và ngh ệ thuật chỉ làm yếu đi tinh thần thượng võ và đẻ ra nền giáo dục sai lầm là chỉ đào tạo những tài năng mà không đào tạo công dân. Ông cho rằng đạo đức là “khoa học cao nhã của những tâm hồn thuần phác”[36, 177]. Muốn tìm hiểu nó ch ỉ cần ta quay về với chính mình và “lắng nghe tiếng nói của lương tâm gi ữa s ự im ắng của các đam mê” [36, 177]. Mặc dù có nhiều mâu thuẫn nhưng những giá trị mà tác ph ẩm c ủa ông mang l ại không thể phủ nhận tác dụng của văn học nghệ thuật. Tác phẩm c ủa Rousseau toát lên sức mạnh tố cáo rất lớn xã hội phong kiến chà đạp con người. Rousseau trở thành nhà văn cách mạng nhất, có tư tưởng tiến bộ nhất trong các nhà văn Pháp thế kỷ XVIII. II.3. Julie hay nàng Héloise mới - Quá trình hình thành tác phẩm - Từ câu chuyện thật đến tiểu thuyết và ý nghĩa của nhan đề
  20. II.3.1. Tóm tắt tác phẩm Julie hay nàng Héloise mới mô tả mối tình đằm thắm giữa Saint-Preux, một gia sư nghèo thuộc đẳng cấp thứ ba và cô học trò xinh đẹp của chàng thuộc dòng dõi quý tộc là nàng Julie. Tiểu thuyết gồm một trăm sáu mươi ba bức th ư c ủa đôi tình nhân trao đổi với nhau hoặc với một vài người b ạn thân trong khung cảnh thiên nhiên hùng tráng và nên thơ của miền hồ Genève và vùng núi Valais trên đất nước Thuỵ Sĩ. Nam tước phu nhân D’Étanges đón Saint-Preux v ề nhà làm gia sư dạy cho con gái của bà là Julie, hi v ọng s ẽ làm cho ch ồng ph ải ng ạc nhiên về sự tiến bộ của con sau chuyến ông đi vắng xa trở về. Chẳng bao lâu đôi thanh niên nam nữ ấy yêu nhau chân thành và sôi nổi. Saint-Preux nghe l ời khuyên của Julie tạm lánh xa một thời gian. Chàng đi Valais giải quy ết ít công việc riêng rồi quay về sống ở làng Meillerie, phía bên kia hồ không xa làng Vơrê, quê hương của Julie là mấy, và hai người vẫn bí mật đi lại với nhau. Claire cô em họ của Julie, và chàng Édouard người Anh, bạn thân của Saint- Preux tìm cách nói giúp với nam tước D’Étanges cho hai người đ ược nên v ợ nên chồng. Bản thân Julie cũng cố gắng thuyết phục cha. Nhưng nam tước khăng khăng không tán thành con gái kết duyên với một gia s ư nghèo gốc gác bình dân. Vả lại ông đã hứa gả con cho ông Wolmar, một nhà quý phái tuổi trạc năm mươi để đền ơn Wolmar đã có lần cứu ông thoát chết. Saint-Preux lại ra đi. Édouard khuyên đôi tình nhân bỏ trốn sang Anh là nơi luật pháp cho phép h ọ chung s ống với nhau, nhưng Julie từ chối vì không muốn làm cha mẹ buồn phiền. Sau một trận ốm nặng, Julie đành chịu phục tùng, nhận lời lấy ông Wolmar. Saint-Preux giải cho nàng những lời thề ước cũ, lòng đau như cắt và có ý đ ịnh t ự t ử, nh ưng sau nghe lời khuyên giải của Édouard, xuống chiếc tàu Anh đi du lịch vòng quanh thế giới cho khuây khoả nỗi lòng. Julie về sống trong trang trại của chồng ở làng Clarens, mé hồ phía đông làm nhiệm vụ của một người vợ hiền chăm sóc công việc gia đình và nuôi dạy con cái. Sáu năm sau, Saint-Preux tr ở v ề, Wolmar
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2