HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HUỲNH VĂN TÁNH
VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: CNDVBC & CNDVLS
HÀ NỘI - 2021
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HUỲNH VĂN TÁNH
VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 9229002
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Hồ Trọng Hoài
2. TS. Lê Ngọc Triết
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Huỳnh Văn Tánh
MỤC LỤC
Trang 1
6
6
24
27
27
38
49
62
62
72
103
112
112
120 144 146 147 159
PHẦN MỞ ĐẦU Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các công trình nghiên cứu về đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long 1.2. Khái lượt các kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề luận án của nghiên cứu sinh tiếp tục giải quyết Chƣơng 2: ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY– MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Quan niệm về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực ngành du lịch ở Việc Nam hiện nay 2.2. Quan niệm và bản chất của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Việt Nam hiện nay 2.3. Yêu cầu và những nhân tố ảnh hưởng đến việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở việt nam hiện nay Chƣơng 3: ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa và nguồn nhân lực ảnh hưởng đến đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long 3.2. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay 3.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay Chƣơng 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY 4.1. Một số quan điểm trong việc nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay 4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1.ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á :
2 CĐ : Cao đẳng
3. ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long :
: Đại học 4. ĐH
: Đơn vị tính 5. ĐVT
6. KHXH : Khoa học xã hội
: Nhà xuất bản 7. Nxb
: Trung cấp 8. TC
: Thành phố 9. TP
: 10. UBND Ủy ban nhân dân
11. UNWTO : Tổ chức Du lịch Thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
63-64 Bảng 3.1 : Diện tích, dân số và mật độ dân số các địa phương
ĐBSCL năm 2019
66 Bảng 3.2 : Thống kê lượt khách du lịch nội địa và quốc tế đến
ĐBSCL năm 2016 – 2019
Bảng 3.3 : Thống kê doanh thu du lịch ĐBSCL năm 2016 – 2020 67
70 Bảng 3.4 : Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo địa
phương năm 2019
71 Bảng 3.5 : Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên được đào tạo chuyên
môn kỹ thuật theo vùng kinh tế - xã hội năm 2019
DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ
Trang
Hình 3.1 : Mức độ hài lòng của người học đối với đội ngũ giảng
dạy tại các cơ sở đào tạo du lịch ở ĐBSCL 74
Hình 3.2 : Cơ cấu lý do học viên, sinh viên lựa chọn ngành du lịch tại các
75 cơ sở đào tạo du lịch ở ĐBSCL
Hình 3.3 : Cơ cấu mức độ hài lòng của giáo viên, giảng viên về khả
năng tự học, tự nghiên cứu của học viên, sinh viên tại các
94 cơ sở đào tạo du lịch ở ĐBSCL
Hình 3.4 : Các hình thức liên kết doanh nghiệp tại các cơ sở đào tạo du
98 lịch ở ĐBSCL
Hình 3.5 : Cơ cấu mức độ hài lòng của học viên, sinh viên về cơ
sở vật chất kỹ thuật ại các cơ sở đào tạo du lịch ở
ĐBSCL 100
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát điểm của đổi mới là gì, nếu không phải là từ con người, bởi
vì không có sự đổi mới xã hội nào nếu không có sự đổi mới từ con người. Vì
thế trong công cuộc đổi mới hiện nay phải phá bỏ những lực cản trong xã hội
và trong chính bản thân con người và phát huy nguồn lực con người. Ngày
nay xây dựng chủ nghĩa xã hội có thực hiện được hay không điều đó tùy
thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng và ý thức hoạt động tự giác của nhân dân lao
động. Tại Đại hội lần thứ XII, một là nữa Đảng ta khẳng định: “Đẩy mạnh
toàn diện đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững;
phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại” [28, tr. 76]. Ở đây, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu
tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong ba đột phá chiến lược,
Đảng ta nhận định phải phát triển nhanh nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục
đào tạo quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nhân lực với phát triển và ứng
dụng khoa học công nghệ.
Đối với ngành du lịch là ngành có vị trí quan trọng đóng góp vào ba
trụ cột kinh tế, xã hội, môi trường. Đây là ngành kinh tế mũi nhọn và
ngàycàng phát triển vực bậc cả về chiều rộng và chiều sâu, cũng như ngày
càng được đầu tư trên phương diện hoạt động lí luận và thực tiễn ở các cấp, từ
trung ương đến các vùng miền, địa phương. Ở đây, vấn đề đào tạo nguồn
nhân lực cho du lịch là yêu cầu tiên quyết cho mọi bước hoạt động và tăng
trưởng của ngành.
Dưới sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ngành du lịch
cũng nhanh chóng phát triển và có nhiều chuyển biến. Trong đó yêu cầu về
đội ngũ nhân lực có kiến thức, giỏi kỹ năng nghiệp vụ là vấn đề cấp thiết đối
2
với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Tuy nhiên một số người học ngành
du lịch sau khi ra trường vẫn khó khăn trong quá trình tìm việc do kiến thức
trang bị không đáp ứng yêu cầu của công việc, đòi hỏi phài nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch.
Trong bức tranh phát triển du lịch Việt Nam, Đồng bằng sông Cửu
Long còn gọi là Tây Nam Bộ nổi lên như một điểm đến nhiều triển vọng.
Đồng bằng sông Cửu Long có thế mạnh về nông nghiệp, có nhiều tài nguyên
du lịch tự nhiên và nhân văn đặc sắc tiêu biểu là đặc trưng văn hóa Nam Bộ,
hệ sinh thái sông nước miệt vườn. Tuy nhiên, cho đến nay Đồng bằng sông
Cửu Long vẫn còn là “vùng trũng” về giáo dục đào tạo nguồn nhân lực. Các
cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long
còn yếu và thiếu. Điều này là một trong những nguyên nhân chính ảnh hưởng
đến sự phát triển của ngành du lịch toàn vùng. Đến nay, từ các góc độ tiếp cận
khác nhau (triết học, kinh tế, xã hội học, văn hóa…) có sự thu hút sự quan
tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu cũng như những nhà hoạt động thực tiễn
và đã có nhiều công trình nghiên cứu về phát triển du lịch Đồng bằng sông
Cửu Long cũng như phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng. Từ đó,
bức tranh về đặc điểm du lịch cũng như thực trạng nguồn nhân lực du lịch của
vùng cũng đã được phác họa tương đối rõ nét. Tuy nhiên, chưa có công trình
nào nghiên cứu về lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng
sông Cửu Long một cách hệ thống và chuyên sâu dưới góc độ triết học, nhằm
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch của vùng, phù
hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội Đồng bằng sông Cửu Long nói
riêng và cả nước nói chung. Xuất phát từ tình hình đó, việc thực hiện đề
tài“Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu
Long hiện nay” không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa
thực tiễn, cấp bách.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về nguồn nhân lực ngành du lịch, đào tạo nguồn nhân
lực ngành du lịch, luận án khảo sát, phân tích về thực trạng đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trên cơ sở đó đề
xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch của vùng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án giải quyết một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu tổng quan những vấn đề liên quan đến đề tài luận
án. Trên cơ sở đó, kế thừa những giá trị tích cực của các công trình nghiên
cứu trước và chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Thứ hai: Hệ thống hóa và luận giải những vấn đề lý luận có liên quan
đến đề tài; Phân tích những khía cạnh có liên quan đến đào tạo nguồn nhân
lực ngành du lịch ở Việt Nam hiện nay như: quan niệm về đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch, bản chất chất của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành
du lịch, những yêu cầu và nhân tố ảnh hưởng đến việc đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch.
Thứ ba: Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.
Thứ tư: Đề xuất một số quan điểm và giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long ở nước
ta hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ngành
du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam hiện nay.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu vấn đề đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch ở các đối tượng chủ yếu là chủ thể đào tạo (người làm
công tác quản lý, giảng viên các trường trung cấp, cao đẳng, đại học có đào tạo
ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long), đối tượng đào tạo (những người đã
tốt nghiệp trung học phổ thông, trúng tuyển vào và đang theo học ngành du lịch
tại các trường trung cấp, cao đẳng, đại học ở Đồng bằng sông Cửu Long), nội
dung, hình thức, phương pháp và môi trường đào tạo trong các trường trung cấp
cao đẳng, đại học có đào tạo ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long. Trong
luận án khái niệm nguồn nhân lực ngành du lịch được tác giả luận án hiểu theo
nghĩa hẹp là nguồn lao động ngành du lịch.
Phạm vi không gian: Nghiên cứu đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
trên địa bàn 13 tỉnh thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Phạm vi thời gian: Tác giả nghiên cứu, điều tra, sử dụng số liệu liên quan
đến đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng từ năm 2015 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về con người, vai trò của con người,
nguồn nhân lực, nguồn nhân lực ngành du lịch, đào tạo nguồn nhân lực và đào
tạo nguồn nhân lực ngành du lịch… Ngoài ra, luận án còn kế thừa các thành
tựu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả có sử dụng các phương pháp như: phân
tích, tổng hợp, so sánh, điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp xử lý số liệu…
Trong đó, phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp là chủ yếu.
5. Những đóng góp mới của luận án
5
Luận án luận giải, bổ sung những vấn đề lý luận để làm rõ quan niệm,
vai trò, những khía cạnh cơ bản, yêu cầu và yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch.
Luận án phân tích và đánh giá thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân
lực ngành du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long từ 2015 đến nay, từ đó làm
rõ những thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch của vùng.
Luận án trình bày quan điểm và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án góp phần hệ thống hóa quan niệm, chủ thể, đối tượng, nội
dung, hình thức, phương pháp, môi trường đào tạo nguồn nhân lực ngành du
lịch; Phân tích, đánh giá thực trạng, đồng thời trình bày những vấn đề đặt ra
của thực trạng đào tạo cũng như đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu
Long hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo
trong việc hoạch định, thực thi chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
ngành du lịch ở nước ta hiện nay.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên
cứu và hoạt động thực tiễn về đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng
bằng sông Cửu Long, nhất là các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp du lịch.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án được chia thành 4 chương và 10 tiết.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN
NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực và đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu nguồn nhân lực và đào tạo nguồn
nhân lực
Nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực là một vấn đề đã được rất
nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu dưới các góc nhìn khác nhau,
từ góc độ kinh tế học, xã hội học đến triết học.
Tác giả Phạm Minh Hạc năm 2001 trong công trình “Nghiên cứu con
người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa” Nxb Chính trị
quốc gia, đã phân tích mối quan hệ giữa giáo dục - đào tạo, sử dụng với phát
triển nguồn nhân lực; từ đó tác giả đề xuất, kiến nghị về chiến lược và chính
sách phát triển toàn diện con người, nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Bên cạnh đó, tác giả đã đưa ra khái niệm nguồn nhân lực: Đó là tổng
thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao
động được chuẩn bị (ở một mức độ khác nhau, sẵn sàng tham gia một công
việc nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng, hay khả năng nói chung),
bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển
đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa [41].
Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Nguồn nhân lực (thuộc Viện nghiên
cứu Phát triển Giáo dục năm 2002, đã tập hợp các công trình nghiên cứu và
bài báo khoa học của nhiều tác giả liên quan đến các vấn đề lý luận, thực tiễn
7
về chiến lược, chính sách phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam và trên thế
giới trong quyển “Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển
nguồn nhân lực”. Trong đó, các tác giả đã bàn đến một số vấn đề lý luận
chung về nguồn nhân lực (như khái niệm, vai trò của nguồn nhân lực, mối
quan hệ giữa chính sách đào tạo và chính sách phát triển nguồn nhân lực…).
Đặc biệt, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đã được tác giả bàn luận chuyên sâu,
như: Xã hội hóa đào tạo nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa Đất nước; gắn đào tạo theo địa chỉ… Đồng thời, nghiên cứu này cũng
phân tích về chính sách giáo dục – đào tạo ở các nước ASEAN trong thời kỳ
công nghiệp hóa [121].
Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nhơn trong sách “Quản lý và phát triển
nguồn nhân lực xã hội”, Nxb Tư pháp năm 2004, đã đi sâu phân tích về một
số vấn đề cơ bản như: nguồn nhân lực và đặc điểm nguồn nhân lực Việt Nam;
phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực xã hội; tổ chức tiền lương và
bảo hiểm xã hội; phân bố dân cư và nguồn nhân lực xã hội… Bên cạnh đó, tác
giả cũng đã đưa ra các khái niệm như: nguồn nhân lực xã hội, nguồn nhân lực
doanh nghiệp; đồng thời tác giả cũng phân tích vai trò của nguồn nhân lực
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [82].
Để phân tích thực trạng và đưa ra hệ thống giải pháp nhằm gắn đào tạo
với sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đồng
chủ biên Nguyễn Văn Nam và Nguyễn Văn Áng trong sách “Các giải pháp
cơ bản gắn đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực” (2007) đã phân tích vai trò
quyết định của nguồn nhân lực được đào tạo đối với phát triển kinh tế, với
việc giải quyết các vấn đề xã hội [77].
Giáo trình Quản trị nhân lực (Lê Thanh Hà – Chủ biên) (2009) [36] đã
phân tích một cách hệ thống dưới góc nhìn kinh tế học các giai đoạn, hoạt
động cơ bản của quá trình quản trị nhân lực, trong đó có nội dung đào tạo và
8
phát triển nhân lực. Theo đó, giáo trình đã phân tích các nội dung cơ bản như:
khái niệm, mục đích, nguyên tắc, các hình thức và phương pháp đào tạo, kế
hoạch và tiến trình đào tạo, vấn đề đào tạo cán bộ quản lý…
Trong bài viết “Trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực trong điều kiện
kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay” (2009) [44], tác giả Lương Đình Hải đã
phân tích về vai trò chủ yếu và quyết định của nguồn nhân lực trong thời đại
của kinh tế tri thức, cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa, đặc biệt
là 3 đỉnh của tam giác nhân lực – hay còn gọi là nguồn nhân lực chất lượng
cao - là đội ngũ trí thức, tầng lớp chính khách và doanh nhân. Tác giả cho
rằng: “Nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu trong sự phát triển của các quốc
gia. Nó quyết định quy mô, tốc độ, tính chất và hiệu quả của sự phát triển
kinh tế - xã hội của các quốc gia…” [44, tr.15]. Bài báo cũng đánh giá: “Khi
tình hình đất nước thay đổi, ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam đã không
đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển” [44, tr.16]. Vì vậy, cần có một chiến
lược quốc gia thống nhất về nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tác giả Nguyễn Hữu Long (2010) trong giáo trình “Phát triển nguồn
nhân lực” [62] đã trình bày khái quát những vấn đề như: khái niệm, vị trí vai
trò của nguồn nhân lực, các loại hình giáo dục - đào tạo trong phát triển nguồn
nhân lực. Theo đó, nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ những người trong độ
tuổi (và một bộ phận người lao động về hưu nhưng vẫn tiếp tục lao động) của
một nước, một vùng tham gia phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, địa
phương; nguồn nhân lực được nghiên cứu về số lượng, chất lượng, cơ cấu.
Tác giả Đoàn Xuân Thủy trong bài viết “Những vấn đề đặt ra đối với
việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay” (2013)
[104], đã phân tích đặc điểm con người Việt Nam theo phương diện nguồn
nhân lực và những vấn đề đặt ra đối với đào tạo nhân lực chất lượng cao ở
nước ta. Theo tác giả, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào tương đối trẻ; tỷ
9
lệ lao động được đào tạo kỹ thuật, chuyên môn thấp, phần lớn là lao động thủ
công; phân bố lao động đã qua đào tạo chuyên môn rất không đồng đều giữa
các vùng và cơ cấu lao động theo ngành mặc dù đã có bước chuyển dịch tích
cực song vẫn đang ở mức rất lạc hậu so với thế giới, đặc biệt so với các nước
phát triển. Từ đó, tác giả đã đề cập đến những vấn đề đặt ra đối với đào tạo
nhân lực chất lượng cao ở nước ta. Đó là sự mất cân đối rất lớn giữa cung và
cầu lao động chất lượng cao; chất lượng thực tế của nhân lực chất lượng cao
còn thấp và sự phân bố nguồn nhân lực chất lượng cao còn mất cân đối và tập
trung trong khu vực quản lý nhà nước [104].
Tác giả Lương Công Lý và các cộng sự năm 2016 trong nghiên cứu
“Phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay” [67] đã trình bày những vấn đề lý luận
về nguồn nhân lực chất lượng cao, phân tích vai trò, thực trạng và những vấn
đề đặt ra cũng như đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò
của giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam hiện nay.
Các công trình trên, dù tiếp cận ở những góc độ hay khía cạnh khác
nhau đều có cách nhìn khác nhau về khái niệm nguồn nhân lực, nhưng điểm
chung đều là sự khẳng định vai trò chủ đạo, quyết định của nguồn nhân lực
đối với sự phát triển, dù là ở quy mô nào. Đồng thời, quá trình phát triển
nguồn nhân lực luôn có sự tác động trực tiếp và quyết định của hoạt động đào
tạo nguồn nhân lực. Đây là những vấn đề lý luận, những tư liệu quý giá giúp
cho nghiên cứu sinh kế thừa về nguồn nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nguồn nhân lực
ngành du lịch và đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
Nguồn nhân lực ngành du lịch và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du
lịch là một vấn đề đã và đang được các nhà nghiên cứu trong nước, quốc tế
bàn luận sôi nổi.
10
Tác giả Dennis Nickson trong nghiên cứu “Human resource
management for the hospitality and tourism industries”, Elsevier Linacre
House, Jordan Hill, Oxford, USA năm 2007 [1] cho rằng khi tính quốc tế hóa
trong giáo dục ngày càng cao thì việc quản lý nguồn nhân lực ngành du lịch
của các quốc gia càng gặp nhiều thách thức. Đồng thời, tác giả cũng đã phân
tích những nội dung cơ bản của hoạt động quản lý nguồn nhân lực ngành du
lịch như: xây dựng văn hóa tổ chức, nghiên cứu thị trường lao động, tuyển
dụng, sử dụng, bố trí, đào tạo và phát triển, xây dựng mối quan hệ lao động,
đãi ngộ, chăm sóc sức khỏe...
Đặc biệt, trong nội dung về đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch, tác
giả đã nhấn mạnh vai trò then chốt của hoạt động này trong việc phát triển của
mỗi cá nhân, tổ chức và mỗi quốc gia và phân tích các bước của quá trình đào
tạo nguồn nhân lực ngành du lịch, bao gồm: đánh giá nhu cầu đào tạo, xây
dựng kế hoạch đào tạo, xác định mục tiêu đào tạo, thiết kế chương trình đào
tạo, lựa chọn phương pháp đào tạo, hoàn thiện kế hoạch đào tạo, tiến hành
đào tạo, đánh giá đào tạo, xây dựng kế hoạch đào tạo tiếp theo.
Năm 2009, bài báo “Human resource management - Developing force
of tourist industry” (một phần trong dự án nghiên cứu "The Integration of
Serbian Economy into the EU - Planning and Financing of Regional and
Rural Development and Enterprise Development Policy” [3] của nhóm tác giả
Marija Džopalić1, Jovan Zubović, Ivana Domazet đã nhận định rằng: Thành
công của ngành du lịch phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng yếu tố quan trọng
nhất là nguồn nhân lực. Do vậy, các nhà quản lý cần biết sử dụng những
phương pháp và công cụ khác nhau để phát triển năng lực và thúc đẩy động
lực của người lao động. Đồng thời, các tác giả cũng đã phân tích đặc điểm và
chỉ ra 14 lĩnh vực của ngành du lịch [3, tr.3]. Công trình nghiên cứu này cũng
nhấn mạnh đến yếu tố giáo dục - đào tạo trong hoạt động quản lý nguồn nhân
11
lực, đặc biệt là đào tạo những nhà quản lý du lịch nhằm: Phát triển các kỹ
năng quản lý nguồn nhân lực; biết cách để tạo dựng một đội ngũ lao động
hăng say, nhiệt tình trong công việc… Hơn nữa, xu thế toàn cầu hóa cũng đòi
hỏi người quản lý cần được đào tạo nhiều hơn, đặc biệt là những kỹ năng
tương tác giữa các cá nhân (interpersonal) và giao thoa văn hóa (multi
cultural). Hơn nữa, các nhà quản lý du lịch cũng phải được đào tạo về kiến
thức chuyên ngành ở từng lĩnh vực mà họ phụ trách trong hoạt động du lịch.
Ở trong nước, những nghiên cứu về nguồn nhân lực ngành du lịch và
đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ngày càng phong phú và đi vào chiều
sâu. Đã có nhiều cuộc hội thảo chuyên ngành liên quan được tổ chức và là nơi
công bố các kết quả nghiên cứu, quan điểm của những nhà quản lý và nhà
khoa học.
Huỳnh Quốc Thắng trong bài viết “Tổng quan về đào tạo, xây dựng
nguồn nhân lực du lịch Việt Nam và ở Đồng bằng sông Cửu Long” tại Kỷ yếu
hội thảo “Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch Đồng
bằng sông Cửu Long” (2003) [14] đã có những phân tích khái quát về nguồn
nhân lực du lịch; phương hướng phát triển du lịch và nhu cầu đào tạo, xây
dựng nguồn nhân lực du lịch; giải pháp đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng
nguồn nhân lực du lịch. Đặc biệt, tác giả đã đưa ra khái niệm về hoạt động du
lịch, nhân lực du lịch, chất lượng nguồn nhân lực du lịch, vai trò nhân lực du
lịch. Với khái niệm nguồn nhân lực du lịch, tác giả cho rằng, đó là “lực lượng
lao động trong ngành và trong cộng đồng xã hội tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào hoạt động du lịch với một năng lực tay nghề, trình độ nhận thức nhất
định cùng với những phẩm chất tối thiểu về thể lực, trí tuệ, đạo đức… Nguồn
nhân lực ấy bao gồm đội ngũ đang có (hiện thực) và sẽ có (tiềm năng/ dự bị)”
[14, tr.87].
12
Năm 2006 trong nghiên cứu “Tổng quan du lịch” [100] tác giả Trần
Văn Thông đã phân tích về đào tạo nguồn nhân lực du lịch trong chương VIII.
Tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận về đặc điểm lao động du lịch, đào
tạo nhân lực du lịch
Tác giả Nguyễn Văn Mạnh trong bài “Đào tạo nguồn nhân lực bậc đại
học cho ngành Du lịch” (2007) [71] đã đánh giá về thực trạng chương trình
đào tạo cũng như năng lực, kỹ năng của sinh viên ngành quản trị du lịch và
khách sạn bậc đại học ở Việt Nam sau khi tốt nghiệp. Từ đó, tác giả đã đưa ra
một số kiến nghị đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở đào tạo, với các
doanh nghiệp và tổ chức du lịch nhằm nâng cao chất lượng của nguồn nhân
lực chất lương cao nói riêng và hoạt động du lịch của cả nước nói chung
Hoạt động đào tạo nguồn nhân lực của ngành chịu sự tác động của
nhiều yếu tố, trong đó, vai trò của người thầy là đặc biệt quan trọng. Tác giả
Nguyễn Văn Lưu đã có bài viết “Để người thầy phát huy được vai trò quyết
định chất lượng đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch” (2007) [65]. Theo
đó, tác giả đã phân tích những yêu cầu đặt ra và đưa ra một số khuyến nghị
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo trong lĩnh vực đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch.
Trong bài viết “Đẩy mạnh liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp
hướng tới đảm bảo chất lượng đào tạo nguồn nhân lực”, tạp chí Giáo dục (Số
263, tháng 6 năm 2011), tác giả Ngô Trung Hà cho rằng hiện nay giữa đào tạo
và sử dụng nguồn nhân lực ngành du lịch vẫn có những khoảng cách, mất cân
đối trong cung – cầu đào tạo cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng. Vì vậy, việc
gắn kết chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp du lịch là rất cần
thiết [37].
Tác giả Phạm Trọng Lê Nghĩa trong bài báo “Phát triển nguồn nhân
lực du lịch chất lượng cao thời hội nhập” (2011) [80] đã xác định thế nào là
13
nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành du lịch; đồng thời, theo tác giả, để
mang lại uy tín, vị thế, khả năng tài chính cho doanh nghiệp thì cần không
ngừng đào tạo nhân lực để đảm bảo các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp, kỹ
năng nghề, khả năng sáng tạo, kỹ năng sống, ngoại ngữ...
Năm 2014, trong nghiên cứu “Phát triển nguồn nhân lực yếu tố quyết
định sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam” [64], tác giả Nguyễn Văn Lưu
đã phân tích những vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực và đặc điểm lao
động của nhân lực du lịch; Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch; Hiện
trạng phát triển nguồn nhân lực của ngành du lịch Việt Nam; Phương hướng,
quan điểm và mục tiêu phát triển nhân lực ngành du lịch đến năm 2020, tầm
nhìn 2030; Những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực
ngành du lịch và những dự án ưu tiên trong phát triển nguồn nhân lực du lịch
giai đoạn tới. Đặc biệt, tác giả đã phân nhóm nguồn nhân lực theo ngành
nghề, theo không gian hoạt động và phục vụ, theo dạng thức của mối liên hệ
với khách. Tác giả cũng đã phân tích về vai trò, nhiệm vụ của nguồn nhân lực
ngành du lịch trong sáng tạo văn hóa, trong phát triển lực lượng sản xuất,
trong lãnh đạo và quản lý đất nước. Bên cạnh đó, công trình đã nghiên cứu về
đặc điểm lao động của nhân lực du lịch: chủ yếu là hoạt động dịch vụ, có tính
chuyên môn hóa cao, phụ thuộc vào thời gian và đặc điểm tiêu dùng của du
khách, cường độ làm việc tuy không cao nhưng liên tục và chịu áp lực tâm lý
lớn và môi trường phức tạp…
Trong bài “Khung năng lực trong đào tạo nhân lực du lịch” (2017) [38],
tác giả Ngô Trung Hà đã phân tích về khung năng lực đối với lao động du lịch
Việt Nam theo Tiêu chuẩn nghề Du lịch Việt Nam (VTOS), theo Tiêu chuẩn
chung trong ASEAN về nghề du lịch (ACCSTP) và theo Tiêu chuẩn kĩ năng
nghề quốc gia 2017. Theo đó, tác giả khẳng định: “Khung năng lực được quy
định tại Tiêu chuẩn với danh mục cụ thể các đơn vị năng lực…sẽ giúp các cơ sở
14
đào tạo có cái nhìn rõ nét hơn về việc lựa chọn phương pháp cũng như các mô
đun, môn học thiết thực đưa vào chương trình đào tạo sinh viên, hướng tới các
năng lực mà cơ sở tuyển dụng lao động đang cần...” [38, tr.159].
Năm 2018, trong nghiên cứu “Nâng cao chất lượng nhân lực du lịch
Việt Nam đáp ứng hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN” [31] tác giả Nguyễn
Văn Đính đã đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ngành du lịch Việt Nam và
các điều kiện hội nhập du lịch ASEAN. Tác giả đã đề xuất các giả pháp nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam, góp phần thúc đẩy du lịch
phát triển, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Trong
các đề xuất tập trung vào việc đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực du
lịch với nội dung, hình thức đào tạo phù hợp với từng đối tượng và điều kiện
cụ thể.
Dù tiếp cận dưới góc độ nghiên cứu lý luận hay hoạt động thực tiễn,
các tác giả đều có những quan điểm cá nhân về nguồn nhân lực ngành du lịch,
đặc biệt là khẳng định yêu cầu tất yếu của việc đào tạo cũng như nâng cao
chất lượng đào tạo để phát triển nguồn nhân lực du lịch nói riêng và ngành du
lịch nói chung. Đây là những vấn đề lý luận, những tư liệu quý giá giúp cho
nghiên cứu sinh kế thừa về nguồn nhân lực ngành du lịch và đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch.
1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu về kinh nghiệm đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch của một số quốc gia trên thế giới
Tác giả Juliana Kheng Mei Soh Ms trong bài viết “Human resource
development in the Tourism sector in Asia” (2008) [3] đã đánh giá rằng, sự
phát triển nhanh trong lĩnh vực công nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn
nhân lực du lịch, từ đó đòi hỏi ngày càng cao về nguồn nhân lực có trình độ
cao, có kỹ năng cũng như cần quan tâm đặc biệt đến hoạt động đào tạo. Đồng
thời, tác giả đã phân tích về thực trạng cung – cầu lực lượng lao động ngành
15
du lịch ở một số địa bàn trong khu vực châu Á như Singapore, Macao, Thái
Lan. Bên cạnh đó, bài báo đã đưa ra những vấn đề mà các nước trong khu vực
đang phải đối mặt trong hoạt động phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch,
như: sự dịch chuyển của lao động, lao động thiếu kỹ năng, vấn đề chất lượng
đào tạo…Từ đó, tác giả đã phân tích chiến lược phát triển nguồn nhân lực
ngành du lịch ở cấp khu vực cũng như cấp quốc gia.
Các nhà nghiên cứu trong nước cũng tập trung nghiên cứu kinh nghiệm
cho việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Việt Nam. Nhằm phân tích
những vấn đề liên quan đến đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch từ các nước
Liên minh châu Âu và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, tác giả
Nguyễn Văn Đính và Nguyễn Văn Mạnh đã có bài viết “Kinh nghiệm đào tạo
nhân lực cho du lịch Việt Nam từ các nước liên minh châu Âu” (2000) [31].
Theo đó, các tác giả đã đề cập đến cơ cấu nguồn nhân lực theo trình độ đào
tạo nguồn nhân lực của các nước Liên minh châu Âu. Đồng thời, các tác giả
cũng đã khái quát về các cấp đào tạo, nội dung chương trình, thời gian đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch ở các nước này. Từ đó, các tác giả đã rút ra
những bài học kinh nghiệm cho đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở Việt Nam,
từ cơ cấu đào tạo, các cấp đào tạo, nội dung đào tạo...
Trong cuốn “Phát triển nguồn nhân lực yếu tố quyết định sự phát triển
của ngành du lịch Việt Nam”, NXB Thông tấn (2014) [64], tác giả Nguyễn
Văn Lưu đã phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia châu Á (Thái Lan,
Nhật Bản) và châu Âu ( Cộng hòa Liên bang Đức, Ai – len) trong phát triển
nguồn nhân lực ngành du lịch và bài học vận dụng cho Việt Nam. Theo đó, ở
Thái Lan, tác giả nhấn mạnh đến các chương trình, dự án phát triển nguồn
nhân lực của ngành du lịch với việc hợp tác giữa Chính phủ và tư nhân. Với
kinh nghiệm của Nhật Bản, “việc phát triển nguồn nhân lực được tiến hành từ
dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ đào tạo, dạy nghề du lịch cơ bản đến
16
ứng dụng, thực hiện một cách liên tục và phù hợp với các nhóm người lao
động du lịch”; Phát triển nguồn nhân lực du lịch được thực hiện trong một hệ
thống gồm các hình thức đào tạo: đào tạo công, đào tạo doanh nghiệp và tự
đào tạo.
Năm 2018, tác giả Trần Thị Kim Anh trong nghiên cứu “Kinh nghiệm
phát triển nhân lực du lịch của một số quốc gia” đăng trên tạp chí Du lịch (số
11) đã khẳng định phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch đã và đang là một
vấn đề ưu tiên của nhiều quốc gia bởi chất lượng nguồn nhân lực sẽ quyết
định khả năng cạnh tranh của quốc gia. Thái Lan, Singapore, Nhật Bản là các
nước khá thành công trong việc phát triển du lịch. Qua nghiên cứu các quốc
gia này, tác giả đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: một là
tập trung điều chỉnh, tăng cường công tác quản lý nhà nước, hai là cần phải
xác định đào tạo du lịch phải gắn với thực tế, đào tạo nghề là chính, ba là tổ
chức hệ thống đào tạo du lịch phù hợp với yêu cầu hội nhập [1].
Các công trình nghiên cứu trên đã phác họa bức tranh phát triển nguồn
nhân lực ngành du lịch ở các quốc gia khác nhau, cả ở châu Á, châu Âu. Đó là
những kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam, đặc biệt là trong việc xây dựng
mô hình các cấp đào tạo, nội dung đào tạo và sự liên kết trong đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đào tạo nguồn nhân
lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về thực trạng đào tạo nguồn nhân
lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long
Năm 2009, trong Kỷ yếu hội thảo khoa học toàn quốc “Đào tạo nguồn
nhân lực ngành văn hóa - du lịch trong xu thế hội nhập và phát triển” do
Trường Đại học Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh tổ chức đã tập hợp được nhiều
nghiên cứu về thực trạng đào tạo ngành văn hóa – du lịch tại một số cơ sở đào
17
tạo ở ĐBSCL như: tác giả Huỳnh Thị Kim Tuyến với bài viết “Thực trạng
công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành Việt Nam học và ngành Văn hóa –
Du lịch ở Trường Cao đẳng Bến Tre”, tác giả Trần Trung Đẩu với nghiên cứu
“Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo ngành Việt Nam học ở
Trường Cao đẳng Cần Thơ”. Các tác giả đã phân tích thực trạng đào tạo và
đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo [112].
Kỷ yếu hội thảo “Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực du
lịch Đồng bằng sông Cửu Long” do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh An Giang và Trường CĐ Văn hóa Nghệ thuật
và Du lịch Sài Gòn phối hợp tổ chức, tháng 4 năm 2013 tập hợp 21 bài tham
luận của đại diện các đơn vị quản lý nhà nước và các nhà khoa học đến từ các
trường, viện nghiên cứu. Trong đó có một số bài tiêu biểu về thực trạng đào
tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL như: bài viết “Chất lượng nguồn
nhân lực du lịch Đồng bằng sông Cửu Long: Thực trạng và giải pháp”, tác
giả Phạm Văn Hưởng đã phân tích thực trạng đặc điểm, chất lượng nguồn
nhân lực ngành du lịch của địa phương. Theo đó, tác giả nhận định: Do ảnh
hưởng của tính mùa vụ du lịch vào những mùa cao điểm các doanh nghiệp
phải thường xuyên sử dụng một lực lượng lao động khá lớn, lực lượng này
thường ít được đào tạo chuyên ngành du lịch hoặc lao động phổ thông đã ảnh
hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động. Tác giả cũng nhấn mạnh, để đáp
ứng mục tiêu đào tạo cho đội ngũ lao động trong lĩnh vực du lịch đảm bảo cả
về số lượng và chất lượng, tính chuyên nghiệp, từ đội ngũ làm công tác quản
lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp, người lao động trực tiếp…, phải được
trang bị một số kiến thức chuyên sâu về du lịch, góp phần nâng cao chất
lượng của sản phẩm du lịch đảm bảo cho sự phát triển bền vững [14].
Cũng trong hội thảo tác giả Nguyễn Kim Trọng đã trình bày nghiên cứu
“Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu
18
Long” để đánh giá về thực trạng nguồn nhân lực du lịch của vùng. Tác giả đã
phân tích về nguyên nhân của tình trạng lao động du lịch còn bán chuyên
nghiệp, chủ yếu được đào tạo ngắn ngày…, chưa đáp ứng nhu cầu và tốc độ
phát triển. Đó chủ yếu là do các cơ sở đào tạo cung ứng lao động cho ngành
du lịch chưa được quan tâm đúng thực tế, nội dung đào tạo chưa đồng đều;
các cơ sở kinh doanh du lịch và cơ sở đào tạo chưa nhận thức đầy đủ về vai
trò và tầm quan trọng của nguồn nhân lực; các trường đại học có đào tạo về
du lịch nhưng có tính hàn lâm, đào tạo về quản lý nhiều hơn kỹ thuật nghiệp
vụ... [14].
Bên cạnh đó, tại hội thảo đã có nhiều tác giả phân tích về thực trạng
nguồn nhân lực ngành du lịch vùng ĐBSCL dưới các góc nhìn, khía cạnh
khác nhau, nhưng điểm chung là các tác giả đều có sự thống nhất trong nhận
định về thực trạng nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng cũng như thực
trạng của hoạt động đào tạo. Các tác giả đều cho rằng “nguồn nhân lực cho du
lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long vẫn đang vừa thừa vừa thiếu” [14, tr.6]: Đó
là tình trạng thừa nhân lực không chuyên và thiếu đội ngũ lành nghề. Đặc
biệt, có những nghiên cứu về thực trạng liên kết giữa nhà trường và doanh
nghiệp trong việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Từ góc nhìn của cơ
sở đào tạo, tác giả Lê Hồ Quốc Khánh trong bài viết “Thực trạng về nguồn
nhân lực và các giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo với các
doanh nghiệp du lịch tại Đồng bằng sông Cửu Long” đã nhận định: Việc đào
tạo, sử dụng nhân lực du lịch đã có sự “thiếu phối hợp đồng bộ” giữa các cơ
sở đào tạo và doanh nghiệp. Dưới góc nhìn của nhà doanh nghiệp, bài viết
“Kết nối cơ sở đào tạo du lịch với doanh nghiệp để đào tạo nguồn nhân lực
theo nhu cầu của xã hội”, tác giả Nguyễn Thị Nga cho rằng, các cơ sở đào tạo
chuyên ngành du lịch cần chú ý đến các kỹ năng đáp ứng nhu cầu của doanh
19
nghiệp du lịch, đặc biệt là phải đạt được những kỹ năng trong “Bộ tiêu chuẩn
kỹ năng nghề du lịch Việt Nam – VTOS” [14].
Tác giả Huỳnh Trường Huy trong bài viết “Phát triển nguồn nhân lực
du lịch Đồng bằng sông Cửu Long: Phân tích mức độ nhận thức và kỹ năng
nghề nghiệp” tại Kỷ yếu Hội thảo “Phát triển nguồn nhân lực ở Đồng bằng
sông Cửu Long”, tháng 11/2015, qua quá trình khảo sát đã cho thấy: hơn 80%
sinh viên các chuyên ngành du lịch thể hiện sự hiểu biết và quan tâm cao đến
ngành du lịch, đặc biệt là du lịch có trách nhiệm. Đối với kết quả đánh giá kỹ
năng nghề nghiệp của nhân viên du lịch thì những kỹ năng giao tiếp ngoại
ngữ, giải quyết vấn đề phát sinh và ý thức về trách nhiệm nghề nghiệp bị đánh
giá thấp bởi du khách [111].
Năm 2017, tác giả Trần Văn Kiệt với bài “Nguồn nhân lực trong phát
triển du lịch thành phố Cần Thơ” trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Cần Thơ –
Điểm đến du lịch Đồng bằng sông Cửu Long” sau khi phân tích về tiềm năng,
lợi thế về du lịch của TP. Cần Thơ và đưa ra những công tác phát triển nguồn
nhân lực ngành du lịch của thành phố, tác giả cũng cho rằng, nguồn nhân lực
ngành du lịch của Cần Thơ đã có bước phát triển đáng kể, từng bước đáp ứng
được yêu cầu của ngành du lịch…, nhưng tình trạng nguồn nhân lực trực tiếp
phục vụ du lịch chưa được đào tạo bài bản, khả năng giao tiếp ngoại ngữ yếu
và thiếu, chưa đủ sức cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa du lịch [107].
Tập trung phân tích về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở TP.
Cần Thơ, tác giả Nguyễn Quang Trung trong bài viết “Nâng cao chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở thành phố Cần Thơ trong bối cảnh thực thi
MRA –TP” tại Hội thảo khoa học “Cần Thơ – Điểm đến du lịch Đồng bằng
sông Cửu Long” đã đánh giá khái quát về sự đa dạng và chất lượng đào tạo
ngày càng cao của các trường đại học, cao đẳng về du lịch trên địa bàn thành
phố. Bên cạnh đó, tác giả cho rằng, đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở TP. Cần
20
Thơ vẫn còn những vấn đề đáng quan tâm về trình độ đào tạo, cơ cấu đào tạo,
nguồn giảng viên, tính liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp… Đặc biệt,
tác giả đã phân tích những tác động của MRA - TP (Thỏa thuận thừa nhận lẫn
nhau về nghề du lịch trong ASEAN) đến đào tạo nguồn nhân lực để từ đó đưa
ra một số ý kiến nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch ở
TP. Cần Thơ trong bối cảnh thực thi MRA-TP [107].
Thực trạng quản lý của các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
ở ĐBSCL cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đơn cử như nghiên cứu
của tác giả Trần Hoàng Phong (2020) “Quản lý hoạt động của các bộ môn
thuộc Khoa Văn hóa – Du lịch Trường Đại học Đồng Tháp hiện nay, thực
trạng và giải pháp” đăng trên Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp [84].
Có thể nói, những công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung này đã
khái quát về đặc điểm du lịch vùng ĐBSCL về thực trạng đào tạo nguồn nhân
lực ngành du lịch nói chung và nguồn nhân lực ngành du lịch của ĐBSCL nói
riêng: từ thực trạng về trình độ đào tạo, quy mô, chương trình và các hoạt động
liên kết, hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến phương hướng và
giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng
bằng sông Cửu Long hiện nay
Trên cơ sở đánh giá về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
ở ĐBSCL, nhiều bài viết trong Kỷ yếu hội thảo “Thực trạng và giải pháp
phát triển nguồn nhân lực du lịch Đồng bằng sông Cửu Long” năm 2013 đã
phân tích những định hướng cũng như hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng. Cụ thể như: bài viết
“Một số giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch vùng Đồng
bằng sông Cửu Long đến năm 2020” của tác giả Mai Hà Phương, đã đề ra các
nhóm giải pháp về cơ chế chính sách, về tổ chức quản lý, quy hoạch, đào tạo,
21
sử dụng lao động và nhóm giải pháp về đầu tư. Trong nhóm giải pháp về đào
tạo, tác giả đã nhấn mạnh yêu cầu cần thực hiện các giải pháp cụ thể cho các
lĩnh vực như: loại hình đào tạo (đa dạng hóa loại hình đào tạo, quan tâm đúng
mức đến loại hình đào tạo ngắn hạn, kết hợp linh hoạt đào tạo dài hạn với
ngắn hạn); chương trình đào tạo (chú trọng nhiều hơn việc rèn luyện kỹ năng
nghề, tăng hoạt động thực hành, phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp du lịch,
nội dung chương trình đào tạo phải phù hợp với thực tiễn địa phương…); xây
dựng đội ngũ giảng viên, đào tạo viên (chú trọng nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và ngoại ngữ của các giảng viên, thu hút giảng viên có trình
độ cao, trong doanh nghiệp cần xây dựng đội ngũ đào tạo viên có tay nghề
cao để đào tạo kỹ năng cho đội ngũ lao động của đơn vị) [14].
Bài viết “Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực ngành du lịch Đồng
bằng sông Cửu Long” của tác giả Nguyễn Kim Trọng đã đề xuất 05 giải pháp
như sau: Thứ nhất: Phát triển chương trình đào tạo theo nhu cầu của thị
trường và xã hội; Thứ hai: Phát triển đội ngũ giáo viên theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa; Thứ ba: Cần đổi mới tư duy và phương pháp giảng
dạy gắn liền với thực tiễn phát triển cũng như đặc trưng riêng của khu vực;
Thứ tư: Tạo điều kiện cho học viên, sinh viên là giáo viên thực tập; Thứ năm:
Cần sự phối hợp giữa nhà trường với các doanh nghiệp để có những phân
tích, đánh giá về chất lượng sản phẩm lao động [14].
Tác giả Huỳnh Quốc Thắng trong bài viết “Tổng quan về đào tạo, xây
dựng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam và ở Đồng bằng sông Cửu Long” đã
khẳng định, đào tạo và đào tạo lại là một trong những giải pháp nhằm trang
bị, nâng cao kiến thức, kỹ năng tác nghiệp cho đội ngũ con người đủ năng
lực, phẩm chất tham gia vào các lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể. Trong đó,
tác giả khẳng định lại mục tiêu về đào tạo nguồn nhân lực du lịch theo “Đề án
phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020” là “Đồng
22
bằng sông Cửu Long cần tập trung đầu tư tăng cường năng lực các cơ sở đào
tạo nguồn nhân lực du lịch…, huy động năng lực dạy nghề, đặc biệt là doanh
nghiệp trong ngành, hình thành mạng lưới đào tạo nhiều cấp độ để tăng nhanh
quy mô đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trực tiếp trong
ngành du lịch; đồng thời chú trọng dạy nghề ngắn hạn nhằm trang bị kiến
thức, kỹ năng căn bản về du lịch cho lao động gián tiếp và người dân trong
vùng có thể tham gia hoạt động du lịch” [14, tr. 93]. Từ đó, tác giả nhấn mạnh
đến các giải pháp, đặc biệt là giải pháp về hệ thống đào tạo và xây dựng phát
triển nguồn nhân lực du lịch; các hình thức, phương thức đào tạo, bồi dưỡng;
hợp tác đào tạo trường và doanh nghiệp; hợp tác đào tạo quốc tế; đào tạo lại
và đào tạo tại chỗ [14].
Tác giả Nguyễn Thị Lý trong bài viết “Thực trạng, nhu cầu và định
hướng đào tạo nguồn nhân lực du lịch Đồng bằng sông Cửu Long” đã nêu ra
các định hướng liên kết đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL như
sau: Khẳng định liên kết đào tạo nguồn nhân lực du lịch là thước đo của sự
thành công; liên kết “4 nhà” là giải pháp cho bài toán nâng cao số lượng, chất
lượng nguồn nhân lực du lịch (nhà nước, nhà dân, nhà trường, nhà doanh
nghiệp kinh doanh du lịch) [14].
Năm 2015, bài viết “Phát triển nguồn nhân lực du lịch Đồng bằng sông
Cửu Long: Phân tích mức độ nhận thức và kỹ năng nghề nghiệp” của tác giả
Huỳnh Trường Huy trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phát triển nguồn nhân
lực ở Đồng bằng sông Cửu Long” đã đánh giá thực trạng nhận thức và kỹ
năng nghề nghiệp của nhân viên du lịch, đã đề xuất những giải pháp liên quan
đến công tác đào tạo, huấn luyện của doanh nghiệp cũng như cơ sở đào tạo
chuyên ngành du lịch; sự rèn luyện của bản thân, ý thức công việc của nhân
viên, và công tác thống kê nguồn nhân lực du lịch của cơ quan quản lý nhà
nước [111].
23
Năm 2017, bài viết của một số tác giả trong Kỷ yếu hội thảo khoa học
“Cần Thơ – Điểm đến du lịch Đồng bằng sông Cửu Long” cũng đã đề xuất
một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du
lịch của vùng. Cụ thể như tác giả Trần Văn Kiệt trong bài viết “Nguồn nhân
lực trong phát triển du lịch thành phố Cần Thơ” đã cho rằng, để xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực du lịch TP. Cần Thơ cần có giải pháp quy hoạch hệ
thống cơ sở đào tạo, cơ sở dạy nghề và cơ sở nghiên cứu du lịch phù hợp với
yêu cầu phát triển ngành du lịch của thành phố; chú ý đến các chương trình
đào tạo khác nhau cho lao động gián tiếp và lao động trực tiếp; tuyên truyền,
giáo dục hướng nghiệp trong hệ thống giáo dục phổ thông; quan tâm đến các
điều kiện để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao…[107].
Trong bài viết “Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch
ở thành phố Cần Thơ trong bối cảnh thực thi MRA –TP”, tác giả Nguyễn
Quang Trung đã đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực du lịch ở thành phố Cần Thơ trong bối cảnh thực thi MRA –TP như:
tiếp tục đổi mới phương thức quản lý đào tạo nguồn nhân lực du lịch trên địa
bàn thành phố; nhanh chóng phổ biến trên diện rộng hệ tiêu chuẩn nghề chung
ASEAN đối với nghề du lịch (ACCSTP) và giáo trình du lịch chung ASEAN;
cam kết sự tham gia của các doanh nghiệp vào quá trình đào tạo nhằm thiết
lập khối liên kết bền vững giữa Nhà nước – Nhà trường – Người học – Nhà sử
dụng lao động trong công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch; chú trọng đào
tạo sau đại học ngành du lịch; mở rộng hợp tác, giao lưu quốc tế về đào tạo,
nghiên cứu khoa học du lịch [107].
Tác giả Võ Nguyên Thông (2019) trong bài viết “Thực trạng và giải
pháp đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập ngành du lịch tại
Trường Đại học Đồng Tháp”, trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế “Phát
triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế”
24
sau khi phân tích thực trạng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập
ngành du lịch tại Trường Đại học Đồng Tháp như yêu cầu đối với giảng viên,
hoạt động nghiên cứu khoa học, chương trình đào tạo, bài viết đã đưa ra một
số giải pháp như: Hoàn thiện chương trình đào tạo ngành du lịch, hình thành
môi trường nghiên cứu trong Nhà trường, xây dựng mối quan hệ doanh
nghiệp và hợp tác quốc tế…[114].
Những nghiên cứu trên đã cung cấp hệ thống giải pháp tương đối toàn
diện, dựa trên thực trạng, nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch ở nước ta nói chung và ĐBSCL nói riêng.
1.2. KHÁI LƢỢC CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CỦA
NGHIÊN CỨU SINH TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.2.1. Khái lƣợc các kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Thông qua quá trình tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài luận án, tác giả đánh giá khái quát một số nội dung, từ đó xác định
những định hướng nghiên cứu của bản thân. Cụ thể là:
Thứ nhất: Đánh giá tổng quát các công trình nghiên cứu liên quan đến
nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực; Nguồn nhân lực du lịch và đào tạo
nguồn nhân lực du lịch; Kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực du lịch của một
số nước trên thế giới.
Các công trình nghiên cứu trên, dù tiếp cận ở những góc độ hay khía
cạnh khác nhau, nhưng đã cung cấp một cách đa dạng về các khái niệm cơ
bản, như: nguồn nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực, nguồn nhân lực du lịch,
đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Đồng thời, các tác giả đểu khẳng định vai trò
chủ đạo, quyết định của nguồn nhân lực đối với sự phát triển.
Thứ hai: Đánh giá khái quát các công trình nghiên cứu liên quan đến
thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng ĐBSCL hiện nay.
25
Những công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung này đã cung cấp
tương đối đầy đủ, toàn diện về đặc điểm du lịch vùng ĐBSCL, về thực trạng
đào tạo nguồn nhân lực du lịch nói chung và nguồn nhân lực du lịch của Đồng
bằng sông Cửu Long nói riêng: từ thực trạng về trình độ đào tạo, quy mô,
chương trình và các hoạt động liên kết, hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn
nhân lực du lịch của vùng.
Thứ ba: Đánh giá khái quát những công trình nghiên cứu liên quan đến
phương hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực
du lịch ở ĐBSCL hiện nay.
Dù tiếp cận ở các góc độ và mục đích nghiên cứu khác nhau, những
công trình nghiên cứu trên đã cung cấp hệ thống giải pháp tương đối toàn
diện, được dựa trên thực trạng và những vấn đề đặt ra, nhằm nâng cao hiệu
quả, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở nước ta nói chung và
ĐBSCL nói riêng. Tuy nhiên, có ít tác giả đề cập đến phương hướng, định
hướng phát triển của ngành du lịch, của địa phương và định hướng phát triển
nguồn nhân lực du lịch để làm cơ sở xây dựng hệ thống giải pháp.
1.2.2. Những vấn đề luận án của nghiên cứu sinh tiếp tục giải quyết
Thứ nhất: Các khái niệm liên quan, mặc dù đã được phân tích một cách
đa dạng, sâu sắc, nhưng phù hợp với mục đích nghiên cứu của các tác giả với
phạm vi, đối tượng khác nhau. Vì vậy, từ cơ sở những nghiên cứu của các
công trình đi trước, tác giả sẽ xây dựng các khái niệm công cụ riêng phù hợp
với mục đích và đối tượng, phạm vi nghiên cứu của mình, từ khái niệm về
nguồn nhân lực, nguồn nhân lực du lịch (khái niệm, phân loại, vai trò, đặc
điểm) , đào tạo nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là
làm rõ bản chất của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch.
Thứ hai: Từ việc kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, tác giả sẽ
phân tích một cách toàn diện, sâu sắc thực trạng đào tạo nguồn nhân lực
26
ngành du lịch ở ĐBSCL hiện nay phù hợp với mục đích nghiên cứu của mình
với đối tượng, phạm vi nghiên cứu cụ thể. Đặc biệt, tác giả sẽ phân tích về
những vấn đề đặt ra từ thực trạng đó, như là một cơ sở khoa học cho việc xây
dựng hệ thống giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực
du lịch ở ĐBSCL hiện nay.
Thứ ba: Kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, xuất phát từ mục đích
nghiên cứu, tác giả xây dựng hệ thống giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL hiện nay, dựa trên
những nghiên cứu về thực trạng, phương hướng, xu hướng và những yêu cầu
phát triển của đất nước, của Ngành, của vùng, kinh nghiệm của các nước trên
thế giới cũng như yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn
nhân lực du lịch nói riêng trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là trong cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0.
27
Chƣơng 2
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY– MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. QUAN NIỆM VỀ NGUỒN NHÂN LỰC, NGUỒN NHÂN LỰC
NGÀNH DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Nhân lực là sức lực ở trong mỗi con người giúp họ hoạt động và thông
qua hoạt động sức lực ngày càng phát triển, con ngưởi có đủ điều kiện tham
gia vào quá trình lao động sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội.
Con ngưởi là yếu tố năng động nhất của quá trình sản xuất, đồng thời
quyết định chất lượng, hiệu quả của quá trình tạo ra sản phẩm hàng hóa, tinh
thần của xã hội.
Sức lao động là tổng thể thể lực và trí lực của con người, là khả năng
lao động của con người. Con người sử dụng sức lao động và công cụ lao động
tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm vật chất, tinh thần đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của bản thân và xã hội.
Và theo từ điển tiếng Việt nguồn là nơi phát sinh, nơi cung cấp. Nhân
lực là sức của con người bao gồm sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức
được vận dụng vào quá trình lao động của mỗi cá nhân (trí lực), những ham
muốn hoài bảo của bản thân người lao động hướng tới một mục đích xác định
(tâm lực). Nhân lực với ý nghĩa đầy đủ của nó bao gồm ba yếu tố có sự liên
hệ chặt chẽ nhau, đó là thể lực, trí lực và tâm lực [123].
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực với những
cách tiếp cận riêng, từ góc độ triết học, xã hội học hay kinh tế học; từ quy mô
tổ chức, ngành, địa phương, vùng lãnh thổ đến quy mô quốc gia, và với những
28
mục đích nghiên cứu khác nhau. Có thể khái quát có ba cách hiểu về nguồn
nhân lực như sau:
Cách hiểu thứ nhất là cách hiểu với nội hàm rộng lớn hơn cả. Đó là xem
nguồn nhân lực là toàn bộ sức lao động của con người nói chung, là mọi năng
lực, khả năng của con người có thể tham gia lao động trong khoảng thời gian
được xem xét. Nguồn lực con người bao gồm toàn bộ cộng đồng dân cư với
đặc điểm của nó, cả tiềm năng và tài năng, cả thể lực, tâm lực và trí lực, có thể
được huy động vào lao động sản xuất trực tiếp, có thể tại một thời điểm nhất
định chưa thể huy động hết được vào quá trình lao động sản xuất trực tiếp, bao
gồm cả những con người ở ngoài độ tuổi lao động gồm cả bộ phận dân cư có
khả năng lao động, đang được huy động, lẫn bộ phận dân cư chưa được huy
động vào quá trình sản xuất trực tiếp. Cụ thể như: Theo Cơ quan Phát triển của
Liên hợp quốc UNDP, nguồn nhân lực được hiểu là tất cả những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự
phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước. Việc sử dụng hiệu quả nó sẽ tạo
động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế, xã hội. [78, tr.8].
Theo tổ chức Ngân hàng Thế giới, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ
vốn con người, với thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân.
Và đó là một loại nguồn vốn bên cạnh các vốn khác như: vốn tiền tệ, công
nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Tổ chức này cho rằng, so với đầu tư tài chính,
công nghệ…, thì đầu tư cho con người là đầu tư quan trọng nhất, là cơ sở
vững chắc cho sự phát triển bền vững. Trong đầu tư cho con người thì đầu tư
cho giáo dục có vai trò quan trọng nhất [129, tr.3].
Với quan niệm này, nguồn nhân lực đồng nghĩa với khái niệm nguồn
lực con người, là những thuật ngữ chỉ số lượng dân, cơ cấu dân số và chất
lượng con người với tất cả các đặc điểm, tiềm năng và sức mạnh của nó trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
29
Cách hiểu thứ hai, xem nguồn nhân lực là dân số và cơ cấu dân số, là
chất lượng con người, của cộng đồng với toàn bộ các đặc điểm từ truyền
thống đến hiện đại, cả mặt mạnh đến mặt yếu, cả tài năng lẫn tiềm năng, gồm
cả thể lực, tâm lực và trí lực của một bộ phận dân cư trong xã hội (kể cả trong
và ngoài độ tuổi lao động) tham gia vào các hoạt động sản xuất, dịch vụ và
các hoạt động khác của đời sống xã hội ở một giai đoạn xác định, cụ thể.
Với cách hiểu này thì khái niệm nguồn nhân lực đã được thu hẹp ngoại
diên, không còn là toàn bộ mọi người có khả năng lao động, như người cao
tuổi, trẻ em, người tàn tật, người không muốn lao động… Đây là cách tiếp cận
từ góc độ kinh tế học phát triển, nguồn nhân lực được xem là một trong các
nguồn lực trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của một
quốc gia. Đó là toàn bộ những người có khả năng lao động, quyết định trực
tiếp đến phát triển kinh tế.
Cách hiểu thứ ba, nội hàm và ngoại diên của khái niệm còn hẹp hơn
nữa. Nguồn nhân lực là một trong số các nguồn lực giúp cho sự phát triển
kinh tế xã hội, là khả năng lao động của xã hội tham gia vào các hoạt động
kinh tế - xã hội. Đó là chỉ bộ phận dân cư trong độ tuổi lao động, tham gia,
hoạt động trong nền sản xuất xã hội, tức là có lao động, có sử dụng thể lực,
tâm lực và trí lực vào quá trình lao động sản xuất trực tiếp. Nói cách khác, đó
là bộ phận dân cư trong độ tuổi lao động, đang tham gia lao động, chứ không
phải là toàn bộ dân cư có khả năng lao động. Đó là lực lượng dân cư trong độ
tuổi lao động, được huy động vào quá trình lao động, chứ không phải là bộ
phận dân cư có thể được huy động vào quá trình lao động sản xuất, càng
không phải là toàn bộ dân cư, những con người đang sống nói chung trong
một giai đoạn xác định [45, tr.28].
Cụ thể, đó là quan niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) khi tổ
chức này nhận định:
30
Nguồn nhân lực là toàn bộ số người trong độ tuổi có khả năng tham
gia lao động. Hay, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội,
là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm
dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia quá trình lao
động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân có thể tham gia quá
trình lao động [66, tr.25].
Bên cạnh đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Việt Nam cho
rằng, đó là nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, với
cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động [66].
Theo cách hiểu thứ ba này, nguồn nhân lực đồng nghĩa với lực lượng
lao động xã hội đang tham gia lao động, sản xuất, tức với số người lao động,
nhưng không thuần túy về số lượng mà cả về chất lượng của lực lượng lao
động này. Với quan niệm này thì nguồn nhân lực đồng nghĩa với nhân lực
đang lao động. [45, tr.29]
Trên cơ sở những quan niệm nói trên về nguồn nhân lực, xuất phát từ
mục đích nghiên cứu, tác giả đưa ra quan niệm về nguồn nhân lực như sau:
Nguồn nhân lực là dạng đặc biệt của nguồn lực nói chung, là nguồn
lao động bao gồm tổng thể các yếu tố tạo nên sức mạnh của con người; là
tổng thể số lượng, chất lượng với các tiêu chí về thể lực, trí lực, tâm lực và cơ
cấu, tạo nên năng lực để từ đó có thể huy động vào phát triển kinh tế - xã hội.
Quan niệm về nguồn nhân lực trên cần chú ý các khía cạnh sau: Một là,
nguồn nhân lực và các nguồn lực khác tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất
kỹ thuật, khoa học công nghệ…có quan hệ biện chứng nhau trong đó nguồn
nhân lực là chủ thể quyết định, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Các nguồn lực khác tự nó chỉ tồn tại dưới
dạng khả năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa xã hội tích cực khi
được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt động có ý thức của con
31
người; Hai là, nguồn nhân lực khác về chất so với các nguồn lực khác. Tất cả
các nguồn lực khác đều bị hao mòn, hầu như không có khả năng tái sinh trong
quá trình sử dụng. Nguồn nhân lực xét ở một khía cạnh nào đó nếu khai thác
và sử dụng hợp lý thì càng được sử dụng, càng được tái sinh, bồi dưỡng và
nâng cao thêm về mặt chất lượng.
Do cách tiếp cận khác nhau nên cách hiểu về nguồn nhân lực cũng khác
nhau. Tuy vậy, khi đề cập đến nguồn nhân lực, hầu hết các cách tiếp cận về nguồn
nhân lực đều chú ý đến số lượng, chất lượng và cơ cấu của nguồn nhân lực.
Số lượng nguồn nhân lực: được biểu hiện thông qua các chỉ số về quy
mô, tốc độ tăng của nguồn nhân lực. Trong quan niệm trên, số lượng nguồn
nhân lực được xác định có bao nhiêu người đang làm việc và sẽ có thêm bao
nhiêu người nữa trong tương lai được bổ sung vào đội ngũ nhân lực của một
tổ chức, một lãnh thổ. Đặc trưng này chỉ quy mô của nguồn nhân lực. Sự gia
tăng quy mô nguồn nhân lực của một tổ chức, một quốc gia là sự phát triển về
số lượng của nguồn nhân lực, dựa trên hai nhóm yếu tố: yếu tố bên trong bao
gồm nhu cầu thực tế công việc đòi hỏi phải tăng số lượng nhân lực; và các
yếu tố bên ngoài của tổ chức, của lãnh thổ như sự gia tăng về dân số hay sự
gia tăng lực lượng nhân lực do di cư.
Chất lượng của nguồn nhân lực là yếu tố tổng hợp của nhiều thành tố
cấu thành bên trong như thể lực, trí lực, tâm lực của nguồn nhân lực và mỗi cá
nhân của nguồn nhân lực đó. Trong các thành tố trên thì trí lực và thể lực là
hai yếu tố quan trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
Chất lượng nguồn nhân lực biểu hiện thông qua các tiêu chí sức khỏe, trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn, mức độ lành nghề, phẩm chất chính trị, đạo
đức nghề nghiệp.
Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định, nói lên sức mạnh và
tiềm năng to lớn của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội.
32
Cơ cấu nguồn nhân lực: thể hiện ở tỉ trọng lao động trong từng lĩnh
vực của ngành, ở sự phân bổ nhân lực xét theo trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn, kỹ năng và kinh nghiệm làm việc. Bên cạnh đó, cơ cấu còn được
thể hiện trên các phương diện khác nhau như cơ cấu về dân tộc, giới tính, độ
tuổi, lĩnh vực hoạt động…
Khi nói đến nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực, cần phải
chú ý đến cả ba yếu tố trên. Nếu chỉ quan tâm đến chất lượng mà không đủ
quy mô (không đủ số lượng), không có sự hợp lý về cơ cấu thì nguồn nhân
lực với chất lượng cao bao nhiêu cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ
của tổ chức, lãnh thổ.
2.1.2. Quan niệm về nguồn nhân lực ngành du lịch
2.1.2.1. Quan niệm về du lịch
Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên hợp quốc (UNWTO) xác định:
Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành,
tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải
nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như
mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian
liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống
định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm
tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi
trường sống khác hẳn nơi định cư [64, tr.32].
Hội nghị quốc tế về du lịch và lữ hành được tổ chức ở Ottawa, Canada
vào tháng 6 năm 1991 đã thống nhất đưa ra định nghĩa :
Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành,
tạm trú, với mục đích tham quan, khám phá hoặc với mục đích nghỉ
ngơi, giải trí, thư giãn, cũng như mục đích kinh doanh và những
33
mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một
năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư [64, tr.32].
Ở Việt Nam, hệ thống các thuật ngữ, khái niệm cơ bản của ngành du
lịch chỉ mới được chuẩn hóa trong thời gian gần đây. Đặc biệt, từ khi có Luật
Du lịch. Luật Du lịch năm 2017 của Quốc Hội Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam định nghĩa khái niệm du lịch như sau:
Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm
liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm
hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp
pháp khác [88].
2.1.2.2. Khái niệm nguồn nhân lực ngành du lịch
Trên cơ sở khái niệm chung về nguồn nhân lực, xuất phát từ mục đích
nghiên cứu, tác giả đưa ra quan niệm về nguồn nhân lực ngành du lịch như sau:
Nguồn nhân lực ngành du lịch Việt Nam là một bộ phận trong cơ cấu
nguồn nhân lực quốc gia, là tổng hòa những khả năng của lực lượng lao động hiện
có trong ngành du lịch và tiềm năng có thể huy động thể hiện qua các yếu tố về số
lượng, chất lượng, cơ cấu với các tiêu chí về thể lực, trí lực và tâm lực của con
người đóng góp quan trọng vào sự phát triển của ngành du lịch.
2.1.2.3. Phân loại nguồn nhân lực ngành du lịch
Nguồn nhân lực du lịch có thể phân nhóm theo nhiều tiêu thức, nổi lên
là cách phân theo ngành, nghề; theo không gian phục vụ và theo dạng thức
phục vụ.
Phân loại nguồn nhân lực ngành du lịch theo ngành, nghề:
Theo cách phân loại của Tổ chức Du lịch thế giới của Liên hợp quốc
(UNWTO) thì nguồn nhân lực du lịch trực tiếp có thể được phân thành 7 nhóm
34
ngành, nghề chủ yếu là: lưu trú, ăn uống, vận chuyển khách, dịch vụ lữ hành, vui
chơi giải trí, quản lý tài chính và các hàng hóa dịch vụ khác (bán lẻ).
Các nước ASEAN, trong “Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong
ASEAN (MRA) về nghề du lịch”, đã đưa ra 6 nhóm nghề trong ngành du lịch:
Nghiệp vụ lễ tân (gồm 5 chức danh: quản lý lễ tân, giám sát lễ tân, nhân viên
lễ tân, trực điện thoại, nhân viên khuôn vác); Nghiệp vụ buồng (gồm 6 chức
danh: điều hành bộ phận buồng, quản lý bộ phận giặt là, giám sát tầng, nhân
viên giặt là, nhân viên phục vụ buồng, nhân viên lau dọn khu vực công cộng);
Kỹ thuật chế biến món ăn (gồm 7 chức danh: bếp trưởng, bếp phó, phụ bếp,
trưởng bộ phận bánh ngọt, trợ lý bếp trưởng bánh ngọt, nhân viên làm bánh,
nhân viên pha chế thịt); Nghiệp vụ nhà hàng (gồm 5 chức danh: giám đốc nhà
hàng, quản lý đồ ăn, trưởng nhóm phục vụ, nhân viên pha chế rượu, bồi bàn);
Đại lý lữ hành (gồm 4 chức danh: tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, nhân
viên tư vấn lữ hành cấp cao, nhân viên tư vấn lữ hành); Nghiệp vụ điều hành
tour (gồm 5 chức danh: quản lý sản phẩm, quản lý bán hàng và marketing,
quản lý tài chính, quản lý bán vé, quản lý tour). Tổng cộng là 32 chức danh.
[64, tr.55].
` Phân loại ngành du lịch nước ta thành 4 phân ngành chủ yếu: lưu trú
và ăn uống, dịch vụ lữ hành, dịch vụ vận chuyển và dịch vụ khác. Trong có
các nghề lao động trực tiếp gồm: quản lý nhà nước về hoạt động du lịch và
quản trị kinh doanh du lịch; giám sát điều hành (trưởng phó phòng, tổ trưởng,
tổ phó, bếp trưởng phụ trách bộ phận trong đơn vị kinh doanh du lịch); nhân
viên phục vụ du lịch (nhân viên lễ tân, nhân viên phục vụ buồng, nhân viên
phục vụ bàn, nhân viên phục vụ quầy bar, nhân viên lữ hành/marketing,
hướng dẫn viên và thuyết minh viên du lịch, nhân viên bếp, người điều khiển
phương tiện vận chuyển khách du lịch và nhân viên khác) [64, tr.56].
35
Phân loại nguồn nhân lực ngành du lịch theo không gian phục vụ:
Theo cách phân nhóm này, nguồn nhân lực du lịch có 3 nhóm chính:
Nhóm 1: Nguồn nhân lực phục vụ tại các đầu mối giao thông (sân bay,
nhà ga, mạng lưới đường xá, cảng, các kho nhiên liệu, các phương tiện máy
móc và sửa chữa…).
Nhóm 2: Nguồn nhân lực du lịch phục vụ tại điểm đến du lịch: tại các doanh
nghiệp phục vụ trực tiếp du khách, tại các doanh nghiệp hỗ trợ du lịch, cộng đồng
dân cư địa phương tại các điểm đến tham gia vào hoạt động du lịch.
Nhóm 3: Nhân lực tổng hợp làm nhiệm vụ quản lý Nhà nước về du lịch
và hoạt động sự nghiệp du lịch. Bao gồm: cơ quan cấp phép, đăng ký kinh
doanh, cơ quan đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội, cơ quan quản lý rừng
quốc gia, bảo tồn thiên nhiên, cơ quan quản lý văn hóa; nguồn nhân lực tham
gia công tác nghiên cứu phát triển du lịch, đào tạo, dạy nghề…[64, tr.57-58].
Phân loại nguồn nhân lực du lịch theo dạng thức của mối liên hệ với khách:
Căn cứ vào mối liên hệ với đối tượng phục vụ là khách du lịch, nguồn
nhân lực du lịch được chia thành 02 nhóm: nguồn nhân lực trực tiếp và nguồn
nhân lực gián tiếp.
Nguồn nhân lực trực tiếp: là lực lượng trực tiếp phục vụ khách du lịch,
như trong các cơ sở lưu trú du lịch, nhà hàng, công ty lữ hành, các đơn vị trực
tiếp cung cấp các dịch vụ du lịch…
Nguồn nhân lực gián tiếp: bao gồm lực lượng cung ứng, hỗ trợ cho các
hoạt động trực tiếp phục vụ khách du lịch, như cung ứng hàng hóa, thực
phẩm…[64,tr. 59]
2.1.2.4. Đặc trưng của nguồn nhân lực ngành du lịch
Đã có nhiều nghiên cứu mang tính lý luận về đặc trưng của nguồn nhân
lực ngành du lịch Việt Nam như tác giả Trần Văn Thông trong sách “Tổng
quan du lịch”, Nguyễn Văn Lưu trong nghiên cứu “Phát triển nguồn nhân lực
36
yếu tố quyết định sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam”…Nhìn chung các
tác giả đều nhìn nhận nguồn nhân lực ngành du lịch Việt Nam có những đặc
trưng sau:
Thứ nhất: Nguồn nhân lực ngành du lịch chủ yếu lao động trong hoạt
động dịch vụ. Lao động du lịch nhằm mục đích tạo ra mọi điều kiện và tiện
nghi thuận lợi cho khách du lịch đi lại, lưu trú, trải nghiệm và các hoạt động
bổ sung khác. Lao động du lịch tạo ra các dịch vụ du lịch là chủ yếu, chiếm
tới 70 - 80% toàn bộ sản phẩm du lịch.
Thứ hai: Nguồn nhân lực ngành du lịch có tính chuyên môn hóa cao
do đặc tính chuyên môn hóa cao của lao động du lịch. Tính chuyên môn hóa
của lao động du lịch là nguyên nhân làm cho một số hoạt động phục vụ du
lịch có tính độc lập tương đối, như hướng dẫn viên du lịch, lễ tân khách sạn,
tổ chức du lịch, điều hành tour, marketing, tuyên truyền quảng cáo…có
nghiệp vụ riêng, khó thay thế. Tính chuyên môn hóa tạo ra sự thuần thục,
khéo léo trong tay nghề. Kỹ năng thuần thục dần trở thành những kỹ xảo
mang tính nghệ thuật, do vậy nâng cao được chất lượng phục vụ, tiết kiệm chi
phí, thời gian, tạo ra năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao.
Thứ ba: Nguồn nhân lực ngành du lịch có thời gian lao động phụ thuộc
vào thời gian và đặc điểm tiêu dùng của khách . Lao động du lịch là quá trình
tạo dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Vì vậy, về mặt lý thuyết, lao
động du lịch phải được diễn ra bất kỳ ngày nào, cả trong ngày lễ, tết, cuối tuần,
vào bất cứ thời gian nào khi có yêu cầu. Theo đó, lao động trong ngành này phải
tổ chức thành ca, kíp để đảm bảo đủ nhân lực ở các bộ phận liên quan với nhau
tham gia các khâu của dây chuyền phục vụ; đồng thời, người lao động có điều
kiện nghỉ ngơi, hồi phục lại sức lao động, được hưởng tất cả các quyền lợi của
luật Lao động và thỏa thuận lao động đã ký kết.
37
Thứ tư: Nguồn nhân lực ngành du lịch làm việc trong môi trường lao
động có cường độ làm việc tuy không cao, nhưng liên tục và chịu áp lực tâm lý
lớn và môi trường phức tạp. Người lao động trong ngành du lịch, đặc biệt là lao
động có quan hệ trực tiếp với khách du lịch như lễ tân, phục vụ buồng, bàn,
hướng dẫn viên du lịch…phải tiếp xúc với nhiều đối tượng khách du lịch và phải
làm hài lòng nhiều vị khách khó tính, được gọi là nghề “làm dâu tram họ”.
Thứ năm: Cơ cấu nguồn nhân lực du lịch rất đa dạng, cả về độ tuổi,
giới tính, trình độ văn hóa và nghiệp vụ.
Cơ cấu theo độ tuổi: Có bộ phận đòi hỏi tuổi thấp hơn (lễ tân, nhân
viên phục vụ bàn, bar…); có bộ phận đòi hỏi ở độ tuổi cao hơn (cán bộ quản
lý…). Trên thực tế, trong hoạt động du lịch, độ tuổi lao động giãn ra, vượt ra
khỏi quy định của pháp luật về tuổi lao động thông thường. Những người
chưa đến tuổi lao động, ngưởi đã nghỉ hưu vẫn có thể tham gia lao động du
lịch. Đây là đặc điểm mang tính đặc trưng của khối dịch vụ nói chung, lĩnh
vực du lịch nói riêng.
Cơ cấu theo giới tính: Lao động du lịch gồm cả lao động nam và nữ,
nhưng lao động nữ chiếm tỷ lệ cao hơn. Cơ cấu về giới tính cũng thay đổi
theo từng bộ phận nghiệp vụ. Một số bộ phận có xu hướng thay đổi cơ cấu
truyền thống.
Cơ cấu theo trình độ học vấn và nghiệp vụ: trình độ học vấn của nhân
lực trong lao động du lịch tương đối thấp và khác nhau theo vị trí công tác:
Nhân lực làm công tác quản lý thường có trình độ học vấn và kiến thức
nghiệp vụ cao; nhân lực làm lao động nghiệp vụ có trình độ học vấn thấp hơn
nhưng trình độ nghiệp vụ phải được đào tạo cơ bản. Nhân lực trong lao động
du lịch có trình độ ngoại ngữ cao, đặc biệt là nhân viên nghiệp vụ khách sạn,
lữ hành, hướng dẫn.
38
Thứ sáu: Nguồn nhân lực ngành du lịch thường có sự biến động cao.
Đặc điểm này mang tính khách quan, chủ yếu do tính thời vụ của hoạt động
du lịch. Nhiều nhân lực được tuyển dụng, bố trí làm việc trong một thời gian
ngắn vào mùa du lịch và thôi việc sau khi mùa du lịch kết thúc [64, tr.75-82].
Nhìn chung, nguồn nhân lực ngành du lịch có những đặc trưng rất riêng
so với các ngành kinh tế khác.
2.2. QUAN NIỆM VÀ THỰC CHẤT CỦA VIỆC ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1. Quan niệm về đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
Theo từ điển bách khoa Việt Nam: đào tạo là quá trình tác động đến một
con người, làm cho người đó lĩnh hội và nắm bắt tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một
cách có hệ thống, nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả
năng lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì
phát triển nền văn minh loài người. Về cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập ở
trường gắn với việc giáo dục đạo đức và nhân cách. [46, tr. 312].
Theo từ điển tiếng Việt: đào tạo là quá trình tác động đến một con
người làm cho người đó lĩnh hội và nắm những tri thức kỹ năng, kỹ xảo một
cách có hệ thống, nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và
khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào
việc phát triển kinh tế - xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài
người [123, tr.237].
Theo một cách tiếp cận khác thì đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên
người có hiểu biết, có nghề nghiệp [124, tr.593].
Các quan điểm trên mới chỉ đề cập đến đối tượng đào tạo trong một quá
trình bị động, chưa nói đến chủ thể của quá trình đào tạo với tư cách là một
quá trình, phải là sự tương tác, tác động giữa chủ thể và đối tượng.
39
Cần chú ý đào tạo là quá trình tác động giữa chủ thể và đối tượng đào
tạo. Sự tác động này không phải là một chiều thụ động mà là mối quan hệ
biện chứng, tác động qua lại, thể hiện tính tích cực, tự giác, sáng tạo của cà
chủ thể và đối tượng đào tạo.
Đào tạo còn được hiểu là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ
chức, nhằm hình thành và phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
thái độ… để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể
vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả. Quá trình này được
tiến hành chủ yếu trong các cơ sở đào tạo như nhà trường, trung tâm, viện
hoặc ở cơ sở sản xuất theo những mục tiêu, nội dung, chương trình hoàn
chỉnh và có hệ thống cho mỗi khóa học với những thời gian quy định và các
trình độ khác nhau. Đào tạo không chỉ là quá trình trang bị kiến thức nhất
định về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo mà còn làm tăng niềm say
mê nghề nghiệp cho người lao động, để họ có thể đảm nhận và hoàn thành tốt
hơn một công việc nhất định [120].
Từ đây, có thể quan niệm đào tạo nguồn nhân lực là quá trình tác động
tự giác của chủ thể vào đối tượng đào tạo nhằm trang bị kiến thức nhất định
về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo cho người học để họ có thể đảm
nhận được công việc theo quy định, tiêu chuẩn, cấp bậc nghề nghiệp cần thiết,
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Phân biệt “giáo dục” với “đào tạo”: “giáo dục” là hoạt động của chù thể
tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần thể chất của đối
tượng nào đó, làm cho đối tượng đó dần dần có những phẩm chất và năng lực
như yêu cầu đề ra. “Đào tạo” chủ yếu là dạy dỗ rèn luyện để trở nên người có
hiểu biết, có nghề nghiệp. Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận một cách
có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy trình của từng cấp học nào đó.
Như vậy khái niệm giáo dục có nghĩa rộng hơn bao gồm cả đào tạo. Đào tạo
40
cũng có nội dung giáo dục nhưng chủ yếu thiên về dạy dỗ, rèn luyện để trở
nên người có chuyên môn nghề nghiệp. Đào tạo chủ yếu không phải trang bi
kiến thức cơ bản mà chỉ là vấn đề hệ thống lại về chức năng, khả năng vận
dụng những kiến thức ấy giải quyết những tình huống cụ thể.
Phân biệt “đào tạo” với “bồi dưỡng”: bồi dưỡng là quá trình tác động
đến con người làm cho cá nhân đó tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất; là quá
trình nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp một cách
thường xuyên; làm tăng cường năng lực nói chung trên cơ sở kiến thức, kỹ
năng đã được đào tạo. Bồi dưỡng có nhiệm vụ cập nhật, trang bị thêm những
kiến thức, kỹ năng, thái độ cho mỗi cá nhân để thực hiện tốt hơn, hiệu quả
hơn nhiệm vụ được giao. Như vậy, đào tạo được xem như là một quá trình
làm cho cá nhân trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định,
còn bồi dưỡng được xác định là quá trình làm cho người ta tăng thêm năng
lực hoặc phẩm chất.
Dựa trên cơ sở những quan niệm trên, xuất phát từ mục đích nghiên
cứu, tác giả thống nhất với quan niệm như sau:
Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch là sự tác động tích cực, tự giác
của chủ thể vào đối tượng đào tạo nhằm trang bị kiến thức nhất định về
chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo cho người lao động trong ngành du
lịch, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển ngành và của đất nước.
Về cơ bản, đào tạo nguồn nhân lực nói chung và đào tạo nguồn nhân
lực ngành du lịch nói riêng là việc giảng dạy và học tập ở các nhà trường gắn
với việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho đối tượng được đào tạo, để hình
thành cho đối tượng đó những phẩm chất, năng lực cần thiết, đáp ứng những
nhu cầu phát triển của ngành du lịch cũng như sự phát triển của xã hội trong
mỗi giai đoạn cụ thể.
41
2.2.2. Thực chất của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
Việt Nam
Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch là quá trình bao gồm nhiều yếu
tố nội tại. Chúng tác động biện chứng lẫn nhau. Tổng hòa đặc trưng của các
yếu tố nội tại chính là biểu hiện thực chất của quá trình này.
Một là chủ thể đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
Khái niệm “chủ thể” lúc đầu (chẳng hạn như ở Aritxtot) có nghĩa là
cái mang những đặc tính, trạng thái, hoạt động, và về mặt này thì là đồng nhất
với khái niệm thực thể. Kể từ thế kỷ XVII, khái niệm “chủ thể” cũng như khái
niệm tương quan với nó là “khách thể” bắt đầu được dùng với ý nghĩa nhận
thức luận.
Ngày nay, nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất về nội dung
của khái niệm “chủ thể”. Theo đó, chủ thể là con người hoạt động với những
cấp độ tồn tại khác nhau, nhận thức và cải tạo thế giới xung quanh cũng như
chính bản thân mình. Chủ thể đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch tạo dựng
tiền đề, định hướng thường xuyên tác động tích cực liên tục, đã chủ quan hóa
cái khách quan trong quá trình nhận thức chuyển hoá ở đối tượng đào tạo,
đảm bảo theo các yêu cầu ngành du lịch đặt ra.
Chủ thể trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch bao gồm các tổ
chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch. Vì vậy, hệ thống chủ thể đó rất đa dạng, nhiều cấp độ.
Tuy nhiên, chúng ta có thể tập trung nghiên cứu những chủ thể cơ bản, trực
tiếp nhất trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực của Ngành, gồm cấp độ cá
nhân và tổ chức. Chủ thể là tổ chức gồm: Các cơ quan quản lý nhà nước về du
lịch ở các cấp khác nhau (Trung ương, địa phương), các doanh nghiệp, tổ
chức kinh doanh du lịch và các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Chủ thể
là cá nhân gồm: đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý đứng đầu các tổ chức, những
42
cá nhân trực tiếp tham gia công tác đào tạo, và những cá nhân người lao động
hoặc là nguồn nhân lực lao đông trực tiếp trong những chuyên ngành du lịch.
Các cấp độ chủ thể trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực du lịch có mối
quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau. Các tổ chức do các cá nhân tạo
thành, cá nhân là đối tượng điều chỉnh của tổ chức. Tuy nhiên, tổ chức không
phải là tập hợp số cộng giản đơn của các cá nhân, mà có những nét đặc trưng
riêng của tổ chức, tạo nên tính tổ chức, kỷ luật, sức mạnh tập thể, sự phối hợp
trong công tác…Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi tập trung đến chủ thể
đào tạo là những giảng viên, giáo viên của các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch – chủ thể của hoạt động dạy.
Hai là đối tượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
Đối tượng của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch là những học
viên, sinh viên, học viên đang học các chuyên ngành du lịch tại các cơ sở đào
tạo - chủ thể của hoạt động học.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Lưu, hiện nay mỗi năm cả nước
tuyển sinh khoảng 22.000 học viên, sinh viên du lịch, trong đó có 3.870 sinh
viên (1.770 sinh viên, cao đẳng chuyên nghiệp và 2.100 sinh viên cao đẳng
nghề du lịch); 18.190 học viên (gồm 14.495 học viên trung học chuyên
nghiệp và 3.695 học viên trung cấp nghề du lịch).
Bên cạnh đó sơ cấp nghề và đào tạo du lịch dưới 3 tháng chưa có số
liệu thống kê đầy đủ, ước khoảng 5.000 học viên. Số lượng học viên, sinh
viên tốt nghiệp hàng năm khoảng 20.000. Đào tạo, dạy nghề sơ cấp và đào tạo
dạy nghề ngắn hạn có xu hướng tăng [64, tr.146]. Từ những số liệu minh
chứng này chúng ta có thể thấy đây là nhóm đối tượng khá đông đảo.
Ba là nội dung chương trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
Trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực, trong đó có đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch, thì việc xác định nội dung, chương trình đào tạo là
43
vấn đề cốt lõi để đạt được mục tiêu đào tạo cũng như tạo ra sự khác biệt của
sản phẩm của quá trình đào tạo. Nội dung giáo dục phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, trong đó có yếu tố về hệ thống đào tạo, mục tiêu đào tạo. Luật Giáo dục
năm 2019 quy định hệ thống giáo dục quốc dân gồm 04 bậc, đó là: Giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Theo đó, đào tạo nguồn nhân lực du lịch bao gồm đào tạo qua bậc
giáo dục nghề nghiệp (đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao
đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác) và giáo dục đại học (đào
tạo trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.
Giáo dục nghề nghiệp nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất,
kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo;
có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo,
thích ứng với môi trường hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất
lượng lao động; tạo điều kiện cho người học sau khi hoàn thành khóa học có
khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học trình độ cao hơn.
Giáo dục đại học có mục tiêu là đào tạo nhân lực trình độ cao, nâng cao
dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa học và công nghệ tạo ra tri thức,
sản phẩm mới, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh, hội nhập quốc tế. Đào tạo người học phát triển toàn diện về
đức, trí, thể, mỹ; có tri thức, kỹ năng, trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng
nắm bắt tiến bộ khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo, khả
năng tự học, sáng tạo, thích nghi với môi trường làm việc; có tinh thần lập
nghiệp, có ý thức phục vụ Nhân dân [90].
Đối với đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch, bên cạnh những yêu cầu
chung về đào tạo nói trên, cần phải dựa trên xu hướng phát triển công nghệ
trong lĩnh vực du lịch, đặc biệt là cần dựa trên các hệ tiêu chuẩn năng lực
nghề du lịch của quốc tế và khu vực để tạo nên khung năng lực riêng cho lao
44
động du lịch (như Tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam VTOS và Tiêu chuẩn
chung trong ASEAN về nghề du lịch ACCSTP). Bên cạnh đó, nội dung đào
tạo nguồn nhân lực ngành du lịch cũng cần dựa trên khung năng lực đối với
lao động ngành du lịch theo Tiêu chuẩn kĩ năng nghề quốc gia 2017. Đặc biệt
là, nội dung, chương trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch cần căn cứ
trên Công văn số 4929/BGDĐT-GDĐT về việc áp dụng cơ chế đặc thù đào
tạo các ngành về du lịch. Theo đó, cần chú ý đến những nội dung như:
“Những ngành được áp dụng cơ chế đặc thù gồm: Du lịch (7810101); Quản
trị dịch vụ du lịch và lữ hành (7810103); Quản trị khách sạn (7810201); Quản
trị nhà hàng và dịch vụ ăn uống (7810202) và các mã ngành đào tạo thí điểm
trong lĩnh vực du lịch chưa có trong danh mục giáo dục đào tạo cấp IV hiện
hành để đáp ứng nhu cầu về nhân lực du lịch.
Theo ý kiến của tác giả Trần Văn Thông thì hoạt động du lịch là hoạt
động có những nhiệm vụ phức tạp, vì vậy nội dung đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch bao gồm sự chuẩn bị về kiến thức văn hóa chung, kiến thức
kinh tế, kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức ngoại ngữ.
Đào tạo kiến thức văn hóa chung: như văn học, lịch sử, âm nhạc, hội
họa, thể thao, quan hệ giao tiếp xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng…giúp
cán bộ nhân viên du lịch có khả năng giao tiếp một cách rộng rãi, phục vụ tốt
tất cả đối tượng khách.
Đào tạo kiến thức kinh tế: giúp nguồn nhân lực trong ngành du lịch có
khả năng phân tích các hoạt động kinh tế và tạo điều kiện để quản lý tốt hoạt
động của các doanh nghiệp du lịch.
Đào tạo kiến thức, kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ: giúp nguồn nhân
lực có thể đảm nhận là làm tốt các chức năng nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu
phát triển ngành du lịch. Ví dụ: nhân viên phục vụ bàn phải nắm vững kỹ
năng bày bàn ăn, đưa thức ăn lên, rót rượu…; hướng dẫn viên du lịch phải
45
thực hiện thành thạo kỹ năng thuyết minh, tổ chức trò chơi, hoạt náo…phục
vụ du khách.
Đào tạo chính trị tư tưởng: giúp nguồn nhân lực ngành du lịch nhận
thức đúng đắn về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng
và phát triển kinh tế xã hội, lòng yêu nước, bảo vệ sự tôn nghiêm và danh dự
cho quốc gia, đồng thời phải yêu công việc của mình, tinh thần trách nhiệm,
phát huy tính cần cù, sáng tạo…
Đào tạo ngoại ngữ: du lịch quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, do vậy
nguồn nhân lực ngành du lịch phải có trình độ ngoại ngữ và giao tiếp phục vụ
khách quốc tế, không chỉ tiếng Anh mà những ngôn ngữ khác như tiếng Pháp,
tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Thái…[100, tr. 222-224].
Bên cạnh đó, để tạo được đội ngũ nhân lực du lịch vừa “hồng vửa
chuyên” thì nội dung đào tạo cần chú ý rèn luyện cho người học những phẩm
chất tốt đẹp, tinh thần phục vụ làm hài lòng du khách…
Bốn là hình thức đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
Theo hình thức đào tạo, có đào tạo chính quy và đào tạo không chính
quy, đào tạo có chứng chỉ văn bằng và đào tạo không chứng chỉ văn bằng, đào
tạo tại trường và đào tạo tại nơi làm việc trên cơ sở công việc đang làm, hình
thức liên kết trong đào tạo: liên kết trong nước và liên kết quốc tế…
Hình thức đào tạo chính quy: là hình thức ở đó người học được học
tập theo chương trình học có hệ thống theo thứ bậc tuần tự trong hệ thống nhà
trường với thời gian học liên tục, thường xuyên. Người học được học từ đơn
giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực hành, có điều kiện nắm vững các kiến
thức cơ bản và kỹ năng nghiệp vụ. Hình thức đào tạo này đòi hỏi quy chuẩn
về điều kiện trường, lớp, bộ máy quản lý, đội ngũ giáo viên, trang thiết bị thí
nghiệm và dạy học, xưởng thực hành, thư viện, chương trình đào tạo, người
học…
46
Hình thức đào tạo không chính quy: giúp cho mọi người vừa làm vừa
học, học liên tục, suốt đời nhằm hoàn thiện và mở rộng hiểu biết, nâng cao
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để thích nghi với thay đổi của công
việc và đời sống xã hội.
Đào tạo tại nơi làm việc: là đào tạo trực tiếp, chủ yếu là thực hành
ngay trong quá trình sản xuất. Đối với hình thức này, thời gian học tập ngắn,
chủ yếu vừa sản xuất vừa học tập, kiến thức lý thuyết không theo hệ thống. Vì
vậy, hình thức này chỉ thích hợp với những công việc không đòi hỏi trình độ
lành nghề cao.
Đào tạo tại các lớp cạnh doanh nghiệp du lịch: việc đào tạo tại doanh
nghiệp du lịch nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực du lịch
tại môi trường cụ thể, đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng nhân lực
cho doanh nghiệp du lịch. Vì vậy, các doanh nghiệp phải tổ chức các lớp đào
tạo cho riêng mình hoặc cho doanh nghiệp cùng ngành.
Ngoài ra, còn có hình thức tự học, là hình thức ở đó con người học
thông qua các hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm của bản thân và học qua sách
báo, các phương tiện truyền thông…
Bên cạnh đó, theo tính chất công việc, còn có thể chia làm các hình
thức đào tạo khác như: đào tạo mới khi bắt đầu nhận việc, đào tạo trong khi
làm việc, đào tạo cho công việc tương lai…
Hình thức liên kết trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch, nhất là
liên kết giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp là một cách thức hiệu quả góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo. Sự liên kết này có hệ thống cơ sở pháp lý
và hiệu quả hoạt động thực tiễn.
Liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân
lực ngành du lịch thường bao gồm những hình thức cơ bản sau: Chương trình
thực tập (Internship Program); Tour trải nghiệm nghề nghiệp (Career Tour);
47
Ứng viên tiềm năng (Fresher Program); Lớp liên kết (Linkages Training
Course); Ngày hội việc làm (Career Expo); Giảng viên thỉnh giảng (Visiting
Lecturer); Tập huấn giảng viên (Lecturer Training Workshop); Hội nghị
(Conference); Các học bổng (Scholarships)…
Năm là phương pháp đào tạo nguồn nhân lực du lịch
Phương pháp đào tạo là hệ thống những con đường, cách thức, biện
pháp của chủ thể đào tạo tác động vào đối tượng nhằm chuyển hóa tri thức
thành năng lực, phẩm chất, hiện thực hóa mục tiêu đào tạo. Phương pháp đào
tạo bao gồm cả phương pháp giảng dạy của chủ thể đào tạo và phương pháp
học tập của đối tượng đào tạo, trong đó phương pháp giảng dạy đóng vai trò
quan trọng định hướng cho phương pháp học tập phù hợp từng trình độ nhất
định chẳng hạn:
Đối với giáo dục nghề nghiệp, ưu tiên sử dụng phương pháp kết hợp
học lý thuyết với rèn luyện kỹ năng thực hành, bảo đảm để sau khi tốt nghiệp,
người học có khả năng hành nghề.
Phương pháp đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học phải coi
trọng việc bồi dưỡng ý thức tự giác trong học tập, năng lực tự học, tự nghiên
cứu, phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tạo điều kiện
cho người học tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng.
Phương pháp đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện bằng cách phối
hợp các hình thức học tập trên lớp với tự học, tự nghiên cứu; coi trọng việc
phát huy năng lực thực hành, năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề
chuyên môn.
Phương pháp đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện chủ yếu bằng tự
học, tự nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của nhà giáo, nhà khoa học; coi trọng
rèn luyện thói quen nghiên cứu khoa học, phát triển tư duy sáng tạo trong phát
hiện, giải quyết những vấn đề chuyên môn.
48
Trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch, đòi hỏi việc sử
dụng linh hoạt các phương pháp, phù hợp với từng đối tượng, vị trí công việc.
Trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch, trong sự phối hợp linh hoạt đó, cần chú
trọng chủ yếu đến phương pháp kết hợp lý thuyết với thực hành, với tỷ lệ 50 -50.
Sáu là môi trường đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
Môi trường đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch là hệ thống và hoàn
cảnh bên ngoài, các điều kiện kinh tế xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt
động đào tạo. Ở đây, có thể phân thành môi trường lớn, môi trường nhỏ. Môi
trường đào tạo lớn được đặc trưng chủ yếu ở các điều kiện chính trị, kinh tế,
xã hội, hệ thống giáo dục quốc dân. Môi trường đào tạo nhỏ chính là môi
trường của các nhà trường, các trung tâm, các viện nghiên cứu, nơi trực tiếp
diễn ra quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch.
Xét về môi trường đào tạo nhỏ, trực tiếp ở Việt Nam hiện nay cụ thể là:
Theo tác giả Nguyễn Văn Lưu trước năm 2000 cả nước chỉ có 03
trường đại học có đào tạo chuyên ngành du lịch là Trường Đại học (ĐH)
Thương Mại, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội và Trường ĐH Kinh tế
TP. Hồ Chí Minh, 03 trường nghề chuyên đào tạo du lịch là: Trường Du lịch
Hà Nội, Trường Du lịch Vũng Tàu, Trường nghiệp vụ Du lịch-Khách sạn
thuộc Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn.
Theo thống kê không đầy đủ, cuối năm 2005, cả nước có 69 cơ sở đào
tạo du lịch, trong đó có 14 trung tâm dạy nghề, 29 trường trung cấp, cao đẳng
và 26 cơ sở đào tạo du lịch hệ đại học.
Đến cuối năm 2007, cả nước có 82 cơ sở đào tạo du lịch, trong đó có
30 cơ sở đào tạo du lịch hệ dạy nghề và trung cấp, 52 cơ sở đào tạo du lịch hệ
cao đẳng và đại học.
Tính đến tháng 8 năm 2010, cả nước có 284 cơ sở tham gia đào tạo và
dạy nghề du lịch, gồm: 62 trường đại học; 80 trường cao đẳng (trong đó có 8
49
trường cao đẳng nghề); 117 trường trung cấp (trong đó có 12 trường trung cấp
nghề); 02 công ty đào tạo và 23 trung tâm, lớp đào tạo nghề [64].
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (ITDR) năm
2019, cả nước có hơn 190 cơ sở đào tạo du lịch và tham gia giáo dục đại học,
giáo dục nghề nghiệp du lịch ở trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp, sơ cấp
và đào tạo ngắn hạn, gồm: 65 trường đại học có các khoa du lịch; 55 trường
cao đẳng (có 10 trường cao đẳng chuyên đào tạo du lịch trong đó có 8 trường
trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Dulịch); 71 trường trung cấp. Cùng với
sự phát triển về quy mô số lượng là quá trình nâng cao chất lượng, đầu tư cơ
sở vật chất, phương tiện dạy học hiện đại hơn.
2.3. YÊU CẦU VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.3.1. Những yêu cầu trong việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du
lịch ở Việt Nam hiện nay
2.3.1.1. Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải hướng vào
phục vụ trực tiếp cho nhu cầu phát triển ngành du lịch của đất nước
Đào tạo là để phục vụ nhu cầu công việc. Do vậy, trong điều kiện
nguồn lực có hạn, cần xác định việc đào tạo kiến thức và kỹ năng gì là cần
thiết nhất để giúp người lao động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, qua đó
giúp tổ chức đạt được các mục tiêu của mình. Ở nước ta hiện nay, vấn đề đào
tạo nguồn nhân lực ngành du lịch trước hết phải gắn với mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội chung của đất nước được thể hiện trong Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội ở từng giai đoạn, mục tiêu phát triển của ngành du lịch, với
mục tiêu phát triển chung của mỗi địa phương, vùng miền…
“Quyết định Phê duyệt chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2030” xác định “mục tiêu phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế
50
mũi nhọn, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển các ngành và lĩnh vực khác, góp
phần quan trọng hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại. Trong đó năm 2025 sẽ tạo
ra khoảng 5,5 - 6 triệu việc làm, có khoảng 2 triệu việc làm trực tiếp, tăng
trưởng bình quân 12 - 14%/năm. Đến năm 2030, tạo ra khoảng 8,5 triệu việc
làm, trong đó có khoảng 3 triệu việc làm trực tiếp, tăng trưởng bình quân 8 -
9%/năm” [103]. Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải hướng vào và
góp phần quan trong trong việc thực hiện mục tiêu đến năm 2030 “du lịch
thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn và phát triển bền vững. Việt Nam trở thành
điểm đến đặc biệt hấp dẫn, thuộc nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh du
lịch hàng đầu thế giới, đáp ứng đầy đủ yêu cầu và mục tiêu phát triển bền
vững” [103].
2.3.1.2. Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải đảm bảo số
lượng, chất lượng, cân đối về cơ cấu, ngành nghề và trình độ đào tạo
Nhu cầu đào tạo có thể được xem xét từ 2 phía: Từ phía xã hội, địa
phương, tổ chức và từ phía người lao động. Trong việc đào tạo nguồn nhân
lực ngành du lịch, cần xuất phát từ dự báo nhu cầu nguồn nhân lực của ngành
du lịch ở các cấp độ: quốc gia, vùng miền, ngành…, từ đó đảm bảo yêu cầu
về số lượng, chất lượng cũng như mục tiêu phát triển chung.
Theo số liệu của Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch),
mỗi năm, toàn ngành cần khoảng 40.000 lao động, song thực tế hiện nay
lượng sinh viên ra trường lĩnh vực du lịch hằng năm chỉ đạt khoảng 15.000
người, hơn 12% trong số này có trình độ cao đẳng, đại học trở lên [64].. Điều
này đặt ra yêu cầu phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo ngành du lịch, cơ cấu lại
mạng lưới cơ sở đào tạo, đang dạng hóa cơ sở đào tạo, ưu tiên đầu tư cho các
cơ sở đào tạo du lịch trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là hạt nhân
đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở tất cả các cấp đào tạo tại các trung
tâm du lịch trong điểm Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nha trang, Đà Lạt,
51
Vũng Tảu, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ…và các cơ sở đào tạo khác có đào tạo
du lịch [64].
Cần đa dạng hóa ngành nghề tại các cơ sơ đào tạo: nghiệp vụ lễ tân,
nghiệp vụ buồng, kỹ thuật chế biến món ăn, nghiệp vụ nhà hàng, nghiệp vụ
sale và marketing, nghiệp vụ thiết kế và điều hành tour, nghiệp vụ hướng dẫn
du lịch nội địa và quốc tế…Bên cạnh đó cần nghiên cứu dự báo nhu cầu nhân
lực của từng bộ phận cụ thể để điều chỉnh chỉ tiêu đào tạo cho phù hợp.
2.3.1.3. Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải thống nhất giữa
lý thuyết và thực hành kỹ năng nghề du lịch
Để đào tạo thật sự có ý nghĩa cần hướng đến sử dụng nhân lực sau đào
tạo vì vậy các cơ sở đào tạo cần chú trọng kết hợp việc đào tạo lý thuyết với
việc kỹ năng thực hành nghề. Theo đó, những kiến thức và kỹ năng mà người
lao động đạt được trong quá trình đào tạo phải được ứng dụng trong thực tiễn.
Người học được tạo điều kiện thuận lợi để phát huy khả năng của mình.
Là ngành phi sản xuất vật chất, du lịch thông qua cung cấp dịch vụ vật
chất để thỏa mãn nhu cầu của du khách. Vì vậy, có thể cung cấp dịch vụ tốt
hay không là tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển của ngành du lịch, và
điều đó được quyết định bởi tố chất, kỹ năng thực hành nghề của cán bộ, nhân
viên ngành du lịch. Việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch ngành du lịch càng
phải nhấn mạnh yếu tố thực hành, ngoại ngữ và kỹ năng. Đây là những yếu tố
đảm bảo hiệu quả của công tác đào tạo.
2.3.2. Các nhân tố ảnh hƣởng tới đào tạo nguồn nhân lực ngành du
lịch ở Việt Nam hiện nay
Việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở nước ta chịu ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố: cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước; điều kiện kinh tế -
xã hội, trình độ phát triển ngành du lịch; truyền thống văn hóa, phong tục tập
52
quán; xu thế hội nhập quốc tế và quá trình ứng dụng khoa học – công nghệ;
tác động của yếu tố con người.
2.3.2.1. Cơ chế chính sách của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
Đào tạo nguổn nhân lực cho ngành du lịch là quá trình mang tính tự
giác, tích cực, chủ động với những cơ chế chính sách cụ thể, phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh, có tính khả thi được Đảng và Nhà nước xác định. Trong đào
tạo nguồn nhân lực, Đảng và Nhà nước là chủ thể hành động quản lý, quyết
định cơ chế chính sách pháp luật, quy định phương hướng, mục tiêu mở rộng
quy mô đào tạo nguồn nhân lực trong từng thời kỳ sát với yêu cầu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội. Ở đây, cơ chế chính sách quy định phương hướng,
mục tiêu và quy mô đào tạo, nội dung chương trình đào tạo nguồn nhân lực
nói chung và đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch nói riêng. Đại hội X của
Đảng chỉ rõ: “Nhà nước tăng đầu tư tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các
chương trình quốc gia phát triển giáo dục, hỗ trợ các vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”. Đại hội XI của Đảng nhấn
mạnh phải tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực, quản
lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng tính chủ động , tự chịu trách nhiệm của
các cơ sở giáo dục, trọng dụng thu hút nhân tài. Tại Đại hội XII, Đảng tiếp tục
khẳng định phải “phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,…Đổi mới
căn bản công tác quản lý, giáo dục,…tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội
của các cơ sở giáo dục, đào tạo” [67, tr.59].
Việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của nước ta chịu ảnh
hưởng của chính sách về phát triển du lịch với những mục tiêu, định hướng
phát triển ngành du lịch theo ngành, lãnh thổ liên quan đến số lượng, chất
lượng, cơ cấu nguồn nhân lực du lịch.
Bên cạnh đó, việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch còn chịu ảnh
hưởng của chính sách về đào tạo, dạy nghề du lịch, xác định những quy chuẩn
53
về cơ sở vật chất kỹ thuật đào tạo, chương trình đào tạo, về tiêu chuẩn giảng
viên, giáo viên và chế độ của giảng viên, giáo viên tham gia đào tạo, về quy
định tuyển sinh, tốt nghiệp… [64, tr.97].
Cơ chế chính sách của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước quyết
định hiệu quả, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Việt Nam.
Nó tác động đến đào tạo nguồn nhân lực thể hiện trên tất cả các mặt, các khâu
của quá trình đào tạo. Cơ chế chính sách đúng đắn, phù hợp sẽ thu hút người
tài giỏi, tăng số lượng, chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch. Cơ chế
chính sách không phù hợp gây cản trở quá trình đào tạo, kìm hãm sự cống
hiến của người lao động, triệt tiêu động lực của chủ thể cũng như đối tượng
đào tạo, làm thui chột tài năng, kìm hãm quá trình chấn hưng sự nghiệp giáo
dục và đào tạo nước nhà nói chung, ngành du lịch nói riêng.
2.3.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội, xu thế phát triển ngành du lịch
Trình độ phát triển kinh tế tạo nên nền tảng vật chất để giải quyết các
vấn đề về nguồn nhân lực. Ở những địa phương có trình độ kinh tế phát triển
cao, mặt bằng chung của đời sống nhân dân và các thiết chế xã hội đạt mức
cao, Nhà nước có điều kiện đầu tư giải quyết tốt vấn đề giáo dục, đào tạo
nguồn nhân lực, các chính sách xã hội, do vậy chất lượng nguồn nhân lực cũng
được nâng cao. Trình độ phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển du lịch và đến lượt mình, trình độ phát triển du lịch sẽ quyết định đến
số lượng, chất lượng và xu thế phát triển của nguồn nhân lực ngành Du lịch.
Ở Việt Nam du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, với tốc
độ tăng trưởng cao và mang lại doanh thu đáng kể. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, các số liệu thống kê trên website http://thongke.tourism.vn/ cho
thấy tổng thu từ khách du lịch năm 2019 đạt 726.000 tỉ đồng (khoảng 31 tỉ
USD), tăng hơn 17% so với năm 2018. Năm 2019 Việt Nam đã đón hơn 18
triệu du khách quốc tế - tăng 16,2 % so với năm 2018. Số liệu cho thấy gần
54
80% khách quốc tế đến Việt Nam từ châu Á, với hơn 14,3 triệu lượt và tăng
hơn 19% so với cùng kỳ; khách từ châu Âu xấp xỉ 2,17 triệu lượt - tăng 6,4%
và khách từ châu Mỹ 973.800 lượt - tăng 7,7%. Điều này đặt ra yêu cầu phải
tập trung đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch để đáp ứng yêu cầu phục vụ
khách du lịch ngày càng tăng. Tổng cục Du lịch ước tính ngành du lịch Việt
Nam trực tiếp sử dụng khoảng 750.000 lao động năm 2017 và sẽ cần đến
870.000 lao động vào năm 2020 để bắt kịp với nhu cầu tăng trưởng.
Xu thế phát triển ngành du lịch hiện nay cũng có nhiều thay đổi. Kết
cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông được cải thiện vượt bậc cho phép
khách du lịch rút ngắn thời gian đi lại, tiếp cận đến nhiều điểm đến du lịch,
tạo nên xu thế khách du lịch rút ngắn thời gian lưu trú tại mỗi điểm du lịch và
thực hiện nhiều chuyến đi du lịch đến các điểm đến du lịch khác nhau trong
thời gian trong năm. Các dịch vụ du lịch được chia thành 2 nhóm chính là
nhóm dịch vụ chính (gồm ăn uống và lưu trú) và nhóm dịch vụ bổ sung (nghỉ
dưỡng, tham quan, tìm hiểu, vui chơi giải trí, chăm sóc sức khoẻ, tham gia các
hoạt động thể thao, văn hoá - xã hội...). Cùng với xu thế đi du lịch nhiều lần
trong năm thì khách du lịch ngày càng có nhu cầu nhiều hơn với các dịch vụ
thuộc nhóm dịch vụ bổ sung.
Thị hiếu của du khách cũng có nhiều chuyển biến. Khách du lịch ngày
càng quan tâm tìm hiểu và muốn trải nghiệm giá trị văn hóa độc đáo, chân
thật của các điểm đến, quan tâm đến bảo vệ mội trường, đóng góp cho cộng
đồng địa phương nơi họ đến du lịch. Những thay đổi của “cầu du lịch” đã làm
thay đổi “cung du lịch” và qua đó tác động trực tiếp, làm thay đổi sự phát
triển của nguồn nhân lực ngành du lịch.
2.3.2.3. Truyền thống văn hóa, phong tục tập quán
Trong truyền thống văn hóa, các giá trị văn hóa truyền thống là những
giá trị tốt đẹp, tiêu biểu cho một nền văn hóa, tạo nên bản sắc văn hóa của một
55
dân tộc được chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong suốt
chiều dài phát triển của lịch sử. Nó giống như nền tảng vững chắc, điểm tựa
cho mỗi dân tộc trên hành trình phát triển của nhân loại. Đảng ta khẳng định
những giá trị văn hóa nổi bật của bản sắc Việt Nam là “lòng yêu nước nồng
nàn, lòng tự tôn, tự cường dân tộc, tinh thần cộng đồng gắn kết cá nhân – gia
đình – làng xã – Tổ quốc, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức
tính cần cù sáng tạo trong lao động, là đức tính hy sinh cao thượng, tất cả vì
độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, là sự tế nhị trong cư xử, tính giản
dị trong lối sống” [26,tr.10-11].
Giá trị văn hóa truyền thống có vai trò quan trọng trong đào tạo nói
chung, đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch nói riêng. Nó là cơ sở nền tảng
cho việc đề ra mục đích, nội dung chương trình, hình thức trong đào tạo
nguồn nhân lực. Nó là động lực ngọn nguồn phát triển dân tộc, tạo nên sức
mạnh tinh thần và bản lĩnh cho các thế hệ nguồn nhân lực ngành du lịch học
tập, rèn luyện và tu dưỡng vươn lên trong giai đoạn mới.
Các giá trị văn hóa truyền thống sẽ là cơ sở giúp các học viên, sinh viên
đang học tại các trường đào tạo ngành du lịch đứng vững trước những tác
động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa và sự chống
phá của các thế lực thù địch.
Các giá trị văn hóa truyền thống với tư cách là hệ chuẩn giá trị có vai trò
như một “màng lọc” giúp chủ thể đào tạo cũng như đối tượng đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch phân biệt đúng sai, tốt xấu, giúp họ nên hay không nên
trong hành vi ứng xử. Từ đó họ có khả năng lựa chọn tiếp thu những giá trị tiến
bộ văn minh của nhân loại, cũng như loại bỏ những phản giá trị góp phần quan
trọng trong việc phát triển hoàn thiện nhân cách của mình.
Cùng với truyền thống văn hóa, phong tục tập quán có vai trò nhất định
ảnh hưởng đến công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Nó là “cái giá”
56
mang nội dung giá trị đạo đức và đạo đức. Nó thường thể hiện qua các lễ hội,
tục lệ ma chay, cưới xin… Những tư tưởng tâm lý không muốn người khác
hơn mình, chủ nghĩa bình quân cục bộ địa phương, đùn đẩy trách nhiệm, thiếu
dân chủ, háo danh hám lợi...nếu không kịp thời khắc phục sẽ kìm hãm cả sự
phát triển con người và quá trình đào tạo nguồn nhân lực.
Những truyền thống văn hóa, phong tục tập quán tác động đến việc
đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch theo cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Về mặt tích cực: điều kiện truyền thống văn hóa, phong tục tập quán
mang tính tích cực, phù hợp sẽ là cơ sở quan trọng để hình thành nên những
phẩm chất tốt đẹp của con người. Trên những nền tảng cơ sở đó, nguồn nhân
lực được phát triển. Đó là những giá trị, chuẩn mực chân chính ở các cơ sở
giáo dục như: tận tụy với nhân dân, trách nhiệm với công việc, chuyên
nghiệp, có hành vi, thái độ ứng xử đúng mực… tạo điều kiện thuận lợi cho
việc xây dựng một thế hệ trung thành với Tổ quốc.
Về mặt tiêu cực: những phong tục tập quán lạc hậu bảo thủ, không phù
hợp với bối cảnh, tình hình hiện tại như tư tưởng cục bộ, tiểu nông, bình quân
chủ nghĩa… sẽ tạo ra những lực cản trở cho việc đào tạo nguồn nhân lực nói
chung và nguồn nhân lực ngành du lịch nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
từng khẳng định “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó
ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó,
mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài‟ [67, tr.64]
Xét về khía cạnh kinh tế du lịch, truyền thống văn hóa, phong tục tập
quán với ý nghĩa những giá trị vật chất và tinh thần là nguồn tài nguyên du
lịch nhân văn đặc sắc phục vụ du khách. Trong quá trình đào tạo ngành nguồn
nhân lực ngành du lịch, các cơ sở đào tạo cần tập trung đào tạo kiến thức và
kỹ năng khai thác các giá trị văn hóa đặc trưng của địa phương nhằm đem đến
57
các sản phẩm hấp dẫn, độc đáo đáp ứng nhu cầu trải nghiệm, khám phá của
khách du lịch.
2.3.2.4. Xu thế hội nhập quốc tế và quá trình ứng dụng khoa học –
công nghệ vào trong đào tạo
Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế dẫn tới hình thành xu hướng quốc tế
hóa nền kinh tế thế giới. Trong xu hướng này, các quốc gia muốn phát triển
thì hội nhập kinh tế, xây dựng và mở rộng mối quan hệ với các quốc gia khác
là điều tất yếu. Quá trình toàn cầu hoá hội nhập quốc tế đã thúc đẩy cuộc chạy
đua phát triển nguồn nhân lực tại các quốc gia, khu vực trên thế giới. Toàn
cầu hóa đã làm cho các nền kinh tế phát triển nhanh chóng hơn và trở thành
một thị trường toàn cầu, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, cạnh tranh gay gắt
với nhau. Khả năng cạnh tranh được quyết định bởi năng lực tạo ra giá trị
tăng thêm của các sản phẩm, dịch vụ và các quá trình hoạt động của mỗi quốc
gia và của từng doanh nghiệp. Đóng góp chủ yếu vào điều này phụ thuộc vào
kiến thức và các kỹ năng của lực lượng lao động.
Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã tác động mạnh mẽ đến
giáo dục đào tạo. Trên cơ sở nhận thức về vai trò vô hạn của nguồn nhân lực, các
quốc gia đã không ngừng phát triển đổi mới giáo dục đào tạo trong quá trình hội
nhập. Để tránh nguy cơ tụt hậu, chúng ta không thể nằm ngoài xu hướng đó. Từ
đây, đặt ra nội dung chương trình, phương thức đào tạo cho ngành du lịch phải
không ngừng cải tiến, bổ sung cho phù hợp xu hướng chung.
Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nhiều đối tác
nước ngoài đang tiếp tục đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh du lịch ở Việt
Nam thì khiếm khuyết của nguồn nhân lực ngành du lịch ngày càng bộc lộ rõ.
Mặc dù nguồn nhân lực ngành du lịch đang tạm thời bù đắp những khiếm
khuyết đó nhưng về lâu dài lao động ngành du lịch Việt Nam sẽ phải đối mặt
với sự cạnh tranh từ lao động của các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Inđô
58
nêxia, Singapore…. Vì thế để tiếp tục thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư
ngành du lịch, Việt Nam không thể không nâng cao chất lượng và khả năng
cạnh tranh nguồn nhân lực ngành du lịch và phải xem đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch là một nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Tiến bộ của công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra những thay
đổi lớn trong các tổ chức và xuất hiện cách thức thực hiện công việc mới.
Nhiều ngành nghề mới, công nghệ mới và phương thức quản lý mới xuất
hiện, đòi hỏi người lao động phải được trang bị những kiến thức, kỹ năng mới
để đảm nhận các công việc mới. Những biến đổi trong các tổ chức cũng làm
thay đổi vai trò của người lao động, họ có nhu cầu trong việc ra quyết định và
thực sự cần thiết trong việc mở rộng hơn các kỹ năng làm việc. Nhân lực du
lịch cần bổ sung nhiều hơn các kỹ năng so với trước đây. Những điều này làm
thay đổi mạnh mẽ về chất đối với nguồn nhân lực ngành du lịch.
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đã và đang
có những phát triển vượt bậc. Thời đại ngày nay được xem là thời đại của
cuộc cách mạng đại công nghệ. Đây là điều kiện thuận lợi, tạo điều kiện góp
phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình đào tạo nhưng cũng đặt ra
nhiều yêu cầu đối với cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Các cơ sở
đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch cần có tư duy mới về chiến lược và
phương thức đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, phải không ngừng đổi
mới mục tiêu, hiện đại hóa nội dung, đổi mới phương pháp nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch.
2.3.2.5. Con người –nhân tố quyết định của quá trình đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch
Nhân tố con người trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực ngành du
lịch ngoài các cán bộ quản lý phải kể đến hai nhân tố trung tâm là người thầy
– chủ thể của hoạt động đào tạo và người học – đối tượng của hoạt động đào
59
tạo. Phẩm chất năng lực của người thầy và phẩm chất năng lực của học viên,
sinh viên sẽ quyết định đến chất lượng đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực
ngành du lịch.
Ở đây cần chú ý là số lượng nguồn nhân lực đào tạo đóng vai trò quan
trọng đối với sự phát triển chất lượng đào tạo. Nếu số lượng nguồn nhân lực
không tương xứng với sự phát triển đào tạo, phát triển ngành du lịch (hoặc
thiếu, hoặc thừa) đều tác động không tốt đến sự phát triển đào tạo và chính
nguồn lực con người trong công tác đào tạo của ngành du lịch quyết định đến
chất lượng đào tạo. Ở đây, chất lượng nguồn lực con người trong đào tạo của
ngành du lịch vừa có tính chất chung, vừa có tính chất đặc thù.
Tính chung: đó là người lao động mang đầy đủ phẩm chất, đức tính,
tâm lý truyển thống của người lao động Việt Nam. Đó là con người có bản
chất nhân văn, nhân bản, nhân ái trong quan hệ với con người, với cộng đồng,
có đầu óc khoa học, có tay nghề cao, sáng tạo ra các giá trị để làm giàu cho xã
hội và cho bản thân mình.
Tính đặc thù của người lao động trong công tác đào tạo ngành du lịch
được xét dưới góc độ sau: đây là những người có trình độ dân trí cao, có năng
lực hiểu biết, trình độ chuyên môn giỏi, có khả năng khám phá, có hiểu biết
sư phạm và phương pháp sư phạm. Họ là những người lao động trí tuệ vừa
chính xác, khoa học vừa đòi hỏi gương mẫu cao (thầy cô giáo là tấm gương
sáng cho sinh viên noi theo), đào tạo các thế hệ học viên, sinh viên có khoa
học, có kỹ thuật, có đạo đức, năng động sáng tạo.
Như vậy nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch,
chúng ta phải có đội ngũ thầy cô giáo giỏi. Để có thầy cô giáo giỏi phải chăm
nom, vun trồng một cách toàn diện. Có thể nói, trong đào tạo vấn đề giáo viên
là vấn đề “đại sự”, họ luôn luôn là lực lượng “hạt nhân”, bởi không giống như
các ngành nghề khác sản phẩm của họ là con người. Chất lượng của đội ngũ
60
giáo viên sẽ ảnh hưởng đến nhiều thế hệ, thậm chí còn là nhân tố tác động sự
tồn tại và phồn vinh của cả một quốc gia. Vì thế, con người là nhân tố quyết
định trong công tác đào tạo nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực ngành
du lịch nói riêng.
Mặt khác, học viên, sinh viên vừa với tư cách là đối tượng, vừa với tư
cách là chủ thể của đào tạo (tự đào tạo). Kết quả học tập là sự thống nhất giữa
những nhân tố tác động bên ngoài với sự vận động bên trong của mỗi cá nhân,
giữa chủ quan với khách quan, cá nhân với xã hội. Sự tác động tích cực của
môi trường xã hội thuận lợi chỉ có ý nghĩa khi bản thân người học biết tự giác
học tập, rèn luyện, tiếp thu. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Sửa đổi
lối làm việc” đã từ căn dặn: “việc học phải lấy tự học làm cốt”. Vì vậy để
công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch được hiệu quả thì việc tự giác
học tập, tiếp thu, kế thừa, cũng như rèn luyện tư tưởng, nhân cách là vấn đề
quyết định trực tiếp. Thực chất đây là chủ quan hóa cái khách quan trong đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển ngành du lịch ở Việt Nam hiện
nay.
Theo tác giả Nguyễn Văn Lưu mỗi năm cả nước tuyển sinh khoảng
22.000 học viên, sinh viên ngành du lịch. Theo số liệu thống kê năm 2014, cả
nước có khoảng 5.000 người tham gia đào tạo, dạy nghề du lịch, trong đó có
2.000 giáo viên, giảng viên du lịch (cả cơ hữu và thỉnh giảng), 540 cán bộ
quản lý, phục vụ đào tạo các cấp và 2.579 đào tạo viên du lịch (có chứng chỉ
đào tạo của Hội đồng Cấp chứng chỉ nghiệp vụ Du lịch Việt Nam). Giảng
viên, giáo viên ở độ tuổi dưới 30 tuổi chiếm khoảng 29%, từ 31 -50 tuổi
chiếm 60%, trên 50 tuổi chiếm 11%. Trong số giảng viên, giáo viên có 2 giáo
sư, 11 phó giáo sư, 1 tiến sĩ khoa học, 36 tiến sĩ, 210 thạc sĩ và 5 chuyên gia,
nghệ nhân [64, tr.140-141]. Đây là lực lượng có ảnh hưởng trực tiếp đến đào
tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Việt Nam hiện nay.
61
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Khái niệm nguồn nhân lực được tác giả luận án hiểu theo nghĩa hẹp là
nguồn lao động. Theo đó khái niệm nguồn nhân lực ngành du lịch Việt Nam
là một bộ phận trong cơ cấu nguồn nhân lực quốc gia, là tổng hòa những khả
năng của lực lượng lao động hiện có trong ngành du lịch và tiềm năng có thể
huy động thể hiện qua các yếu tố về số lượng, chất lượng, cơ cấu với các tiêu
chí về thể lực, trí lực và tâm lực của con người đóng góp quan trọng vào sự
phát triển của ngành du lịch.
Đào tạo nguồn nhân lực du lịch là sự tác động tích cực, tự giác của
chủ thể vào đối tượng đào tạo nhằm trang bị kiến thức nhất định về chuyên
môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo cho người lao động trong ngành du lịch, đáp
ứng yêu cầu của sự phát triển ngành và của đất nước .
Việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Việt Nam hiện nay phải
hướng vào phục vụ trực tiếp cho nhu cầu phát triển ngành du lịch của đất
nước; đảm bảo số lượng, chất lượng, cân đối về cơ cấu, ngành nghề và trình
độ đào tạo; và phải thống nhất giữa lý thuyết và thực hành kỹ năng nghề du
lịch.
Quá trình đào tạo nguồn nhân lực du lịch luôn chịu sự tác động bởi
nhiều nhân tố: cơ chế chính sách của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, điều kiện kinh tế - xã hội, xu thế phát triển ngành du lịch, truyền thống
văn hóa, phong tục tập quán, xu thế hội nhập quốc tế và quá trình ứng dụng
khoa học – công nghệ vào trong đào tạo và nhân tố con người. Trong đó con
người là nhân tố quyết định của quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du
lịch.
62
Chƣơng 3
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI, VĂN HÓA VÀ
NGUỒN NHÂN LỰC ẢNH HƢỞNG ĐẾN ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN
LỰC DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
3.1.1. Một số khái quát về điều kiện tự nhiên Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hay còn gọi là vùng Tây Nam Bộ
gồm TP. Cần Thơ và 12 tỉnh: An Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng
Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Long An, Tiền Giang, Trà Vinh và
Vĩnh Long. Phía Đông Bắc tiếp giáp với TP. Hồ Chí Minh và vùng Đông
Nam Bộ; Phía Tây Bắc tiếp giáp với Campuchia; phía Tây Nam, phía Nam và
Đông Nam tiếp giáp với vịnh Thái Lan và biển Đông.
Với diện tích 40.816,4 km2, chiếm 12,3 % diện tích cả nước (số liệu
của Tổng cục Thống kê năm 2019), ĐBSCL là đồng bằng phù sa lớn nhất
nước do hệ thống sông Cửu Long bồi đắp nên.
Tính sông nước là đặc trưng nổi bật của tự nhiên vùng ĐBSCL. Dòng
sông Mêkông chảy vào lãnh thổ Việt Nam mang tên gọi sông Cửu Long, phân
thành 2 nhánh sông chính là sông Tiền và sông Hậu, cùng một hệ thống kênh
rạch chằng chịt bồi đắp phù sa màu mỡ cho ĐBSCL, nhiều nơi ở nội đồng
cũng như ven biển đồng bằng đang trong quá trình hình thành, tạo nên những
cảnh quan đặc sắc. Cảnh quan sinh thái đặc trưng là đồng bằng thấp với một
vùng sông nước hữu tình, từ đó tạo nên hệ sinh thái rừng tràm, rừng ngập
mặn, sân chim, những cánh đồng cò bay thẳng cánh, rộng mênh mông trong
mùa nước nổi, những xóm thôn cây trái bốn mùa trĩu quả, môi trường trong
63
lành chạy dọc theo các bờ kênh, vừa là những trục lộ cho ghe xuồng ngược
xuôi, mang nhiều sản vật, hoa trái tập trung tại các ngã ba, ngã tư sông họp
thành chợ nổi lạ mắt, cuốn hút và hấp dẫn du khách. Từ đó hình thành một
nền văn hóa diệu kỳ mà nhiều người dùng cụm từ “văn minh sông nước và
văn hóa miệt vườn” để chỉ về nét đặc sắc ấy của vùng ĐBSCL, là tiềm năng
về du lịch độc đáo, không giống bất cứ với vùng miền nào của cả nước.
ĐBSCL có khí hậu cận xích đạo gió mùa nóng ẩm quanh năm, gồm hai
mùa: mùa mưa và mùa khô. Thời tiết ít biến động. ĐBSCL cũng có 3 khu dự
trữ sinh quyển, 5 vườn quốc gia, 3 khu bảo tồn tự nhiên, 3 khu bảo tồn loài, 7
khu bảo vệ sinh cảnh và 1 khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch.
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội và tiềm năng, thế mạnh phát triển
ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long
Theo Tổng cục Thống kê năm 2019, ĐBSCL có dân số là 17.282.500
người chiếm 17,91% dân số cả nước. Mật độ dân số trung bình của vùng là 423 người/km2.
Bảng 3.1: Diện tích, dân số và mật độ dân số các địa phƣơng ĐBSCL năm 2019
STT Địa phƣơng Mật độ dân số (Người/km2) Diện tích (km2) Dân số (nghìn người)
1.439,0 1.236,0 859,0 1 TP.Cần Thơ
3.536,7 1.907,4 539,0 2 An Giang
6.348,8 1.723,7 272,0 3 Kiên Giang
5.221,2 1.194,3 229,0 4 Cà Mau
2.669,0 908,2 340,0 5 Bạc Liêu
64
1.621,7 732,2 451,0 6 Hậu Giang
3.311,9 1.199,5 362,0 7 Sóc Trăng
2.358,3 1.009,3 428,0 8 Trà Vinh
1.525,7 1.022,6 670,0 9 Vĩnh Long
2.510,6 1.766,3 704,0 10 Tiền Giang
4.494,9 1.695,1 377,0 11 Long An
2.394,8 1.289,1 538,0 12 Bến Tre
3.383,8 1.598,8 472,0 13 Đồng Tháp
Nguồn: Số liệu thống kê trên website của Tổng cục Thống kê
423,0 40.816,4 17.282,5 ĐBSCL
https://www.gso.gov.vn/so-lieu-thong-ke/
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm thì người Khmer là
những lưu dân đầu tiên đến chiếm lĩnh vùng đất Tây Nam Bộ. Theo Tổng
điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Khmer sinh sống đông nhất ở vùng
ĐBSCL với 1.183.476 người, chiếm 93,8% tổng số người Khmer ở Việt Nam
và chiếm 6,88% dân số toàn vùng. Người Khmer cư trú tập trung đông nhất ở
ba tỉnh: Sóc Trăng với 397.014 người (chiếm 30,7% dân số toàn tỉnh và
31,5% tổng số người Khmer ở Việt Nam), Trà Vinh với 317.203 người
(chiếm 31.6 % dân số toàn tỉnh và 25,2% tổng số người Khmer ở Việt Nam),
và Kiên Giang với 210.899 người (chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 16,7%
tổng số người Khmer ở Việt Nam) [99, tr. 80-81].
Người Kinh bắt đầu tới ĐBSCL làm ăn sinh sống từ đầu thế kỉ XVII,
dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên và trở thành lực lượng quan trọng nhất
65
làm biến đổi vùng đất Tây Nam Bộ. Năm 2009 số lượng người Kinh ở
ĐBSCL là 15.811.571 chiếm 92 % dân số toàn vùng [99, tr.81].
Từ thế kỉ XVII, bên cạnh người Kinh, người Hoa cũng đến ĐBSCL cư
ngụ. Đây là nhóm người Hoa trung thành với nhà Minh, không thuần phục
nhà Thanh bỏ quê hương di dân sang Việt Nam và một số nước Đông Nam Á
như Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Mạc Cửu… Theo Tổng điều tra
dân số và nhà ở năm 2009, Người Hoa sinh sống ở vùng ĐBSCL chỉ có
177.178 người, chiếm 21,5 % tổng số người Hoa ở Việt Nam và chiếm 1,03
% dân số toàn vùng. Ở ĐBSCL, người Hoa cư trú tập trung đông nhất ở ba
tỉnh: Sóc Trăng với 64.910 người, Kiên Giang với 29.850 người và Bạc Liêu
với 20.082 người [99, tr. 81-82].
Tiếp theo người Hoa là người Chăm. Theo Tổng điều tra dân số và nhà
ở năm 2009, người Chăm ở ĐBSCL là 15.823 người chiếm 9,8% tổng dân số
người Chăm ở Việt Nam và chiếm 0,09% dân số toàn vùng. Trong đó đông
nhất là ở An Giang với 14.209 người [99, tr.83]
Ngày nay, ĐBSCL đã đạt được những thành tựu to lớn, bình quân hàng
năm sản xuất hơn 90% lượng gạo, 62% lượng thủy sản và 70% lượng trái cây
xuất khẩu cả nước [111, tr.6].
Theo báo cáo Kinh tế Thường niên Đồng bằng sông Cửu Long năm
2020 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Trường Chính
sách Công và Quản lý Fulbright thực hiện thì tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo
của Chính phủ ở ĐBSCL đã giảm từ mức rất cao là 36,9% vào năm 1998
xuống chỉ còn 12,6% vào năm 2010 và 5,2% vào năm 2016, và tỷ lệ này tiếp
tục giảm trong giai đoạn 2016-2019. Tuy nhiên, tình trạng di cư của người
dân đồng bằng về TP Hồ Chí Minh và miền Đông Nam Bộ đáng báo động.
Kết quả là so với các vùng khác trong cả nước, ĐBSCL có tỷ lệ nhập cư thấp
nhất, tỷ lệ xuất cư cao nhất, và do đó là vùng duy nhất có tỷ lệ tăng dân số là
66
0,0% trong giai đoạn 2009 - 2019. Số lượng di cư ròng khỏi ĐBSCL trong
thập niên vừa qua là gần 1,1 triệu người, lớn hơn dân số của một số tỉnh trong
vùng và tương đương với số tăng dân số tự nhiên của cả vùng.
Phát triển du lịch của vùng những năm qua đạt được nhiều kết quả khả
quan. Theo thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long, kết
quả kinh doanh du lịch năm 2019 toàn vùng đón được 45.765.141 lượt khách,
tăng 12,3 % so với năm 2018 và tăng 55,7% so với năm 2016. Trong đó
khách quốc tế là 3.444.873 lượt, khách nội địa là 42.320.268 lượt.
Bảng 3.2: Thống kê lƣợt khách du lịch nội địa và quốc tế đến ĐBSCL năm 2016 – 2019
ĐVT: Lượt khách
Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
Khách du lịch nội địa 26.819.502 32.022,599 37.325.187 42.320.268
Khách du lịch quốc tế 2.571.257
Tổng lƣợt khách
29.390.759 2.854.683 34.877.282 3.420.109 40.745.296 3.444.873 45.765.141
Nguồn: số liệu thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long
Doanh thu từ hoạt động du lịch của vùng ĐBSCL nhìn chung còn
khiêm tốn. Năm 2019 chỉ đạt 30.012.2 tỉ đồng, tăng 26,19 % so với năm 2018
và tăng 120,86 % so với năm 2016.
Những tháng đầu năm 2020, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu chịu
ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, du lịch Việt Nam nói chung và du lịch
ĐBSCL cũng chịu tác động năng nề và suy thoái. 6 tháng đầu năm 2020, theo
thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long thì các chỉ số lượt
67
khách và doanh thu đều giảm khoảng một nửa so với cùng kỳ năm 2019:
Tổng lượt khách đến là 12.661.458 lượt, giảm: 50,22 %. Khách lưu trú là
2.800.674 lượt, giảm: 49 %. Tổng thu từ hoạt động du lịch là 6.253,993 tỉ
đồng, giảm 52,15 %.
Bảng 3.3: Thống kê doanh thu du lịch ĐBSCL năm 2016 – 2020
Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
ĐVT: Tỉ đồng 6 tháng đầu năm 2020
13.588,418 30.012,2 6.253,993 Doanh thu 17.228,912 23.782,744
Cũng theo thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long
Nguồn: số liệu thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long
thì hiện toàn vùng có 2.821 cơ sở lưu trú và 488 siêu thị đáp ứng nhu cầu lưu
trú và mua sắm cho du khách. Các cơ sở lưu trú đạt chuẩn 5 sao phần lớn tập
trung ở Phú Quốc như: khách sạn MườngThanh Luxury Phú Quốc, Resort
Novotel Phú Quốc, Resort & Spa Salinda Phú Quốc Island, Resort La
Veranda Phú Quốc –Vinpearl Phú Quốc, Resort & Spa The Shells Phú Quốc.
JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay… và TP. Cần Thơ như: Mường Thanh,
Vinpearl Cần Thơ.
Năm 2020, ĐBSCL có 12 khu và điểm du lịch cấp quốc gia: Thới Sơn
nằm trong trong cụm cù lao Long, Lân, Quy, Phụng (Tiền Giang và Bến Tre);
Khu Phức hợp giải trí Xứ sở Hạnh phúc (Long An); Vườn Quốc gia Tràm
Chim (Đồng Tháp); Văn Thánh Miếu (Vĩnh Long); Ao Bà Om – Trà Vinh;
Bến Ninh Kiều (Cần Thơ); Núi Sam (An Giang); Cù lao Ông Hổ (An Giang);
68
Khu lưu niệm Đờn ca tài tử và Nhạc sĩ Cao Văn Lầu (Bạc Liêu); Năm Căn –
Mũi Cà Mau (Cà Mau); Hà Tiên (Kiên Giang) và Phú Quốc (Kiên Giang).
Tạp chí du lịch nổi tiếng của Mỹ Travel and Leisure bình chọn ĐBSCL
đứng thứ 11 trong số 20 điểm đến hấp dẫn nhất thế giới. Trong tương lai,
ĐBSCL sẽ nổi lên như một điểm đến thu hút, nhiều triển vọng. Điều này đặt
ra yêu cầu cấp thiết cho việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng.
3.1.4. Đặc trƣng văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long trong phát
triển du lịch
Đặc trưng văn hóa ĐBSCL được tạo nên từ lối sống cộng cư, hòa hợp
của các dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm trong bối cảnh vùng đồng bằng sông
nước Cửu Long.
Cộng đồng cư dân ở ĐBSCL sớm đón nhận văn hóa của Ấn Độ, rồi văn
hóa Trung Hoa... và thời kỳ cận hiện đại là văn hóa phương Tây. Điều đó đã
tạo nên nên nét văn hóa riêng cho vùng ĐBSCL, là nơi gặp gỡ của văn hóa
bản địa và quốc tế, nên nó vừa có cái chung của văn hóa Việt Nam, vừa có nét
riêng, có tính vùng miền của đất phương Nam với tính thoáng và dễ hội nhập.
Trong lịch sử những con người ĐBSCL đã bộc lộ những phẩm chất
đáng quý như: trung thực, khẳng khái trong cuộc sống, cần cù sáng tạo trong
lao động, khoan dung, nhân ái trong giao tiếp, kiên cường, dũng cảm trong
đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đoàn kết gắn bó trong cộng đồng và sống
hòa mình với cây cỏ, sông nước” [111, tr.6].
Đây là nơi hình thành nhiều tôn giáo bản địa như Bửu Sơn Kỳ Hương,
Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo…, là cái nôi của di sản văn hóa phi
vật thể đại diện của nhân loại Đờn ca tài tử Nam bộ.
69
Một nét văn hóa đặc sắc của ĐBSCL là hình thức họp chợ trên sông với
nhiều chợ nổi nổi tiếng: chợ nổi Cái Răng – TP. Cần Thơ (Di sản văn hóa phi
vật thể quốc gia), chợ nổi Cái Bè ( Tiền Giang), chợ nổi Ngã Bảy (Hậu
Giang), chợ nổi Long Xuyên (An Giang), chợ nổi Ngã Năm (Sóc Trăng)…
ĐBSCL có nhiều lễ hội, trong đó có những lễ hội thu hút nhiều du
khách như Lễ hội vía Bà Chúa Xứ từ ngày 23/4 đến 27/4 ÂL tại núi Sam, An
Giang; Lễ hội kỷ niệm ngày hy sinh Anh hùng Dân tộc Nguyễn Trung Trực
vào 27 đến 29 tháng 8 ÂL tại Rạch Giá, Kiên Giang; Lễ hội bánh dân gian
Nam Bộ khoảng ngày 8 đến 12 tháng 3 ÂL hàng năm tại TP. Cần Thơ; Lễ hội
Dạ cổ Hoài Lang ngày 12 tháng 9 đến 15 tháng 9 hàng năm tại Bạc Liêu; Các
lễ hội của đồng bào dân tộc Khmer như: Lễ Chôl Chnăm Thmây, là Tết cổ
truyền của người Khmer diễn ra vào giữa tháng 4 dương lịch; Sene Dolta là
Lễ Cúng ông bà từ 29 tháng 8 đến mùng 01 tháng 9 ÂL; Lễ Ok Om Bok là lễ
hội cúng trăng vào đêm rằm tháng 10 ÂL hàng năm…
Ẩm thực độc đáo của ĐBSCL với những món ăn dân dã mang đậm tính
chất ẩm thực “khẩn hoang”, gần gũi thiên nhiên cũng hết sức hấp dẫn du
khách. Là xứ sở của lúa gạo và miệt vườn nên ĐBSCL không thể thiếu các
món ăn từ hương đồng cỏ nội. Từ lúa gạo và sự sáng tạo tài tình của cư dân
đã tạo ra hàng trăm món bánh dân gian khác nhau. Mỗi dân tộc anh em lại có
những nét ẩm thực đặc trưng góp phần làm nên sự đa dạng của ẩm thực
ĐBSCL. Ngoài món “Tung lò mò” (lạp xưởng bò) nổi tiếng, người Chăm ở
ĐBSCL (chủ yếu sinh sống ở tỉnh An Giang) còn có rất nhiều những món ăn
đặc sắc hấp dẫn như cơm nị ăn với “cà púa”, món “ cà ri chà” bò hoặc dê,
cừu, gà, cá... và rất nhiều loại bánh như “đin-pà-gòn”, “ha-nàm-căn”...Người
Khơ-me cũng có nhiều nét ẩm thực riêng như món mắm prahok (tiếng Khơ -
me nghĩa là mắm cá) là thứ không thể thiếu của món bún nước lèo và làm đồ
chấm cho món bò leo núi Tân Châu. Bên cạnh đó, với hương vị độc đáo, món
70
cốm dẹp là món ăn khá phổ biến, đặc trưng của đồng bào Khơ-me Tây Nam
Bộ. Cốm dẹp còn gắn với lễ hội Ok om bok (cúng trăng) một trong ba lễ hội
lớn nhất của người Khơ-me. Người Hoa thì nổi tiếng với các món hủ tiếu, heo
quay, trứng vịt muối, canh thuốc bắc, mì vịt tiềm, phá lấu...
Tất cả những nét văn hóa đều là những tài nguyên du lịch nhân văn đặc
sắc, là nền tảng cho việc phát triển du lịch của vùng. Từ đó, đặt ra yêu cầu
cho việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải nắm rõ đặc trưng văn hóa
và có kỹ năng khai thác để phục vụ khách du lịch đến ĐBSCL.
3.1.5. Đặc điểm về nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông
Cửu Long
Về lực lượng lao động nói chung theo thống kê của Tổng cục Thống
kê năm 2019, lực lượng lao động từ 15 tuổi ở ĐBSCL là 10.102,1 nghìn
người (chiếm 18,1% so với cả nước) xếp 4 trong 6 vùng của cả nước. Tuy
nhiên nếu chia theo trình độ học vấn cao nhất đạt được thì ĐBSCL thấp nhất
cả nước với 18,4 % chưa tốt nghiệp tiểu học, 34,6% tốt nghiệp tiểu học, 26%
tốt nghiệp THCS, 11,3 % tốt nghiệp THPT và 9,7 % trên THPT. [2, tr.124].
Bảng 3.4: Lực lƣợng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo địa phƣơng năm 2019
Vùng Nghìn ngƣời Cơ cấu
CẢ NƯỚC Đồng bằng sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long 55.767,4 12.438,2 7.736,2 11.830,5 3.486,0 10.174,4 10.102,1 100 % 22,3 % 13,9 % 21,2 % 6,2 % 18,2 % 18,1 %
Nguồn: Số liệu thống kê trên website của Tổng cục Thống kê https://www.gso.gov.vn/so-lieu-thong-ke/
71
Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên được đào tạo chuyên môn kỹ thuật của
ĐBSCL theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 thấp nhất cã
nước. Trong đó lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm đến
90,3 %; trình độ sơ cấp chiếm 1,1 %; trình độ trung cấp chiếm 1,8%; trình độ
cao đẳng chiếm 1,6% và trình độ từ đại học trở lên chiếm 5,2 %.
Bảng 3.5: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên đƣợc đào tạo chuyên môn
kỹ thuật theo vùng kinh tế - xã hội năm 2019
ĐVT: %
Tổng số Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng Đại học trở lên
100,0 Không có trình độ CMKT 80,8 3,1 3,5 3,3 9,3
100,0 72,1 5,3 4,7 4,4 13,5
100,0 81,9 3,4 4,8 3,2 6,7
100,0 81,5 2,4 4,1 3,7 8,3
100,0 100,0 86,1 79,2 1,6 3,3 3,1 2,6 2,6 3,3 6,6 11,6
100,0 90,3 1,1 1,8 1,6 5,2 CẢ NƯỚC Đồng bằng sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung Bộ và DH miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long
Nguồn: Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 [2, tr.125]
Trong lĩnh vực du lịch, số lượng lao động toàn ĐBSCL trong thời gian
gần đây cũng tăng đáng kể. Theo thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng
sông Cửu Long năm 2018 là 47.209 người; và năm 2019 số liệu lao động
ngành du lịch của 12 tỉnh ĐBSCL là 52.439 người (tỉnh An Giang không có
thống kê); ước tính năm 2020 lao động trong ngành du lịch của 12 tỉnh
ĐBSCL là 51.867 người (tỉnh An Giang không có thống kê) do ảnh hưởng
của dịch Covid-19.
72
Số lượng này vẫn còn thấp hơn nhiều so với con số dự báo của Viện
Nghiên cứu Phát triển du lịch về nhu cầu nhân lực du lịch ĐBSCL năm 2020
là 75.400 nhân lịch du lịch trực tiếp và 132.500 nhân lực du lịch gián tiếp.
Điều này đặt ra yêu cầu cần tăng cường đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
ĐBSCL.
Một thực trạng đáng lưu ý là chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch
của ĐBSCL còn rất thấp, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo rất lớn. Theo thống
kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long năm 2018 lao động đã
qua đào tạo nghiệp vụ du lịch ĐBSCL ước trên 40%; năm 2019 lao động đã
qua đào tạo nghiệp vụ du lịch của 11 tỉnh ĐBSCL là 21.843 người (tỉnh An
Giang và Kiên Giang không có thống kê) đạt 41,65%; năm 2020 lao động đã
qua đào tạo nghiệp vụ du lịch của 11 tỉnh ĐBSCL ước tính là 22.902 người
(tỉnh An Giang và Kiên Giang không có thống kê) đạt 44,15%. Như vậy có
thể thấy có hơn một nữa (từ 56 đến 60%) lao động ngành du lịch ĐBSCL
chưa qua đào tạo. Điều này là thách thức rất lớn cho việc phát triển du lịch
của vùng, cũng như yêu đòi hỏi phải nâng cao việc đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch ĐBSCL cả về số lượng lẫn chất lượng..
3.2. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU
LỊCH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
3.2.1. Những kết quả đạt đƣợc trong việc đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long và nguyên nhân
3.2.1.1. Những kết quả đạt được trong việc đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long
Thứ nhất, về chủ thể đào tạo, đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ
quản lý đào tạo du lịch tăng về số lượng và từng bước được chuẩn hóa, nhìn
chung bước đầu đáp ứng những yêu cầu trang bị tri thức, trình độ chuyên môn
73
cho người học. Xu hướng tuyển dụng và hợp đồng giáo viên từ các doanh
nghiệp đối với những ngành phù hợp ngày càng tăng.
Phần lớn giảng viên du lịch ở ĐBSCL là lực lượng trẻ, tuổi đời tập
trung từ 30 đến 40 tuổi. Theo khảo sát của tác giả tại 11 cơ sở đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL có 169 giáo viên, giảng viên. Trong đó có
64 giáo viên, giảng viên nam (chiếm 37,9 %), 105 giáo viên, giảng viên nữ
(chiếm 62,1 %). Tuổi đời dưới 30 tuổi là 37 người (chiếm 21,9%), tuổi đời từ
30 tuổi đến 40 tuổi là 96 người (chiếm 56,8 %), tuổi đời từ 41 tuổi đến 50
tuổi là 28 người (chiếm 16,6 %) và tuổi đời trên 50 tuổi là 8 người (chiếm
4,7 %). (Xem thêm phục lục 2 - Thống kê số lượng giảng viên đào tạo du lịch
theo độ tuổi và giới tính ở một số cơ sở đào tạo ĐBSCL năm học 2019-2020)
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ giảng dạy không ngừng
được nâng cao. Theo khảo sát của tác giả tại 11 cơ sở đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch ở ĐBSCL có 169 giáo viên, giảng viên. Trong đó trình độ đại
học là 29 giáo viên, giảng viên (chiếm 17,2 %), trình độ thạc sĩ là 117 giáo
viên, giảng viên (chiếm 69,2 %), trình độ tiến sĩ là 23 giáo viên, giảng viên
(chiếm 13,6 %). (Xem thêm phục lục 3 - Thống kê số lượng giảng viên đào
tạo du lịch theo trình độ chuyên môn nghiệp vụ ở một số cơ sở đào tạo
ĐBSCL năm học 2019-2020)
Lực lượng làm công tác giảng dạy không ngừng nâng cao trình độ qua
các cuộc thi, thực tế nhà giáo. Hàng năm theo quy định cán bộ giảng dạy cao
đẳng nghề phải tham gia thực tập tại các doanh nghiệp nhằm nâng cao kỹ
năng nghề, cập nhật kiến thức mới. Một số giảng viên giảng dạy tại các cơ sở
đào tạo ở ĐBSCL có điều kiện trao đổi, nâng cao kinh nghiệm giảng dạy như
“Hội giảng nhà giáo Giáo dục nghề nghiệp toàn quốc 2018”, “ Hội thi thiết bị
đào tạo tự làm toàn quốc lần thứ VI, năm 2019”…
74
Đội ngũ giảng viên của các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
nhận được mức độ hài lòng khá cao từ người học. Qua khảo sát của tác giả
đối với 400 học viên, sinh viên đang học tại các trường đào tạo du lịch ở
ĐBSCL, số phiếu thu về 389 phiếu hợp lệ thì có 92 phiếu rất hài lòng về đội
ngũ giảng giảng viên, 257 phiếu hài lòng, 14 phiếu không hài lòng và 26
3%
7%
24%
phiếu rất không hài lòng.
Rất hài lòng Hài Lòng
66%
Không hài lòng
Rất không hài lòng
Hình 3.1: Mức độ hài lòng của ngƣời học đối với đội ngũ giảng dạy tại các cơ sở
đào tạo du lịch ở ĐBSCL
Trong quá trình đào tạo, nhìn chung đội ngũ giảng dạy đã nỗ lực cơ bản hoàn
thành mục tiêu chính là trang bị cho người học những kiến thức căn bản và chuyên
ngành liên quan đến nghề du lịch. Bên cạnh đó việc thỉnh giảng các chuyên gia, giám
đốc kinh doanh du lịch cũng phổ biến giúp cho người học cập nhật kiến thức và đáp
ứng tốt hơn nhu cầu thực tiễn.
Thứ hai, về đối tượng đào tạo, hầu hết người học các chuyên ngành trung
cấp, cao đẳng, đại học du lịch ở ĐBSCL đều có hộ khẩu thường trú tại các địa
phương trong vùng. Điều này góp phần tích cực vào việc đào tạo nguồn nhân lực
tại chổ cho phát triển du lịch của địa phương và cho toàn vùng.
75
Phần lớn sinh viên được hỏi qua khảo sát của tác giả đối với 400 học viên,
sinh viên đang học tại các trường đào tạo du lịch ở ĐBSCL, số phiếu thu về 389
phiếu hợp lệ thì có 241 sinh viên lựa chọn ngành học vì yêu thích hoạt động du
lịch, 38 học viên, sinh viên lựa chọn ngành học theo người thân và 78 học viên,
8%
20%
sinh viên lựa chọn theo bạn bè và lý do khác là 32 học viên, sinh viên.
Theo người thân
62%
10%
Yêu thích du lịch
Theo bạn bè lý do khác
Hình 3.2: Cơ cấu lý do học viên, sinh viên lựa chọn ngành du lịch tại các cơ sở
đào tạo du lịch ở ĐBSCL
Việc từ rèn luyện thể chất, thể lực được đa số học viên, sinh viên chú trọng rèn
luyện tương đối thường xuyên. Có không ít học viên, sinh viên say mê rèn luyện thể
chất, thể lực. Trước xu thế của sự phát triển, đa số học viên, sinh ngày càng ý thức rõ
hơn việc cải thiện phương pháp học tập, làm việc khoa học và thích ứng với môi
trường ngành du lịch, không ngừng tu dưỡng rèn luyện. Có phương pháp làm việc tốt
thì người học sau khi ra trường xin việc làm dễ hơn. Nhiều học viên, sinh viên ra
trường đã xin đi làm trong lĩnh vực du lịch nhờ những kiến thức, phương
pháp làm việc được trang bị trong nhà trường, đã giúp họ dần dần thích ứng
với công việc ở đây.
Thứ ba, về nội dung, chương trình đào tạo ngày càng đa dạng, đã thực
hiện tương đối hợp lý, dần đáp ứng những nhu cầu đào tạo các chuyên ngành
du lịch cơ bản ở ĐBSCL
76
Nội dung đào tạo đối với các chương trình đào tạo về du lịch ở các cơ
sở đào tạo có liên quan đến du lịch của vùng đảm bảo yêu cầu theo trình độ
đào tạo, từ bậc trung cấp đến trình độ cao đẳng, đại học.
Nội dung chương trình đào tạo bám sát mục tiêu chung về phát triển
hoàn thiện nhân cách, đạo đức nghề nghiệp, thể chất, cụ thể hóa đối với từng
đối tượng, từng cơ sở đào tạo. Thông qua hệ thống chương trình nội dung đào
tạo đã trang bị tri thức, kỹ năng cho người học, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực ngành du lịch. Các cấp học, bậc học mà trực tiếp bậc đại học, cao
đẳng, trung cấp đã phát huy tốt vai trò trong phát triển và hoàn thiện nhân
cách, đạo đức nghề nghiệp của người lao động, đáp ứng ngày càng tốt hơn
yêu cầu phát triển ngành du lịch ĐBSCL.
Các nội dung giáo dục lịch sử, truyền thống giá trị văn hóa dân tộc con
người Việt Nam truyền thống, văn hóa các dân tộc ĐBSCL được đưa vào
giảng dạy với thời lượng khá phù hợp, chiếm tỉ lệ thỏa đáng. Điều này đã tác
động sâu sắc và tạo cơ sở hình thành những phẩm chất tốt đẹp cho nguồn
nhân lực ngành du lịch ĐBSCL.
Cơ sở giáo dục đào tạo ngành du lịch ngày càng phát triển đã đáp ứng
được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Nhiều ngành, nghề đào
tạo mới xuất hiện đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch cũng như nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội trong hội nhập quốc tế, trong đó, có những chuyên ngành
được đào tạo phổ biến ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp trong vùng như: Nghiệp vụ nhà hàng, nghiệp vụ lễ tân, kỹ thuật chế
biến món ăn, quản lý khách sạn, quản lý nhà hàng, hướng dẫn du lịch, quản trị
du lịch và lữ hành, Việt Nam học... (Xem thêm phụ 4 - Các chuyên ngành đào
tạo về du lịch ở vùng ĐBSCL hiện nay).
Chương trình đào tạo được thiết kế theo hệ thống đào tạo tín chỉ. Các
chuyên ngành đào tạo cơ bản đều đáp ứng yêu cầu về nội dung, đảm bảo
77
những kiến thức chung, đến những kiến thức cơ sở ngành, chuyên ngành, đảm
bảo mục tiêu giáo dục toàn diện về thể chất, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp
và chuyên môn nghiệp vụ. Đơn cử như mục tiêu đào tạo ngành cao đẳng Việt
Nam Học, trường đại học An Giang xác định: “Sinh viên tốt nghiệp có kiến
thức, kỹ năng và phẩm chất:
Kiến thức khái quát, phương pháp và cơ sở lý luận để thực hiện
công tác nghiên cứu (trong lĩnh vực du lịch, văn hóa);
Kỹ năng, nghiệp vụ chuyên môn vào hoạt động văn hóa và du
lịch nói chung; đảm bảo đáp ứng những phẩm chất cần thiết khi
hành nghề, nghiên cứu và nâng cao trình độ;
Khả năng làm việc theo nhóm với các chuẩn mực giao tiếp xã
hội trong các hoạt động thuộc môi trường du lịch và văn hóa;
Năng lực thực hành nghề nghiệp trong các lĩnh vực văn hóa, lữ
hành và các tổ chức nghề nghiệp có liên quan.
Trong chương trình đào tạo ngành Việt Nam học của trường ĐH Đồng
Tháp gồm 132 tín chỉ. Trong đó kiến thức giáo dục đại cương là 38 tín chỉ,
khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp là 94 tín chỉ. (xem thêm phụ lục 8).
Trong quá trình đào tạo, do đặc thù ngành du lịch nên trong chương
trình các cơ sở đã tổ chức cho người học tham gia các chuyến thực tế du lịch:
miền Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, Duyên Hải Miền Trung, xuyên Việt…Qua
đó người học ngành du lịch có điều kiện khảo sát thực tế các điểm du lịch, trải
nghiệm các dịch vụ, học hỏi phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa các dân tộc
và địa phương. Bên cạnh đó, cuối khóa đào tạo, người học phải trải qua đợt
thực tập tại các doanh nghiệp lữ hành, nhà hàng, khách sạn…góp phần nâng
cao kỹ năng, nghiệp vụ, vận dụng những kiến thức đã học và thực tiễn, đáp
ứng yêu cầu của doanh nghiệp.
78
Thứ tư, về hình thức đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch vùng
ĐBSCL rất đa dạng. Quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của
vùng được thực hiện xen kẽ các hình thức, từ việc đào tạo chính quy và không
chính quy tại các cơ sở đào tạo, đến việc đào tạo tại các doanh nghiệp và kết
hợp với quá trình tự học của người lao động.
Trình độ đào tạo cũng đa dạng: trình độ đại học để góp phần đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao, và phổ biến chủ yếu tập trung vào hai trình độ
là trung cấp và cao đẳng.
Hệ đại học liên quan đến ngành du lịch được đào tạo chủ yếu ở các
trường như: Trường ĐH An Giang, Trường ĐH Bạc Liêu, Phân hiệu Trường
ĐH Bình Dương tại Cà Mau, Trường ĐH Cần Thơ, Trường ĐH Đồng Tháp,
Trường ĐH Kiên Giang, Trường ĐH Kinh tế Công nghiệp Long An, Trường
ĐH Tiền Giang, Trường ĐH Trà Vinh, Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh
Long. Bên cạnh đó các trường đại học tư thục cũng tham gia vào việc đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch như: Trường ĐH Tây Đô, Trường ĐH Nam
Cần Thơ, Trường ĐH FPT Cần Thơ, Trường ĐH Võ Trường Toản
Hệ Cao đẳng, trung cấp liên quan đến ngành du lịch được đào tạo chủ yếu
ở các trường như: Trường CĐ nghề An Giang, Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật
tỉnh Bạc Liêu, Trường CĐ Bến Tre, Trường CĐ nghề Đồng Khởi, Trường CĐ
cộng đồng Cà Mau, Trường CĐ Cần Thơ, Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Cần
Thơ, Trường CĐ Kiên Giang, Trường CĐ Tiền Giang, Trường CĐ nghề Trà
Vinh, Trường CĐ Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long và một số trường tư thục như:
Trường TC Việt – Hàn Phú Quốc, Trường CĐ FPT Cần Thơ.
Những cơ sở có khoa, ngành liên quan trực tiếp đến đào tạo về du lịch
ở trình độ đại học (như khoa Văn hóa - Du lịch của Trường Đại học Đồng
Tháp) luôn hướng đến trở thành một trung tâm giảng dạy, nghiên cứu chất
79
lượng cao trong nước và quốc tế, đóng vai trò tích cực trong nghiên cứu và
giảng dạy về văn hóa - du lịch trong vùng ĐBSCL; phát triển và nâng cao
chất lượng dạy và học; thường xuyên cập nhật chương trình và nội dung giảng
dạy nhằm phục vụ theo nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp.
Hình thức liên kết, hợp tác trong đào tạo đang được hình thành và
phát triển.
Về liên kết, hợp tác quốc tế: việc hợp tác quốc tế, nhất là vấn đề huy
động nguồn lực quốc tế cho phát triển nhân lực ngành du lịch cả nước nói
chung, của ĐBSCL nói riêng trong những năm qua đã thu được những kết
quả đáng kể, nhất là về kinh phí, kinh nghiệm và công nghệ.
Đó là việc hợp tác để nhận tài trợ từ Chính phủ Luxembourg (dự án
đào tạo nhân lực du lịch - khách sạn; với Liên minh châu Âu (dự án phát triển
nguồn nhân lực du lịch; với Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) trong dự án
“Phát triển du lịch bền vững Tiểu vùng Sông Mekong mở rộng” triển khai
Hợp phần “Phát triển nhân lực du lịch Việt Nam”. Ngoài ra, còn có sự hợp tác
nhằm nhận sự hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức của các quốc gia và các tổ chức
quốc tế như Tây Ban Nha, Singapore, Bỉ, Tổ chức Du lịch thế giới
(UNWTO), Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Thái Lan, Hàn Quốc,
Pháp, Đức, Áo, EU, GMS, ESCAP, ASEAN, ASEAN+1, ASEAN+3...
Bên cạnh đó, ngành du lịch còn tổ chức nhiều chương trình nghiên cứu,
khảo sát, tư vấn, cấp học bổng đào tạo dài hạn, ngắn hạn và các khóa đào tạo
về nghiệp vụ du lịch, ngoại ngữ, kết hợp đào tạo trong nước và chuyển tiếp
chương trình tại nước ngoài, mời chuyên gia, trao đổi thực tập sinh… cũng
được các cơ sở đào tạo đặc biệt chú ý quan tâm, và được coi là một một phần
nội dung chủ yếu và quan trọng trong chương trình đào tạo, nhằm nâng cao
chất lượng của nguồn nhân lực.
80
Về liên kết trong nước: UBND các tỉnh cũng như các cơ quan quản lý
nhà nước trong vùng đều quan tâm đến việc thúc đẩy, tăng cường chỉ đạo tiến
hành thực hiện chủ trương đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội đối với các
cơ sở đào tạo có liên quan. Ngoài ra, từng địa phương đang xây dựng chương
trình phát triển nhân lực ngành du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030 (Ví dụ:
Chương trình phát triển nguồn nhân lực du lịch TP. Cần Thơ, giai đoạn 2017 -
2020, tầm nhìn 2030; Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Long An đến
năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030...).
Đối với các cơ sở đào tạo: nhiều cơ sở đào tạo du lịch đã và đang thực
hiện việc xây dựng chương trình đào tạo thông qua hoạt động liên kết với
nhau, liên kết với doanh nghiệp qua việc đặt hàng của doanh nghiệp về nguồn
nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng của quá trình đào tạo. Đồng
thời, các doanh nghiệp được mời tham gia biên soạn, thẩm định và đánh giá
chương trình đào tạo, hợp tác trong nghiên cứu khoa học, trong giảng dạy,
trong khảo sát chất lượng sau đào tạo…
Điển hình như Trường ĐH Trà Vinh đang áp dụng chương trình Co-
operative Education Programs (viết tắt là Co-op) vào đào tạo, đây là chương
trình được thiết kế giống như một môn học có tín chỉ, là hình thức liên kết
giữa 3 bên: Nhà trường - Doanh nghiệp - Sinh viên trong mọi hoạt động thực
tập nghề và thực tế giảng dạy. Theo định nghĩa của World Association: Giáo
dục Co-op là sự kết hợp giữa việc học trên lớp với thực tiễn ngoài lớp thông qua việc
vận dựng lý thuyết đã học trong thực hành công việc liên quan đến lý thuyết và gần
giống với môi trường làm việc thật và được trả lương, mang đến các thách thức và
nhận thức thực tế tại lớp học, nâng cao kỹ năng phân tích và tư duy. Đây là một
trong những chương trình thành công nhất, là sự kết hợp hoàn hảo giúp cho
sinh viên nắm vững các kiến thức học thuật song song với tích lũy kinh
nghiệm thực tế. Sinh viên sẽ được hỗ trợ mức lương xứng đáng với năng lực
81
của mình. Trường ĐH Trà Vinh là một trong những trường đại học đã và
đang thực hiện chương trình Co-op với mục tiêu vì lợi ích sinh viên, vì gắn
kết cộng đồng, vì việc học gắn với nghề nghiệp và kinh nghiệm tương lai.
Đặc biệt, nhiều cơ sở đào tạo có những hoạt động sáng tạo trong việc
hợp tác và liên kết giữa các cơ sở có đào tạo những ngành về du lịch và liên
quan đến du lịch. Ví dụ như, để giao lưu, học tập chia sẻ kinh nghiệm trong
quản lý đào tạo, trong xây dựng chương trình, giáo trình, trao đổi giảng viên,
giáo viên, sinh viên, hợp tác hỗ trợ nhau đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp
tác quốc tế, liên kết đào tạo chặt chẽ hơn.
Nhiều cơ sở đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và uy tín, đã chủ động
thành lập Ban Hướng nghiệp và Tư vấn việc làm để tư vấn, giới thiệu ngành
nghề, chuyên ngành đào tạo, phương pháp học tập, các chính sách ưu đãi, cơ
hội việc làm, cung cấp hệ thống thông tin việc làm… cho học viên, sinh viên
sau khi tốt nghiệp cho đối tượng tuyển sinh của trường cũng như thông tin
cho các doanh nghiệp về “sản phẩm” mà đơn vị mình đào tạo.
Một số cơ sở đào tạo về du lịch trong vùng đã và đang tham gia với địa
phương về công tác hướng nghiệp và tư vấn việc làm, đào tạo theo yêu cầu xã hội.
Thứ năm, về phương pháp đào tạo ngày càng phong phú, đáp ứng gần
với mục tiêu và nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực du lịch của vùng.
Đối với các cơ sở đào tạo, bên cạnh việc thực hiện các phương pháp
đào tạo truyền thống, như giảng dạy thuyết trình trên lớp để người học nắm
được lý thuyết, các chương trình đào tạo đã đan xen và tăng cường các
phương pháp tích cực, như tham quan thực tế, thực hành đặc biệt là sự kết
hợp giữa nhà trường và doanh nghiệp trong việc đào tạo nguồn nhân lực du
lịch. Đa số giảng viên đã sử dụng công nghệ thông tin vào bài giảng (công
nghệ trình chiếu power point).
82
Các phương pháp đào tạo gắn lý thuyết với thực hành được chú trọng.
Trong quá trình đào tạo người học được trải qua các đợt thực tế. Đó những
chuyến đi học tập, tham quan qua các tuyến điểm du lịch phổ biến ở ĐBSCL,
Tây Nguyên, hành trình di sản miền Trung hay hành trình xuyên Việt. Giúp
người học trải nghiệm các dịch vụ trên thực tế: như vận chuyển, điểm tham
quan, dịch vụ hướng dẫn, nhà hàng, khách sạn. Cuối mỗi chương trình đào tạo
người học phải trải qua thời gian thực tập tại doanh nghiệp du lịch. Thực tập
là giai đoạn học tập thực tế hết sức quan trọng để sinh viên có cơ hội vận
dụng kiến thức đã học vào công việc thực tiễn, củng cố kiến thức và rèn luyện
kỹ năng thực hành tay nghề và tiếp cận thêm các phương pháp đào tạo tại
doanh nghiệp.
Phương pháp đánh giá kết quả học tập cũng được các cơ sở đào tạo
quan tâm. Nhiều mức điểm trong tiến trình đào tạo nhằm đánh giá toàn diện
người học được áp dụng. Phổ biến như cách đánh giá theo thang điểm: trong
quá trình học tập trên lớp: 4.0 điểm (chuyên cần: 1.0 điểm, kiểm tra giữa môn
học: 1.0 điểm, kiểm tra thường xuyên môn học: 4.0 điểm) và điểm thi kết thúc
môn học: 6.0 điểm
Thứ sáu, về môi trường đào tạo, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch không ngừng mở rộng và nâng cấp
Theo trích dẫn của tác giả Nguyễn Văn Lưu (2014) trong nghiên cứu
“Phát triển nguồn nhân lực – yếu tố quyết định sự phát triển của ngành du
lịch Việt Nam”, trên địa bàn vùng ĐBSCL có 24 trường trong tổng số 284 cơ
sở đào tạo du lịch trên cả nước, trong đó có 9 trường đại học tham gia đào tạo
du lịch, 7 trường cao đẳng tham gia đào tạo và dạy nghề du lịch và 8 trường
trung cấp đào tạo và dạy nghề du lịch. [64, tr.246].
09 trường đại học là: trường ĐH An Giang, trường ĐH Cần Thơ,
trường ĐH Tây Đô, trường ĐH Đồng Tháp, trường ĐH Võ Trường Toản,
83
trường ĐH Kinh tế Công nghiệp Long An, trường ĐH Tiền Giang, trường ĐH
Trà Vinh, trường ĐH dân lập Cửu Long; 07 trường cao đẳng là: trường CĐ
Bến Tre, trường CĐ Cần Thơ, trường CĐ Sư phạm Kiên Giang, trường CĐ
Kinh tế - Kỹ thuật Kiên Giang, trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Tiền Giang,
trường CĐ Sư phạm Trà Vinh, trường CĐ Sư phạm Vĩnh Long; 08 trường
trung cấp là: trường TC Văn hóa Nghệ thuật Bến tre, trường TC Văn hóa
Nghệ thuật Bạc Liêu, trường TC Văn hóa Thể thao và Du lịch Cà Mau,
trường TC Du lịch Cần Thơ, trường TC Bách Nghệ Cần Thơ, trường TC Văn
hóa Nghệ thuật Cần Thơ, trường TC nghề Du lịch Kiên Giang, trường TC
Văn hóa Nghệ thuật Tiền Giang. [64, tr.258]. Trong đó theo thống kê không
có cơ sở đào tạo du lịch nào Sóc Trăng.
Hiện nay, quy mô đào tạo về nguồn nhân lực ngành du lịch đã tăng lên.
Theo khảo sát thống kê của tác giả luận án, hiện nay ở ĐBSCL có 15 trường
đại học đào tạo du lịch: Trường ĐH An Giang, Trường ĐH Bạc Liêu, Phân
hiệu Trường Đại Học Bình Dương tại Cà Mau , Trường ĐH Cần Thơ, Trường
ĐH Tây Đô, Trường ĐH Nam Cần Thơ, Trường Đại học FPT Cần Thơ,
Trường ĐH Đồng Tháp, Trường ĐH Võ Trường Toản, Trường ĐH Kiên
Giang, Trường ĐH Kinh tế Công nghiệp Long An, Trường ĐH Tiền Giang,
Trường ĐH Trà Vinh, Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long, Trường ĐH
Cửu Long.
Toàn vùng có 13 trường cao đẳng đào tạo du lịch và các ngành có liên
quan: Trường CĐ nghề An Giang, Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật tỉnh Bạc
Liêu, Trường CĐ Bến Tre, Trường CĐ nghề Đồng Khởi, Trường CĐ cộng
đồng Cà Mau, Trường CĐ Cần Thơ, Trường CĐ Du lịch Cần Thơ, Trường
CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ, Trường CĐ FPT Cần Thơ, Trường CĐ Kiên
Giang, Trường CĐ Tiền Giang, Trường CĐ nghề Trà Vinh, Trường CĐ Kinh
tế - Tài chính Vĩnh Long.
84
Các trường trung cấp đào tạo du lịch ở ĐBSCL có xu hướng nâng cấp
thành trường cao đẳng hoặc sáp nhập với các trường khác. Ví dụ: sáp nhập
Trường TC Văn hóa nghệ thuật Bến Tre vào Trường CĐ Bến Tre năm 2018;
sáp nhập Trường TC Văn hóa nghệ thuật Bạc Liêu vào Trường CĐ Kinh tế -
Kỹ thuật Bạc Liêu năm 2018; Sau khi Trường TC Văn hóa - Thể thao và Du
lịch Cà Mau giải thể năm 2015, toàn bộ chức năng, nhiệm vụ, hiện trạng tổ
chức cùng nhân sự đang làm việc tại khoa văn hóa du lịch chuyển sang Trường
CĐ Cộng đồng Cà Mau; Năm 2017, thành lập Trường CĐ Văn hóa nghệ thuật
Cần Thơ tiền thân là Trường TC Văn hóa nghệ thuật Cần Thơ nhưng chỉ tập
trung đào tạo các ngành về nghệ thuật, quản lý văn hóa; Năm 2019, Trường TC
Kinh tế - Kỹ thuật Tiền Giang, Trường TC nghề Giao thông vận tải Tiền Giang
và Trường TC Văn hóa nghệ thuật Tiền Giang được sáp nhập vào Trường CĐ
Tiền Giang.
Hiện tại, toàn vùng có 3 trường trung cấp đào tạo nguồn nhân lực cho
ngành du lịch Trường TC nghề Châu Đốc, Trường TC Việt – Hàn Phú Quốc,
Trường TC Sài Gòn - Phân hiệu Sóc Trăng.
Đặc biệt, để đáp ứng nhu cầu đào tạo trong bối cảnh hội nhập quốc tế
và cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều cơ sở đào tạo, nhất là các trường đại học
đều chú trọng đến việc đầu tư kết cấu hạ tầng hiện đại để thiết lập hệ thống
quản lý tiên tiến.
Đặc biệt, Trường CĐ Du lịch Cần Thơ là trường cao đẳng duy nhất tại
ĐBSCL trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chuyên đào tạo nguồn
nhân lực trong lĩnh vực du lịch. Hiện trường đang đào tạo 04 ngành thuộc hệ
cao đẳng (Quản trị Lữ hành, Hướng dẫn Du lịch, Quản trị Khách sạn, Quản
trị Nhà hàng) và 05 ngành thuộc hệ trung cấp (Hướng dẫn Du lịch, Kỹ thuật
chế biến món ăn, Nghiệp vụ Lễ tân, Quản lý và kinh doanh khách sạn, Nghiệp
vụ nhà hàng). Trường được trang bị đầy đủ các trang thiết bị giảng dạy lý
85
thuyết và phòng học thực hành đạt chuẩn do Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch
và dự án EU cung cấp và tài trợ… Trường đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch cùng UBND TP Cần Thơ đầu tư xây dựng cơ sở mới của trường, có
diện tích 4,2 ha tại khu vực Cồn Khương, quận Ninh Kiều.
3.2.1.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được
Một là, Đảng và Nhà nước ngày càng chú trọng, quan tâm đến sự phát
triển bền vững của vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và phát triển
du lịch của vùng nói riêng.
ÐBSCL là vùng đất có tầm quan trọng đặc biệt đối với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội đất nước. Với vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên thuận
lợi, trong đó sẵn có tài nguyên đất, ÐBSCL có nhiều lợi thế để phát triển bền
vững trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Những năm qua, Đảng và Nhà
nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, triển khai nhiều giải pháp để phát
huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội ÐBSCL. Cụ thể
như: Kết luận số 28-KL/TW ngày 14 tháng 8 năm 2012 của Bộ Chính trị về
phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an
ninh, quốc phòng vùng ÐBSCL đến năm 2020; Đề án phê duyệt vùng kinh tế
trọng điểm vùng ÐBSCL, số 492/QĐ-TTg, ngày 16 tháng 4 năm 2009 của
Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững
ÐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu ngày 17 tháng 11 năm 2017 của Chính
phủ. Đặc biệt là Quyết định phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng
ÐBSCL đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 của Chính phủ ngày 15
tháng 01 năm 2018. Theo đó, phát triển vùng ÐBSCL theo hướng tăng trưởng
xanh, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu; có vai trò, vị thế quan trọng
đối với quốc gia và khu vực Đông Nam Á; trở thành vùng trọng điểm quốc
gia về sản xuất nông nghiệp và đánh bắt, nuôi trồng thủy sản; phát triển mạnh
kinh tế biển, du lịch sinh thái cảnh quan sông nước. Bên cạnh đó, còn có
86
Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng ÐBSCL đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ ngày 18 tháng
11 năm 2016…
Sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã
hội cũng như du lịch của vùng đã tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương
trong vùng xây dựng và thực hiện những chiến lược, kế hoạch phát triển, đào
tạo nguồn nhân lực, trong đó có nguồn nhân lực ngành du lịch.
Hai là, trình độ phát triển kinh tế và phát triển du lịch của vùng Đồng
bằng sông Cửu Long ngày càng cao.
Trong thời gian qua, vùng ÐBSCL đã có sự phát triển rõ rệt, đạt
được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn. Cơ sở hạ tầng từng bước được đầu tư đồng bộ, đảm
bảo phục vụ tốt hơn cho các hoạt động kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân
không ngừng cải thiện; đã khẳng định được vị thế là trung tâm sản xuất, xuất
khẩu lúa gạo, thủy hải sản và cây ăn quả hàng đầu của cả nước, góp phần
bảo đảm an ninh lương thực, mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể phục vụ
phát triển đất nước. vùng luôn duy trì tốc độ tăng trưởng cao liên tục so với
bình quân chung của cả nước; Nhiều cơ chế chính sách đúng đắn đã tạo điều
kiện sản xuất phát triển, đặc biệt là các ngành sản xuất gắn với tiềm năng thế
mạnh của vùng; Cơ cấu kinh tế của tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực
hiện đại, tỷ trọng ngành công nghiệp dịch vụ gia tăng và giảm dần tỷ trọng
ngành nông nghiệp.
Trình độ phát triển kinh tế tạo nên nền tảng vật chất để đầu tư, giải
quyết các vấn đề liên quan đến giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, trong đó có
nguồn nhân lực ngành du lịch.
87
Ba là, sự đổi mới trọng nhận thức, tư duy, hành động của cả hệ thống
chính trị cũng như người dân ở các địa phương trong vùng về phát triển du
lịch và nguồn nhân lực du lịch của vùng.
Du lịch vùng ÐBSCL ngày càng tiến bộ vượt bậc. Một trong những
nguyên nhân chính là cả hệ thống chính trị cùng nhân dân các địa phương đều
nâng cao nhận thức về vai trò của ngành du lịch, coi du lịch là ngành kinh tế
quan trọng, trọng điểm để phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Từ đó, các địa
phương không chỉ tích cực quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, như huy động
nguồn vốn rất lớn để hoàn thiện cơ sở hạ tầng (cảng hàng không, cảng biển,
hệ thống đường thủy nội địa quốc gia, quốc lộ, tỉnh lộ, hệ thống giao thông
nông thôn…), mà đặc biệt là luôn có những chính sách ưu tiên trong đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực du lịch của địa phương.
Các chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực du lịch của vùng cũng
rất phong phú, đa dạng: Từ những hoạt động riêng lẻ của từng địa phương,
doanh nghiệp, đến các hoạt động liên kết, hợp tác giữa các địa phương. Theo
đó, các địa phương đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn, khóa đào tạo do
Tổng cục Du lịch, Cục công tác phía Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
và dự án EU tổ chức. Phối hợp với các cơ sở đào tạo (như trường Cao đẳng
nghề du lịch Sài Gòn) hoàn chỉnh đề cương Chương trình phát triển nguồn
nhân lực du lịch và nâng cao nhận thức của TP. Cần Thơ; phối hợp với dự án
EU tổ chức buổi thảo luận nâng cao năng lực tổ chức công tác phát triển
nguồn nhân lực du lịch và xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực du
lịch 3 tỉnh/thành ÐBSCL: An Giang, Cần Thơ, Kiên Giang…Bên cạnh đó,
các địa phương đã phối hợp với các cơ sở đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tổ chức các buổi hội thảo liên quan, như hội thảo “Thực trạng và giải
pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch Đồng bằng sông Cửu Long”...
88
Sự nhận thức đúng đắn và những hành động tích cực của các địa
phương là nguyên nhân quan trọng cho những kết quả trong công tác đào tạo
nguồn nhân lực du lịch của vùng.
Bốn là, nhận thức của các cơ sở đào tạo về việc đổi mới, nâng cao chất
lượng đào tạo cũng như nhận thức của các doanh nghiệp du lịch và người
dân về vai trò của đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch ngày
càng được phát huy.
Trước những đòi hỏi, yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cũng như những tác động của
những thành tựu về khoa học công nghệ, đã góp phần nâng cao tính chủ động,
tích cực, sáng tạo của các nhà quản lý các cơ sở đào tạo, cũng như nhận thức
của đội ngũ giảng viên, giáo viên trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy.
Đây là nhân tố cơ bản góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong đào tạo
nguồn nhân lực du lịch ở ĐBSCL hiện nay.
Mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch các trình độ trong Vùng được hình thành
và mở rộng. Theo đó, số lượng cơ sở đào tạo tăng nhanh và được thực hiện ở
hầu hết các tỉnh với cơ cấu đa dạng về loại hình và cấp đào tạo, ngành nghề đào
tạo. Các cơ sở đào tạo phần lớn tập trung ở các đô thị, trung tâm du lịch trọng
điểm, địa bàn đông dân cư, nên tạo điều kiện thuận lợi cho người học.
Đặc biệt, thực hiện Công văn số 4929 /BGDĐT-GDĐH ngày 20 tháng
10 năm 2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Áp dụng cơ chế đặc thù đào
tạo các ngành về du lịch, một số trường đại học trong vùng đã xây dựng
chương trình đào tạo trình độ đại học với các ngành đặc thù như ngành Du
lịch (7810101); Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành (7810103); Quản trị khách
sạn (7810201); Quản trị nhà hàng và dịch vụ ăn uống (7810202) và các mã
ngành đào tạo thí điểm trong lĩnh vực du lịch chưa có trong Danh mục giáo
dục đào tạo cấp IV hiện hành để đáp ứng nhu cầu về nhân lực du lịch.
89
Để đáp ứng nhu cầu nhân lực ngày càng tăng của ngành du lịch, trong
những năm gần đây, một số cơ sở đào tạo bậc đại học của vùng đã tập trung
phát triển những khoa liên quan đến đào tạo về du lịch trở thành những đơn vị
hàng đầu trong đào tạo: Từ quá trình nâng cao chất lượng giảng dạy, đổi mới
chương trình đào tạo theo hướng ứng dụng, nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên, đầu tư trang thiết bị hỗ trợ, đến hoạt động hợp tác - liên kết đào
tạo với các cơ sở giáo dục trong và ngoài nước, hợp tác với các cơ quan -
doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học đáp ứng nhu cầu nhân lực
trong nước và tham gia xuất khẩu lao động làm du lịch.
Ngoài ra, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng
ngày càng được hoàn thiện và nâng cao về cơ sở vật chất phục vụ công tác
đào tạo.
Theo đó, cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo đã có nhiều tiến bộ,
ngày càng hiện đại hóa dù các cơ sở còn khó khăn về kinh phí đầu tư, như đầu
tư xây dựng cơ sở thực hành (xưởng trường, khách sạn trường…), xây dựng
trung tâm thực hành nghề... Ngoài ra, một số đại học, cao đẳng cũng ngày
càng được xây dựng và mở rộng nhiều hơn, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch.
Đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch cũng ngày càng nhận
thức được vai trò, tầm quan trọng của công tác đào tạo, đào tạo lại nguồn
nhân lực trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như sự phát triển của
đơn vị mình.
Cùng với đó, bản thân mỗi người lao động cũng được nâng cao nhận
thức về vai trò của việc học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để
có thể tồn tại và phát triển nghề nghiệp trong xu thế thay đổi, phát triển chung
của ngành du lịch cũng như của địa phương. Từ đó góp phần nâng cao tính tự
90
giác, chủ động của người lao động trong việc tham gia tích cực vào các hoạt
động đào tạo tại các doanh nghiệp, địa phương cũng như các cơ sở đào tạo.
Năm là: Đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo du
lịch tăng về số lượng và từng bước được chuẩn hóa. Xu hướng tuyển dụng và
hợp đồng giáo viên từ các doanh nghiệp đối với những ngành phù hợp ngày
càng tăng. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo chuyên về du lịch đã chủ động xây
dựng chương trình, giáo trình. Một số khoa và bộ môn du lịch ở các trường
đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp, trường dạy nghề đã và đang
xây dựng chương trình các chuyên ngành, các nghề du lịch; biên soạn giáo
trình và tài liệu tham khảo, chuyên khảo.
3.2.2. Hạn chế trong đào tạo nguồn nhân lực du dịch vùng Đồng
bằng sông Cửu Long và nguyên nhân
3.2.2.1. Hạn chế trong việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch Đồng
bằng sông Cửu Long
Thứ nhất, hạn chế của chủ thể đào tạo: việc trang bị bồi dưỡng tri thức,
trình độ chuyên môn, trình độ tư duy, phương pháp làm việc cho người học
của đội ngũ giảng viên, quản lý giáo dục còn hạn chế.
Đội ngũ giảng viên của các trường trung cấp, cao đẳng, đại học đào tạo
du lịch đang tự một mâu thuẫn rất khó giải quyết giữa đảm bảo cuộc sống
bình thường với việc nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học.
Nếu tập trung giảng dạy, học tập nghiên cứu thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong
cuộc sống. Nếu dành thời gian giải quyết cuộc sống thì lại ảnh hưởng về chất
lượng giảng dạy nâng cao trình độ. Đây là vấn đề các cấp lãnh đạo, quản lý,
các cơ quan chức năng cần lưu tâm giải quyết, cải thiện, tạo điều kiện cho
giảng viên làm việc tốt hơn. Tình trạng không ít giảng viên chỉ chú trọng dạy
kiến thức, chưa thật sự quan tâm đào tạo rèn luyện trình độ tư duy, kỹ năng
nghề, phương pháp cho người học. Bản thân trình độ tư duy lý luận phương
91
pháp của một số giảng viên còn hạn chế, đặc biệt là giảng viên trẻ, chưa đáp
ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của ngành du lịch.
Hiện tại, số lượng giảng viên còn ít, một giảng viên phải dạy rất nhiều
tiết. Một năm học nhiều giảng viên có tổng số tiết thực tế lên đến 770 tiết.
tự giác đến đối tượng đào tạo.
Một số chủ thể đào tạo của vùng ĐBSCL còn hạn chế trong việc tác động tích cực,
Vì thiếu số lượng giảng viên, nên một số cơ sở đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch ở ĐBSCL đã tiến hành ghép lớp (hai lớp thành một lớp học
chung một môn học) nên số lượng sinh viên trong lớp có trường hợp gần 150
sinh viên. Việc thỉnh giảng giáo viên giảng viên từ các doanh nghiệp kinh
doanh du lịch là một cách làm hiệu quả để bổ khuyết cho lực lượng chủ thể
đào tạo bị thiếu hụt nhưng cũng làm phát sinh một số vấn đề về kinh nghiệm
giảng dạy, nghiệp vụ sư phạm và xếp thời khóa biểu theo lịch trống của doanh
nghiệp. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du
lịch của vùng.
Theo khảo sát của tác giả và báo cáo của các cơ sở đào tạo về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ làm công tác giảng dạy thì phần lớn giáo
viên giảng viên giảng dạy du lịch ở ĐBSCL có chuyên môn từ các ngành
khác như địa lý, văn hóa học, văn học, lịch sử…
Theo khảo sát của tác giả tại 11 cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du
lịch ở ĐBSCL có 169 giáo viên, giảng viên. Trong số lượng giảng viên có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ du lịch chỉ có 93 giáo viên giảng viên chiếm
55 % (34 giáo viên, giảng viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ du lịch sơ
cấp, trung cấp, cao đẳng; 59 giáo viên, giảng viên có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ du lịch từ đại học trở lên. Số lượng giáo viên được đào tạo các
chuyên ngành du lịch ở nước ngoài là 18 giảng viên. Đa số là giảng viên của
92
trường ĐH Cần Thơ (15 giảng viên). (Xem thêm phụ lục 5 - Thống kê số
lượng giảng viên đào tạo du lịch theo trình độ chuyên môn nghiệp vụ du lịch
ở một số cơ sở đào tạo ĐBSCL năm học 2019-2020).
Mức lương của giáo viên, giảng viên đào tạo nguồn nhân lực ngành du
lịch nhìn chung còn rất thấp. Điều này gây khó khăn cho việc chuyên tâm cho
công tác giảng dạy, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Qua khảo sát tác giả
nhận thấy nhiều giảng viên sau khi học sau đại học ở nước ngoài có xu hướng
chuyển đơn vị công tác lên các cơ sở đào tạo ở TP. Hồ Chí Minh để làm việc.
Lực lượng giáo viên, giảng viên đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
ở ĐBSCL có tuổi đời còn khá trẻ, số năm công tác trong ngành giáo dục còn
chưa nhiều nên kinh nghiệp giảng dạy cũng còn hạn chế.
Thứ hai, hạn chế của đối tượng đào tạo: tình trạng thiếu ý chí, quyết
tâm vươn lên, ngại khó ngại khổ, thiếu quyết tâm cống hiến của học viên, sinh
luyện văn hóa, kinh tế, chuyên môn chính trị, ngoại ngữ… Người học cũng nặng
viên vẫn diễn biến phức tạp. Đối tượng đào còn hạn chế trong việc phấn đấu, rèn
về lý thuyết, điểm số, ít để ý đến việc chọn những công việc làm thêm hay cơ
hội thực tập trước khi ra trường.
Định hướng ngành nghề cho người học là tìm học ngành nghề kiếm
được nhiều tiền, dễ xin việc làm, dễ sống, còn tồn tại tình trạng bệnh thành
tích trong một số cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL.
Chất lượng đầu vào của đối tượng đào tạo một số trường nhìn chung
còn thấp. Nhiều cơ sở đào tạo áp dụng hình thức xét tuyển theo học bạ nhưng
vẫn không tuyển đủ chỉ tiêu. Việc nới rộng công tác xét tuyển nguyện vọng 1,
nguyện vọng 2, nguyện vọng 3 nên càng tạo tâm lý cho học viên thích học đại
học, hơn học nghề. Từ đó, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở
ĐBSCL muốn tồn tại phải tiến hành tăng cường công tác tuyển sinh “vét”
93
từng thí sinh một qua nhiều đợt xét tuyển nên chất lượng đầu vào ở một số cơ
sở đào tạo nhìn chung không cao.
Một số cơ sơ không tuyển sinh được, các chuyên ngành du lịch phải
tạm ngưng do không có người học như ngành CĐ Việt Nam Học trường CĐ
Bến Tre, ngành CĐ Văn hóa du lịch trường ĐH Bạc Liêu…
Theo khảo sát của tác giả tại 11 cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du
lịch ở ĐBSCL năm học 2019-2020 tuyển sinh được 1.723 chỉ tiêu (Trong đó
có 785 sinh viên đại học, 770 sinh viên cao đẳng, và 168 học viên trung cấp
du lịch). Đây là con số khá thấp. Số lượng người học du lịch tốt nghiệp năm
học 2019-2020 là 770 người (trong đó có 374 người tốt nghiệp đại học, 333
người tốt nghiệp cao đẳng, và 63 người tốt nghiệp trung cấp du lịch).
Số lượng sinh viên bỏ học giữa chừng ở các cơ sở đào tạo du lịch ở
ĐBSCL là khá lớn. Đơn cử như trường CĐ Cần Thơ ngành CĐ Quản trị dịch
vụ du lịch và lữ hành năm 2019-2020 tuyển được 157 sinh viên như thực học
hiện nay chỉ còn 124 sinh viên. Ngành CĐ Việt Nam Học năm 2019-2020
tuyển được 152 sinh viên như thực học hiện nay chỉ còn 105 sinh viên. (Xem
thêm phụ lục 6 - Thống kê số lượng học viên, sinh viên du lịch ở một số cơ sở
đào tạo ĐBSCL năm học 2019-2020).
Bên cạnh đó, khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học còn rất hạn
chế. Theo khảo sát của tác giả đối với 30 giáo viên, giảng viên các cơ sở đào
tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL về khả năng tự học, tự nghiên cứu
của học viên, sinh viên thì chỉ có 5 giảng viên lựa chọn hài lòng, 14 giảng
viên chọn không hài lòng và 11 giảng viên chọn rất không hài lòng
0%
17%
37%
94
Không hài lòng
46%
Rất hài lòng Hài Lòng
Rất không hài lòng
Hình 3.3: Cơ cấu mức độ hài lòng của giáo viên, giảng viên về khả năng tự
học, tự nghiên cứu của học viên, sinh viên tại các cơ sở đào tạo du lịch
ở ĐBSCL
Thứ ba, hạn chế về nội dung, chương trình đào tạo: các cấp đào tạo
đang trong quá trình hoàn thiện về chương trình, giáo trình đào tạo và chưa
thực sự hoàn chỉnh về yêu cầu kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Có những
giáo trình ở một số trường chưa đạt tiêu chuẩn. Tính liên thông của chương
trình đang là vấn đề cần giải quyết. Chương trình đào tạo ít thực tế và nặng lý
thuyết. Các chương trình đào tạo về du lịch ở các trường của vùng không
phong phú, thậm chí nhiều ngành liên quan trực tiếp đến du lịch không có.
Các chuyên ngành đào tạo còn theo xu hướng chung chung chưa hướng
vào các ngành nghề nghiệp vụ cụ thể. Phần lớn các cơ sở đào tạo nguồn nhân
lực ngành du lịch ở ĐBSCL tập trung vào 2 ngành chính là Việt Nam học và
Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành. Sinh viên ra trường được xác định sẽ làm
hầu hết các lĩnh vực của hoạt động du lịch nên không chuyên sâu. Ví dụ về vị
trí làm việc sau khi tốt nghiệp ngành Việt Nam học nhiều trường xác định:
Sau khi tốt nghiệp sinh viên có khả năng đảm nhiệm vị trí công việc
như sau: thuyết minh viên tại các khu du lịch, bảo tàng, di tích lịch
95
sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh,…; hướng dẫn viên du lịch tại các
công ty du lịch, các trung tâm dịch vụ lữ hành; làm việc trong các
bộ phận nghiên cứu và phát triển du lịch, điều hành, kinh doanh lữ
hành, tiếp thị du lịch; làm việc trong những lĩnh vực nhà hàng,
khách sạn, văn phòng du lịch hoặc các lĩnh vực liên quan: Tổ chức
sự kiện, quảng cáo, tiếp thị,...
Các trường đại học, cao đẳng chuyên nghiệp có chương trình đào tạo
ngành học du lịch cũng chưa thống nhất cơ bản được chương trình khung đào
tạo. Việc đào tạo nghề du lịch cũng đang tồn tại nhiều hệ thống trên chuẩn
khác nhau: Hệ thống trên chuẩn nghề quốc gia có 8 nghề thuộc nhóm du lịch,
do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành; Hệ thống trên chuẩn kỹ năng
nghề du lịch VTOS gồm 10 nghề do dự án EU hỗ trợ xây dựng; hệ thống trên
chuẩn kỹ năng nghề ASEAN gồm 6 nghề đã được Bộ trưởng các nước
ASEAN ký cam kết thực hiện.Việc tồn tại cùng lúc nhiều hệ thống trên chuẩn
như vậy cũng gây khó khăn cho việc quản lý của các cơ quan quản lý nhà
nước, cũng như lúng túng cho các doanh nghiệp sử dụng nhân lực du lịch.
Bên cạnh đó, tình trạng cơ sở đào tạo du lịch còn thiếu nhạy bén, linh
hoạt, hình thức, chưa xuất phát từ nhu cầu xã hội trong xây dựng chương trình
đào tạo còn phổ biến, cho nên danh mục các ngành nghề đào tạo còn lạc hậu,
chậm sửa đổi và bổ sung để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về nhân lực cũng
như yêu cầu phát triển của khoa học – công nghệ và hội nhập quốc tế.
Trong quá trình xây dựng các chương trình đào tạo, nhiều cơ sở đào tạo
chưa ý thức được nét đặc trưng văn hóa miền Tây Nam Bộ trong đào tạo nhân
lực du lịch vốn được xem là “đại sứ văn hóa” nhằm giới thiệu đặc trưng văn
hóa địa phương cho du khách. Chương trình đào tạo về ngoại ngữ cũng như
kỹ năng mềm chưa thực sự được quan tâm để người học có thể đáp ứng nhu
cầu của công việc.
96
Thứ tư, hạn chế về hình thức đào tạo: hình thức liên kết đào tạo trong
nước và quốc tế còn nhiều hạn chế. Hạn chế trong hợp tác quốc tế về đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch được biểu hiện cụ thể như sau:
Việc liên kết quốc tế trong đào tạo phát triển nhân lực ngành du lịch
chủ yếu mới dừng ở việc ký hiệp định hợp tác; nội dung hợp tác mới tập trung
vào khai thác công nghệ, kinh nghiệm, kiến thức của các chuyên gia nước
ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài, nên chưa được cụ thể hóa và chưa
đạt được hiệu quả mong muốn.
Ngoài ra, chương trình hợp tác quốc tế chưa được các cơ sở đào tạo
chuẩn bị xây dựng một cách chủ động, nên phần lớn các đơn vị còn lúng túng
trong tìm đối tác và thường là thụ động trông chờ hỗ trợ của Nhà nước. Trên
thực tế, đã có một số cơ sở đào tạo xây dựng các quan hệ hợp tác với cơ sở
đào tạo ngoài nước, nhưng còn hạn chế về nhiều mặt cả về nhân lực, trang
thiết bị và các điều kiện khác nên còn khó khăn trong triển khai.
Đối với hoạt động liên kết đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch trong
nước, thì đào tạo theo nhu cầu xã hội chưa được thực hiện tốt. Hơn nữa, mặc
dù hoạt động liên kết giữa 3 nhà (Nhà nước - Nhà trường - Nhà sử dụng lao
động) đã khắc phục được một số hạn chế, nhưng vẫn còn rời rạc. Việc liên kết
giữa các cơ sở đào tạo về du lịch trong vùng chưa hiệu quả. Thông tin về định
hướng phát triển nhân lực du lịch, như thông tin về dự báo nhu cầu lao động,
các chuẩn ngành, nghề…từ các cơ quan quản lý nhà nước đến các cơ sở đào
tạo và doanh nghiệp chưa thường xuyên, mà chủ yếu do cơ sở đào tạo và
doanh nghiệp tự tìm tòi là chính, nên còn có hiện tượng cung không gặp cầu.
Chưa có chính sách cụ thể, hiệu quả và bền vững để gắn kết cơ sở đào tạo với
các cơ sở sử dụng nhân lực và những chính sách ưu tiên đủ mạnh để khuyến
khích doanh nghiệp du lịch tham gia đào tạo tại các cơ sở đào tạo. Các thông
tin về định hướng phát triển nguồn nhân lực du lịch (nhất là thông tin dự báo
97
cụ thể về nhu cầu lao động, các chuẩn ngành nghề) chưa thực sự được
“chuyển giao” thông suốt giữa các bên liên quan khiến cho nhu cầu đào tạo và
nhu cầu lao động chưa được nhận biết một cách chính xác. Các cơ sở đào tạo
chưa quan tâm nhiều hoặc chưa tìm được phương thức hữu hiệu và cơ sở dữ
liệu chính xác để đánh giá thực trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt
nghiệp. Về phía doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp chưa thực sự hỗ trợ mạnh
mẽ cho nhà trường trong việc tiếp nhận học viên, sinh viên tham quan, thực
tập cũng như sắp xếp cho họ công việc phù hợp ngành nghề đào tạo trong thời
gian thực tập. Việc bố trí thực tập trái chuyên ngành đào tạo còn nhiều…, từ
đó ảnh hưởng đến nhận thức và thái độ nghề nghiệp của người học.
Hình thức liên kết đào tạo với doanh nghiệp trong nước còn những hạn
chế như sau:
Mặc dù các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp về du lịch ở ĐBSCL
hiện nay đã và đang nâng cao nhận thức cũng như có những chủ trương, hoạt
động cụ thể trong việc đẩy mạnh liên kết đào tạo, nhưng trên thực tế, hoạt
động này vẫn chưa thực sự mang tính phổ biến, hiệu quả. Hiện trạng vẫn phổ
biến là các cơ sở đào tạo tương đối độc lập trong đào tạo, từ nội dung chương
trình đào tạo, hoạt động khoa học công nghệ, đội ngũ làm công tác đào tạo,
trong xây dựng chiến lược, mục tiêu phát triển… Còn các doanh nghiệp
thường tiến hành tuyển dụng một cách độc lập, ít có sự gắn kết, ràng buộc hay
phối hợp với các cơ sở đào tạo.
Các hình thức liên kết chưa phong phú. Theo kết quả khảo sát của tác
giả đối với 20 cán bộ phóng Đào tại cơ sở đào tạo có liên quan đến du lịch,
thì hình thức liên kết chủ yếu là gửi sinh viên thực tập, thực tế, mời chuyên
gia vào giảng dạy … Các hình thức khác như tham khảo ý kiến của các
doanh nghiệp về mục tiêu, chương trình, nghiên cứu khoa học, hỗ trợ học
bổng… còn hạn chế.
25
20
15
10
5
0
Hỗ trợ học bổng Liên kết trong
Hỗ trợ việc làm Mời thỉnh giảng
Xây dựng đề cương
Gửi HS/SV thực tập
NCKH
98
Hình 3.4: Các hình thức liên kết doanh nghiệp tại các cơ sở đào tạo du lịch
ở ĐBSCL
Thứ năm, hạn chế về phương pháp đào tạo
Với những yêu cầu về chất lượng của nguồn nhân lực ngành du lịch
ngày càng cao hiện nay, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp
4.0, các cơ sở đào tạo cũng như doanh nghiệp du lịch của vùng đã có có
những chuyển biến tích cực trong phương pháp đào tạo, nhưng sự chuyển
biến đó chưa thực sự đồng bộ, hiệu quả.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy đã được thực hiện phổ
biến, nhưng đôi khi giảng viên quá lạm dụng công cụ trình chiếu PowerPoint
nên việc giảng dạy chỉ chuyển từ “thầy đọc, trò chép” sang “thầy chiếu, trò
chép” hay “thầy chiếu, trò chụp”. Nhiều giảng viên chưa chú ý hay chưa biết
cách thiết kế các slides bài giảng, có khi slides chứa quá nhiều chữ, kích cỡ
chữ nhỏ khó nhìn, bị chiếu quá nhanh, khiến sinh viên không theo dõi được.
Khi việc trình chiếu bị lạm dụng thì trong lớp thiếu sự giao lưu, tương tác
giữa thầy và trò. Có những môn học chỉ cần lắng nghe hoặc cần thảo luận để
mở rộng kiến thức, thì việc trình chiếu chữ bằng công cụ PowerPoint sẽ làm
tiết học trở nên khô cứng, nhàm chán khiến sinh viên không hứng thú học tập.
99
Nhiều giảng viên còn hạn chế về phương pháp sư phạm nên chưa có
những bước lên lớp bài bản để dẫn dắt sinh viên, gợi mở tính sáng tạo trong
học tập của các em. Sau giờ giảng trên lớp, thường giữa giảng viên và sinh
viên ít có sự tương tác để giải đáp kịp thời thắc mắc của sinh viên cũng như
để kiểm tra mức độ tiếp thu bài giảng của sinh viên.
Do đặc thù của ngành là cần đào tạo lý thuyết gắn với thực hành nhưng
các cơ sở đào tạo, nhất là khối cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp thường
thiên về lý thuyết và thiếu thực hành so với các trường nghề. Đây là vấn đề
vừa thuộc về nội dung chương trình, nhưng cũng liên quan trực tiếp đến vấn
đề phương pháp đào tạo. Điều này cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào
tạo. Một hiện thực rất đáng quan tâm hiện nay là các nhà tuyển dụng rất khó
có thể tuyển được nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao. Hầu hết nhân lực
được tuyển dụng phải tiến hành đào tạo lại.
Thứ sáu, hạn chế về môi trường đào tạo
Hiện nay trên cả nước nói chung, khu vực ĐBSCL nói riêng chưa có
trường đại học đào tạo chuyên ngành du lịch. Đặc biệt ĐBSCL chưa có cơ sở
đào tạo ngành du lịch ở bậc sau đại học nên ảnh hưởng đến việc phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành du lịch của vùng, nhất là đối với
việc nâng cao trình độ của các chủ thể đào tạo.
Một trong những hạn chế về môi trường đào tạo nguồn nhân lực ngành
du lịch là tình trạng thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc thực hành. Đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch là đào tạo nghiệp vụ nên rất cần có các cơ sở
vật chất phục vụ cho việc giảng dạy thực hành như: mô hình quầy lễ tân,
phòng khách sạn, các dụng cụ nhà hàng, thiết bị hướng dẫn viên…Tuy nhiên
đây là những thiết bị khá đắc tiền nên các cơ sở đào tạo thường thiếu các
trang thiết bị phục vụ cho việc đào tạo.
100
Phần lớn học viên, sinh viên đang học các ngành du lịch được hỏi qua
khảo sát của tác giả đối với 400 học viên, sinh viên tại các trường đào tạo du
lịch ở ĐBSCL, số phiếu thu về 389 phiếu hợp lệ về cơ sở vật chất của cơ sở
đào tạo thì chỉ có 23 người chọn rất hài lòng (chiếm 5,9 %), 82 người chọn
hài lòng (chiếm 21,1%), 211 chọn không hài lòng (chiếm 54, %) và 73 người
học lựa chọn rất không hài lòng (chiếm 18,7 %).
Hỏi về đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực ngành du lịch ở ĐBSCL, nhiều người học được khảo sát đều đề xuất đầu
tư cơ sở vật chất cho hoạt động dạy và học, giúp cho người học được thực
6%
19%
21%
hành nhiều hơn, trải nghiệm thực tế nhiều hơn.
Rất hài lòng Hài lòng
54%
Rất không hài lòng
Không hài lòng
Hình 3.5: Cơ cấu mức độ hài lòng của học viên, sinh viên về cơ sở vật chất kỹ
thuật ại các cơ sở đào tạo du lịch ở ĐBSCL
Về công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch chưa được các
doanh nghiệp quan tâm mà chủ yếu giao trọng trách cho các cơ sở đào tạo.
Những hạn chế về hình thức, nội dung chương trình cũng như phương
pháp đào tạo nguồn nhân lực du lịch vùng ĐBSCL ảnh hưởng trực tiếp đến
101
chất lượng đào tạo, cụ thể là sản phẩm của quá trình đào tạo, đó là trình độ,
năng lực, kỹ năng của nguồn nhân lực ngành du lịch.
3.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất: nhận thức về vai trò của đào tạo nguồn nhân lực du lịch mặc
dù đã được nâng cao nhưng vẫn còn những hạn chế, nhiều bất cập. Việc nhận
thức xác định giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu dù đã được quán triệt
nhưng sự quan tâm và tổ chức thực hiện của nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền
và cơ quan chức năng chưa thật quan tâm đầy đủ đến phát triển đào tạo nguồn
nhân lực. Nhiều địa phương chưa chia đủ định mức, ngân sách, chưa giành đủ
quỹ đất cho việc đào tạo. Nhiều trường chưa thật sự quan tâm đầy đủ đến đổi
mới chương trình, phương pháp đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Đây là
một trong những nguyên nhân dẫn đến các chính sách nhằm khuyến khích
phát triển đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch chưa đủ và tổ chức triển khai
chưa tốt, còn có sự buông lỏng quản lý, nhất là ở vùng nông thôn, nơi có
nhiều tiềm năng, tài nguyên du lịch.
Ngoài ra, chất lượng đào tạo giữa các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch còn có sự cách biệt lớn về chất giữa đô thị, một số vùng sâu,
vùng xa, nhưng biện pháp để giải quyết chưa thực sự hiệu quả. Có sự chênh
lệch lớn giữa đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch giữa TP. Cần Thơ và các
tỉnh khác như Sóc Trăng, Cà Mau…
Đồng thời, đào tạo nhân lực ngành du lịch còn thiếu cơ chế cạnh tranh,
nên hạn chế trong việc tạo động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng đào tạo.
Chất lượng đào tạo vẫn chưa được kiểm soát và chưa thực hiện được vai trò
định hướng đào tạo, liên kết đào tạo và sử dụng nhân lực của ngành.
Bên cạnh đó, giữa cơ quan quản lý với nhau và với các cơ sở đào tạo,
cơ sở sử dụng nhân lực ngành du lịch còn thiếu những quy định và cơ chế
phối hợp.
102
Ngoài ra, nội dung cơ cấu đào tạo theo cấp trình độ và ngành, nghề còn
thiếu chính sách dài hạn; sự bất hợp lý và không có tính hệ thống về cơ cấu
đào tạo chưa có giải pháp để điều chỉnh, chưa quan tâm và tập trung tăng đào
tạo nghề dài hạn.
Hơn nữa, hiện nay nhiều cơ sở đào tạo du lịch công lập vẫn còn tiếp tục
ỷ lại, trông chờ kinh phí cấp phát do vẫn còn một số chính sách hiện hành vẫn
mang tính bao cấp của Nhà nước.
Thứ hai: chính sách đãi ngộ, sử dụng đối với đội ngũ tham gia công tác
đào tạo nguồn nhân lực du lịch của Vùng còn nhiều hạn chế, nhất là đội ngũ
giáo viên, nên chưa thực sự phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các
chủ thể. Thu nhập thấp là nguyên nhân chính dẫn đến việc không chuyên tâm
trong công tác chuyên môn, hiện tượng chảy máu chất xám cũng như việc hạn
chế trong học tập nâng cao trình độ của giảng viên, giáo viên.
Thứ ba: qui mô đào tạo mới mặc dù tăng mạnh, nhưng chưa đáp ứng
nhu cầu xã hội. Công tác tuyển sinh hàng năm ở các bậc đào tạo mới đáp ứng
được hơn 65% nhu cầu đào tạo du lịch của xã hội, khoảng 75% nhu cầu nhân
lực làm việc trực tiếp của Ngành. Các doanh nghiệp thiếu nhân lực lành nghề,
phần lớn phải đào tạo lại sau khi tuyển dụng. Đào tạo nghệ nhân, giám đốc,
chức danh quản lý cao cấp và chuyên gia chưa được chú trọng. Hoạt động đào
tạo lại, bồi dưỡng chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, các trung tâm
đào tạo ở các doanh nghiệp cũng như các lớp đào tạo lại, bồi dưỡng do Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch và các Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tổ chức chưa đáp ứng được số lượng lớn lao động của ngành phải
tham gia đào tạo lại.
Thứ tư: đặc điểm tâm lý nặng về bằng cấp thích, con cái học đại học và
“làm thầy” của người dân, xã hội vẫn còn khá phổ biến dẫn tới tình trạng “thừa
103
thầy, thiếu thợ”. Đều này cũng gây khó khăn cho công tác tuyển sinh và đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch đặc biệt là các ngành cao đẳng, trung cấp.
Thứ năm: chưa có chính sách phù hợp và hiệu quả để thống nhất
chương trình đào tạo giữa các cơ sở, gắn kết cơ sở đào tạo với các doanh
nghiệp và với hoạt động nghiên cứu khoa học về phát triển nhân lực ngành du
lịch của vùng. Đồng thời, cơ chế để huy động sự tham gia của doanh nghiệp
vào hoạt động đào tạo nhân lực du lịch một cách tích cực, thiết thực chưa
được xây dựng và thực hiện một cách chính thống.
3.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG HIỆN NAY
“Mâu thuẫn là sung lực nội tại của mọi sự sống” Hêghen - nhà triết học
lỗi lạc cổ điển Đức đã nói. Như vậy, điều đó cũng hoàn toàn đúng khi nói về
quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL hiện nay. Có thể
khái quát một số mâu thuẫn như sau:
3.3.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu không ngừng nâng cao chất lƣợng
đội ngũ làm công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch với những
hạn chế của đội ngũ này trong các cơ sở đào tạo du lịch ở Đồng bằng
sông Cửu Long hiện nay
Quan điểm chung trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến
năm 2030 xác định: “Phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, chất
lượng, hiệu quả; đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 và chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”
[103]. Đối với vùng ĐBSCL, mục tiêu phát triển du lịch để tương xứng với
tiềm năng, thế mạnh; khẳng định vị trí quan trọng của vùng đối với du lịch
Việt Nam; từng bước nâng cao vị trí, vai trò của du lịch trong phát triển kinh
104
tế - xã hội của vùng, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống người dân, góp
phần quảng bá hình ảnh vùng ĐBSCL với cả nước và quốc tế.
Kết quả của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phụ thuộc vào
những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Ở đây, đội ngũ làm công
tác đào tạo giữ vai trò quan trọng. Chủ thể đào nguồn nhân lực ngành du lịch
gồm chủ thể ở tầm vĩ mô (tác động gián tiếp), và chủ thể ở tầm vi mô (tác
động trực tiếp). Ở tầm vĩ mô là sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước,
Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch và các Bộ liên
quan…Chủ thể đào tạo tầm vi mô là hệ thống các cơ sở đào tạo chuyên ngành
du lịch. Các cơ sở đào tạo chuyên ngành du lịch phải có đầy đủ điều kiện, tiêu
chuẩn năng lực đào tạo theo đúng qui định của Nhà nước. Bởi vì sẽ không thể
có được sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng tốt và hiệu quả nếu không có
đội ngũ làm công tác đào tạo đáp ứng theo yêu cầu. Nói cách khác để thực
hiện thành công mục tiêu phát triển ngành du lịch cả nước nói chung, của
ĐBSCL nói riêng, một trong những giải pháp trọng tâm của việc đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực du lịch là xây dựng đội ngũ làm công tác đào tạo
nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là đội ngũ làm công tác quản lý giáo dục và
giảng viên, giáo viên trong các cơ sở đào tạo phải được đảm bảo và phát triển
cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Ông Rajai Roy Singh, nguyên giám đốc UNESCO châu Á - Thái Bình
Dương đã phát biểu: “Không có một nền giáo dục của quốc gia nào lại có thể
phát triển cao hơn trình độ đội ngũ giáo viên của quốc gia đó” [4, tr.166] và
trình độ của nhà giáo là một trong những tiêu chí phản ánh trình độ của nền
giáo dục – đào tạo. Tuy nhiên, ở ĐBSCL hiện nay còn có những hạn chế về
nhận thức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ làm công
tác đào tạo.
105
Nhận thức của chủ thể đào tạo cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả
của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Vấn đề đặt ra về nhận thức từ
phía các chủ thể đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch là một số cơ quan chưa
nhận thức rõ về vai trò của kinh tế du lịch từ đó chưa nhận thức được tầm
quan trọng của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch vì vậy thiếu về số
lượng, không bảo đảm về chất lượng, chổ thừa chổ thiếu, một số cơ sở chưa
quan tâm cho đào tạo đội ngũ giảng viên, chưa cử người đi bồi dưỡng cập
nhật kỹ năng nghề.
Về năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ làm công tác
đào tạo tại các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng ĐBSCL
vẫn còn thiếu và nhiều hạn chế. Đây là một mâu thuẫn cần nhận thức đúng,
thấu đáo và phải có chiến lược đào tạo phát triển nguồn nhân lực ngành du
lịch phù hợp. Vì vậy, việc nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ này là yêu
cầu, đòi hỏi cấp bách, có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc góp phần
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành du lịch là
đòi hỏi cấp bách. Điều này phải được xem xét là một mũi đột phá quan trọng
trong khâu đột phá phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch của ĐBSCL trong
thời kỳ mới.
3.3.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu xây dựng chƣơng trình đào tạo phù
hợp, phƣơng pháp hiệu quả với những hạn chế về nội dung, chƣơng
trình, phƣơng pháp trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch chất
lƣợng cao ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
Yêu cầu trong việc phát triển ngành cả nước nói chung, vùng ĐBSCL
nói riêng là phải có được đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao về năng lực,
trình độ, cùng với những kỹ năng mềm tương ứng, giỏi về ngoại ngữ, khả
năng thích ứng…Do vậy, đòi hỏi nội dung chương trình đào tạo phải luôn gắn
106
với thực tiễn, phù hợp với nhu cầu thực tế, tiên tiến về nội dung, kết hợp nội
dung đào tạo kỹ năng cứng và kỹ năng mềm; đảm bảo sự liên thông, liên kết
giữa các chương trình đào tạo, liên kết trong nước và quốc tế; phương pháp
đào tạo phải luôn được đổi mới, sáng tạo, linh hoạt, phát huy tính tính tích
cực của người học, gắn kết giữa lý luận và thực hành, tránh những phương
pháp thụ động, lạc hậu...
Vấn đề cấp thiết hiện nay là việc đổi mới, cập nhật chương trình để đáp
ứng tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ của ngành du lịch Việt Nam, khu vực và
thế giới. Đào tạo phải gắn với thực tiễn và yêu cầu của doanh nghiệp, tổ chức.
Cần đào tạo tập trung theo mô hình thực nghiệp, kết hợp lý thuyết và thực
hành kỹ năng nghề du lịch.
Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL hiện nay còn
nhiều bất cập về nội dung và phương pháp đào tạo. Một số nội dung chương
trình đào tạo còn mang tính chấp vá, không đồng bộ, không tổng thể, không
lâu dài, chỉ đào tạo để xử lý những tình huống thiết hụt ngay lập tức.
Việc đào tạo kỹ năng thực hành nghề trong chương trình đào tạo còn
nhiều bất cập với thời lượng đào tạo thực tế còn khá ít. Kỹ năng thực hành là
một trong những yếu tố đặc biệt cần thiết cho người học có thể vận dụng
những kiến thức đã học vào trong thực tiễn nghề nghiệp du lịch, để có thể có
được việc làm đáp ứng nhu cầu xã hội và góp phần phát triển tổ chức.
Quan điểm dạy học “lấy người học làm trung tâm, phát huy tính chủ
động sáng tạo” tuy được quan tâm nhưng trên thực tế triển khai ở một số cơ
sở đào tạo ở vùng ĐBSCL chưa hiệu quả.
Thực trạng về nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của Ngành, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao trước những yêu cầu, đòi hỏi của việc phát triển
107
ngành du lịch và hội nhập quốc tế. Hiện nay không ít sinh viên ra trường chưa
đáp ứng được yêu cầu xã hội, yêu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp và người sử dụng lao động. Việc thiếu gắn bó, kết hợp chưa
đồng bộ giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, với sản xuất, kinh doanh... đã
tạo ra nguồn nhân lực thiếu năng động, xa rời thực tiễn. Chương trình, nội
dung đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tình trạng dạy những gì nhà
trường đang có, chưa dạy những gì mà xã hội cần không còn phù hợp với yêu
cầu mới của CNH-HĐH và hội nhập quốc tế.
Vì vậy, việc đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo là
yêu cầu bắt buộc và cấp bách nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực ngành du lịch vùng ĐBSCL trong bối cảnh hiện nay.
3.3.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có môi trƣờng đào tạo tiên tiến
với sự lạc hậu của môi trƣờng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở
các cơ sở đào tạo tại Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
Môi trường đào tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đào tạo
nguồn nhân lực nói chung, đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch nói riêng.
Một môi trường bình đẳng, nghiêm túc, lành mạnh, tiến tiến trong đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực là đòi hỏi bức thiết của tình hình hiện nay. Môi
trường đào tạo tác động thường xuyên, liên tục tới mọi hoạt động đào tạo. Có
môi trường lành mạnh, dân chủ mới tạo ra điều kiện và cơ hội cho mọi thành
viên tham gia một cách tích cực, sáng tạo vào công tác đào tạo. Môi trường
thể hiện ở các mối quan hệ giữa thầy và trò; giữa giáo dục và đời sống; giữa
lý thuyết và thực hành, ứng dụng; giữa nhà trường và xã hội.
Để có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu kinh tế tri thức cần phải có
được môi trường đào tạo thích ứng nhằm phát huy tính tích cực, tự giác của
người học; niềm say mê khoa học và học tập được kích thích; năng lực sáng
tạo của cả thầy và trò được phát huy; kết quả học tập, thi cử, luận văn, luận án
108
được đánh giá công bằng, khách quan; người học thấy rõ tương lai, nhanh
chóng hòa nhập với cuộc sống sau khi tốt nghiệp.
Trước những đòi hỏi khắt khe đó, nhưng môi trường đào tạo nguồn
nhân lực du lịch vùng ĐBSCL vẫn còn thể hiện sự lạc hậu, bó hẹp, khép kín,
chưa tạo điều kiện phát huy tốt trí tuệ và năng lực của người dạy và tính tự
giác học tập, rèn luyện của người học.
Một trong những hạn chế lớn về môi trường đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch ở ĐBSCL hiện nay là tình trạng cơ sở vật chất bị xuống cấp,
sách, giáo trình dạy học thiếu cập nhật, thiếu cơ sở thực hành nghiệp vụ như
mô hình quầy lễ tân, phần mềm quản lý nhà hàng khách sạn, quầy bar, buồng
phòng, trang thiết bị phục vụ hướng dẫn viên như loa, cờ hướng dẫn, dụng cụ
tổ chức team building…nên việc tổ chức thực hành cho người học gặp rất
nhiều hạn chế.
Mâu thuẫn trên đang đòi hỏi phải được nhận thức đúng đắn, trên cơ sở
đó đề xuất giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch ĐBSCL trong thời kỳ mới.
3.3.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu hoàn thiện hệ thống cơ chế chính
sách đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch với sự chƣa đồng bộ, chƣa
hoàn thiện của cơ chế, chính sách trong đào tạo nguồn nhân lực ngành
du lịch của vùng
Quan điểm trọng tâm có tính đột phá trong Chiến lược phát triển Du
lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đó là: Chuyển từ phát
triển trên diện rộng sang phát triển theo chiều sâu; phát triển du lịch theo
hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm; đảm bảo chất lượng
và hiệu quả, khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh tranh. Đây là quan
điểm định hướng cho sự phát triển của du lịch Việt Nam trong giai đoạn tới,
trên cả bình diện quốc gia và từng vùng, từng địa phương. Về mục tiêu phát
109
triển đến năm 2020, đưa du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có
tính chuyên nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ,
hiện đại; sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang
đậm bản sắc văn hoá dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và
thế giới. Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du
lịch phát triển.
“Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng đồng bằng sông cửu long
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã đề xuất:
Các tỉnh, thành phố trong vùng xây dựng và triển khai thực hiện
Chương trình phát triển nguồn nhân lực du lịch cho địa phương phù
hợp với định hướng phát triển du lịch của vùng nhằm mục tiêu phát
triển đội ngũ nhân lực du lịch đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu
ngành nghề và trình độ đào tạo, bảo đảm về chất lượng đáp ứng yêu
cầu phát triển du lịch của vùng.Tập trung xây dựng đội ngũ giảng
viên, giáo viên, thẩm định viên nghề du lịch; chú trọng đổi mới nội
dung, chương trình, phương pháp đào tạo; tăng cường công tác đào
tạo tại chỗ, đào tạo ngắn hạn đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân
lực du lịch trước mắt cũng như lâu dài của từng địa phương và phù
hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế [102].
Để thực hiện những mục tiêu trên, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
là một trong những giải pháp trọng tâm. Theo đó, đào tạo và phát triển nhân
lực du lịch đảm bảo chất lượng, số lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và
trình độ đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch và hội nhập quốc tế. Phát
triển mạng lưới cơ sở đào tạo về du lịch mạnh với cơ sở vật chất kỹ thuật,
thiết bị giảng dạy đồng bộ, hiện đại; chuẩn hóa chất lượng giảng viên và
chương trình đào tạo. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển nhân lực du lịch phù hợp với nhu cầu phát triển du lịch
110
từng thời kỳ, từng vùng, miền trong cả nước; từng bước thực hiện chuẩn hóa
nhân lực du lịch hợp chuẩn với khu vực và quốc tế, đặc biệt chú trọng nhân
lực quản lý và lao động có tay nghề cao; đa dạng hóa phương thức đào tạo;
khuyến khích đào tạo tại chỗ, tự đào tạo theo nhu cầu. Điều này đòi hỏi phải
có một hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp, hiệu quả trong lĩnh vực giáo dục
– đào tạo.
Tuy nhiên, cơ chế, chính sách giáo dục – đào tạo hiện nay ở nước ta
vẫn còn nhiều bất cập. Đặc biệt, Chính sách tiền lương đối với đội ngủ làm
công tác đào tạo chưa đảm bảo cho chủ thể đào tạo sống được bằng lương ở
mức trung bình, khá trong xã hội nên không hút được người tài giỏi tham gia
vào hoạt động đào tạo. Tình trạng nghỉ việc, chuyển công tác của giảng viên,
giáo viên ở ĐBSCL vẫn thường diễn ra.
Chính sách khuyến khích và thúc đẩy đầu tư từ khu vực tư nhân chưa
đồng bộ, chưa đủ mạnh để tạo cơ chế thúc đẩy sự bình đẳng thực sự giữa các
trường thuộc khối công lập và ngoài công lập. Việc thành lập trường, mở
ngành, xác định chỉ tiêu tuyển sinh… chủ yếu dựa trên năng lực của cơ sở đào
tạo, chưa bám sát nhu cầu thị trường lao động...
Mâu thuẫn trên ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến quá trình đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch vùng ĐBSCL.
111
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất rộng lớn với thế mạnh về nông
nghiệp, thủy sản...nhưng lại là “vùng trũng” về giáo dục, đào tạo.
Việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng chịu ảnh hưởng
bởi các yếu tố: điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và xu thế phát
triển ngành du lịch, đặc trưng văn hóa, đặc điểm về nguồn nhân lực du lịch
ĐBSCL.
Đối với nguồn nhân lực du lịch của vùng, mặc dù đã có những biến đổi
tích cực, nhưng vẫn thiếu về số lượng, cơ cấu chưa hợp lý, chất lượng chưa
đáp ứng yêu cầu, một phần do công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch của
vùng đã có nhiều thành tựu, song vẫn còn nhiều hạn chế.
Những thành tựu và hạn chế trên do sự tác động của những nguyên
nhân khách quan, chủ quan, đồng thời đặt ra những vấn đề cần nghiên cứu và
giải quyết. Đó là: mâu thuẫn giữa yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng
đội ngũ làm công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch với những hạn
chế của đội ngũ này trong các cơ sở đào tạo du lịch ở ĐBSCL hiện nay; mâu
thuẫn giữa yêu cầu xây dựng chương trình đào tạo phù hợp, phương pháp
hiệu quả với những hạn chế về nội dung, chương trình, phương pháp trong
đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch chất lượng cao ở ĐBSCL hiện nay;
mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có môi trường đào tạo tiên tiến với sự lạc hậu
của môi trường đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở các cơ sở đào tạo tại
Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay; mâu thuẫn giữa yêu cầu hoàn thiện hệ
thống cơ chế chính sách đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch với sự chưa
đồng bộ, chưa hoàn thiện của cơ chế, chính sách trong đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch của vùng.
112
Chƣơng 4
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
4.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRONG VIỆC NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
Nguồn nhân lực được xác định là một trong những yếu tố quyết định
chất lượng sản phẩm du lịch, đáp ứng nhu cầu của du khách nói riêng và sự
phát triển của ngành du lịch nói chung. Để nâng cao chất lượng nguồn đào tạo
nguồn nhân lực du lịch ĐBSCL cần quán triệt 3 quan điểm chủ đạo như sau:
4.1.1. Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu
Long phải gắn với chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội và chiến lƣợc
phát triển du lịch của vùng
Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải đặt trong bối cảnh phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực nói riêng của mỗi địa phương. Bên cạnh đó, mỗi địa phương cần bám sát
định hướng phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch đã được các cấp có thẩm
quyền phê duyệt trong xây dựng kế hoạch nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực ngành du lịch nhằm khai thác hiệu quả nhất tiềm năng và lợi thế vốn có
của mình.
Đào tạo nguồn nhân lưc ngành du lịch ở ĐBSCL phải gắn với “Chiến
lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030” đã được Thủ Tướng phê
duyệt. Cụ thể là:
Phát triển nguồn nhân lực du lịch theo cơ cấu hợp lý, bảo đảm số
lượng, chất lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào
113
tạo, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh, hội nhập; có chính sách khuyến
khích thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động
toàn diện, nâng cao chất lượng nhân lực du lịch cả về quản lý nhà
nước, quản trị doanh nghiệp và kỹ năng nghề du lịch, chú trọng đào
tạo nhân lực quản lý cấp cao và lao động lành nghề.
Đa dạng các hình thức đào tạo; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích
doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực du lịch; chú trọng đào tạo
kỹ năng nghề và kỹ năng mềm cho lực lượng lao động trực tiếp
phục vụ du lịch, đặc biệt là đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh
viên du lịch tại điểm; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng
cho cộng đồng dân cư tham gia kinh doanh du lịch và góp phần
quảng bá điểm đến, hình ảnh du lịch của địa phương.
Tăng cường năng lực các cơ sở đào tạo, trường đào tạo nghề du lịch
chất lượng cao tại các khu vực động lực phát triển du lịch [103].
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL là một bộ phận
không thể tách rời của nguồn nhân lực du lịch Việt Nam. Do đó trong quá
trình nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL phải
hướng đến chiến lược “Xây dựng lực lượng lao động ngành du lịch đủ về số
lượng và đáp ứng yêu cầu về chất lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và
trình độ đào tạo để đảm bảo tính chuyên nghiệp, đủ sức cạnh tranh và hội
nhập khu vực, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch” trong “quy
hoạch phát triển nhân lực ngành du lịch giai đoạn 2011 – 2020” [15].
Mặt khác, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
phải phù hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội vùng ĐBSCL. “Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm vùng Đồng
bằng sông Cửu Long đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” xác định:
114
Tập trung đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường, gắn phát triển nguồn
nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Phát triển
giáo dục, đào tạo và dạy nghề nhằm tạo bước đột phá để nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu về nhân lực cho phát
triển kinh tế - xã hội của vùng và cả nước, Tập trung, ưu tiên đào tạo
nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu cho các ngành, lĩnh vực
mũi nhọn của vùng và yêu cầu hội nhập quốc tế; ưu tiên đầu tư, phát
triển các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề có đủ năng lực đào
tạo các nghề trọng điểm cấp độ quốc tế và khu vực. Xây dựng thành
phố Cần Thơ thành trung tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao cho
cả vùng. Rà soát, sắp xếp và thành lập các trường đại học, cao đẳng
phù hợp với quy hoạch, trên cơ sở đảm bảo đầy đủ các tiêu chí và
điều kiện thành lập trường theo quy định. Mở rộng quy mô giáo dục
đại học và sau đại học và nâng cấp một số trường Cao đẳng, Đại học
trên địa bàn nhằm từng bước điều chỉnh cơ cấu và trình độ lực lượng
lao động [101].
Trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch vùng ĐBSCL phải đáp
ứng mục tiêu trong “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng ĐBSCL đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Chỉ tiêu việc làm trong quy hoạch được
xác định “Đến năm 2020 tạo việc làm cho khoảng 230 nghìn lao động, trong
đó khoảng 77 nghìn lao động trực tiếp. Phấn đấu đến năm 2030 tạo việc làm
cho khoảng 450 nghìn lao động, trong đó khoảng 150 nghìn lao động trực
tiếp.” Quy hoạch cũng đề ra giải pháp “Các tỉnh, thành phố trong vùng xây
dựng và triển khai thực hiện Chương trình phát triển nguồn nhân lực du lịch
cho địa phương phù hợp với định hướng phát triển du lịch của vùng nhằm
mục tiêu phát triển đội ngũ nhân lực du lịch đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu
115
ngành nghề và trình độ đào tạo, bảo đảm về chất lượng đáp ứng yêu cầu phát
triển du lịch của vùng” [102].
Theo đó, đào tạo nguồn nhân lực của vùng nói chung, trong lĩnh vực du
lịch nói riêng, cần căn cứ trên quy hoạch vùng. Trong đó cũng cần lưu ý đến
những yêu cầu đặt ra trong nhiệm vụ lập quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-
2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Mặt khác, trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải
gắn với đặc trưng của vùng ĐBSCL, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Trong
quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL cần tập trung quan
điểm “năm tại chỗ” (tuyển dụng tại chỗ, đào tạo tại chỗ, thực hành tại chỗ, sử
dụng tại chỗ và phát triển tại chỗ) [14, tr. 70]. Điều này góp phần làm nên đặc
trưng trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch so với các vùng miền khác.
Việc đào tạo cần xây dựng nội dung chương trình phù hợp với thực tiễn
địa phương. Cần xem trọng các môn cung cấp về kiến thức về lịch sử, đặc
trưng văn hóa vùng ĐBSCL như các môn chuyên ngành. Từ đó hướng cho
người học am hiểu về đặc trưng văn hóa của vùng miền Tây sông nước để
giới thiệu cho du khách.
Việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cho nguồn nhân lực ngành du lịch ở
ĐBSCL cũng cần phải được chú trọng. Trong đó đặc biệt phát huy các phẩm chất
của con người miền Tây truyền thống trong bối cảnh hiện đại. Ví dụ như việc xây
dựng người Cần Thơ “Trí tuệ, năng động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch”…
Bên cạnh đó, nước ta đang trong quá trình thực hiện mục tiêu hội nhập
toàn diện trong mọi lĩnh vực của đời sống văn hóa, xã hội, kinh tế. Sự lựa
chọn du lịch là một trong những ngành có vai trò quan trọng, là ngành mũi
nhọn đóng góp vào sự thành công của quá trình hội nhập rất phù hợp với quy
luật khách quan và thực tiễn của Đất nước. Do đó trong công tác đào tạo cần
hướng đến việc nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng phải đáp ứng các
116
chuẩn chung của khu vực và thế giới, có khả năng hội nhập sâu rộng vào nền
du lịch toàn cầu.
Cũng trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đó, cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều loại hình
lao động trong lĩnh vực du lịch sẽ tăng lên, nhiều loại hình sẽ giảm đi và cùng
với đó có nhiều loại hình lao động mới sẽ xuất hiện. Do đó, để thích ứng,
người lao động cần phải sở hữu nhiều kỹ năng như quản lý, kỹ thuật số, kỹ
năng mềm. Đặc biệt trong lĩnh vực phát triển du lịch, nhân lực có những đòi
hỏi riêng về tính chuyên nghiệp - trình độ và chất lượng cao, vì ngoài những
lao động thuộc các ngành sản xuất có liên quan cung cấp dịch vụ, thì còn có
sự khác biệt của hoạt động ngành như loại hình, thời gian làm việc, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, giới tính, độ tuổi… Từ đó, yêu cầu đòi hỏi cao trong
lĩnh vực đào tạo.
Theo đó, cần từng bước đạt những tiêu chuẩn chung và được thừa nhận
trong khu vực và thế giới, tạo tiền đề cho tự do di chuyển lao động quốc tế.
Do vậy, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch phải có chất
lượng cao được khu vực và quốc tế công nhận rộng rãi. Từ đó đòi hỏi cơ sở
đào tạo, dạy nghề du lịch vùng ĐBSCL phải được đầu tư hiện đại tầm cỡ khu
vực và quốc tế, hoạt động đào tạo du lịch vươn khỏi phạm vi mỗi địa phương,
từng vùng và quốc gia.
4.1.2. Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng phải quán
triệt quan điểm đồng bộ nhƣng có trọng tâm trọng điểm
Nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL không thể hình thành một cách
tự phát, cũng như toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể tự
nhiên đi đến thắng lợi. Đó phải là cả một quá trình xây dựng một cách tích
cực và chủ động. Vì vậy, công tác đào tạo này đóng vai trò to lớn để chúng ta
tự giác từng bước đào tạo đội ngũ người lao động cho ngành du lịch. Vấn đề ở
117
đây là tìm ra con đường tối ưu để nâng cao hiệu quả đào tạo trong điều kiện
hiện nay. Lê nin viết “muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát
và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của
sự vật đó [60, tr.364]. Chỉ dẫn phương pháp luận này của Lê nin vận dụng vào
đào tạo nguồn nhân lực đòi hỏi phải xét chúng trong sự phát triển biện chứng.
Một vấn đề có tính nguyên tắc trong việc nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch ĐBSCL là quán triệt quan điểm đồng bộ, nhưng có
trong tâm trọng điểm.
Thực chất của quan điểm này là trong quá trình đào tạo nguồn nhân
lực, một mặt thông qua sự tác động của điều kiện khách quan bằng cách cải
tạo, làm biến đổi môi trường, hoàn cảnh sống của họ, tức là thông qua đào tạo
bằng chính cuộc sống. Mặt khác, thông qua sự tác động của những nhân tố
chủ quan, thông qua công tác giáo dục đào tạo trực tiếp về mặt xây dựng ý
thức biện pháp đào tạo con người một cách thích hợp. Tức là giáo dục đào tạo
bằng các phương tiện của sự tác động tư tưởng. Cả hai mặt này được kết hợp
một cách hữu cơ để cho các học viên, sinh viên có được phẩm chất, năng lực
một cách vững chắc nhất.
Quán triệt quan điểm đồng bộ nhưng có trọng tâm, trọng điểm trong
đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL cần phải thực hiện một số yêu
cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, đảm bảo sự thống nhất và tác động tổng hợp của các nhân tố
kinh tế, xã hội, tinh thần và các nhân tố khác tác động đến sự hình thành nhân
cách con người, đến những qui tắc của đạo đức, nguyên tắc, hành động và
hành vi của học viên, sinh viên ngành du lịch.
Thứ hai, gắn liền mật thiết giữa giáo dục đào tạo chính trị tư tưởng đạo
đức và đào tạo lao động chuyên môn nghề nghiệp ngành du lịch.
118
Thứ ba, đào tạo đồng bộ đòi hỏi phải chú ý đào tạo về mặt nhận thức,
cũng như mặt tình cảm, đào tạo có hệ thống hình thành niềm tin để có được
người lao động trong ngành du lịch “vừa hồng, vừa chuyên”. Đó là hình thành
được số lượng, chất lượng (thể lực, trí lực, tâm lực), nguồn nhân lực phát triển
hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành du lịch ĐBSCL, cụ
thể là:
Về số lượng, theo dự báo của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch năm
2020, nhu cầu nhân lực ngành du lịch vùng ĐBSCL là 75.400 nhân lực du
lịch trực tiếp và 132.500 nhân lực du lịch gián tiếp. Năm 2030, nhu cầu nhân
lực ngành du lịch vùng ĐBSCL là 110.000 nhân lực du lịch trực tiếp và
381.600 nhân lực du lịch gián tiếp [64, tr. 211]. (Xem thêm phụ lục 7: Dự báo
nhu cầu nhân lực ngành du lịch vùng ĐBSCL năm 2020).
Về chất lượng, cần chú ý đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, gắn
lý thuyết với thực hành trong đó chú trọng các kiến thức lịch sử, văn hóa vùng
ĐBSCL, kỹ năng nghiệp vụ du lịch, năng lực ngoại ngữ (tiếng Anh, tiếng
Pháp…) nhằm đào tạo đội ngũ nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao cho
vùng ĐBSCL. Về chất lượng cần đặc biệt lưu ý hiện ngành du lịch ĐBSCL
đang rất thiếu nguồn nhân lực có khả năng ngoại ngữ và kỹ năng phục vụ
khách quốc tế.
Về cơ cấu, cần xây dựng nguồn nhân lực ngành du lịch có cơ cấu phù
hợp với từng địa phương ở ĐBSCL. Trong đó có sự phù hợp về ngành nghề
tương ứng với từng công việc cụ thể như: hướng dẫn viên du lịch (theo tuyến
hoặc tại điểm), lễ tân, nhân viên buồng phòng, đầu bếp, phục vụ bàn, thiết kế
điều hành tour du lịch, nhân viên kinh doanh…. Bên cạnh đó cũng cần có sự
hợp lý đối với các trình độ đào tạo: trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học.
Cần lưu ý rằng, hiện ĐBSCL chưa có trường đại học chuyên về du lịch, chưa
có cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở trình độ sau đại học.
119
Đối với từng đối tượng đào tạo, việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du
lịch phải đảm bảo quan điểm đồng bộ vì chất lượng nguồn nhân lực là một sự
tổng hợp, kết tinh của rất nhiều yếu tố: thể lực, trí lực và tâm lực. Đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch không chỉ riêng về thể chất, tinh thần mà cả
lĩnh vực sinh học và cả lĩnh vực xã hội.
Về thể lực, cần tập trung đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch có sức
khỏe tốt, thể lực lực bền bỉ, khả năng vận động tốt, tháo vát và nhanh nhẹn.
Vì nhân lực trong ngành du lịch phải vừa lao động trí óc, vừa lao động thể lực
với cường đó lao động khá cao và chịu áp lực tâm lý lớn và môi trường lao
động phức tạp. Một trong những đặc tính nổi bật của hoạt động du lịch là tính
thời vụ. Lượng khách du lịch không đều giữa các tháng trong năm mà biến
động thay đổi theo mùa. Vào mùa cao điểm, nhân lực trong ngành du lịch
phài làm việc liên tục ví dụ như hướng dẫn viên du lịch phải thường xuyên di
chuyển, ăn nghỉ không ổn định, hoạt động nghiệp vụ liên tục nên cần phải có
thể lực tốt để đảm bảo sức khỏe, an toàn cho bản thân và cho cả đoàn khách.
Thể lực trong hoạt động du lịch còn bao hàm yếu tố hình thể, trang phục tác
phong chuyên nghiệp.
Về trí lực, trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch thì chủ thể đào
tạo không chỉ cung cấp tri thức cho người học mà còn phải khơi dậy khả năng
tự học, tự nghiên cứu, hướng người học đam mê và có phương pháp phù hợp
để chiếm lĩnh tri thức của nhân loại. Trí lực ở đây không chỉ là tri thức đơn
thuần mà là sự kết hợp giữa kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp của
người lao động so với yêu cầu của công việc mà người lao động đảm nhận, vì
vậy trong quá trình đào tạo cần hướng đến kỹ năng nghiệp vụ, giúp người học
có khả năng vận dụng những kiến thức đã học vào trong thực tiễn nghề
nghiệp nhằm phục vụ du khách, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch.
120
Về tâm lực, trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch cũng phải chú
trong đến việc hướng cho người học có những giá trị chuẩn mực đạo đức,
phẩm chất tốt đẹp. Trước tiên là phải có tình yêu và trách nhiệm với đất nước,
với tổ chức và với khách du lịch. Nhân lực ngành du lịch phải có tâm làm
nghề, mang đến cho du khách những trải nghiệm khó quên về văn hóa miền
Tây Nam Bộ thật thà, hiếu khách, thanh lịch, nghĩa tình. Bên cạnh đó, trong
quá trình đào tạo cần rèn luyện cho người học những đức tính như: đoàn kết,
cần cù, nhanh nhẹn, linh hoạt, sáng tạo, thân thiện, lịch thiệp, điềm tĩnh, thận
trọng, tính kỷ luật, hiếu khách, chân thật…
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG HIỆN NAY
4.2.1. Nhận thức đúng vị trí, vai trò, trách nhiệm và sự cần thiết
nâng cao chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển
ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long
Nhận thức là yếu tố quan trọng hàng đầu, là nền tảng trong đào tạo
nguồn nhân lực du lịch đáp ứng yêu cầu hội nhập. Đào tạo phát triển nguồn
nhân lực được xem là một trong những giải pháp quan trọng trong chiến lược
phát triển du lịch Việt Nam nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng.
Nhận thức được vấn đề này và để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch
nhanh, bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn cũng như đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn, trong khoảng 10 năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã
ban hành nhiều văn bản, chính sách nhằm phát triển ngành du lịch, trong đó
có nguồn nhân lực du lịch: Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định 3066/QĐ-BVHTTDL ngày
29/9/2011 của Bộ trưởng Bộ VHTTDL về việc phê duyệt Quy hoạch phát
121
triển nhân lực ngành du lịch giai đoạn 2011 – 2020; Quyết định số 201/QĐ-
TTg ngày 22/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 8/12/2014 của Chính phủ về một số giải pháp
đẩy mạnh phát triển Du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới; Chỉ thị 14 CT/TTg
ngày 2/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường hiệu lực quản lý
nhà nước, tập trung khắc phục yếu kém, thúc đẩy phát triển du lịch; Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch (2016), Đề án Tăng cường đào tạo theo nhu cầu xã
hội lĩnh vực du lịch đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (2017), Nghị quyết số 08-QĐ/TW năm 2019 của Bộ Chính
trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn;…
Tại ĐBSCL, có các quy hoạch, đề án, dự án xây dựng, phát triển ngành
du lịch của vùng: Quyết định số 803/QĐ-BVHTTDL ngày 9/3/2010 của Bộ
trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt Đề án phát triển du lịch
vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020; Quyết định số 4552/QĐ-
BVHTTDL ngày 31/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
giao nhiệm vụ xây dựng dự án “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng
Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030”; Quyết định số 2227/QĐ-TTg
ngày 18/11/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030;…
Tại Quyết định 3066/QĐ-BVHTTDL ngày 29/9/2011 của Bộ trưởng
Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân
lực ngành du lịch giai đoạn 2011 – 2020 với mục tiêu:
Hình thành được đội ngũ nhân lực ngành Du lịch đủ về số lượng,
đảm bảo về chất lượng và hợp lý về cơ cấu trình độ, ngành nghề và
vùng miền để đáp ứng nhu cầu nhân lực du lịch trong nước và tham
122
gia xuất khẩu lao động làm du lịch; đạt trình độ tiên tiến trong khu
vực và một số mặt tiếp cận trình độ các nước tiến tiến trên thế giới.
Đảm bảo có được đội ngũ nhân lực trực tiếp đủ năng lực, có sức
khỏe tốt, phát triển toàn diện về trí tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức,
lương tâm nghề nghiệp, có năng lực tự học, tự đào tạo cao, năng
động, chủ động sáng tạo, có tri thức và kỹ năng làm việc toàn cầu,
thích nghi nhanh với môi trường không ngừng biến đổi. Làm tốt vai
trò là nòng cốt trong sự nghiệp phát triển du lịch, đáp ứng đòi hỏi
ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát
triển nền kinh tế tri thức của đất nước trong bối cảnh hội nhập sâu
và toàn diện, góp phần đưa nước ta trở thành một trong những trung
tâm du lịch hàng đầu trong khu vực. [15]
Từ mục tiêu trên, nguồn nhân lực du lịch cần được quan tâm về trình
độ, kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực sáng tạo trong
tham mưu xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù, chuyên nghiệp và tiếp cận
với tri thức, công nghệ mới trong xúc tiến, quảng bá truyền thông.
Do đó, quy hoạch phát triển du lịch của vùng ĐBSCL, cũng như kế
hoạch phát triển du lịch của từng các địa phương cần chú trọng xây dựng và
hoàn thiện cơ chế, chính sách về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực du lịch
phù hợp với phát triển đội ngũ nhân lực du lịch đủ về số lượng, cân đối về cơ
cấu ngành nghề và trình độ đào tạo, bảo đảm về chất lượng đáp ứng yêu cầu
phát triển du lịch của vùng.
Cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước về
đào tạo và phát triển nhân lực ngành du lịch. Hệ thống quản lý chung của
ngành du lịch cần có sự phân cấp, phân quyền hợp lý tránh tình trạng chồng
chéo, không phân định rõ trách nhiệm từng cá nhân, tập thể trong công tác
quản lý đào tạo và sử dụng nhân lực.
123
UBND các tỉnh thành ĐBSCL cần ưu tiên thực hiện nhiệm vụ đánh giá
chung về tình hình sử dụng cũng như chất lượng nguồn nhân lực của cả vùng
và của từng địa phương. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các địa phương
trong vùng ĐBSCL cần chủ động tiến hành điều tra, phân loại và đánh giá
toàn bộ đội ngũ lao động làm du lịch mình quản lý, từ đó đưa ra những kế
hoạch đào tạo cho từng cấp lao động chuyên ngành.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các
bộ, ngành liên quan rà soát, xem xét, đánh giá sắp xếp, quy hoạch toàn diện
về hệ thống cơ sở đào tạo du lịch của vùng ĐBSCL phù hợp với yêu cầu phát
triển ngành, có tham khảo hệ thống đào tạo ở các nước có du lịch phát triển để
đảm bảo cơ cấu đào tạo du lịch ở các cấp là hợp lý, phù hợp với các chuẩn
mực chung của khu vực và quốc tế. Việc sắp xếp lại mạng lưới cơ sở giáo
dục, nghề nghiệp này cần phải thực hiện kịp thời để đào tạo nhân lực tay nghề
cao, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động; xác định phát triển Trường Đại
học Cần Thơ như là một hạt nhân trung tâm để hình thành liên kết một số
trường đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu chuyển dịch
lao động của các địa phương trong vùng, để làm được điều này cần quan tâm
đến việc nâng cao các điều kiện đảm bảo chất lượng, đặc biệt là phát triển đội
ngũ giảng viên của các trường. Đặc biệt, có kế hoạch xây dựng, thành lập Học
viện Du lịch hoặc Đại học Du lịch của vùng đạt chuẩn quốc tế và xem đây sẽ
là cơ sở đào tạo đội ngũ lao động du lịch trình độ cao, có khả năng đảm nhận
vai trò nòng cốt trong hội nhập quốc tế, hướng đến việc đào tạo nguồn nhân
lực ngành du lịch có trình độ sau đại học tại vùng ĐBSCL.
Bộ Giáo dục và đào tạo phối hợp cùng với Tổng cục Du lịch trong việc
đánh giá thực trạng chất lượng đào tạo, đề ra định hướng phát triển một hệ
thống đào tạo nguồn nhân lực du lịch cho khu vực ĐBSCL đạt chuẩn chất
lượng, đồng thời xác định những lĩnh vực ưu tiên đào tạo, để tập trung nguồn
124
lực đầu tư, hình thành các trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, đáp
ứng nhu cầu phát triển của ngành du lịch toàn vùng.
Cơ quan đầu ngành cần có sự phân bổ và sử dụng ngân sách Nhà nước
hợp lý để phát triển cơ sở hạ tầng trong trung và dài hạn. Nguồn ngân sách
cần tập trung chú trọng cho các chương trình, dự án theo các mục tiêu ưu tiên
khác nhau như vùng sâu, vùng xa, nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số
và cần đảm bảo công bằng xã hội cho các đối tượng.
Cần có chính sách thúc đẩy sự phát triển du lịch của các địa phương ở
ĐBSCL nhằm tạo việc làm cho nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng, bố trí
nguồn lực thực hiện chính sách việc làm cho người học ngành du lịch, gắn kết
giữa yêu cầu của doanh nghiệp kinh doanh du lịch với người lao động. Tạo
môi trường thuận lợi cho người có năng lực phát triển, cũng như có các chính
sách đãi ngộ để thu hút lao động có tay nghề cao về làm việc trong ngành du
lịch; tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng nghề
nghiệp cho cán bộ quản lý, người lao động; tổ chức các cuộc thi, kiểm tra tay
nghề, năng lực làm việc của cho người lao động; có chính sách đánh giá, cấp
chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia về du lịch gắn với việc nâng cao trình độ kỹ
năng nghề… Cần nhận thức rõ ràng rằng sự hỗ trợ về vật chất ban đầu chưa
phải là yếu tố quyết định thu hút nhân tài, vấn đề phải là môi trường công tác
và sự phát triển bản thân người lao động ngành du lịch.
Các cơ quản chủ quản cần thực hiện hỗ trợ kinh phí đào tạo cho các
trường, tổ chức đào tạo nghề theo kết quả đầu ra; khuyến khích doanh nghiệp,
nhất là các doanh nghiệp quy mô lớn, tự đào tạo lao động phục vụ nhu cầu
của bản thân, của các doanh nghiệp, đối tác và các doanh nghiệp có liên quan
khác. Bên cạnh đó, cần rà soát đánh giá mạng lưới các cơ sở đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL nhằm điều chỉnh, hoàn thiện theo đúng mục
tiêu và yêu cầu phát triển ngành du lịch của vùng.
125
Mặt khác, cần thường xuyên tổ chức các hội thảo khoa học, tọa đàm
khoa học về đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch, để nâng cao ý thức về tầm
quan trọng của nguồn nhân lực trong phát triển du lịch, thu hút sự quan tâm
của các tầng lớp xã hội, đặc biệt là các chủ thể đào tạo, thực hiện xã hội hóa
trong đào tạo nguồn nhân lực. Việc xã hội hóa này tạo điều kiện để các thành
phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân tham gia đào tạo; huy động được nhiều
nguồn lực đầu tư, phát triển đào tạo, dạy nghề, kể cả nguồn lực từ nước ngoài
để giảm bớt gánh nặng về tài chính cũng như thu hút vốn đầu tư và công nghệ
đào tạo từ các doanh nghiệp, công ty, nhất là các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài cho công tác đào tạo nguồn nhân lực, tạo bước đột phá trong xây dựng,
thực hiện chính sách thu hút và trọng dụng nhân lực qua đào tạo.
Ở đây, Đảng và chính quyền các tỉnh, thành, các cơ sở đào tạo chú ý
phát huy tinh thần tự học, tự rèn luyện của chủ thể đào tạo nhằm đáp ứng yêu
cầu phát triển ngành du lịch, xây dựng động cơ nghề nghiệp đúng đắn cho chủ
thể đào tạo ngành du lịch ở ĐBSCL, như đa dạng hóa các hình thức, biện
pháp nâng cao trình độ của cán bộ giảng viên và các lực lượng trực tiếp trong
đào tạo, chú trọng quá trình bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ giảng viên
vừa có đức, vừa có tài, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch ĐBSCL.
Nhà nước và các địa phương cần tăng cường công tác tuyên truyền, kiểm
tra, giám sát về chất lượng nhân lực, chất lượng dịch vụ ở các cơ sở du lịch.
Công tác tuyên truyền cần thực hiện dưới nhiều hình thức và nội dung khác nhau
để nâng cao nhận thức cho các cơ quan, doanh nghiệp và người lao động về vị trí
của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch như: Tuyên truyền, giáo
dục hướng nghiệp trong hệ thống giáo dục phổ thông để định hướng cho học
sinh phổ thông lựa chọn nghề du lịch và cơ sở đào tạo ở ĐBSCL; tuyên truyền
nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và đoàn thể về phát triển nguồn nhân
lực ngành du lịch, thay đổi nhận thức và hành vi của các tổ chức đào tạo, dạy
126
nghề du lịch và sử dụng nhân lực du lịch theo hướng tăng cường độc lập, tư chủ
và hoạt động thích nghi với thị trường lao động, đẩy mạnh liên kết; giáo dục
cộng đồng dân cư về phát triển nhân lực ngành du lịch trong điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế…
4.2.2. Phát triển số lƣợng, nâng cao chất lƣợng đội ngũ làm công
tác đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu
Long hiện nay
Hiện nay, đội ngũ nhà giáo tham gia giảng dạy ngành du lịch tại
ĐBSCL còn thiếu so với yêu cầu thực tế. Do đó, cần rà soát tổng thể đội ngũ
tham gia công tác đào tạo ngành du lịch để thực thiện chuẩn hóa và xây dựng
lộ trình chuẩn hóa, đáp ứng mục tiêu đào tạo nghề. Đối với việc phát triển đội
ngũ giáo viên, giảng viên và đào tạo viên du lịch cần đảm bảo đủ về số lượng,
chuẩn về chất lượng để đáp ứng nhu cầu đào tạo, tăng quy mô và nâng cao
chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành du lịch.
Trước hết, cần rà soát đội ngũ tham gia công tác đào tạo, để nắm bắt
được thực trạng về số lượng, trình độ, năng lực. Từ đó làm cơ sở để cân đối
về cơ cấu, số lượng, xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nhằm đáp ứng nhu
cầu đào về nguồn nhân lực du lịch của vùng.
Đội ngũ tham gia công tác đào tạo bao gồm giảng viên, cán bộ quản lý,
nhân viên trong các cơ sở giáo dục. Trong đó, đội ngũ giảng viên, cán bộ
quản lý là lực lượng chủ đạo. Vì vậy, cần phải được khảo sát kĩ lưỡng về số
lượng, chất lượng, cơ cấu của đội ngũ này để nắm chắc thực trạng, từ đó có
giải pháp phù hợp để nhằm phát triển toàn diện đội ngũ làm công tác đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng ĐBSCL hiện nay.
Thứ hai, cần thực hiện tốt việc tuyển chọn, sàng lọc đầu vào đội ngũ
làm công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
127
Chất lượng đội ngũ giảng dạy là yếu tố cốt lõi quyết định chất lượng
đào tạo. Theo đó, với đối tượng tuyển dụng là những giảng viên trẻ nên cần
đặc biệt chú trọng đến khâu bồi dưỡng. Nguồn giảng viên trẻ này có thể tuyển
dụng từ sinh viên tốt nghiệp đại học và sau đại học ở các trường Đại học
trong nước, nước ngoài; lựa chọn những sinh viên ưu tú, tốt nghiệp loại giỏi ở
các trường du lịch trên địa bàn đưa đi đào tạo, bồi dưỡng trở thành giáo viên
của trường… điều kiện ưu tiên hàng đầu cần có phải gắn bó lâu dài với nghề,
học lực giỏi, kỹ năng và nghiệp vụ sư phạm tốt… Từng bước bồi dưỡng, phát
triển đội ngũ giảng viên, thẩm định viên trẻ cần có sự giám sát và hướng dẫn,
giúp đỡ của những giảng viên có thâm niên, kinh nghiệm và sự đánh giá của
hội đồng khoa học.
Ngoài đội ngũ giảng viên, giáo viên cơ hữu, các đơn vị đào tạo cần có
các phương án thỉnh giảng các nhà quản lý, nhà khoa học, các doanh nhân có
kinh nghiệm, các nghệ nhân, chuyên môn về lĩnh vực du lịch tham gia vào
hoạt động đào tạo để nâng cao tính thực tiễn của các chương trình đào tạo du
lịch. Cùng với đó, mời chuyên gia quốc tế về du lịch, các giảng viên có kinh
nghiệm ở các cơ sở đào tạo du lịch ở các nước có ngành du lịch phát triển
tham gia giảng dạy.
Thứ ba, Cần tập trung bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng thực hành cho chủ thể đào tạo
Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên và giáo viên của các cơ sở
đào tạo nghề du lịch có thể thực hiện bằng nhiều hình thức. Cơ sở đào tạo
phải có dự trù kinh phí hàng năm cho công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên như tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên
tham gia các khóa đào tạo về năng lực sư phạm, kỹ năng nghề du lịch…; tham
gia các chương trình trao đổi, tham gia hội nghị, hội thảo, diễn đàn quốc tế về
du lịch và đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch… Cùng với đó là bồi dưỡng
128
kiến thức và kĩ năng về công nghệ thông tin, trình độ ngoại ngữ cho đội ngũ
giảng viên dưới góc độ phương pháp dạy học.
Tiếp tục triển khai chương trình cho giáo viên đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch theo chuẩn quốc tế. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã
triển khai đề án đào tạo nghề cho giáo viên theo chuẩn quốc tế. Đội ngũ giáo
viên dạy nghề được tuyển chọn gửi đến một số quốc gia như Úc…để học tập
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề trong nước. Hướng tới chương trình
này cần ưu tiên cho giáo viên đào tạo du lịch ở ĐBSCL để giải quyết nhu cầu
cấp thiết của vùng.
Đồng thời, cần xây dựng các bộ tiêu chuẩn nghề nghiệp giáo viên,
giảng viên theo các cấp trình độ khác nhau, trên cơ sở đó thường xuyên bồi
dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp sư phạm cho giáo viên, giảng
viên , ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Đào tạo giáo viên, giảng
viên không những giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn có kỹ năng nghiệp
vụ vững vàng, là tấm gương mẫu mực để học viên, sinh viên noi theo. Do
ngành du lịch là ngành có đặc thù riêng, hằng năm việc tạo điều kiện để giáo
viên, giảng viên cập nhật mới kiến thức bằng cảch làm việc thực tế tại các đơn
vị kinh doanh du lịch là việc làm hết sức cần thiết và hữu ích trong công tác
giảng dạy.
Phát huy tinh thần tự học, tự rèn luyện suốt đời cho đội ngũ giảng viên,
giáo viên ở ĐBSCL. Có chương trình đưa giảng viên đến thực tập tại các
doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn để nâng cao kỹ năng thực hành
nghề, nâng cao kinh nghiệm thực tiễn trong giảng dạy nghề du lịch.
Bên cạnh đó cần đặc biệt chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần
của giảng viên, giáo viên nhất là các chính sách cải cách tiền lương, xây dựng
môi trường học tập và làm việc nhân văn.
129
Thứ tư, thực hiện tốt chính sách đãi ngộ, trong dụng nhân tài, xây dựng
môi trường làm việc nhân văn
Một thực tế hiện nay là các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở
ĐBSCL rất khó giữ được nhân tài. Nhiều giáo viên, giảng viên sau khi đi du học
ở nước ngoài có xu hướng chuyển môi trường làm việc lên TP. Hồ Chí Minh.
Đơn vị đào tạo có chế độ, chính sách quản lý, sử dụng, đãi ngộ đội ngũ giảng
viên và cán bộ quản lý phù hợp: bảo đảm quyền học tập, nghiên cứu khoa học,
tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội; được hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở,
phương tiện đi lại, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp
luật và các chế độ đãi ngộ khác; xây dựng các quy định về khen thưởng, xử lý vi
phạm, khiếu tố và giải quyết khiếu tố liên quan đến đội ngũ giảng viên, cán bộ
quản lý giáo dục cần phải đảm bảo sự công bằng, minh bạch.
Các cơ sở đào tạo cần chú trọng trong việc hình thành, phát triển môi
trường làm việc văn minh, chuyên nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi để thu hút
lực lượng giảng viên, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm từ trong và ngoài
nước tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực du lịch tiềm năng cho vùng.
4.2.3. Đổi mới nội dung chƣơng trình, phƣơng pháp, hình thức đào
tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long
Hiện nay ở ĐBSCL, hình thức đào tạo còn thiếu tính tương tác, thiếu sự
gắn kết giữa lý thuyết với thực tiễn, dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực sau
đào tạo chưa đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Chính vì vậy, các
cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL cần đổi mới chương
trình, nội dung đào tạo theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực và phù hợp.
Thứ nhất, đổi mới chương trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát triển du lịch và hội nhập quốc tế.
Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh
mục tiêu, phương pháp giáo dục luôn biến đổi do sự biến đổi của điều kiện
130
hoàn cảnh trong nước và thế giới. Nội dung chương trình và giáo trình phải
được xây dựng và triển khai theo hướng mở: thường xuyên cập nhật về kiến
thức trong và ngoài nước; giáo trình, học liệu phục vụ trong quá trình dạy và
học được khai thác trong nước hoặc ngoài nước một cách linh hoạt, nội dung
giảng dạy phải gắn chặt và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành du lịch.
Việc thiết kế chương trình đào tạo cần tập trung vào kiến thức có tính
thiết thực, ứng dụng cao như: Quy trình làm thủ tục check - in và check – out
cho khách tại khách sạn; Quy trình các bước hướng dẫn cho khách tại một
điểm tham quan du lịch như: chợ nổi Cái Răng – TP. Cần Thơ; kỹ năng phục
vụ bàn ăn Âu, Á... Cùng với đó, tập trung đào tạo kỹ năng mềm cho người
học như: kỹ năng giao tiếp và xử lý tình huống, kỹ năng bán hàng…Bên cạnh
đó đối với địa bàn sông nước như vùng ĐBSCL thì cần đào tạo kỹ năng bơi
lội, cấp cứu tai nạn sông nước…đặc biệt là đối với hướng dân viên du lịch các
tuyến chợ nổi, cù lao…
Trong chương trình đào tạo, thời lượng dành cho phần thực hành phải
được nâng cao. Việc thiết kế chương trình đào tạo phải theo hướng ứng dụng
nghề nghiệp, có cập nhật bổ sung khi tiếp cận các chương trình tiên tiến và sự
góp ý của các cơ sở sử dụng lao động. Trong đó thực hiện theo phương châm
“đào tạo nguồn lao động theo những gỉ doanh nghiệp cần”. Các cơ sở đào tạo
cần nhất quán quan điểm đào tạo những kiến thức lý thuyết, thực tế cần và đủ
– nghĩa là gắn kết giữa lý thuyết (đơn vị đào tạo) với thực hành, tạo điều kiện
cho người học thực tập (doanh nghiệp kinh doanh du lịch), kiểm tra chặt chẽ,
sâu sát chất lượng của người học, thực hiện đánh giá theo phương pháp từ bên
ngoài (nhà tuyển dụng) kết hợp với đánh giá bên trong (đơn vị đào tạo).
Các cơ sở đào tạo cần xây dựng và áp dụng chương trình đào tạo phù
hợp với Bộ Tiêu chuẩn nghề du lịch ASEAN, Bộ tiêu chuẩn nghề du lịch Việt
Nam VTOS để xây dựng nội, chương trình học có tính bắt buộc nhằm phù
131
hợp với tình hình sử dụng của đơn vị sử dụng lao động trong nước và quốc tế,
việc này đem lại nhiều lợi ích đơn vị đào tạo, cho doanh nghiệp cũng như người
lao động. Tiêu chuẩn VTOS đã được áp dụng rộng rãi trong việc triển khai đào
tạo nhân viên tại doanh nghiệp kinh doanh du lịch cũng như trong đào tạo tại các
trường du lịch. Bộ tiêu chuẩn này được các chuyên gia xây dựng trong sự kết
hợp hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế và được điều chỉnh cho phù hợp với điều
kiện cụ thể của ngành du lịch tại Việt Nam. Hiện nay, ngành du lịch trong khối
ASEAN đã xây dựng tiêu chuẩn nghề chung cho 6 nghiệp vụ: Lễ tân, buồng,
bếp, dịch vụ ăn uống, đại lý du lịch và điều hành tour với tổng số 32 chức danh
nghề, không bao gồm nghề hướng dẫn viên du lịch.
Thực hiện các chương trình tham quan, học tập tại các cơ sở giáo dục
đào tạo ở nước ngoài nhằm tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế và tạo
điều kiện để cán bộ, giảng viên được mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, năng lực ngoại ngữ và hội nhập quốc tế.
Đào tạo ngành du lịch ở vùng ĐBSCL cũng cần tập trung đến đặc trưng
tự nhiên, văn hóa của vùng. Nội dung đào tạo nên chú trọng các môn học về
lịch sử, văn hóa địa phương như: lịch sử khẩn hoang vùng đất Nam Bộ, đặc
trưng văn hóa các dân tộc Việt, Hoa, Khmer, văn hóa Óc Eo, tôn giáo bản địa
Nam Bộ…Trong đào tạo giáo dục thể chất cho nguồn nhân lực du lịch cần tập
trung dạy bơi để nguồn nhân lực có thể hoạt động tốt trên môi trưởng sông
nước, hướng dẫn khách tham quan chợ nổi…
Trong quá trình đào tạo các cơ sở cần xây dựng các chương trình giảng
dạy ngoại khóa về du lịch, nâng cao nhân thức của người học về hoạt động du
lịch, nâng cao tình yêu, lòng tự hào về các loại tài nguyên du lịch tự nhiên và
nhân văn của địa phương nhằm xây dựng ĐBSCL trở thành một điểm đến an
toàn thân thiện và hấp dẫn với du khách.
132
Du lịch được coi là ngành kinh tế mũi nhọn, lực lượng laó động có xu
hướng quốc tế hóa cao, nhưng năng lực tiếng Anh đang là một hạn chế lớn
đối với nguồn nhân lực của Ngành trên phạm vi cả nước nói chung, vùng
ĐBSCL nói riêng. Vì vậy, trước hết, cần đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò
của ngoại ngữ đối với người làm du lịch trong bối cảnh hội nhập khu vực và
quốc tế sâu rộng hiện nay, đổi mới nhận thức về cách dạy và học ngoại ngữ
chuyên ngành du lịch theo hướng tích họp gắn với phát triển các đơn vị năng
lực cần thiết cho mỗi vị trí công tác trong ngành. Từ đó mới tổ chức thay đổi
nội dung, chương hình, tổ chức dạy học, cách thức tổ chức kiểm tra đánh giá
năng lực ngoại ngữ phù hợp.
Theo đó, cần xây dựng hệ thống chuẩn năng lực tiếng Anh của ngành
dùng làm căn cứ thống nhất về yêu cầu năng lực cho tất cả các ngoại ngữ
được giảng dạy ở các chương trình đào tạo ngoại ngữ và người học ngoại ngữ
phục vụ cho lĩnh vực du lịch, là căn cứ thống nhất để các cơ sở đào tạo xây
dựng chương trình, biên soạn hoặc lựa chọn học liệu, xây dựng kế hoạch
giảng dạy, xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực ngoại ngữ của người
học ở từng chuyên ngành, nghề về du lịch, bảo đảm sự liên thông trong đào
tạo ngoại ngữ giữa các hệ, chuyên ngành đào tạo. Đổi mới thiết kế các
chương trình môn học trong đào tạo môn tiếng Anh chuyên ngành gắn với
yêu cầu năng lực ngoại ngữ của ngành du lịch, mô hình phát triển chương
trình môn học gắn với phân tích tình huống sử dụng tiếng Anh cho nghề
nghiệp tương lai của người học thuộc lĩnh vực du lịch. Định rõ nội dung kiến
thức, thời lượng, hình thức và phương pháp dạy học.
Nhà trường cần tăng cường các môn học tiếng Anh từ cơ bản cho đến các
lớp tiếng Anh chuyên ngành du lịch như tiếng Anh lễ tân, tiếng Anh dành cho
hướng dẫn viên du lịch …, tạo ra nhiều hoạt động cho sinh viên tham gia để nâng
cao kỹ năng tiếng Anh. Đặc biệt với các lớp tiếng Anh chuyên ngành cần được
133
quan tâm nhiều hơn về tất cả các phương diện, vì sinh viên chỉ có thể học tiếng
Anh chuyên ngành trong trường với giảng viên nhiều kinh nghiệm.
Điều chỉnh số lượng sinh viên khi tham gia các lớp tiếng Anh (tối đa 20
sinh viên), có như vậy sinh viên mới có nhiều cơ hội để thực tập tiếng Anh
trên lớp, giúp phát triển kiến thức và kỹ năng tiếng Anh, đồng thời làm giảm
khoảng cách về trình độ giữa các sinh viên, giúp cho sinh viên có thêm điều
kiện thực hành giao tiếp trong các tình huống giả định liên quan đến hoạt
động du lịch như: đóng vai giao tiếp giúp khách quốc tế làm thủ tục check –
in, check – out ở khách sạn…
Nhà trường cần đầu tư nhiều về tài liệu học tập tiếng Anh, đặc biệt là
tiếng Anh chuyên ngành cho cả sinh viên và giảng viên. Liên kết với các tổ
chức trong và ngoài nước để xây dựng các tài liệu giảng dạy phù họp với trình
độ và điều kiện tại Việt Nam. Mở rộng hợp tác quốc tế để chia sẽ kiến thức và
kinh nghiệm giảng dạy cho giảng viên và sinh viên. Các cơ quan quản lý có
thể tổ chức các hội thảo giúp nâng cao trình độ của giảng viên cũng như chia
sẽ kiến thức với các trường với nhau.
Ngoài ra, kỹ năng mềm cũng cần được quy định trong chuẩn đầu ra cũng
như một mục tiêu quan trọng của mỗi môn học.
Nội dung chương trình đào tạo cần được xây dựng phù hợp với thực tiễn
địa phương. Ưu tiên mở các chuyên ngành phổ biến mà địa phương đang
thiếu hụt như: hướng dẫn du lịch, quản trị khách sạn, quản trị du lịch và lữ
hành... chưa cần đầu tư mở các chuyên ngành sâu hơn như ở các trung tâm du
lịch phát triển. Đối với các địa phương có ngành du lịch phát triển, cần có
chiến lược dài hạn để phát triển đội ngũ, trong đó có đào tạo nguồn nhân lực
trình độ cao ở cả các nước có du lịch phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Hai là, tăng tính tương tác giữa người dạy và người học, lấy người học
làm trung tâm. Tâm sinh lý của sinh viên hiện nay là rất năng động, thích sự
134
thay đổi, không ưa sự tẻ nhạt, đơn điệu trong cách truyền đạt bài giảng, không
chấp nhận sự bất công, phi lý trong cách đánh giá của giảng viên nhưng lại
không tập trung nghe giảng, thiếu kiên nhẫn, cần cù trong nghiên cứu, nên
giảng viên phải sáng tạo ra nhiều cách để lôi cuốn sinh viên tham gia vào bài
học, cuối cùng là nắm bắt được những yêu cầu của chuẩn đầu ra của bài học.
Để có thể sáng tạo trong dạy học, trước hết, người giảng viên phải có
nền tảng kiến thức vũng chắc thì trên cơ sở đó mới tự tin và có thể sáng tạo ra
những phương pháp giảng dạy hữu hiệu.
Giảng viên cũng có thể sử dụng những phương pháp giảng dạy do người
đi trước sáng tạo ra hoặc kết hợp các phương pháp lại với nhau, ví dụ kết họp
cách dạy truyền thống với cách dạy trực tuyến, kết hợp lớp học đảo ngược
(flipped) với phương pháp dạy học dựa trên vấn đề,... Khi xây dựng bài giảng,
người giảng viên có thể sử dụng văn thơ, phim ảnh, video; Có thể kết hợp với
những hoạt động của sinh viên như đóng kịch, biểu diễn thời trang, phong
tục... để minh họa cho bài học. Cách làm này khơi gợi được hứng thú của sinh
viên. Tuy nhiên, sáng tạo trong dạy học là đúng, nhưng cần lường hết mọi
tình huống để lựa chọn phương pháp tối ưu, tránh hiểu lầm, ngộ nhận, đó mới
là đổi mới giáo dục hiệu quả.
Trong giờ giảng, giảng viên nên gợi ý, đặt ra nhiều câu hỏi để sinh viên
suy nghĩ, đồng thời khuyến khích sinh viên đặt ra nhiều câu hỏi. Một buổi học
thành công không phải là buổi học có nhiều sinh viên trả lời được câu hỏi của
giảng viên, mà là có nhiều sinh viên đặt ra những câu hỏi liên quan đến bài
học để tìm hiểu sâu về bài học.
Giảng viên - người trực tiếp dạy, có thể chọn bất kỳ tài liệu, sách báo
nào do bất kỳ ai viết để dạy cho sinh viên, nhưng phải chịu trách nhiệm đối
với những thông tin mình truyền tải. Và giảng viên cũng cho phép người học
tìm hiểu những nguồn thông tin khác, đưa ra quan điểm khác, tranh luận
135
ngược lại với giảng viên để thầy và trò cùng đưa ra kết luận cuối cùng. Việc
dám nghĩ khác được giảng viên, trường, lóp khuyến khích và cho học viên,
sinh viên cơ hội chứng minh, từ đó phát triển kỹ năng mềm cho người học.
Ngoài ra, giảng viên có thể sử dụng các mạng xã hội như Facebook,
twitter, instagram... để tạo kênh hỗ trợ, thảo luận trực tiếp với sinh viên qua
mạng. Mỗi lớp học sẽ tạo ra một trang mạng của lóp mình, mỗi sinh viên là
một thành viên. Trên các hang đó giảng viên có thể đăng những bài giảng mà
có thể ừên lớp đã không đủ thời gian truyền tải, những hình ảnh, video clip để
minh họa. Giảng viên có thể ra bài tập, hướng dẫn, thông báo những quy định
của lóp học để sinh viên có thể nắm bắt.
Sinh viên có thể đặt câu hỏi trên mạng để giảng viên giải đáp, vừa trao
đổi với bạn bè và nộp bài tập cho giảng viên. Tất cả những minh chứng này
được lưu lại, dễ dàng phục vụ cho công tác kiểm tra sau này.
Để phát huy vai trò của giáo viên, giảng viên sử dụng các phương pháp
giảng dạy tích cực, đội ngũ này cần được bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, nhất
là về phương pháp giảng dạy. Đổi mới phương pháp giảng dạy gắn với thực
tiễn phát triển cũng như đặc trưng riêng của khu vực.
Muốn đổi mới nhận thức, tư duy, phương pháp thì trước tiên phải mạnh dạn
giảm tải nội dung kiến thức, giảm bớt lý thuyết, tăng thực hành, mục tiêu bài học
phải gọn nhẹ, phù hợp với độ tuổi, thể chất, trình độ từng bậc học của học viên,
sinh viên để có giải pháp tương thích phù hợp. Quan trọng là nội dung đúng
trọng tâm, đáp ứng với nhu cầu của thực tiễn. Phải trả lời được các câu hỏi: Đối
tượng học là ai? Học chuyên ngành du lịch gì? Phương pháp dạy học như thế
nào? Mục tiêu đào tạo như thế nào? Sau khi học xong làm được gì so với yêu
cầu thực tế? để có thể tạo ra những bài giảng độc đáo mang thương hiệu, phong
cách riêng, bản sắc riêng của mình nhưng vẫn đáp ứng và đảm bảo yêu cầu về
chất lượng của nhà trường và doanh nghiệp du lịch.
136
Để làm được điều này. các trường du lịch cần có sự đa dạng trong cơ
cấu ngành nghề đào tạo. Nói về sự đa dạng thì các cơ sở đào tạo du lịch đào
tạo các trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên ngành du lịch đều đáp
ứng điều đó. Tuy nhiên, giảng dạy theo hướng “cầm tay chỉ việc” các lực
lượng lao động trực tiếp như đầu bếp, nhân viên phục vụ bàn, buồng, lễ tân,
hướng dẫn viên,... để học viên, sinh viên ra trường có thể làm việc ngay sau
khi ra trường mà không phải qua đào tạo lại thì rất ít trường làm được. Điều
này đòi hỏi ở các nhà trường về phương pháp giảng dạy, nội dung đào tạo gắn
với thực tế và cập nhật nhanh sự phát triển của ngành du lịch, đối với học
viên, sinh viên là sự trao dồi đạo đức nghề nghiệp, lòng yêu nghề, bản lĩnh
nghề nghiệp, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp phán đoán
tâm lý khách, trình độ ngoại ngữ, ... Việc đưa ra tiêu chuẩn lao động có chất
lượng thì dễ nhưng việc đào tạo để đạt được điều đó thì không thể ngày một
ngày hai mà đạt được. Các cơ sở đào tạo du lịch đào tạo học viên, sinh viên ra
trường có thể bắt tay vào việc ngay mà không phải qua đào tạo lại là một tín
hiệu đáng mừng.
Ba là, đa dạng hóa hình thức đào tạo, bảo đảm liên thông thuận lợi
giữa các cấp trình độ đào tạo trong cùng ngành, nghề hoặc với các ngành,
nghề khác hoặc liên thông lên trình độ cao hơn trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Để làm được điều này, các cơ sở giáo dục đào tạo của vùng cần phối hợp
với các cơ sở đào tạo trong vùng và các tỉnh thành khác trong cả nước:
Trường Đại học Cần Thơ, Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh, Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP.
Hồ Chí Minh,…
Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tạo cơ hội học tập cho rộng rãi các
đối tượng. Kết hợp hài hòa giữa phát triển đào tạo du lịch trong các tnrờng
thuộc hệ thống giáo dục chuyên nghiệp với hệ thống các trường nghề. Ở mỗi
137
địa phương có thể mở các lớp đào tạo về du lịch với các bậc đào tạo và loại
hình đào tạo phù hợp với thực tiễn địa phương mình (địa phương tự mở, liên
kết trong vùng hoặc với các cơ sở đào tạo ở TP.HCM, liên kết với nước
ngoài,...). Đẩy mạnh xã hội hóa đào tạo du lịch.
Việc mở rộng đào tạo nguồn nhân lực du lịch với nhiều phương thức
khác nhau, có thể đào tạo tại các cơ sở đào tạo nghề trong vùng, ngoại vùng
và ngoài nước, đào tạo lại, đào tạo bổ sung tại các doanh nghiệp trong ngành
du lịch với nhiều hình thức khác nhau như tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn
và dài hạn, các lớp tập huấn, bồi dưỡng, bổ túc và cập nhật kiến thức, kỹ năng
chuyên môn.
Tuy nhiên để đạt được mục đích của việc đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch ở ĐBSCL, cần ưu tiên gắn mạng lưới hệ thống cơ sở đào tạo
với đặc thù từng địa phương, chú trọng đầu tư, nâng cấp, mở rộng mạng lưới
các trường, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, đẩy mạnh đào tạo liên thông,
tạo cơ hội học tập cho nhiều người.
Đặc biệt quan tâm đến phương châm “năm tại chỗ” (tuyển dụng tại chỗ,
đào tạo tại chỗ, thực hành tại chỗ, sử dụng tại chỗ và phát triển tại chỗ), vì lẽ
ĐBSCL là vũng trũng của giáo dục, nhiều người không có đủ điều kiện để
được tuyển vào các lớp chính quy theo tiêu chuẩn của nhà nước, nhưng họ
đang lao động trong ngành hoặc có khả năng lao động trong ngành, thì việc
các địa phương tạo điều kiện cho họ học tập bằng nhiều phương thức sáng
tạo khác nhau, sẽ tạo điều kiện cho họ hoạt động cống hiến cho địa phương,
cho ngành.
Mặt khác nhân lực ngành du lịch, đặc biệt là nhân lực phục vụ trong
lãnh vực du lịch sinh thái, luôn ưu tiên tuyển chọn từ cho cư dân địa phương,
ở vùng ĐBSCL thì việc phát triển du lịch sinh thái có tiềm năng cao nhất, vì
vậy phương châm “năm tại chỗ” cần được phát huy, tạo điều kiện cho cư dân
138
địa phương tham gia hoạt động, nâng cao mức sống, thực hiện chủ trương “ly
nông bất ly hương”, nhằm góp phần xây dựng nền kinh tế, phát triển du lịch ở
vùng ĐBSCL.
Trong hoạt động đào tạo, nhất là trong hệ thống trường nghề, cần thiết
phải phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp du lịch để thực hiện có hiệu quả
hoạt động thực hành, thực tập của người học. Việc đào tạo kỹ năng cho người
lao động tại các doanh nghiệp du lịch phải được coi là hoạt động cần thiết, tiếp
nối với hoạt động đào tạo của các nhà trường và được tiến hành thường xuyên.
Mỗi doanh nghiệp có kế hoạch và nội dung đào tạo riêng phù hợp với nhu cầu
thực tiễn của mình. Không nên quan niệm rằng, nhiệm vụ của nhà trường là phải
đào tạo cho sinh viên có đầy đủ các kiến thức và kỹ năng để khi ra trường họ có
thể đáp ứng ngay được tất cả các yêu cầu của doanh nghiệp.
Đặc biệt, trong quá trình quốc tế hóa hiện nay, nguồn nhân lực ngành
du lịch cũng cần phải được trang bị những tri thức, kỹ năng mang tính toàn
cầu để đáp ứng sự phát triển của ngành du lịch trong bối cảnh quốc tế hóa,
nhất là du lịch vùng có tốc độ giao lưu, hợp tác quốc tế và lượng khách quốc
tế ngày càng phát triển như ĐBSCL. Vì vậy, nguồn nhân lực của ngành cần
được bồi dưỡng năng lực đa văn hóa và học tập suốt đời. Từ đó, cần phải có
những yêu cầu, đòi hỏi về xây dựng chương trình đào tạo, phương pháp đào
tạo, kiểm tra đánh giá người học.
Bên cạnh đó cần đẩy mạnh đào tạo sau đại học về du lịch nhằm trang bị
những kiến thức sau đại học và nâng cao kỹ năng thực hành nhằm xây dựng
đội ngũ những người làm khoa học có trình độ chuyên môn về du lịch. Chất
lượng nội dung đào tạo cần được kiểm định ở các cơ quan kiểm định đạt
chuẩn quốc tế, tiến tới hệ thống bằng cấp được công nhận tương đương.
Ngoài ra, việc tuyển chọn, cử người đi học sau đại học cần được tính toán,
hoạch định một cách cẩn thận, khoa học và chính xác để mang lại lợi ích lớn,
139
tầm nhìn xa nhằm tránh lãng phí. Đặc biệt, cần cân nhắc chính sách xã hội
hóa, vừa Nhà nước, địa phương, các doanh nghiệp và gia đình có điều kiện
tham gia chính sách này và có những cam kết ràng buộc mang tính pháp lý.
Cần nhận thức rằng việc mở rộng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch
với nhiều phương thức khác nhau, có thể đào tạo tại các cơ sở đào tạo nghề
trong vùng, ngoại vùng và ngoài nước, đào tạo lại, đào tạo bổ sung tại các
doanh nghiệp trong ngành du lịch với nhiều hình thức khác nhau như tổ chức
các khóa đào tạo ngắn hạn và dài hạn, các lớp tập huấn, bồi dưỡng, bổ túc và
cập nhật kiến thức, kỹ năng chuyên môn…
4.2.4 Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đào tạo
nguồn nhân lực ngành đáp ứng nhu cầu thực hành kỹ năng nghề du lịch
cho ngƣời học
Đơn vị đào tạo cần đầu tư tốt các tiêu chuẩn về cơ sở vật chất cũng như
trang thiết bị đào tạo theo chuẩn khu vực, trong nước và quốc tế. Có thể kể
đến hệ thống phòng thực hành tiêu chuẩn quốc tế cho ngành khách sạn với
phòng ngủ, nhà hàng, dịch vụ bổ sung, khu vực lễ tân…; ngành lữ hành với
mô hình văn phòng giao dịch, phần mềm giữ chỗ hàng không, phần mềm giữ
chỗ khách sạn trong hệ thống phân phối toàn cầu…; phát triển mô hình thực
nghiệm công ty trong đơn vị đào tạo nhằm tạo điều kiện cho người học áp
dụng kiến thức vào trong tình huống thực tế mô phỏng.
Tùy theo năng lực, các đơn vị đào tạo tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin trong đào tạo theo Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy – học, nghiên cứu khoa học góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016 – 2020, định
hướng đến năm 2025”. Theo đó, các đơn vị đào tạo phấn đấu 100% thực hiện
quản lý hành chính xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng; 70% cuộc
họp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và cơ sở giáo dục và đào tạo được áp
140
dụng hình thức trực tuyến; 70% lớp bồi dưỡng chuyên môn cho giảng viên,
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được thưc hiện qua mạng theo phương
thức học tập kết hợp (blended learning); 50% hồ sơ thủ tục hành chính được
xử lý trực tuyến tối thiểu mức độ 3, trong đó 30% được xử lý trực tuyến ở
mức độ 4. Cụ thể, việc ứng dụng công nghệ thông tin toàn diện ở các cơ sở
đào tạo cần được thực hiện từ hệ thống quản lý hành chính điện tử, cập nhật
các dịch vụ công trực tuyến; ứng dụng công nghệ thông tin trong tuyển sinh,
quản lý đào tạo, quản lý sinh viên, quản lý giảng viên, quản lý giáo án, bài
giảng số, quản lý thi, xếp thời khóa biểu, sổ quản lý điện tử; tích hợp với
trang tin điện tử của nhà trường trên môi trường mạng ở tất cả các khóa học.
Các cơ sở đào tạo du lịch phải đầu tư xây dựng và hoàn thiện cổng thư viện số
(giáo trình, bài giảng, học liệu số) liên thông, chia sẻ với các cơ sở đào tạo
khác nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, đào tạo trong giáo dục, nhất là giáo
dục đại học; triển khai hệ thống học tập trực tuyến (E-learning); khai thác,
ứng dụng các phần mềm quản lý doanh nghiệp du lịch, khách sạn, lữ hành vào
trong quá trình giảng dạy cho sinh viên.
Để nâng cao chất lượng đào tạo cần xây dựng các phòng học đảm bảo
các trang thiết bị cần thiết như: loa, âm thanh, máy chiếu…giúp cho việc dạy
và học được diễn ra một cách thuận lợi. Bên cạnh đó cần chú ý xây dựng
trung tâm học liệu với nhiều loại tài liệu, phương tiện hiện đại nhằm đáp ứng
nhu cầu tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Nhất là chú ý đầu tư biên soạn,
mua sắm các tài liệu tham khảo, giáo trình chuyên ngành du lịch, các sách
lịch sử, văn hóa vùng ĐBSCL, các nghiên cửu quy trình nghiệp vụ phục vụ
khách du lịch theo chuẩn quốc tế.
Đơn vị đào tạo khai thác và sử dụng hiệu quả mọi nguồn kinh phí được hỗ
trợ; nhất là từ các chương trình hổ trợ cho việc đào tạo nhân lực du lịch cũng như
đẩy mạnh xã hội hóa trong đầu tư cơ sở vật chất phục vụ dạy và học.
141
Thực hiện chiến lược, kế hoạch ngắn hạn (1 – 2 năm), trung hạn (3 – 5
năm) và dài hạn (5 năm trở lên) trong việc mua sắm, đầu tư trang thiết bị kỹ
thuật, xây dựng cơ sở vật chất trong các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành
du lịch ở ĐBSCL.
4.2.5. Phát huy vai trò tích cực chủ động sáng tạo của chính ngƣời
lao động trong ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long
Đối với đơn vị sử dụng lao động cần phát huy vai trò tham gia làm chủ
và quản lý doanh nghiệp của người lao động, đơn vị sử dụng lao động thường
xuyên tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo, hội thi để nâng cao trình độ chuyên
môn, tay nghề, phát huy sáng kiến, sáng tạo, nâng cao nhận thức và trách
nhiệm của người lao động luôn khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt các nhiệm
vụ được giao.
Đẩy mạnh tính tiên phong, gương mẫu, ý thức tự giác, thực hiện đúng
chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của người lao động; làm việc bảo đảm đúng
nguyên tắc, kỷ cương trong lãnh đạo, điều hành; tôn trọng, công tâm, không
lạm dụng chức vụ, quyền hạn khi giải quyết công việc.
Đơn vị sử dụng lao động cần không ngừng hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả hoạt động của cơ cấu tổ chức để tạo môi trường năng động cho sự phát
triển nguồn nhân lực doanh nghiệp; tạo tính cạnh tranh lành mạnh trong từng
vị trí công việc để người lao động đều có cơ hội phát huy tối đa năng lực của
bản thân, từng bước nâng cao chất lượng nhân lực, đáp ứng tiêu chuẩn nhân
lực du lịch quốc tế.
Đơn vị sử dụng lao động cần chú ý, quan tâm đầu tư mua sắm các trang
thiết bị chuyên dụng, hiện đại để phục vụ quá trình hoạt động du lịch.
Thực hiện tốt chính sách đãi ngộ người lao động chất lượng theo hướng
mũi nhọn, tập trung vào các đối tượng chuyên gia, nhà quản lý du lịch giỏi,
tạo ra sự khác biệt trong việc đãi ngộ so với các đối tượng tài năng khác; khen
142
thưởng, tôn vinh tài năng đảm bảo sự bình đẳng, công bằng nhằm khuyến
khích nỗ lực phấn đấu của nhiều cá nhân tài năng đến với các tỉnh thành
ĐBSCL.
Hiệp hội du lịch và đơn vị sử dụng lao động hàng năm tăng cường giao
lưu hợp tác giữa các vùng miền, giữa các quốc gia với nhau, bởi nó không chỉ
phát huy được thế mạnh của mỗi vùng miền mà còn giúp thay đổi phong
cách, thói quen, tinh thần kỷ luật và đổi mới tiêu chí đánh giá người lao động,
tạo mặt bằng chất lượng thống nhất giữa các vùng miền và các quốc gia trong
điều kiện kiện hội nhập.
Đối với người lao động, ngoài việc tự giác rèn luyện thể lực để bảo
đảm sức khỏe trong quá trình công tác, làm việc thì còn cần phải có thái độ
tích cực về nghề nghiệp, nhất là nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức, kỹ
năng mềm (kỹ năng giao tiếp với khách du lịch; kỹ năng liên kết, làm việc
nhóm; kỹ năng tổ chức sự kiện, tour du lịch; kỹ năng xử lý tình huống trong
công việc; kỹ năng chăm sóc khách hàng; kỹ năng quan sát nhận biết nhu cầu,
thái độ khách hàng; kỹ năng làm chủ cảm xúc…), trình độ ngoại ngữ, tin
học… Để thực hiện điều này, người lao động có thể tìm hiểu, đăng ký tham
gia các chương trình đào tạo ngắn hạn, các buổi/khóa tập huấn, bồi dưỡng do
cơ quan quản lý nhà nước, Hiệp hội Du lịch tổ chức.
Người lao động cần cập nhật thường xuyên kiến thức tổng quát về kinh
tế - xã hội, văn hóa, lịch sử, địa lý, thời tiết của đất nước, của các tuyến điểm
có trong chương trình du lịch nhằm phục vụ nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.
Đặc biệt, đối với người làm công tác trong ngành du lịch được ví như
“đại sứ văn hóa” thì cần phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc,
tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử, tích cực tuyên truyền, vận
động người dân, du khách thực hiện tốt nếp sống văn hóa, giữ gìn bản sắc dân
tộc và bảo vệ môi trường.
143
TIỂU KẾT CHƢƠNG 4
Với mục tiêu đến năm 2020, tầm nhìn 2030, ĐBSCL phải phấn đấu xây
dựng cho được đội ngũ nhân lực du lịch đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu
ngành nghề và trình độ đào tạo, đảm bảo về chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu phát triển du lịch nhanh và bền vững, thì việc nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực của vùng là tất yếu.
Để nâng cao chất lượng nguồn đào tạo nguồn nhân lực du lịch ĐBSCL
cần quán triệt hai quan điểm chủ đạo như sau: đào tạo nguồn nhân lực ngành
du lịch Đồng bằng sông Cửu Long phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội và chiến lược phát triển du lịch của vùng; đào tạo nguồn nhân lực
ngành du lịch của vùng phải quán triệt quan điểm đồng bộ nhưng có trọng
tâm trọng điểm.
Theo đó, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, với sự tham gia và
trách nhiệm không phải chỉ của các cơ sở đào tạo, mà của toàn xã hội. Đó là
giải pháp nhận thức đúng vị trí, vai trò, trách nhiệm và sự cần thiết nâng cao
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành du lịch
Đồng bằng sông Cửu Long; phát triển số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ
làm công tác đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch trong các trường trung
cấp, cao đẳng, đại học ở ĐBSCL hiện nay; đổi mới nội dung chương trình,
phương pháp, hình thức đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL; tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đào tạo nguồn nhân lực ngành
du lịch đáp ứng nhu cầu thực hành kỹ năng nghề cho người học; phát huy vai
trò tích cực chủ động sáng tạo của chính người lao động trong ngành du lịch ở
ĐBSCL.
144
KẾT LUẬN
1. Trong dự phát triển của ngành du lịch, yêu cầu về đội ngũ nhân lực
có kiến thức, giỏi kỹ năng nghiệp vụ là vấn đề cấp thiết đới với cả nước nói
chung và vùng ĐBSCL nói riêng, đòi hỏi phài nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch.
2. Bao gồm các yếu tố cơ bản như: chủ thể của đào tạo, đối tượng đào
tạo, nội dung chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, phương pháp đào tạo
và môi trường đào tạo, đào tạo nguồn nhân lực du lịch là sự tác động tích cực,
tự giác của chủ thể vào đối tượng đào tạo nhằm trang bị kiến thức nhất định
về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo cho người lao động trong ngành
du lịch, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển ngành và của đất nước trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là một trong những yếu tố đặc biệt
quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch nói riêng và sự phát triển
của ngành du lịch nói chung. Việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở
Việt Nam hiện nay phải hướng vào phục vụ trực tiếp cho nhu cầu phát triển
ngành du lịch của đất nước; đảm bảo số lượng, chất lượng, cân đối về cơ cấu,
ngành nghề và trình độ đào tạo; và phải thống nhất giữa lý thuyết và thực
hành kỹ năng nghề du lịch.
3. Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay vẫn được xem là “vùng trũng”
về đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Nguồn nhân lực ngành du lịch của
vùng vẫn thiếu về số lượng, cơ cấu chưa hợp lý, chất lượng chưa đáp ứng yêu
cầu. Việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng còn nhiều hạn chế
cần nghiên cứu và giải quyết. Đó là: chất lượng đội ngũ làm công tác đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch còn nhiều hạn chế; hạn chế về nội dung,
chương trình, phương pháp trong đào tạo; hạn chế của cơ chế, chính sách
trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng.
145
4. Với mục tiêu đến năm 2020, tầm nhìn 2030, ĐBSCL phải phấn đấu
xây dựng cho được đội ngũ nhân lực du lịch đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu
ngành nghề và trình độ đào tạo, đảm bảo về chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu phát triển du lịch nhanh và bền vững, thì việc nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực của vùng là tất yếu. Để nâng cao chất lượng
nguồn đào tạo nguồn nhân lực du lịch ĐBSCL cần quán triệt hai quan điểm
chủ đạo như sau: đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu
Long phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược phát
triển du lịch của vùng; đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng phải
quán triệt quan điểm đồng bộ nhưng có trọng tâm trọng điểm. Theo đó, cần
phải thực hiện đồng bộ các giải pháp: nhận thức đúng vị trí, vai trò, trách
nhiệm và sự cần thiết nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng
yêu cầu phát triển ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long; phát triển số
lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác đào tạo nguồn nhân lực cho
ngành du lịch trong các trường trung cấp, cao đẳng, đại học ở ĐBSCL hiện
nay; đổi mới nội dung chương trình, phương thức, hình thức đào tạo nguồn
nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật
phục vụ đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch đáp ứng nhu cầu thực hành kỹ
năng nghề cho người học; phát huy vai trò tích cực chủ động sáng tạo của
chính người lao động trong ngành du lịch ở ĐBSCL, với sự tham gia và trách
nhiệm không phải chỉ của các cơ sở đào tạo, mà của toàn xã hội.
146
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Huỳnh Văn Tánh (2016), “Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực du lịch ở
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục & xã hội, (65), tr.60-62.
2. Huỳnh Văn Tánh (2016), “Vài suy nghĩ về nghề giáo và vai trò đào tạo nguồn
nhân lực”, Tạp chí Giáo dục & Xã hội, (Số đặc biệt), tr.14-16.
3. Lương Công Lý, Nguyễn Thị Vân (2017), Tín ngưỡng thờ mẫu ở Nam
Định, (Huỳnh Văn Tánh (Tham gia), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
4. Huỳnh Văn Tánh (2018), “Du lịch tâm linh tại các tỉnh Đồng bằng sông
Cửu Long”, Tạp chí Công tác tôn giáo, (9), tr.25-28, tr.31.
5. Huỳnh Văn Tánh (2018), “Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch vùng
Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”, Tạp chí Giáo dục & xã hội, (Số đặc
biệt), tr.142-145, tr.158
6. Huỳnh Văn Tánh (2019), “Một số giải pháp phát triển bền vững du lịch
Thành phố Cần Thơ”, Bản tin Khoa học - Đào tạo, (05), tr.54-58.
7. Huỳnh Văn Tánh (2019), “Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch vùng
Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”, Tạp chí Thông tin khoa học lý luận
chính trị, (11), tr.108-111.
147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phần 1: Tài liệu tham khảo Tiếng Việt
1. Trần Thị Kim Anh (2018), “Kinh nghiệm phát triển nhân lực du lịch của
một số quốc gia”, Tạp chí Du lịch, (11), Tr.60-62.
2. Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2019), Kết quả
tổng điều tra dân số và nhà ở, Nxb Thống kê, Hà Nội.
3. Ban Khoa giáo Trung ương (2000), Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Người thầy
nhân tố quan trọng trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Nxb Tổng
Hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Ban Tuyên giáo Trung ương (2012), Tài liệu Nghiên cứu Nghị quyết Hội
nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa XI (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Trọng Bảo, Nguyễn Huy Tú (1994), Phát hiện, tuyển chọn và bồi
dưỡng tài năng, Đề tài cấp Nhà nước mã số KX-05-06.
7. Nguyễn Duy Bắc (Chủ nhiệm) (2013), Đặc điểm của con người Việt Nam
với việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay,
Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà
Nội.
8. Lê Thanh Bình (2020), “Đổi mới sáng tạo giáo dục – đào tạo trong bối
cảnh hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp,
(42), Tr.26-30.
9. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2017), Công văn số 4929/BGDĐT-GDĐH về áp
dụng cơ chế đặc thù đào tạo ngành về du lịch, Hà Nội.
148
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Đổi mới quản lý hệ thống giáo dục đại
học giai đoạn 2010 - 2012, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Giáo trình những nguyên lý cơ bản của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Kỷ yếu hội thảo “Đổi mới giáo dục đại
học Việt Nam, hội nhập và thách thức”, Hà Nội.
13. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Kỷ yếu hội thảo “Nâng cao chất lượng
đào tạo toàn quốc lần thứ III”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2003), Kỷ yếu hội thảo “Thực trạng và
giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch đồng bằng sông Cửu
Long”, An Giang.
15. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011), Quy hoạch phát triển nguồn
nhân lực du lịch giai đoạn 2011 – 2020, Hà Nội.
16. Chu Văn Cấp (2012), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần
phát triển bền vững Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (9/839), tr.54-58.
17. Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
18. Nguyễn Đức Chính (2002), Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại
học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề triết học - con người - xã
hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Phan Hữu Dật (1993), Phương sách dùng người của tổ tiên ta, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Vương Huy Diệu (2010), Chiến lược quốc gia nhân tài biến đổi thế giới,
Nxb Nhân dân, Hà Nội.
149
22. Hồ Anh Dũng (2002), Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản
xuất ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Dương Đình Dũng (2020), “Một số giải pháp đẩy mạnh đào tạo kép giữa
cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập”, Tạp chí
khoa học Đại học Đồng Tháp, (42), Tr. 57 - 61.
24. Đại học Kinh tế Quốc dân (2009), Giáo trình kinh tế nguồn nhân lực,
Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
25. Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Dự
án đào tạo nguồn nhân lực tài năng, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
29. Trần Bạch Đằng (2009), “Hướng phát triển nguồn lực cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (25).
30. Lê Thị Hồng Điệp (2010), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để
hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế,
trường ĐH Kinh tế TP.HCM.
31. Nguyễn Văn Đính (2018), “Nâng cao chất lượng nhân lực du lịch Việt
Nam đáp ứng hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN”, Tạp chí Du
lịch, (11), Tr.27-29.
32. Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con
đường dân giàu nước mạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và đào tạo: phát triển nguồn nhân lực
trong thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
150
34. Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực
trong điều kiện mới, (Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà
nước KX07, Đề tài KX07.14), Hà Nội.
35. Trần Văn Giàu (1995), Con người thế kỷ XXI, Nghiên cứu con người,
giáo dục, phát triển và thế kỷ XXI, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế
từ 27-29/7/1994 tại Hà Nội.
36. Lê Thanh Hà (2009), Giáo trình Quản trị nhân lực, NXB Lao động - Xã
hội, Hà Nội.
37. Ngô Trung Hà (2011), “Đẩy mạnh liên kết giữa nhà trường và doanh
nghiệp hướng tới đảm bảo chất lượng đào tạo nguồn nhân lực”, Tạp
chí Giáo dục, (263).
38. Ngô Trung Hà (2017), “Khung năng lực trong đào tạo nhân lực du lịch”,
Tạp chí Khoa học, (Tập 14, số 11), tr. 159 - 166.
39. Trần Thị Hà (2020), “Một số biện pháp nâng cao vai trò người thầy trong
xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh”, Tạp chí khoa học Đại học
Đồng Tháp, (42), Tr. 62 - 66.
40. Phạm Minh Hạc (Chủ nhiệm) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Hà Nội.
41. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn lực đi vào công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Phạm Minh Hạc (2008), Phát triển con người, nguồn nhân lực - quan
niệm và chính sách, Trong sách: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
mới đặt ra trong tình hình hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Lương Đình Hải (Chủ nhiệm) (2003), Ảnh hưởng của tiến bộ khoa học,
kỹ thuật và công nghệ đến việc nghiên cứu và phát triển con người và
nguồn nhân lực những năm đầu thế kỷ XXI, Đề tài khoa học cấp Nhà
151
nước KX-05 Nghiên cứu văn hoá, con người, nguồn nhân lực đầu thế
kỷ XXI”11-2003, Hà Nội.
44. Lương Đình Hải (2009), “Trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực trong
điều kiện kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay”, tạp chí Triết học, số
6 (217).
45. Lương Đình Hải (chủ nhiệm) (2016), Đề tài cấp Bộ Phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay: yêu cầu và giải pháp, Viện
Nghiên cứu Con người, Viện hàn lâm KHXH Việt Nam Hà Nội.
46. Hoàng Ngọc Hiển (2018), “Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trước cách mạng công nghiệp 4.0”, Tạp chí Du lịch, (6), Tr.40-43.
47. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) (2012), Thỏa thuận thừa
nhận lẫn nhau trong ASEAN (Sách hướng dẫn).
48. Hiệp hội đào tạo du lịch Việt Nam, Sở Du lịch thành phố Hồ Chí Minh:
Hội thảo khoa học Phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam chất
lượng cao đáp ứng nhu cầu xã hội trong thời kỳ hội nhập ASEAN,
2016.
49. Nguyễn Đình Hòa (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực
và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (1).
50. Phạm Văn Khanh (2020), “Quản trị trường học trên tinh thần đổi mới và
hiện đại hóa giáo dục”, Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp, (42),
Tr. 39-43.
51. Nguyễn Quốc Khánh, Lương Nguyễn Duy Thông (2020), “Một số định
hướng nâng cao hiệu quả liên kết đào tạo giữa trường đại học với doanh
nghiệp, Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp, (42), Tr. 49 - 56.
52. Dương Đăng Khoa (2015), “Đào tạo nhân lực ở Đồng bằng sông Cửu
Long: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Phát triển và hội nhập, (21),
Tr. 78-81.
152
53. Lê Thị Ái Lâm (2002), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và
đào tạo ở một số nước Đông Á, kinh nghiệm đối với Việt Nam, Luận
án Tiến sĩ Kinh tế, Viện Kinh tế Thế giới, Hà Nội.
54. Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và
đào tạo - kinh nghiệm Đông Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
55. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
56. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
57. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 24, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 38, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Phạm Văn Linh (2012), "Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt
Nam trước yêu cầu phát triển mới của đất nước", Tạp chí Thông tin
Lý luận chính trị, (49/122).
62. Nguyễn Hữu Long (2010), Giáo trình Phát triển nguồn nhân lực, Nxb
Đại học Sư phạm.
63. Trần Văn Long (2017), “Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy nghề”, Tạp chí
Du lịch, (11), Tr.38-39.
64. Nguyễn Văn Lưu (2014), Phát triển nguồn nhân lực yếu tố quyết định sự
phát triển của ngành du lịch Việt Nam, NXB Thông tấn.
65. Nguyễn Văn Lưu (2007), “Để người thầy phát huy được vai trò quyết
định chất lượng đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch”, Tạp chí
Du lịch Việt Nam, (11).
66. Lương Công Lý (2014), Giáo dục- đào tạo với việc phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
153
67. Lương Công Lý và các cộng sự (2016), Phát huy vai trò của giáo dục –
đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
68. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
69. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
70. Trương Hiếu Mai (2005), Nghiên cứu phát triển và sử dụng nhân lực
nông nghiệp Trung Quốc, Nxb Nông nghiệp Trung Quốc.
71. Nguyễn Văn Mạnh (2007), “Đào tạo nguồn nhân lực bậc đại học cho
ngành Du lịch”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (11), tr. 25-27.
72. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Nguyễn Văn Nam, Nguyễn Văn Áng (2007), Các giải pháp cơ bản gắn
đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
78. Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (chủ biên) (2004), Quản lý nguồn
nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
79. Lê Đại Nghĩa (2011), “Đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực”, Báo Quân đội nhân dân, (số ra ngày
17/5/2011), tr.1.
80. Phạm Trọng Lê Nghĩa (2011), “Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất
lượng cao thời hội nhập”, Tạp chí Văn hóa đương đại, (328), tr.25-28.
154
81. Nhiều tác giả (2011), Phát triển nguồn lực giáo dục đại học Việt Nam
(2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
82. Bùi Văn Nhơn (2006), Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
83. Lê Du Phong (Chủ biên) (2006), Nguồn lực và động lực phát triển trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
84. Trần Hoàng Phong (2020), “Quản lý hoạt động của các bộ môn thuộc
Khoa Văn hóa – Du lịch Trường Đại học Đồng Tháp hiện nay, thực
trạng và giải pháp”, Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp, (4), Tr. 3-
12.
85. Nguyễn Ngọc Phú (Chủ biên) (2006), Tiến tới một xã hội học tập, Nxb
Đại học quốc gia, Hà Nội.
86. Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng, (Chủ biên) (2012), Phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Trần Hồng Quân (1996), Kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo giai
đoạn 1996-2000 và định hướng đến 2020 phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
88. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật Du
lịch, Hà Nội.
89. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật Cán bộ,
công chức, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
90. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Luật Giáo
dục, Nxb Lao động, Hà Nội.
91. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật Giáo
dục Đại học Việt Nam, Hà Nội.
155
92. Hồ Sỹ Quý (2007), Con người và phát triển con người, Giáo trình dùng
cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành triết
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
93. Đường Vĩnh Sường (2012), “Giáo dục, đào tạo với phát triển nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Cộng
sản, (833), tr.36-39.
94. Tạ Ngọc Tấn (2012), Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, nhân
tài, Một số kinh nghiệm của thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Trịnh Ngọc Thạch (2008), Hoàn thiện mô hình quản lý đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao trong các trường đại học Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Quản lý giáo dục, Hà Nội.
96. Nguyễn Thanh (2001), Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục
- đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết
học, Viện Triết học, Hà Nội.
97. Nguyễn Văn Thạo - Nguyễn Viết Thông (2011), Tìm hiểu một số thuật ngữ
trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Hồ Bá Thâm (2020), “Đổi mới sáng tạo – triết lý của nền giáo dục Việt
Nam trên con đường thay đổi, phát triển, vượt qua thách thức của
cách mạng công nghiệp 4.0”, Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp,
(42), Tr. 16-25.
99. Trần Ngọc Thêm (chủ biên) (2013), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam
Bộ, Nxb Văn hóa – Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
100. Trần Văn Thông (2006), Tổng quan du lịch, Nxb Đại học Quốc gia
TP.HCM.
156
101. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định Phê duyệt Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm vùng Đồng bằng
sông Cửu Long đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Hà Nội.
102. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định Phê duyệt Quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030, Hà Nội.
103. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định Phê duyệt chiến lược phát triển
du lịch Việt Nam đến năm 2030, Hà Nội.
104. Đoàn Xuân Thủy (2013), “Những vấn đề đặt ra đối với việc đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghiên
cứu Đông Bắc Á, Hà Nội.
105. Nguyễn Hữu Tiệp (2010), Giáo trình nguồn nhân lực, Nxb Lao động - xã
hội, Hà Nội.
106. Trung tâm Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực, Viện phát triển giáo
dục (2002), Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát
triển nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
107. Trường Cao đẳng Cần Thơ (2017), Kỷ yếu hội thảo khoa học “Cần Thơ
– Điểm đến du lịch Đồng bằng sông Cửu Long”, Cần Thơ.
108. Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn và Đại học
Lille (2015), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Toàn cầu hóa du
lịch và địa phương hóa du lịch”, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hổ Chí
Minh.
109. Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn và Đại học
Lille (2016), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Các loại hình du
lịch hiện đại”, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hổ Chí Minh.
157
110. Trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu (2018), Kỷ yếu Hội thảo khoa học
“Phát triển du lịch trong cách mạng công nghiệp 4.0”, Nxb Đại học
Quốc gia TP. Hổ Chí Minh.
111. Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn (2015), Kỷ yếu hội thảo
khoa học quốc gia “Phát triển bền vững giáo dục và đào tạo nguồn
nhân lực ở Đồng bằng sông Cửu Long”, TP. Hổ Chí Minh.
112. Trường Đại học Sài Gòn (2009), Kỷ yếu hội thảo khoa học toàn quốc
“Đào tạo nguồn nhân lực ngành văn hóa - du lịch trong xu thế hội
nhập và phát triển”, TP. Hổ Chí Minh.
113. Trường Đại học Văn hóa (2013), Kỷ yếu hội thảo Những nhiệm vụ cấp
bách, quan trọng và các giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII, Hà Nội.
114. Trường Đại học Văn hiến - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2019), Phát
triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, Nxb.
Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh., TP. Hồ Chí Minh.
115. Lê Anh Tuấn (2016), “Bàn về đào tạo du lịch trong hội nhập ASEAN”,
Tạp chí Du lịch Việt Nam, (3), Hà Nội..
116. Trấn Văn Tùng và Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực - kinh
nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm (1998), Phát triển nguồn nhân lực - kinh
nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Hà Nội.
118. Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực
tài năng, Nxb Thế giới, Hà Nội.
119. Nguyễn Thị Hồng Vân (2005), “Giáo dục với phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Phát triển giáo
dục, (4), Hà Nội.
158
120. Nguyễn Đình Vĩ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào
tạo nhân tài, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
121. Viện Nghiên cứu Phát triển giáo dục (2002), Chiến lược phát triển giáo
dục trong thế kỷ XXI - kinh nghiệm của các quốc gia, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
122. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2004), Quản lý nguồn
nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
123. Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
124. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội.
Phần 2: Tài liệu tham khảo tiếng Anh
1. Dennis Nickson, (2007), Human resource management for the hospitality
and tourism industries, Elsevier Linacre House, Jordan Hill, Oxford, USA
2. Hatch N.W, Dyer J.H (2004) “Human capital and learning as a source
of sustainable competitive advantage”, Strategic Management Journal
25 (2004), pp. 1155–1178.
3. Juliana Kheng Mei Soh Ms (2008), “Human resource development in the
Tourism sector in Asia”, Perspectives in Asian Leisure and Tourism,
(Vol.1, Issue 1, Article 7).
4. Marija Džopalić1, Jovan Zubović, Ivana Domazet, (2009), Human resource
management – Developing force of tourist industry.
5. WB (2013), Human Capital Report.
6. Ulrich D (1997), Human Resource Champions, Harvard Business
School Press.
159
Phụ lục 1
DANH SÁCH CÁC TRƢỜNG TRUNG CẤP, CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC
ĐÀO TẠO NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG NĂM 2020
Địa chỉ
Ngành đào tạo
ST T
Địa phƣơng
Cơ sở đào tạo
Năm thành lập
Cơ quan chủ quản
1999
Trường ĐH An Giang
ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Việt Nam học (Văn hóa du lịch) Gồm 2 chuyên ngành: Hướng dẫn viên du lịch và Quản lý Nhà hàng – Khách sạn
2007
UBND tỉnh An Giang
1
Trường CĐ nghề An Giang
An Giang
-Quản trị nhà hàng -Trung cấp Nghiệp vụ nhà hàng -Trung cấp Quản trị khách sạn
2009
Trường TC nghề Châu Đốc
Sở LĐTB XH An Giang
Nghiệp vụ nhà hàng
2006
Văn hóa du lịch
Trường ĐH Bạc Liêu
UBND tỉnh Bạc Liêu
2 Bạc Liêu
2014
UBND tỉnh Bạc Liêu
Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật tỉnh Bạc
18 Ung Văn Khiêm, P. Đông Xuyên, TP.Long Xuyên, An Giang 841 Trần Hưng Đạo, P.Bình Khánh, TP.Long Xuyên, An Giang Đường kênh Hòa Bình, khóm Châu Long 8, P. Châu Phú B, TP.Châu Đốc, An Giang 178 Võ Thị Sáu, P.8, TP.Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu 22 Cách mạng và số 10 Tôn Đức Thắng, khóm 10, phường
- Hướng dẫn du lịch - Quản lý và kinh doanh nhà hàng và dịch vụ ăn uống - Nghiệp vụ nhà hàng,
Liêu
khách sạn
2004
- Việt Nam học
Trường CĐ Bến Tre
UBND tỉnh Bến Tre
1, TP Bạc Liêu, Bạc Liêu 1H, ấp 1, xã Sơn Đông, Tp.Bến Tre, Bến Tre
3 Bến Tre
2008
- Quản trị khách sạn - Hướng dẫn du lịch
Trường CĐ nghề Đồng Khởi
17A4, Quốc lộ 60, Phường Phú Tân, TP. Bến Tre, Tỉnh Bến Tre
Tổng liên Đoàn Lao động Việt Nam
Du lịch (Việt Nam học)
2013
Trường đại học tư thục
4 Cà Mau
Số 3, Đường số 6, Khu Dự án Đông Bắc, P5, TP. Cà Mau, Cà Mau.
Phân hiệu Trường ĐH Bình Dương tại Cà Mau
2007
UBND tỉnh Cà Mau
Trường CĐ cộng đồng Cà Mau
Trung cấp Hướng dẫn du lich Du lich sinh thái Du lich lữ hành
1975
Bộ GD và ĐT
Trường ĐH Cần Thơ
- Việt Nam học (Chuyên ngành Hướng dẫn viên du lịch) - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành
5 Cần Thơ
2006
- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Việt Nam học - Du lịch (ngành mới)
Trường ĐH Tây Đô
Trường đại học tư thục
2013
Trường ĐH Nam Cần Thơ
Trường đại học tư thục
126 Đường 3/2, P.6, TP.Cà Mau, Cà Mau Khu II, đường 3/2, P.Xuân Khánh, Q.Ninh Kiều, TP.Cần Thơ Số 68 Trần Chiên KV.Thạnh Mỹ, P.Lê Bình, Q.Cái Răng, TP.Cần Thơ 168, Nguyễn Văn Cừ (nối dài), P. An
- Quản trị dịch vụ du lịch & lữ hành - Quản trị khách sạn
160
- Quản trị nhà hàng & dịch vụ ăn uống - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị khách sạn
2018
Trường ĐH FPT Cần Thơ
Trường đại học tư thục
1977
- Việt Nam học - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành
Trường CĐ Cần Thơ
UBND TP.Cần Thơ
Bình, Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ 600, đường Nguyễn Văn Cừ (nối dài), phường An Bình, quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ 413 đường 30/4, P.Hưng Lợi, Q.Ninh Kiều, TP.Cần Thơ
2014
Bộ VHTT &DL
Trường CĐ Du lịch Cần Thơ
Số 47 Đường số 1, Khu Vực 3 Sông Hậu, Cồn Khương, quận Ninh Kiều TP.Cần Thơ
- Cao đẳng: Quản trị lữ hành, Quản trị khách sạn, Quản trị nhà hàng, Hướng dẫn du lịch. - Trung cấp: Kỹ thuật chế biến món ăn, Hướng dẫn du lịch, Nghiệp vụ lễ tân, Nghiệp vụ nhà hàng, Quản lý và kinh doanh khách sạn Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành
2004
UBND TP.Cần Thơ
Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ
2010
Trường CĐ FPT Cần Thơ
Trường cao đẳng tư thục
Số 9, đường Cách mạng Tháng tám, Phường An Hòa, Quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ Số 288, Nguyễn Văn Linh, phường An Khánh, quận Ninh Kiều, Tp. Cần Thơ
6
2008
- Hướng dẫn du lịch - Quản trị nhà hàng - Quản trị khách sạn Việt Nam Học (hướng dẫn du lịch; Quản lý nhà
Đồng Tháp
Trường ĐH
Bộ GD và ĐT
783, Phạm Hữu Lầu,
161
hàng & khách sạn)
Đồng Tháp
Quản trị du lịch & lữ hành
7
2008
Hậu Giang
Trường đại học tư thục
Trường ĐH Võ Trường Toản
P.6, Tp.Cao Lãnh, Đồng Tháp Quốc Lộ 1A, Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, Hậu Giang
2014
Bộ GD và ĐT
Trường ĐH Kiên Giang
Số 320 A - Quốc lộ 61 - TT. Minh Lương, Châu Thành - Kiên Giang
Ngôn ngữ Anh (Ngôn ngữ Anh du lịch) Quản trị kinh doanh (QTKD Khách sạn và QTKD dịch vụ du lịch và lữ hành)
2018
8
Trường CĐ Kiên Giang
Kiên Giang
UBND tỉnh Kiên Giang
- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị khách sạn - Quản trị nhà hàng
425 Mạc Cửu, P. Vĩnh Thanh, TP. Rạch Giá, Kiên Giang
2017
Trường TC Việt – Hàn Phú Quốc
Sở LĐTB XH Kiên Giang
- Hướng dẫn du lịch - Nghiệp vụ lễ tân - Nghiêp vụ nhà hàng - Nghiêp vụ lưu trú - Quản trị khách sạn - Kỹ thuật chế biến món ăn
Ngã 3, Ấp Bãi Vòng, xã Hàm Ninh, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành
9 Long An
2007
Bộ GD và ĐT
938 QL1A, P. Khánh Hậu, TP.Tân An, Long An
Trường ĐH Kinh tế Công nghiệp Long An
- Hướng dẫn du lịch. - Nghiệp vụ Nhà hàng – Khách sạn.
2020
10
Sóc Trăng
Trường trung cấp tư thục
Trường TC Sài Gòn - Phân hiệu Sóc Trăng
Số 256E1, Khu dân cư Hưng Thịnh, Quốc lộ 1A, K1, P. 7, TP. Sóc Trăng, Sóc Trăng.
162
2005
Trường ĐH Tiền Giang
- Du lịch - Cao đẳng Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hảnh
UBND Tỉnh Tiền Giang
Số 119 Ấp Bắc, phường 5, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
11
Tiền Giang
2018
- Kỹ thuật chế biến món ăn - Hướng dẫn du lịch
Trường CĐ Tiền Giang
UBND Tỉnh Tiền Giang
2006
Trường ĐH Trà Vinh
UBND tỉnh Trà Vinh
- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị khách sạn - Quản trị nhà hàng và dịch vụ ăn uống
12 Trà Vinh
- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành
2015
Trường CĐ nghề Trà Vinh
UBND tỉnh Trà Vinh
Số 126 Nguyễn Thiện Thành – Khóm 4, Phường 5, Thành phố Trà Vinh, Tỉnh Trà Vinh Ấp Vĩnh Yên, xã Long Đức, TP. Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh
Du lịch
2013
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
73 Nguyễn Huệ Phường 2 TP. Vĩnh Long, Vĩnh Long.
Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long
- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành
13
2000
Vĩnh Long
Trường ĐH Cửu Long
Trường đại học tư thục
- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành
2004
UBND tỉnh Vĩnh Long
Trường CĐ Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long.
Quốc lộ 1A xã Phú Quới huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long Số 1B Nguyễn Trung Trực, P8, Tp. Vĩnh Long, Tỉnh Vĩnh Long
163
164
(Nguồn: tác giả tổng hợp)
Phụ lục 2 THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG GIẢNG VIÊN ĐÀO TẠO DU LỊCH THEO
ĐỘ TUỔI VÀ GIỚI TÍNH Ở MỘT SỐ CƠ SỞ ĐÀO TẠO ĐBSCL
NĂM HỌC 2019-2020
ĐVT: người
Số lượng Độ tuổi
Trường Nam Nữ
Dưới 30 Từ 30 đến 40 Từ 41 đến 50 Trên 50
4 6 2
8 10 3 1
8 1 10 6 1 2
4 1 4 2 1
8 3 5 4 1 7 1 3 4 1 4 1 2 6
8 10 12 10 3 1
18 20 17 15 3 3
Trƣờng CĐ Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành; Việt Nam học Trƣờng ĐH Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành Việt Nam học (hướng dẫn viên du lịch) Trƣờng CĐ Du lịch Cần Thơ Quản trị lữ hành, Hướng dẫn du lịch Quản trị khách sạn, nhà hàng Kỹ thuật chế biến món ăn Trƣờng CĐ Bến Tre Việt Nam học Trƣờng ĐH Kiên Giang Ngôn ngữ Anh (Ngôn ngữ Anh du lịch) Quản trị kinh doanh (QTKD Khách sạn và QTKD dịch vụ du lịch và lữ hành) Trƣờng ĐH Đồng Tháp
165
4 2 6
1 4 4 1
1 1 1 1 1 1
5 13 2 14 2
6 6
2 6 6 2
1 1 Việt Nam học (chuyên ngành Văn hóa du lịch) Quản lý văn hóa Trƣờng CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Bạc Liêu Hướng dẫn du lịch NV nhà hàng – khách sạn Trƣờng ĐH Bạc Liêu CĐ Văn hóa du lịch ĐH Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam Trƣờng CĐ nghề An Giang Quản trị nhà hàng Trung cấp Nghiệp vụ nhà hàng Trung cấp Quản trị khách sạn Trƣờng ĐH Tiền Giang Du lịch Cao đẳng Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hảnh Trƣờng TC nghề Châu Đốc Nghiệp vụ nhà hàng
(Nguồn: tác giả tổng hợp)
166
Phụ lục 3 THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG GIẢNG VIÊN ĐÀO TẠO DU LỊCH THEO
TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ Ở MỘT SỐ CƠ SỞ
ĐÀO TẠO ĐBSCL NĂM HỌC 2019-2020
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
Trường
Đại học
Thạc sĩ
Tiến sĩ
0
6
7
4
1
8
5
2
4
10
2
2
2
1
8
1
20
1
2
30
6
5
1
4
1
ĐVT: người
1
1
Trƣờng CĐ Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành; Việt Nam học Trƣờng ĐH Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành Việt Nam học (hướng dẫn viên du lịch) Trƣờng CĐ Du lịch Cần Thơ Quản trị lữ hành, Hướng dẫn du lịch Quản trị khách sạn, nhà hàng Kỹ thuật chế biến món ăn Trƣờng CĐ Bến Tre Việt Nam học Trƣờng ĐH Kiên Giang Ngôn ngữ Anh (Ngôn ngữ Anh du lịch) Quản trị kinh doanh (QTKD Khách sạn và QTKD dịch vụ du lịch và lữ hành) Trƣờng ĐH Đồng Tháp Việt Nam học (chuyên ngành Văn hóa du lịch) Quản lý văn hóa Trƣờng CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Bạc Liêu Hướng dẫn du lịch
1
13
3
2
5
1
6
2
167
1
NV nhà hàng – khách sạn Trƣờng ĐH Bạc Liêu CĐ Văn hóa du lịch ĐH Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam Trƣờng CĐ nghề An Giang Quản trị nhà hàng Trung cấp Nghiệp vụ nhà hàng Trung cấp Quản trị khách sạn Trƣờng ĐH Tiền Giang Du lịch Cao đẳng Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hảnh Trƣờng TC nghề Châu Đốc Nghiệp vụ nhà hàng
(Nguồn: tác giả tổng hợp)
168
Phụ lục 4 CÁC CHUYÊN NGÀNH ĐÀO TẠO VỀ DU LỊCH Ở VÙNG ĐBSCL
HIỆN NAY
Ngành đào tạo ST T Cơ sở đào tạo
1 Trường ĐH An Giang
2 Trường CĐ nghề An Giang - Việt Nam học (Văn hóa du lịch) Gồm 2 chuyên ngành: Hướng dẫn viên du lịch và Quản lý Nhà hàng – Khách sạn -Quản trị nhà hàng -Trung cấp Nghiệp vụ nhà hàng -Trung cấp Quản trị khách sạn
3 Trường TC nghề Châu Đốc - Nghiệp vụ nhà hàng
4 Trường ĐH Bạc Liêu
5 Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật tỉnh Bạc Liêu
6 Trường CĐ Bến Tre
7 Trường CĐ nghề Đồng Khởi
- Văn hóa du lịch - Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam - Hướng dẫn du lịch - Quản lý và kinh doanh nhà hàng và dịch vụ ăn uống - Nghiệp vụ nhà hàng, khách sạn - Việt Nam học - Quản trị khách sạn - Hướng dẫn du lịch - Du lịch (Việt Nam học)
8
9
PH Trường ĐH Bình Dương tại Cà Mau Trường CĐ cộng đồng Cà Mau
10 Trường ĐH Cần Thơ - Trung cấp Hướng dẫn du lich - Du lich sinh thái - Du lich lữ hành - Việt Nam học (Chuyên ngành Hướng dẫn viên du lịch)
169
11 Trường ĐH Tây Đô
12 Trường ĐH Nam Cần Thơ
13 Trường ĐH FPT Cần Thơ
14 Trường CĐ Cần Thơ
15 Trường CĐ Du lịch Cần Thơ
- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Việt Nam học - Du lịch (ngành mới) - Quản trị dịch vụ du lịch & lữ hành - Quản trị khách sạn - Quản trị nhà hàng & dịch vụ ăn uống - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị khách sạn - Việt Nam học - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Cao đẳng: Quản trị lữ hành, Quản trị khách sạn, Quản trị nhà hàng, Hướng dẫn du lịch. - Trung cấp: Kỹ thuật chế biến món ăn, Hướng dẫn du lịch, Nghiệp vụ lễ tân, Nghiệp vụ nhà hàng, Quản lý và kinh doanh khách sạn - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành 16 Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ
Trường CĐ FPT Cần Thơ
17
18
- Hướng dẫn du lịch - Quản trị nhà hàng - Quản trị khách sạn - Việt Nam Học (hướng dẫn du lịch; Quản lý nhà hàng & khách sạn) - Quản trị du lịch & lữ hành 19 Trường ĐH Đồng Tháp Trường ĐH Võ Trường Toản
20 Trường ĐH Kiên Giang - Ngôn ngữ Anh (Ngôn ngữ Anh du lịch) - Quản trị kinh doanh (QTKD Khách sạn và QTKD dịch vụ du lịch và lữ hành)
21 Trường CĐ Kiên Giang - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị khách sạn - Quản trị nhà hàng
170
22 Trường TC Việt – Hàn Phú Quốc
- Hướng dẫn du lịch - Nghiệp vụ lễ tân - Nghiêp vụ nhà hàng - Nghiêp vụ lưu trú - Quản trị khách sạn - Kỹ thuật chế biến món ăn - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành 23 Trường ĐH Kinh tế Công nghiệp Long An
- Hướng dẫn du lịch. - Nghiệp vụ Nhà hàng – Khách sạn. 24 Trường TC Sài Gòn - Phân hiệu Sóc Trăng
25 Trường ĐH Tiền Giang
26 Trường CĐ Tiền Giang
27 Trường ĐH Trà Vinh
- Du lịch - Cao đẳng Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hảnh - Kỹ thuật chế biến món ăn - Hướng dẫn du lịch - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị khách sạn - Quản trị nhà hàng và dịch vụ ăn uống - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành 28
- Du lịch 29 Trường CĐ nghề Trà Vinh Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long
- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành 30 Trường ĐH Cửu Long
31 Trường CĐ Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành
Nguồn: Tác giả tổng hợp
171
Phụ lục 5
THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG GIẢNG VIÊN ĐÀO TẠO DU LỊCH THEO
TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ DU LỊCH Ở MỘT SỐ CƠ SỞ
ĐÀO TẠO ĐBSCL NĂM HỌC 2019-2020
ĐVT: người
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ DU LỊCH sơ cấp, trung cấp, cao đẳng Trình độ chuyên môn nghiệp vụ DU LỊCH từ Đại học trở lên Trường
Đào tạo trong nước Đào tạo ở nước ngoài Đào tạo trong nước
5
1
2
9
8
6
4
6
4
12
1
4
1
0
0
0
0
0
0
0
0
Đào tạo ở nước ngoài
Trƣờng CĐ Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành; Việt Nam học Trƣờng ĐH Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành Việt Nam học (hướng dẫn viên du lịch) Trƣờng CĐ Du lịch Cần Thơ Quản trị lữ hành, Hướng dẫn du lịch Quản trị khách sạn, nhà hàng Kỹ thuật chế biến món ăn Trƣờng CĐ Bến Tre Việt Nam học Trƣờng ĐH Kiên Giang Ngôn ngữ Anh (Ngôn ngữ Anh du lịch) Quản trị kinh doanh (QTKD Khách sạn và QTKD dịch vụ
0
2
4
0
0
1
2
0
1
5
6
6
2
1
172
du lịch và lữ hành) Trƣờng ĐH Đồng Tháp Việt Nam học (chuyên ngành Văn hóa du lịch) Quản lý văn hóa Trƣờng CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Bạc Liêu Hướng dẫn du lịch NV nhà hàng – khách sạn Trƣờng ĐH Bạc Liêu Văn hóa du lịch Trƣờng CĐ nghề An Giang Quản trị nhà hàng Trung cấp Nghiệp vụ nhà hàng Trung cấp Quản trị khách sạn Trƣờng ĐH Tiền Giang Du lịch Cao đẳng Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hảnh Trƣờng TC nghề Châu Đốc Nghiệp vụ nhà hàng
(Nguồn: tác giả tổng hợp)
173
Phụ lục 6
THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG HỌC VIÊN, SINH VIÊN DU LỊCH Ở MỘT
SỐ CƠ SỞ ĐÀO TẠO ĐBSCL NĂM HỌC 2019-2020
ĐVT: người
Số lượng tuyển sinh Số lượng tốt nghiệp
Trường
Trung cấp Cao đẳng Đại học Trung cấp Cao đẳng Đại học
115 157
92 152
110 140
119 80
7 16 14 33 76 83 74 161 10
7 65
8 0 0 8
82 194
0 288
Trƣờng CĐ Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành Việt Nam học Trƣờng ĐH Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành Việt Nam học (hướng dẫn viên du lịch) Trƣờng CĐ Du lịch Cần Thơ Quản trị lữ hành, Hướng dẫn du lịch Quản trị nhà hàng Quản trị khách sạn Quản lý và kinh doanh khách sạn Kỹ thuật chế biến món ăn Trƣờng CĐ Bến Tre Việt Nam học Trƣờng ĐH Kiên Giang Ngôn ngữ Anh (Ngôn ngữ Anh du lịch) Quản trị kinh doanh (QTKD Khách sạn và QTKD dịch vụ du lịch và lữ hành) Trƣờng ĐH Đồng Tháp
174
40 Việt Nam học (chuyên ngành Văn hóa du lịch)
30 Quản lý văn hóa 42 (30) (25) 21
0 0 0 0 0 0
13 0
45 27 38 26
40 30
40 10 Trƣờng CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Bạc Liêu Hướng dẫn du lịch NV nhà hàng – khách sạn Trƣờng ĐH Bạc Liêu Văn hóa du lịch Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam Trƣờng CĐ nghề An Giang Quản trị nhà hàng Trung cấp Nghiệp vụ nhà hàng Trung cấp Quản trị khách sạn Trƣờng ĐH Tiền Giang Du lịch Cao đẳng Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hảnh Trƣờng TC nghề Châu Đốc Nghiệp vụ nhà hàng
(Nguồn: tác giả tổng hợp)
175
Phụ lục 7
DỰ BÁO NHU CẦU NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH VÙNG ĐBSCL
NĂM 2020
STT Địa phƣơng
Loại nhân lực
Ngƣời
Nhân lực du lịch trực tiếp 5,100
1 An Giang Nhân lực du lịch gián tiếp 9,200
Tổng cộng 14,300
Nhân lực du lịch trực tiếp 4,600
2 Bạc Liêu Nhân lực du lịch gián tiếp 7,400
Tổng cộng 12,000
Nhân lực du lịch trực tiếp 13,100
Nhân lực du lịch gián tiếp 23,600 3 Bến Tre Tổng cộng
36,700
Nhân lực du lịch trực tiếp 6,700
4 Cà Mau Nhân lực du lịch gián tiếp 10,700
Tổng cộng 17,400
Nhân lực du lịch trực tiếp 10,700
5 Cần Thơ Nhân lực du lịch gián tiếp 19,300
Tổng cộng 30,000
Nhân lực du lịch trực tiếp 4,000
6 Đồng Tháp Nhân lực du lịch gián tiếp 7,200
Tổng cộng 11,200
Nhân lực du lịch trực tiếp 2,200 7 Hậu Giang Nhân lực du lịch gián tiếp 3,500
176
Tổng cộng 5,700
Nhân lực du lịch trực tiếp 8,600
8 Kiên Giang Nhân lực du lịch gián tiếp 17,200
Tổng cộng 25,800
Nhân lực du lịch trực tiếp 2,900
9 Long An Nhân lực du lịch gián tiếp 5,200
Tổng cộng 8,100
Nhân lực du lịch trực tiếp 2,400
10 Sóc Trăng Nhân lực du lịch gián tiếp 3,800
Tổng cộng 6,200
Nhân lực du lịch trực tiếp 13,100
Nhân lực du lịch gián tiếp 23,600 11 Tiền Giang Tổng cộng
36,700
Nhân lực du lịch trực tiếp 2,200
12 Trà Vinh Nhân lực du lịch gián tiếp 3,500
Tổng cộng 5,700
Nhân lực du lịch trực tiếp 6,500
13 Vĩnh Long Nhân lực du lịch gián tiếp 11,700
Tổng cộng 18,200
Nhân lực du lịch trực tiếp 75,400
Nhân lực du lịch gián tiếp 132,500
Vùng ĐBSCL 207,900 Tổng cộng
Nguồn: Viện nghiên cứu Phát triển Du lịch [14, tr. 172-173]
177
Phụ lục 8
THỐNG KÊ LƢỢT KHÁCH DU LỊCH NỘI ĐỊA
CÁC ĐỊA PHƢƠNG ĐBSCL NĂM 2016 – 2020
ĐVT: Lượt khách
STT Địa phƣơng Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
1 TP.Cần Thơ 4,759,530 6,862,050 7,738,309 8,460,042
2 An Giang 6,430,000 7,225,000 8,400,000 9,080,000
3 Kiên Giang 5,327,489 5,710,972 7,040,000 8,067,193
4 Cà Mau 1,046,080 1,215,000 1,412,520 1,663,220
5 Bạc Liêu 1,202,000 1,460,000 1,778,750 2,469,200
6 Hậu Giang 227,084 321,062 403,200 462,460
7 Sóc Trăng 1,359,261 1,470,441 1,905,800 2,310,000
8 Trà Vinh 898,000 636,220 766,800 995,000
9 Vĩnh Long 650,062 1,000,000 1,090,000 1,285,000
10 Tiền Giang 785,000 1,115,366 1,204,951 1,287,924
11 Long An 512,660 1,045,044 1,182,000 1,811,850
12 Bến Tre 1,028,000 741,444 892,857 1,085,839
13 Đồng Tháp 2,594,336 3,220,000 3,510,000 3,805,000
ĐBSCL 26,819,502 32,022,599 37,325,187 42,320,268
Nguồn: số liệu thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long
178
Phụ lục 9
THỐNG KÊ LƢỢT KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ
CÁC ĐỊA PHƢƠNG ĐBSCL NĂM 2016 – 2019
ĐVT: Lượt khách
STT Địa phƣơng Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
1 TP.Cần Thơ 590,287 677,171 742,659 409,023
2 An Giang 70,000 75,000 100,000 120,000
3 Kiên Giang 309,793 368,207 580,000 713,291
4 Cà Mau 23,120 25,000 27,480 29,430
5 Bạc Liêu 38,000 40,000 51,250 73,500
6 Hậu Giang 7,916 10,938 16,800 24,340
7 Sóc Trăng 56,012 59,962 70,200 90,000
8 Trà Vinh 12,000 15,780 21,200 29,900
9 Vĩnh Long 503,013 203,000 210,000 215,000
10 Tiền Giang 215,000 734,634 811,249 850,293
11 Long An 15,340 14,991 18,000 23,250
12 Bến Tre 662,062 550,000 681,271 796,186
13 Đồng Tháp 68,714 80,000 90,000 95,000
ĐBSCL 2,571,257
2,854,683 3,420,109 3,444,873
Nguồn: số liệu thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long
179
Phụ lục 10
THỐNG KÊ DOANH THU DU LỊCH
CÁC ĐỊA PHƢƠNG ĐBSCL NĂM 2016 – 2019
ĐVT: Triệu đồng
STT Địa phƣơng Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
1,826,167 2,897,943 3,785,158 4,435.0 1 TP.Cần Thơ
3,200,000 3,700,000 4,800,000 5,500.0 2 An Giang
3,671,047 4,582,375 6,195,000 8,292.1 3 Kiên Giang
488,000 670,000 2,200,000 2,618.5 4 Cà Mau
1,050,000 1,200,000 1,620,000 2,308.0 5 Bạc Liêu
71,279 121,287 147,840 171.6 6 Hậu Giang
460,336 557,092 736,700 1,020.0 7 Sóc Trăng
410,000 210,134 275,045 359.0 8 Trà Vinh
860,000 312,000 340,000 525.0 9 Vĩnh Long
280,000 786,081 992,001 1,160.0 10 Tiền Giang
156,853 485,000 562,000 782.0 11 Long An
626,956 1,057,000 1,329,000 1,791.0 12 Bến Tre
487,780 650,000 800,000 1,050.0 13 Đồng Tháp
ĐBSCL 13,588,418 30,012.2
17,228,912 23,782,744
Nguồn: số liệu thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long
180
Phụ lục 11
PHIẾU HỎI
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
(Tổ chức: Cơ sở đào tạo
Cá nhân: Cán bộ Phòng Đào tạo)
Chào Anh/Chị!
Hiện nay chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu đề tài “Vấn đề đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”.
Mục đích nghiên cứu là tìm hiểu thực trạng và các giải pháp pháp triển nguồn
nhân lực ngành du lịch của vùng hiện nay.
Để có được những thông tin xác thực, có giá trị, chúng tôi cần sự giúp
đỡ của anh/chị thông qua việc trả lời chính xác và đầy đủ vào phiếu trao đổi ý
kiến này.
Anh/chị không phải ghi tên vào phiếu này và mọi thông tin anh/chị
cung cấp chúng tôi chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu của đề tài.
Câu 1: Ngành (những ngành) đào tạo của Nhà trường có liên quan đến
du lịch là gì?
... ...................................................................................................
... ...................................................................................................
Câu 2: Các hình thức, trình độ đào tạo của ngành du lịch mà Nhà trường
đang thực hiện?
Trên đại học
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
181
Câu 3: Nhà trường có tổ chức các khóa/lớp đào tạo ngắn hạn về ngành
du lịch không?
Có
Không
- Nếu chọn phương án „Có”, xin cho biết mức độ thường xuyên tổ chức
lớp học?...............................................
Câu 4: Nhà trường có liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp về du lịch
trong đào tạo chuyên ngành du lịch không?
Có (Xin trả lời tiếp câu 5)
Không
Câu 5: Các hình thức liên kết với doanh nghiệp?
Gửi SV/HV thực tập Xây dựng đề cương
Hỗ trợ học bổng Hỗ trợ việc làm
Liên kết trong NCKH Mời thỉnh giảng
Khác
Câu 6: Nhà trường có liên kết, hợp tác quốc tế trong đào tạo về du lịch
không?
Có ( Xin trả lời tiếp câu 7)
Không
Câu 7: Tổ chức, cơ quan quốc tế mà Nhà trường đã và đang hợp tác
trong đào tạo về du lịch? Các hình thức hợp tác?
Câu 8: Nguồn cơ sở, tài liệu để Nhà trường xây dựng đề cương, bài
giảng đối với chuyên ngành về du lịch?
Các tiêu chuẩn quốc tế (cụ thể?) Tham khảo từ các trường
Các tiêu chuẩn trong nước (cụ thể?) Ý kiến của các DN
Khung chương trình của Bộ, Ngành Khác
182
Câu 8: Chương trình đào tạo có đảm bảo tính liên thông giữa các trình độ
không?
Có
Không
Câu 9: Chương trình đào tạo có thường xuyên thay đổi không?
Có
Không
Vì sao? .................................................................................................
Câu 10: Tỷ lệ lý thuyết và thực hành cho mỗi môn học?
Câu 11: Số lần sinh viên/học viên dược đi thực tập/ thực tế cho một khóa
học?
Câu 12: Chuẩn đầu ra về ngoại ngữ của sinh viên/học viên?
Câu 13: Ngoại ngữ mà Nhà trường đang đào tạo cho sinh viên/học viên
ngành du lịch?
Câu 14: Nhà trường có quy định về chuẩn đầu ra về kỹ năng mềm
không?
Có
Không
Xin trân trọng cảm ơn quý Thầy/Cô!
183
Phụ lục 12
PHIẾU HỎI
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH VÙNG
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
(Cá nhân: Giảng viên)
Chào Anh/Chị!
Hiện nay chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu đề tài “Vấn đề đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”.
Mục đích nghiên cứu là tìm hiểu thực trạng và các giải pháp pháp triển nguồn
nhân lực ngành du lịch của vùng hiện nay.
Để có được những thông tin xác thực, có giá trị, chúng tôi cần sự giúp
đỡ của anh/chị thông qua việc trả lời chính xác và đầy đủ vào phiếu trao đổi ý
kiến này.
Anh/chị không phải ghi tên vào phiếu này và mọi thông tin anh/chị
cung cấp chúng tôi chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu của đề tài.
Câu 1: Chuyên môn đào tạo của anh/chị?
.........................................................................................................
Câu 2: Chuyên ngành/ Môn học anh/chị đang giảng dạy?
.........................................................................................................
Câu 3: Trình độ ngoại ngữ của anh/chị?
.........................................................................................................
Câu 4: Các phương pháp giảng dạy anh / chị sử dụng chủ yếu:
Thuyết trình Tham quan, thực tế
Thảo luận nhóm Khác
Sử dụng công nghệ thông tin
184
Câu 5: Số lần anh/chị đưa sinh viên/học viên đi thực tế trong một năm
học?.......................................................................................
Câu 6: Anh/chị có mối quan hệ với các doanh nghiệp về du lịch để phối hợp
cho sinh viên/ học viên đi thực tập, thực tế không?
Có
Không
Câu 7: Đánh giá của anh/chị về khả năng tự học, tự nghiên cứu của học viên,
sinh viên?
Rất hài lòng Hài lòng
Không hài lòng Rất không hài lòng
Xin trân trọng cảm ơn anh/chị!
185
Phụ lục 13
PHIẾU HỎI
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
(Học viên, sinh viên)
Chào Anh/Chị!
Hiện nay chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu đề tài “Vấn đề đào tạo
nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”.
Mục đích nghiên cứu là tìm hiểu thực trạng và các giải pháp pháp triển nguồn
nhân lực ngành du lịch của vùng hiện nay.
Để có được những thông tin xác thực, có giá trị, chúng tôi cần sự giúp
đỡ của anh/chị thông qua việc trả lời chính xác và đầy đủ vào phiếu trao đổi ý
kiến này.
Anh/chị không phải ghi tên vào phiếu này và mọi thông tin anh/chị
cung cấp chúng tôi chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu của đề tài.
Câu 1:Lý do anh (chị) quyết định lựa chọn ngành du lịch?
Yêu thích du lịch Theo người thân
Lựa chọn theo bạn bè Khác
Câu 2: Mức độ hài lòng của anh/chị về đội ngũ giảng viên của nhà trường.
Rất hài lòng Hài lòng
Không hài lòng Rất không hài lòng
Câu 3:Nội dung đào tạo gắn kết với thực tiễn nghề nghiệp?
Rất hài lòng Hài lòng
Không hài lòng Rất không hài lòng
186
Câu 4: Hình thức, phương thức tổ chức đào tạo đạt chất lượng và hiệu quả cao
trong đào tạo?
Rất hài lòng Hài lòng
Không hài lòng Rất không hài lòng
Câu 5: Anh/Chị hài lòng về cơ sở vật chất của Nhà trường?
Rất hài lòng Hài lòng
Không hài lòng Rất không hài lòng
Câu 6: Theo Anh/Chị, để làm tốt hơn công tác giảng dạy thì giảng viên cần cải thiện những điều gì? ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ Câu 7: Theo Anh/Chị, để nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo nhà trường cần phải làm gì hoặc cải thiện những điều gì? ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ...........................................................................................................................
Xin trân trọng cảm ơn!
187
Phụ lục 14
CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO NGÀNH VIỆT NAM HỌC, TRƢỜNG ĐH ĐỒNG THÁP
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1149/QĐ-ĐHĐT ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Hiệu trưởng Trường Đại học Đồng Tháp)
Tên chƣơng trình Trình độ đào tạo Ngành đào tạo Hình thức đào tạo Khóa đào tạo : Việt Nam học : Đại học : Việt Nam học : Chính quy : 2018
TT MÃ HP TÊN HỌC PHẦN SỐ TÍN CHỈ
A. Kiến thức giáo dục đại cƣơng I. Học phần bắt buộc 1.1. Ngoại ngữ
1 2 GE4410 Tiếng Anh 1 GE4411 Tiếng Anh 2
1.2. Giáo dục quốc phòng
1 2 GE4149 Đường lối quân sự của Đảng GE4150 Công tác quốc phòng, an ninh 38 34 5 3 2 8 3 2
3 GE4153 3 Quân sự chung và chiến thuật, kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK
1.3. Giáo dục thể chất 1.3.1. Học phần bắt buộc
1
GE4306 Giáo dục thể chất 1 1.3.2. Học phần tự chọn (chọn ít nhất 2 TC)
1 2 3 4 5 GE4321 Bóng đá GE4323 Cầu lông GE4327 Cờ vua GE4322 Bóng chuyền GE4324 Khiêu vũ thể thao 3 1 1 2 2 2 2 2 2
188
6 7 8 GE4326 Võ thuật Karatedo GE4325 Võ thuật Vovinam GE4331 Bơi lội
1.4. Đại cƣơng chung 2 2 2 18
1 GE4038A 2 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin 1
GE4045 Tâm lý học đại cương 2
2 3 GE4038B Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa 3 Mác- Lênin 2
4 5 6 7 8 GE4039 Pháp luật Việt Nam đại cương GE4056 Tư tưởng Hồ Chí Minh GE4040 Phương pháp nghiên cứu khoa học GE4011 Đường lối cách mạng của Đảng CSVN VI4178 Kỹ năng mềm trong Văn hóa du lịch
II. Học phần tự chọn (chọn ít nhất 4TC)
1 2 3 4 5
GE4006 Đại cương dân tộc học GE4030 Mỹ học đại cương GE4049 Tiếng việt thực hành GE4023 Kinh tế học đại cương GE4028 Lôgic học đại cương B. Khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp I. Kiến thức cơ sở nhóm ngành
GE4068 Văn hóa học đại cương VI4134 Tổng quan du lịch GE4004 Cơ sở văn hóa Việt Nam
1 2 3 4 GE4026P Lịch sử văn minh Thế giới CM4291 Lịch sử văn hóa Việt Nam 5 VI4131 Tâm lý khách du lịch 6
2 2 2 3 2 4 2 2 2 2 2 94 14 2 2 3 2 3 2 38 30
II. Kiến thức cơ sở ngành 2.1 Học phần bắt buộc 1 VI4011P Vùng văn hóa và phân vùng văn hóa ở 2 Việt
189
Nam
2 VI4144P Văn hóa dân gian người Việt 3 4 5 6 7 2 3 3 2 2 2
VI4133 Tín ngưỡng và tôn giáo Việt Nam VI4212 Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam VI4012 Làng nghề truyền thống Việt Nam VI4138 Văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long VI4014 Du lịch sinh thái GE4067 Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh văn 8 2
hóa Đông Nam Á
VI4123 Pháp chế du lịch
9 10 VI4214 Tiếng Anh chuyên ngành du lịch 1 11 VI4101 Du lịch quốc tế 12 VI4017 Kinh tế du lịch 13 VI4215 Tiếng Anh chuyên ngành du lịch 2 2.2 Học phần tự chọn (chọn ít nhất 8 tín chỉ)
1 2 3 CM4121 Văn hóa giao tiếp VI4103 Di tích lịch sử và thắng cảnh Việt Nam VI4013 Đặc trưng sinh thái và môi trường Việt 2 3 2 3 2 8 2 2 2
Nam
VI4102 Các loại hình nghệ thuật Việt Nam
4 5 CM4102N Chính sách văn hóa VI4213 Các loại hình du lịch hiện đại 6 EC4281 Khởi nghiệp 7 VI4136 Văn hóa các nước Đông Nam Á 8 VI4402 Văn hóa các dân tộc Việt Nam 9 10 VI4205 Văn hóa nông thôn và đô thị Việt Nam 11 VI4168 Văn hóa làng xã Việt Nam truyền 2 3 2 3 3 2 2 2
thống
12 VI4157 Văn hóa ẩm thực Việt Nam III. Kiến thức chuyên ngành
1 2 VI4152 Tuyến điểm du lịch VI4172 Nghiệp vụ khách sạn 2 34 2 2
190
3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 VI4176 Thực hành nghiệp vụ khách sạn VI4171 Nghiệp vụ nhà hàng VI4290 Hoạt náo trong du lịch VI4173 Thiết kế tour du lịch VI4018 Tổ chức sự kiện và hội nghị VI4294 Xử lý tình huống trên đường tour VI4142 Quản trị kinh doanh lữ hành VI4116 Marketing du lịch VI4128 Nghiệp vụ lễ tân VI4177 Thực hành nghiệp vụ nhà hàng VI4169 Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch 1 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2
VI4170 Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch 2 VI4120 Quản trị nhà hàng khách sạn VI4150 Lễ tân ngoại giao VI4166 Quy hoạch du lịch
14 15 16 17 IV. Thực hành, thực tập nghề nghiệp VI4442 Thực tế chuyên môn 1 VI4498N Thực tập tốt nghiệp 2
Tổng số TCTL 2 2 2 2 8 2 6 132
191
Phụ lục 15
KẾ HOẠCH ĐÀO TẠO TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP CHÍNH QUY
NGÀNH: NGHIỆP VỤ HƢỚNG DẪN
TRƢỜNG CĐ DU LỊCH CẦN THƠ
Học kỳ 1
Số tín chỉ Tiết/ Số tiết tuần Stt Tên môn học
Tổng Tổng LT TH
1 3 2 1 75 Giáo dục Quốc phòng – An ninh
2 2 1 1 30 Chính trị
3 2 1 1 60 Giáo dục thể chất
4 3 2 1 60 Tin học căn bản
5 5 4 1 90 Anh văn căn bản
6 2 2 30 Pháp luật
7 2 2 30 Kỹ năng giao tiếp
8 2 2 30 Tổng quan du lịch
9 2 2 30 Tổng quan cơ sở lưu trú du lịch
2 2 2 10 Tour nhập môn 2 tuần
7 Cộng 435 25 18 31.071
192
Học kỳ 2
Số tín chỉ Tiết/ Số tiết tuần Stt Tên môn học
Tổng Tổng LT TH
1 90 6 6 Anh văn chuyên ngành Hướng dẫn 1
2 30 1 2 1 Chính trị 2
3 60 4 4 Cơ sở văn hóa Việt Nam
4 90 1 5 4 Địa lý và tài nguyên du lịch
5 30 0 Hướng dẫn du lịch theo tour
6 75 4 4 Lịch sử văn hóa VN&TG
7 30 2 2 Marketing du lịch
8 30 2 2 Tâm lý du lịch
9 45 3 3 Tổng quan nghề hướng dẫn
2 tuần 1 1 10 Tour City
32 3 Cộng 480 29
Học kỳ 3
Tiết/ Số tín chỉ Số tiết tuần Stt Tên môn học
Tổng Tổng LT TH
Anh văn chuyên ngành 1 90 1 6 6 Hướng dẫn 2
2 30 1 Chính trị 3
3 30 2 2 Nghiệp vụ Lữ hành
193
4 Nghiệp vụ thanh toán 30 2 2
5 Tổ chức nghiệp vụ lưu trú 30 2 2
6 Tổ chức nghiệp vụ nhà hàng 30 0
7 Tuyến điểm du lịch 105 6 5 1
Xây dựng chương trình du 8 45 3 2 1 lịch
9 Tour thuyết minh tại điểm 3 3
Cộng 390 25 19 30 6
Học kỳ 4
Số ĐVHT Tiết Số tiết /tuần Stt Tên môn học
Tổng Tổng LT TH
1 Hướng dẫn du lịch tại điểm 60 3 2 1
2 Kỹ năng hỗ trọ 30 3 2
3 Thuyết minh du lịch 60 3 2 1
4 Thực tập điểm đến du lịch 3 3
5 2 tuần 8 8 Thực tập tốt nghiệp: Xuyên việt
Cộng 150 20 6 13 27
194
Phụ lục 16
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
NGÀNH DU LỊCH Ở ĐBSCL
Hình: Sinh viên Việt Nam học, Trường CĐ Cần Thơ thực tế du lịch 2 tại Huế
Nguồn: Bộ môn Du lịch, khoa Kinh tế - Quản trị, Trường CĐ Cần Thơ
Hình: Sinh viên Việt Nam học, Trường ĐH An Giang học tập tại Khách sạn
Mường Thanh Luxury Cần Thơ
Nguồn: Bộ môn Du lịch, khoa Du lịch và Văn hóa – Nghệ thuật, Trường ĐH An Giang
195
Hình: Hoạt động giao lưu văn hóa nghệ thuật cổ truyền của Trường ĐH
Chulalongkorn, Thái Lan và Khoa KHXH-NV Trường ĐH Cần Thơ
Nguồn: Khoa KHXH-NV Trường ĐH Cần Thơ
196
197