HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HUỲNH VĂN TÁNH

VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC

NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: CNDVBC & CNDVLS

HÀ NỘI - 2021

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HUỲNH VĂN TÁNH

VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC

NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: CNDVBC & CNDVLS

Mã số: 9229002

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Hồ Trọng Hoài

2. TS. Lê Ngọc Triết

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được

trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Huỳnh Văn Tánh

MỤC LỤC

Trang 1

6

6

24

27

27

38

49

62

62

72

103

112

112

120 144 146 147 159

PHẦN MỞ ĐẦU Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các công trình nghiên cứu về đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long 1.2. Khái lượt các kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề luận án của nghiên cứu sinh tiếp tục giải quyết Chƣơng 2: ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY– MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Quan niệm về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực ngành du lịch ở Việc Nam hiện nay 2.2. Quan niệm và bản chất của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Việt Nam hiện nay 2.3. Yêu cầu và những nhân tố ảnh hưởng đến việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở việt nam hiện nay Chƣơng 3: ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa và nguồn nhân lực ảnh hưởng đến đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long 3.2. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay 3.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay Chƣơng 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY 4.1. Một số quan điểm trong việc nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay 4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1.ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á :

2 CĐ : Cao đẳng

3. ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long :

: Đại học 4. ĐH

: Đơn vị tính 5. ĐVT

6. KHXH : Khoa học xã hội

: Nhà xuất bản 7. Nxb

: Trung cấp 8. TC

: Thành phố 9. TP

: 10. UBND Ủy ban nhân dân

11. UNWTO : Tổ chức Du lịch Thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

63-64 Bảng 3.1 : Diện tích, dân số và mật độ dân số các địa phương

ĐBSCL năm 2019

66 Bảng 3.2 : Thống kê lượt khách du lịch nội địa và quốc tế đến

ĐBSCL năm 2016 – 2019

Bảng 3.3 : Thống kê doanh thu du lịch ĐBSCL năm 2016 – 2020 67

70 Bảng 3.4 : Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo địa

phương năm 2019

71 Bảng 3.5 : Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên được đào tạo chuyên

môn kỹ thuật theo vùng kinh tế - xã hội năm 2019

DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ

Trang

Hình 3.1 : Mức độ hài lòng của người học đối với đội ngũ giảng

dạy tại các cơ sở đào tạo du lịch ở ĐBSCL 74

Hình 3.2 : Cơ cấu lý do học viên, sinh viên lựa chọn ngành du lịch tại các

75 cơ sở đào tạo du lịch ở ĐBSCL

Hình 3.3 : Cơ cấu mức độ hài lòng của giáo viên, giảng viên về khả

năng tự học, tự nghiên cứu của học viên, sinh viên tại các

94 cơ sở đào tạo du lịch ở ĐBSCL

Hình 3.4 : Các hình thức liên kết doanh nghiệp tại các cơ sở đào tạo du

98 lịch ở ĐBSCL

Hình 3.5 : Cơ cấu mức độ hài lòng của học viên, sinh viên về cơ

sở vật chất kỹ thuật ại các cơ sở đào tạo du lịch ở

ĐBSCL 100

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xuất phát điểm của đổi mới là gì, nếu không phải là từ con người, bởi

vì không có sự đổi mới xã hội nào nếu không có sự đổi mới từ con người. Vì

thế trong công cuộc đổi mới hiện nay phải phá bỏ những lực cản trong xã hội

và trong chính bản thân con người và phát huy nguồn lực con người. Ngày

nay xây dựng chủ nghĩa xã hội có thực hiện được hay không điều đó tùy

thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng và ý thức hoạt động tự giác của nhân dân lao

động. Tại Đại hội lần thứ XII, một là nữa Đảng ta khẳng định: “Đẩy mạnh

toàn diện đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững;

phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng

hiện đại” [28, tr. 76]. Ở đây, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu

tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong ba đột phá chiến lược,

Đảng ta nhận định phải phát triển nhanh nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực

chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục

đào tạo quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nhân lực với phát triển và ứng

dụng khoa học công nghệ.

Đối với ngành du lịch là ngành có vị trí quan trọng đóng góp vào ba

trụ cột kinh tế, xã hội, môi trường. Đây là ngành kinh tế mũi nhọn và

ngàycàng phát triển vực bậc cả về chiều rộng và chiều sâu, cũng như ngày

càng được đầu tư trên phương diện hoạt động lí luận và thực tiễn ở các cấp, từ

trung ương đến các vùng miền, địa phương. Ở đây, vấn đề đào tạo nguồn

nhân lực cho du lịch là yêu cầu tiên quyết cho mọi bước hoạt động và tăng

trưởng của ngành.

Dưới sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ngành du lịch

cũng nhanh chóng phát triển và có nhiều chuyển biến. Trong đó yêu cầu về

đội ngũ nhân lực có kiến thức, giỏi kỹ năng nghiệp vụ là vấn đề cấp thiết đối

2

với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Tuy nhiên một số người học ngành

du lịch sau khi ra trường vẫn khó khăn trong quá trình tìm việc do kiến thức

trang bị không đáp ứng yêu cầu của công việc, đòi hỏi phài nâng cao chất

lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch.

Trong bức tranh phát triển du lịch Việt Nam, Đồng bằng sông Cửu

Long còn gọi là Tây Nam Bộ nổi lên như một điểm đến nhiều triển vọng.

Đồng bằng sông Cửu Long có thế mạnh về nông nghiệp, có nhiều tài nguyên

du lịch tự nhiên và nhân văn đặc sắc tiêu biểu là đặc trưng văn hóa Nam Bộ,

hệ sinh thái sông nước miệt vườn. Tuy nhiên, cho đến nay Đồng bằng sông

Cửu Long vẫn còn là “vùng trũng” về giáo dục đào tạo nguồn nhân lực. Các

cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long

còn yếu và thiếu. Điều này là một trong những nguyên nhân chính ảnh hưởng

đến sự phát triển của ngành du lịch toàn vùng. Đến nay, từ các góc độ tiếp cận

khác nhau (triết học, kinh tế, xã hội học, văn hóa…) có sự thu hút sự quan

tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu cũng như những nhà hoạt động thực tiễn

và đã có nhiều công trình nghiên cứu về phát triển du lịch Đồng bằng sông

Cửu Long cũng như phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng. Từ đó,

bức tranh về đặc điểm du lịch cũng như thực trạng nguồn nhân lực du lịch của

vùng cũng đã được phác họa tương đối rõ nét. Tuy nhiên, chưa có công trình

nào nghiên cứu về lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng

sông Cửu Long một cách hệ thống và chuyên sâu dưới góc độ triết học, nhằm

góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch của vùng, phù

hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội Đồng bằng sông Cửu Long nói

riêng và cả nước nói chung. Xuất phát từ tình hình đó, việc thực hiện đề

tài“Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu

Long hiện nay” không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa

thực tiễn, cấp bách.

3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận về nguồn nhân lực ngành du lịch, đào tạo nguồn nhân

lực ngành du lịch, luận án khảo sát, phân tích về thực trạng đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trên cơ sở đó đề

xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch của vùng.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận án giải quyết một số nhiệm vụ sau:

Thứ nhất: Nghiên cứu tổng quan những vấn đề liên quan đến đề tài luận

án. Trên cơ sở đó, kế thừa những giá trị tích cực của các công trình nghiên

cứu trước và chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.

Thứ hai: Hệ thống hóa và luận giải những vấn đề lý luận có liên quan

đến đề tài; Phân tích những khía cạnh có liên quan đến đào tạo nguồn nhân

lực ngành du lịch ở Việt Nam hiện nay như: quan niệm về đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch, bản chất chất của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành

du lịch, những yêu cầu và nhân tố ảnh hưởng đến việc đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch.

Thứ ba: Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.

Thứ tư: Đề xuất một số quan điểm và giải pháp góp phần nâng cao hiệu

quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long ở nước

ta hiện nay.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ngành

du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam hiện nay.

4

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu vấn đề đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch ở các đối tượng chủ yếu là chủ thể đào tạo (người làm

công tác quản lý, giảng viên các trường trung cấp, cao đẳng, đại học có đào tạo

ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long), đối tượng đào tạo (những người đã

tốt nghiệp trung học phổ thông, trúng tuyển vào và đang theo học ngành du lịch

tại các trường trung cấp, cao đẳng, đại học ở Đồng bằng sông Cửu Long), nội

dung, hình thức, phương pháp và môi trường đào tạo trong các trường trung cấp

cao đẳng, đại học có đào tạo ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long. Trong

luận án khái niệm nguồn nhân lực ngành du lịch được tác giả luận án hiểu theo

nghĩa hẹp là nguồn lao động ngành du lịch.

Phạm vi không gian: Nghiên cứu đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

trên địa bàn 13 tỉnh thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Phạm vi thời gian: Tác giả nghiên cứu, điều tra, sử dụng số liệu liên quan

đến đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng từ năm 2015 đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ

Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về con người, vai trò của con người,

nguồn nhân lực, nguồn nhân lực ngành du lịch, đào tạo nguồn nhân lực và đào

tạo nguồn nhân lực ngành du lịch… Ngoài ra, luận án còn kế thừa các thành

tựu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,

duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả có sử dụng các phương pháp như: phân

tích, tổng hợp, so sánh, điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp xử lý số liệu…

Trong đó, phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp là chủ yếu.

5. Những đóng góp mới của luận án

5

Luận án luận giải, bổ sung những vấn đề lý luận để làm rõ quan niệm,

vai trò, những khía cạnh cơ bản, yêu cầu và yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch.

Luận án phân tích và đánh giá thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân

lực ngành du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long từ 2015 đến nay, từ đó làm

rõ những thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch của vùng.

Luận án trình bày quan điểm và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

6.1. Ý nghĩa khoa học

Luận án góp phần hệ thống hóa quan niệm, chủ thể, đối tượng, nội

dung, hình thức, phương pháp, môi trường đào tạo nguồn nhân lực ngành du

lịch; Phân tích, đánh giá thực trạng, đồng thời trình bày những vấn đề đặt ra

của thực trạng đào tạo cũng như đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao

chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu

Long hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo

trong việc hoạch định, thực thi chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực

ngành du lịch ở nước ta hiện nay.

Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên

cứu và hoạt động thực tiễn về đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng

bằng sông Cửu Long, nhất là các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp du lịch.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận án được chia thành 4 chương và 10 tiết.

6

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN

NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực và đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch

1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu nguồn nhân lực và đào tạo nguồn

nhân lực

Nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực là một vấn đề đã được rất

nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu dưới các góc nhìn khác nhau,

từ góc độ kinh tế học, xã hội học đến triết học.

Tác giả Phạm Minh Hạc năm 2001 trong công trình “Nghiên cứu con

người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa” Nxb Chính trị

quốc gia, đã phân tích mối quan hệ giữa giáo dục - đào tạo, sử dụng với phát

triển nguồn nhân lực; từ đó tác giả đề xuất, kiến nghị về chiến lược và chính

sách phát triển toàn diện con người, nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay. Bên cạnh đó, tác giả đã đưa ra khái niệm nguồn nhân lực: Đó là tổng

thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao

động được chuẩn bị (ở một mức độ khác nhau, sẵn sàng tham gia một công

việc nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng, hay khả năng nói chung),

bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển

đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa [41].

Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Nguồn nhân lực (thuộc Viện nghiên

cứu Phát triển Giáo dục năm 2002, đã tập hợp các công trình nghiên cứu và

bài báo khoa học của nhiều tác giả liên quan đến các vấn đề lý luận, thực tiễn

7

về chiến lược, chính sách phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam và trên thế

giới trong quyển “Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển

nguồn nhân lực”. Trong đó, các tác giả đã bàn đến một số vấn đề lý luận

chung về nguồn nhân lực (như khái niệm, vai trò của nguồn nhân lực, mối

quan hệ giữa chính sách đào tạo và chính sách phát triển nguồn nhân lực…).

Đặc biệt, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đã được tác giả bàn luận chuyên sâu,

như: Xã hội hóa đào tạo nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa Đất nước; gắn đào tạo theo địa chỉ… Đồng thời, nghiên cứu này cũng

phân tích về chính sách giáo dục – đào tạo ở các nước ASEAN trong thời kỳ

công nghiệp hóa [121].

Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nhơn trong sách “Quản lý và phát triển

nguồn nhân lực xã hội”, Nxb Tư pháp năm 2004, đã đi sâu phân tích về một

số vấn đề cơ bản như: nguồn nhân lực và đặc điểm nguồn nhân lực Việt Nam;

phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực xã hội; tổ chức tiền lương và

bảo hiểm xã hội; phân bố dân cư và nguồn nhân lực xã hội… Bên cạnh đó, tác

giả cũng đã đưa ra các khái niệm như: nguồn nhân lực xã hội, nguồn nhân lực

doanh nghiệp; đồng thời tác giả cũng phân tích vai trò của nguồn nhân lực

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [82].

Để phân tích thực trạng và đưa ra hệ thống giải pháp nhằm gắn đào tạo

với sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đồng

chủ biên Nguyễn Văn Nam và Nguyễn Văn Áng trong sách “Các giải pháp

cơ bản gắn đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực” (2007) đã phân tích vai trò

quyết định của nguồn nhân lực được đào tạo đối với phát triển kinh tế, với

việc giải quyết các vấn đề xã hội [77].

Giáo trình Quản trị nhân lực (Lê Thanh Hà – Chủ biên) (2009) [36] đã

phân tích một cách hệ thống dưới góc nhìn kinh tế học các giai đoạn, hoạt

động cơ bản của quá trình quản trị nhân lực, trong đó có nội dung đào tạo và

8

phát triển nhân lực. Theo đó, giáo trình đã phân tích các nội dung cơ bản như:

khái niệm, mục đích, nguyên tắc, các hình thức và phương pháp đào tạo, kế

hoạch và tiến trình đào tạo, vấn đề đào tạo cán bộ quản lý…

Trong bài viết “Trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực trong điều kiện

kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay” (2009) [44], tác giả Lương Đình Hải đã

phân tích về vai trò chủ yếu và quyết định của nguồn nhân lực trong thời đại

của kinh tế tri thức, cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa, đặc biệt

là 3 đỉnh của tam giác nhân lực – hay còn gọi là nguồn nhân lực chất lượng

cao - là đội ngũ trí thức, tầng lớp chính khách và doanh nhân. Tác giả cho

rằng: “Nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu trong sự phát triển của các quốc

gia. Nó quyết định quy mô, tốc độ, tính chất và hiệu quả của sự phát triển

kinh tế - xã hội của các quốc gia…” [44, tr.15]. Bài báo cũng đánh giá: “Khi

tình hình đất nước thay đổi, ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam đã không

đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển” [44, tr.16]. Vì vậy, cần có một chiến

lược quốc gia thống nhất về nguồn nhân lực chất lượng cao.

Tác giả Nguyễn Hữu Long (2010) trong giáo trình “Phát triển nguồn

nhân lực” [62] đã trình bày khái quát những vấn đề như: khái niệm, vị trí vai

trò của nguồn nhân lực, các loại hình giáo dục - đào tạo trong phát triển nguồn

nhân lực. Theo đó, nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ những người trong độ

tuổi (và một bộ phận người lao động về hưu nhưng vẫn tiếp tục lao động) của

một nước, một vùng tham gia phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, địa

phương; nguồn nhân lực được nghiên cứu về số lượng, chất lượng, cơ cấu.

Tác giả Đoàn Xuân Thủy trong bài viết “Những vấn đề đặt ra đối với

việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay” (2013)

[104], đã phân tích đặc điểm con người Việt Nam theo phương diện nguồn

nhân lực và những vấn đề đặt ra đối với đào tạo nhân lực chất lượng cao ở

nước ta. Theo tác giả, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào tương đối trẻ; tỷ

9

lệ lao động được đào tạo kỹ thuật, chuyên môn thấp, phần lớn là lao động thủ

công; phân bố lao động đã qua đào tạo chuyên môn rất không đồng đều giữa

các vùng và cơ cấu lao động theo ngành mặc dù đã có bước chuyển dịch tích

cực song vẫn đang ở mức rất lạc hậu so với thế giới, đặc biệt so với các nước

phát triển. Từ đó, tác giả đã đề cập đến những vấn đề đặt ra đối với đào tạo

nhân lực chất lượng cao ở nước ta. Đó là sự mất cân đối rất lớn giữa cung và

cầu lao động chất lượng cao; chất lượng thực tế của nhân lực chất lượng cao

còn thấp và sự phân bố nguồn nhân lực chất lượng cao còn mất cân đối và tập

trung trong khu vực quản lý nhà nước [104].

Tác giả Lương Công Lý và các cộng sự năm 2016 trong nghiên cứu

“Phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực

chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay” [67] đã trình bày những vấn đề lý luận

về nguồn nhân lực chất lượng cao, phân tích vai trò, thực trạng và những vấn

đề đặt ra cũng như đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò

của giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở

Việt Nam hiện nay.

Các công trình trên, dù tiếp cận ở những góc độ hay khía cạnh khác

nhau đều có cách nhìn khác nhau về khái niệm nguồn nhân lực, nhưng điểm

chung đều là sự khẳng định vai trò chủ đạo, quyết định của nguồn nhân lực

đối với sự phát triển, dù là ở quy mô nào. Đồng thời, quá trình phát triển

nguồn nhân lực luôn có sự tác động trực tiếp và quyết định của hoạt động đào

tạo nguồn nhân lực. Đây là những vấn đề lý luận, những tư liệu quý giá giúp

cho nghiên cứu sinh kế thừa về nguồn nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực.

1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nguồn nhân lực

ngành du lịch và đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

Nguồn nhân lực ngành du lịch và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du

lịch là một vấn đề đã và đang được các nhà nghiên cứu trong nước, quốc tế

bàn luận sôi nổi.

10

Tác giả Dennis Nickson trong nghiên cứu “Human resource

management for the hospitality and tourism industries”, Elsevier Linacre

House, Jordan Hill, Oxford, USA năm 2007 [1] cho rằng khi tính quốc tế hóa

trong giáo dục ngày càng cao thì việc quản lý nguồn nhân lực ngành du lịch

của các quốc gia càng gặp nhiều thách thức. Đồng thời, tác giả cũng đã phân

tích những nội dung cơ bản của hoạt động quản lý nguồn nhân lực ngành du

lịch như: xây dựng văn hóa tổ chức, nghiên cứu thị trường lao động, tuyển

dụng, sử dụng, bố trí, đào tạo và phát triển, xây dựng mối quan hệ lao động,

đãi ngộ, chăm sóc sức khỏe...

Đặc biệt, trong nội dung về đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch, tác

giả đã nhấn mạnh vai trò then chốt của hoạt động này trong việc phát triển của

mỗi cá nhân, tổ chức và mỗi quốc gia và phân tích các bước của quá trình đào

tạo nguồn nhân lực ngành du lịch, bao gồm: đánh giá nhu cầu đào tạo, xây

dựng kế hoạch đào tạo, xác định mục tiêu đào tạo, thiết kế chương trình đào

tạo, lựa chọn phương pháp đào tạo, hoàn thiện kế hoạch đào tạo, tiến hành

đào tạo, đánh giá đào tạo, xây dựng kế hoạch đào tạo tiếp theo.

Năm 2009, bài báo “Human resource management - Developing force

of tourist industry” (một phần trong dự án nghiên cứu "The Integration of

Serbian Economy into the EU - Planning and Financing of Regional and

Rural Development and Enterprise Development Policy” [3] của nhóm tác giả

Marija Džopalić1, Jovan Zubović, Ivana Domazet đã nhận định rằng: Thành

công của ngành du lịch phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng yếu tố quan trọng

nhất là nguồn nhân lực. Do vậy, các nhà quản lý cần biết sử dụng những

phương pháp và công cụ khác nhau để phát triển năng lực và thúc đẩy động

lực của người lao động. Đồng thời, các tác giả cũng đã phân tích đặc điểm và

chỉ ra 14 lĩnh vực của ngành du lịch [3, tr.3]. Công trình nghiên cứu này cũng

nhấn mạnh đến yếu tố giáo dục - đào tạo trong hoạt động quản lý nguồn nhân

11

lực, đặc biệt là đào tạo những nhà quản lý du lịch nhằm: Phát triển các kỹ

năng quản lý nguồn nhân lực; biết cách để tạo dựng một đội ngũ lao động

hăng say, nhiệt tình trong công việc… Hơn nữa, xu thế toàn cầu hóa cũng đòi

hỏi người quản lý cần được đào tạo nhiều hơn, đặc biệt là những kỹ năng

tương tác giữa các cá nhân (interpersonal) và giao thoa văn hóa (multi

cultural). Hơn nữa, các nhà quản lý du lịch cũng phải được đào tạo về kiến

thức chuyên ngành ở từng lĩnh vực mà họ phụ trách trong hoạt động du lịch.

Ở trong nước, những nghiên cứu về nguồn nhân lực ngành du lịch và

đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ngày càng phong phú và đi vào chiều

sâu. Đã có nhiều cuộc hội thảo chuyên ngành liên quan được tổ chức và là nơi

công bố các kết quả nghiên cứu, quan điểm của những nhà quản lý và nhà

khoa học.

Huỳnh Quốc Thắng trong bài viết “Tổng quan về đào tạo, xây dựng

nguồn nhân lực du lịch Việt Nam và ở Đồng bằng sông Cửu Long” tại Kỷ yếu

hội thảo “Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch Đồng

bằng sông Cửu Long” (2003) [14] đã có những phân tích khái quát về nguồn

nhân lực du lịch; phương hướng phát triển du lịch và nhu cầu đào tạo, xây

dựng nguồn nhân lực du lịch; giải pháp đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng

nguồn nhân lực du lịch. Đặc biệt, tác giả đã đưa ra khái niệm về hoạt động du

lịch, nhân lực du lịch, chất lượng nguồn nhân lực du lịch, vai trò nhân lực du

lịch. Với khái niệm nguồn nhân lực du lịch, tác giả cho rằng, đó là “lực lượng

lao động trong ngành và trong cộng đồng xã hội tham gia trực tiếp hoặc gián

tiếp vào hoạt động du lịch với một năng lực tay nghề, trình độ nhận thức nhất

định cùng với những phẩm chất tối thiểu về thể lực, trí tuệ, đạo đức… Nguồn

nhân lực ấy bao gồm đội ngũ đang có (hiện thực) và sẽ có (tiềm năng/ dự bị)”

[14, tr.87].

12

Năm 2006 trong nghiên cứu “Tổng quan du lịch” [100] tác giả Trần

Văn Thông đã phân tích về đào tạo nguồn nhân lực du lịch trong chương VIII.

Tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận về đặc điểm lao động du lịch, đào

tạo nhân lực du lịch

Tác giả Nguyễn Văn Mạnh trong bài “Đào tạo nguồn nhân lực bậc đại

học cho ngành Du lịch” (2007) [71] đã đánh giá về thực trạng chương trình

đào tạo cũng như năng lực, kỹ năng của sinh viên ngành quản trị du lịch và

khách sạn bậc đại học ở Việt Nam sau khi tốt nghiệp. Từ đó, tác giả đã đưa ra

một số kiến nghị đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở đào tạo, với các

doanh nghiệp và tổ chức du lịch nhằm nâng cao chất lượng của nguồn nhân

lực chất lương cao nói riêng và hoạt động du lịch của cả nước nói chung

Hoạt động đào tạo nguồn nhân lực của ngành chịu sự tác động của

nhiều yếu tố, trong đó, vai trò của người thầy là đặc biệt quan trọng. Tác giả

Nguyễn Văn Lưu đã có bài viết “Để người thầy phát huy được vai trò quyết

định chất lượng đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch” (2007) [65]. Theo

đó, tác giả đã phân tích những yêu cầu đặt ra và đưa ra một số khuyến nghị

nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo trong lĩnh vực đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch.

Trong bài viết “Đẩy mạnh liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp

hướng tới đảm bảo chất lượng đào tạo nguồn nhân lực”, tạp chí Giáo dục (Số

263, tháng 6 năm 2011), tác giả Ngô Trung Hà cho rằng hiện nay giữa đào tạo

và sử dụng nguồn nhân lực ngành du lịch vẫn có những khoảng cách, mất cân

đối trong cung – cầu đào tạo cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng. Vì vậy, việc

gắn kết chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp du lịch là rất cần

thiết [37].

Tác giả Phạm Trọng Lê Nghĩa trong bài báo “Phát triển nguồn nhân

lực du lịch chất lượng cao thời hội nhập” (2011) [80] đã xác định thế nào là

13

nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành du lịch; đồng thời, theo tác giả, để

mang lại uy tín, vị thế, khả năng tài chính cho doanh nghiệp thì cần không

ngừng đào tạo nhân lực để đảm bảo các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp, kỹ

năng nghề, khả năng sáng tạo, kỹ năng sống, ngoại ngữ...

Năm 2014, trong nghiên cứu “Phát triển nguồn nhân lực yếu tố quyết

định sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam” [64], tác giả Nguyễn Văn Lưu

đã phân tích những vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực và đặc điểm lao

động của nhân lực du lịch; Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch; Hiện

trạng phát triển nguồn nhân lực của ngành du lịch Việt Nam; Phương hướng,

quan điểm và mục tiêu phát triển nhân lực ngành du lịch đến năm 2020, tầm

nhìn 2030; Những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực

ngành du lịch và những dự án ưu tiên trong phát triển nguồn nhân lực du lịch

giai đoạn tới. Đặc biệt, tác giả đã phân nhóm nguồn nhân lực theo ngành

nghề, theo không gian hoạt động và phục vụ, theo dạng thức của mối liên hệ

với khách. Tác giả cũng đã phân tích về vai trò, nhiệm vụ của nguồn nhân lực

ngành du lịch trong sáng tạo văn hóa, trong phát triển lực lượng sản xuất,

trong lãnh đạo và quản lý đất nước. Bên cạnh đó, công trình đã nghiên cứu về

đặc điểm lao động của nhân lực du lịch: chủ yếu là hoạt động dịch vụ, có tính

chuyên môn hóa cao, phụ thuộc vào thời gian và đặc điểm tiêu dùng của du

khách, cường độ làm việc tuy không cao nhưng liên tục và chịu áp lực tâm lý

lớn và môi trường phức tạp…

Trong bài “Khung năng lực trong đào tạo nhân lực du lịch” (2017) [38],

tác giả Ngô Trung Hà đã phân tích về khung năng lực đối với lao động du lịch

Việt Nam theo Tiêu chuẩn nghề Du lịch Việt Nam (VTOS), theo Tiêu chuẩn

chung trong ASEAN về nghề du lịch (ACCSTP) và theo Tiêu chuẩn kĩ năng

nghề quốc gia 2017. Theo đó, tác giả khẳng định: “Khung năng lực được quy

định tại Tiêu chuẩn với danh mục cụ thể các đơn vị năng lực…sẽ giúp các cơ sở

14

đào tạo có cái nhìn rõ nét hơn về việc lựa chọn phương pháp cũng như các mô

đun, môn học thiết thực đưa vào chương trình đào tạo sinh viên, hướng tới các

năng lực mà cơ sở tuyển dụng lao động đang cần...” [38, tr.159].

Năm 2018, trong nghiên cứu “Nâng cao chất lượng nhân lực du lịch

Việt Nam đáp ứng hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN” [31] tác giả Nguyễn

Văn Đính đã đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ngành du lịch Việt Nam và

các điều kiện hội nhập du lịch ASEAN. Tác giả đã đề xuất các giả pháp nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam, góp phần thúc đẩy du lịch

phát triển, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Trong

các đề xuất tập trung vào việc đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực du

lịch với nội dung, hình thức đào tạo phù hợp với từng đối tượng và điều kiện

cụ thể.

Dù tiếp cận dưới góc độ nghiên cứu lý luận hay hoạt động thực tiễn,

các tác giả đều có những quan điểm cá nhân về nguồn nhân lực ngành du lịch,

đặc biệt là khẳng định yêu cầu tất yếu của việc đào tạo cũng như nâng cao

chất lượng đào tạo để phát triển nguồn nhân lực du lịch nói riêng và ngành du

lịch nói chung. Đây là những vấn đề lý luận, những tư liệu quý giá giúp cho

nghiên cứu sinh kế thừa về nguồn nhân lực ngành du lịch và đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch.

1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu về kinh nghiệm đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch của một số quốc gia trên thế giới

Tác giả Juliana Kheng Mei Soh Ms trong bài viết “Human resource

development in the Tourism sector in Asia” (2008) [3] đã đánh giá rằng, sự

phát triển nhanh trong lĩnh vực công nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn

nhân lực du lịch, từ đó đòi hỏi ngày càng cao về nguồn nhân lực có trình độ

cao, có kỹ năng cũng như cần quan tâm đặc biệt đến hoạt động đào tạo. Đồng

thời, tác giả đã phân tích về thực trạng cung – cầu lực lượng lao động ngành

15

du lịch ở một số địa bàn trong khu vực châu Á như Singapore, Macao, Thái

Lan. Bên cạnh đó, bài báo đã đưa ra những vấn đề mà các nước trong khu vực

đang phải đối mặt trong hoạt động phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch,

như: sự dịch chuyển của lao động, lao động thiếu kỹ năng, vấn đề chất lượng

đào tạo…Từ đó, tác giả đã phân tích chiến lược phát triển nguồn nhân lực

ngành du lịch ở cấp khu vực cũng như cấp quốc gia.

Các nhà nghiên cứu trong nước cũng tập trung nghiên cứu kinh nghiệm

cho việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Việt Nam. Nhằm phân tích

những vấn đề liên quan đến đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch từ các nước

Liên minh châu Âu và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, tác giả

Nguyễn Văn Đính và Nguyễn Văn Mạnh đã có bài viết “Kinh nghiệm đào tạo

nhân lực cho du lịch Việt Nam từ các nước liên minh châu Âu” (2000) [31].

Theo đó, các tác giả đã đề cập đến cơ cấu nguồn nhân lực theo trình độ đào

tạo nguồn nhân lực của các nước Liên minh châu Âu. Đồng thời, các tác giả

cũng đã khái quát về các cấp đào tạo, nội dung chương trình, thời gian đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch ở các nước này. Từ đó, các tác giả đã rút ra

những bài học kinh nghiệm cho đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở Việt Nam,

từ cơ cấu đào tạo, các cấp đào tạo, nội dung đào tạo...

Trong cuốn “Phát triển nguồn nhân lực yếu tố quyết định sự phát triển

của ngành du lịch Việt Nam”, NXB Thông tấn (2014) [64], tác giả Nguyễn

Văn Lưu đã phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia châu Á (Thái Lan,

Nhật Bản) và châu Âu ( Cộng hòa Liên bang Đức, Ai – len) trong phát triển

nguồn nhân lực ngành du lịch và bài học vận dụng cho Việt Nam. Theo đó, ở

Thái Lan, tác giả nhấn mạnh đến các chương trình, dự án phát triển nguồn

nhân lực của ngành du lịch với việc hợp tác giữa Chính phủ và tư nhân. Với

kinh nghiệm của Nhật Bản, “việc phát triển nguồn nhân lực được tiến hành từ

dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ đào tạo, dạy nghề du lịch cơ bản đến

16

ứng dụng, thực hiện một cách liên tục và phù hợp với các nhóm người lao

động du lịch”; Phát triển nguồn nhân lực du lịch được thực hiện trong một hệ

thống gồm các hình thức đào tạo: đào tạo công, đào tạo doanh nghiệp và tự

đào tạo.

Năm 2018, tác giả Trần Thị Kim Anh trong nghiên cứu “Kinh nghiệm

phát triển nhân lực du lịch của một số quốc gia” đăng trên tạp chí Du lịch (số

11) đã khẳng định phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch đã và đang là một

vấn đề ưu tiên của nhiều quốc gia bởi chất lượng nguồn nhân lực sẽ quyết

định khả năng cạnh tranh của quốc gia. Thái Lan, Singapore, Nhật Bản là các

nước khá thành công trong việc phát triển du lịch. Qua nghiên cứu các quốc

gia này, tác giả đã rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: một là

tập trung điều chỉnh, tăng cường công tác quản lý nhà nước, hai là cần phải

xác định đào tạo du lịch phải gắn với thực tế, đào tạo nghề là chính, ba là tổ

chức hệ thống đào tạo du lịch phù hợp với yêu cầu hội nhập [1].

Các công trình nghiên cứu trên đã phác họa bức tranh phát triển nguồn

nhân lực ngành du lịch ở các quốc gia khác nhau, cả ở châu Á, châu Âu. Đó là

những kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam, đặc biệt là trong việc xây dựng

mô hình các cấp đào tạo, nội dung đào tạo và sự liên kết trong đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đào tạo nguồn nhân

lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay

1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về thực trạng đào tạo nguồn nhân

lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long

Năm 2009, trong Kỷ yếu hội thảo khoa học toàn quốc “Đào tạo nguồn

nhân lực ngành văn hóa - du lịch trong xu thế hội nhập và phát triển” do

Trường Đại học Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh tổ chức đã tập hợp được nhiều

nghiên cứu về thực trạng đào tạo ngành văn hóa – du lịch tại một số cơ sở đào

17

tạo ở ĐBSCL như: tác giả Huỳnh Thị Kim Tuyến với bài viết “Thực trạng

công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành Việt Nam học và ngành Văn hóa –

Du lịch ở Trường Cao đẳng Bến Tre”, tác giả Trần Trung Đẩu với nghiên cứu

“Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo ngành Việt Nam học ở

Trường Cao đẳng Cần Thơ”. Các tác giả đã phân tích thực trạng đào tạo và

đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo [112].

Kỷ yếu hội thảo “Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực du

lịch Đồng bằng sông Cửu Long” do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn

hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh An Giang và Trường CĐ Văn hóa Nghệ thuật

và Du lịch Sài Gòn phối hợp tổ chức, tháng 4 năm 2013 tập hợp 21 bài tham

luận của đại diện các đơn vị quản lý nhà nước và các nhà khoa học đến từ các

trường, viện nghiên cứu. Trong đó có một số bài tiêu biểu về thực trạng đào

tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL như: bài viết “Chất lượng nguồn

nhân lực du lịch Đồng bằng sông Cửu Long: Thực trạng và giải pháp”, tác

giả Phạm Văn Hưởng đã phân tích thực trạng đặc điểm, chất lượng nguồn

nhân lực ngành du lịch của địa phương. Theo đó, tác giả nhận định: Do ảnh

hưởng của tính mùa vụ du lịch vào những mùa cao điểm các doanh nghiệp

phải thường xuyên sử dụng một lực lượng lao động khá lớn, lực lượng này

thường ít được đào tạo chuyên ngành du lịch hoặc lao động phổ thông đã ảnh

hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động. Tác giả cũng nhấn mạnh, để đáp

ứng mục tiêu đào tạo cho đội ngũ lao động trong lĩnh vực du lịch đảm bảo cả

về số lượng và chất lượng, tính chuyên nghiệp, từ đội ngũ làm công tác quản

lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp, người lao động trực tiếp…, phải được

trang bị một số kiến thức chuyên sâu về du lịch, góp phần nâng cao chất

lượng của sản phẩm du lịch đảm bảo cho sự phát triển bền vững [14].

Cũng trong hội thảo tác giả Nguyễn Kim Trọng đã trình bày nghiên cứu

“Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu

18

Long” để đánh giá về thực trạng nguồn nhân lực du lịch của vùng. Tác giả đã

phân tích về nguyên nhân của tình trạng lao động du lịch còn bán chuyên

nghiệp, chủ yếu được đào tạo ngắn ngày…, chưa đáp ứng nhu cầu và tốc độ

phát triển. Đó chủ yếu là do các cơ sở đào tạo cung ứng lao động cho ngành

du lịch chưa được quan tâm đúng thực tế, nội dung đào tạo chưa đồng đều;

các cơ sở kinh doanh du lịch và cơ sở đào tạo chưa nhận thức đầy đủ về vai

trò và tầm quan trọng của nguồn nhân lực; các trường đại học có đào tạo về

du lịch nhưng có tính hàn lâm, đào tạo về quản lý nhiều hơn kỹ thuật nghiệp

vụ... [14].

Bên cạnh đó, tại hội thảo đã có nhiều tác giả phân tích về thực trạng

nguồn nhân lực ngành du lịch vùng ĐBSCL dưới các góc nhìn, khía cạnh

khác nhau, nhưng điểm chung là các tác giả đều có sự thống nhất trong nhận

định về thực trạng nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng cũng như thực

trạng của hoạt động đào tạo. Các tác giả đều cho rằng “nguồn nhân lực cho du

lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long vẫn đang vừa thừa vừa thiếu” [14, tr.6]: Đó

là tình trạng thừa nhân lực không chuyên và thiếu đội ngũ lành nghề. Đặc

biệt, có những nghiên cứu về thực trạng liên kết giữa nhà trường và doanh

nghiệp trong việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Từ góc nhìn của cơ

sở đào tạo, tác giả Lê Hồ Quốc Khánh trong bài viết “Thực trạng về nguồn

nhân lực và các giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo với các

doanh nghiệp du lịch tại Đồng bằng sông Cửu Long” đã nhận định: Việc đào

tạo, sử dụng nhân lực du lịch đã có sự “thiếu phối hợp đồng bộ” giữa các cơ

sở đào tạo và doanh nghiệp. Dưới góc nhìn của nhà doanh nghiệp, bài viết

“Kết nối cơ sở đào tạo du lịch với doanh nghiệp để đào tạo nguồn nhân lực

theo nhu cầu của xã hội”, tác giả Nguyễn Thị Nga cho rằng, các cơ sở đào tạo

chuyên ngành du lịch cần chú ý đến các kỹ năng đáp ứng nhu cầu của doanh

19

nghiệp du lịch, đặc biệt là phải đạt được những kỹ năng trong “Bộ tiêu chuẩn

kỹ năng nghề du lịch Việt Nam – VTOS” [14].

Tác giả Huỳnh Trường Huy trong bài viết “Phát triển nguồn nhân lực

du lịch Đồng bằng sông Cửu Long: Phân tích mức độ nhận thức và kỹ năng

nghề nghiệp” tại Kỷ yếu Hội thảo “Phát triển nguồn nhân lực ở Đồng bằng

sông Cửu Long”, tháng 11/2015, qua quá trình khảo sát đã cho thấy: hơn 80%

sinh viên các chuyên ngành du lịch thể hiện sự hiểu biết và quan tâm cao đến

ngành du lịch, đặc biệt là du lịch có trách nhiệm. Đối với kết quả đánh giá kỹ

năng nghề nghiệp của nhân viên du lịch thì những kỹ năng giao tiếp ngoại

ngữ, giải quyết vấn đề phát sinh và ý thức về trách nhiệm nghề nghiệp bị đánh

giá thấp bởi du khách [111].

Năm 2017, tác giả Trần Văn Kiệt với bài “Nguồn nhân lực trong phát

triển du lịch thành phố Cần Thơ” trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Cần Thơ –

Điểm đến du lịch Đồng bằng sông Cửu Long” sau khi phân tích về tiềm năng,

lợi thế về du lịch của TP. Cần Thơ và đưa ra những công tác phát triển nguồn

nhân lực ngành du lịch của thành phố, tác giả cũng cho rằng, nguồn nhân lực

ngành du lịch của Cần Thơ đã có bước phát triển đáng kể, từng bước đáp ứng

được yêu cầu của ngành du lịch…, nhưng tình trạng nguồn nhân lực trực tiếp

phục vụ du lịch chưa được đào tạo bài bản, khả năng giao tiếp ngoại ngữ yếu

và thiếu, chưa đủ sức cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa du lịch [107].

Tập trung phân tích về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở TP.

Cần Thơ, tác giả Nguyễn Quang Trung trong bài viết “Nâng cao chất lượng

đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở thành phố Cần Thơ trong bối cảnh thực thi

MRA –TP” tại Hội thảo khoa học “Cần Thơ – Điểm đến du lịch Đồng bằng

sông Cửu Long” đã đánh giá khái quát về sự đa dạng và chất lượng đào tạo

ngày càng cao của các trường đại học, cao đẳng về du lịch trên địa bàn thành

phố. Bên cạnh đó, tác giả cho rằng, đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở TP. Cần

20

Thơ vẫn còn những vấn đề đáng quan tâm về trình độ đào tạo, cơ cấu đào tạo,

nguồn giảng viên, tính liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp… Đặc biệt,

tác giả đã phân tích những tác động của MRA - TP (Thỏa thuận thừa nhận lẫn

nhau về nghề du lịch trong ASEAN) đến đào tạo nguồn nhân lực để từ đó đưa

ra một số ý kiến nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch ở

TP. Cần Thơ trong bối cảnh thực thi MRA-TP [107].

Thực trạng quản lý của các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

ở ĐBSCL cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đơn cử như nghiên cứu

của tác giả Trần Hoàng Phong (2020) “Quản lý hoạt động của các bộ môn

thuộc Khoa Văn hóa – Du lịch Trường Đại học Đồng Tháp hiện nay, thực

trạng và giải pháp” đăng trên Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp [84].

Có thể nói, những công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung này đã

khái quát về đặc điểm du lịch vùng ĐBSCL về thực trạng đào tạo nguồn nhân

lực ngành du lịch nói chung và nguồn nhân lực ngành du lịch của ĐBSCL nói

riêng: từ thực trạng về trình độ đào tạo, quy mô, chương trình và các hoạt động

liên kết, hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng.

1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến phương hướng và

giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng

bằng sông Cửu Long hiện nay

Trên cơ sở đánh giá về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

ở ĐBSCL, nhiều bài viết trong Kỷ yếu hội thảo “Thực trạng và giải pháp

phát triển nguồn nhân lực du lịch Đồng bằng sông Cửu Long” năm 2013 đã

phân tích những định hướng cũng như hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng. Cụ thể như: bài viết

“Một số giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch vùng Đồng

bằng sông Cửu Long đến năm 2020” của tác giả Mai Hà Phương, đã đề ra các

nhóm giải pháp về cơ chế chính sách, về tổ chức quản lý, quy hoạch, đào tạo,

21

sử dụng lao động và nhóm giải pháp về đầu tư. Trong nhóm giải pháp về đào

tạo, tác giả đã nhấn mạnh yêu cầu cần thực hiện các giải pháp cụ thể cho các

lĩnh vực như: loại hình đào tạo (đa dạng hóa loại hình đào tạo, quan tâm đúng

mức đến loại hình đào tạo ngắn hạn, kết hợp linh hoạt đào tạo dài hạn với

ngắn hạn); chương trình đào tạo (chú trọng nhiều hơn việc rèn luyện kỹ năng

nghề, tăng hoạt động thực hành, phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp du lịch,

nội dung chương trình đào tạo phải phù hợp với thực tiễn địa phương…); xây

dựng đội ngũ giảng viên, đào tạo viên (chú trọng nâng cao trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ và ngoại ngữ của các giảng viên, thu hút giảng viên có trình

độ cao, trong doanh nghiệp cần xây dựng đội ngũ đào tạo viên có tay nghề

cao để đào tạo kỹ năng cho đội ngũ lao động của đơn vị) [14].

Bài viết “Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực ngành du lịch Đồng

bằng sông Cửu Long” của tác giả Nguyễn Kim Trọng đã đề xuất 05 giải pháp

như sau: Thứ nhất: Phát triển chương trình đào tạo theo nhu cầu của thị

trường và xã hội; Thứ hai: Phát triển đội ngũ giáo viên theo hướng chuẩn hóa,

hiện đại hóa, xã hội hóa; Thứ ba: Cần đổi mới tư duy và phương pháp giảng

dạy gắn liền với thực tiễn phát triển cũng như đặc trưng riêng của khu vực;

Thứ tư: Tạo điều kiện cho học viên, sinh viên là giáo viên thực tập; Thứ năm:

Cần sự phối hợp giữa nhà trường với các doanh nghiệp để có những phân

tích, đánh giá về chất lượng sản phẩm lao động [14].

Tác giả Huỳnh Quốc Thắng trong bài viết “Tổng quan về đào tạo, xây

dựng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam và ở Đồng bằng sông Cửu Long” đã

khẳng định, đào tạo và đào tạo lại là một trong những giải pháp nhằm trang

bị, nâng cao kiến thức, kỹ năng tác nghiệp cho đội ngũ con người đủ năng

lực, phẩm chất tham gia vào các lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể. Trong đó,

tác giả khẳng định lại mục tiêu về đào tạo nguồn nhân lực du lịch theo “Đề án

phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020” là “Đồng

22

bằng sông Cửu Long cần tập trung đầu tư tăng cường năng lực các cơ sở đào

tạo nguồn nhân lực du lịch…, huy động năng lực dạy nghề, đặc biệt là doanh

nghiệp trong ngành, hình thành mạng lưới đào tạo nhiều cấp độ để tăng nhanh

quy mô đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trực tiếp trong

ngành du lịch; đồng thời chú trọng dạy nghề ngắn hạn nhằm trang bị kiến

thức, kỹ năng căn bản về du lịch cho lao động gián tiếp và người dân trong

vùng có thể tham gia hoạt động du lịch” [14, tr. 93]. Từ đó, tác giả nhấn mạnh

đến các giải pháp, đặc biệt là giải pháp về hệ thống đào tạo và xây dựng phát

triển nguồn nhân lực du lịch; các hình thức, phương thức đào tạo, bồi dưỡng;

hợp tác đào tạo trường và doanh nghiệp; hợp tác đào tạo quốc tế; đào tạo lại

và đào tạo tại chỗ [14].

Tác giả Nguyễn Thị Lý trong bài viết “Thực trạng, nhu cầu và định

hướng đào tạo nguồn nhân lực du lịch Đồng bằng sông Cửu Long” đã nêu ra

các định hướng liên kết đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL như

sau: Khẳng định liên kết đào tạo nguồn nhân lực du lịch là thước đo của sự

thành công; liên kết “4 nhà” là giải pháp cho bài toán nâng cao số lượng, chất

lượng nguồn nhân lực du lịch (nhà nước, nhà dân, nhà trường, nhà doanh

nghiệp kinh doanh du lịch) [14].

Năm 2015, bài viết “Phát triển nguồn nhân lực du lịch Đồng bằng sông

Cửu Long: Phân tích mức độ nhận thức và kỹ năng nghề nghiệp” của tác giả

Huỳnh Trường Huy trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phát triển nguồn nhân

lực ở Đồng bằng sông Cửu Long” đã đánh giá thực trạng nhận thức và kỹ

năng nghề nghiệp của nhân viên du lịch, đã đề xuất những giải pháp liên quan

đến công tác đào tạo, huấn luyện của doanh nghiệp cũng như cơ sở đào tạo

chuyên ngành du lịch; sự rèn luyện của bản thân, ý thức công việc của nhân

viên, và công tác thống kê nguồn nhân lực du lịch của cơ quan quản lý nhà

nước [111].

23

Năm 2017, bài viết của một số tác giả trong Kỷ yếu hội thảo khoa học

“Cần Thơ – Điểm đến du lịch Đồng bằng sông Cửu Long” cũng đã đề xuất

một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du

lịch của vùng. Cụ thể như tác giả Trần Văn Kiệt trong bài viết “Nguồn nhân

lực trong phát triển du lịch thành phố Cần Thơ” đã cho rằng, để xây dựng và

phát triển nguồn nhân lực du lịch TP. Cần Thơ cần có giải pháp quy hoạch hệ

thống cơ sở đào tạo, cơ sở dạy nghề và cơ sở nghiên cứu du lịch phù hợp với

yêu cầu phát triển ngành du lịch của thành phố; chú ý đến các chương trình

đào tạo khác nhau cho lao động gián tiếp và lao động trực tiếp; tuyên truyền,

giáo dục hướng nghiệp trong hệ thống giáo dục phổ thông; quan tâm đến các

điều kiện để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao…[107].

Trong bài viết “Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch

ở thành phố Cần Thơ trong bối cảnh thực thi MRA –TP”, tác giả Nguyễn

Quang Trung đã đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực du lịch ở thành phố Cần Thơ trong bối cảnh thực thi MRA –TP như:

tiếp tục đổi mới phương thức quản lý đào tạo nguồn nhân lực du lịch trên địa

bàn thành phố; nhanh chóng phổ biến trên diện rộng hệ tiêu chuẩn nghề chung

ASEAN đối với nghề du lịch (ACCSTP) và giáo trình du lịch chung ASEAN;

cam kết sự tham gia của các doanh nghiệp vào quá trình đào tạo nhằm thiết

lập khối liên kết bền vững giữa Nhà nước – Nhà trường – Người học – Nhà sử

dụng lao động trong công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch; chú trọng đào

tạo sau đại học ngành du lịch; mở rộng hợp tác, giao lưu quốc tế về đào tạo,

nghiên cứu khoa học du lịch [107].

Tác giả Võ Nguyên Thông (2019) trong bài viết “Thực trạng và giải

pháp đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập ngành du lịch tại

Trường Đại học Đồng Tháp”, trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế “Phát

triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế”

24

sau khi phân tích thực trạng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập

ngành du lịch tại Trường Đại học Đồng Tháp như yêu cầu đối với giảng viên,

hoạt động nghiên cứu khoa học, chương trình đào tạo, bài viết đã đưa ra một

số giải pháp như: Hoàn thiện chương trình đào tạo ngành du lịch, hình thành

môi trường nghiên cứu trong Nhà trường, xây dựng mối quan hệ doanh

nghiệp và hợp tác quốc tế…[114].

Những nghiên cứu trên đã cung cấp hệ thống giải pháp tương đối toàn

diện, dựa trên thực trạng, nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch ở nước ta nói chung và ĐBSCL nói riêng.

1.2. KHÁI LƢỢC CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CỦA

NGHIÊN CỨU SINH TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.2.1. Khái lƣợc các kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

Thông qua quá trình tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến

đề tài luận án, tác giả đánh giá khái quát một số nội dung, từ đó xác định

những định hướng nghiên cứu của bản thân. Cụ thể là:

Thứ nhất: Đánh giá tổng quát các công trình nghiên cứu liên quan đến

nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực; Nguồn nhân lực du lịch và đào tạo

nguồn nhân lực du lịch; Kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực du lịch của một

số nước trên thế giới.

Các công trình nghiên cứu trên, dù tiếp cận ở những góc độ hay khía

cạnh khác nhau, nhưng đã cung cấp một cách đa dạng về các khái niệm cơ

bản, như: nguồn nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực, nguồn nhân lực du lịch,

đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Đồng thời, các tác giả đểu khẳng định vai trò

chủ đạo, quyết định của nguồn nhân lực đối với sự phát triển.

Thứ hai: Đánh giá khái quát các công trình nghiên cứu liên quan đến

thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng ĐBSCL hiện nay.

25

Những công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung này đã cung cấp

tương đối đầy đủ, toàn diện về đặc điểm du lịch vùng ĐBSCL, về thực trạng

đào tạo nguồn nhân lực du lịch nói chung và nguồn nhân lực du lịch của Đồng

bằng sông Cửu Long nói riêng: từ thực trạng về trình độ đào tạo, quy mô,

chương trình và các hoạt động liên kết, hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn

nhân lực du lịch của vùng.

Thứ ba: Đánh giá khái quát những công trình nghiên cứu liên quan đến

phương hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực

du lịch ở ĐBSCL hiện nay.

Dù tiếp cận ở các góc độ và mục đích nghiên cứu khác nhau, những

công trình nghiên cứu trên đã cung cấp hệ thống giải pháp tương đối toàn

diện, được dựa trên thực trạng và những vấn đề đặt ra, nhằm nâng cao hiệu

quả, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở nước ta nói chung và

ĐBSCL nói riêng. Tuy nhiên, có ít tác giả đề cập đến phương hướng, định

hướng phát triển của ngành du lịch, của địa phương và định hướng phát triển

nguồn nhân lực du lịch để làm cơ sở xây dựng hệ thống giải pháp.

1.2.2. Những vấn đề luận án của nghiên cứu sinh tiếp tục giải quyết

Thứ nhất: Các khái niệm liên quan, mặc dù đã được phân tích một cách

đa dạng, sâu sắc, nhưng phù hợp với mục đích nghiên cứu của các tác giả với

phạm vi, đối tượng khác nhau. Vì vậy, từ cơ sở những nghiên cứu của các

công trình đi trước, tác giả sẽ xây dựng các khái niệm công cụ riêng phù hợp

với mục đích và đối tượng, phạm vi nghiên cứu của mình, từ khái niệm về

nguồn nhân lực, nguồn nhân lực du lịch (khái niệm, phân loại, vai trò, đặc

điểm) , đào tạo nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là

làm rõ bản chất của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch.

Thứ hai: Từ việc kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, tác giả sẽ

phân tích một cách toàn diện, sâu sắc thực trạng đào tạo nguồn nhân lực

26

ngành du lịch ở ĐBSCL hiện nay phù hợp với mục đích nghiên cứu của mình

với đối tượng, phạm vi nghiên cứu cụ thể. Đặc biệt, tác giả sẽ phân tích về

những vấn đề đặt ra từ thực trạng đó, như là một cơ sở khoa học cho việc xây

dựng hệ thống giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực

du lịch ở ĐBSCL hiện nay.

Thứ ba: Kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, xuất phát từ mục đích

nghiên cứu, tác giả xây dựng hệ thống giải pháp nhằm góp phần nâng cao

hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL hiện nay, dựa trên

những nghiên cứu về thực trạng, phương hướng, xu hướng và những yêu cầu

phát triển của đất nước, của Ngành, của vùng, kinh nghiệm của các nước trên

thế giới cũng như yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn

nhân lực du lịch nói riêng trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là trong cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0.

27

Chƣơng 2

ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY– MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. QUAN NIỆM VỀ NGUỒN NHÂN LỰC, NGUỒN NHÂN LỰC

NGÀNH DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực

Nhân lực là sức lực ở trong mỗi con người giúp họ hoạt động và thông

qua hoạt động sức lực ngày càng phát triển, con ngưởi có đủ điều kiện tham

gia vào quá trình lao động sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội.

Con ngưởi là yếu tố năng động nhất của quá trình sản xuất, đồng thời

quyết định chất lượng, hiệu quả của quá trình tạo ra sản phẩm hàng hóa, tinh

thần của xã hội.

Sức lao động là tổng thể thể lực và trí lực của con người, là khả năng

lao động của con người. Con người sử dụng sức lao động và công cụ lao động

tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm vật chất, tinh thần đáp

ứng nhu cầu tiêu dùng của bản thân và xã hội.

Và theo từ điển tiếng Việt nguồn là nơi phát sinh, nơi cung cấp. Nhân

lực là sức của con người bao gồm sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức

được vận dụng vào quá trình lao động của mỗi cá nhân (trí lực), những ham

muốn hoài bảo của bản thân người lao động hướng tới một mục đích xác định

(tâm lực). Nhân lực với ý nghĩa đầy đủ của nó bao gồm ba yếu tố có sự liên

hệ chặt chẽ nhau, đó là thể lực, trí lực và tâm lực [123].

Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực với những

cách tiếp cận riêng, từ góc độ triết học, xã hội học hay kinh tế học; từ quy mô

tổ chức, ngành, địa phương, vùng lãnh thổ đến quy mô quốc gia, và với những

28

mục đích nghiên cứu khác nhau. Có thể khái quát có ba cách hiểu về nguồn

nhân lực như sau:

Cách hiểu thứ nhất là cách hiểu với nội hàm rộng lớn hơn cả. Đó là xem

nguồn nhân lực là toàn bộ sức lao động của con người nói chung, là mọi năng

lực, khả năng của con người có thể tham gia lao động trong khoảng thời gian

được xem xét. Nguồn lực con người bao gồm toàn bộ cộng đồng dân cư với

đặc điểm của nó, cả tiềm năng và tài năng, cả thể lực, tâm lực và trí lực, có thể

được huy động vào lao động sản xuất trực tiếp, có thể tại một thời điểm nhất

định chưa thể huy động hết được vào quá trình lao động sản xuất trực tiếp, bao

gồm cả những con người ở ngoài độ tuổi lao động gồm cả bộ phận dân cư có

khả năng lao động, đang được huy động, lẫn bộ phận dân cư chưa được huy

động vào quá trình sản xuất trực tiếp. Cụ thể như: Theo Cơ quan Phát triển của

Liên hợp quốc UNDP, nguồn nhân lực được hiểu là tất cả những kiến thức, kỹ

năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự

phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước. Việc sử dụng hiệu quả nó sẽ tạo

động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế, xã hội. [78, tr.8].

Theo tổ chức Ngân hàng Thế giới, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ

vốn con người, với thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân.

Và đó là một loại nguồn vốn bên cạnh các vốn khác như: vốn tiền tệ, công

nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Tổ chức này cho rằng, so với đầu tư tài chính,

công nghệ…, thì đầu tư cho con người là đầu tư quan trọng nhất, là cơ sở

vững chắc cho sự phát triển bền vững. Trong đầu tư cho con người thì đầu tư

cho giáo dục có vai trò quan trọng nhất [129, tr.3].

Với quan niệm này, nguồn nhân lực đồng nghĩa với khái niệm nguồn

lực con người, là những thuật ngữ chỉ số lượng dân, cơ cấu dân số và chất

lượng con người với tất cả các đặc điểm, tiềm năng và sức mạnh của nó trong

quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

29

Cách hiểu thứ hai, xem nguồn nhân lực là dân số và cơ cấu dân số, là

chất lượng con người, của cộng đồng với toàn bộ các đặc điểm từ truyền

thống đến hiện đại, cả mặt mạnh đến mặt yếu, cả tài năng lẫn tiềm năng, gồm

cả thể lực, tâm lực và trí lực của một bộ phận dân cư trong xã hội (kể cả trong

và ngoài độ tuổi lao động) tham gia vào các hoạt động sản xuất, dịch vụ và

các hoạt động khác của đời sống xã hội ở một giai đoạn xác định, cụ thể.

Với cách hiểu này thì khái niệm nguồn nhân lực đã được thu hẹp ngoại

diên, không còn là toàn bộ mọi người có khả năng lao động, như người cao

tuổi, trẻ em, người tàn tật, người không muốn lao động… Đây là cách tiếp cận

từ góc độ kinh tế học phát triển, nguồn nhân lực được xem là một trong các

nguồn lực trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của một

quốc gia. Đó là toàn bộ những người có khả năng lao động, quyết định trực

tiếp đến phát triển kinh tế.

Cách hiểu thứ ba, nội hàm và ngoại diên của khái niệm còn hẹp hơn

nữa. Nguồn nhân lực là một trong số các nguồn lực giúp cho sự phát triển

kinh tế xã hội, là khả năng lao động của xã hội tham gia vào các hoạt động

kinh tế - xã hội. Đó là chỉ bộ phận dân cư trong độ tuổi lao động, tham gia,

hoạt động trong nền sản xuất xã hội, tức là có lao động, có sử dụng thể lực,

tâm lực và trí lực vào quá trình lao động sản xuất trực tiếp. Nói cách khác, đó

là bộ phận dân cư trong độ tuổi lao động, đang tham gia lao động, chứ không

phải là toàn bộ dân cư có khả năng lao động. Đó là lực lượng dân cư trong độ

tuổi lao động, được huy động vào quá trình lao động, chứ không phải là bộ

phận dân cư có thể được huy động vào quá trình lao động sản xuất, càng

không phải là toàn bộ dân cư, những con người đang sống nói chung trong

một giai đoạn xác định [45, tr.28].

Cụ thể, đó là quan niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) khi tổ

chức này nhận định:

30

Nguồn nhân lực là toàn bộ số người trong độ tuổi có khả năng tham

gia lao động. Hay, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội,

là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm

dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia quá trình lao

động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân có thể tham gia quá

trình lao động [66, tr.25].

Bên cạnh đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Việt Nam cho

rằng, đó là nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, với

cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động [66].

Theo cách hiểu thứ ba này, nguồn nhân lực đồng nghĩa với lực lượng

lao động xã hội đang tham gia lao động, sản xuất, tức với số người lao động,

nhưng không thuần túy về số lượng mà cả về chất lượng của lực lượng lao

động này. Với quan niệm này thì nguồn nhân lực đồng nghĩa với nhân lực

đang lao động. [45, tr.29]

Trên cơ sở những quan niệm nói trên về nguồn nhân lực, xuất phát từ

mục đích nghiên cứu, tác giả đưa ra quan niệm về nguồn nhân lực như sau:

Nguồn nhân lực là dạng đặc biệt của nguồn lực nói chung, là nguồn

lao động bao gồm tổng thể các yếu tố tạo nên sức mạnh của con người; là

tổng thể số lượng, chất lượng với các tiêu chí về thể lực, trí lực, tâm lực và cơ

cấu, tạo nên năng lực để từ đó có thể huy động vào phát triển kinh tế - xã hội.

Quan niệm về nguồn nhân lực trên cần chú ý các khía cạnh sau: Một là,

nguồn nhân lực và các nguồn lực khác tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất

kỹ thuật, khoa học công nghệ…có quan hệ biện chứng nhau trong đó nguồn

nhân lực là chủ thể quyết định, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng

trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Các nguồn lực khác tự nó chỉ tồn tại dưới

dạng khả năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa xã hội tích cực khi

được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt động có ý thức của con

31

người; Hai là, nguồn nhân lực khác về chất so với các nguồn lực khác. Tất cả

các nguồn lực khác đều bị hao mòn, hầu như không có khả năng tái sinh trong

quá trình sử dụng. Nguồn nhân lực xét ở một khía cạnh nào đó nếu khai thác

và sử dụng hợp lý thì càng được sử dụng, càng được tái sinh, bồi dưỡng và

nâng cao thêm về mặt chất lượng.

Do cách tiếp cận khác nhau nên cách hiểu về nguồn nhân lực cũng khác

nhau. Tuy vậy, khi đề cập đến nguồn nhân lực, hầu hết các cách tiếp cận về nguồn

nhân lực đều chú ý đến số lượng, chất lượng và cơ cấu của nguồn nhân lực.

Số lượng nguồn nhân lực: được biểu hiện thông qua các chỉ số về quy

mô, tốc độ tăng của nguồn nhân lực. Trong quan niệm trên, số lượng nguồn

nhân lực được xác định có bao nhiêu người đang làm việc và sẽ có thêm bao

nhiêu người nữa trong tương lai được bổ sung vào đội ngũ nhân lực của một

tổ chức, một lãnh thổ. Đặc trưng này chỉ quy mô của nguồn nhân lực. Sự gia

tăng quy mô nguồn nhân lực của một tổ chức, một quốc gia là sự phát triển về

số lượng của nguồn nhân lực, dựa trên hai nhóm yếu tố: yếu tố bên trong bao

gồm nhu cầu thực tế công việc đòi hỏi phải tăng số lượng nhân lực; và các

yếu tố bên ngoài của tổ chức, của lãnh thổ như sự gia tăng về dân số hay sự

gia tăng lực lượng nhân lực do di cư.

Chất lượng của nguồn nhân lực là yếu tố tổng hợp của nhiều thành tố

cấu thành bên trong như thể lực, trí lực, tâm lực của nguồn nhân lực và mỗi cá

nhân của nguồn nhân lực đó. Trong các thành tố trên thì trí lực và thể lực là

hai yếu tố quan trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.

Chất lượng nguồn nhân lực biểu hiện thông qua các tiêu chí sức khỏe, trình độ

học vấn, trình độ chuyên môn, mức độ lành nghề, phẩm chất chính trị, đạo

đức nghề nghiệp.

Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định, nói lên sức mạnh và

tiềm năng to lớn của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội.

32

Cơ cấu nguồn nhân lực: thể hiện ở tỉ trọng lao động trong từng lĩnh

vực của ngành, ở sự phân bổ nhân lực xét theo trình độ học vấn, trình độ

chuyên môn, kỹ năng và kinh nghiệm làm việc. Bên cạnh đó, cơ cấu còn được

thể hiện trên các phương diện khác nhau như cơ cấu về dân tộc, giới tính, độ

tuổi, lĩnh vực hoạt động…

Khi nói đến nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực, cần phải

chú ý đến cả ba yếu tố trên. Nếu chỉ quan tâm đến chất lượng mà không đủ

quy mô (không đủ số lượng), không có sự hợp lý về cơ cấu thì nguồn nhân

lực với chất lượng cao bao nhiêu cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ

của tổ chức, lãnh thổ.

2.1.2. Quan niệm về nguồn nhân lực ngành du lịch

2.1.2.1. Quan niệm về du lịch

Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên hợp quốc (UNWTO) xác định:

Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành,

tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải

nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như

mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian

liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống

định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm

tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi

trường sống khác hẳn nơi định cư [64, tr.32].

Hội nghị quốc tế về du lịch và lữ hành được tổ chức ở Ottawa, Canada

vào tháng 6 năm 1991 đã thống nhất đưa ra định nghĩa :

Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành,

tạm trú, với mục đích tham quan, khám phá hoặc với mục đích nghỉ

ngơi, giải trí, thư giãn, cũng như mục đích kinh doanh và những

33

mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một

năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư [64, tr.32].

Ở Việt Nam, hệ thống các thuật ngữ, khái niệm cơ bản của ngành du

lịch chỉ mới được chuẩn hóa trong thời gian gần đây. Đặc biệt, từ khi có Luật

Du lịch. Luật Du lịch năm 2017 của Quốc Hội Nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam định nghĩa khái niệm du lịch như sau:

Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người

ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm

liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm

hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp

pháp khác [88].

2.1.2.2. Khái niệm nguồn nhân lực ngành du lịch

Trên cơ sở khái niệm chung về nguồn nhân lực, xuất phát từ mục đích

nghiên cứu, tác giả đưa ra quan niệm về nguồn nhân lực ngành du lịch như sau:

Nguồn nhân lực ngành du lịch Việt Nam là một bộ phận trong cơ cấu

nguồn nhân lực quốc gia, là tổng hòa những khả năng của lực lượng lao động hiện

có trong ngành du lịch và tiềm năng có thể huy động thể hiện qua các yếu tố về số

lượng, chất lượng, cơ cấu với các tiêu chí về thể lực, trí lực và tâm lực của con

người đóng góp quan trọng vào sự phát triển của ngành du lịch.

2.1.2.3. Phân loại nguồn nhân lực ngành du lịch

Nguồn nhân lực du lịch có thể phân nhóm theo nhiều tiêu thức, nổi lên

là cách phân theo ngành, nghề; theo không gian phục vụ và theo dạng thức

phục vụ.

Phân loại nguồn nhân lực ngành du lịch theo ngành, nghề:

Theo cách phân loại của Tổ chức Du lịch thế giới của Liên hợp quốc

(UNWTO) thì nguồn nhân lực du lịch trực tiếp có thể được phân thành 7 nhóm

34

ngành, nghề chủ yếu là: lưu trú, ăn uống, vận chuyển khách, dịch vụ lữ hành, vui

chơi giải trí, quản lý tài chính và các hàng hóa dịch vụ khác (bán lẻ).

Các nước ASEAN, trong “Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong

ASEAN (MRA) về nghề du lịch”, đã đưa ra 6 nhóm nghề trong ngành du lịch:

Nghiệp vụ lễ tân (gồm 5 chức danh: quản lý lễ tân, giám sát lễ tân, nhân viên

lễ tân, trực điện thoại, nhân viên khuôn vác); Nghiệp vụ buồng (gồm 6 chức

danh: điều hành bộ phận buồng, quản lý bộ phận giặt là, giám sát tầng, nhân

viên giặt là, nhân viên phục vụ buồng, nhân viên lau dọn khu vực công cộng);

Kỹ thuật chế biến món ăn (gồm 7 chức danh: bếp trưởng, bếp phó, phụ bếp,

trưởng bộ phận bánh ngọt, trợ lý bếp trưởng bánh ngọt, nhân viên làm bánh,

nhân viên pha chế thịt); Nghiệp vụ nhà hàng (gồm 5 chức danh: giám đốc nhà

hàng, quản lý đồ ăn, trưởng nhóm phục vụ, nhân viên pha chế rượu, bồi bàn);

Đại lý lữ hành (gồm 4 chức danh: tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, nhân

viên tư vấn lữ hành cấp cao, nhân viên tư vấn lữ hành); Nghiệp vụ điều hành

tour (gồm 5 chức danh: quản lý sản phẩm, quản lý bán hàng và marketing,

quản lý tài chính, quản lý bán vé, quản lý tour). Tổng cộng là 32 chức danh.

[64, tr.55].

` Phân loại ngành du lịch nước ta thành 4 phân ngành chủ yếu: lưu trú

và ăn uống, dịch vụ lữ hành, dịch vụ vận chuyển và dịch vụ khác. Trong có

các nghề lao động trực tiếp gồm: quản lý nhà nước về hoạt động du lịch và

quản trị kinh doanh du lịch; giám sát điều hành (trưởng phó phòng, tổ trưởng,

tổ phó, bếp trưởng phụ trách bộ phận trong đơn vị kinh doanh du lịch); nhân

viên phục vụ du lịch (nhân viên lễ tân, nhân viên phục vụ buồng, nhân viên

phục vụ bàn, nhân viên phục vụ quầy bar, nhân viên lữ hành/marketing,

hướng dẫn viên và thuyết minh viên du lịch, nhân viên bếp, người điều khiển

phương tiện vận chuyển khách du lịch và nhân viên khác) [64, tr.56].

35

Phân loại nguồn nhân lực ngành du lịch theo không gian phục vụ:

Theo cách phân nhóm này, nguồn nhân lực du lịch có 3 nhóm chính:

Nhóm 1: Nguồn nhân lực phục vụ tại các đầu mối giao thông (sân bay,

nhà ga, mạng lưới đường xá, cảng, các kho nhiên liệu, các phương tiện máy

móc và sửa chữa…).

Nhóm 2: Nguồn nhân lực du lịch phục vụ tại điểm đến du lịch: tại các doanh

nghiệp phục vụ trực tiếp du khách, tại các doanh nghiệp hỗ trợ du lịch, cộng đồng

dân cư địa phương tại các điểm đến tham gia vào hoạt động du lịch.

Nhóm 3: Nhân lực tổng hợp làm nhiệm vụ quản lý Nhà nước về du lịch

và hoạt động sự nghiệp du lịch. Bao gồm: cơ quan cấp phép, đăng ký kinh

doanh, cơ quan đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội, cơ quan quản lý rừng

quốc gia, bảo tồn thiên nhiên, cơ quan quản lý văn hóa; nguồn nhân lực tham

gia công tác nghiên cứu phát triển du lịch, đào tạo, dạy nghề…[64, tr.57-58].

Phân loại nguồn nhân lực du lịch theo dạng thức của mối liên hệ với khách:

Căn cứ vào mối liên hệ với đối tượng phục vụ là khách du lịch, nguồn

nhân lực du lịch được chia thành 02 nhóm: nguồn nhân lực trực tiếp và nguồn

nhân lực gián tiếp.

Nguồn nhân lực trực tiếp: là lực lượng trực tiếp phục vụ khách du lịch,

như trong các cơ sở lưu trú du lịch, nhà hàng, công ty lữ hành, các đơn vị trực

tiếp cung cấp các dịch vụ du lịch…

Nguồn nhân lực gián tiếp: bao gồm lực lượng cung ứng, hỗ trợ cho các

hoạt động trực tiếp phục vụ khách du lịch, như cung ứng hàng hóa, thực

phẩm…[64,tr. 59]

2.1.2.4. Đặc trưng của nguồn nhân lực ngành du lịch

Đã có nhiều nghiên cứu mang tính lý luận về đặc trưng của nguồn nhân

lực ngành du lịch Việt Nam như tác giả Trần Văn Thông trong sách “Tổng

quan du lịch”, Nguyễn Văn Lưu trong nghiên cứu “Phát triển nguồn nhân lực

36

yếu tố quyết định sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam”…Nhìn chung các

tác giả đều nhìn nhận nguồn nhân lực ngành du lịch Việt Nam có những đặc

trưng sau:

Thứ nhất: Nguồn nhân lực ngành du lịch chủ yếu lao động trong hoạt

động dịch vụ. Lao động du lịch nhằm mục đích tạo ra mọi điều kiện và tiện

nghi thuận lợi cho khách du lịch đi lại, lưu trú, trải nghiệm và các hoạt động

bổ sung khác. Lao động du lịch tạo ra các dịch vụ du lịch là chủ yếu, chiếm

tới 70 - 80% toàn bộ sản phẩm du lịch.

Thứ hai: Nguồn nhân lực ngành du lịch có tính chuyên môn hóa cao

do đặc tính chuyên môn hóa cao của lao động du lịch. Tính chuyên môn hóa

của lao động du lịch là nguyên nhân làm cho một số hoạt động phục vụ du

lịch có tính độc lập tương đối, như hướng dẫn viên du lịch, lễ tân khách sạn,

tổ chức du lịch, điều hành tour, marketing, tuyên truyền quảng cáo…có

nghiệp vụ riêng, khó thay thế. Tính chuyên môn hóa tạo ra sự thuần thục,

khéo léo trong tay nghề. Kỹ năng thuần thục dần trở thành những kỹ xảo

mang tính nghệ thuật, do vậy nâng cao được chất lượng phục vụ, tiết kiệm chi

phí, thời gian, tạo ra năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao.

Thứ ba: Nguồn nhân lực ngành du lịch có thời gian lao động phụ thuộc

vào thời gian và đặc điểm tiêu dùng của khách . Lao động du lịch là quá trình

tạo dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Vì vậy, về mặt lý thuyết, lao

động du lịch phải được diễn ra bất kỳ ngày nào, cả trong ngày lễ, tết, cuối tuần,

vào bất cứ thời gian nào khi có yêu cầu. Theo đó, lao động trong ngành này phải

tổ chức thành ca, kíp để đảm bảo đủ nhân lực ở các bộ phận liên quan với nhau

tham gia các khâu của dây chuyền phục vụ; đồng thời, người lao động có điều

kiện nghỉ ngơi, hồi phục lại sức lao động, được hưởng tất cả các quyền lợi của

luật Lao động và thỏa thuận lao động đã ký kết.

37

Thứ tư: Nguồn nhân lực ngành du lịch làm việc trong môi trường lao

động có cường độ làm việc tuy không cao, nhưng liên tục và chịu áp lực tâm lý

lớn và môi trường phức tạp. Người lao động trong ngành du lịch, đặc biệt là lao

động có quan hệ trực tiếp với khách du lịch như lễ tân, phục vụ buồng, bàn,

hướng dẫn viên du lịch…phải tiếp xúc với nhiều đối tượng khách du lịch và phải

làm hài lòng nhiều vị khách khó tính, được gọi là nghề “làm dâu tram họ”.

Thứ năm: Cơ cấu nguồn nhân lực du lịch rất đa dạng, cả về độ tuổi,

giới tính, trình độ văn hóa và nghiệp vụ.

Cơ cấu theo độ tuổi: Có bộ phận đòi hỏi tuổi thấp hơn (lễ tân, nhân

viên phục vụ bàn, bar…); có bộ phận đòi hỏi ở độ tuổi cao hơn (cán bộ quản

lý…). Trên thực tế, trong hoạt động du lịch, độ tuổi lao động giãn ra, vượt ra

khỏi quy định của pháp luật về tuổi lao động thông thường. Những người

chưa đến tuổi lao động, ngưởi đã nghỉ hưu vẫn có thể tham gia lao động du

lịch. Đây là đặc điểm mang tính đặc trưng của khối dịch vụ nói chung, lĩnh

vực du lịch nói riêng.

Cơ cấu theo giới tính: Lao động du lịch gồm cả lao động nam và nữ,

nhưng lao động nữ chiếm tỷ lệ cao hơn. Cơ cấu về giới tính cũng thay đổi

theo từng bộ phận nghiệp vụ. Một số bộ phận có xu hướng thay đổi cơ cấu

truyền thống.

Cơ cấu theo trình độ học vấn và nghiệp vụ: trình độ học vấn của nhân

lực trong lao động du lịch tương đối thấp và khác nhau theo vị trí công tác:

Nhân lực làm công tác quản lý thường có trình độ học vấn và kiến thức

nghiệp vụ cao; nhân lực làm lao động nghiệp vụ có trình độ học vấn thấp hơn

nhưng trình độ nghiệp vụ phải được đào tạo cơ bản. Nhân lực trong lao động

du lịch có trình độ ngoại ngữ cao, đặc biệt là nhân viên nghiệp vụ khách sạn,

lữ hành, hướng dẫn.

38

Thứ sáu: Nguồn nhân lực ngành du lịch thường có sự biến động cao.

Đặc điểm này mang tính khách quan, chủ yếu do tính thời vụ của hoạt động

du lịch. Nhiều nhân lực được tuyển dụng, bố trí làm việc trong một thời gian

ngắn vào mùa du lịch và thôi việc sau khi mùa du lịch kết thúc [64, tr.75-82].

Nhìn chung, nguồn nhân lực ngành du lịch có những đặc trưng rất riêng

so với các ngành kinh tế khác.

2.2. QUAN NIỆM VÀ THỰC CHẤT CỦA VIỆC ĐÀO TẠO

NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.2.1. Quan niệm về đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

Theo từ điển bách khoa Việt Nam: đào tạo là quá trình tác động đến một

con người, làm cho người đó lĩnh hội và nắm bắt tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một

cách có hệ thống, nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả

năng lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì

phát triển nền văn minh loài người. Về cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập ở

trường gắn với việc giáo dục đạo đức và nhân cách. [46, tr. 312].

Theo từ điển tiếng Việt: đào tạo là quá trình tác động đến một con

người làm cho người đó lĩnh hội và nắm những tri thức kỹ năng, kỹ xảo một

cách có hệ thống, nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và

khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào

việc phát triển kinh tế - xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài

người [123, tr.237].

Theo một cách tiếp cận khác thì đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên

người có hiểu biết, có nghề nghiệp [124, tr.593].

Các quan điểm trên mới chỉ đề cập đến đối tượng đào tạo trong một quá

trình bị động, chưa nói đến chủ thể của quá trình đào tạo với tư cách là một

quá trình, phải là sự tương tác, tác động giữa chủ thể và đối tượng.

39

Cần chú ý đào tạo là quá trình tác động giữa chủ thể và đối tượng đào

tạo. Sự tác động này không phải là một chiều thụ động mà là mối quan hệ

biện chứng, tác động qua lại, thể hiện tính tích cực, tự giác, sáng tạo của cà

chủ thể và đối tượng đào tạo.

Đào tạo còn được hiểu là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ

chức, nhằm hình thành và phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,

thái độ… để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể

vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả. Quá trình này được

tiến hành chủ yếu trong các cơ sở đào tạo như nhà trường, trung tâm, viện

hoặc ở cơ sở sản xuất theo những mục tiêu, nội dung, chương trình hoàn

chỉnh và có hệ thống cho mỗi khóa học với những thời gian quy định và các

trình độ khác nhau. Đào tạo không chỉ là quá trình trang bị kiến thức nhất

định về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo mà còn làm tăng niềm say

mê nghề nghiệp cho người lao động, để họ có thể đảm nhận và hoàn thành tốt

hơn một công việc nhất định [120].

Từ đây, có thể quan niệm đào tạo nguồn nhân lực là quá trình tác động

tự giác của chủ thể vào đối tượng đào tạo nhằm trang bị kiến thức nhất định

về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo cho người học để họ có thể đảm

nhận được công việc theo quy định, tiêu chuẩn, cấp bậc nghề nghiệp cần thiết,

đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.

Phân biệt “giáo dục” với “đào tạo”: “giáo dục” là hoạt động của chù thể

tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần thể chất của đối

tượng nào đó, làm cho đối tượng đó dần dần có những phẩm chất và năng lực

như yêu cầu đề ra. “Đào tạo” chủ yếu là dạy dỗ rèn luyện để trở nên người có

hiểu biết, có nghề nghiệp. Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận một cách

có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy trình của từng cấp học nào đó.

Như vậy khái niệm giáo dục có nghĩa rộng hơn bao gồm cả đào tạo. Đào tạo

40

cũng có nội dung giáo dục nhưng chủ yếu thiên về dạy dỗ, rèn luyện để trở

nên người có chuyên môn nghề nghiệp. Đào tạo chủ yếu không phải trang bi

kiến thức cơ bản mà chỉ là vấn đề hệ thống lại về chức năng, khả năng vận

dụng những kiến thức ấy giải quyết những tình huống cụ thể.

Phân biệt “đào tạo” với “bồi dưỡng”: bồi dưỡng là quá trình tác động

đến con người làm cho cá nhân đó tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất; là quá

trình nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp một cách

thường xuyên; làm tăng cường năng lực nói chung trên cơ sở kiến thức, kỹ

năng đã được đào tạo. Bồi dưỡng có nhiệm vụ cập nhật, trang bị thêm những

kiến thức, kỹ năng, thái độ cho mỗi cá nhân để thực hiện tốt hơn, hiệu quả

hơn nhiệm vụ được giao. Như vậy, đào tạo được xem như là một quá trình

làm cho cá nhân trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định,

còn bồi dưỡng được xác định là quá trình làm cho người ta tăng thêm năng

lực hoặc phẩm chất.

Dựa trên cơ sở những quan niệm trên, xuất phát từ mục đích nghiên

cứu, tác giả thống nhất với quan niệm như sau:

Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch là sự tác động tích cực, tự giác

của chủ thể vào đối tượng đào tạo nhằm trang bị kiến thức nhất định về

chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo cho người lao động trong ngành du

lịch, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển ngành và của đất nước.

Về cơ bản, đào tạo nguồn nhân lực nói chung và đào tạo nguồn nhân

lực ngành du lịch nói riêng là việc giảng dạy và học tập ở các nhà trường gắn

với việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho đối tượng được đào tạo, để hình

thành cho đối tượng đó những phẩm chất, năng lực cần thiết, đáp ứng những

nhu cầu phát triển của ngành du lịch cũng như sự phát triển của xã hội trong

mỗi giai đoạn cụ thể.

41

2.2.2. Thực chất của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

Việt Nam

Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch là quá trình bao gồm nhiều yếu

tố nội tại. Chúng tác động biện chứng lẫn nhau. Tổng hòa đặc trưng của các

yếu tố nội tại chính là biểu hiện thực chất của quá trình này.

Một là chủ thể đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

Khái niệm “chủ thể” lúc đầu (chẳng hạn như ở Aritxtot) có nghĩa là

cái mang những đặc tính, trạng thái, hoạt động, và về mặt này thì là đồng nhất

với khái niệm thực thể. Kể từ thế kỷ XVII, khái niệm “chủ thể” cũng như khái

niệm tương quan với nó là “khách thể” bắt đầu được dùng với ý nghĩa nhận

thức luận.

Ngày nay, nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất về nội dung

của khái niệm “chủ thể”. Theo đó, chủ thể là con người hoạt động với những

cấp độ tồn tại khác nhau, nhận thức và cải tạo thế giới xung quanh cũng như

chính bản thân mình. Chủ thể đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch tạo dựng

tiền đề, định hướng thường xuyên tác động tích cực liên tục, đã chủ quan hóa

cái khách quan trong quá trình nhận thức chuyển hoá ở đối tượng đào tạo,

đảm bảo theo các yêu cầu ngành du lịch đặt ra.

Chủ thể trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch bao gồm các tổ

chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch. Vì vậy, hệ thống chủ thể đó rất đa dạng, nhiều cấp độ.

Tuy nhiên, chúng ta có thể tập trung nghiên cứu những chủ thể cơ bản, trực

tiếp nhất trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực của Ngành, gồm cấp độ cá

nhân và tổ chức. Chủ thể là tổ chức gồm: Các cơ quan quản lý nhà nước về du

lịch ở các cấp khác nhau (Trung ương, địa phương), các doanh nghiệp, tổ

chức kinh doanh du lịch và các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Chủ thể

là cá nhân gồm: đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý đứng đầu các tổ chức, những

42

cá nhân trực tiếp tham gia công tác đào tạo, và những cá nhân người lao động

hoặc là nguồn nhân lực lao đông trực tiếp trong những chuyên ngành du lịch.

Các cấp độ chủ thể trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực du lịch có mối

quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau. Các tổ chức do các cá nhân tạo

thành, cá nhân là đối tượng điều chỉnh của tổ chức. Tuy nhiên, tổ chức không

phải là tập hợp số cộng giản đơn của các cá nhân, mà có những nét đặc trưng

riêng của tổ chức, tạo nên tính tổ chức, kỷ luật, sức mạnh tập thể, sự phối hợp

trong công tác…Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi tập trung đến chủ thể

đào tạo là những giảng viên, giáo viên của các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch – chủ thể của hoạt động dạy.

Hai là đối tượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

Đối tượng của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch là những học

viên, sinh viên, học viên đang học các chuyên ngành du lịch tại các cơ sở đào

tạo - chủ thể của hoạt động học.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Lưu, hiện nay mỗi năm cả nước

tuyển sinh khoảng 22.000 học viên, sinh viên du lịch, trong đó có 3.870 sinh

viên (1.770 sinh viên, cao đẳng chuyên nghiệp và 2.100 sinh viên cao đẳng

nghề du lịch); 18.190 học viên (gồm 14.495 học viên trung học chuyên

nghiệp và 3.695 học viên trung cấp nghề du lịch).

Bên cạnh đó sơ cấp nghề và đào tạo du lịch dưới 3 tháng chưa có số

liệu thống kê đầy đủ, ước khoảng 5.000 học viên. Số lượng học viên, sinh

viên tốt nghiệp hàng năm khoảng 20.000. Đào tạo, dạy nghề sơ cấp và đào tạo

dạy nghề ngắn hạn có xu hướng tăng [64, tr.146]. Từ những số liệu minh

chứng này chúng ta có thể thấy đây là nhóm đối tượng khá đông đảo.

Ba là nội dung chương trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

Trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực, trong đó có đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch, thì việc xác định nội dung, chương trình đào tạo là

43

vấn đề cốt lõi để đạt được mục tiêu đào tạo cũng như tạo ra sự khác biệt của

sản phẩm của quá trình đào tạo. Nội dung giáo dục phụ thuộc vào nhiều yếu

tố, trong đó có yếu tố về hệ thống đào tạo, mục tiêu đào tạo. Luật Giáo dục

năm 2019 quy định hệ thống giáo dục quốc dân gồm 04 bậc, đó là: Giáo dục

mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.

Theo đó, đào tạo nguồn nhân lực du lịch bao gồm đào tạo qua bậc

giáo dục nghề nghiệp (đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao

đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác) và giáo dục đại học (đào

tạo trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.

Giáo dục nghề nghiệp nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất,

kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo;

có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo,

thích ứng với môi trường hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất

lượng lao động; tạo điều kiện cho người học sau khi hoàn thành khóa học có

khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học trình độ cao hơn.

Giáo dục đại học có mục tiêu là đào tạo nhân lực trình độ cao, nâng cao

dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa học và công nghệ tạo ra tri thức,

sản phẩm mới, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc

phòng, an ninh, hội nhập quốc tế. Đào tạo người học phát triển toàn diện về

đức, trí, thể, mỹ; có tri thức, kỹ năng, trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng

nắm bắt tiến bộ khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo, khả

năng tự học, sáng tạo, thích nghi với môi trường làm việc; có tinh thần lập

nghiệp, có ý thức phục vụ Nhân dân [90].

Đối với đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch, bên cạnh những yêu cầu

chung về đào tạo nói trên, cần phải dựa trên xu hướng phát triển công nghệ

trong lĩnh vực du lịch, đặc biệt là cần dựa trên các hệ tiêu chuẩn năng lực

nghề du lịch của quốc tế và khu vực để tạo nên khung năng lực riêng cho lao

44

động du lịch (như Tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam VTOS và Tiêu chuẩn

chung trong ASEAN về nghề du lịch ACCSTP). Bên cạnh đó, nội dung đào

tạo nguồn nhân lực ngành du lịch cũng cần dựa trên khung năng lực đối với

lao động ngành du lịch theo Tiêu chuẩn kĩ năng nghề quốc gia 2017. Đặc biệt

là, nội dung, chương trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch cần căn cứ

trên Công văn số 4929/BGDĐT-GDĐT về việc áp dụng cơ chế đặc thù đào

tạo các ngành về du lịch. Theo đó, cần chú ý đến những nội dung như:

“Những ngành được áp dụng cơ chế đặc thù gồm: Du lịch (7810101); Quản

trị dịch vụ du lịch và lữ hành (7810103); Quản trị khách sạn (7810201); Quản

trị nhà hàng và dịch vụ ăn uống (7810202) và các mã ngành đào tạo thí điểm

trong lĩnh vực du lịch chưa có trong danh mục giáo dục đào tạo cấp IV hiện

hành để đáp ứng nhu cầu về nhân lực du lịch.

Theo ý kiến của tác giả Trần Văn Thông thì hoạt động du lịch là hoạt

động có những nhiệm vụ phức tạp, vì vậy nội dung đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch bao gồm sự chuẩn bị về kiến thức văn hóa chung, kiến thức

kinh tế, kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức ngoại ngữ.

Đào tạo kiến thức văn hóa chung: như văn học, lịch sử, âm nhạc, hội

họa, thể thao, quan hệ giao tiếp xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng…giúp

cán bộ nhân viên du lịch có khả năng giao tiếp một cách rộng rãi, phục vụ tốt

tất cả đối tượng khách.

Đào tạo kiến thức kinh tế: giúp nguồn nhân lực trong ngành du lịch có

khả năng phân tích các hoạt động kinh tế và tạo điều kiện để quản lý tốt hoạt

động của các doanh nghiệp du lịch.

Đào tạo kiến thức, kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ: giúp nguồn nhân

lực có thể đảm nhận là làm tốt các chức năng nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu

phát triển ngành du lịch. Ví dụ: nhân viên phục vụ bàn phải nắm vững kỹ

năng bày bàn ăn, đưa thức ăn lên, rót rượu…; hướng dẫn viên du lịch phải

45

thực hiện thành thạo kỹ năng thuyết minh, tổ chức trò chơi, hoạt náo…phục

vụ du khách.

Đào tạo chính trị tư tưởng: giúp nguồn nhân lực ngành du lịch nhận

thức đúng đắn về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng

và phát triển kinh tế xã hội, lòng yêu nước, bảo vệ sự tôn nghiêm và danh dự

cho quốc gia, đồng thời phải yêu công việc của mình, tinh thần trách nhiệm,

phát huy tính cần cù, sáng tạo…

Đào tạo ngoại ngữ: du lịch quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, do vậy

nguồn nhân lực ngành du lịch phải có trình độ ngoại ngữ và giao tiếp phục vụ

khách quốc tế, không chỉ tiếng Anh mà những ngôn ngữ khác như tiếng Pháp,

tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Thái…[100, tr. 222-224].

Bên cạnh đó, để tạo được đội ngũ nhân lực du lịch vừa “hồng vửa

chuyên” thì nội dung đào tạo cần chú ý rèn luyện cho người học những phẩm

chất tốt đẹp, tinh thần phục vụ làm hài lòng du khách…

Bốn là hình thức đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

Theo hình thức đào tạo, có đào tạo chính quy và đào tạo không chính

quy, đào tạo có chứng chỉ văn bằng và đào tạo không chứng chỉ văn bằng, đào

tạo tại trường và đào tạo tại nơi làm việc trên cơ sở công việc đang làm, hình

thức liên kết trong đào tạo: liên kết trong nước và liên kết quốc tế…

Hình thức đào tạo chính quy: là hình thức ở đó người học được học

tập theo chương trình học có hệ thống theo thứ bậc tuần tự trong hệ thống nhà

trường với thời gian học liên tục, thường xuyên. Người học được học từ đơn

giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực hành, có điều kiện nắm vững các kiến

thức cơ bản và kỹ năng nghiệp vụ. Hình thức đào tạo này đòi hỏi quy chuẩn

về điều kiện trường, lớp, bộ máy quản lý, đội ngũ giáo viên, trang thiết bị thí

nghiệm và dạy học, xưởng thực hành, thư viện, chương trình đào tạo, người

học…

46

Hình thức đào tạo không chính quy: giúp cho mọi người vừa làm vừa

học, học liên tục, suốt đời nhằm hoàn thiện và mở rộng hiểu biết, nâng cao

trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để thích nghi với thay đổi của công

việc và đời sống xã hội.

Đào tạo tại nơi làm việc: là đào tạo trực tiếp, chủ yếu là thực hành

ngay trong quá trình sản xuất. Đối với hình thức này, thời gian học tập ngắn,

chủ yếu vừa sản xuất vừa học tập, kiến thức lý thuyết không theo hệ thống. Vì

vậy, hình thức này chỉ thích hợp với những công việc không đòi hỏi trình độ

lành nghề cao.

Đào tạo tại các lớp cạnh doanh nghiệp du lịch: việc đào tạo tại doanh

nghiệp du lịch nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực du lịch

tại môi trường cụ thể, đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng nhân lực

cho doanh nghiệp du lịch. Vì vậy, các doanh nghiệp phải tổ chức các lớp đào

tạo cho riêng mình hoặc cho doanh nghiệp cùng ngành.

Ngoài ra, còn có hình thức tự học, là hình thức ở đó con người học

thông qua các hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm của bản thân và học qua sách

báo, các phương tiện truyền thông…

Bên cạnh đó, theo tính chất công việc, còn có thể chia làm các hình

thức đào tạo khác như: đào tạo mới khi bắt đầu nhận việc, đào tạo trong khi

làm việc, đào tạo cho công việc tương lai…

Hình thức liên kết trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch, nhất là

liên kết giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp là một cách thức hiệu quả góp

phần nâng cao chất lượng đào tạo. Sự liên kết này có hệ thống cơ sở pháp lý

và hiệu quả hoạt động thực tiễn.

Liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân

lực ngành du lịch thường bao gồm những hình thức cơ bản sau: Chương trình

thực tập (Internship Program); Tour trải nghiệm nghề nghiệp (Career Tour);

47

Ứng viên tiềm năng (Fresher Program); Lớp liên kết (Linkages Training

Course); Ngày hội việc làm (Career Expo); Giảng viên thỉnh giảng (Visiting

Lecturer); Tập huấn giảng viên (Lecturer Training Workshop); Hội nghị

(Conference); Các học bổng (Scholarships)…

Năm là phương pháp đào tạo nguồn nhân lực du lịch

Phương pháp đào tạo là hệ thống những con đường, cách thức, biện

pháp của chủ thể đào tạo tác động vào đối tượng nhằm chuyển hóa tri thức

thành năng lực, phẩm chất, hiện thực hóa mục tiêu đào tạo. Phương pháp đào

tạo bao gồm cả phương pháp giảng dạy của chủ thể đào tạo và phương pháp

học tập của đối tượng đào tạo, trong đó phương pháp giảng dạy đóng vai trò

quan trọng định hướng cho phương pháp học tập phù hợp từng trình độ nhất

định chẳng hạn:

Đối với giáo dục nghề nghiệp, ưu tiên sử dụng phương pháp kết hợp

học lý thuyết với rèn luyện kỹ năng thực hành, bảo đảm để sau khi tốt nghiệp,

người học có khả năng hành nghề.

Phương pháp đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học phải coi

trọng việc bồi dưỡng ý thức tự giác trong học tập, năng lực tự học, tự nghiên

cứu, phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tạo điều kiện

cho người học tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng.

Phương pháp đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện bằng cách phối

hợp các hình thức học tập trên lớp với tự học, tự nghiên cứu; coi trọng việc

phát huy năng lực thực hành, năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề

chuyên môn.

Phương pháp đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện chủ yếu bằng tự

học, tự nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của nhà giáo, nhà khoa học; coi trọng

rèn luyện thói quen nghiên cứu khoa học, phát triển tư duy sáng tạo trong phát

hiện, giải quyết những vấn đề chuyên môn.

48

Trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch, đòi hỏi việc sử

dụng linh hoạt các phương pháp, phù hợp với từng đối tượng, vị trí công việc.

Trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch, trong sự phối hợp linh hoạt đó, cần chú

trọng chủ yếu đến phương pháp kết hợp lý thuyết với thực hành, với tỷ lệ 50 -50.

Sáu là môi trường đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

Môi trường đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch là hệ thống và hoàn

cảnh bên ngoài, các điều kiện kinh tế xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt

động đào tạo. Ở đây, có thể phân thành môi trường lớn, môi trường nhỏ. Môi

trường đào tạo lớn được đặc trưng chủ yếu ở các điều kiện chính trị, kinh tế,

xã hội, hệ thống giáo dục quốc dân. Môi trường đào tạo nhỏ chính là môi

trường của các nhà trường, các trung tâm, các viện nghiên cứu, nơi trực tiếp

diễn ra quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch.

Xét về môi trường đào tạo nhỏ, trực tiếp ở Việt Nam hiện nay cụ thể là:

Theo tác giả Nguyễn Văn Lưu trước năm 2000 cả nước chỉ có 03

trường đại học có đào tạo chuyên ngành du lịch là Trường Đại học (ĐH)

Thương Mại, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội và Trường ĐH Kinh tế

TP. Hồ Chí Minh, 03 trường nghề chuyên đào tạo du lịch là: Trường Du lịch

Hà Nội, Trường Du lịch Vũng Tàu, Trường nghiệp vụ Du lịch-Khách sạn

thuộc Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn.

Theo thống kê không đầy đủ, cuối năm 2005, cả nước có 69 cơ sở đào

tạo du lịch, trong đó có 14 trung tâm dạy nghề, 29 trường trung cấp, cao đẳng

và 26 cơ sở đào tạo du lịch hệ đại học.

Đến cuối năm 2007, cả nước có 82 cơ sở đào tạo du lịch, trong đó có

30 cơ sở đào tạo du lịch hệ dạy nghề và trung cấp, 52 cơ sở đào tạo du lịch hệ

cao đẳng và đại học.

Tính đến tháng 8 năm 2010, cả nước có 284 cơ sở tham gia đào tạo và

dạy nghề du lịch, gồm: 62 trường đại học; 80 trường cao đẳng (trong đó có 8

49

trường cao đẳng nghề); 117 trường trung cấp (trong đó có 12 trường trung cấp

nghề); 02 công ty đào tạo và 23 trung tâm, lớp đào tạo nghề [64].

Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (ITDR) năm

2019, cả nước có hơn 190 cơ sở đào tạo du lịch và tham gia giáo dục đại học,

giáo dục nghề nghiệp du lịch ở trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp, sơ cấp

và đào tạo ngắn hạn, gồm: 65 trường đại học có các khoa du lịch; 55 trường

cao đẳng (có 10 trường cao đẳng chuyên đào tạo du lịch trong đó có 8 trường

trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Dulịch); 71 trường trung cấp. Cùng với

sự phát triển về quy mô số lượng là quá trình nâng cao chất lượng, đầu tư cơ

sở vật chất, phương tiện dạy học hiện đại hơn.

2.3. YÊU CẦU VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC

ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY

2.3.1. Những yêu cầu trong việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du

lịch ở Việt Nam hiện nay

2.3.1.1. Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải hướng vào

phục vụ trực tiếp cho nhu cầu phát triển ngành du lịch của đất nước

Đào tạo là để phục vụ nhu cầu công việc. Do vậy, trong điều kiện

nguồn lực có hạn, cần xác định việc đào tạo kiến thức và kỹ năng gì là cần

thiết nhất để giúp người lao động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, qua đó

giúp tổ chức đạt được các mục tiêu của mình. Ở nước ta hiện nay, vấn đề đào

tạo nguồn nhân lực ngành du lịch trước hết phải gắn với mục tiêu phát triển

kinh tế - xã hội chung của đất nước được thể hiện trong Chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội ở từng giai đoạn, mục tiêu phát triển của ngành du lịch, với

mục tiêu phát triển chung của mỗi địa phương, vùng miền…

“Quyết định Phê duyệt chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm

2030” xác định “mục tiêu phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế

50

mũi nhọn, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển các ngành và lĩnh vực khác, góp

phần quan trọng hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại. Trong đó năm 2025 sẽ tạo

ra khoảng 5,5 - 6 triệu việc làm, có khoảng 2 triệu việc làm trực tiếp, tăng

trưởng bình quân 12 - 14%/năm. Đến năm 2030, tạo ra khoảng 8,5 triệu việc

làm, trong đó có khoảng 3 triệu việc làm trực tiếp, tăng trưởng bình quân 8 -

9%/năm” [103]. Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải hướng vào và

góp phần quan trong trong việc thực hiện mục tiêu đến năm 2030 “du lịch

thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn và phát triển bền vững. Việt Nam trở thành

điểm đến đặc biệt hấp dẫn, thuộc nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh du

lịch hàng đầu thế giới, đáp ứng đầy đủ yêu cầu và mục tiêu phát triển bền

vững” [103].

2.3.1.2. Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải đảm bảo số

lượng, chất lượng, cân đối về cơ cấu, ngành nghề và trình độ đào tạo

Nhu cầu đào tạo có thể được xem xét từ 2 phía: Từ phía xã hội, địa

phương, tổ chức và từ phía người lao động. Trong việc đào tạo nguồn nhân

lực ngành du lịch, cần xuất phát từ dự báo nhu cầu nguồn nhân lực của ngành

du lịch ở các cấp độ: quốc gia, vùng miền, ngành…, từ đó đảm bảo yêu cầu

về số lượng, chất lượng cũng như mục tiêu phát triển chung.

Theo số liệu của Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch),

mỗi năm, toàn ngành cần khoảng 40.000 lao động, song thực tế hiện nay

lượng sinh viên ra trường lĩnh vực du lịch hằng năm chỉ đạt khoảng 15.000

người, hơn 12% trong số này có trình độ cao đẳng, đại học trở lên [64].. Điều

này đặt ra yêu cầu phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo ngành du lịch, cơ cấu lại

mạng lưới cơ sở đào tạo, đang dạng hóa cơ sở đào tạo, ưu tiên đầu tư cho các

cơ sở đào tạo du lịch trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là hạt nhân

đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở tất cả các cấp đào tạo tại các trung

tâm du lịch trong điểm Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nha trang, Đà Lạt,

51

Vũng Tảu, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ…và các cơ sở đào tạo khác có đào tạo

du lịch [64].

Cần đa dạng hóa ngành nghề tại các cơ sơ đào tạo: nghiệp vụ lễ tân,

nghiệp vụ buồng, kỹ thuật chế biến món ăn, nghiệp vụ nhà hàng, nghiệp vụ

sale và marketing, nghiệp vụ thiết kế và điều hành tour, nghiệp vụ hướng dẫn

du lịch nội địa và quốc tế…Bên cạnh đó cần nghiên cứu dự báo nhu cầu nhân

lực của từng bộ phận cụ thể để điều chỉnh chỉ tiêu đào tạo cho phù hợp.

2.3.1.3. Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải thống nhất giữa

lý thuyết và thực hành kỹ năng nghề du lịch

Để đào tạo thật sự có ý nghĩa cần hướng đến sử dụng nhân lực sau đào

tạo vì vậy các cơ sở đào tạo cần chú trọng kết hợp việc đào tạo lý thuyết với

việc kỹ năng thực hành nghề. Theo đó, những kiến thức và kỹ năng mà người

lao động đạt được trong quá trình đào tạo phải được ứng dụng trong thực tiễn.

Người học được tạo điều kiện thuận lợi để phát huy khả năng của mình.

Là ngành phi sản xuất vật chất, du lịch thông qua cung cấp dịch vụ vật

chất để thỏa mãn nhu cầu của du khách. Vì vậy, có thể cung cấp dịch vụ tốt

hay không là tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển của ngành du lịch, và

điều đó được quyết định bởi tố chất, kỹ năng thực hành nghề của cán bộ, nhân

viên ngành du lịch. Việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch ngành du lịch càng

phải nhấn mạnh yếu tố thực hành, ngoại ngữ và kỹ năng. Đây là những yếu tố

đảm bảo hiệu quả của công tác đào tạo.

2.3.2. Các nhân tố ảnh hƣởng tới đào tạo nguồn nhân lực ngành du

lịch ở Việt Nam hiện nay

Việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở nước ta chịu ảnh hưởng

bởi nhiều yếu tố: cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước; điều kiện kinh tế -

xã hội, trình độ phát triển ngành du lịch; truyền thống văn hóa, phong tục tập

52

quán; xu thế hội nhập quốc tế và quá trình ứng dụng khoa học – công nghệ;

tác động của yếu tố con người.

2.3.2.1. Cơ chế chính sách của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước

Đào tạo nguổn nhân lực cho ngành du lịch là quá trình mang tính tự

giác, tích cực, chủ động với những cơ chế chính sách cụ thể, phù hợp với điều

kiện, hoàn cảnh, có tính khả thi được Đảng và Nhà nước xác định. Trong đào

tạo nguồn nhân lực, Đảng và Nhà nước là chủ thể hành động quản lý, quyết

định cơ chế chính sách pháp luật, quy định phương hướng, mục tiêu mở rộng

quy mô đào tạo nguồn nhân lực trong từng thời kỳ sát với yêu cầu, nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội. Ở đây, cơ chế chính sách quy định phương hướng,

mục tiêu và quy mô đào tạo, nội dung chương trình đào tạo nguồn nhân lực

nói chung và đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch nói riêng. Đại hội X của

Đảng chỉ rõ: “Nhà nước tăng đầu tư tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các

chương trình quốc gia phát triển giáo dục, hỗ trợ các vùng đồng bào dân tộc

thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”. Đại hội XI của Đảng nhấn

mạnh phải tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực, quản

lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng tính chủ động , tự chịu trách nhiệm của

các cơ sở giáo dục, trọng dụng thu hút nhân tài. Tại Đại hội XII, Đảng tiếp tục

khẳng định phải “phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,…Đổi mới

căn bản công tác quản lý, giáo dục,…tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội

của các cơ sở giáo dục, đào tạo” [67, tr.59].

Việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của nước ta chịu ảnh

hưởng của chính sách về phát triển du lịch với những mục tiêu, định hướng

phát triển ngành du lịch theo ngành, lãnh thổ liên quan đến số lượng, chất

lượng, cơ cấu nguồn nhân lực du lịch.

Bên cạnh đó, việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch còn chịu ảnh

hưởng của chính sách về đào tạo, dạy nghề du lịch, xác định những quy chuẩn

53

về cơ sở vật chất kỹ thuật đào tạo, chương trình đào tạo, về tiêu chuẩn giảng

viên, giáo viên và chế độ của giảng viên, giáo viên tham gia đào tạo, về quy

định tuyển sinh, tốt nghiệp… [64, tr.97].

Cơ chế chính sách của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước quyết

định hiệu quả, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Việt Nam.

Nó tác động đến đào tạo nguồn nhân lực thể hiện trên tất cả các mặt, các khâu

của quá trình đào tạo. Cơ chế chính sách đúng đắn, phù hợp sẽ thu hút người

tài giỏi, tăng số lượng, chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch. Cơ chế

chính sách không phù hợp gây cản trở quá trình đào tạo, kìm hãm sự cống

hiến của người lao động, triệt tiêu động lực của chủ thể cũng như đối tượng

đào tạo, làm thui chột tài năng, kìm hãm quá trình chấn hưng sự nghiệp giáo

dục và đào tạo nước nhà nói chung, ngành du lịch nói riêng.

2.3.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội, xu thế phát triển ngành du lịch

Trình độ phát triển kinh tế tạo nên nền tảng vật chất để giải quyết các

vấn đề về nguồn nhân lực. Ở những địa phương có trình độ kinh tế phát triển

cao, mặt bằng chung của đời sống nhân dân và các thiết chế xã hội đạt mức

cao, Nhà nước có điều kiện đầu tư giải quyết tốt vấn đề giáo dục, đào tạo

nguồn nhân lực, các chính sách xã hội, do vậy chất lượng nguồn nhân lực cũng

được nâng cao. Trình độ phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sự

phát triển du lịch và đến lượt mình, trình độ phát triển du lịch sẽ quyết định đến

số lượng, chất lượng và xu thế phát triển của nguồn nhân lực ngành Du lịch.

Ở Việt Nam du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, với tốc

độ tăng trưởng cao và mang lại doanh thu đáng kể. Theo số liệu của Tổng cục

Thống kê, các số liệu thống kê trên website http://thongke.tourism.vn/ cho

thấy tổng thu từ khách du lịch năm 2019 đạt 726.000 tỉ đồng (khoảng 31 tỉ

USD), tăng hơn 17% so với năm 2018. Năm 2019 Việt Nam đã đón hơn 18

triệu du khách quốc tế - tăng 16,2 % so với năm 2018. Số liệu cho thấy gần

54

80% khách quốc tế đến Việt Nam từ châu Á, với hơn 14,3 triệu lượt và tăng

hơn 19% so với cùng kỳ; khách từ châu Âu xấp xỉ 2,17 triệu lượt - tăng 6,4%

và khách từ châu Mỹ 973.800 lượt - tăng 7,7%. Điều này đặt ra yêu cầu phải

tập trung đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch để đáp ứng yêu cầu phục vụ

khách du lịch ngày càng tăng. Tổng cục Du lịch ước tính ngành du lịch Việt

Nam trực tiếp sử dụng khoảng 750.000 lao động năm 2017 và sẽ cần đến

870.000 lao động vào năm 2020 để bắt kịp với nhu cầu tăng trưởng.

Xu thế phát triển ngành du lịch hiện nay cũng có nhiều thay đổi. Kết

cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông được cải thiện vượt bậc cho phép

khách du lịch rút ngắn thời gian đi lại, tiếp cận đến nhiều điểm đến du lịch,

tạo nên xu thế khách du lịch rút ngắn thời gian lưu trú tại mỗi điểm du lịch và

thực hiện nhiều chuyến đi du lịch đến các điểm đến du lịch khác nhau trong

thời gian trong năm. Các dịch vụ du lịch được chia thành 2 nhóm chính là

nhóm dịch vụ chính (gồm ăn uống và lưu trú) và nhóm dịch vụ bổ sung (nghỉ

dưỡng, tham quan, tìm hiểu, vui chơi giải trí, chăm sóc sức khoẻ, tham gia các

hoạt động thể thao, văn hoá - xã hội...). Cùng với xu thế đi du lịch nhiều lần

trong năm thì khách du lịch ngày càng có nhu cầu nhiều hơn với các dịch vụ

thuộc nhóm dịch vụ bổ sung.

Thị hiếu của du khách cũng có nhiều chuyển biến. Khách du lịch ngày

càng quan tâm tìm hiểu và muốn trải nghiệm giá trị văn hóa độc đáo, chân

thật của các điểm đến, quan tâm đến bảo vệ mội trường, đóng góp cho cộng

đồng địa phương nơi họ đến du lịch. Những thay đổi của “cầu du lịch” đã làm

thay đổi “cung du lịch” và qua đó tác động trực tiếp, làm thay đổi sự phát

triển của nguồn nhân lực ngành du lịch.

2.3.2.3. Truyền thống văn hóa, phong tục tập quán

Trong truyền thống văn hóa, các giá trị văn hóa truyền thống là những

giá trị tốt đẹp, tiêu biểu cho một nền văn hóa, tạo nên bản sắc văn hóa của một

55

dân tộc được chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong suốt

chiều dài phát triển của lịch sử. Nó giống như nền tảng vững chắc, điểm tựa

cho mỗi dân tộc trên hành trình phát triển của nhân loại. Đảng ta khẳng định

những giá trị văn hóa nổi bật của bản sắc Việt Nam là “lòng yêu nước nồng

nàn, lòng tự tôn, tự cường dân tộc, tinh thần cộng đồng gắn kết cá nhân – gia

đình – làng xã – Tổ quốc, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức

tính cần cù sáng tạo trong lao động, là đức tính hy sinh cao thượng, tất cả vì

độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, là sự tế nhị trong cư xử, tính giản

dị trong lối sống” [26,tr.10-11].

Giá trị văn hóa truyền thống có vai trò quan trọng trong đào tạo nói

chung, đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch nói riêng. Nó là cơ sở nền tảng

cho việc đề ra mục đích, nội dung chương trình, hình thức trong đào tạo

nguồn nhân lực. Nó là động lực ngọn nguồn phát triển dân tộc, tạo nên sức

mạnh tinh thần và bản lĩnh cho các thế hệ nguồn nhân lực ngành du lịch học

tập, rèn luyện và tu dưỡng vươn lên trong giai đoạn mới.

Các giá trị văn hóa truyền thống sẽ là cơ sở giúp các học viên, sinh viên

đang học tại các trường đào tạo ngành du lịch đứng vững trước những tác

động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa và sự chống

phá của các thế lực thù địch.

Các giá trị văn hóa truyền thống với tư cách là hệ chuẩn giá trị có vai trò

như một “màng lọc” giúp chủ thể đào tạo cũng như đối tượng đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch phân biệt đúng sai, tốt xấu, giúp họ nên hay không nên

trong hành vi ứng xử. Từ đó họ có khả năng lựa chọn tiếp thu những giá trị tiến

bộ văn minh của nhân loại, cũng như loại bỏ những phản giá trị góp phần quan

trọng trong việc phát triển hoàn thiện nhân cách của mình.

Cùng với truyền thống văn hóa, phong tục tập quán có vai trò nhất định

ảnh hưởng đến công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Nó là “cái giá”

56

mang nội dung giá trị đạo đức và đạo đức. Nó thường thể hiện qua các lễ hội,

tục lệ ma chay, cưới xin… Những tư tưởng tâm lý không muốn người khác

hơn mình, chủ nghĩa bình quân cục bộ địa phương, đùn đẩy trách nhiệm, thiếu

dân chủ, háo danh hám lợi...nếu không kịp thời khắc phục sẽ kìm hãm cả sự

phát triển con người và quá trình đào tạo nguồn nhân lực.

Những truyền thống văn hóa, phong tục tập quán tác động đến việc

đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch theo cả hai mặt tích cực và tiêu cực.

Về mặt tích cực: điều kiện truyền thống văn hóa, phong tục tập quán

mang tính tích cực, phù hợp sẽ là cơ sở quan trọng để hình thành nên những

phẩm chất tốt đẹp của con người. Trên những nền tảng cơ sở đó, nguồn nhân

lực được phát triển. Đó là những giá trị, chuẩn mực chân chính ở các cơ sở

giáo dục như: tận tụy với nhân dân, trách nhiệm với công việc, chuyên

nghiệp, có hành vi, thái độ ứng xử đúng mực… tạo điều kiện thuận lợi cho

việc xây dựng một thế hệ trung thành với Tổ quốc.

Về mặt tiêu cực: những phong tục tập quán lạc hậu bảo thủ, không phù

hợp với bối cảnh, tình hình hiện tại như tư tưởng cục bộ, tiểu nông, bình quân

chủ nghĩa… sẽ tạo ra những lực cản trở cho việc đào tạo nguồn nhân lực nói

chung và nguồn nhân lực ngành du lịch nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng

từng khẳng định “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó

ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó,

mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài‟ [67, tr.64]

Xét về khía cạnh kinh tế du lịch, truyền thống văn hóa, phong tục tập

quán với ý nghĩa những giá trị vật chất và tinh thần là nguồn tài nguyên du

lịch nhân văn đặc sắc phục vụ du khách. Trong quá trình đào tạo ngành nguồn

nhân lực ngành du lịch, các cơ sở đào tạo cần tập trung đào tạo kiến thức và

kỹ năng khai thác các giá trị văn hóa đặc trưng của địa phương nhằm đem đến

57

các sản phẩm hấp dẫn, độc đáo đáp ứng nhu cầu trải nghiệm, khám phá của

khách du lịch.

2.3.2.4. Xu thế hội nhập quốc tế và quá trình ứng dụng khoa học –

công nghệ vào trong đào tạo

Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế dẫn tới hình thành xu hướng quốc tế

hóa nền kinh tế thế giới. Trong xu hướng này, các quốc gia muốn phát triển

thì hội nhập kinh tế, xây dựng và mở rộng mối quan hệ với các quốc gia khác

là điều tất yếu. Quá trình toàn cầu hoá hội nhập quốc tế đã thúc đẩy cuộc chạy

đua phát triển nguồn nhân lực tại các quốc gia, khu vực trên thế giới. Toàn

cầu hóa đã làm cho các nền kinh tế phát triển nhanh chóng hơn và trở thành

một thị trường toàn cầu, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, cạnh tranh gay gắt

với nhau. Khả năng cạnh tranh được quyết định bởi năng lực tạo ra giá trị

tăng thêm của các sản phẩm, dịch vụ và các quá trình hoạt động của mỗi quốc

gia và của từng doanh nghiệp. Đóng góp chủ yếu vào điều này phụ thuộc vào

kiến thức và các kỹ năng của lực lượng lao động.

Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã tác động mạnh mẽ đến

giáo dục đào tạo. Trên cơ sở nhận thức về vai trò vô hạn của nguồn nhân lực, các

quốc gia đã không ngừng phát triển đổi mới giáo dục đào tạo trong quá trình hội

nhập. Để tránh nguy cơ tụt hậu, chúng ta không thể nằm ngoài xu hướng đó. Từ

đây, đặt ra nội dung chương trình, phương thức đào tạo cho ngành du lịch phải

không ngừng cải tiến, bổ sung cho phù hợp xu hướng chung.

Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nhiều đối tác

nước ngoài đang tiếp tục đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh du lịch ở Việt

Nam thì khiếm khuyết của nguồn nhân lực ngành du lịch ngày càng bộc lộ rõ.

Mặc dù nguồn nhân lực ngành du lịch đang tạm thời bù đắp những khiếm

khuyết đó nhưng về lâu dài lao động ngành du lịch Việt Nam sẽ phải đối mặt

với sự cạnh tranh từ lao động của các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Inđô

58

nêxia, Singapore…. Vì thế để tiếp tục thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư

ngành du lịch, Việt Nam không thể không nâng cao chất lượng và khả năng

cạnh tranh nguồn nhân lực ngành du lịch và phải xem đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch là một nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.

Tiến bộ của công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra những thay

đổi lớn trong các tổ chức và xuất hiện cách thức thực hiện công việc mới.

Nhiều ngành nghề mới, công nghệ mới và phương thức quản lý mới xuất

hiện, đòi hỏi người lao động phải được trang bị những kiến thức, kỹ năng mới

để đảm nhận các công việc mới. Những biến đổi trong các tổ chức cũng làm

thay đổi vai trò của người lao động, họ có nhu cầu trong việc ra quyết định và

thực sự cần thiết trong việc mở rộng hơn các kỹ năng làm việc. Nhân lực du

lịch cần bổ sung nhiều hơn các kỹ năng so với trước đây. Những điều này làm

thay đổi mạnh mẽ về chất đối với nguồn nhân lực ngành du lịch.

Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đã và đang

có những phát triển vượt bậc. Thời đại ngày nay được xem là thời đại của

cuộc cách mạng đại công nghệ. Đây là điều kiện thuận lợi, tạo điều kiện góp

phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình đào tạo nhưng cũng đặt ra

nhiều yêu cầu đối với cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Các cơ sở

đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch cần có tư duy mới về chiến lược và

phương thức đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, phải không ngừng đổi

mới mục tiêu, hiện đại hóa nội dung, đổi mới phương pháp nhằm không

ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch.

2.3.2.5. Con người –nhân tố quyết định của quá trình đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch

Nhân tố con người trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực ngành du

lịch ngoài các cán bộ quản lý phải kể đến hai nhân tố trung tâm là người thầy

– chủ thể của hoạt động đào tạo và người học – đối tượng của hoạt động đào

59

tạo. Phẩm chất năng lực của người thầy và phẩm chất năng lực của học viên,

sinh viên sẽ quyết định đến chất lượng đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực

ngành du lịch.

Ở đây cần chú ý là số lượng nguồn nhân lực đào tạo đóng vai trò quan

trọng đối với sự phát triển chất lượng đào tạo. Nếu số lượng nguồn nhân lực

không tương xứng với sự phát triển đào tạo, phát triển ngành du lịch (hoặc

thiếu, hoặc thừa) đều tác động không tốt đến sự phát triển đào tạo và chính

nguồn lực con người trong công tác đào tạo của ngành du lịch quyết định đến

chất lượng đào tạo. Ở đây, chất lượng nguồn lực con người trong đào tạo của

ngành du lịch vừa có tính chất chung, vừa có tính chất đặc thù.

Tính chung: đó là người lao động mang đầy đủ phẩm chất, đức tính,

tâm lý truyển thống của người lao động Việt Nam. Đó là con người có bản

chất nhân văn, nhân bản, nhân ái trong quan hệ với con người, với cộng đồng,

có đầu óc khoa học, có tay nghề cao, sáng tạo ra các giá trị để làm giàu cho xã

hội và cho bản thân mình.

Tính đặc thù của người lao động trong công tác đào tạo ngành du lịch

được xét dưới góc độ sau: đây là những người có trình độ dân trí cao, có năng

lực hiểu biết, trình độ chuyên môn giỏi, có khả năng khám phá, có hiểu biết

sư phạm và phương pháp sư phạm. Họ là những người lao động trí tuệ vừa

chính xác, khoa học vừa đòi hỏi gương mẫu cao (thầy cô giáo là tấm gương

sáng cho sinh viên noi theo), đào tạo các thế hệ học viên, sinh viên có khoa

học, có kỹ thuật, có đạo đức, năng động sáng tạo.

Như vậy nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch,

chúng ta phải có đội ngũ thầy cô giáo giỏi. Để có thầy cô giáo giỏi phải chăm

nom, vun trồng một cách toàn diện. Có thể nói, trong đào tạo vấn đề giáo viên

là vấn đề “đại sự”, họ luôn luôn là lực lượng “hạt nhân”, bởi không giống như

các ngành nghề khác sản phẩm của họ là con người. Chất lượng của đội ngũ

60

giáo viên sẽ ảnh hưởng đến nhiều thế hệ, thậm chí còn là nhân tố tác động sự

tồn tại và phồn vinh của cả một quốc gia. Vì thế, con người là nhân tố quyết

định trong công tác đào tạo nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực ngành

du lịch nói riêng.

Mặt khác, học viên, sinh viên vừa với tư cách là đối tượng, vừa với tư

cách là chủ thể của đào tạo (tự đào tạo). Kết quả học tập là sự thống nhất giữa

những nhân tố tác động bên ngoài với sự vận động bên trong của mỗi cá nhân,

giữa chủ quan với khách quan, cá nhân với xã hội. Sự tác động tích cực của

môi trường xã hội thuận lợi chỉ có ý nghĩa khi bản thân người học biết tự giác

học tập, rèn luyện, tiếp thu. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Sửa đổi

lối làm việc” đã từ căn dặn: “việc học phải lấy tự học làm cốt”. Vì vậy để

công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch được hiệu quả thì việc tự giác

học tập, tiếp thu, kế thừa, cũng như rèn luyện tư tưởng, nhân cách là vấn đề

quyết định trực tiếp. Thực chất đây là chủ quan hóa cái khách quan trong đào

tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển ngành du lịch ở Việt Nam hiện

nay.

Theo tác giả Nguyễn Văn Lưu mỗi năm cả nước tuyển sinh khoảng

22.000 học viên, sinh viên ngành du lịch. Theo số liệu thống kê năm 2014, cả

nước có khoảng 5.000 người tham gia đào tạo, dạy nghề du lịch, trong đó có

2.000 giáo viên, giảng viên du lịch (cả cơ hữu và thỉnh giảng), 540 cán bộ

quản lý, phục vụ đào tạo các cấp và 2.579 đào tạo viên du lịch (có chứng chỉ

đào tạo của Hội đồng Cấp chứng chỉ nghiệp vụ Du lịch Việt Nam). Giảng

viên, giáo viên ở độ tuổi dưới 30 tuổi chiếm khoảng 29%, từ 31 -50 tuổi

chiếm 60%, trên 50 tuổi chiếm 11%. Trong số giảng viên, giáo viên có 2 giáo

sư, 11 phó giáo sư, 1 tiến sĩ khoa học, 36 tiến sĩ, 210 thạc sĩ và 5 chuyên gia,

nghệ nhân [64, tr.140-141]. Đây là lực lượng có ảnh hưởng trực tiếp đến đào

tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Việt Nam hiện nay.

61

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Khái niệm nguồn nhân lực được tác giả luận án hiểu theo nghĩa hẹp là

nguồn lao động. Theo đó khái niệm nguồn nhân lực ngành du lịch Việt Nam

là một bộ phận trong cơ cấu nguồn nhân lực quốc gia, là tổng hòa những khả

năng của lực lượng lao động hiện có trong ngành du lịch và tiềm năng có thể

huy động thể hiện qua các yếu tố về số lượng, chất lượng, cơ cấu với các tiêu

chí về thể lực, trí lực và tâm lực của con người đóng góp quan trọng vào sự

phát triển của ngành du lịch.

Đào tạo nguồn nhân lực du lịch là sự tác động tích cực, tự giác của

chủ thể vào đối tượng đào tạo nhằm trang bị kiến thức nhất định về chuyên

môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo cho người lao động trong ngành du lịch, đáp

ứng yêu cầu của sự phát triển ngành và của đất nước .

Việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Việt Nam hiện nay phải

hướng vào phục vụ trực tiếp cho nhu cầu phát triển ngành du lịch của đất

nước; đảm bảo số lượng, chất lượng, cân đối về cơ cấu, ngành nghề và trình

độ đào tạo; và phải thống nhất giữa lý thuyết và thực hành kỹ năng nghề du

lịch.

Quá trình đào tạo nguồn nhân lực du lịch luôn chịu sự tác động bởi

nhiều nhân tố: cơ chế chính sách của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước, điều kiện kinh tế - xã hội, xu thế phát triển ngành du lịch, truyền thống

văn hóa, phong tục tập quán, xu thế hội nhập quốc tế và quá trình ứng dụng

khoa học – công nghệ vào trong đào tạo và nhân tố con người. Trong đó con

người là nhân tố quyết định của quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du

lịch.

62

Chƣơng 3

ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG

SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI, VĂN HÓA VÀ

NGUỒN NHÂN LỰC ẢNH HƢỞNG ĐẾN ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN

LỰC DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

3.1.1. Một số khái quát về điều kiện tự nhiên Đồng bằng sông Cửu Long

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hay còn gọi là vùng Tây Nam Bộ

gồm TP. Cần Thơ và 12 tỉnh: An Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng

Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Long An, Tiền Giang, Trà Vinh và

Vĩnh Long. Phía Đông Bắc tiếp giáp với TP. Hồ Chí Minh và vùng Đông

Nam Bộ; Phía Tây Bắc tiếp giáp với Campuchia; phía Tây Nam, phía Nam và

Đông Nam tiếp giáp với vịnh Thái Lan và biển Đông.

Với diện tích 40.816,4 km2, chiếm 12,3 % diện tích cả nước (số liệu

của Tổng cục Thống kê năm 2019), ĐBSCL là đồng bằng phù sa lớn nhất

nước do hệ thống sông Cửu Long bồi đắp nên.

Tính sông nước là đặc trưng nổi bật của tự nhiên vùng ĐBSCL. Dòng

sông Mêkông chảy vào lãnh thổ Việt Nam mang tên gọi sông Cửu Long, phân

thành 2 nhánh sông chính là sông Tiền và sông Hậu, cùng một hệ thống kênh

rạch chằng chịt bồi đắp phù sa màu mỡ cho ĐBSCL, nhiều nơi ở nội đồng

cũng như ven biển đồng bằng đang trong quá trình hình thành, tạo nên những

cảnh quan đặc sắc. Cảnh quan sinh thái đặc trưng là đồng bằng thấp với một

vùng sông nước hữu tình, từ đó tạo nên hệ sinh thái rừng tràm, rừng ngập

mặn, sân chim, những cánh đồng cò bay thẳng cánh, rộng mênh mông trong

mùa nước nổi, những xóm thôn cây trái bốn mùa trĩu quả, môi trường trong

63

lành chạy dọc theo các bờ kênh, vừa là những trục lộ cho ghe xuồng ngược

xuôi, mang nhiều sản vật, hoa trái tập trung tại các ngã ba, ngã tư sông họp

thành chợ nổi lạ mắt, cuốn hút và hấp dẫn du khách. Từ đó hình thành một

nền văn hóa diệu kỳ mà nhiều người dùng cụm từ “văn minh sông nước và

văn hóa miệt vườn” để chỉ về nét đặc sắc ấy của vùng ĐBSCL, là tiềm năng

về du lịch độc đáo, không giống bất cứ với vùng miền nào của cả nước.

ĐBSCL có khí hậu cận xích đạo gió mùa nóng ẩm quanh năm, gồm hai

mùa: mùa mưa và mùa khô. Thời tiết ít biến động. ĐBSCL cũng có 3 khu dự

trữ sinh quyển, 5 vườn quốc gia, 3 khu bảo tồn tự nhiên, 3 khu bảo tồn loài, 7

khu bảo vệ sinh cảnh và 1 khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học tạo

điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch.

3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội và tiềm năng, thế mạnh phát triển

ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long

Theo Tổng cục Thống kê năm 2019, ĐBSCL có dân số là 17.282.500

người chiếm 17,91% dân số cả nước. Mật độ dân số trung bình của vùng là 423 người/km2.

Bảng 3.1: Diện tích, dân số và mật độ dân số các địa phƣơng ĐBSCL năm 2019

STT Địa phƣơng Mật độ dân số (Người/km2) Diện tích (km2) Dân số (nghìn người)

1.439,0 1.236,0 859,0 1 TP.Cần Thơ

3.536,7 1.907,4 539,0 2 An Giang

6.348,8 1.723,7 272,0 3 Kiên Giang

5.221,2 1.194,3 229,0 4 Cà Mau

2.669,0 908,2 340,0 5 Bạc Liêu

64

1.621,7 732,2 451,0 6 Hậu Giang

3.311,9 1.199,5 362,0 7 Sóc Trăng

2.358,3 1.009,3 428,0 8 Trà Vinh

1.525,7 1.022,6 670,0 9 Vĩnh Long

2.510,6 1.766,3 704,0 10 Tiền Giang

4.494,9 1.695,1 377,0 11 Long An

2.394,8 1.289,1 538,0 12 Bến Tre

3.383,8 1.598,8 472,0 13 Đồng Tháp

Nguồn: Số liệu thống kê trên website của Tổng cục Thống kê

423,0 40.816,4 17.282,5 ĐBSCL

https://www.gso.gov.vn/so-lieu-thong-ke/

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm thì người Khmer là

những lưu dân đầu tiên đến chiếm lĩnh vùng đất Tây Nam Bộ. Theo Tổng

điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Khmer sinh sống đông nhất ở vùng

ĐBSCL với 1.183.476 người, chiếm 93,8% tổng số người Khmer ở Việt Nam

và chiếm 6,88% dân số toàn vùng. Người Khmer cư trú tập trung đông nhất ở

ba tỉnh: Sóc Trăng với 397.014 người (chiếm 30,7% dân số toàn tỉnh và

31,5% tổng số người Khmer ở Việt Nam), Trà Vinh với 317.203 người

(chiếm 31.6 % dân số toàn tỉnh và 25,2% tổng số người Khmer ở Việt Nam),

và Kiên Giang với 210.899 người (chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 16,7%

tổng số người Khmer ở Việt Nam) [99, tr. 80-81].

Người Kinh bắt đầu tới ĐBSCL làm ăn sinh sống từ đầu thế kỉ XVII,

dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên và trở thành lực lượng quan trọng nhất

65

làm biến đổi vùng đất Tây Nam Bộ. Năm 2009 số lượng người Kinh ở

ĐBSCL là 15.811.571 chiếm 92 % dân số toàn vùng [99, tr.81].

Từ thế kỉ XVII, bên cạnh người Kinh, người Hoa cũng đến ĐBSCL cư

ngụ. Đây là nhóm người Hoa trung thành với nhà Minh, không thuần phục

nhà Thanh bỏ quê hương di dân sang Việt Nam và một số nước Đông Nam Á

như Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Mạc Cửu… Theo Tổng điều tra

dân số và nhà ở năm 2009, Người Hoa sinh sống ở vùng ĐBSCL chỉ có

177.178 người, chiếm 21,5 % tổng số người Hoa ở Việt Nam và chiếm 1,03

% dân số toàn vùng. Ở ĐBSCL, người Hoa cư trú tập trung đông nhất ở ba

tỉnh: Sóc Trăng với 64.910 người, Kiên Giang với 29.850 người và Bạc Liêu

với 20.082 người [99, tr. 81-82].

Tiếp theo người Hoa là người Chăm. Theo Tổng điều tra dân số và nhà

ở năm 2009, người Chăm ở ĐBSCL là 15.823 người chiếm 9,8% tổng dân số

người Chăm ở Việt Nam và chiếm 0,09% dân số toàn vùng. Trong đó đông

nhất là ở An Giang với 14.209 người [99, tr.83]

Ngày nay, ĐBSCL đã đạt được những thành tựu to lớn, bình quân hàng

năm sản xuất hơn 90% lượng gạo, 62% lượng thủy sản và 70% lượng trái cây

xuất khẩu cả nước [111, tr.6].

Theo báo cáo Kinh tế Thường niên Đồng bằng sông Cửu Long năm

2020 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Trường Chính

sách Công và Quản lý Fulbright thực hiện thì tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo

của Chính phủ ở ĐBSCL đã giảm từ mức rất cao là 36,9% vào năm 1998

xuống chỉ còn 12,6% vào năm 2010 và 5,2% vào năm 2016, và tỷ lệ này tiếp

tục giảm trong giai đoạn 2016-2019. Tuy nhiên, tình trạng di cư của người

dân đồng bằng về TP Hồ Chí Minh và miền Đông Nam Bộ đáng báo động.

Kết quả là so với các vùng khác trong cả nước, ĐBSCL có tỷ lệ nhập cư thấp

nhất, tỷ lệ xuất cư cao nhất, và do đó là vùng duy nhất có tỷ lệ tăng dân số là

66

0,0% trong giai đoạn 2009 - 2019. Số lượng di cư ròng khỏi ĐBSCL trong

thập niên vừa qua là gần 1,1 triệu người, lớn hơn dân số của một số tỉnh trong

vùng và tương đương với số tăng dân số tự nhiên của cả vùng.

Phát triển du lịch của vùng những năm qua đạt được nhiều kết quả khả

quan. Theo thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long, kết

quả kinh doanh du lịch năm 2019 toàn vùng đón được 45.765.141 lượt khách,

tăng 12,3 % so với năm 2018 và tăng 55,7% so với năm 2016. Trong đó

khách quốc tế là 3.444.873 lượt, khách nội địa là 42.320.268 lượt.

Bảng 3.2: Thống kê lƣợt khách du lịch nội địa và quốc tế đến ĐBSCL năm 2016 – 2019

ĐVT: Lượt khách

Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019

Khách du lịch nội địa 26.819.502 32.022,599 37.325.187 42.320.268

Khách du lịch quốc tế 2.571.257

Tổng lƣợt khách

29.390.759 2.854.683 34.877.282 3.420.109 40.745.296 3.444.873 45.765.141

Nguồn: số liệu thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long

Doanh thu từ hoạt động du lịch của vùng ĐBSCL nhìn chung còn

khiêm tốn. Năm 2019 chỉ đạt 30.012.2 tỉ đồng, tăng 26,19 % so với năm 2018

và tăng 120,86 % so với năm 2016.

Những tháng đầu năm 2020, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu chịu

ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, du lịch Việt Nam nói chung và du lịch

ĐBSCL cũng chịu tác động năng nề và suy thoái. 6 tháng đầu năm 2020, theo

thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long thì các chỉ số lượt

67

khách và doanh thu đều giảm khoảng một nửa so với cùng kỳ năm 2019:

Tổng lượt khách đến là 12.661.458 lượt, giảm: 50,22 %. Khách lưu trú là

2.800.674 lượt, giảm: 49 %. Tổng thu từ hoạt động du lịch là 6.253,993 tỉ

đồng, giảm 52,15 %.

Bảng 3.3: Thống kê doanh thu du lịch ĐBSCL năm 2016 – 2020

Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019

ĐVT: Tỉ đồng 6 tháng đầu năm 2020

13.588,418 30.012,2 6.253,993 Doanh thu 17.228,912 23.782,744

Cũng theo thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long

Nguồn: số liệu thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long

thì hiện toàn vùng có 2.821 cơ sở lưu trú và 488 siêu thị đáp ứng nhu cầu lưu

trú và mua sắm cho du khách. Các cơ sở lưu trú đạt chuẩn 5 sao phần lớn tập

trung ở Phú Quốc như: khách sạn MườngThanh Luxury Phú Quốc, Resort

Novotel Phú Quốc, Resort & Spa Salinda Phú Quốc Island, Resort La

Veranda Phú Quốc –Vinpearl Phú Quốc, Resort & Spa The Shells Phú Quốc.

JW Marriott Phu Quoc Emerald Bay… và TP. Cần Thơ như: Mường Thanh,

Vinpearl Cần Thơ.

Năm 2020, ĐBSCL có 12 khu và điểm du lịch cấp quốc gia: Thới Sơn

nằm trong trong cụm cù lao Long, Lân, Quy, Phụng (Tiền Giang và Bến Tre);

Khu Phức hợp giải trí Xứ sở Hạnh phúc (Long An); Vườn Quốc gia Tràm

Chim (Đồng Tháp); Văn Thánh Miếu (Vĩnh Long); Ao Bà Om – Trà Vinh;

Bến Ninh Kiều (Cần Thơ); Núi Sam (An Giang); Cù lao Ông Hổ (An Giang);

68

Khu lưu niệm Đờn ca tài tử và Nhạc sĩ Cao Văn Lầu (Bạc Liêu); Năm Căn –

Mũi Cà Mau (Cà Mau); Hà Tiên (Kiên Giang) và Phú Quốc (Kiên Giang).

Tạp chí du lịch nổi tiếng của Mỹ Travel and Leisure bình chọn ĐBSCL

đứng thứ 11 trong số 20 điểm đến hấp dẫn nhất thế giới. Trong tương lai,

ĐBSCL sẽ nổi lên như một điểm đến thu hút, nhiều triển vọng. Điều này đặt

ra yêu cầu cấp thiết cho việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng.

3.1.4. Đặc trƣng văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long trong phát

triển du lịch

Đặc trưng văn hóa ĐBSCL được tạo nên từ lối sống cộng cư, hòa hợp

của các dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm trong bối cảnh vùng đồng bằng sông

nước Cửu Long.

Cộng đồng cư dân ở ĐBSCL sớm đón nhận văn hóa của Ấn Độ, rồi văn

hóa Trung Hoa... và thời kỳ cận hiện đại là văn hóa phương Tây. Điều đó đã

tạo nên nên nét văn hóa riêng cho vùng ĐBSCL, là nơi gặp gỡ của văn hóa

bản địa và quốc tế, nên nó vừa có cái chung của văn hóa Việt Nam, vừa có nét

riêng, có tính vùng miền của đất phương Nam với tính thoáng và dễ hội nhập.

Trong lịch sử những con người ĐBSCL đã bộc lộ những phẩm chất

đáng quý như: trung thực, khẳng khái trong cuộc sống, cần cù sáng tạo trong

lao động, khoan dung, nhân ái trong giao tiếp, kiên cường, dũng cảm trong

đấu tranh chống giặc ngoại xâm, đoàn kết gắn bó trong cộng đồng và sống

hòa mình với cây cỏ, sông nước” [111, tr.6].

Đây là nơi hình thành nhiều tôn giáo bản địa như Bửu Sơn Kỳ Hương,

Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo…, là cái nôi của di sản văn hóa phi

vật thể đại diện của nhân loại Đờn ca tài tử Nam bộ.

69

Một nét văn hóa đặc sắc của ĐBSCL là hình thức họp chợ trên sông với

nhiều chợ nổi nổi tiếng: chợ nổi Cái Răng – TP. Cần Thơ (Di sản văn hóa phi

vật thể quốc gia), chợ nổi Cái Bè ( Tiền Giang), chợ nổi Ngã Bảy (Hậu

Giang), chợ nổi Long Xuyên (An Giang), chợ nổi Ngã Năm (Sóc Trăng)…

ĐBSCL có nhiều lễ hội, trong đó có những lễ hội thu hút nhiều du

khách như Lễ hội vía Bà Chúa Xứ từ ngày 23/4 đến 27/4 ÂL tại núi Sam, An

Giang; Lễ hội kỷ niệm ngày hy sinh Anh hùng Dân tộc Nguyễn Trung Trực

vào 27 đến 29 tháng 8 ÂL tại Rạch Giá, Kiên Giang; Lễ hội bánh dân gian

Nam Bộ khoảng ngày 8 đến 12 tháng 3 ÂL hàng năm tại TP. Cần Thơ; Lễ hội

Dạ cổ Hoài Lang ngày 12 tháng 9 đến 15 tháng 9 hàng năm tại Bạc Liêu; Các

lễ hội của đồng bào dân tộc Khmer như: Lễ Chôl Chnăm Thmây, là Tết cổ

truyền của người Khmer diễn ra vào giữa tháng 4 dương lịch; Sene Dolta là

Lễ Cúng ông bà từ 29 tháng 8 đến mùng 01 tháng 9 ÂL; Lễ Ok Om Bok là lễ

hội cúng trăng vào đêm rằm tháng 10 ÂL hàng năm…

Ẩm thực độc đáo của ĐBSCL với những món ăn dân dã mang đậm tính

chất ẩm thực “khẩn hoang”, gần gũi thiên nhiên cũng hết sức hấp dẫn du

khách. Là xứ sở của lúa gạo và miệt vườn nên ĐBSCL không thể thiếu các

món ăn từ hương đồng cỏ nội. Từ lúa gạo và sự sáng tạo tài tình của cư dân

đã tạo ra hàng trăm món bánh dân gian khác nhau. Mỗi dân tộc anh em lại có

những nét ẩm thực đặc trưng góp phần làm nên sự đa dạng của ẩm thực

ĐBSCL. Ngoài món “Tung lò mò” (lạp xưởng bò) nổi tiếng, người Chăm ở

ĐBSCL (chủ yếu sinh sống ở tỉnh An Giang) còn có rất nhiều những món ăn

đặc sắc hấp dẫn như cơm nị ăn với “cà púa”, món “ cà ri chà” bò hoặc dê,

cừu, gà, cá... và rất nhiều loại bánh như “đin-pà-gòn”, “ha-nàm-căn”...Người

Khơ-me cũng có nhiều nét ẩm thực riêng như món mắm prahok (tiếng Khơ -

me nghĩa là mắm cá) là thứ không thể thiếu của món bún nước lèo và làm đồ

chấm cho món bò leo núi Tân Châu. Bên cạnh đó, với hương vị độc đáo, món

70

cốm dẹp là món ăn khá phổ biến, đặc trưng của đồng bào Khơ-me Tây Nam

Bộ. Cốm dẹp còn gắn với lễ hội Ok om bok (cúng trăng) một trong ba lễ hội

lớn nhất của người Khơ-me. Người Hoa thì nổi tiếng với các món hủ tiếu, heo

quay, trứng vịt muối, canh thuốc bắc, mì vịt tiềm, phá lấu...

Tất cả những nét văn hóa đều là những tài nguyên du lịch nhân văn đặc

sắc, là nền tảng cho việc phát triển du lịch của vùng. Từ đó, đặt ra yêu cầu

cho việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải nắm rõ đặc trưng văn hóa

và có kỹ năng khai thác để phục vụ khách du lịch đến ĐBSCL.

3.1.5. Đặc điểm về nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông

Cửu Long

Về lực lượng lao động nói chung theo thống kê của Tổng cục Thống

kê năm 2019, lực lượng lao động từ 15 tuổi ở ĐBSCL là 10.102,1 nghìn

người (chiếm 18,1% so với cả nước) xếp 4 trong 6 vùng của cả nước. Tuy

nhiên nếu chia theo trình độ học vấn cao nhất đạt được thì ĐBSCL thấp nhất

cả nước với 18,4 % chưa tốt nghiệp tiểu học, 34,6% tốt nghiệp tiểu học, 26%

tốt nghiệp THCS, 11,3 % tốt nghiệp THPT và 9,7 % trên THPT. [2, tr.124].

Bảng 3.4: Lực lƣợng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo địa phƣơng năm 2019

Vùng Nghìn ngƣời Cơ cấu

CẢ NƯỚC Đồng bằng sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long 55.767,4 12.438,2 7.736,2 11.830,5 3.486,0 10.174,4 10.102,1 100 % 22,3 % 13,9 % 21,2 % 6,2 % 18,2 % 18,1 %

Nguồn: Số liệu thống kê trên website của Tổng cục Thống kê https://www.gso.gov.vn/so-lieu-thong-ke/

71

Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên được đào tạo chuyên môn kỹ thuật của

ĐBSCL theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 thấp nhất cã

nước. Trong đó lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm đến

90,3 %; trình độ sơ cấp chiếm 1,1 %; trình độ trung cấp chiếm 1,8%; trình độ

cao đẳng chiếm 1,6% và trình độ từ đại học trở lên chiếm 5,2 %.

Bảng 3.5: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên đƣợc đào tạo chuyên môn

kỹ thuật theo vùng kinh tế - xã hội năm 2019

ĐVT: %

Tổng số Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng Đại học trở lên

100,0 Không có trình độ CMKT 80,8 3,1 3,5 3,3 9,3

100,0 72,1 5,3 4,7 4,4 13,5

100,0 81,9 3,4 4,8 3,2 6,7

100,0 81,5 2,4 4,1 3,7 8,3

100,0 100,0 86,1 79,2 1,6 3,3 3,1 2,6 2,6 3,3 6,6 11,6

100,0 90,3 1,1 1,8 1,6 5,2 CẢ NƯỚC Đồng bằng sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung Bộ và DH miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long

Nguồn: Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 [2, tr.125]

Trong lĩnh vực du lịch, số lượng lao động toàn ĐBSCL trong thời gian

gần đây cũng tăng đáng kể. Theo thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng

sông Cửu Long năm 2018 là 47.209 người; và năm 2019 số liệu lao động

ngành du lịch của 12 tỉnh ĐBSCL là 52.439 người (tỉnh An Giang không có

thống kê); ước tính năm 2020 lao động trong ngành du lịch của 12 tỉnh

ĐBSCL là 51.867 người (tỉnh An Giang không có thống kê) do ảnh hưởng

của dịch Covid-19.

72

Số lượng này vẫn còn thấp hơn nhiều so với con số dự báo của Viện

Nghiên cứu Phát triển du lịch về nhu cầu nhân lực du lịch ĐBSCL năm 2020

là 75.400 nhân lịch du lịch trực tiếp và 132.500 nhân lực du lịch gián tiếp.

Điều này đặt ra yêu cầu cần tăng cường đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

ĐBSCL.

Một thực trạng đáng lưu ý là chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch

của ĐBSCL còn rất thấp, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo rất lớn. Theo thống

kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long năm 2018 lao động đã

qua đào tạo nghiệp vụ du lịch ĐBSCL ước trên 40%; năm 2019 lao động đã

qua đào tạo nghiệp vụ du lịch của 11 tỉnh ĐBSCL là 21.843 người (tỉnh An

Giang và Kiên Giang không có thống kê) đạt 41,65%; năm 2020 lao động đã

qua đào tạo nghiệp vụ du lịch của 11 tỉnh ĐBSCL ước tính là 22.902 người

(tỉnh An Giang và Kiên Giang không có thống kê) đạt 44,15%. Như vậy có

thể thấy có hơn một nữa (từ 56 đến 60%) lao động ngành du lịch ĐBSCL

chưa qua đào tạo. Điều này là thách thức rất lớn cho việc phát triển du lịch

của vùng, cũng như yêu đòi hỏi phải nâng cao việc đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch ĐBSCL cả về số lượng lẫn chất lượng..

3.2. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU

LỊCH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY

3.2.1. Những kết quả đạt đƣợc trong việc đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long và nguyên nhân

3.2.1.1. Những kết quả đạt được trong việc đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long

Thứ nhất, về chủ thể đào tạo, đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ

quản lý đào tạo du lịch tăng về số lượng và từng bước được chuẩn hóa, nhìn

chung bước đầu đáp ứng những yêu cầu trang bị tri thức, trình độ chuyên môn

73

cho người học. Xu hướng tuyển dụng và hợp đồng giáo viên từ các doanh

nghiệp đối với những ngành phù hợp ngày càng tăng.

Phần lớn giảng viên du lịch ở ĐBSCL là lực lượng trẻ, tuổi đời tập

trung từ 30 đến 40 tuổi. Theo khảo sát của tác giả tại 11 cơ sở đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL có 169 giáo viên, giảng viên. Trong đó có

64 giáo viên, giảng viên nam (chiếm 37,9 %), 105 giáo viên, giảng viên nữ

(chiếm 62,1 %). Tuổi đời dưới 30 tuổi là 37 người (chiếm 21,9%), tuổi đời từ

30 tuổi đến 40 tuổi là 96 người (chiếm 56,8 %), tuổi đời từ 41 tuổi đến 50

tuổi là 28 người (chiếm 16,6 %) và tuổi đời trên 50 tuổi là 8 người (chiếm

4,7 %). (Xem thêm phục lục 2 - Thống kê số lượng giảng viên đào tạo du lịch

theo độ tuổi và giới tính ở một số cơ sở đào tạo ĐBSCL năm học 2019-2020)

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ giảng dạy không ngừng

được nâng cao. Theo khảo sát của tác giả tại 11 cơ sở đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch ở ĐBSCL có 169 giáo viên, giảng viên. Trong đó trình độ đại

học là 29 giáo viên, giảng viên (chiếm 17,2 %), trình độ thạc sĩ là 117 giáo

viên, giảng viên (chiếm 69,2 %), trình độ tiến sĩ là 23 giáo viên, giảng viên

(chiếm 13,6 %). (Xem thêm phục lục 3 - Thống kê số lượng giảng viên đào

tạo du lịch theo trình độ chuyên môn nghiệp vụ ở một số cơ sở đào tạo

ĐBSCL năm học 2019-2020)

Lực lượng làm công tác giảng dạy không ngừng nâng cao trình độ qua

các cuộc thi, thực tế nhà giáo. Hàng năm theo quy định cán bộ giảng dạy cao

đẳng nghề phải tham gia thực tập tại các doanh nghiệp nhằm nâng cao kỹ

năng nghề, cập nhật kiến thức mới. Một số giảng viên giảng dạy tại các cơ sở

đào tạo ở ĐBSCL có điều kiện trao đổi, nâng cao kinh nghiệm giảng dạy như

“Hội giảng nhà giáo Giáo dục nghề nghiệp toàn quốc 2018”, “ Hội thi thiết bị

đào tạo tự làm toàn quốc lần thứ VI, năm 2019”…

74

Đội ngũ giảng viên của các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

nhận được mức độ hài lòng khá cao từ người học. Qua khảo sát của tác giả

đối với 400 học viên, sinh viên đang học tại các trường đào tạo du lịch ở

ĐBSCL, số phiếu thu về 389 phiếu hợp lệ thì có 92 phiếu rất hài lòng về đội

ngũ giảng giảng viên, 257 phiếu hài lòng, 14 phiếu không hài lòng và 26

3%

7%

24%

phiếu rất không hài lòng.

Rất hài lòng Hài Lòng

66%

Không hài lòng

Rất không hài lòng

Hình 3.1: Mức độ hài lòng của ngƣời học đối với đội ngũ giảng dạy tại các cơ sở

đào tạo du lịch ở ĐBSCL

Trong quá trình đào tạo, nhìn chung đội ngũ giảng dạy đã nỗ lực cơ bản hoàn

thành mục tiêu chính là trang bị cho người học những kiến thức căn bản và chuyên

ngành liên quan đến nghề du lịch. Bên cạnh đó việc thỉnh giảng các chuyên gia, giám

đốc kinh doanh du lịch cũng phổ biến giúp cho người học cập nhật kiến thức và đáp

ứng tốt hơn nhu cầu thực tiễn.

Thứ hai, về đối tượng đào tạo, hầu hết người học các chuyên ngành trung

cấp, cao đẳng, đại học du lịch ở ĐBSCL đều có hộ khẩu thường trú tại các địa

phương trong vùng. Điều này góp phần tích cực vào việc đào tạo nguồn nhân lực

tại chổ cho phát triển du lịch của địa phương và cho toàn vùng.

75

Phần lớn sinh viên được hỏi qua khảo sát của tác giả đối với 400 học viên,

sinh viên đang học tại các trường đào tạo du lịch ở ĐBSCL, số phiếu thu về 389

phiếu hợp lệ thì có 241 sinh viên lựa chọn ngành học vì yêu thích hoạt động du

lịch, 38 học viên, sinh viên lựa chọn ngành học theo người thân và 78 học viên,

8%

20%

sinh viên lựa chọn theo bạn bè và lý do khác là 32 học viên, sinh viên.

Theo người thân

62%

10%

Yêu thích du lịch

Theo bạn bè lý do khác

Hình 3.2: Cơ cấu lý do học viên, sinh viên lựa chọn ngành du lịch tại các cơ sở

đào tạo du lịch ở ĐBSCL

Việc từ rèn luyện thể chất, thể lực được đa số học viên, sinh viên chú trọng rèn

luyện tương đối thường xuyên. Có không ít học viên, sinh viên say mê rèn luyện thể

chất, thể lực. Trước xu thế của sự phát triển, đa số học viên, sinh ngày càng ý thức rõ

hơn việc cải thiện phương pháp học tập, làm việc khoa học và thích ứng với môi

trường ngành du lịch, không ngừng tu dưỡng rèn luyện. Có phương pháp làm việc tốt

thì người học sau khi ra trường xin việc làm dễ hơn. Nhiều học viên, sinh viên ra

trường đã xin đi làm trong lĩnh vực du lịch nhờ những kiến thức, phương

pháp làm việc được trang bị trong nhà trường, đã giúp họ dần dần thích ứng

với công việc ở đây.

Thứ ba, về nội dung, chương trình đào tạo ngày càng đa dạng, đã thực

hiện tương đối hợp lý, dần đáp ứng những nhu cầu đào tạo các chuyên ngành

du lịch cơ bản ở ĐBSCL

76

Nội dung đào tạo đối với các chương trình đào tạo về du lịch ở các cơ

sở đào tạo có liên quan đến du lịch của vùng đảm bảo yêu cầu theo trình độ

đào tạo, từ bậc trung cấp đến trình độ cao đẳng, đại học.

Nội dung chương trình đào tạo bám sát mục tiêu chung về phát triển

hoàn thiện nhân cách, đạo đức nghề nghiệp, thể chất, cụ thể hóa đối với từng

đối tượng, từng cơ sở đào tạo. Thông qua hệ thống chương trình nội dung đào

tạo đã trang bị tri thức, kỹ năng cho người học, nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực ngành du lịch. Các cấp học, bậc học mà trực tiếp bậc đại học, cao

đẳng, trung cấp đã phát huy tốt vai trò trong phát triển và hoàn thiện nhân

cách, đạo đức nghề nghiệp của người lao động, đáp ứng ngày càng tốt hơn

yêu cầu phát triển ngành du lịch ĐBSCL.

Các nội dung giáo dục lịch sử, truyền thống giá trị văn hóa dân tộc con

người Việt Nam truyền thống, văn hóa các dân tộc ĐBSCL được đưa vào

giảng dạy với thời lượng khá phù hợp, chiếm tỉ lệ thỏa đáng. Điều này đã tác

động sâu sắc và tạo cơ sở hình thành những phẩm chất tốt đẹp cho nguồn

nhân lực ngành du lịch ĐBSCL.

Cơ sở giáo dục đào tạo ngành du lịch ngày càng phát triển đã đáp ứng

được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Nhiều ngành, nghề đào

tạo mới xuất hiện đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch cũng như nhu cầu phát

triển kinh tế - xã hội trong hội nhập quốc tế, trong đó, có những chuyên ngành

được đào tạo phổ biến ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên

nghiệp trong vùng như: Nghiệp vụ nhà hàng, nghiệp vụ lễ tân, kỹ thuật chế

biến món ăn, quản lý khách sạn, quản lý nhà hàng, hướng dẫn du lịch, quản trị

du lịch và lữ hành, Việt Nam học... (Xem thêm phụ 4 - Các chuyên ngành đào

tạo về du lịch ở vùng ĐBSCL hiện nay).

Chương trình đào tạo được thiết kế theo hệ thống đào tạo tín chỉ. Các

chuyên ngành đào tạo cơ bản đều đáp ứng yêu cầu về nội dung, đảm bảo

77

những kiến thức chung, đến những kiến thức cơ sở ngành, chuyên ngành, đảm

bảo mục tiêu giáo dục toàn diện về thể chất, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp

và chuyên môn nghiệp vụ. Đơn cử như mục tiêu đào tạo ngành cao đẳng Việt

Nam Học, trường đại học An Giang xác định: “Sinh viên tốt nghiệp có kiến

thức, kỹ năng và phẩm chất:

Kiến thức khái quát, phương pháp và cơ sở lý luận để thực hiện

công tác nghiên cứu (trong lĩnh vực du lịch, văn hóa);

Kỹ năng, nghiệp vụ chuyên môn vào hoạt động văn hóa và du

lịch nói chung; đảm bảo đáp ứng những phẩm chất cần thiết khi

hành nghề, nghiên cứu và nâng cao trình độ;

Khả năng làm việc theo nhóm với các chuẩn mực giao tiếp xã

hội trong các hoạt động thuộc môi trường du lịch và văn hóa;

Năng lực thực hành nghề nghiệp trong các lĩnh vực văn hóa, lữ

hành và các tổ chức nghề nghiệp có liên quan.

Trong chương trình đào tạo ngành Việt Nam học của trường ĐH Đồng

Tháp gồm 132 tín chỉ. Trong đó kiến thức giáo dục đại cương là 38 tín chỉ,

khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp là 94 tín chỉ. (xem thêm phụ lục 8).

Trong quá trình đào tạo, do đặc thù ngành du lịch nên trong chương

trình các cơ sở đã tổ chức cho người học tham gia các chuyến thực tế du lịch:

miền Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, Duyên Hải Miền Trung, xuyên Việt…Qua

đó người học ngành du lịch có điều kiện khảo sát thực tế các điểm du lịch, trải

nghiệm các dịch vụ, học hỏi phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa các dân tộc

và địa phương. Bên cạnh đó, cuối khóa đào tạo, người học phải trải qua đợt

thực tập tại các doanh nghiệp lữ hành, nhà hàng, khách sạn…góp phần nâng

cao kỹ năng, nghiệp vụ, vận dụng những kiến thức đã học và thực tiễn, đáp

ứng yêu cầu của doanh nghiệp.

78

Thứ tư, về hình thức đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch vùng

ĐBSCL rất đa dạng. Quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của

vùng được thực hiện xen kẽ các hình thức, từ việc đào tạo chính quy và không

chính quy tại các cơ sở đào tạo, đến việc đào tạo tại các doanh nghiệp và kết

hợp với quá trình tự học của người lao động.

Trình độ đào tạo cũng đa dạng: trình độ đại học để góp phần đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao, và phổ biến chủ yếu tập trung vào hai trình độ

là trung cấp và cao đẳng.

Hệ đại học liên quan đến ngành du lịch được đào tạo chủ yếu ở các

trường như: Trường ĐH An Giang, Trường ĐH Bạc Liêu, Phân hiệu Trường

ĐH Bình Dương tại Cà Mau, Trường ĐH Cần Thơ, Trường ĐH Đồng Tháp,

Trường ĐH Kiên Giang, Trường ĐH Kinh tế Công nghiệp Long An, Trường

ĐH Tiền Giang, Trường ĐH Trà Vinh, Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh

Long. Bên cạnh đó các trường đại học tư thục cũng tham gia vào việc đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch như: Trường ĐH Tây Đô, Trường ĐH Nam

Cần Thơ, Trường ĐH FPT Cần Thơ, Trường ĐH Võ Trường Toản

Hệ Cao đẳng, trung cấp liên quan đến ngành du lịch được đào tạo chủ yếu

ở các trường như: Trường CĐ nghề An Giang, Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật

tỉnh Bạc Liêu, Trường CĐ Bến Tre, Trường CĐ nghề Đồng Khởi, Trường CĐ

cộng đồng Cà Mau, Trường CĐ Cần Thơ, Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Cần

Thơ, Trường CĐ Kiên Giang, Trường CĐ Tiền Giang, Trường CĐ nghề Trà

Vinh, Trường CĐ Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long và một số trường tư thục như:

Trường TC Việt – Hàn Phú Quốc, Trường CĐ FPT Cần Thơ.

Những cơ sở có khoa, ngành liên quan trực tiếp đến đào tạo về du lịch

ở trình độ đại học (như khoa Văn hóa - Du lịch của Trường Đại học Đồng

Tháp) luôn hướng đến trở thành một trung tâm giảng dạy, nghiên cứu chất

79

lượng cao trong nước và quốc tế, đóng vai trò tích cực trong nghiên cứu và

giảng dạy về văn hóa - du lịch trong vùng ĐBSCL; phát triển và nâng cao

chất lượng dạy và học; thường xuyên cập nhật chương trình và nội dung giảng

dạy nhằm phục vụ theo nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp.

Hình thức liên kết, hợp tác trong đào tạo đang được hình thành và

phát triển.

Về liên kết, hợp tác quốc tế: việc hợp tác quốc tế, nhất là vấn đề huy

động nguồn lực quốc tế cho phát triển nhân lực ngành du lịch cả nước nói

chung, của ĐBSCL nói riêng trong những năm qua đã thu được những kết

quả đáng kể, nhất là về kinh phí, kinh nghiệm và công nghệ.

Đó là việc hợp tác để nhận tài trợ từ Chính phủ Luxembourg (dự án

đào tạo nhân lực du lịch - khách sạn; với Liên minh châu Âu (dự án phát triển

nguồn nhân lực du lịch; với Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) trong dự án

“Phát triển du lịch bền vững Tiểu vùng Sông Mekong mở rộng” triển khai

Hợp phần “Phát triển nhân lực du lịch Việt Nam”. Ngoài ra, còn có sự hợp tác

nhằm nhận sự hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức của các quốc gia và các tổ chức

quốc tế như Tây Ban Nha, Singapore, Bỉ, Tổ chức Du lịch thế giới

(UNWTO), Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Thái Lan, Hàn Quốc,

Pháp, Đức, Áo, EU, GMS, ESCAP, ASEAN, ASEAN+1, ASEAN+3...

Bên cạnh đó, ngành du lịch còn tổ chức nhiều chương trình nghiên cứu,

khảo sát, tư vấn, cấp học bổng đào tạo dài hạn, ngắn hạn và các khóa đào tạo

về nghiệp vụ du lịch, ngoại ngữ, kết hợp đào tạo trong nước và chuyển tiếp

chương trình tại nước ngoài, mời chuyên gia, trao đổi thực tập sinh… cũng

được các cơ sở đào tạo đặc biệt chú ý quan tâm, và được coi là một một phần

nội dung chủ yếu và quan trọng trong chương trình đào tạo, nhằm nâng cao

chất lượng của nguồn nhân lực.

80

Về liên kết trong nước: UBND các tỉnh cũng như các cơ quan quản lý

nhà nước trong vùng đều quan tâm đến việc thúc đẩy, tăng cường chỉ đạo tiến

hành thực hiện chủ trương đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội đối với các

cơ sở đào tạo có liên quan. Ngoài ra, từng địa phương đang xây dựng chương

trình phát triển nhân lực ngành du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030 (Ví dụ:

Chương trình phát triển nguồn nhân lực du lịch TP. Cần Thơ, giai đoạn 2017 -

2020, tầm nhìn 2030; Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Long An đến

năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030...).

Đối với các cơ sở đào tạo: nhiều cơ sở đào tạo du lịch đã và đang thực

hiện việc xây dựng chương trình đào tạo thông qua hoạt động liên kết với

nhau, liên kết với doanh nghiệp qua việc đặt hàng của doanh nghiệp về nguồn

nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng của quá trình đào tạo. Đồng

thời, các doanh nghiệp được mời tham gia biên soạn, thẩm định và đánh giá

chương trình đào tạo, hợp tác trong nghiên cứu khoa học, trong giảng dạy,

trong khảo sát chất lượng sau đào tạo…

Điển hình như Trường ĐH Trà Vinh đang áp dụng chương trình Co-

operative Education Programs (viết tắt là Co-op) vào đào tạo, đây là chương

trình được thiết kế giống như một môn học có tín chỉ, là hình thức liên kết

giữa 3 bên: Nhà trường - Doanh nghiệp - Sinh viên trong mọi hoạt động thực

tập nghề và thực tế giảng dạy. Theo định nghĩa của World Association: Giáo

dục Co-op là sự kết hợp giữa việc học trên lớp với thực tiễn ngoài lớp thông qua việc

vận dựng lý thuyết đã học trong thực hành công việc liên quan đến lý thuyết và gần

giống với môi trường làm việc thật và được trả lương, mang đến các thách thức và

nhận thức thực tế tại lớp học, nâng cao kỹ năng phân tích và tư duy. Đây là một

trong những chương trình thành công nhất, là sự kết hợp hoàn hảo giúp cho

sinh viên nắm vững các kiến thức học thuật song song với tích lũy kinh

nghiệm thực tế. Sinh viên sẽ được hỗ trợ mức lương xứng đáng với năng lực

81

của mình. Trường ĐH Trà Vinh là một trong những trường đại học đã và

đang thực hiện chương trình Co-op với mục tiêu vì lợi ích sinh viên, vì gắn

kết cộng đồng, vì việc học gắn với nghề nghiệp và kinh nghiệm tương lai.

Đặc biệt, nhiều cơ sở đào tạo có những hoạt động sáng tạo trong việc

hợp tác và liên kết giữa các cơ sở có đào tạo những ngành về du lịch và liên

quan đến du lịch. Ví dụ như, để giao lưu, học tập chia sẻ kinh nghiệm trong

quản lý đào tạo, trong xây dựng chương trình, giáo trình, trao đổi giảng viên,

giáo viên, sinh viên, hợp tác hỗ trợ nhau đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp

tác quốc tế, liên kết đào tạo chặt chẽ hơn.

Nhiều cơ sở đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và uy tín, đã chủ động

thành lập Ban Hướng nghiệp và Tư vấn việc làm để tư vấn, giới thiệu ngành

nghề, chuyên ngành đào tạo, phương pháp học tập, các chính sách ưu đãi, cơ

hội việc làm, cung cấp hệ thống thông tin việc làm… cho học viên, sinh viên

sau khi tốt nghiệp cho đối tượng tuyển sinh của trường cũng như thông tin

cho các doanh nghiệp về “sản phẩm” mà đơn vị mình đào tạo.

Một số cơ sở đào tạo về du lịch trong vùng đã và đang tham gia với địa

phương về công tác hướng nghiệp và tư vấn việc làm, đào tạo theo yêu cầu xã hội.

Thứ năm, về phương pháp đào tạo ngày càng phong phú, đáp ứng gần

với mục tiêu và nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực du lịch của vùng.

Đối với các cơ sở đào tạo, bên cạnh việc thực hiện các phương pháp

đào tạo truyền thống, như giảng dạy thuyết trình trên lớp để người học nắm

được lý thuyết, các chương trình đào tạo đã đan xen và tăng cường các

phương pháp tích cực, như tham quan thực tế, thực hành đặc biệt là sự kết

hợp giữa nhà trường và doanh nghiệp trong việc đào tạo nguồn nhân lực du

lịch. Đa số giảng viên đã sử dụng công nghệ thông tin vào bài giảng (công

nghệ trình chiếu power point).

82

Các phương pháp đào tạo gắn lý thuyết với thực hành được chú trọng.

Trong quá trình đào tạo người học được trải qua các đợt thực tế. Đó những

chuyến đi học tập, tham quan qua các tuyến điểm du lịch phổ biến ở ĐBSCL,

Tây Nguyên, hành trình di sản miền Trung hay hành trình xuyên Việt. Giúp

người học trải nghiệm các dịch vụ trên thực tế: như vận chuyển, điểm tham

quan, dịch vụ hướng dẫn, nhà hàng, khách sạn. Cuối mỗi chương trình đào tạo

người học phải trải qua thời gian thực tập tại doanh nghiệp du lịch. Thực tập

là giai đoạn học tập thực tế hết sức quan trọng để sinh viên có cơ hội vận

dụng kiến thức đã học vào công việc thực tiễn, củng cố kiến thức và rèn luyện

kỹ năng thực hành tay nghề và tiếp cận thêm các phương pháp đào tạo tại

doanh nghiệp.

Phương pháp đánh giá kết quả học tập cũng được các cơ sở đào tạo

quan tâm. Nhiều mức điểm trong tiến trình đào tạo nhằm đánh giá toàn diện

người học được áp dụng. Phổ biến như cách đánh giá theo thang điểm: trong

quá trình học tập trên lớp: 4.0 điểm (chuyên cần: 1.0 điểm, kiểm tra giữa môn

học: 1.0 điểm, kiểm tra thường xuyên môn học: 4.0 điểm) và điểm thi kết thúc

môn học: 6.0 điểm

Thứ sáu, về môi trường đào tạo, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch không ngừng mở rộng và nâng cấp

Theo trích dẫn của tác giả Nguyễn Văn Lưu (2014) trong nghiên cứu

“Phát triển nguồn nhân lực – yếu tố quyết định sự phát triển của ngành du

lịch Việt Nam”, trên địa bàn vùng ĐBSCL có 24 trường trong tổng số 284 cơ

sở đào tạo du lịch trên cả nước, trong đó có 9 trường đại học tham gia đào tạo

du lịch, 7 trường cao đẳng tham gia đào tạo và dạy nghề du lịch và 8 trường

trung cấp đào tạo và dạy nghề du lịch. [64, tr.246].

09 trường đại học là: trường ĐH An Giang, trường ĐH Cần Thơ,

trường ĐH Tây Đô, trường ĐH Đồng Tháp, trường ĐH Võ Trường Toản,

83

trường ĐH Kinh tế Công nghiệp Long An, trường ĐH Tiền Giang, trường ĐH

Trà Vinh, trường ĐH dân lập Cửu Long; 07 trường cao đẳng là: trường CĐ

Bến Tre, trường CĐ Cần Thơ, trường CĐ Sư phạm Kiên Giang, trường CĐ

Kinh tế - Kỹ thuật Kiên Giang, trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Tiền Giang,

trường CĐ Sư phạm Trà Vinh, trường CĐ Sư phạm Vĩnh Long; 08 trường

trung cấp là: trường TC Văn hóa Nghệ thuật Bến tre, trường TC Văn hóa

Nghệ thuật Bạc Liêu, trường TC Văn hóa Thể thao và Du lịch Cà Mau,

trường TC Du lịch Cần Thơ, trường TC Bách Nghệ Cần Thơ, trường TC Văn

hóa Nghệ thuật Cần Thơ, trường TC nghề Du lịch Kiên Giang, trường TC

Văn hóa Nghệ thuật Tiền Giang. [64, tr.258]. Trong đó theo thống kê không

có cơ sở đào tạo du lịch nào Sóc Trăng.

Hiện nay, quy mô đào tạo về nguồn nhân lực ngành du lịch đã tăng lên.

Theo khảo sát thống kê của tác giả luận án, hiện nay ở ĐBSCL có 15 trường

đại học đào tạo du lịch: Trường ĐH An Giang, Trường ĐH Bạc Liêu, Phân

hiệu Trường Đại Học Bình Dương tại Cà Mau , Trường ĐH Cần Thơ, Trường

ĐH Tây Đô, Trường ĐH Nam Cần Thơ, Trường Đại học FPT Cần Thơ,

Trường ĐH Đồng Tháp, Trường ĐH Võ Trường Toản, Trường ĐH Kiên

Giang, Trường ĐH Kinh tế Công nghiệp Long An, Trường ĐH Tiền Giang,

Trường ĐH Trà Vinh, Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long, Trường ĐH

Cửu Long.

Toàn vùng có 13 trường cao đẳng đào tạo du lịch và các ngành có liên

quan: Trường CĐ nghề An Giang, Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật tỉnh Bạc

Liêu, Trường CĐ Bến Tre, Trường CĐ nghề Đồng Khởi, Trường CĐ cộng

đồng Cà Mau, Trường CĐ Cần Thơ, Trường CĐ Du lịch Cần Thơ, Trường

CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ, Trường CĐ FPT Cần Thơ, Trường CĐ Kiên

Giang, Trường CĐ Tiền Giang, Trường CĐ nghề Trà Vinh, Trường CĐ Kinh

tế - Tài chính Vĩnh Long.

84

Các trường trung cấp đào tạo du lịch ở ĐBSCL có xu hướng nâng cấp

thành trường cao đẳng hoặc sáp nhập với các trường khác. Ví dụ: sáp nhập

Trường TC Văn hóa nghệ thuật Bến Tre vào Trường CĐ Bến Tre năm 2018;

sáp nhập Trường TC Văn hóa nghệ thuật Bạc Liêu vào Trường CĐ Kinh tế -

Kỹ thuật Bạc Liêu năm 2018; Sau khi Trường TC Văn hóa - Thể thao và Du

lịch Cà Mau giải thể năm 2015, toàn bộ chức năng, nhiệm vụ, hiện trạng tổ

chức cùng nhân sự đang làm việc tại khoa văn hóa du lịch chuyển sang Trường

CĐ Cộng đồng Cà Mau; Năm 2017, thành lập Trường CĐ Văn hóa nghệ thuật

Cần Thơ tiền thân là Trường TC Văn hóa nghệ thuật Cần Thơ nhưng chỉ tập

trung đào tạo các ngành về nghệ thuật, quản lý văn hóa; Năm 2019, Trường TC

Kinh tế - Kỹ thuật Tiền Giang, Trường TC nghề Giao thông vận tải Tiền Giang

và Trường TC Văn hóa nghệ thuật Tiền Giang được sáp nhập vào Trường CĐ

Tiền Giang.

Hiện tại, toàn vùng có 3 trường trung cấp đào tạo nguồn nhân lực cho

ngành du lịch Trường TC nghề Châu Đốc, Trường TC Việt – Hàn Phú Quốc,

Trường TC Sài Gòn - Phân hiệu Sóc Trăng.

Đặc biệt, để đáp ứng nhu cầu đào tạo trong bối cảnh hội nhập quốc tế

và cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều cơ sở đào tạo, nhất là các trường đại học

đều chú trọng đến việc đầu tư kết cấu hạ tầng hiện đại để thiết lập hệ thống

quản lý tiên tiến.

Đặc biệt, Trường CĐ Du lịch Cần Thơ là trường cao đẳng duy nhất tại

ĐBSCL trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chuyên đào tạo nguồn

nhân lực trong lĩnh vực du lịch. Hiện trường đang đào tạo 04 ngành thuộc hệ

cao đẳng (Quản trị Lữ hành, Hướng dẫn Du lịch, Quản trị Khách sạn, Quản

trị Nhà hàng) và 05 ngành thuộc hệ trung cấp (Hướng dẫn Du lịch, Kỹ thuật

chế biến món ăn, Nghiệp vụ Lễ tân, Quản lý và kinh doanh khách sạn, Nghiệp

vụ nhà hàng). Trường được trang bị đầy đủ các trang thiết bị giảng dạy lý

85

thuyết và phòng học thực hành đạt chuẩn do Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch

và dự án EU cung cấp và tài trợ… Trường đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch cùng UBND TP Cần Thơ đầu tư xây dựng cơ sở mới của trường, có

diện tích 4,2 ha tại khu vực Cồn Khương, quận Ninh Kiều.

3.2.1.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được

Một là, Đảng và Nhà nước ngày càng chú trọng, quan tâm đến sự phát

triển bền vững của vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và phát triển

du lịch của vùng nói riêng.

ÐBSCL là vùng đất có tầm quan trọng đặc biệt đối với quá trình phát

triển kinh tế - xã hội đất nước. Với vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên thuận

lợi, trong đó sẵn có tài nguyên đất, ÐBSCL có nhiều lợi thế để phát triển bền

vững trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Những năm qua, Đảng và Nhà

nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, triển khai nhiều giải pháp để phát

huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội ÐBSCL. Cụ thể

như: Kết luận số 28-KL/TW ngày 14 tháng 8 năm 2012 của Bộ Chính trị về

phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an

ninh, quốc phòng vùng ÐBSCL đến năm 2020; Đề án phê duyệt vùng kinh tế

trọng điểm vùng ÐBSCL, số 492/QĐ-TTg, ngày 16 tháng 4 năm 2009 của

Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững

ÐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu ngày 17 tháng 11 năm 2017 của Chính

phủ. Đặc biệt là Quyết định phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng

ÐBSCL đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 của Chính phủ ngày 15

tháng 01 năm 2018. Theo đó, phát triển vùng ÐBSCL theo hướng tăng trưởng

xanh, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu; có vai trò, vị thế quan trọng

đối với quốc gia và khu vực Đông Nam Á; trở thành vùng trọng điểm quốc

gia về sản xuất nông nghiệp và đánh bắt, nuôi trồng thủy sản; phát triển mạnh

kinh tế biển, du lịch sinh thái cảnh quan sông nước. Bên cạnh đó, còn có

86

Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng ÐBSCL đến

năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ ngày 18 tháng

11 năm 2016…

Sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã

hội cũng như du lịch của vùng đã tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương

trong vùng xây dựng và thực hiện những chiến lược, kế hoạch phát triển, đào

tạo nguồn nhân lực, trong đó có nguồn nhân lực ngành du lịch.

Hai là, trình độ phát triển kinh tế và phát triển du lịch của vùng Đồng

bằng sông Cửu Long ngày càng cao.

Trong thời gian qua, vùng ÐBSCL đã có sự phát triển rõ rệt, đạt

được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực

nông nghiệp, nông thôn. Cơ sở hạ tầng từng bước được đầu tư đồng bộ, đảm

bảo phục vụ tốt hơn cho các hoạt động kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân

không ngừng cải thiện; đã khẳng định được vị thế là trung tâm sản xuất, xuất

khẩu lúa gạo, thủy hải sản và cây ăn quả hàng đầu của cả nước, góp phần

bảo đảm an ninh lương thực, mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể phục vụ

phát triển đất nước. vùng luôn duy trì tốc độ tăng trưởng cao liên tục so với

bình quân chung của cả nước; Nhiều cơ chế chính sách đúng đắn đã tạo điều

kiện sản xuất phát triển, đặc biệt là các ngành sản xuất gắn với tiềm năng thế

mạnh của vùng; Cơ cấu kinh tế của tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực

hiện đại, tỷ trọng ngành công nghiệp dịch vụ gia tăng và giảm dần tỷ trọng

ngành nông nghiệp.

Trình độ phát triển kinh tế tạo nên nền tảng vật chất để đầu tư, giải

quyết các vấn đề liên quan đến giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, trong đó có

nguồn nhân lực ngành du lịch.

87

Ba là, sự đổi mới trọng nhận thức, tư duy, hành động của cả hệ thống

chính trị cũng như người dân ở các địa phương trong vùng về phát triển du

lịch và nguồn nhân lực du lịch của vùng.

Du lịch vùng ÐBSCL ngày càng tiến bộ vượt bậc. Một trong những

nguyên nhân chính là cả hệ thống chính trị cùng nhân dân các địa phương đều

nâng cao nhận thức về vai trò của ngành du lịch, coi du lịch là ngành kinh tế

quan trọng, trọng điểm để phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Từ đó, các địa

phương không chỉ tích cực quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, như huy động

nguồn vốn rất lớn để hoàn thiện cơ sở hạ tầng (cảng hàng không, cảng biển,

hệ thống đường thủy nội địa quốc gia, quốc lộ, tỉnh lộ, hệ thống giao thông

nông thôn…), mà đặc biệt là luôn có những chính sách ưu tiên trong đào tạo,

phát triển nguồn nhân lực du lịch của địa phương.

Các chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực du lịch của vùng cũng

rất phong phú, đa dạng: Từ những hoạt động riêng lẻ của từng địa phương,

doanh nghiệp, đến các hoạt động liên kết, hợp tác giữa các địa phương. Theo

đó, các địa phương đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn, khóa đào tạo do

Tổng cục Du lịch, Cục công tác phía Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)

và dự án EU tổ chức. Phối hợp với các cơ sở đào tạo (như trường Cao đẳng

nghề du lịch Sài Gòn) hoàn chỉnh đề cương Chương trình phát triển nguồn

nhân lực du lịch và nâng cao nhận thức của TP. Cần Thơ; phối hợp với dự án

EU tổ chức buổi thảo luận nâng cao năng lực tổ chức công tác phát triển

nguồn nhân lực du lịch và xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực du

lịch 3 tỉnh/thành ÐBSCL: An Giang, Cần Thơ, Kiên Giang…Bên cạnh đó,

các địa phương đã phối hợp với các cơ sở đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch tổ chức các buổi hội thảo liên quan, như hội thảo “Thực trạng và giải

pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch Đồng bằng sông Cửu Long”...

88

Sự nhận thức đúng đắn và những hành động tích cực của các địa

phương là nguyên nhân quan trọng cho những kết quả trong công tác đào tạo

nguồn nhân lực du lịch của vùng.

Bốn là, nhận thức của các cơ sở đào tạo về việc đổi mới, nâng cao chất

lượng đào tạo cũng như nhận thức của các doanh nghiệp du lịch và người

dân về vai trò của đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch ngày

càng được phát huy.

Trước những đòi hỏi, yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo

nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cũng như những tác động của

những thành tựu về khoa học công nghệ, đã góp phần nâng cao tính chủ động,

tích cực, sáng tạo của các nhà quản lý các cơ sở đào tạo, cũng như nhận thức

của đội ngũ giảng viên, giáo viên trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy.

Đây là nhân tố cơ bản góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong đào tạo

nguồn nhân lực du lịch ở ĐBSCL hiện nay.

Mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch các trình độ trong Vùng được hình thành

và mở rộng. Theo đó, số lượng cơ sở đào tạo tăng nhanh và được thực hiện ở

hầu hết các tỉnh với cơ cấu đa dạng về loại hình và cấp đào tạo, ngành nghề đào

tạo. Các cơ sở đào tạo phần lớn tập trung ở các đô thị, trung tâm du lịch trọng

điểm, địa bàn đông dân cư, nên tạo điều kiện thuận lợi cho người học.

Đặc biệt, thực hiện Công văn số 4929 /BGDĐT-GDĐH ngày 20 tháng

10 năm 2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Áp dụng cơ chế đặc thù đào

tạo các ngành về du lịch, một số trường đại học trong vùng đã xây dựng

chương trình đào tạo trình độ đại học với các ngành đặc thù như ngành Du

lịch (7810101); Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành (7810103); Quản trị khách

sạn (7810201); Quản trị nhà hàng và dịch vụ ăn uống (7810202) và các mã

ngành đào tạo thí điểm trong lĩnh vực du lịch chưa có trong Danh mục giáo

dục đào tạo cấp IV hiện hành để đáp ứng nhu cầu về nhân lực du lịch.

89

Để đáp ứng nhu cầu nhân lực ngày càng tăng của ngành du lịch, trong

những năm gần đây, một số cơ sở đào tạo bậc đại học của vùng đã tập trung

phát triển những khoa liên quan đến đào tạo về du lịch trở thành những đơn vị

hàng đầu trong đào tạo: Từ quá trình nâng cao chất lượng giảng dạy, đổi mới

chương trình đào tạo theo hướng ứng dụng, nâng cao chất lượng đội ngũ

giảng viên, đầu tư trang thiết bị hỗ trợ, đến hoạt động hợp tác - liên kết đào

tạo với các cơ sở giáo dục trong và ngoài nước, hợp tác với các cơ quan -

doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học đáp ứng nhu cầu nhân lực

trong nước và tham gia xuất khẩu lao động làm du lịch.

Ngoài ra, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng

ngày càng được hoàn thiện và nâng cao về cơ sở vật chất phục vụ công tác

đào tạo.

Theo đó, cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo đã có nhiều tiến bộ,

ngày càng hiện đại hóa dù các cơ sở còn khó khăn về kinh phí đầu tư, như đầu

tư xây dựng cơ sở thực hành (xưởng trường, khách sạn trường…), xây dựng

trung tâm thực hành nghề... Ngoài ra, một số đại học, cao đẳng cũng ngày

càng được xây dựng và mở rộng nhiều hơn, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho

công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch.

Đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch cũng ngày càng nhận

thức được vai trò, tầm quan trọng của công tác đào tạo, đào tạo lại nguồn

nhân lực trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như sự phát triển của

đơn vị mình.

Cùng với đó, bản thân mỗi người lao động cũng được nâng cao nhận

thức về vai trò của việc học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để

có thể tồn tại và phát triển nghề nghiệp trong xu thế thay đổi, phát triển chung

của ngành du lịch cũng như của địa phương. Từ đó góp phần nâng cao tính tự

90

giác, chủ động của người lao động trong việc tham gia tích cực vào các hoạt

động đào tạo tại các doanh nghiệp, địa phương cũng như các cơ sở đào tạo.

Năm là: Đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo du

lịch tăng về số lượng và từng bước được chuẩn hóa. Xu hướng tuyển dụng và

hợp đồng giáo viên từ các doanh nghiệp đối với những ngành phù hợp ngày

càng tăng. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo chuyên về du lịch đã chủ động xây

dựng chương trình, giáo trình. Một số khoa và bộ môn du lịch ở các trường

đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp, trường dạy nghề đã và đang

xây dựng chương trình các chuyên ngành, các nghề du lịch; biên soạn giáo

trình và tài liệu tham khảo, chuyên khảo.

3.2.2. Hạn chế trong đào tạo nguồn nhân lực du dịch vùng Đồng

bằng sông Cửu Long và nguyên nhân

3.2.2.1. Hạn chế trong việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch Đồng

bằng sông Cửu Long

Thứ nhất, hạn chế của chủ thể đào tạo: việc trang bị bồi dưỡng tri thức,

trình độ chuyên môn, trình độ tư duy, phương pháp làm việc cho người học

của đội ngũ giảng viên, quản lý giáo dục còn hạn chế.

Đội ngũ giảng viên của các trường trung cấp, cao đẳng, đại học đào tạo

du lịch đang tự một mâu thuẫn rất khó giải quyết giữa đảm bảo cuộc sống

bình thường với việc nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học.

Nếu tập trung giảng dạy, học tập nghiên cứu thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong

cuộc sống. Nếu dành thời gian giải quyết cuộc sống thì lại ảnh hưởng về chất

lượng giảng dạy nâng cao trình độ. Đây là vấn đề các cấp lãnh đạo, quản lý,

các cơ quan chức năng cần lưu tâm giải quyết, cải thiện, tạo điều kiện cho

giảng viên làm việc tốt hơn. Tình trạng không ít giảng viên chỉ chú trọng dạy

kiến thức, chưa thật sự quan tâm đào tạo rèn luyện trình độ tư duy, kỹ năng

nghề, phương pháp cho người học. Bản thân trình độ tư duy lý luận phương

91

pháp của một số giảng viên còn hạn chế, đặc biệt là giảng viên trẻ, chưa đáp

ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của ngành du lịch.

Hiện tại, số lượng giảng viên còn ít, một giảng viên phải dạy rất nhiều

tiết. Một năm học nhiều giảng viên có tổng số tiết thực tế lên đến 770 tiết.

tự giác đến đối tượng đào tạo.

Một số chủ thể đào tạo của vùng ĐBSCL còn hạn chế trong việc tác động tích cực,

Vì thiếu số lượng giảng viên, nên một số cơ sở đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch ở ĐBSCL đã tiến hành ghép lớp (hai lớp thành một lớp học

chung một môn học) nên số lượng sinh viên trong lớp có trường hợp gần 150

sinh viên. Việc thỉnh giảng giáo viên giảng viên từ các doanh nghiệp kinh

doanh du lịch là một cách làm hiệu quả để bổ khuyết cho lực lượng chủ thể

đào tạo bị thiếu hụt nhưng cũng làm phát sinh một số vấn đề về kinh nghiệm

giảng dạy, nghiệp vụ sư phạm và xếp thời khóa biểu theo lịch trống của doanh

nghiệp. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du

lịch của vùng.

Theo khảo sát của tác giả và báo cáo của các cơ sở đào tạo về trình độ

chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ làm công tác giảng dạy thì phần lớn giáo

viên giảng viên giảng dạy du lịch ở ĐBSCL có chuyên môn từ các ngành

khác như địa lý, văn hóa học, văn học, lịch sử…

Theo khảo sát của tác giả tại 11 cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du

lịch ở ĐBSCL có 169 giáo viên, giảng viên. Trong số lượng giảng viên có

trình độ chuyên môn nghiệp vụ du lịch chỉ có 93 giáo viên giảng viên chiếm

55 % (34 giáo viên, giảng viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ du lịch sơ

cấp, trung cấp, cao đẳng; 59 giáo viên, giảng viên có trình độ chuyên môn

nghiệp vụ du lịch từ đại học trở lên. Số lượng giáo viên được đào tạo các

chuyên ngành du lịch ở nước ngoài là 18 giảng viên. Đa số là giảng viên của

92

trường ĐH Cần Thơ (15 giảng viên). (Xem thêm phụ lục 5 - Thống kê số

lượng giảng viên đào tạo du lịch theo trình độ chuyên môn nghiệp vụ du lịch

ở một số cơ sở đào tạo ĐBSCL năm học 2019-2020).

Mức lương của giáo viên, giảng viên đào tạo nguồn nhân lực ngành du

lịch nhìn chung còn rất thấp. Điều này gây khó khăn cho việc chuyên tâm cho

công tác giảng dạy, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Qua khảo sát tác giả

nhận thấy nhiều giảng viên sau khi học sau đại học ở nước ngoài có xu hướng

chuyển đơn vị công tác lên các cơ sở đào tạo ở TP. Hồ Chí Minh để làm việc.

Lực lượng giáo viên, giảng viên đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

ở ĐBSCL có tuổi đời còn khá trẻ, số năm công tác trong ngành giáo dục còn

chưa nhiều nên kinh nghiệp giảng dạy cũng còn hạn chế.

Thứ hai, hạn chế của đối tượng đào tạo: tình trạng thiếu ý chí, quyết

tâm vươn lên, ngại khó ngại khổ, thiếu quyết tâm cống hiến của học viên, sinh

luyện văn hóa, kinh tế, chuyên môn chính trị, ngoại ngữ… Người học cũng nặng

viên vẫn diễn biến phức tạp. Đối tượng đào còn hạn chế trong việc phấn đấu, rèn

về lý thuyết, điểm số, ít để ý đến việc chọn những công việc làm thêm hay cơ

hội thực tập trước khi ra trường.

Định hướng ngành nghề cho người học là tìm học ngành nghề kiếm

được nhiều tiền, dễ xin việc làm, dễ sống, còn tồn tại tình trạng bệnh thành

tích trong một số cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL.

Chất lượng đầu vào của đối tượng đào tạo một số trường nhìn chung

còn thấp. Nhiều cơ sở đào tạo áp dụng hình thức xét tuyển theo học bạ nhưng

vẫn không tuyển đủ chỉ tiêu. Việc nới rộng công tác xét tuyển nguyện vọng 1,

nguyện vọng 2, nguyện vọng 3 nên càng tạo tâm lý cho học viên thích học đại

học, hơn học nghề. Từ đó, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở

ĐBSCL muốn tồn tại phải tiến hành tăng cường công tác tuyển sinh “vét”

93

từng thí sinh một qua nhiều đợt xét tuyển nên chất lượng đầu vào ở một số cơ

sở đào tạo nhìn chung không cao.

Một số cơ sơ không tuyển sinh được, các chuyên ngành du lịch phải

tạm ngưng do không có người học như ngành CĐ Việt Nam Học trường CĐ

Bến Tre, ngành CĐ Văn hóa du lịch trường ĐH Bạc Liêu…

Theo khảo sát của tác giả tại 11 cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du

lịch ở ĐBSCL năm học 2019-2020 tuyển sinh được 1.723 chỉ tiêu (Trong đó

có 785 sinh viên đại học, 770 sinh viên cao đẳng, và 168 học viên trung cấp

du lịch). Đây là con số khá thấp. Số lượng người học du lịch tốt nghiệp năm

học 2019-2020 là 770 người (trong đó có 374 người tốt nghiệp đại học, 333

người tốt nghiệp cao đẳng, và 63 người tốt nghiệp trung cấp du lịch).

Số lượng sinh viên bỏ học giữa chừng ở các cơ sở đào tạo du lịch ở

ĐBSCL là khá lớn. Đơn cử như trường CĐ Cần Thơ ngành CĐ Quản trị dịch

vụ du lịch và lữ hành năm 2019-2020 tuyển được 157 sinh viên như thực học

hiện nay chỉ còn 124 sinh viên. Ngành CĐ Việt Nam Học năm 2019-2020

tuyển được 152 sinh viên như thực học hiện nay chỉ còn 105 sinh viên. (Xem

thêm phụ lục 6 - Thống kê số lượng học viên, sinh viên du lịch ở một số cơ sở

đào tạo ĐBSCL năm học 2019-2020).

Bên cạnh đó, khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học còn rất hạn

chế. Theo khảo sát của tác giả đối với 30 giáo viên, giảng viên các cơ sở đào

tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL về khả năng tự học, tự nghiên cứu

của học viên, sinh viên thì chỉ có 5 giảng viên lựa chọn hài lòng, 14 giảng

viên chọn không hài lòng và 11 giảng viên chọn rất không hài lòng

0%

17%

37%

94

Không hài lòng

46%

Rất hài lòng Hài Lòng

Rất không hài lòng

Hình 3.3: Cơ cấu mức độ hài lòng của giáo viên, giảng viên về khả năng tự

học, tự nghiên cứu của học viên, sinh viên tại các cơ sở đào tạo du lịch

ở ĐBSCL

Thứ ba, hạn chế về nội dung, chương trình đào tạo: các cấp đào tạo

đang trong quá trình hoàn thiện về chương trình, giáo trình đào tạo và chưa

thực sự hoàn chỉnh về yêu cầu kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Có những

giáo trình ở một số trường chưa đạt tiêu chuẩn. Tính liên thông của chương

trình đang là vấn đề cần giải quyết. Chương trình đào tạo ít thực tế và nặng lý

thuyết. Các chương trình đào tạo về du lịch ở các trường của vùng không

phong phú, thậm chí nhiều ngành liên quan trực tiếp đến du lịch không có.

Các chuyên ngành đào tạo còn theo xu hướng chung chung chưa hướng

vào các ngành nghề nghiệp vụ cụ thể. Phần lớn các cơ sở đào tạo nguồn nhân

lực ngành du lịch ở ĐBSCL tập trung vào 2 ngành chính là Việt Nam học và

Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành. Sinh viên ra trường được xác định sẽ làm

hầu hết các lĩnh vực của hoạt động du lịch nên không chuyên sâu. Ví dụ về vị

trí làm việc sau khi tốt nghiệp ngành Việt Nam học nhiều trường xác định:

Sau khi tốt nghiệp sinh viên có khả năng đảm nhiệm vị trí công việc

như sau: thuyết minh viên tại các khu du lịch, bảo tàng, di tích lịch

95

sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh,…; hướng dẫn viên du lịch tại các

công ty du lịch, các trung tâm dịch vụ lữ hành; làm việc trong các

bộ phận nghiên cứu và phát triển du lịch, điều hành, kinh doanh lữ

hành, tiếp thị du lịch; làm việc trong những lĩnh vực nhà hàng,

khách sạn, văn phòng du lịch hoặc các lĩnh vực liên quan: Tổ chức

sự kiện, quảng cáo, tiếp thị,...

Các trường đại học, cao đẳng chuyên nghiệp có chương trình đào tạo

ngành học du lịch cũng chưa thống nhất cơ bản được chương trình khung đào

tạo. Việc đào tạo nghề du lịch cũng đang tồn tại nhiều hệ thống trên chuẩn

khác nhau: Hệ thống trên chuẩn nghề quốc gia có 8 nghề thuộc nhóm du lịch,

do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành; Hệ thống trên chuẩn kỹ năng

nghề du lịch VTOS gồm 10 nghề do dự án EU hỗ trợ xây dựng; hệ thống trên

chuẩn kỹ năng nghề ASEAN gồm 6 nghề đã được Bộ trưởng các nước

ASEAN ký cam kết thực hiện.Việc tồn tại cùng lúc nhiều hệ thống trên chuẩn

như vậy cũng gây khó khăn cho việc quản lý của các cơ quan quản lý nhà

nước, cũng như lúng túng cho các doanh nghiệp sử dụng nhân lực du lịch.

Bên cạnh đó, tình trạng cơ sở đào tạo du lịch còn thiếu nhạy bén, linh

hoạt, hình thức, chưa xuất phát từ nhu cầu xã hội trong xây dựng chương trình

đào tạo còn phổ biến, cho nên danh mục các ngành nghề đào tạo còn lạc hậu,

chậm sửa đổi và bổ sung để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về nhân lực cũng

như yêu cầu phát triển của khoa học – công nghệ và hội nhập quốc tế.

Trong quá trình xây dựng các chương trình đào tạo, nhiều cơ sở đào tạo

chưa ý thức được nét đặc trưng văn hóa miền Tây Nam Bộ trong đào tạo nhân

lực du lịch vốn được xem là “đại sứ văn hóa” nhằm giới thiệu đặc trưng văn

hóa địa phương cho du khách. Chương trình đào tạo về ngoại ngữ cũng như

kỹ năng mềm chưa thực sự được quan tâm để người học có thể đáp ứng nhu

cầu của công việc.

96

Thứ tư, hạn chế về hình thức đào tạo: hình thức liên kết đào tạo trong

nước và quốc tế còn nhiều hạn chế. Hạn chế trong hợp tác quốc tế về đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch được biểu hiện cụ thể như sau:

Việc liên kết quốc tế trong đào tạo phát triển nhân lực ngành du lịch

chủ yếu mới dừng ở việc ký hiệp định hợp tác; nội dung hợp tác mới tập trung

vào khai thác công nghệ, kinh nghiệm, kiến thức của các chuyên gia nước

ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài, nên chưa được cụ thể hóa và chưa

đạt được hiệu quả mong muốn.

Ngoài ra, chương trình hợp tác quốc tế chưa được các cơ sở đào tạo

chuẩn bị xây dựng một cách chủ động, nên phần lớn các đơn vị còn lúng túng

trong tìm đối tác và thường là thụ động trông chờ hỗ trợ của Nhà nước. Trên

thực tế, đã có một số cơ sở đào tạo xây dựng các quan hệ hợp tác với cơ sở

đào tạo ngoài nước, nhưng còn hạn chế về nhiều mặt cả về nhân lực, trang

thiết bị và các điều kiện khác nên còn khó khăn trong triển khai.

Đối với hoạt động liên kết đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch trong

nước, thì đào tạo theo nhu cầu xã hội chưa được thực hiện tốt. Hơn nữa, mặc

dù hoạt động liên kết giữa 3 nhà (Nhà nước - Nhà trường - Nhà sử dụng lao

động) đã khắc phục được một số hạn chế, nhưng vẫn còn rời rạc. Việc liên kết

giữa các cơ sở đào tạo về du lịch trong vùng chưa hiệu quả. Thông tin về định

hướng phát triển nhân lực du lịch, như thông tin về dự báo nhu cầu lao động,

các chuẩn ngành, nghề…từ các cơ quan quản lý nhà nước đến các cơ sở đào

tạo và doanh nghiệp chưa thường xuyên, mà chủ yếu do cơ sở đào tạo và

doanh nghiệp tự tìm tòi là chính, nên còn có hiện tượng cung không gặp cầu.

Chưa có chính sách cụ thể, hiệu quả và bền vững để gắn kết cơ sở đào tạo với

các cơ sở sử dụng nhân lực và những chính sách ưu tiên đủ mạnh để khuyến

khích doanh nghiệp du lịch tham gia đào tạo tại các cơ sở đào tạo. Các thông

tin về định hướng phát triển nguồn nhân lực du lịch (nhất là thông tin dự báo

97

cụ thể về nhu cầu lao động, các chuẩn ngành nghề) chưa thực sự được

“chuyển giao” thông suốt giữa các bên liên quan khiến cho nhu cầu đào tạo và

nhu cầu lao động chưa được nhận biết một cách chính xác. Các cơ sở đào tạo

chưa quan tâm nhiều hoặc chưa tìm được phương thức hữu hiệu và cơ sở dữ

liệu chính xác để đánh giá thực trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt

nghiệp. Về phía doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp chưa thực sự hỗ trợ mạnh

mẽ cho nhà trường trong việc tiếp nhận học viên, sinh viên tham quan, thực

tập cũng như sắp xếp cho họ công việc phù hợp ngành nghề đào tạo trong thời

gian thực tập. Việc bố trí thực tập trái chuyên ngành đào tạo còn nhiều…, từ

đó ảnh hưởng đến nhận thức và thái độ nghề nghiệp của người học.

Hình thức liên kết đào tạo với doanh nghiệp trong nước còn những hạn

chế như sau:

Mặc dù các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp về du lịch ở ĐBSCL

hiện nay đã và đang nâng cao nhận thức cũng như có những chủ trương, hoạt

động cụ thể trong việc đẩy mạnh liên kết đào tạo, nhưng trên thực tế, hoạt

động này vẫn chưa thực sự mang tính phổ biến, hiệu quả. Hiện trạng vẫn phổ

biến là các cơ sở đào tạo tương đối độc lập trong đào tạo, từ nội dung chương

trình đào tạo, hoạt động khoa học công nghệ, đội ngũ làm công tác đào tạo,

trong xây dựng chiến lược, mục tiêu phát triển… Còn các doanh nghiệp

thường tiến hành tuyển dụng một cách độc lập, ít có sự gắn kết, ràng buộc hay

phối hợp với các cơ sở đào tạo.

Các hình thức liên kết chưa phong phú. Theo kết quả khảo sát của tác

giả đối với 20 cán bộ phóng Đào tại cơ sở đào tạo có liên quan đến du lịch,

thì hình thức liên kết chủ yếu là gửi sinh viên thực tập, thực tế, mời chuyên

gia vào giảng dạy … Các hình thức khác như tham khảo ý kiến của các

doanh nghiệp về mục tiêu, chương trình, nghiên cứu khoa học, hỗ trợ học

bổng… còn hạn chế.

25

20

15

10

5

0

Hỗ trợ học bổng Liên kết trong

Hỗ trợ việc làm Mời thỉnh giảng

Xây dựng đề cương

Gửi HS/SV thực tập

NCKH

98

Hình 3.4: Các hình thức liên kết doanh nghiệp tại các cơ sở đào tạo du lịch

ở ĐBSCL

Thứ năm, hạn chế về phương pháp đào tạo

Với những yêu cầu về chất lượng của nguồn nhân lực ngành du lịch

ngày càng cao hiện nay, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp

4.0, các cơ sở đào tạo cũng như doanh nghiệp du lịch của vùng đã có có

những chuyển biến tích cực trong phương pháp đào tạo, nhưng sự chuyển

biến đó chưa thực sự đồng bộ, hiệu quả.

Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy đã được thực hiện phổ

biến, nhưng đôi khi giảng viên quá lạm dụng công cụ trình chiếu PowerPoint

nên việc giảng dạy chỉ chuyển từ “thầy đọc, trò chép” sang “thầy chiếu, trò

chép” hay “thầy chiếu, trò chụp”. Nhiều giảng viên chưa chú ý hay chưa biết

cách thiết kế các slides bài giảng, có khi slides chứa quá nhiều chữ, kích cỡ

chữ nhỏ khó nhìn, bị chiếu quá nhanh, khiến sinh viên không theo dõi được.

Khi việc trình chiếu bị lạm dụng thì trong lớp thiếu sự giao lưu, tương tác

giữa thầy và trò. Có những môn học chỉ cần lắng nghe hoặc cần thảo luận để

mở rộng kiến thức, thì việc trình chiếu chữ bằng công cụ PowerPoint sẽ làm

tiết học trở nên khô cứng, nhàm chán khiến sinh viên không hứng thú học tập.

99

Nhiều giảng viên còn hạn chế về phương pháp sư phạm nên chưa có

những bước lên lớp bài bản để dẫn dắt sinh viên, gợi mở tính sáng tạo trong

học tập của các em. Sau giờ giảng trên lớp, thường giữa giảng viên và sinh

viên ít có sự tương tác để giải đáp kịp thời thắc mắc của sinh viên cũng như

để kiểm tra mức độ tiếp thu bài giảng của sinh viên.

Do đặc thù của ngành là cần đào tạo lý thuyết gắn với thực hành nhưng

các cơ sở đào tạo, nhất là khối cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp thường

thiên về lý thuyết và thiếu thực hành so với các trường nghề. Đây là vấn đề

vừa thuộc về nội dung chương trình, nhưng cũng liên quan trực tiếp đến vấn

đề phương pháp đào tạo. Điều này cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào

tạo. Một hiện thực rất đáng quan tâm hiện nay là các nhà tuyển dụng rất khó

có thể tuyển được nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao. Hầu hết nhân lực

được tuyển dụng phải tiến hành đào tạo lại.

Thứ sáu, hạn chế về môi trường đào tạo

Hiện nay trên cả nước nói chung, khu vực ĐBSCL nói riêng chưa có

trường đại học đào tạo chuyên ngành du lịch. Đặc biệt ĐBSCL chưa có cơ sở

đào tạo ngành du lịch ở bậc sau đại học nên ảnh hưởng đến việc phát triển

nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành du lịch của vùng, nhất là đối với

việc nâng cao trình độ của các chủ thể đào tạo.

Một trong những hạn chế về môi trường đào tạo nguồn nhân lực ngành

du lịch là tình trạng thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc thực hành. Đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch là đào tạo nghiệp vụ nên rất cần có các cơ sở

vật chất phục vụ cho việc giảng dạy thực hành như: mô hình quầy lễ tân,

phòng khách sạn, các dụng cụ nhà hàng, thiết bị hướng dẫn viên…Tuy nhiên

đây là những thiết bị khá đắc tiền nên các cơ sở đào tạo thường thiếu các

trang thiết bị phục vụ cho việc đào tạo.

100

Phần lớn học viên, sinh viên đang học các ngành du lịch được hỏi qua

khảo sát của tác giả đối với 400 học viên, sinh viên tại các trường đào tạo du

lịch ở ĐBSCL, số phiếu thu về 389 phiếu hợp lệ về cơ sở vật chất của cơ sở

đào tạo thì chỉ có 23 người chọn rất hài lòng (chiếm 5,9 %), 82 người chọn

hài lòng (chiếm 21,1%), 211 chọn không hài lòng (chiếm 54, %) và 73 người

học lựa chọn rất không hài lòng (chiếm 18,7 %).

Hỏi về đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân

lực ngành du lịch ở ĐBSCL, nhiều người học được khảo sát đều đề xuất đầu

tư cơ sở vật chất cho hoạt động dạy và học, giúp cho người học được thực

6%

19%

21%

hành nhiều hơn, trải nghiệm thực tế nhiều hơn.

Rất hài lòng Hài lòng

54%

Rất không hài lòng

Không hài lòng

Hình 3.5: Cơ cấu mức độ hài lòng của học viên, sinh viên về cơ sở vật chất kỹ

thuật ại các cơ sở đào tạo du lịch ở ĐBSCL

Về công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch chưa được các

doanh nghiệp quan tâm mà chủ yếu giao trọng trách cho các cơ sở đào tạo.

Những hạn chế về hình thức, nội dung chương trình cũng như phương

pháp đào tạo nguồn nhân lực du lịch vùng ĐBSCL ảnh hưởng trực tiếp đến

101

chất lượng đào tạo, cụ thể là sản phẩm của quá trình đào tạo, đó là trình độ,

năng lực, kỹ năng của nguồn nhân lực ngành du lịch.

3.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế

Thứ nhất: nhận thức về vai trò của đào tạo nguồn nhân lực du lịch mặc

dù đã được nâng cao nhưng vẫn còn những hạn chế, nhiều bất cập. Việc nhận

thức xác định giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu dù đã được quán triệt

nhưng sự quan tâm và tổ chức thực hiện của nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền

và cơ quan chức năng chưa thật quan tâm đầy đủ đến phát triển đào tạo nguồn

nhân lực. Nhiều địa phương chưa chia đủ định mức, ngân sách, chưa giành đủ

quỹ đất cho việc đào tạo. Nhiều trường chưa thật sự quan tâm đầy đủ đến đổi

mới chương trình, phương pháp đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Đây là

một trong những nguyên nhân dẫn đến các chính sách nhằm khuyến khích

phát triển đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch chưa đủ và tổ chức triển khai

chưa tốt, còn có sự buông lỏng quản lý, nhất là ở vùng nông thôn, nơi có

nhiều tiềm năng, tài nguyên du lịch.

Ngoài ra, chất lượng đào tạo giữa các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch còn có sự cách biệt lớn về chất giữa đô thị, một số vùng sâu,

vùng xa, nhưng biện pháp để giải quyết chưa thực sự hiệu quả. Có sự chênh

lệch lớn giữa đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch giữa TP. Cần Thơ và các

tỉnh khác như Sóc Trăng, Cà Mau…

Đồng thời, đào tạo nhân lực ngành du lịch còn thiếu cơ chế cạnh tranh,

nên hạn chế trong việc tạo động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng đào tạo.

Chất lượng đào tạo vẫn chưa được kiểm soát và chưa thực hiện được vai trò

định hướng đào tạo, liên kết đào tạo và sử dụng nhân lực của ngành.

Bên cạnh đó, giữa cơ quan quản lý với nhau và với các cơ sở đào tạo,

cơ sở sử dụng nhân lực ngành du lịch còn thiếu những quy định và cơ chế

phối hợp.

102

Ngoài ra, nội dung cơ cấu đào tạo theo cấp trình độ và ngành, nghề còn

thiếu chính sách dài hạn; sự bất hợp lý và không có tính hệ thống về cơ cấu

đào tạo chưa có giải pháp để điều chỉnh, chưa quan tâm và tập trung tăng đào

tạo nghề dài hạn.

Hơn nữa, hiện nay nhiều cơ sở đào tạo du lịch công lập vẫn còn tiếp tục

ỷ lại, trông chờ kinh phí cấp phát do vẫn còn một số chính sách hiện hành vẫn

mang tính bao cấp của Nhà nước.

Thứ hai: chính sách đãi ngộ, sử dụng đối với đội ngũ tham gia công tác

đào tạo nguồn nhân lực du lịch của Vùng còn nhiều hạn chế, nhất là đội ngũ

giáo viên, nên chưa thực sự phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các

chủ thể. Thu nhập thấp là nguyên nhân chính dẫn đến việc không chuyên tâm

trong công tác chuyên môn, hiện tượng chảy máu chất xám cũng như việc hạn

chế trong học tập nâng cao trình độ của giảng viên, giáo viên.

Thứ ba: qui mô đào tạo mới mặc dù tăng mạnh, nhưng chưa đáp ứng

nhu cầu xã hội. Công tác tuyển sinh hàng năm ở các bậc đào tạo mới đáp ứng

được hơn 65% nhu cầu đào tạo du lịch của xã hội, khoảng 75% nhu cầu nhân

lực làm việc trực tiếp của Ngành. Các doanh nghiệp thiếu nhân lực lành nghề,

phần lớn phải đào tạo lại sau khi tuyển dụng. Đào tạo nghệ nhân, giám đốc,

chức danh quản lý cao cấp và chuyên gia chưa được chú trọng. Hoạt động đào

tạo lại, bồi dưỡng chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, các trung tâm

đào tạo ở các doanh nghiệp cũng như các lớp đào tạo lại, bồi dưỡng do Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch và các Sở Văn hóa, Thể thao

và Du lịch tổ chức chưa đáp ứng được số lượng lớn lao động của ngành phải

tham gia đào tạo lại.

Thứ tư: đặc điểm tâm lý nặng về bằng cấp thích, con cái học đại học và

“làm thầy” của người dân, xã hội vẫn còn khá phổ biến dẫn tới tình trạng “thừa

103

thầy, thiếu thợ”. Đều này cũng gây khó khăn cho công tác tuyển sinh và đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch đặc biệt là các ngành cao đẳng, trung cấp.

Thứ năm: chưa có chính sách phù hợp và hiệu quả để thống nhất

chương trình đào tạo giữa các cơ sở, gắn kết cơ sở đào tạo với các doanh

nghiệp và với hoạt động nghiên cứu khoa học về phát triển nhân lực ngành du

lịch của vùng. Đồng thời, cơ chế để huy động sự tham gia của doanh nghiệp

vào hoạt động đào tạo nhân lực du lịch một cách tích cực, thiết thực chưa

được xây dựng và thực hiện một cách chính thống.

3.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO

NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU

LONG HIỆN NAY

“Mâu thuẫn là sung lực nội tại của mọi sự sống” Hêghen - nhà triết học

lỗi lạc cổ điển Đức đã nói. Như vậy, điều đó cũng hoàn toàn đúng khi nói về

quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL hiện nay. Có thể

khái quát một số mâu thuẫn như sau:

3.3.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu không ngừng nâng cao chất lƣợng

đội ngũ làm công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch với những

hạn chế của đội ngũ này trong các cơ sở đào tạo du lịch ở Đồng bằng

sông Cửu Long hiện nay

Quan điểm chung trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến

năm 2030 xác định: “Phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, chất

lượng, hiệu quả; đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng

công nghiệp 4.0 và chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”

[103]. Đối với vùng ĐBSCL, mục tiêu phát triển du lịch để tương xứng với

tiềm năng, thế mạnh; khẳng định vị trí quan trọng của vùng đối với du lịch

Việt Nam; từng bước nâng cao vị trí, vai trò của du lịch trong phát triển kinh

104

tế - xã hội của vùng, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống người dân, góp

phần quảng bá hình ảnh vùng ĐBSCL với cả nước và quốc tế.

Kết quả của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phụ thuộc vào

những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Ở đây, đội ngũ làm công

tác đào tạo giữ vai trò quan trọng. Chủ thể đào nguồn nhân lực ngành du lịch

gồm chủ thể ở tầm vĩ mô (tác động gián tiếp), và chủ thể ở tầm vi mô (tác

động trực tiếp). Ở tầm vĩ mô là sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước,

Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch và các Bộ liên

quan…Chủ thể đào tạo tầm vi mô là hệ thống các cơ sở đào tạo chuyên ngành

du lịch. Các cơ sở đào tạo chuyên ngành du lịch phải có đầy đủ điều kiện, tiêu

chuẩn năng lực đào tạo theo đúng qui định của Nhà nước. Bởi vì sẽ không thể

có được sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng tốt và hiệu quả nếu không có

đội ngũ làm công tác đào tạo đáp ứng theo yêu cầu. Nói cách khác để thực

hiện thành công mục tiêu phát triển ngành du lịch cả nước nói chung, của

ĐBSCL nói riêng, một trong những giải pháp trọng tâm của việc đào tạo và

phát triển nguồn nhân lực du lịch là xây dựng đội ngũ làm công tác đào tạo

nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là đội ngũ làm công tác quản lý giáo dục và

giảng viên, giáo viên trong các cơ sở đào tạo phải được đảm bảo và phát triển

cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.

Ông Rajai Roy Singh, nguyên giám đốc UNESCO châu Á - Thái Bình

Dương đã phát biểu: “Không có một nền giáo dục của quốc gia nào lại có thể

phát triển cao hơn trình độ đội ngũ giáo viên của quốc gia đó” [4, tr.166] và

trình độ của nhà giáo là một trong những tiêu chí phản ánh trình độ của nền

giáo dục – đào tạo. Tuy nhiên, ở ĐBSCL hiện nay còn có những hạn chế về

nhận thức, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ làm công

tác đào tạo.

105

Nhận thức của chủ thể đào tạo cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả

của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Vấn đề đặt ra về nhận thức từ

phía các chủ thể đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch là một số cơ quan chưa

nhận thức rõ về vai trò của kinh tế du lịch từ đó chưa nhận thức được tầm

quan trọng của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch vì vậy thiếu về số

lượng, không bảo đảm về chất lượng, chổ thừa chổ thiếu, một số cơ sở chưa

quan tâm cho đào tạo đội ngũ giảng viên, chưa cử người đi bồi dưỡng cập

nhật kỹ năng nghề.

Về năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ làm công tác

đào tạo tại các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng ĐBSCL

vẫn còn thiếu và nhiều hạn chế. Đây là một mâu thuẫn cần nhận thức đúng,

thấu đáo và phải có chiến lược đào tạo phát triển nguồn nhân lực ngành du

lịch phù hợp. Vì vậy, việc nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ này là yêu

cầu, đòi hỏi cấp bách, có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc góp phần

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng, đặc biệt là

nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành du lịch là

đòi hỏi cấp bách. Điều này phải được xem xét là một mũi đột phá quan trọng

trong khâu đột phá phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch của ĐBSCL trong

thời kỳ mới.

3.3.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu xây dựng chƣơng trình đào tạo phù

hợp, phƣơng pháp hiệu quả với những hạn chế về nội dung, chƣơng

trình, phƣơng pháp trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch chất

lƣợng cao ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay

Yêu cầu trong việc phát triển ngành cả nước nói chung, vùng ĐBSCL

nói riêng là phải có được đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao về năng lực,

trình độ, cùng với những kỹ năng mềm tương ứng, giỏi về ngoại ngữ, khả

năng thích ứng…Do vậy, đòi hỏi nội dung chương trình đào tạo phải luôn gắn

106

với thực tiễn, phù hợp với nhu cầu thực tế, tiên tiến về nội dung, kết hợp nội

dung đào tạo kỹ năng cứng và kỹ năng mềm; đảm bảo sự liên thông, liên kết

giữa các chương trình đào tạo, liên kết trong nước và quốc tế; phương pháp

đào tạo phải luôn được đổi mới, sáng tạo, linh hoạt, phát huy tính tính tích

cực của người học, gắn kết giữa lý luận và thực hành, tránh những phương

pháp thụ động, lạc hậu...

Vấn đề cấp thiết hiện nay là việc đổi mới, cập nhật chương trình để đáp

ứng tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ của ngành du lịch Việt Nam, khu vực và

thế giới. Đào tạo phải gắn với thực tiễn và yêu cầu của doanh nghiệp, tổ chức.

Cần đào tạo tập trung theo mô hình thực nghiệp, kết hợp lý thuyết và thực

hành kỹ năng nghề du lịch.

Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL hiện nay còn

nhiều bất cập về nội dung và phương pháp đào tạo. Một số nội dung chương

trình đào tạo còn mang tính chấp vá, không đồng bộ, không tổng thể, không

lâu dài, chỉ đào tạo để xử lý những tình huống thiết hụt ngay lập tức.

Việc đào tạo kỹ năng thực hành nghề trong chương trình đào tạo còn

nhiều bất cập với thời lượng đào tạo thực tế còn khá ít. Kỹ năng thực hành là

một trong những yếu tố đặc biệt cần thiết cho người học có thể vận dụng

những kiến thức đã học vào trong thực tiễn nghề nghiệp du lịch, để có thể có

được việc làm đáp ứng nhu cầu xã hội và góp phần phát triển tổ chức.

Quan điểm dạy học “lấy người học làm trung tâm, phát huy tính chủ

động sáng tạo” tuy được quan tâm nhưng trên thực tế triển khai ở một số cơ

sở đào tạo ở vùng ĐBSCL chưa hiệu quả.

Thực trạng về nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế,

chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của Ngành, nhất là nguồn

nhân lực chất lượng cao trước những yêu cầu, đòi hỏi của việc phát triển

107

ngành du lịch và hội nhập quốc tế. Hiện nay không ít sinh viên ra trường chưa

đáp ứng được yêu cầu xã hội, yêu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh của

doanh nghiệp và người sử dụng lao động. Việc thiếu gắn bó, kết hợp chưa

đồng bộ giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, với sản xuất, kinh doanh... đã

tạo ra nguồn nhân lực thiếu năng động, xa rời thực tiễn. Chương trình, nội

dung đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tình trạng dạy những gì nhà

trường đang có, chưa dạy những gì mà xã hội cần không còn phù hợp với yêu

cầu mới của CNH-HĐH và hội nhập quốc tế.

Vì vậy, việc đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo là

yêu cầu bắt buộc và cấp bách nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân

lực ngành du lịch vùng ĐBSCL trong bối cảnh hiện nay.

3.3.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có môi trƣờng đào tạo tiên tiến

với sự lạc hậu của môi trƣờng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở

các cơ sở đào tạo tại Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay

Môi trường đào tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đào tạo

nguồn nhân lực nói chung, đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch nói riêng.

Một môi trường bình đẳng, nghiêm túc, lành mạnh, tiến tiến trong đào tạo,

phát triển nguồn nhân lực là đòi hỏi bức thiết của tình hình hiện nay. Môi

trường đào tạo tác động thường xuyên, liên tục tới mọi hoạt động đào tạo. Có

môi trường lành mạnh, dân chủ mới tạo ra điều kiện và cơ hội cho mọi thành

viên tham gia một cách tích cực, sáng tạo vào công tác đào tạo. Môi trường

thể hiện ở các mối quan hệ giữa thầy và trò; giữa giáo dục và đời sống; giữa

lý thuyết và thực hành, ứng dụng; giữa nhà trường và xã hội.

Để có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu kinh tế tri thức cần phải có

được môi trường đào tạo thích ứng nhằm phát huy tính tích cực, tự giác của

người học; niềm say mê khoa học và học tập được kích thích; năng lực sáng

tạo của cả thầy và trò được phát huy; kết quả học tập, thi cử, luận văn, luận án

108

được đánh giá công bằng, khách quan; người học thấy rõ tương lai, nhanh

chóng hòa nhập với cuộc sống sau khi tốt nghiệp.

Trước những đòi hỏi khắt khe đó, nhưng môi trường đào tạo nguồn

nhân lực du lịch vùng ĐBSCL vẫn còn thể hiện sự lạc hậu, bó hẹp, khép kín,

chưa tạo điều kiện phát huy tốt trí tuệ và năng lực của người dạy và tính tự

giác học tập, rèn luyện của người học.

Một trong những hạn chế lớn về môi trường đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch ở ĐBSCL hiện nay là tình trạng cơ sở vật chất bị xuống cấp,

sách, giáo trình dạy học thiếu cập nhật, thiếu cơ sở thực hành nghiệp vụ như

mô hình quầy lễ tân, phần mềm quản lý nhà hàng khách sạn, quầy bar, buồng

phòng, trang thiết bị phục vụ hướng dẫn viên như loa, cờ hướng dẫn, dụng cụ

tổ chức team building…nên việc tổ chức thực hành cho người học gặp rất

nhiều hạn chế.

Mâu thuẫn trên đang đòi hỏi phải được nhận thức đúng đắn, trên cơ sở

đó đề xuất giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch ĐBSCL trong thời kỳ mới.

3.3.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu hoàn thiện hệ thống cơ chế chính

sách đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch với sự chƣa đồng bộ, chƣa

hoàn thiện của cơ chế, chính sách trong đào tạo nguồn nhân lực ngành

du lịch của vùng

Quan điểm trọng tâm có tính đột phá trong Chiến lược phát triển Du

lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đó là: Chuyển từ phát

triển trên diện rộng sang phát triển theo chiều sâu; phát triển du lịch theo

hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm; đảm bảo chất lượng

và hiệu quả, khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh tranh. Đây là quan

điểm định hướng cho sự phát triển của du lịch Việt Nam trong giai đoạn tới,

trên cả bình diện quốc gia và từng vùng, từng địa phương. Về mục tiêu phát

109

triển đến năm 2020, đưa du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có

tính chuyên nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ,

hiện đại; sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang

đậm bản sắc văn hoá dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và

thế giới. Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du

lịch phát triển.

“Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng đồng bằng sông cửu long

đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã đề xuất:

Các tỉnh, thành phố trong vùng xây dựng và triển khai thực hiện

Chương trình phát triển nguồn nhân lực du lịch cho địa phương phù

hợp với định hướng phát triển du lịch của vùng nhằm mục tiêu phát

triển đội ngũ nhân lực du lịch đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu

ngành nghề và trình độ đào tạo, bảo đảm về chất lượng đáp ứng yêu

cầu phát triển du lịch của vùng.Tập trung xây dựng đội ngũ giảng

viên, giáo viên, thẩm định viên nghề du lịch; chú trọng đổi mới nội

dung, chương trình, phương pháp đào tạo; tăng cường công tác đào

tạo tại chỗ, đào tạo ngắn hạn đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân

lực du lịch trước mắt cũng như lâu dài của từng địa phương và phù

hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế [102].

Để thực hiện những mục tiêu trên, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

là một trong những giải pháp trọng tâm. Theo đó, đào tạo và phát triển nhân

lực du lịch đảm bảo chất lượng, số lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và

trình độ đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch và hội nhập quốc tế. Phát

triển mạng lưới cơ sở đào tạo về du lịch mạnh với cơ sở vật chất kỹ thuật,

thiết bị giảng dạy đồng bộ, hiện đại; chuẩn hóa chất lượng giảng viên và

chương trình đào tạo. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch,

kế hoạch phát triển nhân lực du lịch phù hợp với nhu cầu phát triển du lịch

110

từng thời kỳ, từng vùng, miền trong cả nước; từng bước thực hiện chuẩn hóa

nhân lực du lịch hợp chuẩn với khu vực và quốc tế, đặc biệt chú trọng nhân

lực quản lý và lao động có tay nghề cao; đa dạng hóa phương thức đào tạo;

khuyến khích đào tạo tại chỗ, tự đào tạo theo nhu cầu. Điều này đòi hỏi phải

có một hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp, hiệu quả trong lĩnh vực giáo dục

– đào tạo.

Tuy nhiên, cơ chế, chính sách giáo dục – đào tạo hiện nay ở nước ta

vẫn còn nhiều bất cập. Đặc biệt, Chính sách tiền lương đối với đội ngủ làm

công tác đào tạo chưa đảm bảo cho chủ thể đào tạo sống được bằng lương ở

mức trung bình, khá trong xã hội nên không hút được người tài giỏi tham gia

vào hoạt động đào tạo. Tình trạng nghỉ việc, chuyển công tác của giảng viên,

giáo viên ở ĐBSCL vẫn thường diễn ra.

Chính sách khuyến khích và thúc đẩy đầu tư từ khu vực tư nhân chưa

đồng bộ, chưa đủ mạnh để tạo cơ chế thúc đẩy sự bình đẳng thực sự giữa các

trường thuộc khối công lập và ngoài công lập. Việc thành lập trường, mở

ngành, xác định chỉ tiêu tuyển sinh… chủ yếu dựa trên năng lực của cơ sở đào

tạo, chưa bám sát nhu cầu thị trường lao động...

Mâu thuẫn trên ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến quá trình đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch vùng ĐBSCL.

111

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất rộng lớn với thế mạnh về nông

nghiệp, thủy sản...nhưng lại là “vùng trũng” về giáo dục, đào tạo.

Việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng chịu ảnh hưởng

bởi các yếu tố: điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và xu thế phát

triển ngành du lịch, đặc trưng văn hóa, đặc điểm về nguồn nhân lực du lịch

ĐBSCL.

Đối với nguồn nhân lực du lịch của vùng, mặc dù đã có những biến đổi

tích cực, nhưng vẫn thiếu về số lượng, cơ cấu chưa hợp lý, chất lượng chưa

đáp ứng yêu cầu, một phần do công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch của

vùng đã có nhiều thành tựu, song vẫn còn nhiều hạn chế.

Những thành tựu và hạn chế trên do sự tác động của những nguyên

nhân khách quan, chủ quan, đồng thời đặt ra những vấn đề cần nghiên cứu và

giải quyết. Đó là: mâu thuẫn giữa yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng

đội ngũ làm công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch với những hạn

chế của đội ngũ này trong các cơ sở đào tạo du lịch ở ĐBSCL hiện nay; mâu

thuẫn giữa yêu cầu xây dựng chương trình đào tạo phù hợp, phương pháp

hiệu quả với những hạn chế về nội dung, chương trình, phương pháp trong

đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch chất lượng cao ở ĐBSCL hiện nay;

mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có môi trường đào tạo tiên tiến với sự lạc hậu

của môi trường đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở các cơ sở đào tạo tại

Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay; mâu thuẫn giữa yêu cầu hoàn thiện hệ

thống cơ chế chính sách đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch với sự chưa

đồng bộ, chưa hoàn thiện của cơ chế, chính sách trong đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch của vùng.

112

Chƣơng 4

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở

ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY

4.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRONG VIỆC NÂNG CAO HIỆU

QUẢ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG

BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY

Nguồn nhân lực được xác định là một trong những yếu tố quyết định

chất lượng sản phẩm du lịch, đáp ứng nhu cầu của du khách nói riêng và sự

phát triển của ngành du lịch nói chung. Để nâng cao chất lượng nguồn đào tạo

nguồn nhân lực du lịch ĐBSCL cần quán triệt 3 quan điểm chủ đạo như sau:

4.1.1. Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu

Long phải gắn với chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội và chiến lƣợc

phát triển du lịch của vùng

Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải đặt trong bối cảnh phát

triển kinh tế - xã hội nói chung và yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực nói riêng của mỗi địa phương. Bên cạnh đó, mỗi địa phương cần bám sát

định hướng phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch đã được các cấp có thẩm

quyền phê duyệt trong xây dựng kế hoạch nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực ngành du lịch nhằm khai thác hiệu quả nhất tiềm năng và lợi thế vốn có

của mình.

Đào tạo nguồn nhân lưc ngành du lịch ở ĐBSCL phải gắn với “Chiến

lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030” đã được Thủ Tướng phê

duyệt. Cụ thể là:

Phát triển nguồn nhân lực du lịch theo cơ cấu hợp lý, bảo đảm số

lượng, chất lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào

113

tạo, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh, hội nhập; có chính sách khuyến

khích thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động

toàn diện, nâng cao chất lượng nhân lực du lịch cả về quản lý nhà

nước, quản trị doanh nghiệp và kỹ năng nghề du lịch, chú trọng đào

tạo nhân lực quản lý cấp cao và lao động lành nghề.

Đa dạng các hình thức đào tạo; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích

doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực du lịch; chú trọng đào tạo

kỹ năng nghề và kỹ năng mềm cho lực lượng lao động trực tiếp

phục vụ du lịch, đặc biệt là đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh

viên du lịch tại điểm; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng

cho cộng đồng dân cư tham gia kinh doanh du lịch và góp phần

quảng bá điểm đến, hình ảnh du lịch của địa phương.

Tăng cường năng lực các cơ sở đào tạo, trường đào tạo nghề du lịch

chất lượng cao tại các khu vực động lực phát triển du lịch [103].

Bên cạnh đó, nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL là một bộ phận

không thể tách rời của nguồn nhân lực du lịch Việt Nam. Do đó trong quá

trình nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL phải

hướng đến chiến lược “Xây dựng lực lượng lao động ngành du lịch đủ về số

lượng và đáp ứng yêu cầu về chất lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và

trình độ đào tạo để đảm bảo tính chuyên nghiệp, đủ sức cạnh tranh và hội

nhập khu vực, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch” trong “quy

hoạch phát triển nhân lực ngành du lịch giai đoạn 2011 – 2020” [15].

Mặt khác, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

phải phù hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội vùng ĐBSCL. “Quy

hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm vùng Đồng

bằng sông Cửu Long đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” xác định:

114

Tập trung đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực

có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường, gắn phát triển nguồn

nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Phát triển

giáo dục, đào tạo và dạy nghề nhằm tạo bước đột phá để nâng cao

chất lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu về nhân lực cho phát

triển kinh tế - xã hội của vùng và cả nước, Tập trung, ưu tiên đào tạo

nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu cho các ngành, lĩnh vực

mũi nhọn của vùng và yêu cầu hội nhập quốc tế; ưu tiên đầu tư, phát

triển các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề có đủ năng lực đào

tạo các nghề trọng điểm cấp độ quốc tế và khu vực. Xây dựng thành

phố Cần Thơ thành trung tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao cho

cả vùng. Rà soát, sắp xếp và thành lập các trường đại học, cao đẳng

phù hợp với quy hoạch, trên cơ sở đảm bảo đầy đủ các tiêu chí và

điều kiện thành lập trường theo quy định. Mở rộng quy mô giáo dục

đại học và sau đại học và nâng cấp một số trường Cao đẳng, Đại học

trên địa bàn nhằm từng bước điều chỉnh cơ cấu và trình độ lực lượng

lao động [101].

Trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch vùng ĐBSCL phải đáp

ứng mục tiêu trong “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng ĐBSCL đến

năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Chỉ tiêu việc làm trong quy hoạch được

xác định “Đến năm 2020 tạo việc làm cho khoảng 230 nghìn lao động, trong

đó khoảng 77 nghìn lao động trực tiếp. Phấn đấu đến năm 2030 tạo việc làm

cho khoảng 450 nghìn lao động, trong đó khoảng 150 nghìn lao động trực

tiếp.” Quy hoạch cũng đề ra giải pháp “Các tỉnh, thành phố trong vùng xây

dựng và triển khai thực hiện Chương trình phát triển nguồn nhân lực du lịch

cho địa phương phù hợp với định hướng phát triển du lịch của vùng nhằm

mục tiêu phát triển đội ngũ nhân lực du lịch đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu

115

ngành nghề và trình độ đào tạo, bảo đảm về chất lượng đáp ứng yêu cầu phát

triển du lịch của vùng” [102].

Theo đó, đào tạo nguồn nhân lực của vùng nói chung, trong lĩnh vực du

lịch nói riêng, cần căn cứ trên quy hoạch vùng. Trong đó cũng cần lưu ý đến

những yêu cầu đặt ra trong nhiệm vụ lập quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-

2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Mặt khác, trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch phải

gắn với đặc trưng của vùng ĐBSCL, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Trong

quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL cần tập trung quan

điểm “năm tại chỗ” (tuyển dụng tại chỗ, đào tạo tại chỗ, thực hành tại chỗ, sử

dụng tại chỗ và phát triển tại chỗ) [14, tr. 70]. Điều này góp phần làm nên đặc

trưng trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch so với các vùng miền khác.

Việc đào tạo cần xây dựng nội dung chương trình phù hợp với thực tiễn

địa phương. Cần xem trọng các môn cung cấp về kiến thức về lịch sử, đặc

trưng văn hóa vùng ĐBSCL như các môn chuyên ngành. Từ đó hướng cho

người học am hiểu về đặc trưng văn hóa của vùng miền Tây sông nước để

giới thiệu cho du khách.

Việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cho nguồn nhân lực ngành du lịch ở

ĐBSCL cũng cần phải được chú trọng. Trong đó đặc biệt phát huy các phẩm chất

của con người miền Tây truyền thống trong bối cảnh hiện đại. Ví dụ như việc xây

dựng người Cần Thơ “Trí tuệ, năng động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch”…

Bên cạnh đó, nước ta đang trong quá trình thực hiện mục tiêu hội nhập

toàn diện trong mọi lĩnh vực của đời sống văn hóa, xã hội, kinh tế. Sự lựa

chọn du lịch là một trong những ngành có vai trò quan trọng, là ngành mũi

nhọn đóng góp vào sự thành công của quá trình hội nhập rất phù hợp với quy

luật khách quan và thực tiễn của Đất nước. Do đó trong công tác đào tạo cần

hướng đến việc nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng phải đáp ứng các

116

chuẩn chung của khu vực và thế giới, có khả năng hội nhập sâu rộng vào nền

du lịch toàn cầu.

Cũng trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đó, cùng với

sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều loại hình

lao động trong lĩnh vực du lịch sẽ tăng lên, nhiều loại hình sẽ giảm đi và cùng

với đó có nhiều loại hình lao động mới sẽ xuất hiện. Do đó, để thích ứng,

người lao động cần phải sở hữu nhiều kỹ năng như quản lý, kỹ thuật số, kỹ

năng mềm. Đặc biệt trong lĩnh vực phát triển du lịch, nhân lực có những đòi

hỏi riêng về tính chuyên nghiệp - trình độ và chất lượng cao, vì ngoài những

lao động thuộc các ngành sản xuất có liên quan cung cấp dịch vụ, thì còn có

sự khác biệt của hoạt động ngành như loại hình, thời gian làm việc, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, giới tính, độ tuổi… Từ đó, yêu cầu đòi hỏi cao trong

lĩnh vực đào tạo.

Theo đó, cần từng bước đạt những tiêu chuẩn chung và được thừa nhận

trong khu vực và thế giới, tạo tiền đề cho tự do di chuyển lao động quốc tế.

Do vậy, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch phải có chất

lượng cao được khu vực và quốc tế công nhận rộng rãi. Từ đó đòi hỏi cơ sở

đào tạo, dạy nghề du lịch vùng ĐBSCL phải được đầu tư hiện đại tầm cỡ khu

vực và quốc tế, hoạt động đào tạo du lịch vươn khỏi phạm vi mỗi địa phương,

từng vùng và quốc gia.

4.1.2. Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng phải quán

triệt quan điểm đồng bộ nhƣng có trọng tâm trọng điểm

Nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL không thể hình thành một cách

tự phát, cũng như toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể tự

nhiên đi đến thắng lợi. Đó phải là cả một quá trình xây dựng một cách tích

cực và chủ động. Vì vậy, công tác đào tạo này đóng vai trò to lớn để chúng ta

tự giác từng bước đào tạo đội ngũ người lao động cho ngành du lịch. Vấn đề ở

117

đây là tìm ra con đường tối ưu để nâng cao hiệu quả đào tạo trong điều kiện

hiện nay. Lê nin viết “muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát

và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của

sự vật đó [60, tr.364]. Chỉ dẫn phương pháp luận này của Lê nin vận dụng vào

đào tạo nguồn nhân lực đòi hỏi phải xét chúng trong sự phát triển biện chứng.

Một vấn đề có tính nguyên tắc trong việc nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch ĐBSCL là quán triệt quan điểm đồng bộ, nhưng có

trong tâm trọng điểm.

Thực chất của quan điểm này là trong quá trình đào tạo nguồn nhân

lực, một mặt thông qua sự tác động của điều kiện khách quan bằng cách cải

tạo, làm biến đổi môi trường, hoàn cảnh sống của họ, tức là thông qua đào tạo

bằng chính cuộc sống. Mặt khác, thông qua sự tác động của những nhân tố

chủ quan, thông qua công tác giáo dục đào tạo trực tiếp về mặt xây dựng ý

thức biện pháp đào tạo con người một cách thích hợp. Tức là giáo dục đào tạo

bằng các phương tiện của sự tác động tư tưởng. Cả hai mặt này được kết hợp

một cách hữu cơ để cho các học viên, sinh viên có được phẩm chất, năng lực

một cách vững chắc nhất.

Quán triệt quan điểm đồng bộ nhưng có trọng tâm, trọng điểm trong

đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL cần phải thực hiện một số yêu

cầu cơ bản sau:

Thứ nhất, đảm bảo sự thống nhất và tác động tổng hợp của các nhân tố

kinh tế, xã hội, tinh thần và các nhân tố khác tác động đến sự hình thành nhân

cách con người, đến những qui tắc của đạo đức, nguyên tắc, hành động và

hành vi của học viên, sinh viên ngành du lịch.

Thứ hai, gắn liền mật thiết giữa giáo dục đào tạo chính trị tư tưởng đạo

đức và đào tạo lao động chuyên môn nghề nghiệp ngành du lịch.

118

Thứ ba, đào tạo đồng bộ đòi hỏi phải chú ý đào tạo về mặt nhận thức,

cũng như mặt tình cảm, đào tạo có hệ thống hình thành niềm tin để có được

người lao động trong ngành du lịch “vừa hồng, vừa chuyên”. Đó là hình thành

được số lượng, chất lượng (thể lực, trí lực, tâm lực), nguồn nhân lực phát triển

hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành du lịch ĐBSCL, cụ

thể là:

Về số lượng, theo dự báo của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch năm

2020, nhu cầu nhân lực ngành du lịch vùng ĐBSCL là 75.400 nhân lực du

lịch trực tiếp và 132.500 nhân lực du lịch gián tiếp. Năm 2030, nhu cầu nhân

lực ngành du lịch vùng ĐBSCL là 110.000 nhân lực du lịch trực tiếp và

381.600 nhân lực du lịch gián tiếp [64, tr. 211]. (Xem thêm phụ lục 7: Dự báo

nhu cầu nhân lực ngành du lịch vùng ĐBSCL năm 2020).

Về chất lượng, cần chú ý đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, gắn

lý thuyết với thực hành trong đó chú trọng các kiến thức lịch sử, văn hóa vùng

ĐBSCL, kỹ năng nghiệp vụ du lịch, năng lực ngoại ngữ (tiếng Anh, tiếng

Pháp…) nhằm đào tạo đội ngũ nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao cho

vùng ĐBSCL. Về chất lượng cần đặc biệt lưu ý hiện ngành du lịch ĐBSCL

đang rất thiếu nguồn nhân lực có khả năng ngoại ngữ và kỹ năng phục vụ

khách quốc tế.

Về cơ cấu, cần xây dựng nguồn nhân lực ngành du lịch có cơ cấu phù

hợp với từng địa phương ở ĐBSCL. Trong đó có sự phù hợp về ngành nghề

tương ứng với từng công việc cụ thể như: hướng dẫn viên du lịch (theo tuyến

hoặc tại điểm), lễ tân, nhân viên buồng phòng, đầu bếp, phục vụ bàn, thiết kế

điều hành tour du lịch, nhân viên kinh doanh…. Bên cạnh đó cũng cần có sự

hợp lý đối với các trình độ đào tạo: trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học.

Cần lưu ý rằng, hiện ĐBSCL chưa có trường đại học chuyên về du lịch, chưa

có cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở trình độ sau đại học.

119

Đối với từng đối tượng đào tạo, việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du

lịch phải đảm bảo quan điểm đồng bộ vì chất lượng nguồn nhân lực là một sự

tổng hợp, kết tinh của rất nhiều yếu tố: thể lực, trí lực và tâm lực. Đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch không chỉ riêng về thể chất, tinh thần mà cả

lĩnh vực sinh học và cả lĩnh vực xã hội.

Về thể lực, cần tập trung đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch có sức

khỏe tốt, thể lực lực bền bỉ, khả năng vận động tốt, tháo vát và nhanh nhẹn.

Vì nhân lực trong ngành du lịch phải vừa lao động trí óc, vừa lao động thể lực

với cường đó lao động khá cao và chịu áp lực tâm lý lớn và môi trường lao

động phức tạp. Một trong những đặc tính nổi bật của hoạt động du lịch là tính

thời vụ. Lượng khách du lịch không đều giữa các tháng trong năm mà biến

động thay đổi theo mùa. Vào mùa cao điểm, nhân lực trong ngành du lịch

phài làm việc liên tục ví dụ như hướng dẫn viên du lịch phải thường xuyên di

chuyển, ăn nghỉ không ổn định, hoạt động nghiệp vụ liên tục nên cần phải có

thể lực tốt để đảm bảo sức khỏe, an toàn cho bản thân và cho cả đoàn khách.

Thể lực trong hoạt động du lịch còn bao hàm yếu tố hình thể, trang phục tác

phong chuyên nghiệp.

Về trí lực, trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch thì chủ thể đào

tạo không chỉ cung cấp tri thức cho người học mà còn phải khơi dậy khả năng

tự học, tự nghiên cứu, hướng người học đam mê và có phương pháp phù hợp

để chiếm lĩnh tri thức của nhân loại. Trí lực ở đây không chỉ là tri thức đơn

thuần mà là sự kết hợp giữa kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp của

người lao động so với yêu cầu của công việc mà người lao động đảm nhận, vì

vậy trong quá trình đào tạo cần hướng đến kỹ năng nghiệp vụ, giúp người học

có khả năng vận dụng những kiến thức đã học vào trong thực tiễn nghề

nghiệp nhằm phục vụ du khách, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch.

120

Về tâm lực, trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch cũng phải chú

trong đến việc hướng cho người học có những giá trị chuẩn mực đạo đức,

phẩm chất tốt đẹp. Trước tiên là phải có tình yêu và trách nhiệm với đất nước,

với tổ chức và với khách du lịch. Nhân lực ngành du lịch phải có tâm làm

nghề, mang đến cho du khách những trải nghiệm khó quên về văn hóa miền

Tây Nam Bộ thật thà, hiếu khách, thanh lịch, nghĩa tình. Bên cạnh đó, trong

quá trình đào tạo cần rèn luyện cho người học những đức tính như: đoàn kết,

cần cù, nhanh nhẹn, linh hoạt, sáng tạo, thân thiện, lịch thiệp, điềm tĩnh, thận

trọng, tính kỷ luật, hiếu khách, chân thật…

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐÀO TẠO

NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU

LONG HIỆN NAY

4.2.1. Nhận thức đúng vị trí, vai trò, trách nhiệm và sự cần thiết

nâng cao chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển

ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long

Nhận thức là yếu tố quan trọng hàng đầu, là nền tảng trong đào tạo

nguồn nhân lực du lịch đáp ứng yêu cầu hội nhập. Đào tạo phát triển nguồn

nhân lực được xem là một trong những giải pháp quan trọng trong chiến lược

phát triển du lịch Việt Nam nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng.

Nhận thức được vấn đề này và để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch

nhanh, bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn cũng như đáp ứng

yêu cầu của thực tiễn, trong khoảng 10 năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã

ban hành nhiều văn bản, chính sách nhằm phát triển ngành du lịch, trong đó

có nguồn nhân lực du lịch: Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 của

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến

năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định 3066/QĐ-BVHTTDL ngày

29/9/2011 của Bộ trưởng Bộ VHTTDL về việc phê duyệt Quy hoạch phát

121

triển nhân lực ngành du lịch giai đoạn 2011 – 2020; Quyết định số 201/QĐ-

TTg ngày 22/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch

tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;

Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 8/12/2014 của Chính phủ về một số giải pháp

đẩy mạnh phát triển Du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới; Chỉ thị 14 CT/TTg

ngày 2/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường hiệu lực quản lý

nhà nước, tập trung khắc phục yếu kém, thúc đẩy phát triển du lịch; Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch (2016), Đề án Tăng cường đào tạo theo nhu cầu xã

hội lĩnh vực du lịch đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (2017), Nghị quyết số 08-QĐ/TW năm 2019 của Bộ Chính

trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn;…

Tại ĐBSCL, có các quy hoạch, đề án, dự án xây dựng, phát triển ngành

du lịch của vùng: Quyết định số 803/QĐ-BVHTTDL ngày 9/3/2010 của Bộ

trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt Đề án phát triển du lịch

vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020; Quyết định số 4552/QĐ-

BVHTTDL ngày 31/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

giao nhiệm vụ xây dựng dự án “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng

Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030”; Quyết định số 2227/QĐ-TTg

ngày 18/11/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng

thể phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, tầm

nhìn đến năm 2030;…

Tại Quyết định 3066/QĐ-BVHTTDL ngày 29/9/2011 của Bộ trưởng

Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân

lực ngành du lịch giai đoạn 2011 – 2020 với mục tiêu:

Hình thành được đội ngũ nhân lực ngành Du lịch đủ về số lượng,

đảm bảo về chất lượng và hợp lý về cơ cấu trình độ, ngành nghề và

vùng miền để đáp ứng nhu cầu nhân lực du lịch trong nước và tham

122

gia xuất khẩu lao động làm du lịch; đạt trình độ tiên tiến trong khu

vực và một số mặt tiếp cận trình độ các nước tiến tiến trên thế giới.

Đảm bảo có được đội ngũ nhân lực trực tiếp đủ năng lực, có sức

khỏe tốt, phát triển toàn diện về trí tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức,

lương tâm nghề nghiệp, có năng lực tự học, tự đào tạo cao, năng

động, chủ động sáng tạo, có tri thức và kỹ năng làm việc toàn cầu,

thích nghi nhanh với môi trường không ngừng biến đổi. Làm tốt vai

trò là nòng cốt trong sự nghiệp phát triển du lịch, đáp ứng đòi hỏi

ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát

triển nền kinh tế tri thức của đất nước trong bối cảnh hội nhập sâu

và toàn diện, góp phần đưa nước ta trở thành một trong những trung

tâm du lịch hàng đầu trong khu vực. [15]

Từ mục tiêu trên, nguồn nhân lực du lịch cần được quan tâm về trình

độ, kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực sáng tạo trong

tham mưu xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù, chuyên nghiệp và tiếp cận

với tri thức, công nghệ mới trong xúc tiến, quảng bá truyền thông.

Do đó, quy hoạch phát triển du lịch của vùng ĐBSCL, cũng như kế

hoạch phát triển du lịch của từng các địa phương cần chú trọng xây dựng và

hoàn thiện cơ chế, chính sách về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực du lịch

phù hợp với phát triển đội ngũ nhân lực du lịch đủ về số lượng, cân đối về cơ

cấu ngành nghề và trình độ đào tạo, bảo đảm về chất lượng đáp ứng yêu cầu

phát triển du lịch của vùng.

Cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước về

đào tạo và phát triển nhân lực ngành du lịch. Hệ thống quản lý chung của

ngành du lịch cần có sự phân cấp, phân quyền hợp lý tránh tình trạng chồng

chéo, không phân định rõ trách nhiệm từng cá nhân, tập thể trong công tác

quản lý đào tạo và sử dụng nhân lực.

123

UBND các tỉnh thành ĐBSCL cần ưu tiên thực hiện nhiệm vụ đánh giá

chung về tình hình sử dụng cũng như chất lượng nguồn nhân lực của cả vùng

và của từng địa phương. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các địa phương

trong vùng ĐBSCL cần chủ động tiến hành điều tra, phân loại và đánh giá

toàn bộ đội ngũ lao động làm du lịch mình quản lý, từ đó đưa ra những kế

hoạch đào tạo cho từng cấp lao động chuyên ngành.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các

bộ, ngành liên quan rà soát, xem xét, đánh giá sắp xếp, quy hoạch toàn diện

về hệ thống cơ sở đào tạo du lịch của vùng ĐBSCL phù hợp với yêu cầu phát

triển ngành, có tham khảo hệ thống đào tạo ở các nước có du lịch phát triển để

đảm bảo cơ cấu đào tạo du lịch ở các cấp là hợp lý, phù hợp với các chuẩn

mực chung của khu vực và quốc tế. Việc sắp xếp lại mạng lưới cơ sở giáo

dục, nghề nghiệp này cần phải thực hiện kịp thời để đào tạo nhân lực tay nghề

cao, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động; xác định phát triển Trường Đại

học Cần Thơ như là một hạt nhân trung tâm để hình thành liên kết một số

trường đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu chuyển dịch

lao động của các địa phương trong vùng, để làm được điều này cần quan tâm

đến việc nâng cao các điều kiện đảm bảo chất lượng, đặc biệt là phát triển đội

ngũ giảng viên của các trường. Đặc biệt, có kế hoạch xây dựng, thành lập Học

viện Du lịch hoặc Đại học Du lịch của vùng đạt chuẩn quốc tế và xem đây sẽ

là cơ sở đào tạo đội ngũ lao động du lịch trình độ cao, có khả năng đảm nhận

vai trò nòng cốt trong hội nhập quốc tế, hướng đến việc đào tạo nguồn nhân

lực ngành du lịch có trình độ sau đại học tại vùng ĐBSCL.

Bộ Giáo dục và đào tạo phối hợp cùng với Tổng cục Du lịch trong việc

đánh giá thực trạng chất lượng đào tạo, đề ra định hướng phát triển một hệ

thống đào tạo nguồn nhân lực du lịch cho khu vực ĐBSCL đạt chuẩn chất

lượng, đồng thời xác định những lĩnh vực ưu tiên đào tạo, để tập trung nguồn

124

lực đầu tư, hình thành các trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, đáp

ứng nhu cầu phát triển của ngành du lịch toàn vùng.

Cơ quan đầu ngành cần có sự phân bổ và sử dụng ngân sách Nhà nước

hợp lý để phát triển cơ sở hạ tầng trong trung và dài hạn. Nguồn ngân sách

cần tập trung chú trọng cho các chương trình, dự án theo các mục tiêu ưu tiên

khác nhau như vùng sâu, vùng xa, nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số

và cần đảm bảo công bằng xã hội cho các đối tượng.

Cần có chính sách thúc đẩy sự phát triển du lịch của các địa phương ở

ĐBSCL nhằm tạo việc làm cho nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng, bố trí

nguồn lực thực hiện chính sách việc làm cho người học ngành du lịch, gắn kết

giữa yêu cầu của doanh nghiệp kinh doanh du lịch với người lao động. Tạo

môi trường thuận lợi cho người có năng lực phát triển, cũng như có các chính

sách đãi ngộ để thu hút lao động có tay nghề cao về làm việc trong ngành du

lịch; tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng nghề

nghiệp cho cán bộ quản lý, người lao động; tổ chức các cuộc thi, kiểm tra tay

nghề, năng lực làm việc của cho người lao động; có chính sách đánh giá, cấp

chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia về du lịch gắn với việc nâng cao trình độ kỹ

năng nghề… Cần nhận thức rõ ràng rằng sự hỗ trợ về vật chất ban đầu chưa

phải là yếu tố quyết định thu hút nhân tài, vấn đề phải là môi trường công tác

và sự phát triển bản thân người lao động ngành du lịch.

Các cơ quản chủ quản cần thực hiện hỗ trợ kinh phí đào tạo cho các

trường, tổ chức đào tạo nghề theo kết quả đầu ra; khuyến khích doanh nghiệp,

nhất là các doanh nghiệp quy mô lớn, tự đào tạo lao động phục vụ nhu cầu

của bản thân, của các doanh nghiệp, đối tác và các doanh nghiệp có liên quan

khác. Bên cạnh đó, cần rà soát đánh giá mạng lưới các cơ sở đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL nhằm điều chỉnh, hoàn thiện theo đúng mục

tiêu và yêu cầu phát triển ngành du lịch của vùng.

125

Mặt khác, cần thường xuyên tổ chức các hội thảo khoa học, tọa đàm

khoa học về đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch, để nâng cao ý thức về tầm

quan trọng của nguồn nhân lực trong phát triển du lịch, thu hút sự quan tâm

của các tầng lớp xã hội, đặc biệt là các chủ thể đào tạo, thực hiện xã hội hóa

trong đào tạo nguồn nhân lực. Việc xã hội hóa này tạo điều kiện để các thành

phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân tham gia đào tạo; huy động được nhiều

nguồn lực đầu tư, phát triển đào tạo, dạy nghề, kể cả nguồn lực từ nước ngoài

để giảm bớt gánh nặng về tài chính cũng như thu hút vốn đầu tư và công nghệ

đào tạo từ các doanh nghiệp, công ty, nhất là các công ty có vốn đầu tư nước

ngoài cho công tác đào tạo nguồn nhân lực, tạo bước đột phá trong xây dựng,

thực hiện chính sách thu hút và trọng dụng nhân lực qua đào tạo.

Ở đây, Đảng và chính quyền các tỉnh, thành, các cơ sở đào tạo chú ý

phát huy tinh thần tự học, tự rèn luyện của chủ thể đào tạo nhằm đáp ứng yêu

cầu phát triển ngành du lịch, xây dựng động cơ nghề nghiệp đúng đắn cho chủ

thể đào tạo ngành du lịch ở ĐBSCL, như đa dạng hóa các hình thức, biện

pháp nâng cao trình độ của cán bộ giảng viên và các lực lượng trực tiếp trong

đào tạo, chú trọng quá trình bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ giảng viên

vừa có đức, vừa có tài, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch ĐBSCL.

Nhà nước và các địa phương cần tăng cường công tác tuyên truyền, kiểm

tra, giám sát về chất lượng nhân lực, chất lượng dịch vụ ở các cơ sở du lịch.

Công tác tuyên truyền cần thực hiện dưới nhiều hình thức và nội dung khác nhau

để nâng cao nhận thức cho các cơ quan, doanh nghiệp và người lao động về vị trí

của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch như: Tuyên truyền, giáo

dục hướng nghiệp trong hệ thống giáo dục phổ thông để định hướng cho học

sinh phổ thông lựa chọn nghề du lịch và cơ sở đào tạo ở ĐBSCL; tuyên truyền

nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và đoàn thể về phát triển nguồn nhân

lực ngành du lịch, thay đổi nhận thức và hành vi của các tổ chức đào tạo, dạy

126

nghề du lịch và sử dụng nhân lực du lịch theo hướng tăng cường độc lập, tư chủ

và hoạt động thích nghi với thị trường lao động, đẩy mạnh liên kết; giáo dục

cộng đồng dân cư về phát triển nhân lực ngành du lịch trong điều kiện phát triển

nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế…

4.2.2. Phát triển số lƣợng, nâng cao chất lƣợng đội ngũ làm công

tác đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu

Long hiện nay

Hiện nay, đội ngũ nhà giáo tham gia giảng dạy ngành du lịch tại

ĐBSCL còn thiếu so với yêu cầu thực tế. Do đó, cần rà soát tổng thể đội ngũ

tham gia công tác đào tạo ngành du lịch để thực thiện chuẩn hóa và xây dựng

lộ trình chuẩn hóa, đáp ứng mục tiêu đào tạo nghề. Đối với việc phát triển đội

ngũ giáo viên, giảng viên và đào tạo viên du lịch cần đảm bảo đủ về số lượng,

chuẩn về chất lượng để đáp ứng nhu cầu đào tạo, tăng quy mô và nâng cao

chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành du lịch.

Trước hết, cần rà soát đội ngũ tham gia công tác đào tạo, để nắm bắt

được thực trạng về số lượng, trình độ, năng lực. Từ đó làm cơ sở để cân đối

về cơ cấu, số lượng, xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nhằm đáp ứng nhu

cầu đào về nguồn nhân lực du lịch của vùng.

Đội ngũ tham gia công tác đào tạo bao gồm giảng viên, cán bộ quản lý,

nhân viên trong các cơ sở giáo dục. Trong đó, đội ngũ giảng viên, cán bộ

quản lý là lực lượng chủ đạo. Vì vậy, cần phải được khảo sát kĩ lưỡng về số

lượng, chất lượng, cơ cấu của đội ngũ này để nắm chắc thực trạng, từ đó có

giải pháp phù hợp để nhằm phát triển toàn diện đội ngũ làm công tác đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng ĐBSCL hiện nay.

Thứ hai, cần thực hiện tốt việc tuyển chọn, sàng lọc đầu vào đội ngũ

làm công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

127

Chất lượng đội ngũ giảng dạy là yếu tố cốt lõi quyết định chất lượng

đào tạo. Theo đó, với đối tượng tuyển dụng là những giảng viên trẻ nên cần

đặc biệt chú trọng đến khâu bồi dưỡng. Nguồn giảng viên trẻ này có thể tuyển

dụng từ sinh viên tốt nghiệp đại học và sau đại học ở các trường Đại học

trong nước, nước ngoài; lựa chọn những sinh viên ưu tú, tốt nghiệp loại giỏi ở

các trường du lịch trên địa bàn đưa đi đào tạo, bồi dưỡng trở thành giáo viên

của trường… điều kiện ưu tiên hàng đầu cần có phải gắn bó lâu dài với nghề,

học lực giỏi, kỹ năng và nghiệp vụ sư phạm tốt… Từng bước bồi dưỡng, phát

triển đội ngũ giảng viên, thẩm định viên trẻ cần có sự giám sát và hướng dẫn,

giúp đỡ của những giảng viên có thâm niên, kinh nghiệm và sự đánh giá của

hội đồng khoa học.

Ngoài đội ngũ giảng viên, giáo viên cơ hữu, các đơn vị đào tạo cần có

các phương án thỉnh giảng các nhà quản lý, nhà khoa học, các doanh nhân có

kinh nghiệm, các nghệ nhân, chuyên môn về lĩnh vực du lịch tham gia vào

hoạt động đào tạo để nâng cao tính thực tiễn của các chương trình đào tạo du

lịch. Cùng với đó, mời chuyên gia quốc tế về du lịch, các giảng viên có kinh

nghiệm ở các cơ sở đào tạo du lịch ở các nước có ngành du lịch phát triển

tham gia giảng dạy.

Thứ ba, Cần tập trung bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng thực hành cho chủ thể đào tạo

Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên và giáo viên của các cơ sở

đào tạo nghề du lịch có thể thực hiện bằng nhiều hình thức. Cơ sở đào tạo

phải có dự trù kinh phí hàng năm cho công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên

môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên như tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên

tham gia các khóa đào tạo về năng lực sư phạm, kỹ năng nghề du lịch…; tham

gia các chương trình trao đổi, tham gia hội nghị, hội thảo, diễn đàn quốc tế về

du lịch và đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch… Cùng với đó là bồi dưỡng

128

kiến thức và kĩ năng về công nghệ thông tin, trình độ ngoại ngữ cho đội ngũ

giảng viên dưới góc độ phương pháp dạy học.

Tiếp tục triển khai chương trình cho giáo viên đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch theo chuẩn quốc tế. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã

triển khai đề án đào tạo nghề cho giáo viên theo chuẩn quốc tế. Đội ngũ giáo

viên dạy nghề được tuyển chọn gửi đến một số quốc gia như Úc…để học tập

nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề trong nước. Hướng tới chương trình

này cần ưu tiên cho giáo viên đào tạo du lịch ở ĐBSCL để giải quyết nhu cầu

cấp thiết của vùng.

Đồng thời, cần xây dựng các bộ tiêu chuẩn nghề nghiệp giáo viên,

giảng viên theo các cấp trình độ khác nhau, trên cơ sở đó thường xuyên bồi

dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp sư phạm cho giáo viên, giảng

viên , ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Đào tạo giáo viên, giảng

viên không những giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn có kỹ năng nghiệp

vụ vững vàng, là tấm gương mẫu mực để học viên, sinh viên noi theo. Do

ngành du lịch là ngành có đặc thù riêng, hằng năm việc tạo điều kiện để giáo

viên, giảng viên cập nhật mới kiến thức bằng cảch làm việc thực tế tại các đơn

vị kinh doanh du lịch là việc làm hết sức cần thiết và hữu ích trong công tác

giảng dạy.

Phát huy tinh thần tự học, tự rèn luyện suốt đời cho đội ngũ giảng viên,

giáo viên ở ĐBSCL. Có chương trình đưa giảng viên đến thực tập tại các

doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn để nâng cao kỹ năng thực hành

nghề, nâng cao kinh nghiệm thực tiễn trong giảng dạy nghề du lịch.

Bên cạnh đó cần đặc biệt chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần

của giảng viên, giáo viên nhất là các chính sách cải cách tiền lương, xây dựng

môi trường học tập và làm việc nhân văn.

129

Thứ tư, thực hiện tốt chính sách đãi ngộ, trong dụng nhân tài, xây dựng

môi trường làm việc nhân văn

Một thực tế hiện nay là các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở

ĐBSCL rất khó giữ được nhân tài. Nhiều giáo viên, giảng viên sau khi đi du học

ở nước ngoài có xu hướng chuyển môi trường làm việc lên TP. Hồ Chí Minh.

Đơn vị đào tạo có chế độ, chính sách quản lý, sử dụng, đãi ngộ đội ngũ giảng

viên và cán bộ quản lý phù hợp: bảo đảm quyền học tập, nghiên cứu khoa học,

tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội; được hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở,

phương tiện đi lại, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp

luật và các chế độ đãi ngộ khác; xây dựng các quy định về khen thưởng, xử lý vi

phạm, khiếu tố và giải quyết khiếu tố liên quan đến đội ngũ giảng viên, cán bộ

quản lý giáo dục cần phải đảm bảo sự công bằng, minh bạch.

Các cơ sở đào tạo cần chú trọng trong việc hình thành, phát triển môi

trường làm việc văn minh, chuyên nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi để thu hút

lực lượng giảng viên, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm từ trong và ngoài

nước tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực du lịch tiềm năng cho vùng.

4.2.3. Đổi mới nội dung chƣơng trình, phƣơng pháp, hình thức đào

tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long

Hiện nay ở ĐBSCL, hình thức đào tạo còn thiếu tính tương tác, thiếu sự

gắn kết giữa lý thuyết với thực tiễn, dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực sau

đào tạo chưa đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Chính vì vậy, các

cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ĐBSCL cần đổi mới chương

trình, nội dung đào tạo theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực và phù hợp.

Thứ nhất, đổi mới chương trình đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát triển du lịch và hội nhập quốc tế.

Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh

mục tiêu, phương pháp giáo dục luôn biến đổi do sự biến đổi của điều kiện

130

hoàn cảnh trong nước và thế giới. Nội dung chương trình và giáo trình phải

được xây dựng và triển khai theo hướng mở: thường xuyên cập nhật về kiến

thức trong và ngoài nước; giáo trình, học liệu phục vụ trong quá trình dạy và

học được khai thác trong nước hoặc ngoài nước một cách linh hoạt, nội dung

giảng dạy phải gắn chặt và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành du lịch.

Việc thiết kế chương trình đào tạo cần tập trung vào kiến thức có tính

thiết thực, ứng dụng cao như: Quy trình làm thủ tục check - in và check – out

cho khách tại khách sạn; Quy trình các bước hướng dẫn cho khách tại một

điểm tham quan du lịch như: chợ nổi Cái Răng – TP. Cần Thơ; kỹ năng phục

vụ bàn ăn Âu, Á... Cùng với đó, tập trung đào tạo kỹ năng mềm cho người

học như: kỹ năng giao tiếp và xử lý tình huống, kỹ năng bán hàng…Bên cạnh

đó đối với địa bàn sông nước như vùng ĐBSCL thì cần đào tạo kỹ năng bơi

lội, cấp cứu tai nạn sông nước…đặc biệt là đối với hướng dân viên du lịch các

tuyến chợ nổi, cù lao…

Trong chương trình đào tạo, thời lượng dành cho phần thực hành phải

được nâng cao. Việc thiết kế chương trình đào tạo phải theo hướng ứng dụng

nghề nghiệp, có cập nhật bổ sung khi tiếp cận các chương trình tiên tiến và sự

góp ý của các cơ sở sử dụng lao động. Trong đó thực hiện theo phương châm

“đào tạo nguồn lao động theo những gỉ doanh nghiệp cần”. Các cơ sở đào tạo

cần nhất quán quan điểm đào tạo những kiến thức lý thuyết, thực tế cần và đủ

– nghĩa là gắn kết giữa lý thuyết (đơn vị đào tạo) với thực hành, tạo điều kiện

cho người học thực tập (doanh nghiệp kinh doanh du lịch), kiểm tra chặt chẽ,

sâu sát chất lượng của người học, thực hiện đánh giá theo phương pháp từ bên

ngoài (nhà tuyển dụng) kết hợp với đánh giá bên trong (đơn vị đào tạo).

Các cơ sở đào tạo cần xây dựng và áp dụng chương trình đào tạo phù

hợp với Bộ Tiêu chuẩn nghề du lịch ASEAN, Bộ tiêu chuẩn nghề du lịch Việt

Nam VTOS để xây dựng nội, chương trình học có tính bắt buộc nhằm phù

131

hợp với tình hình sử dụng của đơn vị sử dụng lao động trong nước và quốc tế,

việc này đem lại nhiều lợi ích đơn vị đào tạo, cho doanh nghiệp cũng như người

lao động. Tiêu chuẩn VTOS đã được áp dụng rộng rãi trong việc triển khai đào

tạo nhân viên tại doanh nghiệp kinh doanh du lịch cũng như trong đào tạo tại các

trường du lịch. Bộ tiêu chuẩn này được các chuyên gia xây dựng trong sự kết

hợp hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế và được điều chỉnh cho phù hợp với điều

kiện cụ thể của ngành du lịch tại Việt Nam. Hiện nay, ngành du lịch trong khối

ASEAN đã xây dựng tiêu chuẩn nghề chung cho 6 nghiệp vụ: Lễ tân, buồng,

bếp, dịch vụ ăn uống, đại lý du lịch và điều hành tour với tổng số 32 chức danh

nghề, không bao gồm nghề hướng dẫn viên du lịch.

Thực hiện các chương trình tham quan, học tập tại các cơ sở giáo dục

đào tạo ở nước ngoài nhằm tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế và tạo

điều kiện để cán bộ, giảng viên được mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, năng lực ngoại ngữ và hội nhập quốc tế.

Đào tạo ngành du lịch ở vùng ĐBSCL cũng cần tập trung đến đặc trưng

tự nhiên, văn hóa của vùng. Nội dung đào tạo nên chú trọng các môn học về

lịch sử, văn hóa địa phương như: lịch sử khẩn hoang vùng đất Nam Bộ, đặc

trưng văn hóa các dân tộc Việt, Hoa, Khmer, văn hóa Óc Eo, tôn giáo bản địa

Nam Bộ…Trong đào tạo giáo dục thể chất cho nguồn nhân lực du lịch cần tập

trung dạy bơi để nguồn nhân lực có thể hoạt động tốt trên môi trưởng sông

nước, hướng dẫn khách tham quan chợ nổi…

Trong quá trình đào tạo các cơ sở cần xây dựng các chương trình giảng

dạy ngoại khóa về du lịch, nâng cao nhân thức của người học về hoạt động du

lịch, nâng cao tình yêu, lòng tự hào về các loại tài nguyên du lịch tự nhiên và

nhân văn của địa phương nhằm xây dựng ĐBSCL trở thành một điểm đến an

toàn thân thiện và hấp dẫn với du khách.

132

Du lịch được coi là ngành kinh tế mũi nhọn, lực lượng laó động có xu

hướng quốc tế hóa cao, nhưng năng lực tiếng Anh đang là một hạn chế lớn

đối với nguồn nhân lực của Ngành trên phạm vi cả nước nói chung, vùng

ĐBSCL nói riêng. Vì vậy, trước hết, cần đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò

của ngoại ngữ đối với người làm du lịch trong bối cảnh hội nhập khu vực và

quốc tế sâu rộng hiện nay, đổi mới nhận thức về cách dạy và học ngoại ngữ

chuyên ngành du lịch theo hướng tích họp gắn với phát triển các đơn vị năng

lực cần thiết cho mỗi vị trí công tác trong ngành. Từ đó mới tổ chức thay đổi

nội dung, chương hình, tổ chức dạy học, cách thức tổ chức kiểm tra đánh giá

năng lực ngoại ngữ phù hợp.

Theo đó, cần xây dựng hệ thống chuẩn năng lực tiếng Anh của ngành

dùng làm căn cứ thống nhất về yêu cầu năng lực cho tất cả các ngoại ngữ

được giảng dạy ở các chương trình đào tạo ngoại ngữ và người học ngoại ngữ

phục vụ cho lĩnh vực du lịch, là căn cứ thống nhất để các cơ sở đào tạo xây

dựng chương trình, biên soạn hoặc lựa chọn học liệu, xây dựng kế hoạch

giảng dạy, xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực ngoại ngữ của người

học ở từng chuyên ngành, nghề về du lịch, bảo đảm sự liên thông trong đào

tạo ngoại ngữ giữa các hệ, chuyên ngành đào tạo. Đổi mới thiết kế các

chương trình môn học trong đào tạo môn tiếng Anh chuyên ngành gắn với

yêu cầu năng lực ngoại ngữ của ngành du lịch, mô hình phát triển chương

trình môn học gắn với phân tích tình huống sử dụng tiếng Anh cho nghề

nghiệp tương lai của người học thuộc lĩnh vực du lịch. Định rõ nội dung kiến

thức, thời lượng, hình thức và phương pháp dạy học.

Nhà trường cần tăng cường các môn học tiếng Anh từ cơ bản cho đến các

lớp tiếng Anh chuyên ngành du lịch như tiếng Anh lễ tân, tiếng Anh dành cho

hướng dẫn viên du lịch …, tạo ra nhiều hoạt động cho sinh viên tham gia để nâng

cao kỹ năng tiếng Anh. Đặc biệt với các lớp tiếng Anh chuyên ngành cần được

133

quan tâm nhiều hơn về tất cả các phương diện, vì sinh viên chỉ có thể học tiếng

Anh chuyên ngành trong trường với giảng viên nhiều kinh nghiệm.

Điều chỉnh số lượng sinh viên khi tham gia các lớp tiếng Anh (tối đa 20

sinh viên), có như vậy sinh viên mới có nhiều cơ hội để thực tập tiếng Anh

trên lớp, giúp phát triển kiến thức và kỹ năng tiếng Anh, đồng thời làm giảm

khoảng cách về trình độ giữa các sinh viên, giúp cho sinh viên có thêm điều

kiện thực hành giao tiếp trong các tình huống giả định liên quan đến hoạt

động du lịch như: đóng vai giao tiếp giúp khách quốc tế làm thủ tục check –

in, check – out ở khách sạn…

Nhà trường cần đầu tư nhiều về tài liệu học tập tiếng Anh, đặc biệt là

tiếng Anh chuyên ngành cho cả sinh viên và giảng viên. Liên kết với các tổ

chức trong và ngoài nước để xây dựng các tài liệu giảng dạy phù họp với trình

độ và điều kiện tại Việt Nam. Mở rộng hợp tác quốc tế để chia sẽ kiến thức và

kinh nghiệm giảng dạy cho giảng viên và sinh viên. Các cơ quan quản lý có

thể tổ chức các hội thảo giúp nâng cao trình độ của giảng viên cũng như chia

sẽ kiến thức với các trường với nhau.

Ngoài ra, kỹ năng mềm cũng cần được quy định trong chuẩn đầu ra cũng

như một mục tiêu quan trọng của mỗi môn học.

Nội dung chương trình đào tạo cần được xây dựng phù hợp với thực tiễn

địa phương. Ưu tiên mở các chuyên ngành phổ biến mà địa phương đang

thiếu hụt như: hướng dẫn du lịch, quản trị khách sạn, quản trị du lịch và lữ

hành... chưa cần đầu tư mở các chuyên ngành sâu hơn như ở các trung tâm du

lịch phát triển. Đối với các địa phương có ngành du lịch phát triển, cần có

chiến lược dài hạn để phát triển đội ngũ, trong đó có đào tạo nguồn nhân lực

trình độ cao ở cả các nước có du lịch phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Hai là, tăng tính tương tác giữa người dạy và người học, lấy người học

làm trung tâm. Tâm sinh lý của sinh viên hiện nay là rất năng động, thích sự

134

thay đổi, không ưa sự tẻ nhạt, đơn điệu trong cách truyền đạt bài giảng, không

chấp nhận sự bất công, phi lý trong cách đánh giá của giảng viên nhưng lại

không tập trung nghe giảng, thiếu kiên nhẫn, cần cù trong nghiên cứu, nên

giảng viên phải sáng tạo ra nhiều cách để lôi cuốn sinh viên tham gia vào bài

học, cuối cùng là nắm bắt được những yêu cầu của chuẩn đầu ra của bài học.

Để có thể sáng tạo trong dạy học, trước hết, người giảng viên phải có

nền tảng kiến thức vũng chắc thì trên cơ sở đó mới tự tin và có thể sáng tạo ra

những phương pháp giảng dạy hữu hiệu.

Giảng viên cũng có thể sử dụng những phương pháp giảng dạy do người

đi trước sáng tạo ra hoặc kết hợp các phương pháp lại với nhau, ví dụ kết họp

cách dạy truyền thống với cách dạy trực tuyến, kết hợp lớp học đảo ngược

(flipped) với phương pháp dạy học dựa trên vấn đề,... Khi xây dựng bài giảng,

người giảng viên có thể sử dụng văn thơ, phim ảnh, video; Có thể kết hợp với

những hoạt động của sinh viên như đóng kịch, biểu diễn thời trang, phong

tục... để minh họa cho bài học. Cách làm này khơi gợi được hứng thú của sinh

viên. Tuy nhiên, sáng tạo trong dạy học là đúng, nhưng cần lường hết mọi

tình huống để lựa chọn phương pháp tối ưu, tránh hiểu lầm, ngộ nhận, đó mới

là đổi mới giáo dục hiệu quả.

Trong giờ giảng, giảng viên nên gợi ý, đặt ra nhiều câu hỏi để sinh viên

suy nghĩ, đồng thời khuyến khích sinh viên đặt ra nhiều câu hỏi. Một buổi học

thành công không phải là buổi học có nhiều sinh viên trả lời được câu hỏi của

giảng viên, mà là có nhiều sinh viên đặt ra những câu hỏi liên quan đến bài

học để tìm hiểu sâu về bài học.

Giảng viên - người trực tiếp dạy, có thể chọn bất kỳ tài liệu, sách báo

nào do bất kỳ ai viết để dạy cho sinh viên, nhưng phải chịu trách nhiệm đối

với những thông tin mình truyền tải. Và giảng viên cũng cho phép người học

tìm hiểu những nguồn thông tin khác, đưa ra quan điểm khác, tranh luận

135

ngược lại với giảng viên để thầy và trò cùng đưa ra kết luận cuối cùng. Việc

dám nghĩ khác được giảng viên, trường, lóp khuyến khích và cho học viên,

sinh viên cơ hội chứng minh, từ đó phát triển kỹ năng mềm cho người học.

Ngoài ra, giảng viên có thể sử dụng các mạng xã hội như Facebook,

twitter, instagram... để tạo kênh hỗ trợ, thảo luận trực tiếp với sinh viên qua

mạng. Mỗi lớp học sẽ tạo ra một trang mạng của lóp mình, mỗi sinh viên là

một thành viên. Trên các hang đó giảng viên có thể đăng những bài giảng mà

có thể ừên lớp đã không đủ thời gian truyền tải, những hình ảnh, video clip để

minh họa. Giảng viên có thể ra bài tập, hướng dẫn, thông báo những quy định

của lóp học để sinh viên có thể nắm bắt.

Sinh viên có thể đặt câu hỏi trên mạng để giảng viên giải đáp, vừa trao

đổi với bạn bè và nộp bài tập cho giảng viên. Tất cả những minh chứng này

được lưu lại, dễ dàng phục vụ cho công tác kiểm tra sau này.

Để phát huy vai trò của giáo viên, giảng viên sử dụng các phương pháp

giảng dạy tích cực, đội ngũ này cần được bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, nhất

là về phương pháp giảng dạy. Đổi mới phương pháp giảng dạy gắn với thực

tiễn phát triển cũng như đặc trưng riêng của khu vực.

Muốn đổi mới nhận thức, tư duy, phương pháp thì trước tiên phải mạnh dạn

giảm tải nội dung kiến thức, giảm bớt lý thuyết, tăng thực hành, mục tiêu bài học

phải gọn nhẹ, phù hợp với độ tuổi, thể chất, trình độ từng bậc học của học viên,

sinh viên để có giải pháp tương thích phù hợp. Quan trọng là nội dung đúng

trọng tâm, đáp ứng với nhu cầu của thực tiễn. Phải trả lời được các câu hỏi: Đối

tượng học là ai? Học chuyên ngành du lịch gì? Phương pháp dạy học như thế

nào? Mục tiêu đào tạo như thế nào? Sau khi học xong làm được gì so với yêu

cầu thực tế? để có thể tạo ra những bài giảng độc đáo mang thương hiệu, phong

cách riêng, bản sắc riêng của mình nhưng vẫn đáp ứng và đảm bảo yêu cầu về

chất lượng của nhà trường và doanh nghiệp du lịch.

136

Để làm được điều này. các trường du lịch cần có sự đa dạng trong cơ

cấu ngành nghề đào tạo. Nói về sự đa dạng thì các cơ sở đào tạo du lịch đào

tạo các trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên ngành du lịch đều đáp

ứng điều đó. Tuy nhiên, giảng dạy theo hướng “cầm tay chỉ việc” các lực

lượng lao động trực tiếp như đầu bếp, nhân viên phục vụ bàn, buồng, lễ tân,

hướng dẫn viên,... để học viên, sinh viên ra trường có thể làm việc ngay sau

khi ra trường mà không phải qua đào tạo lại thì rất ít trường làm được. Điều

này đòi hỏi ở các nhà trường về phương pháp giảng dạy, nội dung đào tạo gắn

với thực tế và cập nhật nhanh sự phát triển của ngành du lịch, đối với học

viên, sinh viên là sự trao dồi đạo đức nghề nghiệp, lòng yêu nghề, bản lĩnh

nghề nghiệp, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp phán đoán

tâm lý khách, trình độ ngoại ngữ, ... Việc đưa ra tiêu chuẩn lao động có chất

lượng thì dễ nhưng việc đào tạo để đạt được điều đó thì không thể ngày một

ngày hai mà đạt được. Các cơ sở đào tạo du lịch đào tạo học viên, sinh viên ra

trường có thể bắt tay vào việc ngay mà không phải qua đào tạo lại là một tín

hiệu đáng mừng.

Ba là, đa dạng hóa hình thức đào tạo, bảo đảm liên thông thuận lợi

giữa các cấp trình độ đào tạo trong cùng ngành, nghề hoặc với các ngành,

nghề khác hoặc liên thông lên trình độ cao hơn trong hệ thống giáo dục quốc

dân. Để làm được điều này, các cơ sở giáo dục đào tạo của vùng cần phối hợp

với các cơ sở đào tạo trong vùng và các tỉnh thành khác trong cả nước:

Trường Đại học Cần Thơ, Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh, Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP.

Hồ Chí Minh,…

Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tạo cơ hội học tập cho rộng rãi các

đối tượng. Kết hợp hài hòa giữa phát triển đào tạo du lịch trong các tnrờng

thuộc hệ thống giáo dục chuyên nghiệp với hệ thống các trường nghề. Ở mỗi

137

địa phương có thể mở các lớp đào tạo về du lịch với các bậc đào tạo và loại

hình đào tạo phù hợp với thực tiễn địa phương mình (địa phương tự mở, liên

kết trong vùng hoặc với các cơ sở đào tạo ở TP.HCM, liên kết với nước

ngoài,...). Đẩy mạnh xã hội hóa đào tạo du lịch.

Việc mở rộng đào tạo nguồn nhân lực du lịch với nhiều phương thức

khác nhau, có thể đào tạo tại các cơ sở đào tạo nghề trong vùng, ngoại vùng

và ngoài nước, đào tạo lại, đào tạo bổ sung tại các doanh nghiệp trong ngành

du lịch với nhiều hình thức khác nhau như tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn

và dài hạn, các lớp tập huấn, bồi dưỡng, bổ túc và cập nhật kiến thức, kỹ năng

chuyên môn.

Tuy nhiên để đạt được mục đích của việc đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch ở ĐBSCL, cần ưu tiên gắn mạng lưới hệ thống cơ sở đào tạo

với đặc thù từng địa phương, chú trọng đầu tư, nâng cấp, mở rộng mạng lưới

các trường, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, đẩy mạnh đào tạo liên thông,

tạo cơ hội học tập cho nhiều người.

Đặc biệt quan tâm đến phương châm “năm tại chỗ” (tuyển dụng tại chỗ,

đào tạo tại chỗ, thực hành tại chỗ, sử dụng tại chỗ và phát triển tại chỗ), vì lẽ

ĐBSCL là vũng trũng của giáo dục, nhiều người không có đủ điều kiện để

được tuyển vào các lớp chính quy theo tiêu chuẩn của nhà nước, nhưng họ

đang lao động trong ngành hoặc có khả năng lao động trong ngành, thì việc

các địa phương tạo điều kiện cho họ học tập bằng nhiều phương thức sáng

tạo khác nhau, sẽ tạo điều kiện cho họ hoạt động cống hiến cho địa phương,

cho ngành.

Mặt khác nhân lực ngành du lịch, đặc biệt là nhân lực phục vụ trong

lãnh vực du lịch sinh thái, luôn ưu tiên tuyển chọn từ cho cư dân địa phương,

ở vùng ĐBSCL thì việc phát triển du lịch sinh thái có tiềm năng cao nhất, vì

vậy phương châm “năm tại chỗ” cần được phát huy, tạo điều kiện cho cư dân

138

địa phương tham gia hoạt động, nâng cao mức sống, thực hiện chủ trương “ly

nông bất ly hương”, nhằm góp phần xây dựng nền kinh tế, phát triển du lịch ở

vùng ĐBSCL.

Trong hoạt động đào tạo, nhất là trong hệ thống trường nghề, cần thiết

phải phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp du lịch để thực hiện có hiệu quả

hoạt động thực hành, thực tập của người học. Việc đào tạo kỹ năng cho người

lao động tại các doanh nghiệp du lịch phải được coi là hoạt động cần thiết, tiếp

nối với hoạt động đào tạo của các nhà trường và được tiến hành thường xuyên.

Mỗi doanh nghiệp có kế hoạch và nội dung đào tạo riêng phù hợp với nhu cầu

thực tiễn của mình. Không nên quan niệm rằng, nhiệm vụ của nhà trường là phải

đào tạo cho sinh viên có đầy đủ các kiến thức và kỹ năng để khi ra trường họ có

thể đáp ứng ngay được tất cả các yêu cầu của doanh nghiệp.

Đặc biệt, trong quá trình quốc tế hóa hiện nay, nguồn nhân lực ngành

du lịch cũng cần phải được trang bị những tri thức, kỹ năng mang tính toàn

cầu để đáp ứng sự phát triển của ngành du lịch trong bối cảnh quốc tế hóa,

nhất là du lịch vùng có tốc độ giao lưu, hợp tác quốc tế và lượng khách quốc

tế ngày càng phát triển như ĐBSCL. Vì vậy, nguồn nhân lực của ngành cần

được bồi dưỡng năng lực đa văn hóa và học tập suốt đời. Từ đó, cần phải có

những yêu cầu, đòi hỏi về xây dựng chương trình đào tạo, phương pháp đào

tạo, kiểm tra đánh giá người học.

Bên cạnh đó cần đẩy mạnh đào tạo sau đại học về du lịch nhằm trang bị

những kiến thức sau đại học và nâng cao kỹ năng thực hành nhằm xây dựng

đội ngũ những người làm khoa học có trình độ chuyên môn về du lịch. Chất

lượng nội dung đào tạo cần được kiểm định ở các cơ quan kiểm định đạt

chuẩn quốc tế, tiến tới hệ thống bằng cấp được công nhận tương đương.

Ngoài ra, việc tuyển chọn, cử người đi học sau đại học cần được tính toán,

hoạch định một cách cẩn thận, khoa học và chính xác để mang lại lợi ích lớn,

139

tầm nhìn xa nhằm tránh lãng phí. Đặc biệt, cần cân nhắc chính sách xã hội

hóa, vừa Nhà nước, địa phương, các doanh nghiệp và gia đình có điều kiện

tham gia chính sách này và có những cam kết ràng buộc mang tính pháp lý.

Cần nhận thức rằng việc mở rộng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch

với nhiều phương thức khác nhau, có thể đào tạo tại các cơ sở đào tạo nghề

trong vùng, ngoại vùng và ngoài nước, đào tạo lại, đào tạo bổ sung tại các

doanh nghiệp trong ngành du lịch với nhiều hình thức khác nhau như tổ chức

các khóa đào tạo ngắn hạn và dài hạn, các lớp tập huấn, bồi dưỡng, bổ túc và

cập nhật kiến thức, kỹ năng chuyên môn…

4.2.4 Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đào tạo

nguồn nhân lực ngành đáp ứng nhu cầu thực hành kỹ năng nghề du lịch

cho ngƣời học

Đơn vị đào tạo cần đầu tư tốt các tiêu chuẩn về cơ sở vật chất cũng như

trang thiết bị đào tạo theo chuẩn khu vực, trong nước và quốc tế. Có thể kể

đến hệ thống phòng thực hành tiêu chuẩn quốc tế cho ngành khách sạn với

phòng ngủ, nhà hàng, dịch vụ bổ sung, khu vực lễ tân…; ngành lữ hành với

mô hình văn phòng giao dịch, phần mềm giữ chỗ hàng không, phần mềm giữ

chỗ khách sạn trong hệ thống phân phối toàn cầu…; phát triển mô hình thực

nghiệm công ty trong đơn vị đào tạo nhằm tạo điều kiện cho người học áp

dụng kiến thức vào trong tình huống thực tế mô phỏng.

Tùy theo năng lực, các đơn vị đào tạo tăng cường ứng dụng công nghệ

thông tin trong đào tạo theo Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông

tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy – học, nghiên cứu khoa học góp

phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016 – 2020, định

hướng đến năm 2025”. Theo đó, các đơn vị đào tạo phấn đấu 100% thực hiện

quản lý hành chính xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng; 70% cuộc

họp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và cơ sở giáo dục và đào tạo được áp

140

dụng hình thức trực tuyến; 70% lớp bồi dưỡng chuyên môn cho giảng viên,

giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được thưc hiện qua mạng theo phương

thức học tập kết hợp (blended learning); 50% hồ sơ thủ tục hành chính được

xử lý trực tuyến tối thiểu mức độ 3, trong đó 30% được xử lý trực tuyến ở

mức độ 4. Cụ thể, việc ứng dụng công nghệ thông tin toàn diện ở các cơ sở

đào tạo cần được thực hiện từ hệ thống quản lý hành chính điện tử, cập nhật

các dịch vụ công trực tuyến; ứng dụng công nghệ thông tin trong tuyển sinh,

quản lý đào tạo, quản lý sinh viên, quản lý giảng viên, quản lý giáo án, bài

giảng số, quản lý thi, xếp thời khóa biểu, sổ quản lý điện tử; tích hợp với

trang tin điện tử của nhà trường trên môi trường mạng ở tất cả các khóa học.

Các cơ sở đào tạo du lịch phải đầu tư xây dựng và hoàn thiện cổng thư viện số

(giáo trình, bài giảng, học liệu số) liên thông, chia sẻ với các cơ sở đào tạo

khác nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, đào tạo trong giáo dục, nhất là giáo

dục đại học; triển khai hệ thống học tập trực tuyến (E-learning); khai thác,

ứng dụng các phần mềm quản lý doanh nghiệp du lịch, khách sạn, lữ hành vào

trong quá trình giảng dạy cho sinh viên.

Để nâng cao chất lượng đào tạo cần xây dựng các phòng học đảm bảo

các trang thiết bị cần thiết như: loa, âm thanh, máy chiếu…giúp cho việc dạy

và học được diễn ra một cách thuận lợi. Bên cạnh đó cần chú ý xây dựng

trung tâm học liệu với nhiều loại tài liệu, phương tiện hiện đại nhằm đáp ứng

nhu cầu tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Nhất là chú ý đầu tư biên soạn,

mua sắm các tài liệu tham khảo, giáo trình chuyên ngành du lịch, các sách

lịch sử, văn hóa vùng ĐBSCL, các nghiên cửu quy trình nghiệp vụ phục vụ

khách du lịch theo chuẩn quốc tế.

Đơn vị đào tạo khai thác và sử dụng hiệu quả mọi nguồn kinh phí được hỗ

trợ; nhất là từ các chương trình hổ trợ cho việc đào tạo nhân lực du lịch cũng như

đẩy mạnh xã hội hóa trong đầu tư cơ sở vật chất phục vụ dạy và học.

141

Thực hiện chiến lược, kế hoạch ngắn hạn (1 – 2 năm), trung hạn (3 – 5

năm) và dài hạn (5 năm trở lên) trong việc mua sắm, đầu tư trang thiết bị kỹ

thuật, xây dựng cơ sở vật chất trong các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành

du lịch ở ĐBSCL.

4.2.5. Phát huy vai trò tích cực chủ động sáng tạo của chính ngƣời

lao động trong ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long

Đối với đơn vị sử dụng lao động cần phát huy vai trò tham gia làm chủ

và quản lý doanh nghiệp của người lao động, đơn vị sử dụng lao động thường

xuyên tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo, hội thi để nâng cao trình độ chuyên

môn, tay nghề, phát huy sáng kiến, sáng tạo, nâng cao nhận thức và trách

nhiệm của người lao động luôn khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt các nhiệm

vụ được giao.

Đẩy mạnh tính tiên phong, gương mẫu, ý thức tự giác, thực hiện đúng

chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của người lao động; làm việc bảo đảm đúng

nguyên tắc, kỷ cương trong lãnh đạo, điều hành; tôn trọng, công tâm, không

lạm dụng chức vụ, quyền hạn khi giải quyết công việc.

Đơn vị sử dụng lao động cần không ngừng hoàn thiện và nâng cao hiệu

quả hoạt động của cơ cấu tổ chức để tạo môi trường năng động cho sự phát

triển nguồn nhân lực doanh nghiệp; tạo tính cạnh tranh lành mạnh trong từng

vị trí công việc để người lao động đều có cơ hội phát huy tối đa năng lực của

bản thân, từng bước nâng cao chất lượng nhân lực, đáp ứng tiêu chuẩn nhân

lực du lịch quốc tế.

Đơn vị sử dụng lao động cần chú ý, quan tâm đầu tư mua sắm các trang

thiết bị chuyên dụng, hiện đại để phục vụ quá trình hoạt động du lịch.

Thực hiện tốt chính sách đãi ngộ người lao động chất lượng theo hướng

mũi nhọn, tập trung vào các đối tượng chuyên gia, nhà quản lý du lịch giỏi,

tạo ra sự khác biệt trong việc đãi ngộ so với các đối tượng tài năng khác; khen

142

thưởng, tôn vinh tài năng đảm bảo sự bình đẳng, công bằng nhằm khuyến

khích nỗ lực phấn đấu của nhiều cá nhân tài năng đến với các tỉnh thành

ĐBSCL.

Hiệp hội du lịch và đơn vị sử dụng lao động hàng năm tăng cường giao

lưu hợp tác giữa các vùng miền, giữa các quốc gia với nhau, bởi nó không chỉ

phát huy được thế mạnh của mỗi vùng miền mà còn giúp thay đổi phong

cách, thói quen, tinh thần kỷ luật và đổi mới tiêu chí đánh giá người lao động,

tạo mặt bằng chất lượng thống nhất giữa các vùng miền và các quốc gia trong

điều kiện kiện hội nhập.

Đối với người lao động, ngoài việc tự giác rèn luyện thể lực để bảo

đảm sức khỏe trong quá trình công tác, làm việc thì còn cần phải có thái độ

tích cực về nghề nghiệp, nhất là nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức, kỹ

năng mềm (kỹ năng giao tiếp với khách du lịch; kỹ năng liên kết, làm việc

nhóm; kỹ năng tổ chức sự kiện, tour du lịch; kỹ năng xử lý tình huống trong

công việc; kỹ năng chăm sóc khách hàng; kỹ năng quan sát nhận biết nhu cầu,

thái độ khách hàng; kỹ năng làm chủ cảm xúc…), trình độ ngoại ngữ, tin

học… Để thực hiện điều này, người lao động có thể tìm hiểu, đăng ký tham

gia các chương trình đào tạo ngắn hạn, các buổi/khóa tập huấn, bồi dưỡng do

cơ quan quản lý nhà nước, Hiệp hội Du lịch tổ chức.

Người lao động cần cập nhật thường xuyên kiến thức tổng quát về kinh

tế - xã hội, văn hóa, lịch sử, địa lý, thời tiết của đất nước, của các tuyến điểm

có trong chương trình du lịch nhằm phục vụ nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.

Đặc biệt, đối với người làm công tác trong ngành du lịch được ví như

“đại sứ văn hóa” thì cần phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc,

tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử, tích cực tuyên truyền, vận

động người dân, du khách thực hiện tốt nếp sống văn hóa, giữ gìn bản sắc dân

tộc và bảo vệ môi trường.

143

TIỂU KẾT CHƢƠNG 4

Với mục tiêu đến năm 2020, tầm nhìn 2030, ĐBSCL phải phấn đấu xây

dựng cho được đội ngũ nhân lực du lịch đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu

ngành nghề và trình độ đào tạo, đảm bảo về chất lượng nguồn nhân lực đáp

ứng yêu cầu phát triển du lịch nhanh và bền vững, thì việc nâng cao chất

lượng đào tạo nguồn nhân lực của vùng là tất yếu.

Để nâng cao chất lượng nguồn đào tạo nguồn nhân lực du lịch ĐBSCL

cần quán triệt hai quan điểm chủ đạo như sau: đào tạo nguồn nhân lực ngành

du lịch Đồng bằng sông Cửu Long phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế -

xã hội và chiến lược phát triển du lịch của vùng; đào tạo nguồn nhân lực

ngành du lịch của vùng phải quán triệt quan điểm đồng bộ nhưng có trọng

tâm trọng điểm.

Theo đó, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, với sự tham gia và

trách nhiệm không phải chỉ của các cơ sở đào tạo, mà của toàn xã hội. Đó là

giải pháp nhận thức đúng vị trí, vai trò, trách nhiệm và sự cần thiết nâng cao

chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành du lịch

Đồng bằng sông Cửu Long; phát triển số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ

làm công tác đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch trong các trường trung

cấp, cao đẳng, đại học ở ĐBSCL hiện nay; đổi mới nội dung chương trình,

phương pháp, hình thức đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL; tăng

cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đào tạo nguồn nhân lực ngành

du lịch đáp ứng nhu cầu thực hành kỹ năng nghề cho người học; phát huy vai

trò tích cực chủ động sáng tạo của chính người lao động trong ngành du lịch ở

ĐBSCL.

144

KẾT LUẬN

1. Trong dự phát triển của ngành du lịch, yêu cầu về đội ngũ nhân lực

có kiến thức, giỏi kỹ năng nghiệp vụ là vấn đề cấp thiết đới với cả nước nói

chung và vùng ĐBSCL nói riêng, đòi hỏi phài nâng cao chất lượng đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch.

2. Bao gồm các yếu tố cơ bản như: chủ thể của đào tạo, đối tượng đào

tạo, nội dung chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, phương pháp đào tạo

và môi trường đào tạo, đào tạo nguồn nhân lực du lịch là sự tác động tích cực,

tự giác của chủ thể vào đối tượng đào tạo nhằm trang bị kiến thức nhất định

về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo cho người lao động trong ngành

du lịch, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển ngành và của đất nước trong sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là một trong những yếu tố đặc biệt

quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch nói riêng và sự phát triển

của ngành du lịch nói chung. Việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch ở

Việt Nam hiện nay phải hướng vào phục vụ trực tiếp cho nhu cầu phát triển

ngành du lịch của đất nước; đảm bảo số lượng, chất lượng, cân đối về cơ cấu,

ngành nghề và trình độ đào tạo; và phải thống nhất giữa lý thuyết và thực

hành kỹ năng nghề du lịch.

3. Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay vẫn được xem là “vùng trũng”

về đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch. Nguồn nhân lực ngành du lịch của

vùng vẫn thiếu về số lượng, cơ cấu chưa hợp lý, chất lượng chưa đáp ứng yêu

cầu. Việc đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng còn nhiều hạn chế

cần nghiên cứu và giải quyết. Đó là: chất lượng đội ngũ làm công tác đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch còn nhiều hạn chế; hạn chế về nội dung,

chương trình, phương pháp trong đào tạo; hạn chế của cơ chế, chính sách

trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng.

145

4. Với mục tiêu đến năm 2020, tầm nhìn 2030, ĐBSCL phải phấn đấu

xây dựng cho được đội ngũ nhân lực du lịch đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu

ngành nghề và trình độ đào tạo, đảm bảo về chất lượng nguồn nhân lực đáp

ứng yêu cầu phát triển du lịch nhanh và bền vững, thì việc nâng cao chất

lượng đào tạo nguồn nhân lực của vùng là tất yếu. Để nâng cao chất lượng

nguồn đào tạo nguồn nhân lực du lịch ĐBSCL cần quán triệt hai quan điểm

chủ đạo như sau: đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu

Long phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược phát

triển du lịch của vùng; đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của vùng phải

quán triệt quan điểm đồng bộ nhưng có trọng tâm trọng điểm. Theo đó, cần

phải thực hiện đồng bộ các giải pháp: nhận thức đúng vị trí, vai trò, trách

nhiệm và sự cần thiết nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng

yêu cầu phát triển ngành du lịch Đồng bằng sông Cửu Long; phát triển số

lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác đào tạo nguồn nhân lực cho

ngành du lịch trong các trường trung cấp, cao đẳng, đại học ở ĐBSCL hiện

nay; đổi mới nội dung chương trình, phương thức, hình thức đào tạo nguồn

nhân lực ngành du lịch ở ĐBSCL; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật

phục vụ đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch đáp ứng nhu cầu thực hành kỹ

năng nghề cho người học; phát huy vai trò tích cực chủ động sáng tạo của

chính người lao động trong ngành du lịch ở ĐBSCL, với sự tham gia và trách

nhiệm không phải chỉ của các cơ sở đào tạo, mà của toàn xã hội.

146

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Huỳnh Văn Tánh (2016), “Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực du lịch ở

Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục & xã hội, (65), tr.60-62.

2. Huỳnh Văn Tánh (2016), “Vài suy nghĩ về nghề giáo và vai trò đào tạo nguồn

nhân lực”, Tạp chí Giáo dục & Xã hội, (Số đặc biệt), tr.14-16.

3. Lương Công Lý, Nguyễn Thị Vân (2017), Tín ngưỡng thờ mẫu ở Nam

Định, (Huỳnh Văn Tánh (Tham gia), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

4. Huỳnh Văn Tánh (2018), “Du lịch tâm linh tại các tỉnh Đồng bằng sông

Cửu Long”, Tạp chí Công tác tôn giáo, (9), tr.25-28, tr.31.

5. Huỳnh Văn Tánh (2018), “Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch vùng

Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”, Tạp chí Giáo dục & xã hội, (Số đặc

biệt), tr.142-145, tr.158

6. Huỳnh Văn Tánh (2019), “Một số giải pháp phát triển bền vững du lịch

Thành phố Cần Thơ”, Bản tin Khoa học - Đào tạo, (05), tr.54-58.

7. Huỳnh Văn Tánh (2019), “Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch vùng

Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”, Tạp chí Thông tin khoa học lý luận

chính trị, (11), tr.108-111.

147

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Phần 1: Tài liệu tham khảo Tiếng Việt

1. Trần Thị Kim Anh (2018), “Kinh nghiệm phát triển nhân lực du lịch của

một số quốc gia”, Tạp chí Du lịch, (11), Tr.60-62.

2. Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2019), Kết quả

tổng điều tra dân số và nhà ở, Nxb Thống kê, Hà Nội.

3. Ban Khoa giáo Trung ương (2000), Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi

mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Người thầy

nhân tố quan trọng trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Nxb Tổng

Hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Ban Tuyên giáo Trung ương (2012), Tài liệu Nghiên cứu Nghị quyết Hội

nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt

Nam khóa XI (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

6. Nguyễn Trọng Bảo, Nguyễn Huy Tú (1994), Phát hiện, tuyển chọn và bồi

dưỡng tài năng, Đề tài cấp Nhà nước mã số KX-05-06.

7. Nguyễn Duy Bắc (Chủ nhiệm) (2013), Đặc điểm của con người Việt Nam

với việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay,

Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà

Nội.

8. Lê Thanh Bình (2020), “Đổi mới sáng tạo giáo dục – đào tạo trong bối

cảnh hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp,

(42), Tr.26-30.

9. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2017), Công văn số 4929/BGDĐT-GDĐH về áp

dụng cơ chế đặc thù đào tạo ngành về du lịch, Hà Nội.

148

10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Đổi mới quản lý hệ thống giáo dục đại

học giai đoạn 2010 - 2012, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Giáo trình những nguyên lý cơ bản của

Chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Kỷ yếu hội thảo “Đổi mới giáo dục đại

học Việt Nam, hội nhập và thách thức”, Hà Nội.

13. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Kỷ yếu hội thảo “Nâng cao chất lượng

đào tạo toàn quốc lần thứ III”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2003), Kỷ yếu hội thảo “Thực trạng và

giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch đồng bằng sông Cửu

Long”, An Giang.

15. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011), Quy hoạch phát triển nguồn

nhân lực du lịch giai đoạn 2011 – 2020, Hà Nội.

16. Chu Văn Cấp (2012), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần

phát triển bền vững Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (9/839), tr.54-58.

17. Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng

yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

18. Nguyễn Đức Chính (2002), Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại

học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề triết học - con người - xã

hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

20. Phan Hữu Dật (1993), Phương sách dùng người của tổ tiên ta, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Vương Huy Diệu (2010), Chiến lược quốc gia nhân tài biến đổi thế giới,

Nxb Nhân dân, Hà Nội.

149

22. Hồ Anh Dũng (2002), Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản

xuất ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

23. Dương Đình Dũng (2020), “Một số giải pháp đẩy mạnh đào tạo kép giữa

cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập”, Tạp chí

khoa học Đại học Đồng Tháp, (42), Tr. 57 - 61.

24. Đại học Kinh tế Quốc dân (2009), Giáo trình kinh tế nguồn nhân lực,

Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

25. Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Dự

án đào tạo nguồn nhân lực tài năng, Đại học Quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

29. Trần Bạch Đằng (2009), “Hướng phát triển nguồn lực cho công nghiệp

hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (25).

30. Lê Thị Hồng Điệp (2010), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để

hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế,

trường ĐH Kinh tế TP.HCM.

31. Nguyễn Văn Đính (2018), “Nâng cao chất lượng nhân lực du lịch Việt

Nam đáp ứng hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN”, Tạp chí Du

lịch, (11), Tr.27-29.

32. Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con

đường dân giàu nước mạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và đào tạo: phát triển nguồn nhân lực

trong thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

150

34. Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực

trong điều kiện mới, (Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà

nước KX07, Đề tài KX07.14), Hà Nội.

35. Trần Văn Giàu (1995), Con người thế kỷ XXI, Nghiên cứu con người,

giáo dục, phát triển và thế kỷ XXI, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế

từ 27-29/7/1994 tại Hà Nội.

36. Lê Thanh Hà (2009), Giáo trình Quản trị nhân lực, NXB Lao động - Xã

hội, Hà Nội.

37. Ngô Trung Hà (2011), “Đẩy mạnh liên kết giữa nhà trường và doanh

nghiệp hướng tới đảm bảo chất lượng đào tạo nguồn nhân lực”, Tạp

chí Giáo dục, (263).

38. Ngô Trung Hà (2017), “Khung năng lực trong đào tạo nhân lực du lịch”,

Tạp chí Khoa học, (Tập 14, số 11), tr. 159 - 166.

39. Trần Thị Hà (2020), “Một số biện pháp nâng cao vai trò người thầy trong

xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh”, Tạp chí khoa học Đại học

Đồng Tháp, (42), Tr. 62 - 66.

40. Phạm Minh Hạc (Chủ nhiệm) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Hà Nội.

41. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn lực đi vào công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Phạm Minh Hạc (2008), Phát triển con người, nguồn nhân lực - quan

niệm và chính sách, Trong sách: Những vấn đề lý luận và thực tiễn

mới đặt ra trong tình hình hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Lương Đình Hải (Chủ nhiệm) (2003), Ảnh hưởng của tiến bộ khoa học,

kỹ thuật và công nghệ đến việc nghiên cứu và phát triển con người và

nguồn nhân lực những năm đầu thế kỷ XXI, Đề tài khoa học cấp Nhà

151

nước KX-05 Nghiên cứu văn hoá, con người, nguồn nhân lực đầu thế

kỷ XXI”11-2003, Hà Nội.

44. Lương Đình Hải (2009), “Trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực trong

điều kiện kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay”, tạp chí Triết học, số

6 (217).

45. Lương Đình Hải (chủ nhiệm) (2016), Đề tài cấp Bộ Phát triển nguồn nhân

lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay: yêu cầu và giải pháp, Viện

Nghiên cứu Con người, Viện hàn lâm KHXH Việt Nam Hà Nội.

46. Hoàng Ngọc Hiển (2018), “Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

trước cách mạng công nghiệp 4.0”, Tạp chí Du lịch, (6), Tr.40-43.

47. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) (2012), Thỏa thuận thừa

nhận lẫn nhau trong ASEAN (Sách hướng dẫn).

48. Hiệp hội đào tạo du lịch Việt Nam, Sở Du lịch thành phố Hồ Chí Minh:

Hội thảo khoa học Phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam chất

lượng cao đáp ứng nhu cầu xã hội trong thời kỳ hội nhập ASEAN,

2016.

49. Nguyễn Đình Hòa (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực

và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (1).

50. Phạm Văn Khanh (2020), “Quản trị trường học trên tinh thần đổi mới và

hiện đại hóa giáo dục”, Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp, (42),

Tr. 39-43.

51. Nguyễn Quốc Khánh, Lương Nguyễn Duy Thông (2020), “Một số định

hướng nâng cao hiệu quả liên kết đào tạo giữa trường đại học với doanh

nghiệp, Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp, (42), Tr. 49 - 56.

52. Dương Đăng Khoa (2015), “Đào tạo nhân lực ở Đồng bằng sông Cửu

Long: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Phát triển và hội nhập, (21),

Tr. 78-81.

152

53. Lê Thị Ái Lâm (2002), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và

đào tạo ở một số nước Đông Á, kinh nghiệm đối với Việt Nam, Luận

án Tiến sĩ Kinh tế, Viện Kinh tế Thế giới, Hà Nội.

54. Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và

đào tạo - kinh nghiệm Đông Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

55. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

56. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

57. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 24, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 38, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Phạm Văn Linh (2012), "Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt

Nam trước yêu cầu phát triển mới của đất nước", Tạp chí Thông tin

Lý luận chính trị, (49/122).

62. Nguyễn Hữu Long (2010), Giáo trình Phát triển nguồn nhân lực, Nxb

Đại học Sư phạm.

63. Trần Văn Long (2017), “Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy nghề”, Tạp chí

Du lịch, (11), Tr.38-39.

64. Nguyễn Văn Lưu (2014), Phát triển nguồn nhân lực yếu tố quyết định sự

phát triển của ngành du lịch Việt Nam, NXB Thông tấn.

65. Nguyễn Văn Lưu (2007), “Để người thầy phát huy được vai trò quyết

định chất lượng đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch”, Tạp chí

Du lịch Việt Nam, (11).

66. Lương Công Lý (2014), Giáo dục- đào tạo với việc phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

153

67. Lương Công Lý và các cộng sự (2016), Phát huy vai trò của giáo dục –

đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt

Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

68. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

69. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

70. Trương Hiếu Mai (2005), Nghiên cứu phát triển và sử dụng nhân lực

nông nghiệp Trung Quốc, Nxb Nông nghiệp Trung Quốc.

71. Nguyễn Văn Mạnh (2007), “Đào tạo nguồn nhân lực bậc đại học cho

ngành Du lịch”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (11), tr. 25-27.

72. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

73. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

76. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

77. Nguyễn Văn Nam, Nguyễn Văn Áng (2007), Các giải pháp cơ bản gắn

đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

78. Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (chủ biên) (2004), Quản lý nguồn

nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

79. Lê Đại Nghĩa (2011), “Đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo, nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực”, Báo Quân đội nhân dân, (số ra ngày

17/5/2011), tr.1.

80. Phạm Trọng Lê Nghĩa (2011), “Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất

lượng cao thời hội nhập”, Tạp chí Văn hóa đương đại, (328), tr.25-28.

154

81. Nhiều tác giả (2011), Phát triển nguồn lực giáo dục đại học Việt Nam

(2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

82. Bùi Văn Nhơn (2006), Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

83. Lê Du Phong (Chủ biên) (2006), Nguồn lực và động lực phát triển trong

nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Nxb Lý luận

chính trị, Hà Nội.

84. Trần Hoàng Phong (2020), “Quản lý hoạt động của các bộ môn thuộc

Khoa Văn hóa – Du lịch Trường Đại học Đồng Tháp hiện nay, thực

trạng và giải pháp”, Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp, (4), Tr. 3-

12.

85. Nguyễn Ngọc Phú (Chủ biên) (2006), Tiến tới một xã hội học tập, Nxb

Đại học quốc gia, Hà Nội.

86. Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng, (Chủ biên) (2012), Phát triển nguồn

nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập

quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

87. Trần Hồng Quân (1996), Kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo giai

đoạn 1996-2000 và định hướng đến 2020 phục vụ sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

88. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật Du

lịch, Hà Nội.

89. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật Cán bộ,

công chức, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.

90. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Luật Giáo

dục, Nxb Lao động, Hà Nội.

91. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật Giáo

dục Đại học Việt Nam, Hà Nội.

155

92. Hồ Sỹ Quý (2007), Con người và phát triển con người, Giáo trình dùng

cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành triết

học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

93. Đường Vĩnh Sường (2012), “Giáo dục, đào tạo với phát triển nguồn nhân

lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Cộng

sản, (833), tr.36-39.

94. Tạ Ngọc Tấn (2012), Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, nhân

tài, Một số kinh nghiệm của thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Trịnh Ngọc Thạch (2008), Hoàn thiện mô hình quản lý đào tạo nguồn

nhân lực chất lượng cao trong các trường đại học Việt Nam, Luận án

Tiến sĩ Quản lý giáo dục, Hà Nội.

96. Nguyễn Thanh (2001), Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của giáo dục

- đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết

học, Viện Triết học, Hà Nội.

97. Nguyễn Văn Thạo - Nguyễn Viết Thông (2011), Tìm hiểu một số thuật ngữ

trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

98. Hồ Bá Thâm (2020), “Đổi mới sáng tạo – triết lý của nền giáo dục Việt

Nam trên con đường thay đổi, phát triển, vượt qua thách thức của

cách mạng công nghiệp 4.0”, Tạp chí khoa học Đại học Đồng Tháp,

(42), Tr. 16-25.

99. Trần Ngọc Thêm (chủ biên) (2013), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam

Bộ, Nxb Văn hóa – Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.

100. Trần Văn Thông (2006), Tổng quan du lịch, Nxb Đại học Quốc gia

TP.HCM.

156

101. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định Phê duyệt Quy hoạch tổng thể

phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm vùng Đồng bằng

sông Cửu Long đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Hà Nội.

102. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định Phê duyệt Quy hoạch tổng thể

phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, tầm

nhìn đến năm 2030, Hà Nội.

103. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định Phê duyệt chiến lược phát triển

du lịch Việt Nam đến năm 2030, Hà Nội.

104. Đoàn Xuân Thủy (2013), “Những vấn đề đặt ra đối với việc đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghiên

cứu Đông Bắc Á, Hà Nội.

105. Nguyễn Hữu Tiệp (2010), Giáo trình nguồn nhân lực, Nxb Lao động - xã

hội, Hà Nội.

106. Trung tâm Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực, Viện phát triển giáo

dục (2002), Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát

triển nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

107. Trường Cao đẳng Cần Thơ (2017), Kỷ yếu hội thảo khoa học “Cần Thơ

– Điểm đến du lịch Đồng bằng sông Cửu Long”, Cần Thơ.

108. Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn và Đại học

Lille (2015), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Toàn cầu hóa du

lịch và địa phương hóa du lịch”, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hổ Chí

Minh.

109. Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn và Đại học

Lille (2016), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Các loại hình du

lịch hiện đại”, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hổ Chí Minh.

157

110. Trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu (2018), Kỷ yếu Hội thảo khoa học

“Phát triển du lịch trong cách mạng công nghiệp 4.0”, Nxb Đại học

Quốc gia TP. Hổ Chí Minh.

111. Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn (2015), Kỷ yếu hội thảo

khoa học quốc gia “Phát triển bền vững giáo dục và đào tạo nguồn

nhân lực ở Đồng bằng sông Cửu Long”, TP. Hổ Chí Minh.

112. Trường Đại học Sài Gòn (2009), Kỷ yếu hội thảo khoa học toàn quốc

“Đào tạo nguồn nhân lực ngành văn hóa - du lịch trong xu thế hội

nhập và phát triển”, TP. Hổ Chí Minh.

113. Trường Đại học Văn hóa (2013), Kỷ yếu hội thảo Những nhiệm vụ cấp

bách, quan trọng và các giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết

Trung ương 5 khóa VIII, Hà Nội.

114. Trường Đại học Văn hiến - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2019), Phát

triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, Nxb.

Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh., TP. Hồ Chí Minh.

115. Lê Anh Tuấn (2016), “Bàn về đào tạo du lịch trong hội nhập ASEAN”,

Tạp chí Du lịch Việt Nam, (3), Hà Nội..

116. Trấn Văn Tùng và Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực - kinh

nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

117. Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm (1998), Phát triển nguồn nhân lực - kinh

nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Hà Nội.

118. Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực

tài năng, Nxb Thế giới, Hà Nội.

119. Nguyễn Thị Hồng Vân (2005), “Giáo dục với phát triển nguồn nhân lực

phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Phát triển giáo

dục, (4), Hà Nội.

158

120. Nguyễn Đình Vĩ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào

tạo nhân tài, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

121. Viện Nghiên cứu Phát triển giáo dục (2002), Chiến lược phát triển giáo

dục trong thế kỷ XXI - kinh nghiệm của các quốc gia, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

122. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2004), Quản lý nguồn

nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

123. Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

124. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa –

Thông tin, Hà Nội.

Phần 2: Tài liệu tham khảo tiếng Anh

1. Dennis Nickson, (2007), Human resource management for the hospitality

and tourism industries, Elsevier Linacre House, Jordan Hill, Oxford, USA

2. Hatch N.W, Dyer J.H (2004) “Human capital and learning as a source

of sustainable competitive advantage”, Strategic Management Journal

25 (2004), pp. 1155–1178.

3. Juliana Kheng Mei Soh Ms (2008), “Human resource development in the

Tourism sector in Asia”, Perspectives in Asian Leisure and Tourism,

(Vol.1, Issue 1, Article 7).

4. Marija Džopalić1, Jovan Zubović, Ivana Domazet, (2009), Human resource

management – Developing force of tourist industry.

5. WB (2013), Human Capital Report.

6. Ulrich D (1997), Human Resource Champions, Harvard Business

School Press.

159

Phụ lục 1

DANH SÁCH CÁC TRƢỜNG TRUNG CẤP, CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC

ĐÀO TẠO NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG

CỬU LONG NĂM 2020

Địa chỉ

Ngành đào tạo

ST T

Địa phƣơng

Cơ sở đào tạo

Năm thành lập

Cơ quan chủ quản

1999

Trường ĐH An Giang

ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

Việt Nam học (Văn hóa du lịch) Gồm 2 chuyên ngành: Hướng dẫn viên du lịch và Quản lý Nhà hàng – Khách sạn

2007

UBND tỉnh An Giang

1

Trường CĐ nghề An Giang

An Giang

-Quản trị nhà hàng -Trung cấp Nghiệp vụ nhà hàng -Trung cấp Quản trị khách sạn

2009

Trường TC nghề Châu Đốc

Sở LĐTB XH An Giang

Nghiệp vụ nhà hàng

2006

Văn hóa du lịch

Trường ĐH Bạc Liêu

UBND tỉnh Bạc Liêu

2 Bạc Liêu

2014

UBND tỉnh Bạc Liêu

Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật tỉnh Bạc

18 Ung Văn Khiêm, P. Đông Xuyên, TP.Long Xuyên, An Giang 841 Trần Hưng Đạo, P.Bình Khánh, TP.Long Xuyên, An Giang Đường kênh Hòa Bình, khóm Châu Long 8, P. Châu Phú B, TP.Châu Đốc, An Giang 178 Võ Thị Sáu, P.8, TP.Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu 22 Cách mạng và số 10 Tôn Đức Thắng, khóm 10, phường

- Hướng dẫn du lịch - Quản lý và kinh doanh nhà hàng và dịch vụ ăn uống - Nghiệp vụ nhà hàng,

Liêu

khách sạn

2004

- Việt Nam học

Trường CĐ Bến Tre

UBND tỉnh Bến Tre

1, TP Bạc Liêu, Bạc Liêu 1H, ấp 1, xã Sơn Đông, Tp.Bến Tre, Bến Tre

3 Bến Tre

2008

- Quản trị khách sạn - Hướng dẫn du lịch

Trường CĐ nghề Đồng Khởi

17A4, Quốc lộ 60, Phường Phú Tân, TP. Bến Tre, Tỉnh Bến Tre

Tổng liên Đoàn Lao động Việt Nam

Du lịch (Việt Nam học)

2013

Trường đại học tư thục

4 Cà Mau

Số 3, Đường số 6, Khu Dự án Đông Bắc, P5, TP. Cà Mau, Cà Mau.

Phân hiệu Trường ĐH Bình Dương tại Cà Mau

2007

UBND tỉnh Cà Mau

Trường CĐ cộng đồng Cà Mau

Trung cấp Hướng dẫn du lich Du lich sinh thái Du lich lữ hành

1975

Bộ GD và ĐT

Trường ĐH Cần Thơ

- Việt Nam học (Chuyên ngành Hướng dẫn viên du lịch) - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành

5 Cần Thơ

2006

- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Việt Nam học - Du lịch (ngành mới)

Trường ĐH Tây Đô

Trường đại học tư thục

2013

Trường ĐH Nam Cần Thơ

Trường đại học tư thục

126 Đường 3/2, P.6, TP.Cà Mau, Cà Mau Khu II, đường 3/2, P.Xuân Khánh, Q.Ninh Kiều, TP.Cần Thơ Số 68 Trần Chiên KV.Thạnh Mỹ, P.Lê Bình, Q.Cái Răng, TP.Cần Thơ 168, Nguyễn Văn Cừ (nối dài), P. An

- Quản trị dịch vụ du lịch & lữ hành - Quản trị khách sạn

160

- Quản trị nhà hàng & dịch vụ ăn uống - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị khách sạn

2018

Trường ĐH FPT Cần Thơ

Trường đại học tư thục

1977

- Việt Nam học - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành

Trường CĐ Cần Thơ

UBND TP.Cần Thơ

Bình, Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ 600, đường Nguyễn Văn Cừ (nối dài), phường An Bình, quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ 413 đường 30/4, P.Hưng Lợi, Q.Ninh Kiều, TP.Cần Thơ

2014

Bộ VHTT &DL

Trường CĐ Du lịch Cần Thơ

Số 47 Đường số 1, Khu Vực 3 Sông Hậu, Cồn Khương, quận Ninh Kiều TP.Cần Thơ

- Cao đẳng: Quản trị lữ hành, Quản trị khách sạn, Quản trị nhà hàng, Hướng dẫn du lịch. - Trung cấp: Kỹ thuật chế biến món ăn, Hướng dẫn du lịch, Nghiệp vụ lễ tân, Nghiệp vụ nhà hàng, Quản lý và kinh doanh khách sạn Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành

2004

UBND TP.Cần Thơ

Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ

2010

Trường CĐ FPT Cần Thơ

Trường cao đẳng tư thục

Số 9, đường Cách mạng Tháng tám, Phường An Hòa, Quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ  Số 288,  Nguyễn Văn  Linh, phường An Khánh, quận Ninh Kiều, Tp. Cần Thơ

6

2008

- Hướng dẫn du lịch - Quản trị nhà hàng - Quản trị khách sạn Việt Nam Học (hướng dẫn du lịch; Quản lý nhà

Đồng Tháp

Trường ĐH

Bộ GD và ĐT

783, Phạm Hữu Lầu,

161

hàng & khách sạn)

Đồng Tháp

Quản trị du lịch & lữ hành

7

2008

Hậu Giang

Trường đại học tư thục

Trường ĐH Võ Trường Toản

P.6, Tp.Cao Lãnh, Đồng Tháp Quốc Lộ 1A, Tân Phú Thạnh, Châu Thành A, Hậu Giang

2014

Bộ GD và ĐT

Trường ĐH Kiên Giang

Số 320 A - Quốc lộ 61 - TT. Minh Lương, Châu Thành - Kiên Giang

Ngôn ngữ Anh (Ngôn ngữ Anh du lịch) Quản trị kinh doanh (QTKD Khách sạn và QTKD dịch vụ du lịch và lữ hành)

2018

8

Trường CĐ Kiên Giang

Kiên Giang

UBND tỉnh Kiên Giang

- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị khách sạn - Quản trị nhà hàng

425 Mạc Cửu, P. Vĩnh Thanh, TP. Rạch Giá, Kiên Giang

2017

Trường TC Việt – Hàn Phú Quốc

Sở LĐTB XH Kiên Giang

- Hướng dẫn du lịch - Nghiệp vụ lễ tân - Nghiêp vụ nhà hàng - Nghiêp vụ lưu trú - Quản trị khách sạn - Kỹ thuật chế biến món ăn

Ngã 3, Ấp Bãi Vòng, xã Hàm Ninh, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang

- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành

9 Long An

2007

Bộ GD và ĐT

938 QL1A, P. Khánh Hậu, TP.Tân An, Long An

Trường ĐH Kinh tế Công nghiệp Long An

- Hướng dẫn du lịch. - Nghiệp vụ Nhà hàng – Khách sạn.

2020

10

Sóc Trăng

Trường trung cấp tư thục

Trường TC Sài Gòn - Phân hiệu Sóc Trăng

Số 256E1, Khu dân cư Hưng Thịnh, Quốc lộ 1A, K1, P. 7, TP. Sóc Trăng, Sóc Trăng.

162

2005

Trường ĐH Tiền Giang

- Du lịch - Cao đẳng Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hảnh

UBND Tỉnh Tiền Giang

Số 119 Ấp Bắc, phường 5, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang

11

Tiền Giang

2018

- Kỹ thuật chế biến món ăn - Hướng dẫn du lịch

Trường CĐ Tiền Giang

UBND Tỉnh Tiền Giang

2006

Trường ĐH Trà Vinh

UBND tỉnh Trà Vinh

- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị khách sạn - Quản trị nhà hàng và dịch vụ ăn uống

12 Trà Vinh

- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành

2015

Trường CĐ nghề Trà Vinh

UBND tỉnh Trà Vinh

Số 126 Nguyễn Thiện Thành – Khóm 4, Phường 5, Thành phố Trà Vinh, Tỉnh Trà Vinh Ấp Vĩnh Yên, xã Long Đức, TP. Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh

Du lịch

2013

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

73 Nguyễn Huệ Phường 2 TP. Vĩnh Long, Vĩnh Long.

Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long

- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành

13

2000

Vĩnh Long

Trường ĐH Cửu Long

Trường đại học tư thục

- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành

2004

UBND tỉnh Vĩnh Long

Trường CĐ Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long.

Quốc lộ 1A xã Phú Quới huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long Số 1B Nguyễn Trung Trực, P8, Tp. Vĩnh Long, Tỉnh Vĩnh Long

163

164

(Nguồn: tác giả tổng hợp)

Phụ lục 2 THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG GIẢNG VIÊN ĐÀO TẠO DU LỊCH THEO

ĐỘ TUỔI VÀ GIỚI TÍNH Ở MỘT SỐ CƠ SỞ ĐÀO TẠO ĐBSCL

NĂM HỌC 2019-2020

ĐVT: người

Số lượng Độ tuổi

Trường Nam Nữ

Dưới 30 Từ 30 đến 40 Từ 41 đến 50 Trên 50

4 6 2

8 10 3 1

8 1 10 6 1 2

4 1 4 2 1

8 3 5 4 1 7 1 3 4 1 4 1 2 6

8 10 12 10 3 1

18 20 17 15 3 3

Trƣờng CĐ Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành; Việt Nam học Trƣờng ĐH Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành Việt Nam học (hướng dẫn viên du lịch) Trƣờng CĐ Du lịch Cần Thơ Quản trị lữ hành, Hướng dẫn du lịch Quản trị khách sạn, nhà hàng Kỹ thuật chế biến món ăn Trƣờng CĐ Bến Tre Việt Nam học Trƣờng ĐH Kiên Giang Ngôn ngữ Anh (Ngôn ngữ Anh du lịch) Quản trị kinh doanh (QTKD Khách sạn và QTKD dịch vụ du lịch và lữ hành) Trƣờng ĐH Đồng Tháp

165

4 2 6

1 4 4 1

1 1 1 1 1 1

5 13 2 14 2

6 6

2 6 6 2

1 1 Việt Nam học (chuyên ngành Văn hóa du lịch) Quản lý văn hóa Trƣờng CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Bạc Liêu Hướng dẫn du lịch NV nhà hàng – khách sạn Trƣờng ĐH Bạc Liêu CĐ Văn hóa du lịch ĐH Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam Trƣờng CĐ nghề An Giang Quản trị nhà hàng Trung cấp Nghiệp vụ nhà hàng Trung cấp Quản trị khách sạn Trƣờng ĐH Tiền Giang Du lịch Cao đẳng Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hảnh Trƣờng TC nghề Châu Đốc Nghiệp vụ nhà hàng

(Nguồn: tác giả tổng hợp)

166

Phụ lục 3 THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG GIẢNG VIÊN ĐÀO TẠO DU LỊCH THEO

TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ Ở MỘT SỐ CƠ SỞ

ĐÀO TẠO ĐBSCL NĂM HỌC 2019-2020

Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

Trường

Đại học

Thạc sĩ

Tiến sĩ

0

6

7

4

1

8

5

2

4

10

2

2

2

1

8

1

20

1

2

30

6

5

1

4

1

ĐVT: người

1

1

Trƣờng CĐ Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành; Việt Nam học Trƣờng ĐH Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành Việt Nam học (hướng dẫn viên du lịch) Trƣờng CĐ Du lịch Cần Thơ Quản trị lữ hành, Hướng dẫn du lịch Quản trị khách sạn, nhà hàng Kỹ thuật chế biến món ăn Trƣờng CĐ Bến Tre Việt Nam học Trƣờng ĐH Kiên Giang Ngôn ngữ Anh (Ngôn ngữ Anh du lịch) Quản trị kinh doanh (QTKD Khách sạn và QTKD dịch vụ du lịch và lữ hành) Trƣờng ĐH Đồng Tháp Việt Nam học (chuyên ngành Văn hóa du lịch) Quản lý văn hóa Trƣờng CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Bạc Liêu Hướng dẫn du lịch

1

13

3

2

5

1

6

2

167

1

NV nhà hàng – khách sạn Trƣờng ĐH Bạc Liêu CĐ Văn hóa du lịch ĐH Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam Trƣờng CĐ nghề An Giang Quản trị nhà hàng Trung cấp Nghiệp vụ nhà hàng Trung cấp Quản trị khách sạn Trƣờng ĐH Tiền Giang Du lịch Cao đẳng Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hảnh Trƣờng TC nghề Châu Đốc Nghiệp vụ nhà hàng

(Nguồn: tác giả tổng hợp)

168

Phụ lục 4 CÁC CHUYÊN NGÀNH ĐÀO TẠO VỀ DU LỊCH Ở VÙNG ĐBSCL

HIỆN NAY

Ngành đào tạo ST T Cơ sở đào tạo

1 Trường ĐH An Giang

2 Trường CĐ nghề An Giang - Việt Nam học (Văn hóa du lịch) Gồm 2 chuyên ngành: Hướng dẫn viên du lịch và Quản lý Nhà hàng – Khách sạn -Quản trị nhà hàng -Trung cấp Nghiệp vụ nhà hàng -Trung cấp Quản trị khách sạn

3 Trường TC nghề Châu Đốc - Nghiệp vụ nhà hàng

4 Trường ĐH Bạc Liêu

5 Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật tỉnh Bạc Liêu

6 Trường CĐ Bến Tre

7 Trường CĐ nghề Đồng Khởi

- Văn hóa du lịch - Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam - Hướng dẫn du lịch - Quản lý và kinh doanh nhà hàng và dịch vụ ăn uống - Nghiệp vụ nhà hàng, khách sạn - Việt Nam học - Quản trị khách sạn - Hướng dẫn du lịch - Du lịch (Việt Nam học)

8

9

PH Trường ĐH Bình Dương tại Cà Mau Trường CĐ cộng đồng Cà Mau

10 Trường ĐH Cần Thơ - Trung cấp Hướng dẫn du lich - Du lich sinh thái - Du lich lữ hành - Việt Nam học (Chuyên ngành Hướng dẫn viên du lịch)

169

11 Trường ĐH Tây Đô

12 Trường ĐH Nam Cần Thơ

13 Trường ĐH FPT Cần Thơ

14 Trường CĐ Cần Thơ

15 Trường CĐ Du lịch Cần Thơ

- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Việt Nam học - Du lịch (ngành mới) - Quản trị dịch vụ du lịch & lữ hành - Quản trị khách sạn - Quản trị nhà hàng & dịch vụ ăn uống - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị khách sạn - Việt Nam học - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Cao đẳng: Quản trị lữ hành, Quản trị khách sạn, Quản trị nhà hàng, Hướng dẫn du lịch. - Trung cấp: Kỹ thuật chế biến món ăn, Hướng dẫn du lịch, Nghiệp vụ lễ tân, Nghiệp vụ nhà hàng, Quản lý và kinh doanh khách sạn - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành 16 Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Cần Thơ

 Trường CĐ FPT Cần  Thơ

17

18

- Hướng dẫn du lịch - Quản trị nhà hàng - Quản trị khách sạn - Việt Nam Học (hướng dẫn du lịch; Quản lý nhà hàng & khách sạn) - Quản trị du lịch & lữ hành 19 Trường ĐH Đồng Tháp Trường ĐH Võ Trường Toản

20 Trường ĐH Kiên Giang - Ngôn ngữ Anh (Ngôn ngữ Anh du lịch) - Quản trị kinh doanh (QTKD Khách sạn và QTKD dịch vụ du lịch và lữ hành)

21 Trường CĐ Kiên Giang - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị khách sạn - Quản trị nhà hàng

170

22 Trường TC Việt – Hàn Phú Quốc

- Hướng dẫn du lịch - Nghiệp vụ lễ tân - Nghiêp vụ nhà hàng - Nghiêp vụ lưu trú - Quản trị khách sạn - Kỹ thuật chế biến món ăn - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành 23 Trường ĐH Kinh tế Công nghiệp Long An

- Hướng dẫn du lịch. - Nghiệp vụ Nhà hàng – Khách sạn. 24 Trường TC Sài Gòn - Phân hiệu Sóc Trăng

25 Trường ĐH Tiền Giang

26 Trường CĐ Tiền Giang

27 Trường ĐH Trà Vinh

- Du lịch - Cao đẳng Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hảnh - Kỹ thuật chế biến món ăn - Hướng dẫn du lịch - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành - Quản trị khách sạn - Quản trị nhà hàng và dịch vụ ăn uống - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành 28

- Du lịch 29 Trường CĐ nghề Trà Vinh Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long

- Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành 30 Trường ĐH Cửu Long

31 Trường CĐ Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long - Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành

Nguồn: Tác giả tổng hợp

171

Phụ lục 5

THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG GIẢNG VIÊN ĐÀO TẠO DU LỊCH THEO

TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ DU LỊCH Ở MỘT SỐ CƠ SỞ

ĐÀO TẠO ĐBSCL NĂM HỌC 2019-2020

ĐVT: người

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ DU LỊCH sơ cấp, trung cấp, cao đẳng Trình độ chuyên môn nghiệp vụ DU LỊCH từ Đại học trở lên Trường

Đào tạo trong nước Đào tạo ở nước ngoài Đào tạo trong nước

5

1

2

9

8

6

4

6

4

12

1

4

1

0

0

0

0

0

0

0

0

Đào tạo ở nước ngoài

Trƣờng CĐ Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành; Việt Nam học Trƣờng ĐH Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành Việt Nam học (hướng dẫn viên du lịch) Trƣờng CĐ Du lịch Cần Thơ Quản trị lữ hành, Hướng dẫn du lịch Quản trị khách sạn, nhà hàng Kỹ thuật chế biến món ăn Trƣờng CĐ Bến Tre Việt Nam học Trƣờng ĐH Kiên Giang Ngôn ngữ Anh (Ngôn ngữ Anh du lịch) Quản trị kinh doanh (QTKD Khách sạn và QTKD dịch vụ

0

2

4

0

0

1

2

0

1

5

6

6

2

1

172

du lịch và lữ hành) Trƣờng ĐH Đồng Tháp Việt Nam học (chuyên ngành Văn hóa du lịch) Quản lý văn hóa Trƣờng CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Bạc Liêu Hướng dẫn du lịch NV nhà hàng – khách sạn Trƣờng ĐH Bạc Liêu Văn hóa du lịch Trƣờng CĐ nghề An Giang Quản trị nhà hàng Trung cấp Nghiệp vụ nhà hàng Trung cấp Quản trị khách sạn Trƣờng ĐH Tiền Giang Du lịch Cao đẳng Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hảnh Trƣờng TC nghề Châu Đốc Nghiệp vụ nhà hàng

(Nguồn: tác giả tổng hợp)

173

Phụ lục 6

THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG HỌC VIÊN, SINH VIÊN DU LỊCH Ở MỘT

SỐ CƠ SỞ ĐÀO TẠO ĐBSCL NĂM HỌC 2019-2020

ĐVT: người

Số lượng tuyển sinh Số lượng tốt nghiệp

Trường

Trung cấp Cao đẳng Đại học Trung cấp Cao đẳng Đại học

115 157

92 152

110 140

119 80

7 16 14 33 76 83 74 161 10

7 65

8 0 0 8

82 194

0 288

Trƣờng CĐ Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành Việt Nam học Trƣờng ĐH Cần Thơ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành Việt Nam học (hướng dẫn viên du lịch) Trƣờng CĐ Du lịch Cần Thơ Quản trị lữ hành, Hướng dẫn du lịch Quản trị nhà hàng Quản trị khách sạn Quản lý và kinh doanh khách sạn Kỹ thuật chế biến món ăn Trƣờng CĐ Bến Tre Việt Nam học Trƣờng ĐH Kiên Giang Ngôn ngữ Anh (Ngôn ngữ Anh du lịch) Quản trị kinh doanh (QTKD Khách sạn và QTKD dịch vụ du lịch và lữ hành) Trƣờng ĐH Đồng Tháp

174

40 Việt Nam học (chuyên ngành Văn hóa du lịch)

30 Quản lý văn hóa 42 (30) (25) 21

0 0 0 0 0 0

13 0

45 27 38 26

40 30

40 10 Trƣờng CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Bạc Liêu Hướng dẫn du lịch NV nhà hàng – khách sạn Trƣờng ĐH Bạc Liêu Văn hóa du lịch Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam Trƣờng CĐ nghề An Giang Quản trị nhà hàng Trung cấp Nghiệp vụ nhà hàng Trung cấp Quản trị khách sạn Trƣờng ĐH Tiền Giang Du lịch Cao đẳng Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hảnh Trƣờng TC nghề Châu Đốc Nghiệp vụ nhà hàng

(Nguồn: tác giả tổng hợp)

175

Phụ lục 7

DỰ BÁO NHU CẦU NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH VÙNG ĐBSCL

NĂM 2020

STT Địa phƣơng

Loại nhân lực

Ngƣời

Nhân lực du lịch trực tiếp 5,100

1 An Giang Nhân lực du lịch gián tiếp 9,200

Tổng cộng 14,300

Nhân lực du lịch trực tiếp 4,600

2 Bạc Liêu Nhân lực du lịch gián tiếp 7,400

Tổng cộng 12,000

Nhân lực du lịch trực tiếp 13,100

Nhân lực du lịch gián tiếp 23,600 3 Bến Tre Tổng cộng

36,700

Nhân lực du lịch trực tiếp 6,700

4 Cà Mau Nhân lực du lịch gián tiếp 10,700

Tổng cộng 17,400

Nhân lực du lịch trực tiếp 10,700

5 Cần Thơ Nhân lực du lịch gián tiếp 19,300

Tổng cộng 30,000

Nhân lực du lịch trực tiếp 4,000

6 Đồng Tháp Nhân lực du lịch gián tiếp 7,200

Tổng cộng 11,200

Nhân lực du lịch trực tiếp 2,200 7 Hậu Giang Nhân lực du lịch gián tiếp 3,500

176

Tổng cộng 5,700

Nhân lực du lịch trực tiếp 8,600

8 Kiên Giang Nhân lực du lịch gián tiếp 17,200

Tổng cộng 25,800

Nhân lực du lịch trực tiếp 2,900

9 Long An Nhân lực du lịch gián tiếp 5,200

Tổng cộng 8,100

Nhân lực du lịch trực tiếp 2,400

10 Sóc Trăng Nhân lực du lịch gián tiếp 3,800

Tổng cộng 6,200

Nhân lực du lịch trực tiếp 13,100

Nhân lực du lịch gián tiếp 23,600 11 Tiền Giang Tổng cộng

36,700

Nhân lực du lịch trực tiếp 2,200

12 Trà Vinh Nhân lực du lịch gián tiếp 3,500

Tổng cộng 5,700

Nhân lực du lịch trực tiếp 6,500

13 Vĩnh Long Nhân lực du lịch gián tiếp 11,700

Tổng cộng 18,200

Nhân lực du lịch trực tiếp 75,400

Nhân lực du lịch gián tiếp 132,500

Vùng ĐBSCL 207,900 Tổng cộng

Nguồn: Viện nghiên cứu Phát triển Du lịch [14, tr. 172-173]

177

Phụ lục 8

THỐNG KÊ LƢỢT KHÁCH DU LỊCH NỘI ĐỊA

CÁC ĐỊA PHƢƠNG ĐBSCL NĂM 2016 – 2020

ĐVT: Lượt khách

STT Địa phƣơng Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019

1 TP.Cần Thơ 4,759,530 6,862,050 7,738,309 8,460,042

2 An Giang 6,430,000 7,225,000 8,400,000 9,080,000

3 Kiên Giang 5,327,489 5,710,972 7,040,000 8,067,193

4 Cà Mau 1,046,080 1,215,000 1,412,520 1,663,220

5 Bạc Liêu 1,202,000 1,460,000 1,778,750 2,469,200

6 Hậu Giang 227,084 321,062 403,200 462,460

7 Sóc Trăng 1,359,261 1,470,441 1,905,800 2,310,000

8 Trà Vinh 898,000 636,220 766,800 995,000

9 Vĩnh Long 650,062 1,000,000 1,090,000 1,285,000

10 Tiền Giang 785,000 1,115,366 1,204,951 1,287,924

11 Long An 512,660 1,045,044 1,182,000 1,811,850

12 Bến Tre 1,028,000 741,444 892,857 1,085,839

13 Đồng Tháp 2,594,336 3,220,000 3,510,000 3,805,000

ĐBSCL 26,819,502 32,022,599 37,325,187 42,320,268

Nguồn: số liệu thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long

178

Phụ lục 9

THỐNG KÊ LƢỢT KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ

CÁC ĐỊA PHƢƠNG ĐBSCL NĂM 2016 – 2019

ĐVT: Lượt khách

STT Địa phƣơng Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019

1 TP.Cần Thơ 590,287 677,171 742,659 409,023

2 An Giang 70,000 75,000 100,000 120,000

3 Kiên Giang 309,793 368,207 580,000 713,291

4 Cà Mau 23,120 25,000 27,480 29,430

5 Bạc Liêu 38,000 40,000 51,250 73,500

6 Hậu Giang 7,916 10,938 16,800 24,340

7 Sóc Trăng 56,012 59,962 70,200 90,000

8 Trà Vinh 12,000 15,780 21,200 29,900

9 Vĩnh Long 503,013 203,000 210,000 215,000

10 Tiền Giang 215,000 734,634 811,249 850,293

11 Long An 15,340 14,991 18,000 23,250

12 Bến Tre 662,062 550,000 681,271 796,186

13 Đồng Tháp 68,714 80,000 90,000 95,000

ĐBSCL 2,571,257

2,854,683 3,420,109 3,444,873

Nguồn: số liệu thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long

179

Phụ lục 10

THỐNG KÊ DOANH THU DU LỊCH

CÁC ĐỊA PHƢƠNG ĐBSCL NĂM 2016 – 2019

ĐVT: Triệu đồng

STT Địa phƣơng Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019

1,826,167 2,897,943 3,785,158 4,435.0 1 TP.Cần Thơ

3,200,000 3,700,000 4,800,000 5,500.0 2 An Giang

3,671,047 4,582,375 6,195,000 8,292.1 3 Kiên Giang

488,000 670,000 2,200,000 2,618.5 4 Cà Mau

1,050,000 1,200,000 1,620,000 2,308.0 5 Bạc Liêu

71,279 121,287 147,840 171.6 6 Hậu Giang

460,336 557,092 736,700 1,020.0 7 Sóc Trăng

410,000 210,134 275,045 359.0 8 Trà Vinh

860,000 312,000 340,000 525.0 9 Vĩnh Long

280,000 786,081 992,001 1,160.0 10 Tiền Giang

156,853 485,000 562,000 782.0 11 Long An

626,956 1,057,000 1,329,000 1,791.0 12 Bến Tre

487,780 650,000 800,000 1,050.0 13 Đồng Tháp

ĐBSCL 13,588,418 30,012.2

17,228,912 23,782,744

Nguồn: số liệu thống kê của Hiệp hội Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long

180

Phụ lục 11

PHIẾU HỎI

ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH

Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

(Tổ chức: Cơ sở đào tạo

Cá nhân: Cán bộ Phòng Đào tạo)

Chào Anh/Chị!

Hiện nay chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu đề tài “Vấn đề đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”.

Mục đích nghiên cứu là tìm hiểu thực trạng và các giải pháp pháp triển nguồn

nhân lực ngành du lịch của vùng hiện nay.

Để có được những thông tin xác thực, có giá trị, chúng tôi cần sự giúp

đỡ của anh/chị thông qua việc trả lời chính xác và đầy đủ vào phiếu trao đổi ý

kiến này.

Anh/chị không phải ghi tên vào phiếu này và mọi thông tin anh/chị

cung cấp chúng tôi chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu của đề tài.

Câu 1: Ngành (những ngành) đào tạo của Nhà trường có liên quan đến

du lịch là gì?

... ...................................................................................................

... ...................................................................................................

Câu 2: Các hình thức, trình độ đào tạo của ngành du lịch mà Nhà trường

đang thực hiện?

 Trên đại học

 Đại học

 Cao đẳng

 Trung cấp

181

Câu 3: Nhà trường có tổ chức các khóa/lớp đào tạo ngắn hạn về ngành

du lịch không?

 Có

 Không

- Nếu chọn phương án „Có”, xin cho biết mức độ thường xuyên tổ chức

lớp học?...............................................

Câu 4: Nhà trường có liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp về du lịch

trong đào tạo chuyên ngành du lịch không?

 Có (Xin trả lời tiếp câu 5)

 Không

Câu 5: Các hình thức liên kết với doanh nghiệp?

 Gửi SV/HV thực tập Xây dựng đề cương

 Hỗ trợ học bổng Hỗ trợ việc làm

 Liên kết trong NCKH Mời thỉnh giảng

Khác

Câu 6: Nhà trường có liên kết, hợp tác quốc tế trong đào tạo về du lịch

không?

Có ( Xin trả lời tiếp câu 7)

Không

Câu 7: Tổ chức, cơ quan quốc tế mà Nhà trường đã và đang hợp tác

trong đào tạo về du lịch? Các hình thức hợp tác?

Câu 8: Nguồn cơ sở, tài liệu để Nhà trường xây dựng đề cương, bài

giảng đối với chuyên ngành về du lịch?

 Các tiêu chuẩn quốc tế (cụ thể?) Tham khảo từ các trường

 Các tiêu chuẩn trong nước (cụ thể?) Ý kiến của các DN

 Khung chương trình của Bộ, Ngành Khác

182

Câu 8: Chương trình đào tạo có đảm bảo tính liên thông giữa các trình độ

không?

Có

Không

Câu 9: Chương trình đào tạo có thường xuyên thay đổi không?

Có

Không

Vì sao? .................................................................................................

Câu 10: Tỷ lệ lý thuyết và thực hành cho mỗi môn học?

Câu 11: Số lần sinh viên/học viên dược đi thực tập/ thực tế cho một khóa

học?

Câu 12: Chuẩn đầu ra về ngoại ngữ của sinh viên/học viên?

Câu 13: Ngoại ngữ mà Nhà trường đang đào tạo cho sinh viên/học viên

ngành du lịch?

Câu 14: Nhà trường có quy định về chuẩn đầu ra về kỹ năng mềm

không?

Có

Không

Xin trân trọng cảm ơn quý Thầy/Cô!

183

Phụ lục 12

PHIẾU HỎI

ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH VÙNG

Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

(Cá nhân: Giảng viên)

Chào Anh/Chị!

Hiện nay chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu đề tài “Vấn đề đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”.

Mục đích nghiên cứu là tìm hiểu thực trạng và các giải pháp pháp triển nguồn

nhân lực ngành du lịch của vùng hiện nay.

Để có được những thông tin xác thực, có giá trị, chúng tôi cần sự giúp

đỡ của anh/chị thông qua việc trả lời chính xác và đầy đủ vào phiếu trao đổi ý

kiến này.

Anh/chị không phải ghi tên vào phiếu này và mọi thông tin anh/chị

cung cấp chúng tôi chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu của đề tài.

Câu 1: Chuyên môn đào tạo của anh/chị?

.........................................................................................................

Câu 2: Chuyên ngành/ Môn học anh/chị đang giảng dạy?

.........................................................................................................

Câu 3: Trình độ ngoại ngữ của anh/chị?

.........................................................................................................

Câu 4: Các phương pháp giảng dạy anh / chị sử dụng chủ yếu:

 Thuyết trình Tham quan, thực tế

Thảo luận nhóm Khác

Sử dụng công nghệ thông tin

184

Câu 5: Số lần anh/chị đưa sinh viên/học viên đi thực tế trong một năm

học?.......................................................................................

Câu 6: Anh/chị có mối quan hệ với các doanh nghiệp về du lịch để phối hợp

cho sinh viên/ học viên đi thực tập, thực tế không?

Có

Không

Câu 7: Đánh giá của anh/chị về khả năng tự học, tự nghiên cứu của học viên,

sinh viên?

 Rất hài lòng  Hài lòng

 Không hài lòng  Rất không hài lòng

Xin trân trọng cảm ơn anh/chị!

185

Phụ lục 13

PHIẾU HỎI

ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH

Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

(Học viên, sinh viên)

Chào Anh/Chị!

Hiện nay chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu đề tài “Vấn đề đào tạo

nguồn nhân lực ngành du lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”.

Mục đích nghiên cứu là tìm hiểu thực trạng và các giải pháp pháp triển nguồn

nhân lực ngành du lịch của vùng hiện nay.

Để có được những thông tin xác thực, có giá trị, chúng tôi cần sự giúp

đỡ của anh/chị thông qua việc trả lời chính xác và đầy đủ vào phiếu trao đổi ý

kiến này.

Anh/chị không phải ghi tên vào phiếu này và mọi thông tin anh/chị

cung cấp chúng tôi chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu của đề tài.

Câu 1:Lý do anh (chị) quyết định lựa chọn ngành du lịch?

 Yêu thích du lịch  Theo người thân

 Lựa chọn theo bạn bè  Khác

Câu 2: Mức độ hài lòng của anh/chị về đội ngũ giảng viên của nhà trường.

 Rất hài lòng  Hài lòng

 Không hài lòng  Rất không hài lòng

Câu 3:Nội dung đào tạo gắn kết với thực tiễn nghề nghiệp?

 Rất hài lòng  Hài lòng

 Không hài lòng  Rất không hài lòng

186

Câu 4: Hình thức, phương thức tổ chức đào tạo đạt chất lượng và hiệu quả cao

trong đào tạo?

 Rất hài lòng  Hài lòng

 Không hài lòng  Rất không hài lòng

Câu 5: Anh/Chị hài lòng về cơ sở vật chất của Nhà trường?

 Rất hài lòng  Hài lòng

 Không hài lòng  Rất không hài lòng

Câu 6: Theo Anh/Chị, để làm tốt hơn công tác giảng dạy thì giảng viên cần cải thiện những điều gì? ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ ............................................................................................................................ Câu 7: Theo Anh/Chị, để nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo nhà trường cần phải làm gì hoặc cải thiện những điều gì? ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... ...........................................................................................................................

Xin trân trọng cảm ơn!

187

Phụ lục 14

CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO NGÀNH VIỆT NAM HỌC, TRƢỜNG ĐH ĐỒNG THÁP

(Ban hành kèm theo Quyết định số 1149/QĐ-ĐHĐT ngày 28 tháng 8 năm 2018 của Hiệu trưởng Trường Đại học Đồng Tháp)

Tên chƣơng trình Trình độ đào tạo Ngành đào tạo Hình thức đào tạo Khóa đào tạo : Việt Nam học : Đại học : Việt Nam học : Chính quy : 2018

TT MÃ HP TÊN HỌC PHẦN SỐ TÍN CHỈ

A. Kiến thức giáo dục đại cƣơng I. Học phần bắt buộc 1.1. Ngoại ngữ

1 2 GE4410 Tiếng Anh 1 GE4411 Tiếng Anh 2

1.2. Giáo dục quốc phòng

1 2 GE4149 Đường lối quân sự của Đảng GE4150 Công tác quốc phòng, an ninh 38 34 5 3 2 8 3 2

3 GE4153 3 Quân sự chung và chiến thuật, kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK

1.3. Giáo dục thể chất 1.3.1. Học phần bắt buộc

1

GE4306 Giáo dục thể chất 1 1.3.2. Học phần tự chọn (chọn ít nhất 2 TC)

1 2 3 4 5 GE4321 Bóng đá GE4323 Cầu lông GE4327 Cờ vua GE4322 Bóng chuyền GE4324 Khiêu vũ thể thao 3 1 1 2 2 2 2 2 2

188

6 7 8 GE4326 Võ thuật Karatedo GE4325 Võ thuật Vovinam GE4331 Bơi lội

1.4. Đại cƣơng chung 2 2 2 18

1 GE4038A 2 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin 1

GE4045 Tâm lý học đại cương 2

2 3 GE4038B Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa 3 Mác- Lênin 2

4 5 6 7 8 GE4039 Pháp luật Việt Nam đại cương GE4056 Tư tưởng Hồ Chí Minh GE4040 Phương pháp nghiên cứu khoa học GE4011 Đường lối cách mạng của Đảng CSVN VI4178 Kỹ năng mềm trong Văn hóa du lịch

II. Học phần tự chọn (chọn ít nhất 4TC)

1 2 3 4 5

GE4006 Đại cương dân tộc học GE4030 Mỹ học đại cương GE4049 Tiếng việt thực hành GE4023 Kinh tế học đại cương GE4028 Lôgic học đại cương B. Khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp I. Kiến thức cơ sở nhóm ngành

GE4068 Văn hóa học đại cương VI4134 Tổng quan du lịch GE4004 Cơ sở văn hóa Việt Nam

1 2 3 4 GE4026P Lịch sử văn minh Thế giới CM4291 Lịch sử văn hóa Việt Nam 5 VI4131 Tâm lý khách du lịch 6

2 2 2 3 2 4 2 2 2 2 2 94 14 2 2 3 2 3 2 38 30

II. Kiến thức cơ sở ngành 2.1 Học phần bắt buộc 1 VI4011P Vùng văn hóa và phân vùng văn hóa ở 2 Việt

189

Nam

2 VI4144P Văn hóa dân gian người Việt 3 4 5 6 7 2 3 3 2 2 2

VI4133 Tín ngưỡng và tôn giáo Việt Nam VI4212 Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam VI4012 Làng nghề truyền thống Việt Nam VI4138 Văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long VI4014 Du lịch sinh thái GE4067 Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh văn 8 2

hóa Đông Nam Á

VI4123 Pháp chế du lịch

9 10 VI4214 Tiếng Anh chuyên ngành du lịch 1 11 VI4101 Du lịch quốc tế 12 VI4017 Kinh tế du lịch 13 VI4215 Tiếng Anh chuyên ngành du lịch 2 2.2 Học phần tự chọn (chọn ít nhất 8 tín chỉ)

1 2 3 CM4121 Văn hóa giao tiếp VI4103 Di tích lịch sử và thắng cảnh Việt Nam VI4013 Đặc trưng sinh thái và môi trường Việt 2 3 2 3 2 8 2 2 2

Nam

VI4102 Các loại hình nghệ thuật Việt Nam

4 5 CM4102N Chính sách văn hóa VI4213 Các loại hình du lịch hiện đại 6 EC4281 Khởi nghiệp 7 VI4136 Văn hóa các nước Đông Nam Á 8 VI4402 Văn hóa các dân tộc Việt Nam 9 10 VI4205 Văn hóa nông thôn và đô thị Việt Nam 11 VI4168 Văn hóa làng xã Việt Nam truyền 2 3 2 3 3 2 2 2

thống

12 VI4157 Văn hóa ẩm thực Việt Nam III. Kiến thức chuyên ngành

1 2 VI4152 Tuyến điểm du lịch VI4172 Nghiệp vụ khách sạn 2 34 2 2

190

3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 VI4176 Thực hành nghiệp vụ khách sạn VI4171 Nghiệp vụ nhà hàng VI4290 Hoạt náo trong du lịch VI4173 Thiết kế tour du lịch VI4018 Tổ chức sự kiện và hội nghị VI4294 Xử lý tình huống trên đường tour VI4142 Quản trị kinh doanh lữ hành VI4116 Marketing du lịch VI4128 Nghiệp vụ lễ tân VI4177 Thực hành nghiệp vụ nhà hàng VI4169 Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch 1 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2

VI4170 Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch 2 VI4120 Quản trị nhà hàng khách sạn VI4150 Lễ tân ngoại giao VI4166 Quy hoạch du lịch

14 15 16 17 IV. Thực hành, thực tập nghề nghiệp VI4442 Thực tế chuyên môn 1 VI4498N Thực tập tốt nghiệp 2

Tổng số TCTL 2 2 2 2 8 2 6 132

191

Phụ lục 15

KẾ HOẠCH ĐÀO TẠO TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP CHÍNH QUY

NGÀNH: NGHIỆP VỤ HƢỚNG DẪN

TRƢỜNG CĐ DU LỊCH CẦN THƠ

Học kỳ 1

Số tín chỉ Tiết/ Số tiết tuần Stt Tên môn học

Tổng Tổng LT TH

1 3 2 1 75 Giáo dục Quốc phòng – An ninh

2 2 1 1 30 Chính trị

3 2 1 1 60 Giáo dục thể chất

4 3 2 1 60 Tin học căn bản

5 5 4 1 90 Anh văn căn bản

6 2 2 30 Pháp luật

7 2 2 30 Kỹ năng giao tiếp

8 2 2 30 Tổng quan du lịch

9 2 2 30 Tổng quan cơ sở lưu trú du lịch

2 2 2 10 Tour nhập môn 2 tuần

7 Cộng 435 25 18 31.071

192

Học kỳ 2

Số tín chỉ Tiết/ Số tiết tuần Stt Tên môn học

Tổng Tổng LT TH

1 90 6 6 Anh văn chuyên ngành Hướng dẫn 1

2 30 1 2 1 Chính trị 2

3 60 4 4 Cơ sở văn hóa Việt Nam

4 90 1 5 4 Địa lý và tài nguyên du lịch

5 30 0 Hướng dẫn du lịch theo tour

6 75 4 4 Lịch sử văn hóa VN&TG

7 30 2 2 Marketing du lịch

8 30 2 2 Tâm lý du lịch

9 45 3 3 Tổng quan nghề hướng dẫn

2 tuần 1 1 10 Tour City

32 3 Cộng 480 29

Học kỳ 3

Tiết/ Số tín chỉ Số tiết tuần Stt Tên môn học

Tổng Tổng LT TH

Anh văn chuyên ngành 1 90 1 6 6 Hướng dẫn 2

2 30 1 Chính trị 3

3 30 2 2 Nghiệp vụ Lữ hành

193

4 Nghiệp vụ thanh toán 30 2 2

5 Tổ chức nghiệp vụ lưu trú 30 2 2

6 Tổ chức nghiệp vụ nhà hàng 30 0

7 Tuyến điểm du lịch 105 6 5 1

Xây dựng chương trình du 8 45 3 2 1 lịch

9 Tour thuyết minh tại điểm 3 3

Cộng 390 25 19 30 6

Học kỳ 4

Số ĐVHT Tiết Số tiết /tuần Stt Tên môn học

Tổng Tổng LT TH

1 Hướng dẫn du lịch tại điểm 60 3 2 1

2 Kỹ năng hỗ trọ 30 3 2

3 Thuyết minh du lịch 60 3 2 1

4 Thực tập điểm đến du lịch 3 3

5 2 tuần 8 8 Thực tập tốt nghiệp: Xuyên việt

Cộng 150 20 6 13 27

194

Phụ lục 16

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC

NGÀNH DU LỊCH Ở ĐBSCL

Hình: Sinh viên Việt Nam học, Trường CĐ Cần Thơ thực tế du lịch 2 tại Huế

Nguồn: Bộ môn Du lịch, khoa Kinh tế - Quản trị, Trường CĐ Cần Thơ

Hình: Sinh viên Việt Nam học, Trường ĐH An Giang học tập tại Khách sạn

Mường Thanh Luxury Cần Thơ

Nguồn: Bộ môn Du lịch, khoa Du lịch và Văn hóa – Nghệ thuật, Trường ĐH An Giang

195

Hình: Hoạt động giao lưu văn hóa nghệ thuật cổ truyền của Trường ĐH

Chulalongkorn, Thái Lan và Khoa KHXH-NV Trường ĐH Cần Thơ

Nguồn: Khoa KHXH-NV Trường ĐH Cần Thơ

196

197

Hình: Cuộc thi Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch của Trường ĐH Bạc Liêu năm 2019-2020 Nguồn: Trương Thu Trang, Trường ĐH Bạc liêu