
167
con người “nhỏ bé” không có địa vị xã hội và tiềm lực kinh tế. Họ đều là
những người mang những phẩm chất lí tưởng theo quan niệm của người lao
động xưa: cần cù, chân thật, nhân hậu. Càng qua thử thách, phẩm chất của
họ càng ngời sáng. Vì vậy, hành vi và nhân cách của họ có sức hấp dẫn đặc
biệt với trẻ em, trở thành mẫu mực cho trẻ học tập. Trái ngược với những
con người lí tưởng đó là kẻ ác, những con người luôn áp chế người khác, lừa
lọc, tham lam. Trong xung đột với nhân vật chính diện, các nhân vật phản
diện này đều thất bại dưới hình thức này hay hình thức khác, giữ chức năng
là những phản ví dụ nhằm hoàn thiện đầy đủ ý nghĩa các bài học giáo dục
đạo đức của cổ tích. Vì vậy, song hành với cô Tấm luôn là cô Cám, có
Thạch Sanh thì phải có Lí Thông, có người anh tham lam, xảo quyệt thì phải
có người em thật thà, có cô chị độc ác thì phải có cô em nhân hậu, có ác quỷ
thì phải có người anh hùng...Những xung đột xã hội được thể hiện trong cổ
tích, suy cho cùng là những xung đột được gói gọn trong phạm trù đạo đức
với những mặt đối lập: thiện - ác, tốt – xấu, trung thực – gian xảo, chăm chỉ
– lười biếng, độ lượng – hẹp hòi…Những biểu hiện tính cách ấy được miêu
tả đầy ấn tượng và nhất quán qua các nhân vật chức năng, các nhân vật này
có những tính cách được ấn định từ trước, không thay đổi theo hoàn cảnh,
khắc sâu trong tâm trí trẻ em một hình ảnh nào đó, từ đó cung cấp cho trẻ
một bài học đạo đức nào đó.
Đặc trưng thứ hai – Truyện cổ tích phản ánh thực tại một cách độc
đáo. Nếu thần thoại và truyền thuyết chú ý đến những đề tài cao cả thuộc
vấn đề tồn vong của một dân tộc thì truyện cổ tích lại quan tâm tới những
quan hệ của con người trong sinh hoạt đời thường. Tuy vậy, khác với hiện
thực ngoài đời, các yếu tố thực tế trong cổ tích luôn đan xen với yếu tố kì ảo,
tạo ra một vườn cổ tích rất độc đáo. Những gì phi lí, không thể tồn tại ngoài
đời thì đều được chấp nhận dễ dàng trong cổ tích. Cũng từ đó, nó rọi chiếu

168
một thứ ánh sáng đặc biệt vào cuộc đời tối tăm đầy khổ đau của con người,
thôi thúc tiềm năng và niềm lạc quan của họ. Đề tài, tư tưởng, thậm chí mô
típ cốt truyện của cổ tích có tính chất toàn nhân loại, nhưng mỗi dân tộc lại
có cách thể hiện riêng độc đáo, tạo ra những không gian cổ tích khác nhau.
Chẳng hạn, cùng sử dụng mô típ ướm giày, truyện Tấm Cám của Việt Nam
có cách miêu tả khác với truyện Cô bé Lọ Lem của Pháp. Cô Tấm mất giày
khi đi hội làng, còn cô Lọ Lem đánh rơi giày khi đi khiêu vũ ở hoàng cung.
Căn cứ vào phương thức phản ánh, có thể chia truyện cổ tích thành hai
loại: Cổ tích thần kì và Cổ tích sinh hoạt.
Cổ tích thần kì là loại cổ tích ra đời sớm, luôn luôn sử dụng yếu tố
thần kì khi xây dựng cốt truyện và miêu tả số phận nhân vật, nếu thiếu sự
can thiệp của nó, câu chuyện khó lòng tiếp tục. Khuynh hướng nổi bật của
nó là miêu tả hiện thực theo chiều hướng lí tưởng hoá, không nhấn mạnh
điều đang có mà trình bày điều người ta mong muốn có. Vì vậy, mọi mâu
thuẫn xung đột đều được giải quyết theo xu hướng thoả mãn khát vọng tự do
và hạnh phúc của người xưa. Những con người nhỏ bé vốn bị thua thiệt đủ
điều sẽ được thay đổi số phận. Người em bất hạnh sẽ được ra đảo vàng,
những cô bé mồ côi sẽ trở thành những bà hoàng, anh trai cày sẽ thành con
rể phú ông, Thạch Sanh lên làm vua, những chàng ngốc thông minh, nhanh
nhẹn sẽ nắm quyền hành, vợ chồng Sọ Dừa sẽ mãi hạnh phúc bên nhau...
Những kẻ độc ác, xấu xa đều bị trừng phạt: kẻ thì chết, kẻ bị biến thành các
con vật xấu xí bị ruồng bỏ và lên án. Do sử dụng chung nhiều mô típ cốt
truyện nên cổ tích thần kì không có cốt truyện phong phú, một câu chuyện
có thể có nhiều dị bản. Những mô típ cốt truyện phổ biến là: “Người bỏ lốt
vật” (Sọ Dừa), “Người chết đi sống lại trong kiếp loài vật hoặc cây cỏ” (Tấm
Cám), “Nộp mạng định kì cho một con vật đã thành tinh” (Thạch Sanh), “Ba
điều ước”, “Dũng sĩ cứu người đẹp khỏi ma thuật phù thuỷ”... Do sử dụng

169
yếu tố thần kì nên kết thúc của cổ tích thần kì luôn có hậu, thoả mãn lòng
mong muốn của nhân dân, đặc biệt phù hợp với thị hiếu thẩm mĩ của trẻ thơ.
Thực tế đã chứng minh rằng sự có mặt của yếu tố thần kì trong cổ tích đã tạo
nên sức hấp dẫn đặc biệt của nó đối với trẻ em. Trẻ có thể thả hồn theo trí
tưởng tượng hoang đường về các nàng công chúa xinh đẹp, đáng thương bị
phù phép và vô cùng mãn nguyện trước hình ảnh các chàng công tử hào hoa
vượt qua mọi thử thách giải cứu cho nàng. Trẻ vô cùng thán phục trước các
cử chỉ yêu thương mà các nhân vật chính diện đầy nhân ái dành cho những
con người bất hạnh hoặc các con vật bé bỏng, đồng thời vô cùng thoả mãn
khi thấy kẻ ác bị trừng phạt. Trẻ được xâm nhập vào thế giới kì diệu của cỏ
cây, hoa lá, của các phép màu cổ tích với những phép thần thông biến hoá,
viên ngọc ước, thuốc trường sinh, gậy sinh tử, cây đàn thần, niêu cơm thần,
ông Bụt, bà Tiên...
Cổ tích sinh hoạt là loại cổ tích ra đời muộn, khi mâu thuẫn xã hội đã
trở nên gay gắt, nhân dân không còn ảo tưởng dùng yếu tố kì ảo để giải
quyết các vấn đề xã hội. Vì vậy, ở đây, yếu tố hiện thực đóng vai trò quan
trọng hơn yếu tố kì ảo, số phận nhân vật về cơ bản giống với diễn biến cuộc
đời thực. Những vấn đề tồn tại xã hội như kiếp người nghèo khổ bất hạnh, bi
kịch lòng tin, các tệ nạn xã hội, sự bạc bẽo vô đạo trong quan hệ giữa người
với người…đều được phản ánh trong cổ tích sinh hoạt với những kết cục
chẳng mấy tươi sáng. Chẳng hạn, cùng nói về tệ nạn lừa lọc, gian xảo trong
xã hội, nhưng cổ tích thần kì và cổ tích sinh hoạt có những cách xử lí rất
khác nhau. Có thể lấy hai truyện Cái cân thuỷ ngân và Bà lớn đười ươi làm
ví dụ. Vốn là một truyện cổ tích thần kì, Cái cân thuỷ ngân khuyên người ta
trung thực trong làm ăn buôn bán. Điều này bộc lộ qua những biểu hiện ăn
năn, hối hận của người lái buôn có cái cân thuỷ ngân nọ, và qua phần kết có
hậu của câu chuyện, rằng nhờ vậy, những đứa con quỷ sứ của ông ta đều

170
được Trời lần lượt gọi về, cuối đời ông ta được sống một tuổi già yên ổn bên
những đứa con ngoan ngoãn. Vốn là một truyện cổ tích sinh hoạt, Bà lớn
đười ươi chỉ đơn giản thuật lại một mánh lới lừa đảo của những kẻ lưu
manh: chúng dạy cho một con đười ươi nói tiếng người, tuy nhiên nó chỉ nói
được duy nhất vài tiếng “được được, tốt tốt”, chúng cho đười ươi vào một
chiếc kiệu đóng giả làm bà lớn đi mua tơ lụa loại hảo hạng, cuối cùng đã
khuân được cả kho tơ lụa quý của một ông chủ nhẹ dạ. Câu chuyện không
lên án kẻ xấu, không ái ngại cho nạn nhân, mà nêu lên một quy luật: chừng
nào con người còn quan tâm tới các món hời thì chừng đó còn bị thua thiệt.
Tuy nhiên, mơ ước công bằng, dân chủ vẫn được thể hiện ở nhóm truyện
phân xử với các vị quan toà công minh, chẳng hạn như Những hạt thóc
giống, Cậu bé thông minh, Mồ côi xử kiện... mà sách giáo khoa Tiếng Việt
tiểu học đã giới thiệu. Yếu tố thần kì có thể vẫn được sử dụng nhưng
thường tập trung ở cuối truyện, nhằm tô đậm hiện thực, thể hiện một ý đồ
nghệ thuật nào đó nhiều hơn là để thể hiện ước mơ.
Truyện cổ tích có hai nội dung cơ bản.
Nội dung thứ nhất – Truyện cổ tích miêu tả hiện thực cuộc sống của
người xưa. Hiện thực ấy được thể hiện qua các mâu thuẫn gia đình và xã hội
được phản ánh trong cổ tích. Trước hết là mâu thuẫn về quyền lợi vật chất
trong khuôn khổ gia đình phụ quyền. Với quan niệm quyền huynh thế phụ,
xã hội công khai thiên vị người đàn ông và người con cả trong gia đình, nên
trong gia đình bắt đầu xuất hiện sự bất bình đẳng giữa các thành viên. Thực
tế này đã được cổ tích miêu tả thông qua mô típ chia tài sản: khi cha qua
đời, người anh đứng ra chia tài sản, chiếm hết phần hơn, chỉ cho em những
phần không đáng kể (Cây khế, Núi cười, Hà rầm hà rạc…). Tuy không miêu
tả mâu thuẫn trực diện, nhưng cổ tích đã nêu bật bản chất trái ngược giữa họ
bằng cách đặt họ đứng trước những hoàn cảnh thử thách như nhau, những

171
cách cư xử khác nhau của họ sẽ đẩy họ ngày càng xa nhau và dẫn họ đến
những kết cục trái ngược. Mâu thuẫn về tình cảm nảy sinh trong quá trình
hình thành những quan hệ mới giữa các thành viên của gia đình, khi thành
viên mới có thể đe doạ các thành viên khác cả về quan hệ tình cảm lẫn vị thế
và quyền lợi vật chất. Thành viên đó có thể là người con dâu, con rể trong
gia đình. Truyện Sự tích trầu cau đã miêu tả quá trình rạn nứt tình cảm giữa
hai anh em mồ côi giống nhau như hai giọt nước vốn hết mực thương yêu
nhau, kể từ khi người chị dâu xuất hiện. Kết cục của nó là cái chết bi thảm
của cả ba bên bờ một con suối. Truyện Sọ Dừa và những truyện có chung
mô típ Người bỏ lốt vật, cũng đặt ra một vấn đề tương tự, hai người chị sẵn
sàng hãm hại em gái hòng mong chiếm đoạt người em rể, khi thấy anh ta
không những không còn là sọ dừa mà còn thi đỗ Trạng nguyên. Thành viên
mới ấy cũng có thể là người dì ghẻ, cha dượng, người con riêng…Trong
quan hệ với kẻ mồ côi, họ luôn là thế lực áp chế, hãm hại, đẩy kẻ mồ côi vào
bước đường cùng, làm nảy sinh những mâu thuẫn đối kháng ( Tấm Cám, Nói
ra hoa ra ngọc, Sự tích chim đa đa…). Mâu thuẫn gia đình phát triển lên một
mức độ nào đó, khi các thành viên của gia đình trở thành người đại diện cho
các giai cấp đối lập nhau, thì mâu thuẫn xã hội sẽ xuất hiện. Lợi ích giữa các
giai cấp đối kháng luôn là vấn đề mà cổ tích quan tâm và thể hiện qua hai
tuyến nhân vật kẻ giàu – người nghèo. Người lao động nghèo khổ luôn bị lợi
dụng, bóc lột, khinh rẻ, lừa gạt, nhiều lúc họ bị rơi vào hoàn cảnh bi thảm,
nhưng nhiều lúc họ đã được đền bù xứng đáng (Cây tre trăm đốt, Thạch
Sanh, Lọ nước thần, Bốn chàng trai khoẻ, Sự tích chim hít cô, Sự tích ba ông
đầu rau…). Trong cổ tích không chỉ tồn tại những mâu thuẫn xung đột mà
còn tồn tại những cảnh đời: cuộc sống giàu sang của kẻ thượng lưu và cuộc
sống cùng quẫn của những người nghèo khổ. Truyện Sự tích con thạch sùng
miêu tả cuộc thi của cải giữa Thạch Sùng và một vị quan lớn trong triều,

