intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Xây dựng và sử dụng bản đồ giáo khoa điện tử trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 12

Chia sẻ: Nguyễn Thi A | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

261
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc khai thác, sử dụng các hình ảnh trực quan trong dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông là một yêu cầu cần thiết trong dạy học bộ môn. Chính vì thế nên xây dựng và sử dụng bản đồ giáo khoa điện tử để nâng cao chất lượng dạy và học. Mời các bạn tham khảo bài sáng kiến kinh nghiệm dưới đây để hiểu thêm về vấn đề này

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Xây dựng và sử dụng bản đồ giáo khoa điện tử trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 12

  1. 1 ĐỀ TÀI XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG BẢN ĐỒ GIÁO KHOA ĐIỆN TỬ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 12 – CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN PHẦN I: MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Việc khai thác, sử dụng các hình ảnh trực quan trong dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông là một yêu cầu cần thiết trong dạy học bộ môn. Bởi vì kiến thức lịch sử là những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, người học không thể trực tiếp quan sát sự kiện, vì vậy trong giảng dạy để dựng lại bức tranh của lịch sử đòi hỏi giáo viên phải vận dụng nhiều biện pháp khác nhau như tạo biểu tượng, sơ đồ hoá, trực quan…. Đặc biệt đối với những sự kiện là một cuộc chiến tranh, một cuộc khởi nghĩa hay một trận đánh thì vấn đề tạo dựng lại bức tranh thực của sự kiện là một vấn đề khó và giáo viên phải sử dụng đến phương pháp trực quan trong dạy học, thông thường là khai thác các bản đồ dạy học để có thể truyền đạt đầy đủ nội dung sự kiện, điều đó cũng có nghĩa là nếu dạy về các cuộc chiến tranh, khởi nghĩa mà không sử dụng đến bản đồ để trình bày về diễn biến của sự kiện thì hiệu quả tiết học sẽ không cao, dễ gây cho học sinh sự “nhàm chán”, “hiểu nhầm” sự kiện lịch sử. Thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay vẫn còn không ít giáo viên lên lớp “chay”, chỉ cung cấp kiến thức bài học mà không chú trọng đến vấn đề khai thác các tranh, ảnh, bản đồ, đồ dùng dạy học khác. Nguyên nhân của vấn đề trên là do sự hạn chế về các loại tranh ảnh, các loại bản đồ, đồ dùng dạy học ở các trường học, do nhận thức về vị trí vai trò của các loại đồ dùng trực quan trong dạy học của giáo viên chưa cao, một phần là ở “sự nhiệt tình” của người dạy còn hạn chế. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, nhiều thành tựu mới đã được ứng dụng rộng rãi trong đời sống xã hội, trong đó có ngành giáo dục. Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đã có nhiều chủ trương đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong giảng dạy nhằm đổi mới PPDH. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, được Thủ tướng chính phủ phê duyệt ngày 28/12/2001, nhấn mạnh: phải “Hiện đại hoá trang thiết bị giảng dạy và học tập, phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành. Nhanh chóng áp dụng công nghệ thông tin vào giáo dục để đổi mới phương pháp giáo dục và quản lý.” Đối với bộ môn Lịch sử, việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy là một tất yếu của thời đại, với sự hỗ trợ của nhiều phần mềm dạy học (phần mềm Powerpoint, phần mềm
  2. 2 Flash…) đã giúp giáo viên có thể tự xây dựng và giảng dạy các tiết giáo án điện tử trên lớp, bước đầu tạo sự chuyển biến mới trong đổi mới PPDH, điều có ý nghĩa đặc biệt hơn là với sự hỗ trợ của các phần mềm dạy học giáo viên cũng có thể khai thác các chức năng, các tiện ích của các phần mềm để tự thiết kế, xây dựng các loại bản đồ giáo khoa điện tử (BĐGKĐT) phục vụ việc dạy học, nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn đồng thời có thể khắc phục sự “thiếu thốn” của bản đồ giáo khoa lịch sử ở các trường phổ thông hiện nay. Tuy nhiên, việc ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử nói chung và xây dựng BĐGKĐT nói riêng còn rất hạn chế, giáo viên chỉ mới dừng lại ở việc đưa kiến thức lên bài giảng, hoặc chèn thêm một vài hình ảnh để minh họa cho bài học. Đối với những bài học có sử dụng các loại bản đồ để trình bày diễn biến của một sự kiện, một cuộc chiến tranh, một chiến dịch… thì hầu hết giáo viên chưa khai thác được những tiện ích của phần mềm Power point để thiết kế, xây dựng BĐGKĐT phục vụ trong giảng dạy, nếu có sử dụng bản đồ thì giáo viên cũng chỉ thực hiện thao tác Scan bản đồ giáo khoa rồi chiếu lên màn hình giống như một hình ảnh. Vì vậy hiệu quả của việc sử dụng CNTT trong xây dựng BĐGKĐT phục vụ dạy học bộ môn chưa cao, đây là một vấn đề vừa mới, vừa khó đối với nhiều giáo viên. Xuất phát từ những lý do trên và từ thực tế giảng dạy ở cấp học chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề “Xây dựng và sử dụng Bản đồ giáo khoa điện tử trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 12 (Chương trình Chuẩn)”, nhằm góp phần thực hiện việc đổi mới PPDH lịch sử theo hướng tăng cường hoạt động nhận thức tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, hoàn thành mục tiêu môn học. 1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc ứng dụng CNTT trong dạy học nói chung và sử dụng phần mềm Powerpoint trong thiết kế bài giảng điện tử nói riêng đã được nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, như các công trình: - Công nghệ thông tin với việc dạy và học trong nhà trường Việt Nam, của tác giả Lưu Lâm; - Đổi mới phương pháp giảng dạy bằng công nghệ thông tin - xu thế của thời đại, của tác giả Quách Tuấn Ngọc; - Sử dụng phần mềm Microsoft Powerpoint trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông của tác giả Nguyễn Thị Côi, Đoàn Văn Hưng; - Bài giảng điện tử và quy trình thiết kế bài giảng điện tử trong dạy học, của tác giả Lê Công Triêm;
  3. 3 - Thiết kế bài giảng lịch sử ở trường THPT với phần mềm Microsoft Powerpoint. Minh Họa qua thiết kế 01 tiết giảng: "Cuộc tiến công chiến lựơc Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ" ở lớp 12 của tác giả Đoàn Văn Hưng. Tuy nhiên việc ứng dụng CNTT mà cụ thể là sử dụng phầm mềm Powerpoint để xây dựng BĐGKĐT trong dạy học lịch sử đến nay vẫn chưa được nghiên cứu. Vì vậy việc nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học lịch sử là một vấn đề vừa có ý nghĩa về lý luận dạy học, vừa có ý nghĩa thực tiễn phục vụ công tác dạy và học của bộ môn ở trường phổ thông hiện nay. 1.3. Nhiệm vụ của đề tài - Xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông trước hết là nhằm thực hiện chủ trương của Bộ GD-ĐT về việc ứng dụng CNTT trong dạy học nhằm đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng dạy học, trong đó có bộ môn lịch sử. - Một thực tế hiện nay ở các trường phổ thông nói chung, trường THPT Nguyễn Diêu nói riêng là hệ thống các loại bản đồ để phục vụ giảng dạy bộ môn còn ít, thậm chí một số loại bản đồ trong sách giáo khoa có trình bày nhưng ở phòng thiết bị của trường không có. Hoặc chất lượng màu sắc của bản đồ chưa đẹp. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần vào việc giải quyết những khó khăn, thiếu hụt về nguồn bản đồ phục vụ trong dạy học, bổ sung vào nguồn tư liệu giảng dạy bộ môn lịch sử ở nhà trường phổ thông. - Mặc khác, việc xây dựng hệ thống BĐGKĐT giúp giáo viên, học sinh rèn luyện kỹ năng thực hành, tự xây dựng đồ dùng để phục vụ dạy học bộ môn, và có thể được xem là một tiêu chí đánh giá giáo viên về công tác giảng dạy bộ môn. - Đề tài còn là một nguồn tài liệu tham khảo để giáo viên giảng dạy lịch sử tìm hiểu, nghiên cứu và ứng dụng trong dạy học. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học giáo dục: nghiên cứu tài liệu Tâm lý học, giáo dục học, Lý luận dạy học và Lý luận dạy học lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học thông qua việc trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, phương pháp thống kê trong toán học liên quan đến việc sử dụng BĐGKĐT. 1.5. Cơ sở và thời gian tiến hành nghiên cứu đề tài - Khách thể nghiên cứu, tìm hiểu: + Giáo viên: tập thể giáo viên đang tham gia giảng dạy bộ môn Lịch sử của trường THPT Nguyễn Diêu + Học sinh lớp 12 trường THPT Nguyễn Diêu
  4. 4 - Thời gian thực hiện: + Năm học 2009-2010: giảng dạy ở hai lớp 12A7 và lớp 12A8, trong đó lớp 12A7 chọn làm lớp dạy thực nghiệm, lớp 12A8 làm lớp đối chứng. + Năm học 2010-2011: giảng dạy ở bốn lớp 12A1,12A4,12A5 và 12A9, trong đó: lớp 12A1 và 12A4 chọn làm lớp thực nghiệm; lớp 12A5 và 12A9 làm lớp đối chứng. - Nội dung nghiên cứu đề tài được giới hạn trong chương trình Lịch sử Việt Nam lớp 12- Chương trình chuẩn, cụ thể: + Năm học 2009-2010: Tiến hành giảng dạy tiết 42, bài 23: “Khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973-1975)” SGK lớp 12– Chương trình chuẩn, và BĐGKĐT được sử dụng dạy minh họa ở mục 2. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, trong mục III. Giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc của tiết học. + Năm học 2010-2011: Tiến hành giảng dạy tiết 17, bài 12 “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến 1925”, SGK lớp 12– Chương trình chuẩn, và BĐGKĐT được sử dụng dạy minh họa ở mục 3. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, trong mục II. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925 của tiết học. 1.6. Giả thuyết khoa học của đề tài: “Xây dựng và sử dụng BĐGKĐT sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông” 1.7. Bố cục của đề tài gồm: - Phần I: Mở đầu - Phần II: Nội dung và kết quả nghiên cứu - Phần III: Kết luận và kiến nghị
  5. 5 PHẦN II NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 2.1. Những lý luận chung về bản đồ giáo khoa trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. 2.1.1. Bản đồ giáo khoa lịch sử là gì? Trong dạy học lịch sử, yếu tố trực quan sinh động có vai trò khá quan trọng trong việc khôi phục, tạo dựng lại bức tranh của quá khứ lịch sử vì “hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh mà chúng ta thu nhận được bằng trực quan.” Tính trực quan trong dạy học lịch sử có tính gián tiếp, nhưng việc bảo đảm yếu tố này là một yêu cầu có tính nguyên tắc, bởi vì nó góp phần tái tạo lại hiện thực của sự kiện lịch sử mà con người ngày nay không thể trực tiếp quan sát được. Do đó, nhiệm vụ của GV là phải đảm bảo thực hiện phương pháp trực quan trong dạy học thông qua việc tổ chức, hướng dẫn HS quan sát những dấu vết của quá khứ (di tích lịch sử, di tích cách mạng, các di vật trong bảo tàng,…) hay tìm hiểu lịch sử qua các phương tiện trực quan tạo hình (tranh, ảnh, vật phục chế, phim tư liệu lịch sử...), trực quan qui ước (bản đồ, sơ đồ, biểu đồ, niên biểu, bảng so sánh...) và các phương tiện kỹ thuật dạy học khác. Trực quan sinh động có thể khai thác ở nhiều góc độ khác nhau: hình ảnh, chân dung, bản đồ các trận đánh, những cuộc khởi nghĩa,… trong đó việc khai thác có hiệu quả các bản đồ trong dạy học sẽ góp phần thành công của tiết học vì bản đồ là một mô hình thu nhỏ những diễn biến của sự kiện lịch sử cả về không gian và thời gian. Vậy Bản đồ giáo khoa là gì? Theo U.C.Bilích và A.C.Vasmuc đã định nghĩa: “Bản đồ giáo khoa là những bản đồ sử dụng trong mục đích giáo dục, chúng cần thiết cho việc giảng dạy và học tập ở tất cả các cơ sở giáo dục dưới mọi hình thức, tạo nên một hệ thống giáo dục cho tất cả các tầng lớp dân cư từ học sinh đến việc đào tạo các chuyên gia. Những bản đồ đó cũng được sử dụng trong nhiều ngành khoa học, trước hết là địa lý và lịch sử”. Theo từ điển Tiếng việt, Bản đồ là bản vẽ thu nhỏ dùng các kí hiệu, các quy ước để mô tả một phần hay toàn bộ tình trạng phân bố của các hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội. Còn theo Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông: Bản đồ lịch sử là loại bản đồ (thế giới hay Việt Nam) được vẽ với tỷ lệ nhỏ (treo tường, trong sách giáo khoa, át lát…) phản ánh một giai đoạn, một hiện tượng, sự kiện lịch sử. Bản đồ giáo khoa lịch sử có thể hiểu là những bản đồ được sử dụng trong mục đích giảng dạy bộ môn lịch sử, thể hiện kiến thức lịch sử trong sách giáo khoa, mỗi bản đồ biểu
  6. 6 hiện một đơn vị kiến thức sự kiện lịch sử nhất định gắn với những không gian (địa danh, tên nước, khu vực, lãnh thổ…) và thời gian khác nhau, tương ứng với trình độ nhận thức nhất định, và không thể dùng một bản đồ để giảng dạy cho nhiều trình độ. 2.1.2. Các loại bản đồ giáo khoa lịch sử. Bản đồ giáo khoa lịch sử trong dạy học có rất nhiều loại khác nhau, nhưng về cơ bản trong dạy học lịch sử ở phổ thông hiện nay có các loại bản đồ giáo khoa chủ yếu sau: - Loại bản đồ lịch sử theo phạm vi biểu hiện: bản đồ biểu hiện toàn thế giới; bản đồ biểu hiện châu lục; bản đồ biểu hiện khu vực; bản đồ biểu hiện quốc gia;…. - Loại bản đồ lịch sử theo đặc điểm sử dụng: Bản đồ giáo khoa treo tường; bản đồ giáo khoa để bàn. - Loại bản đồ lịch sử theo nội dung, bao gồm: + Loại bản đồ lịch sử chung: phản ánh lịch sử của một quốc gia hay một số nước ở một thời điểm nhất định của quá trình phát triển lịch sử. + Loại bản đồ tổng hợp: phản ánh những biến cố lịch sử, thường là sự thay đổi về lãnh thổ trong một thời kì nào đó. Nó cũng phản ánh những thời điểm, những yếu tố nối tiếp nhau trong sự phát triển của hiện tượng lịch sử đang học. + Loại bản đồ phân tích (bản đồ chuyên đề): trình bày về một sự kiện, một vấn đề hay một mặt của quá trình lịch sử. 2.1.3. Ý nghĩa của bản đồ giáo khoa lịch sử. - Quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh bao giờ cũng gắn liền với việc hình thành những biểu tượng (hình ảnh) cụ thể trong óc học sinh. Hình ảnh càng đậm nét, được khắc sâu, thì việc nhận thức khái niệm càng chắc chắn, bền vững. Do đó, bản đồ lịch sử khi đem lại cho học sinh những biểu tượng về không gian, hoàn cảnh địa lý của sự kiện lịch sử sẽ làm chỗ dựa vững chắc cho học sinh dần dần nắm được những nét khái quát, điển hình từ đó làm cơ sở để hình thành khái niệm lịch sử. Vì vậy bản đồ lịch sử không dừng lại ở nhận thức cảm tính mà còn ở lĩnh vực tư duy, làm cho học sinh tốn ít thời gian mà thu được hiệu quả trong việc hiểu biết quá khứ lịch sử. - Bản đồ lịch sử tham gia tích cực vào việc nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Bản đồ lịch sử là chiếc “cầu nối” giữa hiện thực khách quan quá khứ với những con người hiện tại, giúp học sinh xích gần lại với quá khứ, làm cho các em hiểu biết và thông cảm với dĩ vãng, suy nghĩ đúng đắn về công lao của ông cha ta ngày trước, xác định trách nhiệm của mình đối với hiện tại.
  7. 7 - Bản đồ giáo khoa lịch sử thể hiện hoàn cảnh tự nhiên và xã hội xảy ra sự kiện, giúp học sinh hình thành biểu tượng về không gian và thời gian xảy ra sự kiện lịch sử một cách dễ dàng. Đọc bản đồ lịch sử các em có thể trả lời một cách chắc chắn sự kiện xảy ra ở đâu? Vào thời gian nào? - Bản đồ lịch sử góp phần quan trọng vào việc phát triển tư duy lịch sử. Nhìn trên bản đồ học sinh nhận rõ sự phân bố nguồn tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và thị trường thế giới. Đó là nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh giành giật thị trường, thu mua nguyên liệu, thuê mướn nhân công rẻ mạt của các nước đế quốc. Bản đồ giáo khoa lịch sử không chỉ là đồ dùng trực quan minh hoạ, cụ thể hoá sự kiện được trình bày, mà còn dùng để phân tích, khái quát, giải thích các hiện tượng lịch sử, hình thành các mối liên hệ lịch sử nói chung và mối liên hệ nhân quả nói riêng. - Bản đồ giáo khoa lịch sử có khả năng khôi phục quá khứ một cách chân thực. Nó tàng trữ một khối lượng nội dung kiến thức lịch sử phong phú và đa dạng, giúp thầy và trò giảng dạy và học tập có kết quả. Bản đồ giáo khoa lịch sử là đồ dùng trực quan không thể thay thế trong việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Như vậy việc sử dụng bản đồ giáo khoa trong dạy học lịch sử có ý nghĩa lớn trong việc tái tạo lại sự kiện kiến thức lịch sử cho học sinh, đặc biệt là đối với những kiến thức về một chiến dịch, một cuộc khởi nghĩa, … 2.2. Thực trạng của việc xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học lịch sử ở trường THPT Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giáo dục có vai trò quan trọng trong việc “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc” Để thực hiện được mục tiêu giáo dục nêu trên thì vấn đề đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) nói chung và bộ môn lịch sử nói riêng theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đang được đặt ra một cách cấp thiết hiện nay. Thực tế dạy học ở cấp phổ thông nói chung và dạy học lịch sử nói riêng trong những năm gần đây để đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học thì có nhiều con đường, biện pháp khác nhau, trong đó việc ứng dụng CNTT vào trong giảng dạy, cũng được xem là một hình thức để đổi mới PPDH theo hướng hiện đại.
  8. 8 Tuy nhiên vấn đề sử dụng CNTT vào trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng trong các trường phổ thông hiện nay vẫn còn nhiều mặt tồn tại. Hầu hết các giáo viên nếu có ứng dụng CNTT trong dạy học thì cũng chỉ dừng lại ở việc soạn và dạy một vài tiết ở các bài nghiên cứu kiến thức mới, còn hầu như ít quan tâm đến việc ứng dụng CNTT vào việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Điều đó đã làm hạn chế những tính năng của việc ứng dụng CNTT trong dạy học bộ môn. Đối với trường THPT Nguyễn Diêu, trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Bộ GD-ĐT về việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy nhằm đổi mới PPDH, lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm đến việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy của giáo viên, đến nay nhà trường đã mua sắm, trang bị tất cả 5 bộ máy chiếu cho các tổ chuyên môn. Cùng với việc mua sắm các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác giảng dạy, nhà trường còn đặt ra yêu cầu mỗi giáo viên phải đăng kí thực hiện ít nhất từ 1 đến 2 tiết dạy bằng giáo án điện tử (GAĐT) trong một học kì và khuyến khích giáo viên giảng dạy bằng GAĐT ngay trên lớp học, và đây được xem là một tiêu chí để đánh giá, xếp loại thi đua của giáo viên vào cuối năm học. Chính vì thế mà việc thực hiện đổi mới PPDH với sự hỗ trợ của CNTT, sử dụng GAĐT (chủ yếu được thiết kế trên phần mềm Powerpoint) của giáo viên nhà trường ngày có sự chuyển biến tích cực. Đối với bộ môn Lịch sử của nhà trường, hiện nay có 06 giáo viên tham gia giảng dạy, hầu hết giáo viên đều có thể ứng dụng phần mềm Powerpoint vào trong việc soạn giảng bài giảng trên lớp (Bài cung cấp kiến thức mới). Tuy nhiên việc soạn giảng bằng GAĐT của giáo viên chỉ dừng lại ở mức độ khai thác những hiệu ứng thông thường, những chức năng đơn giản của phần mềm để truyền tải nội dung bài giảng theo một chiều: giáo viên tự thiết kế, trình bày bài giảng trên Powerpoint theo kiểu “thầy enter, trò chép”… Còn đối với một số tiết học có sử dụng đến bản đồ thì hầu như giáo viên chưa khai thác được những tiện dụng của phần mềm Powerpoint để thiết kế, xây dựng BĐGKĐT. Một số giáo viên có cố gắng thì tạo thêm vài mũi tên động nói về diễn biến sự kiện hoặc khoanh tròn một số địa danh trên bản đồ rồi tạo hiệu ứng lặp lại vài lần để nhấn mạnh nội dung kiến thức bài học, nhưng lại không thẩm mỹ và thiếu tính khoa học vì GV vẫn giữ nguyên các kí hiệu của bản đồ giáo khoa mà chưa qua xử lý, thiết kế lại, hoặc có một số GV Scan bản đồ đưa lên màn hình giống như một ảnh, rồi trình bày diễn biến của sự kiện lịch sử, điều này đã làm phản tác dụng của việc ứng dụng CNTT trong dạy học, gây mất hứng thú trong học tập của học sinh đối với bài giảng, học sinh sẽ khó có thể khắc sâu những trận đánh, những địa danh, sự kiện có liên quan. Nếu có chăng thì chỉ là học thuộc
  9. 9 lòng mà không hình dung chính xác được địa danh, sự kiện đó… vì thế cũng không thể phát triển được năng lực tư duy, thực hành của người học. Như vậy, trên thực tế việc ứng dụng CNTT trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng đã được giáo viên sử dụng ở những mức độ khác nhau trong bài học, còn vấn đề sử dụng CNTT để xây dựng các BĐGKĐT phục vụ việc dạy học bộ môn thì ít được quan tâm, hoặc có xây dựng và sử dụng nhưng còn hạn chế về mặt kỹ thuật và những tính năng của CNTT. Qua tìm hiểu, chia sẻ với nhau trong quá trình giảng dạy thì nguyên nhân của những tồn tại trên là do việc xây dựng, thiết kế BĐGKĐT trong dạy học bộ môn liên quan đến nhiều thao tác về mặt kỹ thuật: “xóa cũ, tạo mới”, nguồn bản đồ khó tìm, mất nhiều thời gian, giáo viên “ngại”… 2.3. Xây dựng hệ thống bản đồ giáo khoa điện tử trong dạy học lịch sử ở trường THPT 2.3.1. Hệ thống các bản đồ giáo khoa trong chương trình lịch sử 12 Hệ thống lược đồ trong SGK lịch sử 12 chương trình chuẩn đã có nhiều cải tiến về chất lượng và số lượng so với SGK cũ. Đây là phương tiện trực quan quy ước được sử dụng phổ biến và có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo biểu tượng về không gian, hoàn cảnh địa lý - nơi diễn ra sự kiện lịch sử. Sử dụng lược đồ, nhất là các lược đồ động, giúp HS ghi nhớ sự kiện, nắm tiến trình lịch sử vững chắc và hiểu lịch sử một cách sâu sắc hơn. Ngoài ra, đây còn là phương tiện giúp GV thuận lợi hơn trong việc tiến hành dạy học nêu vấn đề hay tổ chức các hoạt động thực hành và rèn luyện các kỹ năng cho HS. Nội dung Lịch sử Việt Nam lớp 12 từ năm 1919 đến năm 2000 trong SGK chương trình chuẩn có 12 lược đồ mà GV có thể xây dựng, thiết kế lại trên phần mềm Powerpoint rồi đổ màu và bổ sung, tạo hiệu ứng động cho những nội dung cần thiết khi đưa vào bài giảng (tức là xây dựng BĐGKĐT) gồm: - “Lược đồ phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh” xác định phạm vi diễn ra cuộc đấu tranh đỉnh cao của nhân dân ta trong phong trào cách mạng 1930-1931 ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. - “Lược đồ Khởi nghĩa Bắc Sơn” xác định những địa danh và phạm vi cuộc nổi dậy của nhân dân Bắc Sơn khi TD Pháp đầu hàng Phát xít Nhật năm 1940. - “Lược đồ Khởi nghĩa Nam kì” xác định những địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt của binh lính, nhân dân Nam bộ trong những năm 1940-1941. - “Lược đồ Binh biến Đô Lương” xác định phạm vi cuộc nổi dậy của binh lính Đô Lương do Đội Cung chỉ huy vào năm 1941.
  10. 10 - “Lược đồ Khu giải phóng Việt Bắc” xác định phạm vi và địa danh của 6 tỉnh trong khu giải phóng Việt Bắc – hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam độc lập. - “Lược đồ Chiến dịch Việt Bắc thu-đông năm 1947” xác định về phạm vi lãnh thổ của khu giải phóng Việt Bắc, những địa danh TD Pháp tấn công cách mạng và những địa danh quân ta tấn công và giành thắng lợi. - “Lược đồ chiến dịch Biên giới thu-đông năm 1950” xác định rõ địa danh và phạm vi của những tỉnh biên giới giáp với Trung Quốc có trong chiến dịch, xác định vị trí của “Hành lang Đông – Tây” do Pháp-Mĩ thiết lập và địa danh diễn ra những trận đánh lớn trong chiến dịch. - “Lược đồ hình thái chiến trường Đông – Xuân 1953-1954” xác định rõ vị trí, địa danh của 5 hướng tiến công của quân đội ta trong chiến cuộc Đông – Xuân 1953-1954, xác định chiến trường Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống TD Pháp. - “Lược đồ diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ 1954” xác định vị trí, địa hình của Điện Biên Phủ là một lòng chảo, có sân bay Mường Thanh, cách bố trí các phân khu và cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ, làm rõ những địa thế hiểm yếu của Điện Biên Phủ. - “Lược đồ phong trào “Đồng khởi” ở miền Nam” chủ yếu xác định những địa danh diễn ra phong trào “Đồng khởi” diễn ra rộng khắp các tỉnh miền Nam. - “Lược đồ trận Vạn Tường-Quảng Ngãi (8-1965)” xác định vị trí của thôn Vạn Tường- Quảng Ngãi, các điểm tấn công của địch ở Vạn Tường. - “Lược đồ diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975” phản ánh phạm vi và quy mô của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 với 3 chiến dịch lớn: Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế-Đà Nẵng, Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngoài ra, trên cơ sở sưu tầm ở nhiều nguồn khác nhau, giáo viên có thể khai thác và xây dựng một số BĐGKĐT khác rất cần thiết để phục vụ việc dạy học bộ môn mà trong chương trình SGK không trình bày, như Lược đồ Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc; Lược đồ Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của TD Pháp; Lược đồ diễn biến cách mạng Tháng Tám 1945,… 2.3.2. Đặc điểm của BĐGKĐT trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Từ những cơ sở lý luận chung về bản đồ giáo khoa lịch sử được trình bày ở nội dung mục 2.1, chúng ta có thể hiểu BĐGKĐT là những bản đồ được sử dụng trong dạy học lịch sử, gắn liền với một sự kiện lịch sử nhất định (về không gian và thời gian), đã được chương trình hoá, số hoá, sơ đồ hoá, tự động hoá và có tính tương thích với sự hỗ trợ của yếu tố
  11. 11 CNTT. Vì vậy, BĐGKĐT cũng có những đặc điểm riêng, khác biệt so với bản đồ giáo khoa, cụ thể: - Là một phương tiện dạy học, BĐGKĐT cũng phải đảm bảo những tính chất, đặc điểm, công dụng như các loại bản đồ giáo khoa trước đây. Ngoài ra, BĐGKĐT còn có những đặc tính riêng và đây cũng chính là ưu thế của nó so với các loại phương tiện dạy học truyền thống, như tính số hoá và chương trình hoá. Yếu tố số hoá của BĐGKĐT tạo ra khả năng lưu giữ, điều chỉnh và chia sẻ khá thuận lợi. Yếu tố chương trình hoá giúp GV và HS chủ động, linh hoạt trong quá trình sử dụng. - Tính đa phương tiện, đa truyền thông là một đặc trưng không thể thiếu của BĐGKĐT. Nội dung của BĐGKĐT tích hợp nhiều dạng thông tin phong phú: ký hiệu chữ (văn bản), đồ hoạ, hoạt hình, màu sắc, hình ảnh, phim… Điều này vừa tạo nên sự tiện ích trong sử dụng vừa kích thích đa giác quan của học sinh (nghe-nhìn) trong quá trình tiếp thu, xử lý thông tin và qua đó, các em nhận thức lịch sử một cách sâu sắc và hứng thú hơn. - Tính tương tác cũng là một đặc tính thể hiện ưu điểm của BĐGKĐT. Khả năng tương tác của BĐGKĐT giúp GV và HS có thể tác động lên những nội dung đang trình chiếu trên màn hình, làm cho việc sử dụng bản đồ trở nên linh hoạt, theo hướng tuỳ chọn hay mở rộng, đáp ứng được các yêu cầu, tình huống dạy học cụ thể. 2.3.3. Yêu cầu của việc thiết kế BĐGKĐT Việc xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học lịch sử nếu được thực hiện một cách đúng đắn, khoa học sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn, đồng thời góp phần vào việc đổi mới PPDH với việc ứng dụng CNTT trong giáo dục. Tuy nhiên việc xây dựng BĐGKĐT trong dạy học bộ môn không thể tiến hành một cách tùy tiện mà nó cần phải tuân thủ những yêu cầu cơ bản về mặt sư phạm sau: - Phải xác định những kiến thức cơ bản của bài học cần được thể hiện trên BĐGKĐT nhằm đảm bảo việc xây dựng và sử dụng bản đồ có tác dụng tích cực trong việc góp phần đổi mới PPDH và nâng cao hiệu quả bài học Lịch sử. - Các nội dung thể hiện trên bản đồ phải được chọn lọc nhằm đảm bảo tính chính xác, tính vừa sức, phải đảm bảo tính trực quan, tính thẩm mỹ và phản ánh được trình tự diễn biến của sự kiện lịch sử (trình tự thời gian và các diễn biến tương ứng thường được thể hiện sẵn và đồng thời trên các loại bản đồ in hoặc vẽ trên giấy). - BĐGKĐT phải được thiết kế khoa học, dễ sử dụng và tạo điều kiện thuận lợi cho GV, HS trong việc kết hợp với các phương tiện dạy học khác nhằm tổ chức tốt các hoạt động trên lớp theo kế hoạch dạy học đã định trước (giáo án).
  12. 12 - Ở những trường có điều kiện thuận lợi, nhằm phát huy tính tích cực học tập của người học, GV yêu cầu HS tìm hiểu trước SGK và tài liệu tham khảo để hướng dẫn các em sử dụng BĐGKĐT ở trên lớp trước khi lược thuật về những nét chính của diễn biến các sự kiện (các diễn biến chính thường được thiết kế sẵn theo một trình tự nhất định trên phần mềm nên HS chỉ cần nhấn phím Enter để trình chiếu kết hợp trình bày). Ngoài ra, cần tránh những biểu hiện lạm dụng kỹ thuật hoặc đơn giản hoá trong khâu thiết kế BĐGKĐT khi sử dụng các ứng dụng CNTT (sao chép bản đồ của nước ngoài ở trên Internet hay scan lại bản đồ trắng đen trong SGK để sử dụng trực tiếp dưới dạng ảnh tĩnh mà ít chú ý chất lượng hình ảnh và không xử lý cho phù hợp với yêu cầu cụ thể của bài học) 2.3.4. Quy trình xây dựng BĐGKĐT trong dạy học lịch sử Để đảm bảo về mặt khoa học, có tính sư phạm và đảm bảo sự thống nhất trong việc xây dựng BĐGKĐT thì cần tuân thủ theo quy trình thiết kế sau: - Nắm vững mục đích, yêu cầu của tiết học về giáo dưỡng, giáo dục và phát triển học sinh (điều này đã được xác định trong giáo án lên lớp). - Dựa vào chương trình sách giáo khoa để xác định bản đồ cần trình bày hoặc sưu tầm qua Internet, sách báo đối với những bản đồ không có trong sách giáo khoa nhưng rất cần thiết đối với tiết học. - Xác định những kiến thức cơ bản của diễn biến sự kiện cần thể hiện trên bản đồ; sưu tầm, chọn lọc các nguồn tư liệu liên quan đến diễn biến của sự kiện được trình bày trên bản đồ: văn bản, số liệu, tranh ảnh, phim tư liệu... - Tiến hành xử lý bản đồ từ dạng tĩnh sang dạng động tương ứng với diễn biến của những sự kiện lịch sử được trình bày trên bản đồ sang dạng kỹ thuật số nhờ vào một số phần mềm hỗ trợ: ACD.See, Photoshop, Hero... - Dự kiến số slide thích hợp với số lượng đối tượng được lựa chọn để trình diễn trên bản đồ. Nếu diễn biến sự kiện với nhiều chi tiết, có nhiều tư liệu phim, hình ảnh minh họa thì nên xây dựng nhiều Slide sao cho tương ứng với kế hoạch cụ thể của giáo án lên lớp. Đồng thời tạo thuận lợi trong việc chỉnh sửa, sử dụng bản đồ. - Tiến hành xây dựng và xem trước (có đối chiếu với giáo án) để điều chỉnh các slide, kiểu và thời gian trình diễn các hiệu ứng cho hợp lý hơn với kế hoạch sư phạm của giáo án. 2.4. Biện pháp thực hiện đề tài 2.4.1. Xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học mục 3: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc của mục II. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1925
  13. 13 trong bài 12 “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến 1925”, SGK lớp 12– Chương trình chuẩn. Nội dung bài học thuộc tiết 17 theo phân phối chương trình lịch sử lớp 12 và được chúng tôi dạy thực nghiệm và đối chứng ở bốn lớp 12A1, 12A4 (hai lớp thực nghiệm), lớp 12A5 và 12A9 (hai lớp đối chứng), trong năm học 2010-2011. Ở lớp 12A5, 12A9 chúng tôi dạy bình thường không có sử dụng BĐGKĐT, khi dạy đến mục 3: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, chúng tôi sử dụng lược đồ treo tường “Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911 đến năm 1941” để giảng dạy Ở lớp 12A1, 12A4, chúng tôi tiến hành dạy thực nghiệm, khi dạy mục 3: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, chúng tôi sử dụng BĐGKĐT để giảng dạy Nội dung xây dựng và cách sử dụng BĐGKĐT của mục 3: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc Trước hết, cần xác định những kiến thức nào trong bài cần được thể hiện trên bản đồ: + Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911 đến 1917 + Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trên đất Pháp + Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Liên Xô + Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Trung Quốc + Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1925 đến 1928 + Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1928 đến 1930 + Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1935 đến 1941 Từ những kiến thức trên, cần xác định những bản đồ cần được thiết kế và các thông tin khác có thể kết hợp đưa vào để làm rõ những nội dung sự kiện mà bản đồ thể hiện: - Bản đồ thế giới ở dạng bản đồ câm đã được xử lý với sự hỗ trợ của phần mềm: ACDSee, Hero, công cụ Drawing để trực tiếp vẽ lên Slide về hành trình cứu nước của Nguyễn Ái Quốc theo kiến thức lịch sử, theo từng giai đoạn gắn với từng điểm đến của Người. - Một số hình ảnh, đoạn phim ngắn (khoảng 1 phút) để mở rộng kiến thức, hỗ trợ cho bài học: + Hình ảnh Bến cảng Nhà Rồng; Tàu Đô đốc Latouche Tréville, ảnh Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội đại biểu lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, bìa sách Bản án chế độ thực dân Pháp, bìa sách Đường Kách mệnh, tranh vẽ Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam…. + Một số đoạn phim ngắn (khoảng 1 phút): Bối cảnh đất nước, quê hương và buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành, phim hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trên đất Pháp 1919, phim hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc,…
  14. 14 - Ý tưởng xây dựng và sử dụng các Slide có thể hiện BĐGKĐT trong bài học: + Slide 1, phản ánh giai đoạn đầu tiên Nguyễn Ái Quốc rời bến Cảng Nhà rồng ra đi tìm đường cứu nước. GV nhấp chuột vào biểu tượng hoa văn chữ Sài Gòn để chiếu đoạn phim nói về quê hương, gia đình và hành trình trong buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước của Người (phim được tạo bởi liên kết Trigger). Đồng thời GV có thể mở rộng kiến thức Slide 1 bài học cho học sinh bằng cách click chuột vào ô Sài Gòn để giới thiệu cho học sinh hình ảnh con Tàu Đô đốc Latouche Tréville mà Người đã đi (hình ảnh được tạo bởi liên kết Trigger). Trên bản đồ thế giới bỏ trống, GV sử dụng công cụ Drawing để vẽ đường mũi tên thể hiện hướng đi của Người từ Sài Gòn sang phương Tây, kết hợp với tạo hiệu ứng động (chế độ Wipe), và chế độ Zoom để thể hiện những điểm đến của Người. + Từ slide 1 GV copy để tạo slide 2, và cũng tương tự như thao tác ở slide 1, GV sử dụng công cụ Drawing để vẽ lên lược đồ những hướng đi tiếp theo của Người nối tiếp ở slide 1, kết hợp tạo hiệu ứng động ở chế độ Wipe và chế độ Zoom để thể hiện điểm đến của Người. Để mở rộng thêm kiến thức, hỗ trợ cho bài giảng, GV nhấp chuột vào biểu tượng hình tròn, màu đỏ ở điểm Pari để chiếu cho học sinh xem ảnh Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội đại biểu lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, và bìa sách Bản án chế độ thực dân Pháp kết hợp với việc giới thiệu những nội dung chính của tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Hình ảnh được tạo bằng liên kết Trigger). Nếu thời gian cho phép, GV kích chuột một lần nữa vào biểu tượng hình tròn màu đỏ ở Slide 2 điểm Pari để trình chiếu cho HS xem đoạn phim ngắn nói về những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại đất Pháp 1919 (phim được chèn và tạo liên kết bằng công cụ Trigger). Những hình ảnh này tác động mạnh mẽ đến nhận thức và cảm xúc học sinh. Sau khi trình bày xong nội dung slide 2, GV nêu vấn đề: “Công lao to lớn đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc đối với lịch sử dân tộc là gì?” + Ở slide 3, GV cũng thực hiện việc copy slide 2 rồi sử dụng công cụ Drawing để vẽ mũi tên thể hiện hướng đi của Nguyễn Ái Quốc từ đất Pháp sang Liên Xô, kết hợp với biểu tượng hình tròn, màu đỏ thể hiện điểm đến của Người (GV cũng sử dụng chế độ Wipe và
  15. 15 Zoom để tạo hiệu ứng đường đi và địa điểm đến của Người). Từ biểu tượng hình tròn, màu đỏ ở Matxcơva, GV nhấp chuột để chiếu hình ảnh Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội quốc tế nông dân. GV giảng về nội dung của bài phát biểu của Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội về vị trí, vai trò của giai cấp nông dân trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Slide 3 + Slide 4 thể hiện những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trên đất Trung Quốc năm 1924, GV copy slide 3, sau đó tạo các biểu tượng hình tròn, màu đỏ gắn với thời gian, thể hiện những điểm đến của Nguyễn Ái Quốc tại Trung Quốc (sử dụng hiệu ứng ở chế độ Zoom). Để mở rộng kiến thức bài học, GV nhấp chuột vào biểu tượng hình tròn, màu đỏ ở Quảng Châu để giới thiệu cho học sinh về tác phẩm Đường Kách mệnh. Nếu có thời gian GV tiếp tục nhấp chuột lần Slide 4 nữa vào biểu tượng hình tròn, màu đỏ với chữ Quảng Châu để chiếu cho học sinh xem thước phim về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trên đất Trung Quốc năm 1925. GV nêu câu hỏi: “Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1921 đến 1925 đã chuẩn bị những nhân tố gì cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?” + Tương tự, GV tạo slide 5 bằng cách copy slide 4, rồi tạo biểu tượng hình tròn, màu đỏ và ghi thời gian, cho hiệu ứng động với chế độ Zoom thể hiện những điểm đến của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn sau 1924 đến 1928 (hoạt động ở Liên Xô, Italia, Thái Lan) và sự kiện năm 1930, GV tạo biểu tượng tròn, màu đỏ, kết hợp với cờ Đảng, địa điểm Cửu Long cho hiệu ứng Zoom lặp lại nhiều Slide 5 lần để thể hiện một nội dung quan trọng của bài học. GV nhấp chuột vào biểu tượng Cửu Long để chiếu cho học sinh xem ảnh vẽ Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, giúp học sinh mở rộng kiến thức. + Slide 6 trình bày những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1935 đến khi về nước 1941, tương tự, GV copy slide 5, rồi sử dụng công cụ Drawing vẽ tiếp hướng đi của Người từ Liên Xô qua các nước và trở về Việt Nam vào
  16. 16 năm 1941. GV sử dụng hiệu ứng Wipe để thể hiện hướng đi và chế độ Zoom để xác định những địa danh mà Nguyễn Ái Quốc đã đến. Nếu còn thời gian, GV nhấp chuột vào biểu tượng hình tròn màu đỏ với địa điểm Quế Lâm 1938 để chiếu đoạn phim nói về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Quế Lâm – Trung Quốc năm 1938. Nhấp chuột vào Slide 6 biểu tượng hoa văn với địa điểm Cao Bằng cho học sinh xem ảnh Lán Khuổi Nậm ở Cao Bằng, nơi ở và làm việc của Người sau khi về Tổ Quốc. Qua đó mở rộng thêm những kiến thức ngoài sách giáo khoa cho học sinh. 2.4.2. Xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học mục III. Giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc của bài 23 “Khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973-1975)” – Chương trình chuẩn Nội dung bài học thuộc tiết 42 theo phân phối chương trình lịch sử lớp 12 và được chúng tôi dạy thực nghiệm và đối chứng ở hai lớp 12A7, 12A8 trong năm học 2009-2010. Ở lớp 12A8, chúng tôi dạy bình thường không có sử dụng BĐGKĐT, khi dạy đến mục 2: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, chúng tôi sử dụng bản đồ tổng hợp về diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 để trình bày diễn biến của 3 chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế-Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh Ở lớp 12A7, chúng tôi tiến hành dạy học thực nghiệm, khi dạy mục 2: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, chúng tôi sử dụng BĐGKĐT để trình bày về diễn biến của 3 chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế-Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh Nội dung xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học mục 2: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 Trước hết, cần xác định những kiến thức nào trong bài cần được thể hiện trên bản đồ: + Những chuyển biến lớn ở chiến trường miền Nam cuối năm 1974 đầu 1975 là cơ sở để Bộ Chính trị đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976 + Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 với các Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế-Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh - Từ những kiến thức trên, cần xác định những bản đồ cần được thiết kế và các thông tin khác có thể kết hợp đưa vào để làm rõ những nội dung mà bản đồ thể hiện:
  17. 17 + Bản đồ Việt Nam thể hiện: phạm vi diễn ra các Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế- Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh (kết hợp với bản đồ chuyên đề) + Các bản đồ chuyên đề phản ánh về các Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế-Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh (Các nội dung trên được thể hiện trên nền bản đồ trống có thể lấy từ các phần mềm địa lý hoặc sử dụng công cụ Drawing của PowerPoint để trực tiếp vẽ lên các slide trên cơ sở dựa theo các tài liệu bản đồ có trong SGK hay các tài liệu tham khảo) + Một số hình ảnh về cuộc tiến công giải phóng Phước Long, Buôn Ma Thuột, Huế, Đà Nẵng, Xuân Lộc, Sài Gòn; hình ảnh về Bộ chỉ huy Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế-Đà Nẵng, Chiến dịch Hồ Chí Minh; địch tháo chạy ở đường số 7, Sài Gòn… + Một vài đoạn phim ngắn (không quá 1 phút) phản ánh về các trận đánh giải phóng Buôn Ma Thuột, Huế, Sài Gòn và niềm vui của cả nước khi Sài Gòn giải phóng… - Ý tưởng của việc thiết kế và sử dụng các slide có thể hiện BĐGKĐT + Trong slide 1 minh hoạ những nội dung được lần lượt thể hiện trên cùng một slide phản ánh về diễn biến Chiến dịch Tây Nguyên. Việc kết hợp sử dụng bản đồ tổng hợp và bản đồ chuyên đề giúp học sinh dễ dàng xác định phạm vi diễn ra của từng chiến dịch, và giúp các em có cơ sở trả lời câu hỏi “Vì sao ta chọn Tây Nguyên làm điểm mở màn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, mà trước hết là Buôn Ma Thuột?” Ở đây, giáo viên sử dụng chuột cho hiển thị lần lượt các kí hiệu (lá cờ-nơi đặt Bộ chỉ huy chiến dịch, các mũi tiến công…) phù hợp với việc tường thuật diễn biến của chiến dịch. Nếu thời gian cho phép, GV có thể kích chuột vào một số điểm có tạo liên kết (bằng Trigger) để trình chiếu những hình ảnh hay đoạn phim mang nội dung tương ứng giúp cho việc lược thuật của GV cụ thể, sinh động hơn và giúp HS được mở rộng thông tin, ghi nhớ tốt về sự kiện (chẳng hạn như hình ảnh về Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên, về cuộc tiến công của ta vào Thị xã Buôn Ma Thuột) hay cuộc tháo chạy tán loạn của quân đội Sài Gòn trên đường số 7… (Sử dụng công cụ Drawing để vẽ các ký hiệu cờ, mũi tiến công và tạo hiệu ứng Entrance/Wipe rồi sau đó copy để nhân số lượng theo yêu cầu) Khi trình bày xong diễn biến Chiến dịch Tây Nguyên, dựa vào bản đồ tổng hợp, GV nêu vấn đề “Cơ sở nào để nhận định rằng, sau thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên, cuộc tiến công chiến lược của ta đã bước sang giai đoạn Tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam?”
  18. 18 Slide 1 (Chiến dịch Tây Nguyên) + Trên slide 2 thể hiện diễn biến Chiến dịch Huế-Đà Nẵng, GV cũng kết hợp sử dụng bản đồ tổng hợp với bản đồ chuyên đề để lược thuật diễn biến chiến dịch. Ở đây, GV cần làm rõ nghệ thuật tác chiến chia cắt, cô lập, bao vây địch để nhanh chóng giải phóng Huế rồi Đà Nẵng-hai vị trí chiến lược quan trọng đối với lực lượng Quân đoàn 1 của địch. GV có thể kích chuột vào các điểm ký hiệu ở Huế, Đà Nẵng để mở cho HS xem những hình ảnh tiêu biểu về cuộc tiến công của ta giải phóng hai đô thị quan trọng này. Dựa vào bản đồ, GV nêu câu hỏi “Sau thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế-Đà Nẵng, em có nhận xét gì về thế và lực và phạm vi kiểm soát của lực lượng quân giải phóng và quân đội Sài Gòn?” Slide 2 (Chiến dịch Huế - Đà Nẵng) + Tương tự trên slide 3 thể hiện diễn biến Chiến dịch Hồ Chí Minh, GV cũng sử dụng kết hợp bản đồ tổng hợp với bản đồ chuyên đề để yêu cầu HS quan sát và rút ra nhận xét về thế và lực của quân đội chính quyền Sài Gòn sau khi mất Quân khu 1, Quân khu 2, cũng như thế và lực của ta và khả năng, thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam (giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975). Trong quá trình lược thuật về diễn biến chiến dịch, GV có thể kích chuột vào ký hiệu cờ các quân đoàn của ta để giới thiệu về người chỉ huy và lực lượng tham chiến của 5 cánh quân giải phóng tiến vào Sài Gòn hay kích vào các ký hiệu điểm ở Xuân Lộc, Sài Gòn để mở những hình ảnh, đoạn phim tài liệu phản ánh về cuộc tiến
  19. 19 công giải phóng các vị trí quan trọng này, nhất là những hình ảnh sinh động về ngày giải phóng Sài Gòn 30-4-1975 (kích chuột một lần nữa để đóng các thông tin vừa mở). Trước khi chiếu đoạn phim, GV yêu cầu HS lưu ý một số nội dung để sau đó trả lời như: thực trạng của chính quyền Sài Gòn và lực lượng cố vấn Mỹ trong những ngày cuối cùng của tháng 4-1975?, khí thế của các lực lượng quân giải phóng và sự hưởng ứng của nhân dân Sài Gòn? (Tổng tiến công và nổi dậy), quang cảnh Sài Gòn giải phóng và tinh thần của nhân dân cả nước như thế nào? Slide 3 (Chiến dịch Hồ Chí Minh) 2.5. Kết quả thực nghiệm sư phạm của đề tài 2.5.1. Đối với giáo viên Sau khi thực hiện việc giảng dạy một số tiết học có sử dụng BĐGKĐT và có sự tham gia dự giờ của những giáo viên trong tổ. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát về hiệu quả của tiết học có sử dụng BĐGKĐT so với bài học sử dụng bản đồ giáo khoa truyền thống thông qua việc trao đổi, thăm dò ý kiến giữa các giáo viên trong tổ bộ môn Lịch sử của nhà trường (06 GV). Nội dung bảng 1 Bảng1:Thống kê số liệu điều tra việc xây dựng và sử dụng BĐGKĐT vào DHLS ở trường THPT Nguyễn Diêu Trường THPT Nguyễn Diêu Các nội dung thăm dò ý kiến GV (06GV) 1. Nhà trường chưa triển khai thực hiện ứng dụng 0GV CNTT&TT trong giảng dạy 0% 2. Chưa sử dụng được phần mềm PowerPoint trong dạy 0GV học bộ môn 0% 3. Chưa được dự giờ nào của đồng nghiệp có sử dụng 0GV
  20. 20 BĐGKĐT 0% 4. Bản thân chưa lần nào thực hiện bài học có sử dụng 2GV BĐGKĐT 33,3% 5. Đã thực hiện bài học có sử dụng BĐGKĐT một vài lần 4GV 66.7% 6. Tính thiết thực và khả thi của việc sử dụng BĐGKĐT 5GV trong dạy học bộ môn 83,3% 7. Thiết kế và sử dụng BĐGKĐT sẽ góp phần cải thiện 6GV tình trạng thiếu đồ dùng dạy học ở nhà trường (bản đồ) 100% 8. Sử dụng BĐGKĐT trong dạy học bộ môn góp phần 6GV vào việc đổi mới PPDH theo hướng hiện đại 100% 9. Sử dụng BĐGKĐT trong dạy học bộ môn góp phần 6GV phát huy tính tích cực học tập của học sinh 100% Qua bảng thống kê ta thấy hầu hết giáo viên đang tham gia giảng dạy bộ môn lịch sử đều đã ứng dụng CNTT vào bài giảng, trong số đó có hơn 2/3 số giáo viên dạy lịch sử của nhà trường bước đầu đã sử dụng BĐGKĐT trong dạy học. Đặc biệt đối với một số GV Lịch sử sau khi đã được sử dụng BĐGKĐT trong dạy học thì cho rằng các ứng dụng của BĐGKĐT có thể thay thế cho việc sử dụng các loại bản đồ treo tường truyền thống trong dạy học và có hiệu quả lớn trong việc phát huy tính tích cực của người học qua sự tương thích của yếu tố CNTT trong dạy học. Tất cả đều có đánh giá cao việc sử dụng BĐGKĐT trong dạy học lịch sử về tính khả thi, phát huy tính chủ động, tích cực của người học, góp phần trong việc đổi mới PPDH, nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, đồng thời việc xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học còn góp phần khắc phục sự thiếu hụt về đồ dùng dạy học bộ môn. Qua đó, có thể rút ra một số nhận xét chung về việc xây dựng và sử dụng BĐGKĐT trong dạy học bộ môn như sau: Việc sử dụng BĐGKĐT trong dạy học bộ môn so với bài học sử dụng bản đồ giáo khoa thông thường thì BĐGKĐT có nhiều ưu điểm hơn so với các loại phương tiện dạy học truyền thống, như tính số hoá và chương trình hoá. Yếu tố số hoá của BĐGKĐT tạo ra khả năng lưu giữ, điều chỉnh và chia sẻ khá thuận lợi về mặt kiến thức. Thông qua BĐGKĐT, giáo viên có thể cho ẩn, hiện các sự kiện (thông qua các kí hiệu đã thiết kế) một cách linh hoạt, có thể nhấn mạnh, khắc sâu địa danh của sự
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1