Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phần II
lượt xem 98
download
Tài liệu Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phần II tập hợp các câu hỏi tự luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh có hướng dẫn trả lời. Các câu hỏi bám sát nội dung chương trình học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp cho sinh viên dễ dàng ôn tập, kiểm tra kiến thức.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phần II
- Câu 11: Trả lời: NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC. 1 - Đại đoàn kết là một vấn đề chiến lƣợc của cách mạng Việt Nam. a.Đại đoàn kết là một tất yếu khách quan, là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán của Hồ Chí Minh. - Do thường xuyên phải chống ngoại xâm mạnh hơn mình gấp bội và phải đương đầu với thiên tai, nên dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết. Hồ Chí Minh chẳng những kế thừa truyền thống quý báu đó của dân tộc mà còn nâng nó lên một tầm cao mới, trở thành tư tưởng, chiến lược cách mạng Việt Nam. - Trong các bài viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh bao giờ cũng nhấn mạnh vấn đề đoàn kết. Thường thì đầu bài nói, bài viết, Người nhấn mạnh " trước hết phải đoàn kết"; cuối bài nói, bài viết, Người lại nhấn mạnh " tóm lại phải đoàn kết". Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh phải đoàn kết, đoàn kết hơn nữa; đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết chặt chẽ hơn nữa; đoàn kết rộng rãi, đoàn kết rộng rãi hơn nữa; đoàn kết thật thà trên dưới; đoàn kết nội bộ; đoàn kết toàn dân; đoàn kết chủ- thợ; đoàn kết từ trong Đảng ra ngoài quần chúng; đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới; đoàn kết lương-giáo; đoàn kết giữa các dân tộc trong nước, giữa đồng bào trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài; đoàn kết quốc tế;v.v... - Hồ Chí Minh nói đoàn kết là " nhiệm vụ hàng đầu"; " đoàn kết rất quan trọng"; có lúc Người nhấn mạnh " đoàn kết là điểm mẹ, điểm này thực hiện được tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt",v.v... - Trong quá trình tìm đường cứu nước khi đang ở nước ngoài, việc đầu tiên Hồ Chí Minh nghĩ tới là đoàn kết, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế. Về tới Tổ quốc, việc đầu tiên Người tiến hành là xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, thực hiện đoàn kết toàn dân. Trong suốt gần 40 năm trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người thường xuyên quan tâm đến đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế. Như vậy, có thể khẳng định rằng đoàn kết, đại đoàn kết là một tư tưởng xuyên suốt, nhất quán của Hồ Chí Minh. b. Đại đoàn kết-một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. - Tổng kết lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: " Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn". - Tổng kết cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, Người cũng rút ra một bài học lớn: " Đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đoàn kết quốc tế để thế giới ủng hộ, giúp đỡ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của cách mạng". Đầu năm 1951, phát biểu tại Đại hội thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt, Hồ Chí Minh chỉ rõ: " Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công". - Như vậy, theo Hồ Chí Minh, đoàn kết càng rộng rãi, đoàn kết càng chặt
- chẽ thì thắng lợi càng to, thành tích càng lớn. Lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, lịch sử cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nói riêng chứng minh sự khẳng định này của Người là hoàn toàn đúng. Tóm lại, vị trí của vấn đề đoàn kết được Hồ Chí Minh đánh giá rất cao. Theo Người, đoàn kết, đại đoàn kết là mộ trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đoàn kết càng rộng rãi, càng chặt chẽ thì thắng lợi càng lớn, thành tích càng to. 2 - Một số nguyên tắc cơ bản trong quá trình thực hiện đại đoàn kết dân tộc. a. Phải tin vào dân, dựa vào dân. Đây là một nguyên tắc cơ bản trong chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh. - Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niệm dân, nhân dân có nội hàm rất rộng, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. - Tin dân, dựa vào dân theo Hồ Chí Minh là tin và dựa vào tinh thần yêu nước của nhân dân, là " tin và dựa vào lực lượng sáng kiến của nhân dân". - Tin dân, dựa vào dân còn là: dân là gốc rễ, là nền tảng, dân là chủ thể của đại đoàn kết. Dân là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng. Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản, của hệ thống chính trị cách mạng. Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: " Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"; " Nuớc lấy dân làm gốc, gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Vì vậy: " Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong"; " Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác",v.v.... - Có thể nói: tin dân, dựa vào dân, sống và đấu tranh vì dân là nguyên tắc tối cao, xuyên suốt trong tư duy và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. b.Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động. - Trong xã hội, dân tộc và quốc tế có rất nhiều mối quan hệ lợi ích chồng chéo: giữa cá nhân và tập thể; giữa gia đình và xã hội; giữa bộ phận và toàn thể; giữa giai cấp và dân tộc; giữa quốc gia và quốc tế. Nhận thức và giải quyết đúng đắn hay không những mối quan hệ lợi ích này sẽ dẫn đến có đoàn kết hay không đoàn kết. - Nguyên tắc đại đoàn kết Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng, phát huy những yếu tố tương đồng, thống nhất để hạn chế, giải quyết những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn. Hồ Chí Minh bao giờ cũng tìm mẫu số chung của toàn dân tộc thay cho việc đào sâu sự cách biệt, đặt tiến trình đi lên của lịch sử trên nền quy tụ thay cho loại trừ. - Lợi ích tối cao của dân tộc như Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ là: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đó cũng là một truyền thống quý báu trong lịch sử, là chân lý, là sức mạnh của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
- khẳng định: " Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi". Đó là ngọn cờ đoàn kết dân tộc và cũng là nguyên tắc bất di, bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó là điều bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là cơ sở để Hồ Chí Minh tìm ra mẫu số chung của khối đại đoàn kết dân tộc. - Những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động được kết tinh trong phạm trù độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Những quyền lợi đó được biểu hiện cụ thể trong từng thời kỳ của lịch sử dân tộc như ruộng đất về tay dân cày, hoà bình, cơm áo, giáo dục, nhà ở, đời sống được cải thiện,v.v...Đối với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người đã từng khẳng định: " Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". c.Thực hành đại đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lập trường quan điểm của giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông và trí thức làm nền tảng, do giai cấp công nhân lãnh đạo. - Thực hiện đại đoàn kết phải trên cơ sở quan điểm lập trường của giai cấp công nhân. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ và lợi ích giữa dân tộc với giai cấp, giữa cái chung với cái bộ phận nhưng vẫn giữ vững và phát huy được sức mạnh chung của toàn dân tộc, theo Hồ Chí Minh thì đại đoàn kết đó phải trên cơ sở quan điểm lập trường của giai cấp công nhân. Chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp có khả năng giải quyết đúng đắn nhất mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp-họ là người đại biểu trung thành nhất cho lợi ích của dân tộc và của nhân dân lao động. Họ là giai cấp có khả năng tổ chức, khả năng đoàn kết tập hợp mọi lực lượng trong toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu chung của cách mạng và chỉ trên có sở giải quyết được lợi ích chung mới có điều kiện để giải quyết lợi ích cho từng bộ phận. Đại đoàn kết phải trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, theo Hồ Chí Minh là phải có động cơ trong sáng, mục đích phải cụ thể rõ ràng. Do đó thực hiện đại đoàn kết phải xuất phát từ đường lối, nhiệm vụ chính trị của cách mạng, phải từ lợi ích chung, phải có tổ chức chặt chẽ và phải giữ vững nguyên tắc. Đây là cơ sở bảo đảm chắc chắn nhất để thực hiện đại đoàn kết tập hợp lực lượng , là tiêu chuẩn để phân biệt chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh với tư tưởng đoàn kết tập hợp lực lượng cách mạng của một số nhà yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. - Lấy liên minh công nông và trí thức làm nền tảng do đảng Cộng sản lãnh đạo. Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh có một phạm vi rộng lớn,nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ, nhưng không phải là một tập hợp hỗn loạn, lỏng lẻo mà là một tập hợp có tổ chức trong Mặt trận dân tộc thống nhất lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt. Nói liên minh công, nông và trí thức là cơ sở của khối đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất là nói tới vai trò trụ cột và sức mạnh chủ yếu của khối đoàn kết đó. Mối quan hệ giữa Mặt trận với liên minh công,nông và trí thức là sự phản ánh về mặt tổ chức xã hội, thể hiện sinh động mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp.
- Nếu tách biệt hoặc nhấn mạnh một chiều vai trò của Mặt trận hoặc của liên minh công, nông và trí thức đều là không đúng với tính biện chứng của đời sống cách mạng và nguyên tắc đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Tuyệt đối hoá vai trò, vị trí của liên minh công, nông và trí thức, hạ thấp vai trò của Mặt trận sẽ dẫn đến cực đoan, " tả khuynh" và cô lập, hẹp hòi. Ngược lại, nhấn mạnh đề cao một chiều vai trò của Mặt trận, coi nhẹ liên minh công nông và trí thức sẽ dẫn đến " hữu khuynh", vô nguyên tắc, vô chính phủ. Trong khối đại đoàn kết dân tộc thì Đảng Cộng sản không chỉ là một bộ phận bình đẳng mà còn là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc. Vai trò vị trí đó đòi hỏi Đảng chẳng những phải xây dựng, phấn đấu xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà còn là đại diện xứng đáng cho dân tộc. Điểm nổi trội, sức mạnh bất diệt, nguyên tắc bất di bất dịch của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là đại đoàn kết phải được xây dựng trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy liên minh công, nông và trí thức làm nền tảng , do Đảng Cộng sản lãnh đạo, Hồ Chí Minh đã khẳng định: để làm tròn trách nhiệm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công, nông, trí thức làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân. Chỉ có như thế mới phát triển và củng cố được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. d. Nêu cao độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, thực hiện đoàn kết và đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết. - Nêu cao độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường Đoàn kết là để hợp sức, hợp lực của nhiều người vào thực hiện môùt mục tiêu chung mà mọi người tham gia đều có lợi ích trong đó, cho nên đại đoàn kết mang tính tích cực, chủ động. Tính tích cực chủ động trước hết thể hiện ở từng con người, từng tổ chức và trong mỗi lực lượng cụ thể, đồng thời phản ánh tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường trong thực hành đại đoàn kết tập hợp các lực lượng trong nước cũng như thực hiện đại đoàn kết quốc tế - Thực hiện đoàn kết và đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết. Theo Hồ Chí Minh đoàn kết là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam nhưng không phải là sự đoàn kết bằng mọi giá mà thiếu tính độc lập, tự chủ, mang tính thụ động trông chờ, ỷ lại, đoàn kết theo kiểu " xuôi chiều", " dĩ hoà vi quý", đoàn kết chỉ là hình thức, thấy đúng không ủng hộ, thấy sai không dám đấu tranh, " bằng mặt mà không bằng lòng". Hồ Chí Minh nói: " Đoàn kết thực sự là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì dân, vì mình". Đoàn kết phải có đấu tranh nhưng đấu tranh là để tăng thêm đoàn kết, đấu tranh để khắc phục và ngăn ngừa những sai trái, lệch lạc, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi. Đấu tranh còn là để phát huy được những mặt tốt, khơi dậy được truyền thống tự hào dân tộc, khả năng tích cực, chủ động ở mỗi con người, mỗi tổ chức, trên mọi lĩnh vực hoạt động, hướng vào một mục tiêu chung của dân tộc. 3 - Phƣơng pháp thực hành đại đoàn kết dân tộc
- Thực hiện tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là phải xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; kết hợp chặt chẽ đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế nhằm tạo ra những lực lượng to lớn nhất cho cách mạng Việt Nam. Để xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh đoàn kết đồng thời với việc xác định mục tiêu, nguyên tắc đúng. Đảng Cộng sản phải có phương pháp, cách thức đúng. Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh không cứng nhắc, không " nhất thành bất biến" mà linh động, phát triển, thích ứng với sự vận động, biến đổi của thực tiễn khách quan. Có thể khái quát phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh trên những nội dung sau: a. Phương pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng. - Yêu cầu của phương pháp này là nội dung, cách thức tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng phải thật sự khoa học, nhằm mục đích làm cho mọi người tự nhận được sự cần thiết phải tập hợp lại, đoàn kết lại, từ đó tự giác tham gia gánh vác những công việc của cách mạng. - Trước hết, nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng phải phản ánh đúng những nguyện vọng sâu xa và những quyền lợi cơ bản nhất của họ. Trong thực tiễn cách mạng, có những nguyện vọng chung, quyền lợi chung đã gắn kết cộng đồng dân tộc lại. Trong khi đó cũng có những nguyện vọng, quyền lợi riêng của từng giai cấp, tầng lớp, cộng đồng xã hội cụ thể nhất định. Nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng phải đáp ứng cả hai yêu cầu đó. - Nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng có biến thành sức mạnh đại đoàn kết hay không còn phụ thuộc vào việc sử dụng các hình thức tuyên truyền, vận động thích hợp với từng đối tượng. Cùng một nội dung, nhưng với mỗi đối tượng đòi hỏi những hình thức tuyên truyền, vận động khác nhau. - Một vấn đề khác ngoài nội dung và hình thức tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng là để có đại đoàn kết đòi hỏi bản thân người cán bộ, đảng viên làm công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động phải là một tấm gương về đoàn kết, phải mẫu mực từ lời nói đến việc làm, có sức lôi cuốn, thu phục quần chúng bởi tình cảm trong sáng và tinh thần tận tuỵ vì dân, vì nước. b. Phương pháp xây dựng, kiện toàn, không ngừng phát triển hệ thống chính trị cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, sự thống nhất và bền vững của hệ thống chính trị cách mạng là nhân tố quyết định sự tồn tại và sức mạnh của đại đoàn kết. - Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận. Là tổ chức chính trị to lớn nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là bộ tham mưu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất đồng thời cũng là một thành viên của Mặt trận. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dưng khối đoàn kết toàn dân, Đảng phải thực sự đoàn kết, thống nhất. Đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết của toàn dân. Sự đoàn kết trong đảng càng đượccủng cố thì đoàn kết của dân tộc càng được tăng cường.
- Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa đảng với nhân dân đã tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng. - Nhà nước cách mạng: khi đã giành được chính quyền, đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế phụ thuộc một phần rất lớn vào hoạt động và vai trò tổ chức của Nhà nước cách mạng. Mỗi chủ trương, chính sách và việc làm của Nhà nước có thể gắn kết nhân dân thành một khối, cũng có thể dẫn đến nguy cơ làm rạn nứt khối đại đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng một Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân. Người thường xuyên giáo dục và yêu cầu đội ngũ cán bọ, công chức Nhà nước phải trung thành, tận tụy phục vụ nhân dân. - Mặt trận dân tộc thống nhất là một tổ chức chính trị nhằm thực hiện liên minh tập hợp lực lượng cách mạng, là hình thức biểu hiện của đại đoàn kết và đồng thời là cơ sở để thực hiện đại đoàn kết dân tộc.Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng là sợi dây nối Đảng Cộng sản với nhân dân. Xây dựng và củng cố các đoàn thể quần chúng và Mặt trận là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam cả trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cả trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc sau đây: + Là thực thể của tư tưởng, chiến lược đại đoàn kết dân tộc, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông ( về sau Hồ Chí Minh nêu thêm là liên minh công nông và lao động trí óc ) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từ đó mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân, kết thành một khối vững chắc. + Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc và lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng. + Đoàn kết lâu dài, đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành; thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. III - QUÁN TRIỆT, VẬN DỤNG SÁNG TẠO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY. 1 - Nhận rõ tầm quan trọng của chiến lƣợc đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ cách mạng mới. - Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần 80 năm qua thể hiện sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ kính yêu trở thành chiến lược đại đoàn kết của Đảng và trở thành tình cảm, sức mạnh của cả dân tộc. Sức mạnh đó là nguồn gốc sâu xa của thắng lợi trong cách mạng tháng Tám 1945, kháng chiến chống Pháp ( 1945-1954), chống Mỹ, cứu nước ( 1954-1975). - Bước vào công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Đặc biệt là gần 20 năm đổi mới vừa qua càng cho phép Đảng và nhân dân ta nhận thức rõ ràng lúc nào, nơi nào tư tuởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh được quán
- triệt và thực hiện đúng thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ, thuận lợi; lúc nào, nơi nào xa rời tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh thì khi đó, nơi đó cách mạng gặp nhiều khó khăn, tổn thất. Từ đòi hỏi trực tiếp của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và những yêu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới hiện nay đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân ta phải có sự nỗ lực, cố gắng vượt bậc, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đồng thời kết hợp sức mạnh thời đại nhằm thực hiện một cách có hiệu quả mục tiêu: " Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". - Chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới trong điều kiện quốc tế có nhiều biến đổi sâu sắc. Vừa đứng trước những thuận lợi mới, nhưng đồng thời cũng đứng trước những thách thức lớn. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ ráo riết thực hiện chiến lược diễn biến hoà bình với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt...Tập trung trước hết vào việc phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, bắt đầu từ việc phá hoại đoàn kết nội bộ Đảng, giữa Đảng với quần chúng và giữa các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Với âm mưu " lật đổ từ bên trong", " dùng cộng sản chống cộng sản"...những thủ đoạn đó hết sức thâm độc, dễ làm cho quần chúng nhân dân mất cảnh giác, mơ hồ lẫn lộn mà rơi vào cạm bẫy kẻ thù. - Những vận hội và những thách thức mới đang tác động hàng ngày, hàng giờ tới khối đại đoàn kết dân tộc. Để tiến lên, chúng ta chỉ có một con đường là phải kiên trì, vững vàng, quán triệt và thực hiện tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Đồng thời chúng ta cũng phải đổi mới, phát triển những nội dung, phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh cho phù hợp với sự vận động, biến đổi của đời sống kinh tế-xã hội trong nước và thế giới. Kế thừa, phát triển tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc, toàn diện tất cả các vấn đề về kinh tế, xã hội và quốc tế. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết. 2 - Quán triệt tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức tổ chức tập hợp lực lƣợng cho cách mạng trong thời kỳ mới. a. Mục tiêu Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết Đại hội IX và nghị quyết Trung ương Bảy ( khoá IX) đề ra mục tiêu đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới là: củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. b. Quan điểm - Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- - Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập; thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. - Bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn với kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc,thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước; xem đó là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. - Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. c. Nội dung cụ thể - Có chủ trương, chính sách và pháp luật đúng Trước hết là xây dựng những định hướng chính sách chung nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cùng vơi việc đề ra những định hướng xây dựng những chính sách chung còn phải có những định hướng, chính sách cụ thể đối với các giai tầng và cộng đồng xã hội: công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các doanh nghiệp, các dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. - Phát huy vai trò to lớn của Nhà nước trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Đối với việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc, Nhà nước có vai trò cực kỳ to lớn. Đường lối chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc muốn đi được vào cuộc sống phải được nhà nước thể chế hoá thành chính sách, pháp luật. - Tiếp tục nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân Mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội và các tổ chức nhân dân khác. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phối hợp với các cơ quan của Nhà nước hoạt động nhiều hơn về cơ sở, đến từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vận động và giúp nhân dân xoá đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng hợp pháp, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở từng cộng đồng dân cư. Đi sát để hiểu tâm tư nguyện vọng nhân dân, phát huy nhân rộng những sáng kiến tích cực; vừa làm tốt chức năng tuyên truyền, giáo dục, vừa quan tâm bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. - Xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước. Sự đồng thuận trong xã hội ta hiện nay là sự nhất trí trên những điểm tương đồng: về chính trị, điểm đồng thuận là mục tiêu chung: giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Về kinh tế, là sự hài hoà giữa các lợi ích ( cá nhân, tập thể, toàn xã hội) vì sự phát triển chung của đất nước. Về tinh thần, tư tưởng là chủ nghĩa yêu nước chân chính. Về tín ngưỡng, tâm linh, đó là sự hướng thiện, tôn trọng những giá trị đạo đức mang tính nhân bản; là sự giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân; là sự tôn trọng tự do, tín ngưỡng truyền thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo. Sự đồng thuận xã hội tất yếu dẫn đến các phong trào cách mạng trong nhân dân. Phát động sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước nhằm mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Hiện nay chúng ta có rất nhiều phong trào song đều thống nhất trong cuộc vận động chung: " Toàn dân đoàn kết phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". - Đảng là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết không phải chỉ là dân đoàn kết với dân mà quan trọng hơncả là dân đoàn kết xung quanh Đảng. Đảng là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hạt nhân đó có vững mạnh, khối đoàn kết mới vững mạnh. Kinh nghiệm vừa qua chỉ ra rằng ở những nơi có tình hình lộn xộn, mất đoàn kết chính vì nơi đó tổ chức Đảng yếu kém, mất đoàn kết. Phải tiếp tục kiên trì thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng; củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và trong từng tổ chức Đảng. Đảng viên phải gương mẫu về đạo đức và lối sống, tham gia sinh hoạt và làm nòng cốt trong các tổ chức nhân dân. Đảng lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trước hết bằng việc đề ra những chủ trương, chính sách cụ thể đồng thời lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị tổ chức thực hiện có hiệu quả. 3 - Ra sức phát huy vai trò của quân đội nhân dân trong xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc tình hình hiện nay. - Quân đội phải phát huy vai trò đội quân chiến đấu và đội quân công tác nhằm bảo vệ vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc ( Tuyên truyền đường lối, chủ trương chiến lược đại đoàn kết, chiến đấu bảo vệ vững chắc khối đại đoàn kết, đấu tranh chống diễn biến hoà bình...). - Tích cực tham gia mọi hoạt động phát triển kinh tế, chống thiên tai, tăng cường đoàn kết quân dân góp phần quan trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tạo sức mạnh tổng hợp cho sựnghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Câu 13: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. 1 - Cách mạng trƣớc hết phải có Đảng cách mạng. - Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ nhận thức sáng rõ thêm về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân là người sáng tạo nên lịch sử, động lực của các cuộc cách mạng, mà còn phát hiện được rằng sức mạnh của quần chúng chỉ có thể được phát huy đầy đủ, đúng đắn khi có sự lãnh đạo của một "
- đảng cách mệnh " chân chính. - Chính trên ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh khẳng định, muốn làm cách mạng thì " Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy". Luận điểm trên của Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: - Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng đó không phải là tổng số quần chúng gộp lại một cách cơ học mà là khối đại đoàn kết toàn dân được giáo dục, được giác ngộ, có tổ chức, được dẫn dắt bởi đường lối đúng đắn của một chính đảng vô sản. - Đảng cộng sản có trách nhiệm " vận động và tổ chức dân chúng" và " liên hệ với dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi nơi". Vai trò, sứ mệnh của Đảng được xem như " người cầm lái", người dẫn đường. Đảng có trách nhiệm hoạch định đường lối đúng đắn và đưa đường lối đó " vào nhân gian" để giác ngộ, tập hợp, tổ chức nhân dân đứng lên đấu tranh thực hiện giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Trên ý nghĩa đó, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định nhất bảo đảm thắng lợi của cách mạng. - Đây là nhận thức hoàn toàn mới, vào đầu thế kỷ XX chưa có nhà hoạt động cách mạng nào trước Hồ Chí Minh đạt được. Những tổ chức cách mạng ra đời trước Đảng Cộng sản, từ Việt Nam Quang phục hội đến Việt Nam Quốc dân đảng, chẳng những hạn chế về hệ tư tưởng ( tiểu tư sản và tư sản), mà cách thức tổ chức cũng chưa đủ tầm vóc của môùt đảng chính trị đích thực. Do đó các tổ chức này thiếu kỷ luật chặt chẽ, không đủ sức hoạch định được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn để lãnh đạo quần chúng tiến hành cách mạng. Thiếu sót ấy chỉ được khắc phục khi Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. - Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Nếu không có sự lãnh đạo của đảng thì không thể thực hiện được mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nếu mơ hồ, nhận thức lệch lạc về vai trò lãnh đạo của Đảng, sẽ dễ rơi vào âm mưu của các thế lực cơ hội, thù địch hòng xuyên tạc, kích động, lợi dụng, làm hạn chế, suy yếu sức mạnh của Đảng, của cách mạng. Mặt khác cần thấy rõ lãnh đạo là chức năng gốc của Đảng, nếu buông lỏng sự lãnh đạo sẽ đánh mất niềm tin của quần chúng, cách mạng sẽ đi chệch hướng, gặp khó khăn, thậm trí thất bại. Vì thế, đổi mới, chỉnh đốn Đảng không phải là từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng mà là tìm ra các hình thức, phương pháp lãnh đạo đạt hiệu quả cao hơn trong tình hình mới. 2 - Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc. 3 - Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. 4 - Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tƣ tƣởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. 5 - Đảng Cộng sản Việt Nam phải đƣợc xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. 6 - Đảng cộng sản việt nam cầm quyền vừa là ngƣời lãnh đạo, vừa là
- ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân. 7 - Đảng phải thƣờng xuyên đƣợc đổi mới, chỉnh đốn, đảm bảo cho đảng ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao. III - MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng không chỉ có ý nghĩa lý luận, khẳng định những cống hiến của Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản, nhất là ở các nước thuộc địa và phụ thuộc mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn, nhất là trong bối cảnh quốc tế và đất nước ta hiện nay, việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng đang nổi nên là một nhiệm vụ quan trọng nhất, quyết định đến thành bại của sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta, của dân tộc Việt Nam ta. Vì vậy, việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng đảng là việc làm cấp thiết hiện nay. 1 - Đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến thành bại của công cuộc đổi mới hiện nay. Trong giai đoạn hiện nay Đảng ta xác định: xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, văn hoá là nền tảng; xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định đến thành bại của sự nghiệp đổi mới, đến sự sống còn của Đảng. Tầm quan trọng của việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng được bắt nguồn từ những lý do sau: - Trước tác động của những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới đặc biệt là sự tan rã của hàng loạt các Đảng Cộng sản không chỉ gây lên sự phân tâm, giảm sút lòng tin, dao động trong một số cán bộ, đảng viên, nhân dân ta, thậm trí có người mất niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin, vào chủ nghĩa xã hội. Do đó đặt ra nhiều vấn đề về Đảng cần được giải quyết để củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu; tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng. - Các thế lực thù địch đang tấn công quyết liệt từ mọi hướng vào chúng ta với mưu toan xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng, phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phá vỡ những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; kích động, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước; Đảng, Nhà nước với nhân dân....Nếu chúng ta không cảnh giác, chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, trong sạch, đoàn kết, thống nhất thì tổn thất đối với cách mạng không thể lường hết được. - Cách mạng nước ta đang ở bước chuyển giai đoạn rất căn bản: từ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, mở cửa với bên ngoài, đi lên chủ nghĩa xã hội đồng thời thực hiện dân chủ hoá xã hội; đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa... - Đảng ta được tôi luyện trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ; luôn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, tính cách mạng kiên định, tinh thần độc lập, sáng tạo...Song, đứng trước yêu cầu phát triển của tình hình nhiệm vụ, Đảng còn bộc lộ những khuyết điểm trong đó có những khuyết điểm trở thành nguy cơ không thể xem thường...
- Trước những yêu cầu mới và tình hình đó của cách mạng, của Đảng nếu không có những giải pháp tích cực và hữu hiệu để chấn chỉnh, củng cố và đổi mới Đảng thì Đảng sẽ không đủ sức đảm đương trọng trách trong giai đoạn mới của cách mạng. 2 - Quán triệt sâu sắc tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Ra sức xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là ngƣời lãnh đạo, ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Nội dung đổi mới và chỉnh đốn Đảng toàn diện cả chính trị, tư tưởng và tổ chức, cả tổ chức và con người, cả phẩm chất năng lực và phong cách lãnh đạo, tác phong công tác...Trong đó cần tập trung vào những nội dung then chốt sau đây: - Phải tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị của Đảng. Đây là nội dung quan trọng hàng đầu. - Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, nâng cao trình độ kiến thức về mọi mặt cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là nền tảng tư tuởng, kim chỉ nam cho hành động. - Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, trước hết là đối với Nhà nước, đổi mới công tác quần chúng của Đảng, làm cho mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân ngày càng được củng cố và phát triển vững chắc. - Bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và những nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. - Làm trong sạch đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng. - Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và kế tục sự nghiệp cách mạng. Nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng hiện nay là một công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được sáng tỏ. Tuy vậy, nếu chúng ta dựa chắc vào tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc và thực hiện đầy đủ, đúng đắn, sáng tạo những di huấn của Người thì nhất định Đảng ta sẽ luôn xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân. Câu 14: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. 1 - Cách mạng trƣớc hết phải có Đảng cách mạng. 2 - Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc. 3 - Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. 4 - Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tƣ tƣởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. 5 - Đảng Cộng sản Việt Nam phải đƣợc xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
- 6 - Đảng cộng sản việt nam cầm quyền vừa là ngƣời lãnh đạo, vừa là ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân. - Đây thực sự là một cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh đối với học thuyết Mác-Lênin về đảng của giai cấp công nhân, làm cho kho tàng lý luận ấy ngày càng phong phú, có sức sống mãnh liệt. - Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, với tư cách là người lãnh đạo, Đảng phải thuyết phục, thu phục và chinh phục được quần chúng. Điều đó chỉ có thể đạt được bằng sự đúng đắn cách mạng và khoa học của đường lối, chính sách của Đảng- ngọn cờ hướng dẫn quần chúng hành động; bằng hành động gương mẫu của đội ngũ đảng viên, cán bộ của Đảng; bằng nói đi đôi với làm; bằng những lợi ích thiết thực mà Đảng đem lại cho mỗi con người, cho quần chúng nhân dân. Việc đó cũng chỉ thực hiện được bằng cái tâm, cái trí, cái đức của người cán bộ, đảng viên và Đảng phải luôn luôn tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc, đạo đức, văn minh của xã hội. - Là đầy tớ trung thành của nhân dân, như Hồ Chí Minh đã nói, Đảng không có quyền lợi gì của riêng mình, ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc. Vì vậy, Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa đảng với dân, Đảng không ở trên dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong dân, trong lòng dân. Không chỉ có nước mới lấy dân làm gốc, mà Đảng cũng phải lấy dân làm gốc. Chính cái gốc này đem lại nguồn sinh lực vô tận cho Đảng. Mọi biểu hiện của bệnh quan liêu, xa dân đều làm suy yếu Đảng, hơn nữa còn làm cho sự tồn tại của Đảng không còn ý nghĩa. Đây là một trong những vấn đề Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm giáo dục cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành đảng cầm quyền. - Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không tách rời nhau, không đối lập nhau, mà như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: lãnh đạo có nghĩa là làm đầy tớ. 7 - Đảng phải thƣờng xuyên đƣợc đổi mới, chỉnh đốn, đảm bảo cho đảng ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao. Câu 15: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. 1 - Cách mạng trƣớc hết phải có Đảng cách mạng. 2 - Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc. 3 - Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Đây cũng là luận điểm mới của Hồ Chí Minh, bổ sung vào học thuyết về Đảng Cộng sản của chủ nghĩa Mác-Lênin. - Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân. Cái quyết định bản chất giai cấp công nhân của Đảng không phải chỉ ở số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân, mà cơ bản là ở nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin; ở mục tiêu, đường lối của Đảng thực sự vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người; ở vấn đề Đảng nghiêm túc tuân thủ những nguyên tắc của
- Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Vì vậy, Đảng không phải chỉ kết nạp những người ưu tú trong giai cấp công nhân mà còn kết nạp cả những người ưu tú trong giai cấp nông dân, trong tầng lớp lao động trí óc và những người thuộc các thành phần khác đã được rèn luyện, thử thách, đã giác ngộ về Đảng và tự nguyện chiến đấu trong hàng ngũ của Đảng. Mặt khác, Đảng đặc biệt chú ý đến việc giáo dục, rèn luyện đảng viên không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác-Lênin, nâng cao giác ngộ về giai cấp và dân tộc. - Đảng đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc. Bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà đồng thời còn là Đảng của dân tộc Việt Nam. Luận điểm trên đã chỉ đạo cách thức tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ thể hiện bản chất giai cấp công nhân, mà còn gắn bó máu thịt với dân tộc. Mọi hoạt động của Đảng không có lợi ích nào khác ngoài phụng sự giai cấp, phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân thừa nhận và gọi trìu mến, gần gũi là " Đảng ta". Đó là cội nguồn sức mạnh của Đảng. Nói Đảng của giai cấp, đồng thời là của dân tộc, song không có nghĩa là " Đảng toàn dân", không mang bản chất giai cấp, mà đó là Đảng mang bản chất giai cấp công nhân. Sở dĩ có đặc trưng đó là vì, khác hẳn các chính đảng của giai cấp bóc lột, giai cấp công nhân có lợi ích thống nhất với lợi ích của các tầng lớp cần lao và lợi ích của toàn dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII nhấn mạnh: " Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc. Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc. Cũng từ đó, nhân dân lao động và cả dân tộc đã thừa nhận đảng ta là người lãnh đạo, người đại biểu chân chính cho quyền lợi cơ bản, thiết thân của mình". Đó cũng là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với tình hình hiện nay trong công tác xây dựng đảng, tránh bệnh " tả" khuynh ( cô độc, biệt phái) hoặc hữu khuynh ( xoá nhoà bản chất giai cấp công nhân của Đảng). 4 - Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tƣ tƣởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. 5 - Đảng Cộng sản Việt Nam phải đƣợc xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. 6 - Đảng cộng sản việt nam cầm quyền vừa là ngƣời lãnh đạo, vừa là ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân. 7 - Đảng phải thƣờng xuyên đƣợc đổi mới, chỉnh đốn, đảm bảo cho đảng ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao. Câu 16: Trả lời:
- NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. 1 - Cách mạng trƣớc hết phải có Đảng cách mạng. 2 - Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc. 3 - Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. 4 - Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tƣ tƣởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. 5 - Đảng Cộng sản Việt Nam phải đƣợc xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. 6 - Đảng cộng sản việt nam cầm quyền vừa là ngƣời lãnh đạo, vừa là ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân. 7 - Đảng phải thƣờng xuyên đƣợc đổi mới, chỉnh đốn, đảm bảo cho đảng ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao. - Để xứng đáng là một Đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp cách mạng to lớn của giai cấp và dân tộc, một Đảng " vừa là đạo đức, vừa là văn minh", một Đảng tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại, Đảng phải thường xuyên chăm lo đến việc chỉnh đốn và đổi mới bản thân mình. - Chỉnh đốn và đổi mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh có về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. - Trong điều kiện Đảng đã trở thành đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Hồ Chí Minh coi là công việc thường xuyên của Đảng. Hồ Chí Minh đã nêu lên mọt luận điểm quan trọng: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ họ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân". - Luận điểm trên đây thực sự là một chân lý phản ánh đúng thực tiễn và đã được thực tiễn kiểm nghiệm, không phải chỉ thực tiễn nước ta, mà còn ở nhiều nơi trên thế giới. Nó mãi mãi là lời cảnh tỉnh có ý nghĩa sâu xa đối với Đảng Cộng sản, đối với mỗi đảng viên cộng sản. III - MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng không chỉ có ý nghĩa lý luận, khẳng định những cống hiến của Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản, nhất là ở các nước thuộc địa và phụ thuộc mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn, nhất là trong bối cảnh quốc tế và đất nước ta hiện nay, việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng đang nổi nên là một nhiệm vụ quan trọng nhất, quyết định đến thành bại của sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta, của dân tộc Việt Nam ta. Vì vậy, việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng đảng là việc làm cấp thiết hiện nay. 1 - Đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến thành bại của công cuộc đổi mới hiện nay.
- Trong giai đoạn hiện nay Đảng ta xác định: xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, văn hoá là nền tảng; xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định đến thành bại của sự nghiệp đổi mới, đến sự sống còn của Đảng. Tầm quan trọng của việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng được bắt nguồn từ những lý do sau: - Trước tác động của những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới đặc biệt là sự tan rã của hàng loạt các Đảng Cộng sản không chỉ gây lên sự phân tâm, giảm sút lòng tin, dao động trong một số cán bộ, đảng viên, nhân dân ta, thậm trí có người mất niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin, vào chủ nghĩa xã hội. Do đó đặt ra nhiều vấn đề về Đảng cần được giải quyết để củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu; tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng. - Các thế lực thù địch đang tấn công quyết liệt từ mọi hướng vào chúng ta với mưu toan xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng, phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phá vỡ những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; kích động, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước; Đảng, Nhà nước với nhân dân....Nếu chúng ta không cảnh giác, chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, trong sạch, đoàn kết, thống nhất thì tổn thất đối với cách mạng không thể lường hết được. - Cách mạng nước ta đang ở bước chuyển giai đoạn rất căn bản: từ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, mở cửa với bên ngoài, đi lên chủ nghĩa xã hội đồng thời thực hiện dân chủ hoá xã hội; đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa... - Đảng ta được tôi luyện trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ; luôn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, tính cách mạng kiên định, tinh thần độc lập, sáng tạo...Song, đứng trước yêu cầu phát triển của tình hình nhiệm vụ, Đảng còn bộc lộ những khuyết điểm trong đó có những khuyết điểm trở thành nguy cơ không thể xem thường... Trước những yêu cầu mới và tình hình đó của cách mạng, của Đảng nếu không có những giải pháp tích cực và hữu hiệu để chấn chỉnh, củng cố và đổi mới Đảng thì Đảng sẽ không đủ sức đảm đương trọng trách trong giai đoạn mới của cách mạng. 2 - Quán triệt sâu sắc tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Ra sức xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là ngƣời lãnh đạo, ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Nội dung đổi mới và chỉnh đốn Đảng toàn diện cả chính trị, tư tưởng và tổ chức, cả tổ chức và con người, cả phẩm chất năng lực và phong cách lãnh đạo, tác phong công tác...Trong đó cần tập trung vào những nội dung then chốt sau đây: - Phải tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị của Đảng. Đây là nội dung quan trọng hàng đầu. - Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, nâng cao trình độ kiến thức về mọi mặt cho cán bộ, đảng viên và nhân
- dân; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là nền tảng tư tuởng, kim chỉ nam cho hành động. - Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, trước hết là đối với Nhà nước, đổi mới công tác quần chúng của Đảng, làm cho mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân ngày càng được củng cố và phát triển vững chắc. - Bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và những nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. - Làm trong sạch đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng. - Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và kế tục sự nghiệp cách mạng. Nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng hiện nay là một công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được sáng tỏ. Tuy vậy, nếu chúng ta dựa chắc vào tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc và thực hiện đầy đủ, đúng đắn, sáng tạo những di huấn của Người thì nhất định Đảng ta sẽ luôn xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân. Câu 16: Trả lời: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. 1 - Cách mạng trƣớc hết phải có Đảng cách mạng. 2 - Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc. 3 - Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. 4 - Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tƣ tƣởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. - Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Aí Quốc đã mở đầu bằng một câu theo ý của Lênin: " Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động...Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh cách mệnh tiền phong". - Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: " Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy, Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam". - Dẫn đường cho mọi hoạt động của các giai cấp đều cần thiết phải có một học thuyết cách mạng. Song, theo Hồ Chí Minh, " Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin". - Nếu không có lý luận dẫn đường, Đảng chỉ là một tập hợp ngẫu nhiên, rời rạc, thiếu thống nhất và không có sức mạnh. Chủ nghĩa Mác-Lênin chính là học thuyết " chân chính nhất", " cách mệnh nhất", vì nó chỉ ra cho Đảng mục tiêu, con đường thực hiện sứ mệnh giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng dân tộc, xoá bỏ áp bức, bất công, xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp.
- - Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin " làm cốt" không có nghĩa là giáo điều, máy móc theo từng câu, từng chữ của Mác, của Lênin mà chính là nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó linh hồn sống là phép biện chứng duy vật. Hay theo cách nói của Hồ Chí Minh là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin. - Đồng thời phải thâu thái những tinh hoa của văn hoá dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh nghiệm của các đảng anh em, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để hoạch định đường lối đúng đắn. Bản thân Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương mẫu mực về vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam. - Trong tình hình hiện nay, một mặt phải kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, mặt khác phải không ngừng sáng tạo lý luận. Không kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin sẽ rơi vào chủ nghĩa cơ hội, xét lại, rốt cuộc cũng không có sáng tạo lý luận đích thực. Ngược lại, không phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong tình hình mới sẽ làm mất đi sức sống của nó mà thời đại mới đang yêu cầu. Dĩ nhiên phải luôn xác định được ranh giới giữa kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin với các biểu hiện bảo thủ, giáo điều; giữa sáng tạo lý luận với cơ hội chính trị. 5 - Đảng Cộng sản Việt Nam phải đƣợc xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. 6 - Đảng cộng sản việt nam cầm quyền vừa là ngƣời lãnh đạo, vừa là ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Câu 18: Trả lời: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƢỚC KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM. 1 - Nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân, dƣới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. a. Nhà nước của dân, do dân, vì dân Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai. Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: " Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc". Sau khi nước ta giành được độc lập, Người khẳng định: " Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra...Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Đó là điểm khác nhau căn bản về bản chất giữa nhà nước của nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử. - Thế nào là nhà nước của dân? Nói nhà nước của dân, như điều thứ 1-Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn thảo đã khẳng định: " Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không
- phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Điều thứ 32-Hiến pháp năm 1946 cũng quy định: " Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết". Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta. Sau khi giành được chính quyền, nhân dân uỷ quyền cho các đại diện do mình bầu ra. Đồng thời " nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân". Trong nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước dân chủ phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Cũng trên ý nghĩa đó, các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa uỷ quyền của dân, chỉ là " công bộc" của dân theo ý nghĩa đúng đắn của từ này. - Thế nào là nhà nước do dân? Đó là nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình; nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động; nhà nước đó lại do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu: tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. - Thế nào là nhà nước vì dân? Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có một nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân được. Đó là một nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm, liêm, chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ Chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân. Vì vậy: " việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh". Đến đây, nảy sinh mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với người cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân uỷ quyền. Hồ Chí Minh nói: " dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là quan cách mạng". Nhưng đối với cán bộ nhà nước, Hồ Chí Minh không bao giờ chỉ nhấn mạnh một vế. Là người phục vụ, cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Hồ Chí Minh nói: " Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường". b. Nhà nước phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo ( khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta). Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân, vì dân về bản chất là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Quán triệt các nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất giai
- cấp của nhà nước, Hồ Chí Minh ý thức rất rõ: tính chất của nhà nước là nội dung giai cấp của chính quyền; trong nhà nước đó giai cấp nào thống trị, giai cấp nào bị trị, nhà nước bảo vệ lợi ích của giai cấp nào thì mạng lợi ích của giai cấp đó. Trên cơ sở quan niệm chung đó, Hồ Chí Minh khẳng định: " Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công- nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo". Như vậy, nội hàm khái niệm " dân" ở Hồ Chí Minh mang nội dung xã hội, giai cấp với " cái lõi" của nó là công nhân , nông dân, trí thức. Mặt khác, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhà nước quyết định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây: - Tổ chức, hoạt động của Nhà nước Việt Nam theo các nguyên tắc phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước chuyên chính vô sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền tảng tư tưởng của nhà nước là học thuyết Mác-Lênin. Xa rời các nguyên lý này, Nhà nước sẽ biến chất, trở thành nhà nước của giai cấp khác và quyền lợi của nhân dân không được bảo đảm. - Nhà nước luôn luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Ở nước ta Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo trong tất cả các giai đoạn cách mạng. - Nhà nước được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ-một nguyên tắc tổ chức đặc thù của giai cấp công nhân : tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung; dân chủ càng mở rộng, tập trung càng cao độ. - Cơ sở xã hội của Nhà nước là khối đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công-nông-trí. - Nhà nước được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc: quyền lực Nhà nước là thống nhất, nhưng trong tổ chức, hoạt động có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. - Nhà nước điều hành, quản lý xã hội bằng pháp luật, mà pháp luật đó thể hiện ý chí, nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng lao động. Với các biểu hiện trên đây, ở nhà nước ta, bản chất giai cấp công nhân bao giờ cũng thống nhất chặt chẽ với tính nhân dân và tính dân tộc. 2- Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nƣớc là tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội. - Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là công cụ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, để thống trị lại số ít bóc lột và để thực hiện mục tiêu vĩ đại của mình là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đem lại quyền tự do, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động. - Do đó, chức năng Nhà nước không phải lấy trấn áp làm chủ yếu, mà ngược lại lấy tổ chức xây dựng là chủ yếu, thể hiện chức năng quản lý của Nhà nước là tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội, trên lĩnh vực kinh tế cũng như chính sách đối nội và đối ngoại... - Tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã nêu một cách cụ thể hơn về cơ cấu của một Nhà nước kiểu mới mà đại diện của nó là chính phủ công, nông,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề cương ôn tập tư tưởng Hồ Chí Minh
30 p | 4063 | 2049
-
Ôn tập tư tưởng Hồ Chí Minh
47 p | 1152 | 640
-
Đề cương ôn tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
46 p | 1265 | 577
-
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
52 p | 1063 | 337
-
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH DÙNG CHO CÁC LỚP ĐÀO TẠO ĐHTX
1 p | 1208 | 336
-
Đề cương ôn tập thi lý luận chính trị cuối khoá môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
28 p | 1070 | 256
-
Ôn tư tưởng Hồ Chí Minh
30 p | 553 | 226
-
Đề cương ôn tập thi lý luận chính trị cuối khóa môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
28 p | 761 | 219
-
Đề cương ôn tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
60 p | 770 | 177
-
Đề cương ôn tập trắc nghiệm môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
75 p | 996 | 166
-
Đề cương ôn thi tư tưởng Hồ Chí Minh
19 p | 506 | 150
-
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phần I
24 p | 430 | 145
-
Tài liệu Đề cương ôn tập tư tưởng Hồ Chí Minh
32 p | 352 | 101
-
Đề cương ôn tập môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh năm 2015
14 p | 372 | 77
-
Đề cương ôn tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh có lời giải
19 p | 407 | 47
-
Đề cương ôn tập tốt nghiệp môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
32 p | 245 | 40
-
Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh
19 p | 168 | 9
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn