intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Hoàn thiện chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội

Chia sẻ: Nguyễn Phi Nhung Nhung | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

200
lượt xem
76
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhu cầu thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phũng, an ninh, lợi ớch quốc gia và đầu tư xây dựng các công trỡnh cụng cộng, phỏt triển đô thị, các dự án sản xuất, kinh doanh là một tất yếu khỏch quan trong quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế- xó hội, đặc biệt đối với sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện hoá mà cả nước và Thủ đô Hà Nội đang tiến hành. Thực tế hiện nay cho thấy công tác giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất là một vấn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Hoàn thiện chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội

  1. …………..o0o………….. Đề tài: Hoàn thiện chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội
  2. lời nói đầu Nhu cầu thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phũng, an ninh, lợi ớch quốc gia và đầu tư xây dựng các công trỡnh cụng cộng, phỏt triển đô thị, các dự án sản xuất, kinh doanh là một tất yếu khỏch quan trong quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế- xó hội, đặc biệt đối với sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện hoá mà cả nước và Thủ đô Hà Nội đang tiến hành. Thực tế hiện nay cho thấy công tác giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất là một vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, tác động tới nhiều mặt của đời sống kinh tế -xó hội. Những năm qua, số lượng các dự án đầu tư ở cả khu vực nội thành và ngo ại thành Hà Nội đó tăng rất nhanh. Trong quá trỡnh thực hiện cỏc dự ỏn đầu tư thỡ giải phúng mặt bằng (GPMB) là một khâu quan trọng và có tính đặc thù, không những ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ đầu tư mà cũn liờn quan đến sự ổn định tỡnh hỡnh kinh tế, chớnh trị- xó hội của đất nước. Trong điều kiện quỹ đất cũng như các nguồn tài nguyên khác ngày càng hạn hẹp và nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thỡ vấn đề lợi ích về kinh tế của các tổ chức, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất và giao đ ất ngày càng được quan tâm hơn. V ỡ vậy, vấn đề bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đó và đang là một vấn đề mang tính thời sự cấp bách. Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng cũn là vấn đề phức tạp mang tính chất chính trị, kinh tế- xó hội tổng hợp, đũi hỏi được sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều cấp, tổ chức và cá nhân. Bồi thường thiệt hại về đất không chỉ thể hiện bản chất kinh tế các mối quan hệ về đất đai ( giữa Nhà nước với các tổ chức và cá nhân sử dụng đất, giữa các tổ chức kinh tế này với các tổ chức kinh tế khác và giữa cá nhân với nhau ), mà cũn thể hiện về cỏc mối quan hệ về chớnh trị, xó hội....Thực tế đó khẳng định công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thành phố trong những năm qua là điều kiện tiên quyết khi triển khai thực hiện Dự án. Trong thời gian qua, việc sử dụng đất để triển khai các dự án phát triển kinh tế- xó hội Thủ đô một mặt đem lại những lợi ớch rừ rệt về kinh tế, về hạ tầng đô thị, làm thay đổi chất lượng cuộc sống của người dân, song mặt khác cũng gây không ít khó khăn cho một bộ phận dân cư do bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất mà mất đi tư liệu sản xuất chính ,mất nguồn thu nhập và kế sinh nhai .Theo thống kê của các cơ quan nội chính, phần lớn các vụ khiếu kiện đông người trong năm qua là khiếu kiện về đất đai và bồi thường, giải phóng mặt bằng .Qua đó cũng đủ thấy vấn đề bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội là một vấn đề cực kỳ phức tạp và đặt ra nhiều thử thách. Để làm giảm những mâu thuẫn nêu trên, Thành phố H à Nội đó cú rất nhiều cố gắng trong việc cải thiện cỏc chớnh sỏch về bồi thường thiệt hại cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển
  3. kinh tế- xó hội Thủ đô. Tuy nhiên, mặc dù đó cú nhiều tiến bộ, cỏc chớnh sỏch này cũng vẫn cũn cú những bất cập, hạn chế nhất định, nhất là mức giá bồi thường thiệt hại và việc khôi phục mức sống cho các hộ dân bị di chuyển đến nơi ở mới, hoặc mất nguồn thu nhập chính do phải di chuyển, giải phóng mặt bằng. Xuất phát từ thực tế trên, để góp phần hoàn thiện các chính sách về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa b àn Thành phố Hà Nội, em mạnh dạn xin được thực hiện nghiên cứu đề tài “ Hoàn thiện chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa b àn Thành phố Hà Nội. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: Đề tài là công trỡnh khoa học nghiờn cưú một cách toàn diện và có hệ thống về hệ thống các chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa b àn Thành phố Hà Nội và đ ề xuất hướng hoàn thiện chính sách kèm theo các giải pháp thực hiện. Kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm góp phần đẩy nhanh quá trỡnh cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá Thủ đô, để Hà Nội ngày càng văn minh , giàu đẹp, sánh vai với các Thủ đô lớn trong khu vực và trên thế giới; Góp phần hoàn thiện chính sách, phương thức bồi thường thiệt hại của UBND Thành phố khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố;Góp phần hạn chế, giải toả những bức xúc về khiếu kiện của công dân bị thiệt hại do phải giải toả mặt bằng, bàn giao đất để triển khai các Dự án trên địa bàn. Mục đích nghiên cứu đề tài: Đề tài được hoàn thành với hai mục tiêu cơ bản là : - Đánh giá những ưu điểm và hạn chế của từng hệ thống chính sách mà UBND Thành phố Hà Nội áp dụng. - Đề xuất hướng hoàn thiện những hệ thống chính sách đó trên cơ sở phù hợp Hiến pháp và các quy định khác của pháp luật hiện hành. Đối tượng và phạm vi nghiờn cứu: Nghiên cứu toàn bộ văn bản chính sách có liên quan mà UBND Thành phố Hà Nội đó từng ỏp dụng về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trước và sau khi có Hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai ngày 14/7/1993 ( Chủ yếu là các chính sách ban hành sau khi có luật Đất đai 1993 đến nay ). Phương pháp nghiên cứu đề tài:
  4. Trong quỏ trỡnh nghiờn cứu đề tài có sử dụng phương pháp thống kê để thu thập, sử lý cỏc thụng tin cũng như các số liệu, tài liệu thu thập được. Cùng với việc thu thập thông tin đề tài đó sử dụng phương pháp phân tích đánh giá tổng hợp để rút ra những kết luận cần thiết. Kết hợp với phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đề tài đó nghiờn cứu vấn đề một cách toàn diện, và có sự kết nối theo thời gian, mục đích và có sự quan sát ở nhiều khía cạnh của vấn đề cần nghiên cứu. Nội dung nghiên cứu của đề tài: Đề tài đó tập trung nghiờn cứu nội dung chớnh sỏch bồi thường thiệt hại, tái đ ịnh cư của Nhà nước và Thành phố Hà Nội đang áp dụng thực hiện trong những năm qua. Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về bồi thường thiệt hại Giải phóng mặt bằng . Chương II : Tỡnh hỡnh thực hiện chớnh sỏch bồi thường thiệt hại trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Chương III: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách bồi thường, Giải phóng mặt bằng , tái định cư trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
  5. MỤC LỤC Lời nói đầu 1 chương i cơ sở lý luận về cụng tỏc bồi thường thiệt hạigiải phúng mặt bằng 5 I. Định nghĩa về đền bù thiệt hại. 5 1. Đ ền bù thiệt hại 5 2. Đ ền bù thiệt hại 6 3. Sự cần thiết phải đền bù thiệt hại khi Giải phóng mặt bằng . 6 4. Vai trò của chính sách đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. 9 5. Tình hình chung về công tác đền bù thiệt hại, tái định cư, ổn định cuộc sống cho người bị ảnh hưởng. 10 II. Các chính sách của nhà nước về đền bù thiệt hại cho người bị thu hồi đất khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. 13 1.V ề đối tượng phải đền bù. 14 2. V ề đối tượng được đền bù 15 3. V ề phạm vi áp dụng chính sách 15 4. V ề mức đền bù thiệt hại 17 5. V ề đền bù thiệt hại mồ mả. 22 6. V ề đền bù thiệt hại hoa màu 22 7. V ề đền bù thiệt hại về tài sản về nhà cửa, công trình kiến trúc 23 8. V ề mức giá đền bù thiệt hại 25 9. V ề chính sách hỗ trợ 29 10. Trình tự, thủ tục bồi thường thiệt hại, tái định cư. 30 11. Chính sách lập khu tái định cư. 3 1 III. Một số tham khảo từ các chính sách của các quốc gia lân cận và các ngân hàng q uốc tế cho việt nam vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại việt nam. 33 1. Tại Thái Lan. 34 2. Tại Trung Quốc. 34 3. Chính sách của ngân hàng thế giới về GPMB đối với các dự án cho Việt Nam vay vốn để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật. 36 Chương II. Thực trạng việc thực hiện các chính sách về đền bù thiệt hại trên địa bàn thành phố hà nội 41 I. Đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của thủ đô hà nội 41 1. V ề điều kiện tự nhiên- tài nguyên thiên nhiên. 4 1 2. V ề kinh tế- xã hội 42 II. Về công tác quản lý đất đai và đ ền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư trên đ ịa bàn Thành phố H à Nội. 44 1. Trước khi có Luật đất đai 1993. 44 2. Sau khi có luật đất đai 1993. 45 III. Thực trạng việc thực hiện chính sách bồi thường thiệt hại khi nhà nước
  6. thu hồi đất trên địa b àn thành phố hà nội 47 1. Chính sách đền bù về đất. 47 2. V ề chính sách đền bù thiệt hại tài sản trên đất. 57 2.1 Về nhà cửa và công trình kiến trúc 57 2.2 Về chính sách đền bù thiệt hại hoa màu. 60 2.3 Về chính sách đền bù mồ mả 62 2.4. Chính sách hỗ trợ 64 2.5 Về chính sách giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp bị thu hồi đất 70 2.6 Về chính sách tái định cư. 71 3. Một số kết quả đật đ ược trong công tác đền bù thiệt hại GPMB và Tái định cư ở H à Nội từ khi
  7. chương i cơ sở lý luận về cụng tỏc bồi thường thiệt hạigiải phúng mặt bằng Để tiến hành thực hiện các Dự án phát triển đất nước đũi hỏi phải có đất đai làm mặt bằng thực hiện dự án. Như chúng ta đó biết đất đai là tài nguyên vô cùng quý giỏ của mỗi quốc gia, là điều kiện sinh tồn và phát triển của mọi sinh vật trên trái đất trong đó có con người. Đối với hoạt động kinh tế , đất đai là nguyên liệu đầu vào không thể thiếu được. Đối với nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế được.Đối với các ngành khác như công nghiệp, xây dựng, dịch vụ.... đất đai là nơi đ ặt trụ sở, là điểm đứng chân, là nơi cung cấp nguyên liệu...để tiến hành những thao tác, những hoạt động sản xuất kinh doanh. Để chuẩn bị cho các dự án đầu tư phát triển thỡ việc thu hồi đất đó giao cho người sử dụng ổn định và lâu dài là vấn đề không tránh khỏi và gây lên những tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống kinh tế- xó hội. Do vậy để đảm bảo công bằng xó hội và đảm bảo cuộc sống cho người sử dụng đất, thỡ khi Nhà nước thu hồi đất, phải thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại về mọi mặt có liên quan b ị ảnh hưởng, cho người bị thu hồi đất. I.khỏi niệm, vai trũ của cụng tỏc bồi thường thiệt hại 1. Khái niệm về bồi thường thiệt hại. Bồi thườngthiệt hại có nghĩa là trả lại tương x ứng giá trị hoặc công lao cho một chủ thể nào đó bị thiệt hại vỡ một hành vi của chủ thể khỏc .Việc bồi thường thiệt hại này cú thể vụ hỡnh ( xin lỗi) hoặc hữu hỡnh ( bồi thường bằng tiền, bằng vật chất khác....), có thể do các quy định của pháp luật điều tiết, hoặc do thoả thuận giữa các chủ thể. Bồi thường thiệt hại Giải phóng mặt bằng có thể được hiểu là việc chi trả, bù đắp, những tổn thất về đất đai, những chi phí tháo dỡ, di chuyển nhà cửa, vật kiến trúc, công trỡnh hạ tầng kỹ thuật, cõy cối, hoa màu, mồ mả và chi phớ để ổn định đời sống sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp cho người sử dụng đất đai, sở hữu tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phũng, an ninh, lợi ớch quốc gia, lợi ớch cụng cộng. Vỡ vậy bồi thường thiệt hại cho người bị thu hồi đất không chỉ là bồi thường thiệt hại về đất mà cũn bồi thường thiệt hại cả về tài sản gắn liền trên đất.
  8. Về bản chất của bồi thường thiệt hại Giải phóng mặt bằng, là việc bồi thường thiệt hại những tổn thất cho người đang sử dụng đất do việc Nhà nước có Quyết định thay đổi chức năng hay mục đích sử dụng của các loại đất. 2. Sự cần thiết phải bồi thường thiệt hại khi Giải phóng mặt bằng . Xét về nguồn gốc đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động. Trong quỏ trỡnh phỏt triển của xó hội, đất đai được sử dụng nhằm mục đích phục vụ sự tồn tại và phát triển của xó hội loài người. Nờn đất đai không thuộc sở hữu của riêng một ai mà là của toàn xó hội. Quỹ đất đai của nước ta ngày nay là thành quả của việc khai hoá bồi bổ, cải tạo và bảo vệ của bao nhiêu thế hệ. Do đó đất đai thuộc sở hữu toàn dân , Nhà nước là người đại diện thống nhất quản lý. Quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quyền sở hữu toàn dân thể hiện đó là quyền sở hữu về mặt pháp lý ( Nhà nước đề ra và quy định trách nhiệm của mỡnh cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng đất). Cỏc tổ chức, hộ gia đỡnh, cỏ nhõn được giao quyền sử dụng đất thực tế và phải thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt xét trên cả phương diện tự nhiên, kinh tế- xó hội. Vỡ vậy, Nhà nước phải nắm quyền sử dụng đất đai về mặt phỏp lý, nắm quyền quản lý và quyền sở hữu đất đai. Nhà nước phải xây dựng chế độ sở hữu đất đai cho phù hợp với lợi ích của toàn xó hội nhằm trỏnh tỡnh trạng đất đai bỏ hoang hoá vô chủ, sử dụng lóng phớ, khụng hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đỡnh và cỏ nhõn từ đó đảm bảo đất đai có chủ sử dụng thật sự và cụ thể. Nhà nước giao quyền quản lý đất đai đồng thời đ ưa ra những quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể về quản lý và sử dụng đất đai. Theo điều 1 Luật đất đai năm 1993 viết “ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đỡnh, cỏ nhõn sử dụng ổn định lâu dài. Nhà nước cũn cho tổ chức, hộ gia đỡnh, cỏ nhõn thuờ đất”. Điều 2 viết: “ Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người làm nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có đất để sản xuất.” N hằm phát huy tốt hơn chức năng quản lý đất đai theo cơ chế mới, phù hợp với điều kiện mới của sự phỏt triển kinh tế - xó hội trong cơ chế thị trường, ổn định tỡnh hỡnh đất đai vốn rất phức tạp do lịch sử để lại. Luật đất đai cũng quy định khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phũng, an ninh, lợi ớch quốc gia, lợi ớch cụng cộng Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều 3 Luật đất đai có nêu việc nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, đồng thời quy định các quyền của người sử dụng đất đối với thửa đất mà mỡnh đang quản lý, sử dụng.
  9. Tại các Điều 73 và 79 Luật đất đai quy định cụ thể, chi tiết về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, một trong những quyền và nghĩa vụ là được Nhà nước bảo vệ khi bị người khác sâm phạm đến quyền sủ dụng đất hợp pháp của mỡnh, được bồi thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi. Như vậy, Luật đất đai năm 1993 đó quy định rừ quyền và lợi ớch của người sử dụng đất cũng như trách nhiệm của Nhà nước khi thu hồi đất. Đất đai có vai trũ vụ cựng quan trọng đối với xó hội loài người, nó là điều kiện cho sự sống của động vật, thực vật và con người trên trái đ ất. Nó là cơ sở của làng mạc, thành phố, các công trỡnh cụng nghiệp, hệ thống giao thông. Là chỗ dựa, là nền tảng để xây dựng nhà cửa, các công trỡnh kiến trỳc và để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ cho đời sống con người. Đất đai cung cấp nguyên liệu, sản phẩm từ đất cho hoạt động sản xuất và đ ời sống con người. Nó là tư liệu sản xuất đặc biệt đối với ngành nông nghiệp, không thể thay thế được. Nó không chỉ là chỗ đứng, chỗ dựa để lao động, là nguồn cung cấp thức ăn cho cây trồng mà cũn là nơi chuyển dần hầu hết các tác động của con người vào cây trồng. Qua phân tích trên, có thể nói rằng đất đai là tài sản vô cùng quý giỏ của mỗi quốc gia, mỗi cỏ nhõn trong quần thể xó hội. Nú là nơi để xây dựng các công trỡnh kiến trỳc phục vụ cỏc nhu cầu và lơị ích thiết thực của con người. Do đó Nhà nước quy định các quyền và lợi ích của người sử dụng đất đai cũng như trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất của Nhà nước đảm bảo mọi người đều có đất để sống và đ ể sản xuất là điều kiện hết sức đúng đắn. Pháp lệnh nhà ở ngày 26/3/1991 đó quy đ ịnh: Công dân thực hiện quyền cú nhà ở bằng việc tạo lập hợp phỏp nhà ở cho mỡnh hoặc thuờ nhà ở của chủ sở hữu khỏc theo quy định của pháp luật. Nhà nước công nhận và bảo vệ quyền sở hữu nhà ở của các cá nhân và các chủ sở hữu khác. Nhà ở cũnglà một trong những loại tài sản vụ cựng quý giỏ của mỗi con người. Nhà ở là nơi để mỗi con người đi về nghỉ ngơi, tránh nắng, mưa, bóo là nơi làm việc, tiến hành sản xuất của cải vật chất, tái sản xuất sức lao động. Để xây dựng nhà cần một kho ản tiền lớn, tốn kém nhiều công sức, hơn nữa nhà đất thường gắn liền với nhau nên khi Nhà nước thu hồi đất đồng thời thu hồi cả nhà trên đất đó. Vỡ vậy, cụng tỏc bồi thường thiệt hại cho người sở hữu nhà ở là một tất yếu. Mặt khác bằng những quy định của mỡnh, Nhà nước xác định tính hợp pháp của đất đai và nhà ở, từ đó làm căn cứ xét bồi thường thiệt hại tránh tỡnh trạng bồi thường sai, thiếu gây lóng phớ tiền của của nhõn dõn. 3. Vai trũ của chớnh sỏch bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Chính sách bồi thường thiệt hại là cơ sở pháp lý, là khuụn mẫu để khi Nhà nước thu hồi đất, các cơ quan thực hiện việc bồi thường thiệt hại căn cứ vào đó để xác định đối tượng được bồi thường, không được bồi thường, tính mức bồi thường, giá bồi thường và các biện pháp hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ
  10. chi phí tháo d ỡ di chuyển, chi phí ổn định sản xuất và đời sống của người dân trong vùng di dời.... Để công tác bồi thường thiệt hại GPMB được thực hiện nhanh, chính xác và hiệu quả đũi hỏi phải cú một hệ thống chớnh sỏch thật đúng đắn, thống nhất và đồng bộ đồng thời phải ổn định, phải cụ thể, phải công khai cho mọi người biết để họ hiểu và tự giác thực hiện. Ngược lại nếu không làm tốt các khâu trên thỡ chắc chắn cụng tỏc bồi thường thiệt hại GPMB sẽ gặp nhiều khó khăn vướng mắc và không thể thực hiện được . Chính sách bồi thường thiệt hại, thực chất là những quy định của Nhà nước về bồi thường thiệt hại như : đối tượng được bồi thường, đối tượng phải bồi thường, mức bồi thường, tổ chức thực hiện. Như vậy, chính sách của Nhà nước liên quan đến bồi thường thiệt hại tác động trực tiếp lên lợi ích kinh tế về đất đai,nhà cửa của các b ên bao gồm : tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất (chủ đầu tư , đối tượng phải bồi thường), người sử dụng đất và Nhà nước. Do đó nó mang tính chất quyết định đối với công tác bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng và tái định cư. Một chính sách thoả đáng, phù hợp với lợi ích kinh tế của các đối tác thỡ cụng tỏc này mới thỳc đẩy được tiến độ thực hiện các dự án cũng như sự phát triển của xó hội khi được đầu tư cơ sở hạ tầng mới. Chính sách bồi thường thiệt cũn là căn cứ để giải quyết các vướng mắc, khiếu kiện trong nhân dân, là thước đo phản ánh trỡnh độ phát triển của xó hội thụng qua một loạt cỏc quy định của Nhà nước nhằm đáp ứng thoả món cả ba lợi ớch, lợi ớch của Nhà nước, lợi ích của chủ đầu tư và lợi ích của người bị thu hồi đất. II. các chính sách của nhà nước về bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích an ninh, quốc phũng, lợi ớch quốc gia, lợi ớch cụng cộng. Trờn thực tế, cỏc chớnh sách liên quan đến vấn đề thu hồi đất cho các dự án phát triển đó được Đảng và Nhà nước quan tâm từ rất sớm, được thể chế hoá bằng các văn bản pháp luật và liên tục được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xó hội đất nước. Những quy định áp dụng khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phũng, an ninh, lợi ớch quốc gia, lợi ớch cụng cộng nằm ở nhiều điều khoản, trong các văn bản pháp luật khác nhau. Những văn bản riêng và quy định cụ thể việc bồi thường ( bồi thường ) thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất cũng đó được ban hành. Về hỡnh thức văn bản: những văn bản có nội dung quy định trực tiếp hoặc có liên quan đ ến vấn đề thu hồi đất, Giải phóng mặt bằng gồm rất nhiều loại, với tính chất pháp lý khác nhau, từ văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp cho đến các bộ luật, các văn bản pháp quy của Chính phủ, các văn bản của các Bộ, Ngành và các văn bản do Thành phố Hà Nội ban hành.
  11. 1.Về đối tượng phải bồi thường. Nghị định 151/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/4/1959 là văn bản pháp quy đầu tiên quy định về việc trưng dụng đất, và thời kỳ này chủ yếu là các công trỡnh của Nhà nước do vậy đối tượng phải bồ i thường thiệt hại là Nhà nước. Trải qua thời gian, Chính phủ đó ban hành rất nhiều cỏc Nghị định để thay thế bổ sung, nhưng cho đến Nghị định 22/1998/NĐ-CP mới có bổ sung thêm đối tượng phải bồi thường thiệt hại là các tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất và cho thuê đất. Cho đến nay đối tượng phải thực hiện trách nhiệm bồi thường vẫn là Nhà nước (đối với các dự án phục vụ lợi ích an ninh, quốc phũng, lợi ớch quốc gia, lợi ớch cụng cộng) và cỏc đối tượng được Nhà nước giao đất và cho thuê đất (đối với các dự án phục vụ lợi ích kinh tế xó hội phỏt triển đất nước. 2. V ề đối tượng được bồi thường Đối tượng được bồi thường thiệt hại được quy định cụ thể tại điều 6 của Nghị định 22/CP .Các trường hợp sử dụng đất và tài sản hợp pháp khi bị Nhà nước thu hồi sẽ được hưởng chính sách bồi thường. Các trường hợp sử dụng đất hợp pháp phải là một trong những người có giấy tờ theo quy định như : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, có quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, hoặc có giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.... Ngoài trường hợp có các loại giấy tờ chứng minh về tính hợp pháp, đối tượng được bồi thường cũn là cỏc đối tượng sử dụng đất ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm 1993. Phạm vi bồi thường thiệt hại được quy định gồm bồi thường thiệt hại về đất và bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất. 3. Chính sách bồi thường về đất. Văn bản pháp quy đầu tiên là Nghị định 151/TTg ngày 14/4/1959 quy định nguyên tắc cơ bản nhất đ ược thừa nhận khi trưng dụng ruộng đất là chiếu cố đúng mức quyền lợi và đ ời sống của người có ruộng đất trên cơ sở bồi thường và giúp giải quyết công ăn việc làm. Việc bồi thường được thực hiện bằng hỡnh thức “ Đất đổi đất” hoặc bằng tiền bằng 1- 4 năm sản lượng thường niên của đất trưng dụng. Có thể nói, những nguyên tắc cơ bản của việc bồi thường thiệt hại trong Nghị định 151/TTg là rất đúng đắn, đáp ứng nhu cầu trưng dụng đất đai trong những năm 1960. Tuy nhiên, Nghị đinh chưa quy định cụ thể mức bồi thường thiệt hại mà chủ yếu dựa vào sự thoả thuận giữa các bên. Ngày 11/01/1970, Phủ Thủ tướng ban hành Thông tư số 1792/TTg “quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lưu niên, các hoa màu do nhân dân
  12. ở những vùng xây dựng kinh tế, mở rộng thành phố”. Trên nguyên tắc “phải đảm bảo thoả đáng quyền lợi kinh tế của hợp tác xó và của nhõn dân’’. Đây thực sự là bước chuyển trong nhận thức đối với người bị ảnh hưởng. Ngoài ra, Thông tư này đó quy đinh rừ mức bồi thường thiệt hại về nhà ở, cây cối hoa màu, ví d ụ đất đai vùng đồng bằng chia làm 4 loại, vùng trung du, đồi núi chia làm 5 loại, mỗi loại lại có mức giá tối đa và tối thiểu. Đối với nhà cửa thỡ căn cứ giái trị sử dụng, diện tích mà đ ịnh giá bồi thường.... Luật đất đai năm 1988 tuy không quy định cụ thể việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng tại phần nghĩa vụ của người sử dụng đất (Điều 48): “Bồi thường thiệt hại thực tế cho người đang sử dụng đất bị thu hồi để giao cho mỡnh, bồi hoàn thành quả lao động và kết quả đầu tư đó làm tăng giá trị đất theo quy định của pháp luật”. Những văn bản trên đó cú vai trũ to lớn trong quỏ trỡnh Nhà nước thu hồi đất vào mục đích phát triển kinh tế- xó hội trong những năm chiến tranh và giai đoạn khôi phục kinh tế sau khi đó thống nhất đất nước. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ đổi mới, trước những yêu cầu phát triển ngày càng lớn, nhu cầu sử dụng đất tăng cao, không chỉ là đất nông nghiệp, lâm nghiệp cho phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị, mà ngay cả đất đô thị cũng cần được thu hồi để mở rộng giao thông, phát triển hạ tầng, đáp ứng đũi hỏi quỏ trỡnh hiện đại hoá đô thị và phát triển bền vững kinh tế- xó hội. Bởi vậy yờu cầu đặt ra là phải có khung pháp lý cao hơn, với phạm vi điều chỉnh rộng hơn phù hợp với các đối tượng đa dạng hơn, nội dung cụ thể hơn và quan trọng hơn cả là thích ứng với thực tiễn. Hiến pháp 1992 đó cụng nhận và bảo vệ quyền sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân và quyền sở hữu cá nhân về tài sản và sản xuất cụ thể: Tại Điều 17, Hiến pháp quy định về quyền sở hữu đối với đất đai: “ Đ ất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lũng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời.... đều thuộc sở hữu toàn dân”. Tại điều 58, Hiến pháp quy định về quyền sở hữu cá nhân: “ Công dân có quyền sở hữu thu nhập hợp pháp, của cải để d ành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất....Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp phỏp và quyền thừa kế của cụng dõn”. Luật đất đai 1993 đó cụ thể hoỏ cỏc quy định của Hiến pháp 1992 về đất đai thông qua việc giao đất, cho thuê đ ất, chế độ quản lý, sử dụng đúng mục đích, xác định thời hạn giao đất, cho thuê đất, thẩm quyền thu hồi và giao, cho thuê đất; hạn mức sử dụng các loại đất và quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sử dụng đất. Luật đất đai 1993 thực sự là văn bản quan trọng đối với quyền sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất và bồi thường đất đai, tài sản gắn liền với đất.
  13. Để tạo điều kiện cho người dân yên tâm sử dụng đất và đầu tư nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tại Điều 3 Luật đất đai có nêu việc Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, đồng thời quy định các quyền của người sử dụng đất đối với thửa đất mà mỡnh đang quản lý, sử dụng. Tại các Điều 73 và 79 Luật đất đai quy định cụ thể, chi tiết về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, một trong những quyền và nghĩa vụ là được Nhà nước bảo vệ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mỡnh, được bồi thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi; Bồi thường cho người có đất bị thu hồi để giao cho mỡnh và giao lại cho Nhà nước khi có quyết đinh thu hồi. Như vậy, đất đai từ chỗ là sở hữu toàn dân, với quyền sử dụng thuộc Nhà nước hoặc tập thể thỡ nay quyền sử dụng đất cũn được trao cho hộ gia đỡnh, cỏ nhõn sử dụng ổn định, lâu dài. Quyền sử dụng đất được nới rộng gồm cả quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp. Tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định có quy định về giá đất ở khi chuyển quyền sử dụng , khi thực hiện bán nhà theo Nghị định 61/CP, là 40% (đối với nhà một tầng, hoặc nhà nhiều tầng một hộ ở) và 10% ( đối với nhà ở nhiều tầng, nhiều hộ ở), so với khung giá các loại đất do UBND tỉnh, Thành phố ban hành theo khung giá do Nhà nước quy định. Đối với mức diện tích đất ở khi thực hiện bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước và khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các trường hợp không có giấy tờ hợp pháp, hợp lệ về quyền sử dụng đất, căn cứ Nghị quyết của HĐND Thành phố số 76/1998/NQ-HĐ, ngày 23/7/1998, UBND Thành phố ban hành Quyết định số 61/1998/QĐ-UB ngày 04/11/1998, là 120m2/hộ (đối với các loại đất thuộc 4 quận nội thành cũ, từ vành đai 2 trở vào trung tâm); 180m2/hộ (đối với đất từ vành đai 2 trở ra). Đối với diện tích đất cũn lại trong khuụn viờn nhà thanh lý, hoỏ giỏ, thỡ phải nộp 40% tiền sử dụng đất, nếu nằm trong hạn mức đất ở (bao gồm cả diện tích đất gắn liền với nhà thanh lý, hoỏ giỏ và diện tớch trong khuụn viờn cũn lại); phải nộp 100% tiền sử dụng đất đối với diện tích đất vượt hạn mức đất ở. Đối với đất gắn liền với nhà ở nhiều tầng, nhiều hộ ở thỡ phải nộp 10% tiền sử dụng đất và được phân bổ vào tiền nhà (gọi chung là tiền bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước ) cho cac tầng theo hệ số phân bổ theo từng tầng, cao nhất là 0,7 (đối với tầng 1) và thấp nhất là 0,02 (đối với tầng 5). Đối với đất của nhà 1 tầng, nhà ở nhiều tầng 1 hộ ở, nhà ở nhiều tầng có phân chia được diện tích đất sử dụng riêng biệt của từng hộ, nhà biệt thự (kể cả biệt thự nhiều tầng, nhiều hộ ở) phải nộp 40% tiền sử dụng đất đối với diện tích đất trong hạn mức đất ở; phải nộp 100% tiền sử dụng đất đối với diện tích đất vượt hạn mức đất ở .
  14. Như vậy, đối với các trường hợp trên, UBND Thành phố đó vận dụng thực hiện theo hướng : Nếu bị thu hồi đất thỡ việc bồi thường thiệt hại về đất sẽ là 60% tiền sử dụng đất (đối với phần đất nằm trong hạn mức giao đất nêu trên, vỡ nếu được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chủ hộ phải nộp 40% tiền sử dụng đất); đối với phần cũn lại khụng được bồi thường, vỡ nếu được chuyển mục đích sử dụng đất thỡ phần này phải nộp 100% tiền sử dụng đất. Nghị định số 45/CP ngày 03/8/1996 bổ sung Điều 10 Nghị định số 60/CP về miễn giảm tiền phải nộp khi nhận giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở đô thị : -Đất đó được sử dụng làm đất ở ổn định trước ngày 18/12/1980 (ngày ban hành Hiến pháp năm 1980) không có đủ giấy tờ hợp lệ, nay xét phù hợp với quy hoạch, không có tranh chấp và được UBND phường xác nhận thỡ được xét cấp GCN QSD đất ở đô thi khụng phải nộp tiền. - Trường hợp đất đó được sử dụng làm đ ất ở ổn định từ ngày 18/12/1980 đến ngày 15/10/1993 (ngày Luật đất đai có hiệu lực) thỡ phải nộp 20% tiền sử dụng đất. - Trường hợp sử dụng làm đất ở sau ngày 15/10/1993 thỡ phải nộp 100% tiền sử dụng đất. Chính sách này đó được UBND Thành phố vận dụng trong việc tính tiền bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đối với các chủ sử dụng đất nằm trong các trường hợp nêu trên, cụ thể : - Đối với các chủ sử dụng đất ở ổn định trước ngày 18/12/1980 (ngày ban hành Hiến pháp 1980) không có đủ giấy tờ hợp lệ, không có tranh chấp, được UBND phường xác nhận, khi Nhà nước thu hồi đất sẽ được bồi thường thiệt hại 100% giá đ ất (vỡ nếu được cấp giấy chứng nhận QSD đất, chủ sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất.) - Đối với chủ sử dụng đất ở ổn định từ ngày 18/12/1980 đến ngày 15/10/1993, dược UBND phường xác nhận, kh nhà nước thu hồi đất sẽ được bồi thường thiệt hại 80% giá đất (vỡ nếu được cấp GCN QSD đất, chủ sử dụng đất phải nộp 20% tiền sử dụng đất) - Đối với các chủ sử dụng đất ở sau ngày 15/10/1993, khi Nhà nước thu hồi đất sẽ không được bồi thường thiệt hại về đất (vỡ nếu được cấp GCNQSD đất, chủ sử dụng đất phải nộp 100% tiền sử dụng đất.)chỉ được hỗ trợ di chuyển. Tại Nghị định số 90/CP thể hiện chủ trương bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng, cùng hạng để thay thế, hoặc bồi thường thiệt hại bằng tiền theo giá đất cùng mục đích sử dụng. Trên cơ sở kế thừa các chính sách trước đây và có bổ sung cho hoàn chỉnh phù hợp với thực tế,
  15. V ề mức giá bồi thường thiệt hại. H iện phương thức để tính giá đất bồi thường là theo khung giá quy định và nhân với hệ số K làm sao cho sát với giá thị chuyển nhượng thực tế càng tốt. V ề khung giá các loại đất để áp dụng khi bồi thường thiệt hại về đất, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất, Chính phủ quy định tại Nghị định số 87/CP ngày 17/8/1994, điều 4 của Nghị định quy định:Căn cứ bảng khung giá của Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố quy định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất và bồi thường thiệt hại về đất khi Nhà nước thu hồi.Việc định giá đất phải căn cứ vào khung giá và giá đất thực tế ở địa phương, được hỡnh thành qua chuyển nhượng quyền sử dụng đất, căn cứ vào hạng đất, loại đất, vị trí đất, loại đường phố, khu vực thành thị, khu vực nụng thụn... Do giá đất phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là nhu cầu sử dụng đất của xó hội ngày càng nhiều, nờn giỏ đất có thể tăng lên theo từng thời điểm. Chính vỡ lẽ đó, nên khi lập phương án bồi thường thiệt hại chúng ta phải có thêm hệ số K đ iều chỉnh để phù hợp với tỡnh hỡnh thực tế, cụ thể như sau : a. Trong trường hợp cùng một loại đô thị mà đất có khả năng sinh lợi khác nhau, mức độ hoàn thiện cơ sở khác nhau, thỡ địa phương được phép vận dụng hệ số (K) điều chỉnh khung giá từ 0,8 đến 1,2 lần mức giá của cùng loại đô thị, cùng lo ại đường phố và vị trí đất quy định trong bảng khung giá đất đô thị. Hệ số (K) đó đ ược điều chỉnh lại tại Quyết định số 302/TTg ngày 13/5/1996 là từ 0,5 đến 1,8 lần. b. Giá các loại đất do địa phương quy đ ịnh không được thấp hơn giá tối thiểu và không được cao hơn giá tối đa của khung giá và hệ số điều chỉnh....’’ c. Trường hợp giao đất theo hỡnh thức đấu giá, thỡ giỏ đất do UBND cấp tỉnh quy định cho từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, Quyết định số302/TTg mới chỉ quy định được điều chỉnh khung giá đất đô thị, đối với các loại đất khác, giá cả cũng có sự biến động mà khung giá đất không được điều chỉnh phù hợp, kịp thời, kể cả đất đô thị. Do đó, ngày 21/3/1998, Chính phủ đó ban hành nghị định số 17/1998/NĐ - CP về việc sửa đổi, bổ sung khoản 2, Điều 4 của Nghị định số 87/CP ngày 17/8/1994: “ Giá các loại đất do địa phương quy định có thể thấp hơn giá tối thiểu hoặc cao hơn giá tối đa cho của khung giá các loại đất ban hành kèm theo Nghị định số 87/CP ngày 18/8/1994 của Chính phủ và hệ số (K) đó được điều chỉnh tại Quyết định số302/TTg ngày 13/5/1996 của Thủ tướng Chính phủ, nhưng giảm hoặc tăng giá không vượt quá 50%.”
  16. Như vậy là sau khi ban hành Nghị định 17/CP thỡ Bộ Tài chớnh cú Thụng tư 145/TT-BTC hướng dẫn cụ thể việc tớnh hệ số K. Căn cứ để xác định hệ số K; hệ số K để xác định giá đất tính tiền bồi thường thiệt hại do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định cho từng dự án theo đề nghị của Giám đốc Sở tài chính- Vật giá có sự tham gia của các ngành liên quan. Có 3 phương pháp xác đ ịnh hệ số K: + Phương pháp xác định hệ số K theo khả năng sinh lợi. Giá đất theo khả năng sinh lợi = Thu nhập/ Lói suất ngõn hàng Nhà nước (%/năm) không kỳ hạn Hệ số K = Giá đất theo khả năng sinh lời / Giá đất do UBND tỉnh ban hành theo khung giá đất do Chính phủ quy định. + Hệ số K được xác định theo hệ tỉ lệ giữa giá chuyển nhượng đất thực tế với giá đất do UBND tỉnh quy định. Hệ số K = Giá chuyển quyền sử dụng đất thực tế ở địa phương / Giá đất do UBND tỉnh quy định theo khung giá đất do chính phủ quy định. + Xác đ ịnh hệ số K và giá đất bồi thường cho một số trường hợp đặc biệt . * Đối với đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất làm muối, đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản thỡ giỏ đất bồi thường thiệt hại bằng giá đất tính theo khả năng sinh lợi cộng thêm một khoản tiền tối đa bằng 60% phần chênh lệch giữa giá đất tính theo giá chuyển quyền sử dụng đất và giá đất theo khả năng sinh lợi. * Đối với đất ở những nơi m ới đô thị hoá; trong đó có đất nông nghiệp, lâm nghiệp thỡ được bồi thường theo mức đất nông nghiệp cộng thêm một kho ản tối đa bằng 30% phần chênh lệch giữa giá đất bồi thường cho đất ở khuôn viên với giá bồi thường đất nông nghiệp. * Đất nông nghiệp trong đô thị được bồi thường theo giá đất nông nghiệp và cộng thêm một khoản tiền tối đa bằng 30% phần chênh lệch giữa giá bồi thường cho đất ở trong đô thị của khu đất liền kề với giá đất bồi thường đất nụng nghiệp. Nhờ những quy định về hệ số K mà công tác bồi thường được thực hiện sát giá với thực tế hơn. Nhưng trong thời gian tới ngoài việc sửa đổi các quy định về khung giá của Nhà nước, thỡ việc phải thực hiện ngay là phải hỡnh
  17. thành cỏc tổ chức định giá đất đai và tài sản trên đất, để giá đất được trở về đúng nghĩa của nó, tức là theo giá thị trường, nhằm hạn chế bớt thiệt hại cho người bị thu hồi đất, tránh được tỡnh trạng khiếu kiện kộo dài. Hiện nay khung giỏ của Nhà nước quy định đó quỏ lỗi thời, không đáp ứng được thực tế, nhiều nơi giá đất cũn quỏ thấp so với thực tế. 4. chính sách bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất. 4.1 Về bồi thường thiệt hại mồ mả. Giai đoạn đầu khi thực hiện thu hồi đất (Nghị định 151/TTg) thỡ mồ mả được căn cứ vào tỡnh hỡnh cụ thể phong tục tập quỏn của địa phương mà giúp họ số tiền thích đáng làm phí tổn di chuyển. Chính sách này đó được áp dụng trong suốt quá trỡnh Nhà nước thu hồi đất trước năm 1998 và cũng được nhân dân đồng tỡnh ủng hộ, đến những năm gần đây nhu cầu sử dụng đất tăng nhanh, đ ất đai bị thu hẹp, có nhiều khoản chi phí phát sinh nên để phù hợp với tỡnh hỡnh thực tế, Nghị định 22/CP đó quy định đối với việc di chuyển mồ mả, mức bồi thường được tính cho chi phí về đất đai, đào bốc, xây dựng lại và các chi phớ hợp lý khỏc cú liờn quan trực tiếp, cú thể núi đây là một bước tiến mới, vỡ chớnh sỏch đó quy định một cách cụ thể về việc bồi thường thiệt hại về mồ mả, vấn đề mức áp dụng cụ thể là bao nhiêu thỡ phải do từng khu vực, từng tỉnh khỏc nhau cú mức ỏp dụng khỏc nhau. 4.2 Về bồi thường thiệt hại hoa màu Chính sách này đó được điều chỉnh theo từng thời kỳ, trước đây Nhà nước có quy đ ịnh: đối với hoa màu đó trồng mà chưa thu hoạch... phải được bồi thường thiệt hại đúng mức, cho đến Thông tư 1792/TTg ngày 11/01/1970 quy định đối với cây cối lưu niên, các hoa màu của nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế, mở rộng thành phố “ Phải đ ược bảo đảm thoả đáng quyền lợi kinh tế của hợp tác xó và của nhõn dõn “. Những quy định này vẫn chỉ dừng lại ở mức chung chung, không cụ thể khiến cho việc áp dụng bồi thường nhiều nơi có sự khác nhau. Đến Nghị định 90/CP thỡ việc bồi thường về hoa màu đó được quy định cụ thể hơn “ Đối với cây hàng năm, vật nuôi trên đất, mặt nước được tính bằng giá trị sản lượng thu hoạch một vụ tớnh theo mức bỡnh quõn của 3 vụ trước đó theo giá nông sản tại thời điểm thu hồi đất, và các cây lâu năm khác. Trên cơ sở đó Nghị định 22/CP quy định mức bồi thường thiệt hại đối với cây hàng năm, vật nuôi trên đất có mặt nước được tính bằng giá trị sản lượng thu hoạch trong một năm theo năng suất bỡnh quõn của 3 năm trước đó với giá trung bỡnh của nụng sản, thuỷ sản cựng loại ở địa phương tại thời điểm bồi thường. Mức bồi thường thiệt hại đối với cây lâu năm, được tính bằng giá trị hiện có của vườn cây (không bao hàm giá trị đất ) tại thời điểm thu hồi đất theo giá của địa phương. Như vậy mức bồi thường về cây cối, hoa màu đó được Nhà nước quy định rất rừ ràng, những q uy định ấy được cụ thể bằng mức tính bồi
  18. thường theo từng địa phương, dự án khác nhau. Nhưng trên thực tế việc bồi thường tính theo năng suất bỡnh quõn của 3 năm trước đó là không phù hợp, vỡ việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng đó làm cho việc xỏc định năng suất trước đó rất khó khăn, mỗi năm một loại cây, một mức năng suất khác nhau. Hơn nữa việc lập phương án bồi thường thường kéo dài nên việc xác định đ ơn giá tại thời điểm bồi thường thường không phù hợp với thực tế biến động của giá cả thị trường.Thiết nghĩ nên có chính sách khảo sát trước toàn bộ các loại cây, hoa màu, lên phương án bồi thường sau đó đến đúng ngày chi trả tiền bồi thường thỡ nhõn với mức giỏ hiện hành . Cụng tỏc kờ khai cõy cối và hoa màu phải được tiến hành một cách kịp thời và chính xác, cần có biện pháp phân loại các loại cây và quy về số lượng cây trên 1m2, đ ể tránh tỡnh trạng cỏc hộ dõn đi thuê các loại cây về trồng đan xen nhằm mục đích gia tăng mức bồi thường, gây khó khăn cho công tác bồi thường thiệt hại và ngân sách của Nhà nước, không phản ánh được tính trung thực gây lên mất công bằng xó hội. 4.3 Về bồi thường thiệt hại về tài sản về nhà cửa, cụng trỡnh kiến trỳc Các chính sách thời trước thỡ chỉ quy định đối với nhà cửa, vật kiến trúc thỡ đ ược giúp đỡ xây dựng cái khác, Nghị định 90/CP quy định việc bồi thường thiệt hại đối với nhà cửa, vật kiến trúc và các công trỡnh gắn liền với đất được tính bằng giá trị hiện có của công trỡnh (theo tỷ lệ% cũn lại của cụng trỡnh nhõn với đơn giá xây dựng mới). Trên cơ sở Nghị định 90/CP, Nghị định 22/CP quy định chủ tài sản là người có tài sản hợp pháp khi Nhà nước thu hồi đất bị thiệt hại thỡ được bồi thường theo giá trị tài sản hiện có, cụ thể như sau : Đối với nhà, công trỡnh kiến trỳc và cỏc tài sản khỏc gắn liền với đất được bồi thường theo mức thiệt hại thực tế. Mức bồi thường = giỏ trị hiện cú của nhà và cụng trỡnh + % (giỏ trị hiện cú của nhà và cụng trỡnh) Nhưng tổng mức bồi thường tối đa không lớn hơn 100% và tối thiểu không nhỏ hơn 60% giá trị của nhà và công trỡnh tớnh theo giỏ xõy dựng mới cú tiờu chuẩn kỹ thuật tương đương. Mức quy định cụ thể của khoản tiền cộng thêm do UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương ban hành. Riêng đối với nhà cấp IV, nhà tạm và công trỡnh phụ độc lập, mức bồi thường thiệt hại được tính bằng giá trị xây mới. Đối với nhà, công trỡnh bị phỏ dỡ một phần, nhưng phần diện tích cũn lại khụng cũn sử dụng được thỡ bồi thường thiệt hại cho toàn bộ công trỡnh, trường hợp phần diện tích cũn lại vẫn sử dụng được thỡ ngoài phần được bồi thường phần phá dỡ cũn được hỗ trợ toàn bộ chi phí sửa chữa, hoàn thiện công trỡnh cũn lại.
  19. Đối với nhà, công trỡnh cú thể thỏo dời và di chuyển đến chỗ ở mới để lắp đặt thỡ chỉ bồi thường các chi phí tháo dỡ, vận chuyển lắp đặt, và chi phí hao hụt trong quá trỡnh thỏo dỡ, vận chuyển lắp đặt. Người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu nhà nước (nhà thuê hoặc do tổ chức tự quản ) nằm trong phạm vi thu hồi đất phải phá dỡ, thỡ người đang thuê nhà không được bồi thường thiệt hại đối với diện tích nhà ở thuộc sở hữu nhà nước và diện tích cơi nới trái phép, nhưng được bồi thường chi phí tự cải tạo, sửa chữa, nâng cấp; đối với diện tớch hợp phỏp thỡ bồi thường theo quy định của UBND tỉnh , Thành phố trực thuộc Trung ương, ngoài ra cũn được hỗ trợ. Về bồi thường thiệt hại đối với công trỡnh văn hoá, di tích, lịch sử, đỡnh chựa. Đối với dự án khi thu hồi đất có các công trỡnh trờn thỡ phải cú phương án bảo tồn là chủ yếu, trong trường hợp đặc biệt phải di chuyển thỡ việc bồi thường thiệt hại do Thủ tướng Chính phủ quyết định đối với công trỡnh do Trung ương quản lý, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố quyết định đối với các công trỡnh do địa phương quản lý. Mức bồi thường thiệt hại đối với công trỡnh kỹ thuật hạ tầng bằng giỏ trị xõy dựng mới của cụng trỡnh. N hư vậy tài sản trên đất hợp pháp và có khả năng hợp pháp hoá được bồi thường 100% giá trị tài sản, tài sản trên đất sử dụng bất hợp pháp sẽ được trợ cấp 70-80% mức bồi thường hoặc không được trợ cấp, không được bồi thường tuỳ theo mức độ bất hợp pháp của quyền sử dụng đất và tài sản. 5. Về chớnh sỏch hỗ trợ Trước khi ban hành Nghị định 22/CP chưa có văn bản nào của Nhà nước quy định về việc hỗ trợ cho người bị thu hồi đất, Nghị định 22/CP đó đưa ra chính sách hỗ trợ ổn định sản xuất và đời sống đối với những người phải di chuyển chỗ ở được tính trong thời hạn 6 tháng, với mức trợ cấp tính bằng tiền cho một nhân khẩu/1 tháng tương đương 30kg gạo theo giá trung bỡnh ở địa phương tại thời điểm bồi thường. Đối với người phải di chuyển đến khu tái đinh cư của tỉnh khác thỡ được trợ cấp một năm và hưởng chính sách đi vùng kinh tế mới (Điều 25, mục 1). Trong trường hợp nếu người di dời, đời sống sản xuất bị ảnh hưởng kéo dài thỡ tuỳ tỡnh hỡnh UBND tỉnh, Thành phố cú mức hỗ trợ cụ thể. Nghị định cũn quy định việc hỗ trợ theo chế độ trợ cấp ngừng việc cho cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp phải di chuyển đến địa điểm mới trong thời gian ngừng sản xuất, kinh doanh (Điều 25, mục 2) hỗ trợ chi phí đào tạo cho những lao động nông nghiệp phải chuyển nghề khác và ưu tiên tuyển dụng lao động cho các đối tượng có đất bị thu hồi (Điều 25, Mục 4). Ngoài ra, Nghị định cũn quy định hỗ trợ đối với những người đang hưởng trợ cấp xó hội của Nhà nước phải di chuyển chỗ ở và trợ cấp khuyến khích di dời cho những người di chuyển đúng thời hạn.
  20. Mức hỗ trợ cụ thể do UBND tỉnh quy định. Xét về mặt khoa học xó hội thỡ quy định chính sách hỗ trợ là vô cùng hợp lý, phự hợp với thực tế đặt ra, bởi cuộc sống đang yên ổn tự dưng bị ảnh hưởng bởi việc GPMB, ít nhiều cuộc sống cũng bị thay đổi, do vậy hỗ trợ để người bị thu hồi đất có cơ hội khôi phục cuộc sống là điều vô cùng cần thiết. 6. Chính sách lập khu tái định cư. Việc thu hồi đất của Nhà nước là mang tính bắt buộc đối với người dân. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh tế, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị xó hội, hộ gia đỡnh, cỏ nhõn sử dung ổn định lâu dài. Nhưng khi cần thiết Nhà nước có thể thu hồi đất phục vụ lợi ích an ninh, quốc phũng, lợi ớch quốc gia, lợi ớch cụng cộng. Tuy nhiờn việc thu hồi này nú khụng chỉ ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế về đất đai, nhà cửa của người dân mà nó cũn ảnh hưởng đến nghề nghiệp, mức độ ổn định về thu nhập cuộc sống, phong tục tập quán thói quen... của người dân. Do đó, khi tiến hành công tác đền bù thiệt hại GPMB Nhà nước cần phải có chính sách lập khu tái định cư nhằm bảo đảm ổn định lại cuộc sống một cách tốt nhất cho người dân. Có như vậy thỡ người dân mới yên tâm nhận bồi thường và nhanh chóng di chuyển đến nơi ở mới. Điều đó chứng tỏ chính sách tái định cư của Nhà nước cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác đến bù thiệt hại GPMB. Một chính sách tái định cư tốt, có tính ổn định cao đối với người bị thu hồi đất giúp họ nhanh chóng ổ n đinh lại cuộc sống, thu nhập, sản xuất thỡ mới tạo được tâm lý an toàn đối với họ, họ sẽ nhanh chóng di chuyển, chấp nhận bồi thường giải toả. Ngược lại sẽ có ảnh hưởng rất xấu đến tiến độ của công tác bồi thường thiệt hại, nếu người bị thu hồi đất có cảm giác không ổn định khi phải di chuyển, họ sẽ làm ngừng trệ, không chịu di chuyển để giao mặt bằng cho dự án. Điều này có nghĩa là GPMB bị ách tắc, dự án không thực hiện đúng tiến độ gây ra những hậu quả khó lường, đặc biệt là gây thiệt hại cho Nhà nước về mọi mặt. Vậy nên để công tác bồi thường thiệt hại GPMB được thực hiện đúng, kịp thời cho các dụ án đầu tư thỡ việc hoàn thiện chớnh sỏch lập khu tái định cư cho người trong diện bị giải toả là hết sức quan trọng và cần thiết. Về việc lập khu tái định cư, Nghị định 22/CP cũng có quy đinh cụ thể về thẩm quyền lập khu tái định cư, và điều kiện bắt buộc phải có của khu tái đinh cư là phải phù hợp với quy hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng của đô thị hoặc nông thôn. Về nguyên tắc bố trí đất ở cho các hộ gia đỡnh tại khu tỏi định cư là: Ưu tiên cho hộ sớm thực hiện GPMB, tiếp đến là các hộ thuộc các đối tượng chính sách xó hội . III. một số kinh nghiệm của trung quốc, thái lan và các chính sách của ngân hàng wB, ADB về lĩnh vực bồi thường thiệt hại giải phóng mặt bằng. Trong quỏ trỡnh cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá và gắn liền với nó là quá
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2