Đề tài: Phân tích tình trạng bẫy thu nhập trung bình tại nền kinh tế Việt Nam
lượt xem 28
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Phân tích thực trạng thực sự Việt Nam có rơi vào bẫy trung bình hay không? Nguyên nhân là lý do khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng đó và giải pháp cho tình hình trước mắt và lâu dài. Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài: Phân tích tình trạng bẫy thu nhập trung bình tại nền kinh tế Việt Nam
- PHÂN TÍCH TÌNH TRẠNG BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH TẠI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Một đất nước với vị trí địa lý vị trí cực kỳ tốt và thuận lợi,tài nguyên thiên nhiên phong phú,một đất nước trong một nền an ninh hòa bình với lực lượng dân số vàng nhưng sau 40 năm giải phóng vẫn chưa thực sự có một chỗ đứng lớn trên thế giới,vẫn chưa thể sánh ngang hàng cùng các cường quốc năm châu khác.Vì sao vậy?Phải chăng kinh tế Việt Nam ta đang rơi vào một tình trạng dậm chân tại chỗ hay nói rõ hơn chúng ta đã rơi vào BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH A/MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Phân tích thực trạng thực sự việt nam có rơi vào bẫy trung bình hay không?nguyên nhân là lý do khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng đó.Gỉai pháp cho tình hình trước mắt và lâu dài B/ NỘI DUNG KHÁI NIỆM Thế nào là bẫy thu nhập trung bình? “Bẫy TNTB là tình huống một nước bị mắc kẹt tại mức thu nhập nhất định với một nguồn lực và lợi thế nhất định mà không thể vượt qua ngưỡng đó để trở nên giàu có hơn. Năm 2008, VN đã đạt mức thu nhập bình quân đầu người 1.000 USD/người/năm và trở thành nước có TNTB. Nhưng kể từ đó, dấu hiệu của bẫy TNTB trở nên rõ hơn 1.1CƠ SỞ LÝ LUẬN
- Chúng ta sẽ phân tích 4 cơ sỡ lý luận chính để đi đến kết luận cho một nền kinh tế để làm rõ vấn đề Việt Nam có thực sự đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình hay không? 1 TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI 2 NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG 3 CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU TRONG KINH TẾ 4 CÁC YẾU TỐ NHƯ CHÍNH SÁCH, NẠN THAM NHŨNG, CHÊNH LỆCH GIÀU NGHÈO TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI (GDP) VÀ TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG TRONG 10 NĂM QUA(giai đoạn 1995 2015) Khái niệm tổng sản phẩm quốc nội tổng sản phẩm nội địa, tức tổng sản phẩm quốc nội hay GDP (viết tắt của Gross Domestic Product) là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ nhất định (thường là quốc gia) trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). *TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN GDP QUA CÁC GIAI ĐOẠN Giai đoạn 19861990, giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, khủng hoảng kéo dài nhưng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. GDP tăng 4,4%/năm. Giai đoạn 19911995 GDP bình quân tăng 8,2%/năm. Giai đoạn 19962000 mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực, thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp nhưng chúng ta vẫn duy trì được tốc độ tăng GDP đạt 7%. Bình quân từ năm 19912000 GDP tăng 7,6%/năm.
- năm 2000, GDP của Hà Nội mới đạt 39.944 tỷ đồng (chiếm 9,04% tổng GDP cả nước), thì đến năm 2007 đã tăng lên 137.935 tỷ (chiếm 12,06%), và năm 2009 là 205.890 tỷ đồng (chiếm 12,41%) (theo wikipedia.com) Ta nhận thấy trong những năm giai đoạn trước năm 2008 GDP có nhưng bước phát triển và thay đổi đáng kể Tuy nhiên GDP từ năm 2008 đến nay lại dường như có những chuyển biến rất chậm Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã và đang tác động mạnh mẽ lên nền kinh tế Việt Nam và gây ảnh hưởng nặng nề tới tất cả các chủ thể trong nền kinh tế từ các doanh nghiệp, người lao động và gia đinh của họ khiến tình trạng của nền kinh tế xấu đi trông thấy
- Năm 2008 cũng là năm Việt Nam thoát khỏi là nước có thu nhập thấp thành nước có thu nhập trung bình,nhưng kể từ năm 2008 trở đi không có chuyển biến gì thêm về sự tăng trưởng và phát triển lên một bậc cao hơn và tiến bộ hơn. (theo tuoitre.vn) GDP của Việt Nam đã liên tục được điều chỉnh giảm, tuy nhiên đã không thể về đích. Cả năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP của ViệtNam là 6.31%. Từ năm 2008 đến năm 2014 chỉ nhỉnh lênh một chút sau đó theo đà tăng trưởng rất chậm qua từng năm. Quan sát thấy dường như không có dấu hiệu nổi bật của sự đi lên trong vòng 6 năm và nếu cứ tiếp tục tốc độ này ta không thể sánh bằng các nước trong khu vực SO SÁNG TĂNG TRƯỞNG GDP GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC LỚN
- Tính đến cuối năm 2004, GDP bình quân người của Việt Nam khoảng 500 USD1 , của Hoa Kỳ là 38.000 USD, Nhật Bản là 33.000 USD. Điều này có nghĩa là GDP bình quân người của Việt Nam chỉ bằng 1/76 lần của Hoa Kỳ và 1/66 lần Nhật Bản. Giả sử trong vòng 50 tới, GDP bình quân người của Việt Nam tăng trưởng là 6% năm, của Hoa Kỳ và Nhật Bản là 1,5%, thì vào năm 2050, GDP bình quân người của Việt Nam sẽ khoảng 10.000 USD, trong khi của Hoa Kỳ và Nhật Bản lần lượt là 80.000 USD và 70.000 USD. Nếu tốc độ tăng trưởng trong vòng 100 năm tới, của Việt Nam là 4%, Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn giữ mức tăng nêu trên thì vào năm 2100, các con số nêu trên lần lượt là 25.000 USD, 170.000 USD, 150.000 USD, gấp gần 7 và 6 lần Việt Nam. Một khoảng cách khá xa về tương đối, nhưng vô cùng lớn về tuyệt đối..GDP của vài quốc gia lân cận với Việt Nam. (1) (2) (3) (4) (5) Quốc gia 1980 2011 Số lần tăng Thời gian (năm) trưởng GDP cần để GDP tăng 19802011 trưởng gấp đôi Singapore 9,25 35,86 10,36 6,0 Malaysia 3,44 7,34 5,70 10,9 South Korea 3,29 16,32 13,28 4,7 Philippines 1,45 1,71 3,15 19,7 Thailand 1,35 3,93 7,75 8,0 Indonesia 1,14 2,56 6,00 10,3 Vietnam 2,67 23,2 Bảng 1. Số lần cách biệt GDP đầu người giữa một quốc gia đối chiếu với Việt Nam gấp đôi.
- (vneconomy.vn) Theo Bảng 1, GDP đầu người của Singapore nhiều 9,25 lần GDP của Việt Nam vào năm 1980, và chênh lệch tới 35,86 lần vào năm 2011. Thái Lan và Indonesia chỉ hơn Việt Nam chút ít vào năm 1980 (1,35 và 1,14 lần), nhưng nay Indonesia gấp 2,5 lần và Thái Lan gấp gần 4 lần Việt Nam. Trong vòng 31 năm qua, GDP của Nam Hàn gia tăng 13 lần, tức chỉ cần 4,7 năm GDP tăng gấp đôi, Singapore 10 lần t/ức mỗi 6 năm GDP gấp đôi, Thái Lan 7,8 lần trong khi Việt Nam chỉ 2,7 lần, tức Việt Nam phải mất hơn 23 năm GDP mới tăng gấp đôi (Bảng 1). Như vậy, càng về sau Việt Nam càng tụt hậu. Qua đó ta thấy được tốc độ tăng trưởng của Việt Nam so với trên thế giới hay các nước lân cận đều rất chậm,biểu hiện này giống như triệu chứng của căn bệnh ‘BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH” mà chưa kịp khám đã có thể thấy rất rõ. 2** PHÂN TÍCH NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ TRONG 10 NĂM QUA Khái niệm năng suất lao động 1. Năng suất lao động Năng suất lao động (NSLĐ) là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động sống, đặc trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) và một chỉ tiêu đầu vào (lao động làm việc). Đây là một chỉ
- tiêu khá tổng hợp nói lên năng lực sản xuất của một đơn vị hay cả nền kinh tế xã hội. Tình hình năng suất lao động Việt Nam trong những năm gần đây Theo số liệu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năng suất lao động của Việt Nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất Châu Á – Thái Bình Dương, thấp hơn Singapore, Nhật và Hàn Quốc lần lượt là 15 lần, 11 lần và 10 lần. Ngay cả so với các nước ASEAN có mức thu nhập trung bình, năng suất lao động của Việt Nam vẫn có khoảng cách lớn, chỉ bằng một phần năm Malaysia và hai phần năm Thái Lan. Đáng chú ý là hiện tốc độ tăng của năng suất lao động đang giảm đi tại Việt Nam. Trong giai đoạn 20022007, năng suất lao động tăng trung bình 5,2%/năm mức cao nhất trong khu vực. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng năng suất trung bình hàng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%/năm nguyên nhân của tình trạng năng suất lao động ở Việt Nam thấp là do lao động chưa được đào tạo phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp, thể lực người lao động kém, kỹ năng yếu, kỹ thuật và công nghệ sản xuất thấp v.v... Một yếu tố và dấu hiệu khiến chúng ta khẳng định rằng chúng ta đã rơi vào bẫy THU NHẬP TRUNG BÌNH đó chính là năng suất lao động,không tính đến các yếu tố máy móc mà chỉ tính đến nhân lực lao động,trình độ lao động,thời gian lao động và tốc độ lao động của người Việt Nam quá trì trệ,không phát triển trong một thời gian dài.Vẫn chưa thực sự tiến bộ vượt bậc trong sản xuất,quy mô còn nhỏ trong ngành nông nghiệp,vẫn chưa ứng dụng công nghệ trong khai thác nhiên nguyên vật liệu,gia tăng sản xuất,trình độ lao động còn quá kém chưa đáp ứng nhu cầu hiện đại.Tuy hiện trạng là vậy nhưng thật sự vẫn chưa có chính sách mạnh mẽ thỏa đáng để áp dụng cải tiến tình trạng còn vãn cứ tiếp tục và gói gọn trong hai từ “lý thuyết”. Từ đó dẫn tới không phát huy được sản lượng trong nền kinh tế không nâng cao được GDP qua từng giai đoạn,năng suất lao động quả
- thực như chiếc kim vàng mà Việt Nam ta mãi cứ mò mẫm cứ mãi kiếm tìm nhưng không đi đến đích. 3** CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU TRONG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM Khái niệm cơ cấu kinh tế: cơ cấu kinh tế là một tổng thể các bộ phận hợp thành kết cấu (hay cấu trúc) của nền kinh tế trong quá trình tăng trưởng sản xuất xã hội. Các bộ phận đó gắn bó với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các quan hệ tỷ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng trong những không gian và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao. Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh bất biến mà luôn ở trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Chính vì vậy, cần phải nghiên cứu các qui luật khách quan, thấy được sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất xã hội để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với những mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển, trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại dịch vụ, đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi chung là nông nghiệp). Cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế và xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh tế đối ngoại…
- Thực tế trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhưng năm gần đây và khuynh hướng trong tương lai So với yêu cầu đặt ra, tốc độ chuyển dịch CCKT còn chậm và chất lượng chưa cao. Ngành công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng yếu tố hiện đại trong toàn ngành chưa được quan tâm đúng mức, trình độ kỹ thuật công nghệ nhìn chung, vẫn ở mức trung bình. Công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao chưa phát triển. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP giảm liên tục trong những năm gần đây. Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài chính tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành như điện lực, viễn thông, đường sắt. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Nhà nước. Mới đây, tháng 92008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra đánh giá tổng quan về tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội trong 3 năm qua (20062008) và dự báo khả năng thực hiện 52 chỉ tiêu chủ yếu đã được Đại hội X của Đảng đề ra trong kế hoạch kinh tế xã hội giai đoạn 20062010, trong đó có các chỉ tiêu liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra cảnh báo, mặc dù đã có sự chuyển dịch đúng hướng, song tiến độ thực hiện còn chậm so với mục tiêu kế hoạch; trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái hiện nay mà dự báo là sẽ còn rất nan giải, chí ít là trong vài ba năm tới, nếu không có các giải pháp chính sách thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa trong phát triển công nghiệp và dịch vụ theo hướng nâng cao sản lượng và chất lượng tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế cùng với chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ… thì khó có thể thực hiện được mục tiêu đã đề ra. Có cảnh báo đó là vì, theo ước tính, đến hết năm 2008, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP vẫn còn 20,620,7%, trong khi
- kế hoạch đến năm 2010 phải giảm còn 1516%; giá trị công nghiệp năm 2008 mới đạt 40,640,7% GDP, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải đạt 4344%; tỷ trọng thương mại dịch vụ năm 2008 ước tính có thể đạt 38,738,8% GDP, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải là 40 41%. ( Biểu đồ chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua các năm) (theo vneconomy.vn) Qua quan sát biểu đồ ta thấy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra hết sức chậm chạp và ít có sự thay đổi tỷ trọng giữa các nghành.Mục tiêu là năm 2020 cơ bản là nước công nghiệp hóa nhưng tỷ trọng ngành công nghiệp không phát triển mạnh mà còn có khuynh hướng đi xuống từ năm 2009 đến năm 2013. Và vẫn không có chuyển biến gì mới trong năm 20142015.Trong khi đó,tưởng chừng nông nghiệp dịch vụ và nông nghiệp có bước khả quan hơn,nhưng thực tế vẫn cứ là một đường dao động không mạnh và có xu hướng bảo hòa không tiến triển.
- Một dấu hiệu nữa cho thấy tình trạng rơi vào BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH về năng suất lao động về GDP kéo đến ngay cả chuyển dịch cơ cấu cũng trong tốc độ chậm chạp một cách khó hiểu.Không có dấu hiệu chuyển đổi mạnh trong nền kinh tế qua từng năm,măn này không khác năm ngoái là mấy,một trạng thái,một tốc độ cũng như một tiến độ.Một trong những điều đáng lo ngại của nền kinh tế nước ta. **4 PHÂN TÍCH CÁC CHÍNH SÁCH, SỰ CHÊNH LỆCH GIÀU NGHÈO, NẠN THAM NHŨNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ. SỰ CHÊNH LỆCH GIÀU NGHÈO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY Khái niệm chênh lệch giàu nghèo: là một hiện tượng xã hội phản ánh quá trình phân chia xã hội thành các nhóm xã hội có điều kiện kinh tế và chất lượng sống khác biệt nhau; là sự phân tầng xã hội chủ yếu về mặt kinh tế, thể hiện sự chênh lệch giữa các nhóm này về tài sản, thu nhập, mức sống. Vậy tiêu chí để đánh giá sự phân hoá giàu nghèo là dựa trên cơ sở nào? Trên thế giới người ta thường dùng 2 tiêu chí hay hai phương pháp để đánh giá sự phân hoá giàu nghèo: • Theo công thức 1/n: trong đó n là % dân cư để so sánh. Ví dụ: nếu theo cột dọc giữa người giàu và người nghèo ta lấy 5 % người thu nhập thấp nhất ở cột thấp nhất so với 5% người thu nhập cao nhất thì tỷ lệ là 1/5, tức chênh lệch nhau 20 lần.Đây là độ an toàn của sự phân hoá giàu nghèo. • Hệ số tập trung Gini là hệ số thay đổi từ 0 đến 1 cho biết mức độ công bằng phân chia trong thu nhập thấp. Nếu hệ số này càng thấp thì mức công bằng. Thực trạng chênh lệch giàu nghèo tại Việt Nam Khoảng cách thu nhập gia tăng đang là vấn đề trên toàn cầu. Nhưng tại Việt Nam, tương phản này đặc biệt rõ. Giao thông Hà Nội tràn ngập những chiếc xe máy được buộc cả tá hàng hóa. Xe tải, ôtô, xe
- máy đi cạnh chiếc xe đẩy của người bán rong và những chiếc xe đạp chất đầy hàng Trong khung cảnh đó, sự xuất hiện của những chiếc RollsRoyce có vẻ gây ấn tượng với người nước ngoài hơn là người Việt. Theo các số liệu thống kê được công bố những năm trước đây thì hệ số Gini năm 1994 là 0,350, năm 1995 là 0,357, năm 1996 là 0,362, năm 1999 là 0,390, năm 2002 là 0,420, năm 2004 là 0,423. Qua đó cho thấy sự bình đẳng đang giảm đi còn sự bất bình đẳng đang lớn lên và đạt mức độ nguy hiểm. Những năm gần đây, chưa thấy công bố thông tin nào nói về khoảng cách giàunghèo trong xã hội. Theo các chuyên gia về xã hội học thì mức chênh lệch giàunghèo hiện đang khá lớn và Hà Nội cũng có hiện tượng giống với xu hướng phân hóa giàunghèo của cả nước này lại càng tăng cao hơn. Khoảng cách giàunghèo có thể ước đoán qua những quan sát về chênh lệch giữa người có tiền lương cao nhất so với trung bình hoặc cách thức chi trả lương khá chênh lệch giữa người lao động và người quản lý ở các doanh nghiệp. Ngoài ra một số doanh nghiệp có “tính đặc thù” còn chi trả những khoản “lương khủng” cho tầng lớp quản lý, rồi xu thế đô thị hóa ồ ạt làm nhiều người giàu lên nhanh chóng nhờ đất đai... đó là chưa kể tình trạng lợi dụng chức vụ quyền hạn để tham nhũng, làm giàu bất hợp pháp... Tất cả những vấn đề đó sẽ góp phần nới rộng khoảng cách giàunghèo là điều dẫn đến bất bình đẳng xã hội. Người giàu có rất nhiều cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo nghề... và họ lại có điều kiện để giàu thêm. Số liệu thống kê cho thấy, 20% nhóm giàu được hưởng phúc lợi xã hội nhiều hơn so với 20% nhóm nghèo. Điều đó chứng tỏ rằng người càng giàu thì càng được hưởng lợi nhiều hơn so với người nghèo. Qua đó ta thấy được khoảng cách giàu nghèo cứ ngày càng cao mà không thể kéo lên được,từ đó không thể thúc đẩy một nền kinh tế vững mạnh trong khi sự phân hóa quá cao và đoàn kết thúc đẩy lại quá thấp.Muốn nền kinh tế đi lên không dậm chân tại chỗ thì cần mạnh
- nhưng sự phân tần xã hội ngày một lớn thì không thể nào khiến xã hội kinh tế mạnh lên được Ta thấy cái BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH ngày càng nhấn chìm nền kinh tế Việt Nam một cách rõ rệt kéo theo nhiều yếu tố về xã hội kinh tế con người,ngay cả chênh lệch giàu nghèo khá lớn cũng dường như khó mà thay đổi nhanh chóng để cứu vớt hiện trạng. PHÂN TÍCH NẠN THAM NHŨNG TIÊU CỰC ẢNH HƯỞNG TỚI ĐÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ KHIẾN THỰC TRẠNG NGÀY CÀNG TRÌ TRỆ VÀ DẬM CHÂN TẠI CHỖ Khái niệm tham nhũng: Theo nghĩa rộng, tham nhũng được hiểu là hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Theo Từ điển Tiếng Việt, tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của. Tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng (năm 1969) định nghĩa tham nhũng trong một phạm vi hẹp, đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng... Theo nghĩa hẹp và là khái niệm được pháp luật Việt Nam quy định (tại Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005), tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước. Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích hợp với việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng như: kê khai tài sản, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu.
- Thực trạng tham nhũng tại Việt Nam Trong Báo cáo về công tác phòng chống tham nhũng năm 2014 gửi Quốc hội, Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh cho biết, phong vũ biểu tham nhũng toàn cầu của Tổ chức minh bạch thế giới vẫn đánh giá Việt Nam có mức độ tham nhũng trong khu vực công rất nghiêm trọng. Với tư cách cử tri, mình cực lực phản đối đánh giá này. Đây là kết luận không khách quan, thiếu trung thực, mang tính phiến diện, chưa nói đúng, nói đủ, nói rõ thực trạng tham nhũng ở nước ta. Lý do là cũng theo bản báo cáo trên cho biết, từ đầu năm đến nay đã có gần 8.000 cuộc thanh tra hành chính và 190.000 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Qua thanh tra đã phát hiện gần 32.000 tỷ đồng vi phạm, kiến nghị thu hồi ngân sách nhà nước 27.000 tỷ đồng, xuất toán, loại khỏi giá trị quyết toán 4.800 tỷ đồng... Thanh tra các cấp, ngành cũng kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với khoảng 1.700 tập thể, gần 3.000 cá nhân… Về phía công an, báo cáo cho biết, lực lượng cảnh sát điều tra các cấp đã thụ lý 415 vụ án với 1.031 bị can phạm tội về tham nhũng. Số thiệt hại được xác định trên 6.700 tỷ đồng, đã thu hồi nộp ngân sách nhà nước trên 1.500 tỷ đồng (đạt 22,3%, tăng 14,1% so với năm 2013). .. tham nhũng ở Việt Nam đang… rất, rất và rất nghiêm trọng chứ không chỉ “rất nghiêm trọng Những con số nghìn tỷ đồng thất thoát của một nền kinh tế cứ trôi vô ích còn lớn hơn thất thoát của mấy chục dự án đầu tư phát triển kinh tế,thử hỏi tại sao nền kinh tế ổn định nhưng không phát triển,vốn đầu tư nhiều nhưng thất thoát, Các yếu tố tích cực thì không thấy chỉ toàn thấy các yếu tố tiêu cực cứ ập đến kéo cả một đế chế vào BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH một cách thật dễ dàng
- So sánh tình trạng tham nhũng với các nước phát triển và “đã ” thoát khỏi BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH Theo bảng xếp hạng “Chỉ số nhận thức tham nhũng năm 2014” của Tổ chức Minh bạch quốc tế (Transpanency International viết tắt là TI) công bố ngày 312, các quốc gia gồm Đan Mạch, New Zealand, Phần Lan ,Singapo và Thụy Điển được xếp hạng là những nước ít tham nhũng nhất thế giới. Trong top 10 quốc gia có tỷ lệ tham nhũng cao nhất thế giới còn có Sudan, Nam Sudan, Afghanistan, Libya, Iraq, Uzbekistan, Turkmenistan, Eritrea. Lebanon và Pakistan cũng nằm trong số các nước có tình trạng tham nhũng cao. Theo đó ta thấy nhưng nước phát triển hầu như nạn tham nhưng rất thấp và ngược lại những nước kém và đang phát triển có nạn tham nhũng càng cao Liên hệ thực tế với Việt Nam ta thấy sỡ dĩ vì sao nước ta vẫn mãi dậm chân tại chỗ,nạn tham nhũng tiếp tục gây ảnh hưởng xấu tới công tác phát triển kinh tế,gây thâm hụt vốn đầu tư chi phí chi trả,chất lượng sản phẩm đầu ra kém.Không phát huy được thế mạnh mà tình hình kinh tế trì trệ ì ạch dậm chân tại chỗ càng ngày càng rõ.Vì thế nguyên nhân dẫn đến tình trạng kinh tế chậm phát triển đẩy thu Việt Nam gần với cái BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH. 2.1 CƠ SỠ THỰC TIỄN 1**YẾU TỐ VỐN FDI TẠI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Khái niệm FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, viết tắt là FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
- Tình hình FDI tại thị trường Việt Nam: Kể từ khi có Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực năm 1988, dòng vốn FDI luôn là động lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong suốt 26 năm qua. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) luôn phát triển năng động. Trong 25 năm từ 19882013, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt khoảng 218,8 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt 106,3 tỷ USD, lĩnh vực công nghiệp chiếm tới gần 60%. Theo thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong 10 tháng đầu năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 13,7 tỷ USD, bằng 71,2% so với cùng kỳ 2013. Như vậy, tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang có chiều hướng giảm nhẹ so với thời điểm Việt Nam đạt kỷ lục về thu hút đầu tư nước ngoài (vượt mốc 20 tỷ USD). Rất rõ ràng, nguồn vốn FDI vẫn đổ vào VN nhưng tăng trưởng kinh tế cứ chậm dần. VN có dân số trẻ nên vốn FDI chắc sẽ vẫn đổ vào. Tăng trưởng cũng sẽ vẫn tiếp tục. Nhưng ở mức thu nhập mới trên 1.000 USD/người/năm, còn quá sớm để chậm lại.và rơi vào bẫy THU NHẬP TRUNG BÌNH. Mặc dù nguồn vốn FDI rất dồi dào nhưng tăng trưởng kinh tế chậm,.Qua đó cho ta thấy mặc dù đã có tác động ngoại lực thì nền kinh tế vẫn chậm chạp,lý do khó hiểu cho nội lực kinh tế của nước ta. Cơ cấu kinh tế của VN so với cách đây 20 năm có thay đổi nhưng nhìn kỹ thì không rõ. VN xuất khẩu 65% là hàng chế biến chế tạo, nhưng hầu hết là xuất khẩu của khu vực FDI. Còn doanh nghiệp VN chủ yếu vẫn chỉ xuất khẩu được hàng dệt may, da giày, nông sản... Nên một phần quan trọng trong tăng trưởng của VN không phải do bản thân VN làm ra mà từ nguồn lực bên ngoài. **2THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VÀ NHỮNG BẤT ỔN Sau một thời gian phát triển mạnh và có đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế đất nước, thị trường bất động sản (BĐS) rơi vào giai
- đoạn khó khăn kéo dài do tác động của tình hình kinh tế, ở cả 2 đầu tầu lớn nhất cả nước là TP. Hồ Chí Minh (từ đầu năm 2009) và Hà Nội (từ đầu năm 2011). Sự sụt giảm về giá cả xảy ra ở hầu hết các phân khúc của thị trường; số lượng giao dịch giảm mạnh, thậm chí nhiều dự án không có giao dịch và hiện vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi. Nhiều doanh nghiệp BĐS, kinh doanh dịch vụ BĐS thực sự gặp khó khăn, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực tài chính hạn chế, khi thị trường suy thoái, không bán được hàng, không có khả năng trả nợ ngân hàng. hững yếu kém, thiếu lành mạnh và không ổn định của thị trường BĐS bộc lộ rõ nét nhất kể từ đầu năm 2011 tới nay, cùng với thời gian hơn 2 năm rơi vào bất ổn của thị trường. Sau những động thái bùng phát về giá và lượng giao dịch trong thời gian ngắn tại TP.Hồ Chí Minh năm 2007, tại Hà Nội năm 2009 đã phát đi những tín hiệu sai lệch về nhu cầu và khả năng chi trả thực sự của thị trường, dẫn đến các doanh nghiệp đã đổ xô vào đầu tư phát triển thị trường BĐS, kể cả các doanh nghiệp không có kinh nghiệm và năng lực tài chính yếu. Dư nợ tín dụng BĐS cũng tăng nhanh trong giai đoạn này, tổng dư nợ tín dụng BĐS cuối năm 2009 tăng 36% so với cùng kỳ năm 2008, cuối năm 2010 tăng gần 24% so với cùng kỳ năm 2009. Việc cấp phép phát triển dự án tại các địa phương cũng khá dễ dãi, thiếu căn cứ và nhu cầu, thậm chí nhiều địa phương cấp phép dự án nhà ở với quy mô lớn tại những nơi chưa có hạ tầng kỹ thuật và xã hội đủ để phục vụ cho những nhu cầu tối thiểu về nơi ở. Các dự án phân lô, huy động vốn tràn lan tạo nên nguồn cung ảo trên giấy tăng vọt và hỗn loạn thông tin dự án trên thị trường, tạo nên những đô thị bỏ hoang, lãng phí đất đai, tiền của xã hội. Dư nợ tín dụng BĐS cũng tăng nhanh trong giai đoạn này, tổng dư nợ tín dụng BĐS cuối năm 2010 tăng gần 24% so với cùng thời kỳ năm 2009; đến cuối năm 2012... Thị trường đóng băng không chỉ gây khó khăn cho doanh nghiệp kinh doanh BĐS mà còn ảnh hưởng tới thanh khoản của ngân hàng, gây đình trệ sản xuất cho các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng,
- doanh nghiệp xây lắp, việc làm cho người lao động trong lĩnh vực liên quan... Tình hình tồn kho vật liệu xây dựng, nhất là xi măng, gạch ốp lát, sứ vệ sinh... theo đó cũng tăng lên. Một số doanh nghiệp rơi vào tình trạng (hua lỗ, phá sản đã làm ảnh hưởng rất lớn đối với nguồn thu ngân sách và phát triển kinh tế của đất nước. Từ việc không ổn định trong bất động sản đã dẫn đến việc trì trệ dòng vốn đầu tư khiến nền kinh tế thất thoát không ít gây tổn hại rất lớn,việc thiếu am hiểu đã khiến cả 1 nền kinh tế gần như sa bước http://cus.vnu.edu.vn/trung tâm nghiên cứu đô thị quốc gia ** 3VỊ TRÍ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GIỮA CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀ TRÊN TOÀN THẾ GIỚI So với các nước ASEAN So với khu vực, Việt Nam vẫn đang xếp ngưỡng thấp trong bảng xếp hạng về năng suất lao động và chỉ số sáng tạo cũng như chất lượng nguồn nhân lực (27,2/100 điểm). Khoảng cách thu nhập bình quân đầu người so với ASEAN ngày càng tăng (1.908USD/người so với mức trung bình 3.837USD/người của ASEAN). Nằm trong khu vực ASEAN, tổng GDP tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái nếu năm 1995 của Việt Nam đạt 20,8 tỷ USD, đứng thứ 7, thì năm 2014 đã đạt 187 tỷ USD, đứng thứ 6 (sau Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Philippines). Nếu tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương thì thứ bậc của Việt Nam cao hơn. Kết quả tất yếu khi Việt Nam đạt được tốc độ tăng tương đối cao, theo đó, tốc độ tăng GDP (giá so sánh) thời kỳ 1995 2014 của Việt Nam đạt 6,77%/năm, chỉ đứng thứ 2 sau Myanmar). Tuy nhiên, trong thời kỳ 2009 2014 Việt Nam chỉ đạt 5,79%, đứng thứ 4, sau Myamar, Lào, Indonesia. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam, nếu năm 1995 đạt 289 USD, đứng thứ 10 khu vực; năm
- 2014 đạt khoảng 2061 USD, vượt lên đứng thứ 7 (sau Singapore, Brunei, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines). Theo đó, về tỷ lệ Việt Nam so với các nước ASEAN năm 2014 đều cao hơn năm 1995, nhưng về mức chênh lệch tuyệt đối năm 2014 lớn hơn so với năm 1995. Nói cách khác, nếu chỉ nhìn tốc độ tăng GDP thì khó thấy khả năng tụt hậu, nhưng về mức chênh lệch tuyệt đối, thì Việt Nam vẫn nằm trong xu hướng tụt hậu xa hơn. www.tapchitaichinh.com.vn So với các nước trong khu vực Châu Á Theo đánh giá mới của Ngân hàng Thế giới (WB), chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay mới chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước châu Á tham gia xếp hạng. Một nghiên cứu khác cho thấy lao động Việt Nam chỉ đạt 32/100 điểm. Trong khi đó, những nền kinh tế có chất lượng lao động dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Nguồn lao động của nước ta có năng suất lao động quá thấp, đứng thứ 77/125 nước và vùng lãnh thổ, sau Indonesia, Philippine và Thái Lan trong khu vực. Năng lực cạnh tranh Ngày 1862009, lần đầu tiên Diễn đàn Kinh tế Thế giới đưa ra bảng xếp hạng về môi trường thuận lợi cho thương mại, Việt Nam đứng ở vị trí 91 trong số 118 quốc gia và vùng lãnh thổ.www.tapchicongsan.org.vn Năm 2010, trong khu vực Đông Nam Á thăng tiến trên bảng xếp hạng, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 71 trên thế giới (tăng 18 bậc so với 2009) và thứ 5 trong khu vực (sau Singapore, Malaysia, Thái Lan và Indonesia), được coi là một trong những quốc gia thăng tiến nhanh nhất trên bảng xếp hạng môi trường thương mại toàn cầu năm 2010. Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố (ngày 0592012), Việt Nam xếp thứ 75/142 về năng lực cạnh tranh toàn cầu. So với năm 2011, Việt Nam đã tụt 10 bậc về năng lực cạnh tranh. Như vậy, trong 3 năm
- trở lại đây, Việt Nam liên tục đi xuống về năng lực cạnh tranh, không chỉ về thứ hạng mà cả điểm số đánh giá. 4**CÁC YẾU TỐ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Khoa học Việt Nam đang ở đâu? Có nhiều phân tích trong nước và quốc tế cho thấy số lượng ấn phẩm khoa học Việt Nam còn rất khiêm tốn, khiến cho những ai quan tâm đến cảm thấy lo lắng. Thực trạng thấp kém không chỉ so với các nước tiên tiến trên thế giới có nền tảng khoa học phát triển lâu năm mà ngay cả khi so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.Theo thống kê Viện thông tin khoa học (ISI), trong 15 năm qua (19962011) Việt Nam mới có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các tập san quốc tế có bình duyệt, bằng khoảng một phần năm của Thái Lan (69.637), một phần sáu của Malaysia (75.530), và một phần mười của Singapore (126.881). Trong khi đó, dân số Việt Nam gấp 17 lần Singapore, ba lần Malaysia và gần gấp rưỡi Thái lan. Việt Nam hiện nay có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ mà số ấn phẩm khoa học của cả nước trong vòng 15 năm qua chưa bằng 1/5 số công bố của trường ĐH Tokyo (69,806 ấn phẩm) và một nửa của trường ĐH quốc gia Singapore (28,070 ấn phẩm). Công nghệ lạc hậu rất ít các phát minh sáng chế trong lao động,học hỏi theo các nước tiên tiến một cách chậm chạp và thiếu ứng dụng,Thế hệ trẻ chậm trong các bước cách tân và thay đổi. Tóm lại có rất nhiều vấn đề liên quan để khẳng định VIỆT NAM ĐÃ THỰC SỰ RƠI VÀO BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH Có nhiều dấu hiệu để khẳng định điều đó. Thứ nhất, tăng trưởng GDP của VN chậm lại. Thứ hai, năng suất lao động kém. Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu ở VN chỉ mang tính hình thức. Thứ tư là VN đã bị trì trệ trong các bảng xếp hạng toàn cầu và thứ năm là VN đã gặp các vấn đề nảy sinh do tăng trưởng như ô nhiễm, tham nhũng, bong bóng bất động sản, chênh lệch giàu nghèo...
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài: Phân tích tài chính doanh nghiệp nâng cao
94 p | 2301 | 1086
-
Đề tài “Phân tích tình hình họat động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Huyền Anh”
28 p | 1338 | 678
-
Đề tài: Phân tích tình hình tài chính công ty TNHH thương mại và thực phẩm Hoàng Gia
52 p | 482 | 234
-
Đề tài: Phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống báo cáo tài chính tại Công Ty TNHH Giao Nhận Hàng Hoá JuPiTer Pacific Chi nhánh Hà Nội
83 p | 453 | 215
-
Đề tài: Phân tích tình hình cho vay xóa đói giảm nghèo tại ngân hàng chính sách xã hội huyện Hòa Vang TP. Đà Nẵng
56 p | 627 | 155
-
Đề tài: Phân tích tình hình hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng phát triển nhà ĐBSCL Phòng giao dịch Càng Long
40 p | 214 | 58
-
Luận văn: Phân tích tình hình tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp
85 p | 170 | 44
-
Đồ án tốt nghiệp: Phân tích tình hình cung ứng, dự trữ và sử dụng vật tư và một số biện pháp nâng cao tình hình cung ứng, dự trữ và sử dụng vật tư tại Công ty cao su Sao Vàng
76 p | 164 | 29
-
Luận văn: Phân tích tình hình cho vay và sử dụng vốn vay của các nông hộ tại nHNo&PTNT tỉnh Hà tĩnh chi nhánh thành sen
53 p | 139 | 29
-
Luận văn tốt nghiệp Kinh tế vận tải: Phân tích tình hình tài chính của Công ty cổ phần kho vận Tân Cảng năm 2021
83 p | 37 | 25
-
Khoá luận tốt nghiệp: Phân tích tình hình tài chính và khả năng thanh toán của Công ty TNHH Thương mại Hòa Phát, Hà Nội
60 p | 38 | 20
-
Đề tài: Phân tích lí thuyết cạnh tranh mang tính độc quyền, liên hệ thực tiễn nền kinh tế Việt Nam
12 p | 114 | 18
-
Khóa luận tốt nghiệp: Phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần Thương mại Mặt Trời Việt
79 p | 69 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Tài chính Ngân hàng: Phân tích tình hình tài chính của công ty Cổ phần cấp nước Thừa Thiên Huế
98 p | 37 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Phân tích tình hình tài chính của Công ty cổ phần Nhựa Đà Nẵng
112 p | 27 | 11
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Phân tích và đề xuất một số giải pháp cải thiện tình hình tài chính của Công ty cổ phần Dệt lụa Nam Định
2 p | 74 | 4
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phân tích tình hình kinh doanh thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam
26 p | 7 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn