intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Phân tích tình trạng bẫy thu nhập trung bình tại nền kinh tế Việt Nam

Chia sẻ: Ngọc Huy Tran | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:22

192
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài: Phân tích thực trạng thực sự Việt Nam có rơi vào bẫy trung bình hay không? Nguyên nhân là lý do khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng đó và giải pháp cho tình hình trước mắt và lâu dài. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Phân tích tình trạng bẫy thu nhập trung bình tại nền kinh tế Việt Nam

  1. PHÂN TÍCH TÌNH TRẠNG BẪY THU  NHẬP TRUNG BÌNH TẠI NỀN KINH TẾ  VIỆT NAM 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Một đất nước với vị trí địa lý vị trí cực kỳ tốt và thuận lợi,tài nguyên   thiên nhiên phong phú,một đất nước trong một nền an ninh hòa bình   với lực lượng dân số  vàng nhưng sau 40 năm giải phóng vẫn chưa  thực sự  có một chỗ  đứng lớn trên thế  giới,vẫn chưa thể  sánh ngang  hàng cùng các cường quốc năm châu khác.Vì sao vậy?Phải chăng kinh  tế Việt Nam ta đang rơi vào một tình trạng dậm chân tại chỗ hay nói  rõ hơn chúng ta đã rơi vào BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH A/MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Phân tích thực trạng thực sự  việt nam có rơi vào bẫy trung bình hay   không?nguyên   nhân   là   lý   do   khiến   nền   kinh   tế   rơi   vào   tình   trạng  đó.Gỉai pháp cho tình hình trước mắt và lâu dài  B/ NỘI DUNG KHÁI NIỆM Thế nào là bẫy thu nhập trung bình? “Bẫy TNTB là tình huống một nước bị mắc kẹt tại mức thu nhập nhất  định với một nguồn lực và lợi thế  nhất định mà không thể  vượt qua  ngưỡng đó để  trở  nên giàu có hơn. Năm 2008, VN đã đạt mức thu   nhập bình quân đầu người 1.000 USD/người/năm và trở thành nước có  TNTB. Nhưng kể từ đó, dấu hiệu của bẫy TNTB trở nên rõ hơn 1.1CƠ SỞ LÝ LUẬN
  2. Chúng ta sẽ  phân tích 4 cơ  sỡ  lý luận chính để  đi đến kết luận cho   một nền kinh tế  để  làm rõ vấn đề  Việt Nam có thực sự  đã rơi vào  bẫy thu nhập trung bình hay không? 1 TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI 2 NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG 3 CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU TRONG KINH TẾ 4 CÁC YẾU TỐ NHƯ CHÍNH SÁCH, NẠN THAM NHŨNG,  CHÊNH LỆCH GIÀU NGHÈO TỔNG   SẢN   PHẨM   QUỐC   NỘI   (GDP)   VÀ   TÌNH   HÌNH   TĂNG   TRƯỞNG   TRONG   10   NĂM   QUA(giai   đoạn   1995­ 2015) Khái niệm tổng sản phẩm quốc nội tổng   sản   phẩm   nội   địa,   tức tổng   sản   phẩm   quốc  nội hay GDP (viết   tắt  của Gross   Domestic   Product)   là giá   trị   thị   trường của tất cả  hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra  trong phạm   vi   một   lãnh   thổ   nhất   định (thường   là   quốc   gia)   trong  một thời kỳ nhất định (thường là một năm). *TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN GDP QUA CÁC GIAI ĐOẠN Giai đoạn 1986­1990, giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, khủng  hoảng kéo dài nhưng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan  trọng. GDP tăng 4,4%/năm. Giai đoạn 1991­1995 GDP bình quân tăng  8,2%/năm. Giai đoạn 1996­2000 mặc dù cùng chịu tác động của khủng   hoảng tài chính khu vực, thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp nhưng  chúng ta vẫn duy trì được tốc độ tăng GDP đạt 7%. Bình quân từ năm  1991­2000 GDP tăng 7,6%/năm.
  3. năm 2000, GDP của Hà Nội mới đạt 39.944 tỷ  đồng (chiếm 9,04%  tổng GDP cả  nước), thì đến năm 2007 đã tăng lên 137.935 tỷ  (chiếm   12,06%), và năm 2009 là 205.890 tỷ đồng (chiếm 12,41%) (theo wikipedia.com) Ta nhận thấy trong những năm giai đoạn trước năm 2008 GDP có  nhưng bước phát triển và thay đổi đáng kể  Tuy nhiên GDP từ năm 2008 đến nay lại dường như có những chuyển  biến rất chậm Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã và đang tác động mạnh mẽ  lên nền kinh tế  Việt Nam và gây  ảnh hưởng nặng nề  tới tất cả  các  chủ thể trong nền kinh tế từ các doanh nghiệp, người lao động và gia  đinh của họ khiến tình trạng của nền kinh tế xấu đi trông thấy 
  4. Năm 2008 cũng là năm Việt Nam thoát khỏi là nước có thu nhập thấp   thành nước có thu nhập trung bình,nhưng kể từ năm 2008 trở đi không  có chuyển biến gì thêm về  sự  tăng trưởng và phát triển lên một bậc  cao hơn và tiến bộ hơn. (theo tuoitre.vn) GDP của Việt Nam đã liên tục được điều chỉnh giảm, tuy nhiên đã  không   thể   về   đích.   Cả   năm   2008,   tốc   độ   tăng   trưởng   GDP   của  ViệtNam là 6.31%. Từ  năm 2008 đến năm 2014 chỉ  nhỉnh lênh một chút sau đó theo đà   tăng trưởng rất chậm qua từng năm. Quan sát thấy dường như  không có dấu hiệu nổi bật của sự  đi lên  trong vòng 6 năm và nếu cứ  tiếp tục tốc độ  này ta không thể  sánh  bằng các nước trong khu vực SO   SÁNG   TĂNG   TRƯỞNG   GDP   GIỮA   VIỆT   NAM   VÀ   CÁC  NƯỚC LỚN
  5. Tính đến cuối năm 2004, GDP bình quân người của Việt Nam khoảng   500 USD1 , của Hoa Kỳ  là 38.000 USD, Nhật Bản là 33.000 USD.  Điều này có nghĩa là GDP bình quân người của Việt Nam chỉ  bằng   1/76 lần của Hoa Kỳ và 1/66 lần Nhật Bản. Giả sử trong vòng 50 tới,   GDP bình quân người của Việt Nam tăng trưởng là 6% năm, của Hoa   Kỳ và Nhật Bản là 1,5%, thì vào năm 2050, GDP bình quân người của  Việt Nam sẽ khoảng 10.000 USD, trong khi của Hoa Kỳ và Nhật Bản  lần lượt là 80.000 USD và 70.000 USD. Nếu tốc độ tăng trưởng trong  vòng 100 năm tới, của Việt Nam là 4%, Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn giữ  mức tăng nêu trên thì vào năm 2100, các con số  nêu trên lần lượt là  25.000 USD, 170.000 USD, 150.000 USD, gấp gần 7 và 6 lần Việt  Nam. Một khoảng cách khá xa về  tương đối, nhưng vô cùng lớn về  tuyệt đối..GDP của vài quốc gia lân cận với Việt Nam. (1) (2) (3) (4) (5) Quốc gia 1980 2011 Số lần tăng  Thời gian (năm)  trưởng GDP  cần để GDP tăng  1980­2011 trưởng gấp đôi Singapore 9,25 35,86 10,36 6,0 Malaysia 3,44 7,34 5,70 10,9 South Korea 3,29 16,32 13,28 4,7 Philippines 1,45 1,71 3,15 19,7 Thailand 1,35 3,93 7,75 8,0 Indonesia 1,14 2,56 6,00 10,3 Vietnam ­ ­ 2,67 23,2 Bảng 1. Số  lần cách biệt GDP đầu người giữa một quốc gia  đối   chiếu với Việt Nam gấp đôi.    
  6. (vneconomy.vn) Theo Bảng 1, GDP đầu người  của Singapore nhiều 9,25 lần GDP của  Việt Nam vào năm 1980, và chênh lệch tới 35,86 lần vào năm 2011.  Thái Lan và Indonesia chỉ hơn Việt Nam chút ít vào năm 1980 (1,35 và  1,14 lần), nhưng nay Indonesia gấp 2,5 lần và Thái Lan gấp gần 4 lần  Việt Nam. Trong vòng 31 năm qua, GDP của Nam Hàn gia tăng 13 lần, tức chỉ  cần 4,7 năm GDP tăng gấp đôi, Singapore 10 lần t/ức mỗi 6 năm GDP  gấp đôi, Thái Lan 7,8 lần trong khi Việt Nam chỉ  2,7 lần, tức Việt   Nam phải mất hơn 23 năm GDP mới tăng gấp đôi (Bảng 1). Như vậy,  càng về sau Việt Nam càng tụt hậu. Qua đó ta thấy được tốc độ tăng trưởng của Việt Nam so với trên thế  giới hay các nước lân cận đều rất chậm,biểu hiện này giống như  triệu chứng của căn bệnh ‘BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH” mà chưa  kịp khám đã có thể thấy rất rõ. 2** PHÂN TÍCH NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ   TRONG 10 NĂM QUA Khái niệm năng suất lao động 1. Năng suất lao động Năng suất lao động (NSLĐ) là chỉ  tiêu hiệu quả  sử  dụng lao động  sống, đặc trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả  sản xuất) và một chỉ tiêu đầu vào (lao động làm việc). Đây là một chỉ 
  7. tiêu khá tổng hợp nói lên năng lực sản xuất của một đơn vị  hay cả  nền kinh tế ­ xã hội. Tình hình năng suất lao động Việt Nam trong những năm gần đây Theo số  liệu của Tổ  chức Lao  động Quốc tế  (ILO), năng suất lao   động của Việt Nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất Châu Á – Thái  Bình Dương, thấp hơn Singapore, Nhật và Hàn Quốc lần lượt là 15  lần, 11 lần và 10 lần. Ngay cả  so với các nước ASEAN có mức thu nhập trung bình, năng   suất lao động của Việt Nam vẫn có khoảng cách lớn, chỉ  bằng một  phần năm Malaysia và hai phần năm Thái Lan. Đáng chú ý là hiện tốc độ  tăng của năng suất lao động đang giảm đi  tại Việt Nam. Trong giai đoạn 2002­2007, năng suất lao động tăng  trung bình 5,2%/năm ­ mức cao nhất trong khu vực. Tuy nhiên, kể  từ  cuộc khủng hoảng kinh tế  toàn cầu năm 2008, tốc độ  tăng năng suất  trung bình hàng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%/năm nguyên nhân của tình trạng năng suất lao động ở Việt Nam thấp là do  lao động chưa được đào tạo phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp,   thể lực người lao động kém, kỹ năng yếu, kỹ thuật và công nghệ sản  xuất thấp v.v... Một yếu tố  và dấu hiệu khiến chúng ta khẳng định rằng chúng ta đã  rơi  vào  bẫy THU   NHẬP  TRUNG  BÌNH   đó  chính  là  năng  suất  lao  động,không tính đến các yếu tố máy móc mà chỉ tính đến nhân lực lao   động,trình độ  lao  động,thời gian lao  động và tốc độ  lao động của  người   Việt   Nam   quá   trì   trệ,không   phát   triển   trong   một   thời   gian  dài.Vẫn chưa thực sự  tiến bộ  vượt bậc trong sản xuất,quy mô còn  nhỏ  trong ngành nông nghiệp,vẫn chưa  ứng dụng công nghệ  trong   khai thác nhiên nguyên vật liệu,gia tăng sản xuất,trình độ lao động còn  quá kém chưa đáp ứng nhu cầu hiện đại.Tuy hiện trạng là vậy nhưng  thật sự  vẫn chưa có chính sách mạnh mẽ  thỏa đáng để  áp dụng cải   tiến tình trạng còn vãn cứ tiếp tục và gói gọn trong hai từ “lý thuyết”. Từ   đó  dẫn  tới  không  phát  huy  được  sản  lượng  trong  nền kinh  tế  không nâng cao được GDP qua từng giai đoạn,năng suất lao động quả 
  8. thực như  chiếc kim vàng mà Việt Nam ta mãi cứ  mò mẫm cứ  mãi  kiếm tìm nhưng không đi đến đích. 3** CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU TRONG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM Khái niệm cơ cấu kinh tế: cơ  cấu kinh tế  là một tổng thể  các bộ  phận hợp thành kết cấu (hay   cấu trúc) của nền kinh tế trong quá trình tăng trưởng sản xuất xã hội.  Các bộ  phận đó gắn bó với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu  hiện  ở  các quan hệ  tỷ  lệ  về  số  lượng, tương quan về  chất lượng   trong những không gian và thời gian nhất định, phù hợp với những  điều kiện kinh tế  xã hội nhất định nhằm đạt được hiệu quả  kinh tế  xã hội cao. Cơ  cấu kinh tế  không phải là một hệ  thống tĩnh bất biến mà luôn  ở  trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Chính vì vậy, cần phải  nghiên cứu các qui luật khách quan, thấy được sự vận động phát triển  của lực lượng sản xuất xã hội để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phù  hợp với những mục tiêu chiến lược kinh tế  xã hội của từng thời kỳ  lịch sử nhất định.  Chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  theo hướng công nghiệp hoá, hiện  đại hoá đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất  yếu để Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát  triển, trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế  ở nước   ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá  trị  trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại ­  dịch vụ, đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của   các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi chung là nông  nghiệp). Cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ  dẫn đến những biến đổi kinh tế  và xã hội theo hướng công nghiệp  hoá, hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế,  các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh tế  đối ngoại…
  9. Thực tế  trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhưng năm gần đây và   khuynh hướng trong tương lai So với yêu cầu đặt ra, tốc độ  chuyển dịch CCKT còn chậm và chất  lượng chưa cao. Ngành công nghiệp tuy có tốc độ  tăng trưởng cao,   nhưng yếu tố  hiện đại trong toàn ngành chưa được quan tâm đúng  mức, trình độ  kỹ  thuật công nghệ nhìn chung, vẫn  ở  mức trung bình.   Công nghiệp chế  biến, đặc biệt là những ngành công nghệ  cao chưa  phát triển. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP giảm liên tục trong những năm  gần đây. Những ngành dịch vụ  có hàm lượng chất xám và giá trị  gia  tăng cao như  dịch vụ  tài chính ­ tín dụng, dịch vụ  tư  vấn chậm phát  triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả  dịch vụ  cao, chất lượng  dịch vụ  thấp còn tồn tại  ở  nhiều ngành như  điện lực, viễn thông,  đường sắt. Một số  ngành có tính chất động lực như  giáo dục ­ đào   tạo, khoa học ­ công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa  vào nguồn vốn của Nhà nước.     Mới đây, tháng 9­2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra đánh giá   tổng quan về  tình hình thực hiện kế  hoạch kinh tế  ­ xã hội trong 3  năm qua (2006­2008) và dự  báo khả  năng thực hiện 52 chỉ  tiêu chủ  yếu đã được Đại hội X của Đảng đề  ra trong kế  hoạch kinh tế  ­ xã  hội giai đoạn 2006­2010, trong đó có các chỉ  tiêu liên quan đến việc  thực hiện nhiệm vụ  chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  theo hướng công  nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra  cảnh báo, mặc dù đã có sự  chuyển dịch đúng hướng, song tiến độ  thực hiện còn chậm so với mục tiêu kế hoạch; trong bối cảnh kinh tế  toàn cầu suy thoái hiện nay mà dự báo là sẽ còn rất nan giải, chí ít là   trong vài ba năm tới, nếu không có các giải pháp chính sách thúc đẩy   mạnh mẽ hơn nữa trong phát triển công nghiệp và dịch vụ theo hướng  nâng cao sản lượng và chất lượng tăng trưởng, chuyển dịch cơ  cấu   các ngành kinh tế  cùng với chuyển dịch cơ  cấu lao  động từ  nông  nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ… thì khó có thể  thực hiện được   mục tiêu đã đề  ra. Có cảnh báo đó là vì, theo  ước tính, đến hết năm   2008, tỷ  trọng nông nghiệp trong GDP vẫn còn 20,6­20,7%, trong khi 
  10. kế  hoạch đến năm 2010 phải giảm còn 15­16%; giá trị  công nghiệp  năm 2008 mới đạt 40,6­40,7% GDP, trong khi kế hoạch đến năm 2010  phải đạt 43­44%; tỷ trọng thương mại ­ dịch vụ năm 2008 ước tính có   thể đạt 38,7­38,8% GDP, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải là 40­ 41%. ( Biểu đồ chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua các năm) (theo vneconomy.vn) Qua quan sát biểu đồ  ta thấy, quá trình chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  diễn ra hết sức chậm chạp và ít có sự  thay đổi tỷ  trọng giữa các  nghành.Mục tiêu là năm 2020 cơ bản là nước công nghiệp hóa nhưng  tỷ trọng ngành công nghiệp không phát triển mạnh mà còn có khuynh  hướng đi xuống từ năm 2009 đến năm 2013. Và vẫn không có chuyển  biến   gì   mới   trong   năm   2014­2015.Trong   khi   đó,tưởng   chừng   nông  nghiệp dịch vụ  và nông nghiệp có bước khả  quan hơn,nhưng thực tế  vẫn cứ là một đường dao động không mạnh và có xu hướng bảo hòa  không tiến triển.
  11. Một   dấu   hiệu   nữa   cho   thấy   tình   trạng   rơi   vào   BẪY   THU   NHẬP  TRUNG   BÌNH   về   năng   suất   lao   động   về   GDP   kéo   đến   ngay   cả  chuyển   dịch   cơ   cấu   cũng   trong   tốc   độ   chậm   chạp   một   cách   khó  hiểu.Không có dấu hiệu chuyển đổi mạnh trong nền kinh tế qua từng  năm,măn này không khác năm ngoái là mấy,một trạng thái,một tốc độ  cũng như  một tiến độ.Một trong những điều đáng lo ngại của nền  kinh tế nước ta. **4 PHÂN TÍCH CÁC CHÍNH SÁCH, SỰ  CHÊNH LỆCH GIÀU   NGHÈO,   NẠN   THAM   NHŨNG   ẢNH   HƯỞNG   ĐẾN   ĐÀ   PHÁT   TRIỂN  KINH  TẾ. SỰ CHÊNH LỆCH GIÀU NGHÈO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY Khái niệm chênh lệch giàu nghèo: là một hiện tượng xã hội phản ánh quá trình phân chia xã hội thành  các nhóm xã hội có điều kiện kinh tế  và chất lượng sống khác biệt  nhau; là sự  phân tầng xã hội chủ  yếu về  mặt kinh tế, thể  hiện sự  chênh lệch giữa các nhóm này về  tài sản, thu nhập, mức sống. Vậy  tiêu chí để  đánh giá sự  phân hoá giàu nghèo là dựa trên cơ  sở  nào?  Trên thế giới người ta thường dùng 2 tiêu chí hay hai phương pháp để  đánh giá sự phân hoá giàu nghèo:  • Theo công thức 1/n: trong đó n là % dân cư  để  so sánh. Ví dụ: nếu  theo cột dọc giữa người giàu và người nghèo ta lấy 5 % người thu  nhập thấp nhất ở cột thấp nhất so với 5% người thu nhập cao nhất thì  tỷ lệ là 1/5, tức chênh lệch nhau 20 lần.Đây là độ an toàn của sự phân  hoá giàu nghèo. • Hệ số tập trung Gini là hệ số thay đổi từ 0 đến 1 cho  biết mức độ công bằng phân chia trong thu nhập thấp. Nếu hệ số này  càng thấp thì mức công bằng. Thực trạng chênh lệch giàu nghèo tại Việt Nam Khoảng cách thu nhập gia tăng đang là vấn đề  trên toàn cầu. Nhưng   tại Việt Nam, tương phản này đặc biệt rõ. Giao thông Hà Nội tràn  ngập những chiếc xe máy được buộc cả  tá hàng hóa. Xe tải, ôtô, xe 
  12. máy đi cạnh chiếc xe đẩy của người bán rong và những chiếc xe đạp  chất đầy hàng Trong khung cảnh đó, sự  xuất hiện của những chiếc Rolls­Royce có  vẻ gây ấn tượng với người nước ngoài hơn là người Việt. Theo các số liệu thống kê được công bố  những năm trước đây thì hệ  số Gini năm 1994 là 0,350, năm 1995 là 0,357, năm 1996 là 0,362, năm  1999 là 0,390, năm 2002 là 0,420, năm 2004 là 0,423. Qua đó cho thấy   sự  bình đẳng đang giảm đi còn sự  bất bình đẳng đang lớn lên và đạt  mức độ nguy hiểm. Những năm gần đây, chưa thấy công bố thông tin  nào   nói   về   khoảng   cách   giàu­nghèo   trong   xã   hội.  Theo các chuyên gia về  xã hội học thì mức chênh lệch giàu­nghèo  hiện đang khá lớn và Hà Nội cũng có hiện tượng giống với xu hướng  phân hóa giàu­nghèo của cả nước này lại càng tăng cao hơn. Khoảng  cách giàu­nghèo có thể   ước đoán qua những quan sát về  chênh lệch  giữa người có tiền lương cao nhất so với trung bình hoặc cách thức   chi trả lương khá chênh lệch giữa người lao động và người quản lý ở  các doanh nghiệp. Ngoài ra một số doanh nghiệp có “tính đặc thù” còn  chi trả  những khoản “lương khủng” cho tầng lớp quản lý, rồi xu thế  đô thị hóa ồ ạt làm nhiều người giàu lên nhanh chóng nhờ đất đai... đó   là chưa kể tình trạng lợi dụng chức vụ quyền hạn để tham nhũng, làm  giàu bất hợp pháp... Tất cả  những vấn đề  đó sẽ  góp phần nới rộng  khoảng cách giàu­nghèo là điều dẫn đến bất bình đẳng xã hội. Người  giàu có rất nhiều cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội như chăm sóc sức  khỏe, giáo dục, đào tạo nghề... và họ  lại có điều kiện để  giàu thêm.  Số  liệu thống kê cho thấy, 20% nhóm giàu được hưởng phúc lợi xã  hội nhiều hơn so với 20% nhóm nghèo. Điều đó chứng tỏ rằng người  càng giàu thì càng được hưởng lợi nhiều hơn so với người nghèo. Qua đó ta thấy được khoảng cách giàu nghèo cứ  ngày càng cao mà   không thể  kéo lên được,từ  đó không thể  thúc đẩy một nền kinh tế  vững mạnh trong khi sự phân hóa quá cao và đoàn kết thúc đẩy lại quá  thấp.Muốn nền kinh tế  đi lên không dậm chân tại chỗ  thì cần mạnh 
  13. nhưng sự phân tần xã hội ngày một lớn thì không thể nào khiến xã hội  kinh tế mạnh lên được Ta thấy cái BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH ngày càng nhấn chìm  nền kinh tế Việt Nam một cách rõ rệt kéo theo nhiều yếu tố về xã hội  kinh tế con người,ngay cả chênh lệch giàu nghèo khá lớn cũng dường  như khó mà thay đổi nhanh chóng để cứu vớt hiện trạng. PHÂN TÍCH NẠN THAM NHŨNG TIÊU CỰC  ẢNH HƯỞNG TỚI  ĐÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ  KHIẾN THỰC TRẠNG NGÀY CÀNG  TRÌ TRỆ VÀ DẬM CHÂN TẠI CHỖ Khái niệm tham nhũng: Theo nghĩa rộng, tham nhũng được hiểu là hành vi của bất kỳ  người  nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và  lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ  được giao để  vụ  lợi.   Theo Từ   điển   Tiếng   Việt, tham   nhũng   là   lợi   dụng   quyền   hành   để  nhũng nhiễu nhân dân lấy của. Tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc  về  cuộc đấu tranh quốc tế  chống tham nhũng (năm 1969) định nghĩa  tham nhũng trong một phạm vi hẹp, đó là sự  lợi dụng quyền lực nhà  nước để trục lợi riêng... Theo nghĩa hẹp và là khái niệm được pháp luật Việt Nam quy định  (tại Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005), tham nhũng là hành vi  của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó   vì vụ  lợi. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn  ở những người   làm việc trong các cơ  quan, tổ chức, đơn vị  thuộc hệ thống chính trị;  nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử  dụng ngân sách,  vốn, tài sản của Nhà nước. Việc giới hạn như  vậy nhằm tập trung   đấu tranh chống những hành vi tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến  nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích hợp với việc áp dụng các  biện pháp phòng, chống tham nhũng như: kê khai tài sản, công khai,  minh bạch trong hoạt động của cơ  quan, tổ  chức, đơn vị, xử  lý trách   nhiệm của người đứng đầu.
  14. Thực trạng tham nhũng tại Việt Nam Trong Báo cáo về  công tác phòng chống tham nhũng năm 2014 gửi   Quốc hội, Tổng Thanh tra Chính phủ  Huỳnh Phong Tranh cho biết,  phong vũ biểu tham nhũng toàn cầu của Tổ chức minh bạch thế giới   vẫn đánh giá Việt Nam có mức độ tham nhũng trong khu vực công rất  nghiêm trọng. Với tư  cách cử  tri, mình cực lực phản đối đánh giá này. Đây là kết  luận không khách quan, thiếu trung thực, mang tính phiến diện, chưa  nói đúng, nói đủ, nói rõ thực trạng tham nhũng ở nước ta. Lý do là cũng theo bản báo cáo trên cho biết, từ  đầu năm đến nay đã   có gần 8.000 cuộc thanh tra hành chính và 190.000 cuộc thanh tra,  kiểm tra chuyên ngành. Qua thanh tra đã phát hiện gần 32.000 tỷ đồng  vi phạm, kiến nghị  thu hồi ngân sách nhà nước 27.000 tỷ  đồng, xuất  toán, loại khỏi giá trị  quyết toán 4.800 tỷ  đồng... Thanh tra các cấp,  ngành cũng kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với khoảng 1.700 tập thể,   gần 3.000 cá nhân… Về phía công an, báo cáo cho biết, lực lượng cảnh sát điều tra các cấp   đã thụ lý 415 vụ án với 1.031 bị can phạm tội về tham nhũng. Số thiệt   hại được xác định trên 6.700 tỷ  đồng, đã thu hồi nộp ngân sách nhà  nước trên 1.500 tỷ đồng (đạt 22,3%, tăng 14,1% so với năm 2013). .. tham   nhũng  ở   Việt   Nam   đang…  rất,  rất  và  rất  nghiêm   trọng   chứ  không chỉ “rất nghiêm trọng Những con số nghìn tỷ đồng thất thoát của một nền kinh tế cứ trôi vô  ích còn lớn hơn thất thoát của mấy chục dự án đầu tư phát triển kinh  tế,thử hỏi tại sao nền kinh tế ổn định nhưng không phát triển,vốn đầu  tư nhiều nhưng thất thoát, Các yếu tố  tích cực thì không thấy chỉ  toàn thấy các yếu tố  tiêu cực  cứ   ập đến kéo cả  một đế  chế   vào BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH  một cách thật dễ dàng
  15. So sánh tình trạng tham nhũng với các nước phát triển và “đã ” thoát  khỏi BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH Theo bảng xếp hạng “Chỉ  số  nhận thức tham nhũng năm 2014” của  Tổ chức Minh bạch quốc tế (Transpanency International viết tắt là TI)  công bố  ngày 3­12, các quốc gia gồm Đan Mạch, New Zealand, Phần   Lan ,Singapo và Thụy Điển được xếp hạng là những nước ít tham  nhũng nhất thế giới. Trong top 10 quốc gia có tỷ  lệ  tham nhũng cao nhất thế  giới còn có  Sudan,   Nam   Sudan,   Afghanistan,   Libya,   Iraq,   Uzbekistan,  Turkmenistan,   Eritrea. Lebanon và   Pakistan   cũng   nằm   trong   số   các  nước có tình trạng tham nhũng cao. Theo đó ta thấy nhưng nước phát triển hầu như  nạn tham nhưng rất  thấp và ngược lại những nước kém và đang phát triển có nạn tham  nhũng càng cao Liên hệ  thực tế  với Việt Nam ta thấy sỡ  dĩ vì sao nước ta vẫn mãi  dậm chân tại chỗ,nạn tham nhũng tiếp tục gây  ảnh hưởng xấu tới  công   tác   phát   triển   kinh   tế,gây   thâm   hụt   vốn   đầu   tư   chi   phí   chi   trả,chất lượng sản phẩm đầu ra kém.Không phát huy được thế  mạnh  mà tình hình kinh tế  trì trệ  ì  ạch dậm chân tại chỗ  càng ngày càng   rõ.Vì thế nguyên nhân dẫn đến tình trạng kinh tế chậm phát triển đẩy  thu Việt Nam gần với cái BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH. 2.1 CƠ SỠ THỰC TIỄN 1**YẾU TỐ VỐN FDI TẠI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Khái niệm FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment,  viết tắt là FDI) là hình thức đầu tư  dài hạn của cá nhân hay công ty  nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ  sở  sản xuất, kinh   doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ  nắm quyền quản lý cơ  sở sản xuất kinh doanh này.
  16. Tình hình FDI tại thị trường Việt Nam: Kể từ khi có Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực năm 1988,  dòng vốn FDI luôn là động lực quan trọng trong quá trình phát triển  kinh tế xã hội của nước ta trong suốt 26 năm qua. Khu vực kinh tế có   vốn đầu tư nước ngoài (FDI) luôn phát triển năng động. Trong 25 năm  từ  1988­2013, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt khoảng 218,8  tỷ  USD, tổng vốn thực hiện đạt 106,3 tỷ  USD, lĩnh vực công nghiệp  chiếm tới gần 60%. Theo thống kê của Cục Đầu tư  Nước ngoài (Bộ  Kế  hoạch và Đầu tư), trong 10 tháng đầu năm 2014, các nhà đầu tư  nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 13,7 tỷ USD, bằng 71,2%  so với cùng kỳ 2013. Như vậy, tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam  đang có chiều hướng giảm nhẹ so với thời điểm Việt Nam đạt kỷ lục   về thu hút đầu tư nước ngoài (vượt mốc 20 tỷ USD). Rất rõ ràng, nguồn vốn FDI vẫn đổ  vào VN nhưng tăng trưởng kinh   tế  cứ chậm dần. VN có dân số  trẻ  nên vốn FDI chắc sẽ vẫn đổ  vào.   Tăng trưởng cũng sẽ  vẫn tiếp tục. Nhưng  ở  mức thu nhập mới trên  1.000 USD/người/năm,  còn quá sớm để  chậm lại.và rơi vào bẫy  THU NHẬP TRUNG BÌNH. Mặc   dù   nguồn   vốn   FDI   rất   dồi   dào   nhưng   tăng   trưởng   kinh   tế  chậm,.Qua đó cho ta thấy mặc dù đã có tác động ngoại lực thì nền  kinh tế  vẫn chậm chạp,lý do khó hiểu cho nội lực kinh tế của nước   ta. Cơ cấu kinh tế của VN so với cách đây 20 năm có thay đổi nhưng nhìn   kỹ  thì không rõ. VN xuất khẩu 65% là hàng chế biến chế  tạo, nhưng  hầu hết là xuất khẩu của khu vực FDI. Còn doanh nghiệp VN chủ  yếu vẫn chỉ  xuất khẩu được hàng dệt may, da giày, nông sản... Nên  một phần quan trọng trong tăng trưởng của VN không phải do bản   thân VN làm ra mà từ nguồn lực bên ngoài. **2THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VÀ NHỮNG BẤT ỔN Sau một thời gian phát triển mạnh và có đóng góp đáng kể  cho phát  triển kinh tế  đất nước, thị  trường bất động sản (BĐS) rơi vào giai 
  17. đoạn khó khăn kéo dài do tác động của tình hình kinh tế,  ở  cả  2 đầu   tầu lớn nhất cả  nước là TP. Hồ  Chí Minh (từ  đầu năm 2009) và Hà  Nội (từ  đầu năm 2011). Sự  sụt giảm về  giá cả  xảy ra  ở  hầu hết các  phân khúc của thị  trường; số  lượng giao dịch giảm mạnh, thậm chí  nhiều dự  án không có giao dịch và hiện vẫn chưa có dấu hiệu phục   hồi. Nhiều doanh nghiệp BĐS, kinh doanh dịch vụ  BĐS thực sự  gặp  khó khăn, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực tài chính hạn   chế, khi thị trường suy thoái, không bán được hàng, không có khả năng   trả nợ ngân hàng. hững yếu kém, thiếu lành mạnh và không ổn định của thị trường BĐS  bộc lộ rõ nét nhất kể từ đầu năm 2011 tới nay, cùng với thời gian hơn   2 năm rơi vào bất  ổn của thị  trường. Sau những động thái bùng phát  về  giá và lượng giao dịch trong thời gian ngắn tại TP.Hồ  Chí Minh  năm 2007, tại Hà Nội năm 2009 đã phát đi những tín hiệu sai lệch về  nhu cầu và khả  năng chi trả  thực sự  của thị  trường, dẫn  đến các  doanh nghiệp đã đổ  xô vào đầu tư  phát triển thị  trường BĐS, kể  cả  các doanh nghiệp không có kinh nghiệm và năng lực tài chính yếu. Dư  nợ tín dụng BĐS cũng tăng nhanh trong giai đoạn này, tổng dư nợ tín  dụng BĐS cuối năm 2009 tăng 36% so với cùng kỳ  năm 2008, cuối  năm 2010 tăng gần 24% so với cùng kỳ năm 2009. Việc cấp phép phát  triển dự  án tại các địa phương cũng khá dễ  dãi, thiếu căn cứ  và nhu   cầu, thậm chí nhiều địa phương cấp phép dự án nhà ở với quy mô lớn  tại những nơi chưa có hạ tầng kỹ thuật và xã hội đủ  để  phục vụ  cho  những nhu cầu tối thiểu về  nơi  ở. Các dự  án phân lô, huy động vốn  tràn lan tạo nên nguồn cung  ảo trên giấy tăng vọt và hỗn loạn thông  tin dự  án trên thị trường, tạo nên những đô thị  bỏ hoang, lãng phí đất   đai, tiền của xã hội. Dư  nợ  tín dụng BĐS cũng tăng nhanh trong giai  đoạn này, tổng dư  nợ  tín dụng BĐS cuối năm 2010 tăng gần 24% so   với cùng thời kỳ năm 2009; đến cuối năm 2012... Thị  trường đóng băng không chỉ  gây khó khăn cho doanh nghiệp kinh   doanh BĐS mà còn  ảnh hưởng tới thanh khoản của ngân hàng, gây  đình trệ  sản xuất cho các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng,  
  18. doanh nghiệp xây lắp, việc làm cho người lao động trong lĩnh vực liên   quan... Tình hình tồn kho vật liệu xây dựng, nhất là xi măng, gạch ốp  lát, sứ  vệ  sinh... theo đó cũng tăng lên. Một số  doanh nghiệp rơi vào   tình trạng (hua lỗ, phá sản đã làm  ảnh hưởng rất lớn đối với nguồn   thu ngân sách và phát triển kinh tế của đất nước. Từ  việc không  ổn định trong bất động sản đã dẫn đến việc trì trệ  dòng vốn đầu tư khiến nền kinh tế thất thoát không ít gây tổn hại rất   lớn,việc thiếu am hiểu đã khiến cả  1 nền kinh tế  gần như  sa bước   http://cus.vnu.edu.vn/trung tâm nghiên cứu đô thị quốc gia ** 3VỊ TRÍ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GIỮA CÁC NƯỚC TRONG   KHU VỰC VÀ TRÊN TOÀN THẾ GIỚI So với các nước ASEAN So với khu vực, Việt Nam vẫn đang xếp ngưỡng thấp trong bảng xếp  hạng về  năng suất lao động và chỉ  số  sáng tạo cũng như  chất lượng  nguồn nhân lực (27,2/100 điểm). Khoảng cách thu nhập bình quân đầu  người so với ASEAN ngày càng tăng (1.908USD/người so với mức  trung bình 3.837USD/người của ASEAN). Nằm trong khu vực ASEAN, tổng GDP tính bằng USD theo tỷ giá hối  đoái nếu năm 1995 của Việt Nam đạt 20,8 tỷ  USD, đứng thứ  7, thì  năm 2014 đã đạt 187 tỷ  USD, đứng thứ  6 (sau Indonesia, Thái Lan,  Malaysia, Singapore, Philippines). Nếu tính bằng USD theo tỷ  giá sức  mua tương đương thì thứ bậc của Việt Nam cao hơn. Kết quả tất yếu   khi Việt Nam đạt được tốc độ  tăng tương đối cao, theo đó, tốc độ  tăng   GDP   (giá   so   sánh)   thời   kỳ   1995­   2014   của   Việt   Nam   đạt  6,77%/năm, chỉ  đứng thứ  2 sau Myanmar). Tuy nhiên, trong thời kỳ  2009­ 2014 Việt Nam chỉ  đạt 5,79%, đứng thứ  4, sau Myamar, Lào,  Indonesia.  GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ  giá hối đoái của   Việt Nam, nếu năm 1995 đạt 289 USD, đứng thứ  10 khu vực; năm 
  19. 2014   đạt   khoảng   2061   USD,   vượt   lên   đứng   thứ   7   (sau   Singapore,  Brunei, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines).   Theo đó, về  tỷ  lệ  Việt Nam so với các nước ASEAN năm 2014 đều   cao hơn năm 1995, nhưng về mức chênh lệch tuyệt đối năm 2014 lớn  hơn so với năm 1995. Nói cách khác, nếu chỉ nhìn tốc độ tăng GDP thì  khó thấy khả  năng tụt hậu, nhưng về  mức chênh lệch tuyệt đối, thì  Việt   Nam   vẫn   nằm   trong   xu   hướng   tụt   hậu   xa   hơn. www.tapchitaichinh.com.vn  So với các nước trong khu vực Châu Á Theo đánh giá mới của Ngân hàng Thế  giới (WB), chất lượng nguồn   nhân lực của Việt Nam hiện nay mới chỉ  đạt 3,79 điểm (thang điểm  10), xếp thứ  11 trong số  12 nước châu Á tham gia xếp hạng. Một  nghiên cứu khác cho thấy lao động Việt Nam chỉ  đạt 32/100 điểm.  Trong khi đó, những nền kinh tế có chất lượng lao động dưới 35 điểm  đều có nguy cơ  mất sức cạnh tranh trên thị  trường toàn cầu. Nguồn  lao động của nước ta có năng suất lao động quá thấp, đứng thứ 77/125   nước và vùng lãnh thổ, sau Indonesia, Philippine và Thái Lan trong khu  vực.  Năng lực cạnh tranh Ngày 18­6­2009, lần đầu tiên Diễn đàn Kinh tế Thế giới đưa ra bảng  xếp hạng về môi trường thuận lợi cho thương mại, Việt Nam đứng ở  vị   trí   91   trong   số   118   quốc   gia   và   vùng   lãnh  thổ.www.tapchicongsan.org.vn Năm 2010, trong khu vực Đông Nam Á thăng tiến trên bảng xếp hạng,  Việt Nam đứng ở vị trí thứ  71 trên thế giới (tăng 18 bậc so với 2009)   và   thứ   5   trong   khu   vực   (sau   Singapore,   Malaysia,   Thái   Lan   và  Indonesia), được coi là một trong những quốc gia thăng tiến nhanh  nhất   trên   bảng   xếp   hạng   môi   trường   thương   mại   toàn   cầu   năm  2010. Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố (ngày 05­9­2012), Việt Nam  xếp thứ  75/142 về  năng lực cạnh tranh toàn cầu. So với năm 2011,  Việt Nam đã tụt 10 bậc về năng lực cạnh tranh. Như vậy, trong 3 năm 
  20. trở lại đây, Việt Nam liên tục đi xuống về năng lực cạnh tranh, không  chỉ về thứ hạng mà cả điểm số đánh giá.  4**CÁC YẾU TỐ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ­ Khoa học Việt Nam đang ở đâu? Có nhiều phân tích trong nước và quốc tế cho thấy số lượng ấn phẩm  khoa học Việt Nam còn rất khiêm tốn, khiến cho những ai quan tâm  đến cảm thấy lo lắng. Thực trạng thấp kém không chỉ  so với các  nước tiên tiến trên thế  giới có nền tảng khoa học phát triển lâu năm  mà ngay cả  khi so với các nước trong khu vực  Đông Nam Á.Theo  thống kê Viện thông tin khoa học (ISI), trong 15 năm qua (1996­2011)  Việt Nam mới có 13.172  ấn phẩm khoa học công bố  trên các tập san  quốc tế  có bình duyệt, bằng khoảng một phần năm của Thái Lan  (69.637), một phần sáu của Malaysia (75.530), và một phần mười của   Singapore   (126.881).   Trong   khi   đó,   dân   số   Việt   Nam   gấp   17   lần  Singapore, ba lần Malaysia và gần gấp rưỡi Thái lan. Việt Nam hiện nay có khoảng 9.000 giáo sư  và phó giáo sư, 24.000  tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ mà số ấn phẩm khoa học của cả nước   trong vòng 15 năm qua chưa bằng 1/5 số  công bố  của trường  ĐH  Tokyo   (69,806   ấn   phẩm)   và   một   nửa   của   trường   ĐH   quốc   gia  Singapore (28,070 ấn phẩm). Công nghệ  lạc hậu rất ít các phát minh sáng chế  trong lao động,học  hỏi   theo   các   nước   tiên   tiến   một   cách   chậm   chạp   và   thiếu   ứng  dụng,Thế hệ trẻ chậm trong các bước cách tân và thay đổi.  Tóm lại có rất nhiều vấn đề liên quan để khẳng định VIỆT NAM Đà THỰC SỰ RƠI VÀO BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH  Có nhiều dấu hiệu để  khẳng định điều đó. Thứ  nhất, tăng trưởng  GDP của VN chậm lại. Thứ  hai, năng suất lao động kém. Thứ  ba,  chuyển dịch cơ cấu ở VN chỉ mang tính hình thức. Thứ tư là VN đã bị  trì trệ trong các bảng xếp hạng toàn cầu và thứ năm là VN đã gặp các   vấn đề  nảy sinh do tăng trưởng như ô nhiễm, tham nhũng, bong bóng  bất động sản, chênh lệch giàu nghèo...
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2