Đề tài tài chính quốc tế: Đầu tư gián tiếp nước ngoài và vấn đề kiểm soát vốn ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 31
download
Đề tài tài chính quốc tế: Đầu tư gián tiếp nước ngoài và vấn đề kiểm soát vốn ở Việt Nam hiện nay trình bày cơ sở lý luận về đầu tư gián tiếp nước ngoài, đặc trưng cơ bản của đầu tư gián tiếp nước ngoài, tình hình vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam hiện nay, các giải pháp nhằm kiểm soát vốn ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài tài chính quốc tế: Đầu tư gián tiếp nước ngoài và vấn đề kiểm soát vốn ở Việt Nam hiện nay
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC BỘ MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Đề tài: ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT VỐN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY GVHD : TS. Nguyễn Thị Liên Hoa SVTH : Nhóm 14 – NH Đêm 2 Huỳnh Văn Vũ Phạm Thị Thủy Nguyễn Thị Thành Tâm Nguyễn Phương Thùy Trang Nguyễn Hoàng Quốc Thụy TP Hồ Chí Minh 02-2008
- I. CƠ S Ở LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI 1. Khái niệm đầu tư gián tiếp nước ngoài: Điều 3 Luật Đầu tư của Việt Nam được thông qua năm 2005 và có hiệu lực từ tháng 7/2006 đã xác định: “Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác; thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”. Theo cách hiểu này, đầu tư gián tiếp nước ngoài (ĐTGTNN) là các khoản đầu tư gián tiếp do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện – để phân biệt với đầu tư gián tiếp trong nước do các nhà đầu tư trong nước thực hiện… thông qua 2 hình thức chủ yếu sau: - Nhà đầu tư trực tiếp mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác của các doanh nghiệp, của Chính phủ và của các tổ chức tự trị được phép phát hành trên thị trường tài chính. - Nhà đầu tư gián tiếp thực hiện đầu tư thông qua Quỹ đầu tư chứng khoán hoặc định chế tài chính trung gian khác trên thị trường tài chính. Cách hiểu này là sát gần với định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Portfolio Investment – FPI) là hoạt động mua chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu) được phát hành bởi một công ty hoặc cơ quan Chính phủ của một nước khác trên thị trường tài chính trong nước hoặc nước ngoài. 2. Đặc trưng cơ bản của ĐTGTNN là: 2.1 Thứ nhất, nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp phát hành chứng khoán hoặc các hoạt động quản lý nói chung của cơ quan phát hành chứng khoán; 2.2 Thứ hai, nhà đầu tư không kèm theo cam kết chuyển giao tài sản vật chất, công nghệ, đào tạo lao động và kinh nghiệm quản lý như trong FDI. ĐTGTNN là đầu tư tài chính thuần túy trên thị trường tài chính.
- Như vậy có thể thấy ĐTGTNN là một khái niệm khá mới mẻ, nhất là ở nước ta, vì chúng xuất hiện và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán quốc gia và quốc tế. Trên thực tế, ĐTGTNN là dùng để chỉ các hình thức đầu tư không phải là đầu tư trực tiếp nước ngoài truyền thống (tức đầu tư để lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, lập liên doanh hoặc công ty cổ phần và kinh doanh theo hợp động hợp tác kinh doanh….), song sự phân biệt này không phải lúc nào cũng rạch ròi và thống nhất. Chẳng hạn, khi nhà đầu tư dùng vốn của mình để mua cổ phiếu của doanh nghiệp, nếu tỷ lệ cổ phiếu do nhà đầu tư nắm giữ là thấp hơn mức nhất định (10% theo tiêu chuẩn của IMF và 30% theo tiêu chuẩn của Việt Nam hiện hành) thì là đầu tư gián tiếp, nhưng khi vượt ngưỡng này thì lại được xếp vào đầu tư trực tiếp và lúc này, nhà đầu tư có thể dùng quyền bỏ phiếu của mình để can thiệp trực tiếp vào thực tế quản lý, kinh doanh của doanh nghiệp…. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài: Cũng như FDI, động thái dòng vốn ĐTGTNN chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ của các nhân tố như: _ Bối cảnh quốc tế (hòa bình, ổn định vĩ mô, các quan hệ ngoại giao và môi trường pháp lý quốc tế thuận lợi _ Nhu cầu và khả năng đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài _ M ức độ tự do hóa và sức cạnh tranh (chủ yếu là ưu đãi tài chính và sự thân thiện, thuận tiện của quản lý nhà nước đối với nhà đầu tư) của môi trường đầu tư trong nước _ Sự phát triển của hệ thống tiền tệ và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nói riêng, của các thể chế thị trường nói chung của nước tiếp nhận đầu tư….. Nhưng khác với FDI, vốn ĐTGTNN chịu ảnh hưởng trực tiếp mạnh hơn từ phía các nhân tố, như: _ Sự phát triển và độ mở cửa của thị trường chứng khoán, chất lượng của các cổ phiếu, trái phiếu do doanh nghiệp và nhà nước phát hành, cũng như các chứng khoán có giá khác lưu thông trên thị trường tài chính
- _ Sự đa dạng và vận hành có hiệu quả của các định chế tài chính trung gian (trước hết là các Quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư tài chính các loại, các Quỹ đầu tư đại chúng, Quỹ đầu tư mạo hiểm, Quỹ thành viên) _ Sự phát triển và chất lượng của hệ thống thông tin và dịch vụ chứng khoán, trong đó có các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn và dịch vụ định mức hệ số tín nhiệm doanh nghiệp và chứng khoán _ Đặc biệt, dòng vốn ĐTGTNN sẽ chảy mạnh vào trong nước theo mức tỷ lệ thuận và cấp số nhân cùng với sự gia tăng quá trình cổ phần hóa các DNNN, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động hiệu quả ở trong nước, cũng như cùng với việc nới rộng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp đó. II. TÌNH HÌNH VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP TẠI VIỆT NAM 1. Quá trình hình thành dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam: Quá trình hình thành dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam có thể khái quát thành các giai đoạn như sau: - Giai đoạn 1 (1988 – 1997): là thời kỳ mở đầu tư cho dòng vốn ĐTGTNN để vào Việt Nam theo xu hướng đổi mới và mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài diễn ra trong phạm vi cả nước và tạo động lực, hy vọng chung cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn này, ở Việt Nam đã có 7 Quỹ đầu tư nước ngoài được thành lập với tổng số vốn được huy động khoảng 400 triệu USD. - Giai đoạn 2 (1998 – 2002): là thời kỳ khủng hoảng và hậu khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á khiến các dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài đổ vào châu Á bị chững lại và Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng chung của xu hướng này với việc giảm sút và thu hẹp đáng kể quy mô thu hút cảu cả FDI và FPI. Trong số 7 Quỹ đầu tư kể trên có 5 Quỹ rút khỏi Việt Nam, 1 Quỹ thu hẹp trên 90% quy mô quỹ, chỉ còn duy nhất Quỹ Vietnam Enterprise Investment Fund được thành lập 7/1995 với quy mô vốn 35 triệu USD (nhỏ nhất trong số 7 Quỹ) là còn hoạt động cho đến nay.
- - Giai đoạn 3 (từ 2003 đến nay): là thời kỳ phục hồi trở lại của dòng vốn ĐTGTNN vào Việt Nam cùng với xu hướng tăng cường cải thiện môi trường đầu tư, p hát triển các định chế thị trường tài chính, trong đó có lập sàn giao dịch chứng khoán ở thành phố Hồ Chí M inh tháng 7/2000 và TTGDCK Hà Nội tháng 3/2005, đặc biệt là chủ trương và quyết tâm của Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hóa và nới lỏng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong các DNNN lớn được cổ phần hóa (từ 30% lên 49%)….Tính đến tháng 6/2006, cả nước đã có 19 Quỹ đầu tư nước ngoài với tổng vốn 1,9 tỷ USD đang hoạt động ở Việt Nam. Tổng cộng đến nay vốn ĐTGTNN Việt Nam thu hút được bằng khoảng 2 – 3% so với tổng vốn FDI mà chúng ta đã thu hút được trong cùng thời kỳ (so với tỷ lệ trung bình 30 – 40% của các nước khu vực thì đây là tỷ lệ khiêm tốn…). Tuy nhiên, có thể cảm nhận khá rõ rệt và xác đáng những triển vọng rất sáng sủa của dòng ĐTGTNN đổ vào Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt từ sau khi Việt Nam triển khai các cam kết hội nhập WTO và thúc đẩy trên thực tế quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn đang hoạt động trong các lĩnh vực độc quyền hoặc gần như độc quyền hiện nay.. 2. Tác động của đầu tư gián tiếp nước ngoài: Cũng như dòng vốn FDI, dòng FII đã, đang và sẽ có tác động cả tích cực và tiêu cực đến đời sống kinh tế nước ta, thể hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau: 2.1 Những tác động tích cực: 2.1.1 Thứ nhất, trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư của xã hội. Dòng vốn FII khi đổ vào Việt Nam sẽ trực tiếp làm tăng lượng FII trên thị trường vốn trong nước như một phép cộng đương nhiên vào tổng số dòng vốn này. Hơn nữa, khi FII gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực gia tăng dây chuyền đến dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nước. (Nói cách khác, các nhà đầu tư trong nước sẽ “nhìn gương” các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và tăng động lực bỏ vốn đầu tư gián tiếp của mình), kết quả tổng đầu tư gián tiếp xã hội sẽ tăng lên. Hơn nữa, FII gia tăng sẽ là một bảo đảm và tạo động lực mới hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư khác mạnh dạn thông qua các quyết định đầu tư trực tiếp mới của mình, kết quả là gián tiếp góp phần làm tăng đầu tư trực tiếp xã hội từ phía các nhà đầu tư cả nước ngoài, cũng như trong nước. 2.1.2 Thứ hai, góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung. Việc gia tăng và phát triển
- bộ phận thị trường FII sẽ làm cho thị trường tài chính (đặc biệt là thị trường chứng khoán) Việt Nam trở nên đồng bộ, cân đối và sôi động hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống vắng và trầm lắng, thậm chí đơn điệu, kém hấp dẫn kéo dài của thị trường này trong thời gian qua. Hơn nữa, điều kiện và kết quả đi kèm với sự gia tăng dòng FII này là sự phát triển nở rộ các định chế và dịch vụ tài chính – chứng khoán, trước hết là các loại quỹ đầu tư, công ty tài chính, và các thể chế tài chính trung gian khác, cũng như các dịch vụ tư vấn, bổ trợ tư pháp và hỗ trợ kinh doanh, xác định hệ số tín nhiệm, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán và thông tin thị trường. đồng thời, kéo theo sự gia tăng yêu cầu và hiệu quả áp dụng các nguyên tắc cạnh tranh thị trường, trước hết trên thị trường chứng khoán… tất cả những điều này trực tiếp và gián tiếp góp phần phát triển mạnh mẽ hơn các bộ phận và tổng thể thị trường tài chính nói riêng, các thể chế và cơ chế thị trường nói chung trong nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam. 2.1.3 Thứ ba, góp phần tăng cường cơ hội và đa dạng hóa phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân. Việc phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp cả về bề rộng và bề sâu sẽ mang lại những cơ hội mới và sự đa dạng hóa trong lựa chọn các phương thức đầu tư cho các nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài và trong nước. đông đảo các nhà đầu tư nước ngoài và cả trong nước, từ người dân, các doanh nhân đến các tổ chức và pháp nhân đầu tư chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp sẽ có thêm điều kiện lựa chọn hình thức sử dụng vốn của mình dưới các hình thức trực tiếp tự mình hay thông qua các định chế tài chính trung gian để mua - bán các cổ phiếu, trái phiếu và chứng khoán có giá khác của việt nam trên thị trường tài chính Việt Nam và nước ngoài. Việc đầu tư này sẽ cho phép họ thu nhận được lợi nhuận từ sự chênh lệch giá cả khi mua - bán chứng khoán, cũng như từ lãi suất và cổ tức các chứng khoán mà họ sở hữu theo thoả thuận hoặc thực tế kết quả kinh doanh của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phát hành chứng khoán đó. Điều này cũng đồng nghĩa với việc cải thiện thu nhập, mức sống của đông đảo các nhà đầu tư là người dân, tùy theo lượng vốn và kỹ năng đầu tư chứng khoán mà họ có. Hơn nữa, thông qua quá trình tham gia đầu tư gián tiếp này, các nhà đầu tư trong nước và người dân sẽ được dịp “cọ xát”, rèn luyện và bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh đầu tư, nâng cao trình độ bản thân nói riêng, chất lượng nguồn nhân lực nói chung, phù hợp yêu cầu và điều kiện kinh doanh thị trường hiện đại.
- 2.1.4 Thứ tư, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo các nguyên tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và phát triển thị trường tài chính sẽ đặt ra những yêu cầu mới và cũng tạo các công cụ, khả năng mới cho quản lý nhà nước nói chung và quản lý, quản trị doanh nghiệp nói riêng. Việc quản lý và quản trị doanh nghiệp phát hành chứng khoán sẽ được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn do yêu cầu về báo cáo tài chính doanh nghiệp và minh bạch hóa, cập nhật hóa thông tin liên quan đến các chứng khoán mà doanh nghiệp đã và sẽ phát hành. hơn nữa. Về nguyên tắc, các nhà đầu tư chỉ lựa chọn đầu tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp đáng tin cậy, đang và sẽ có triển vọng phát triển tốt trong tương lai. chính điều này sẽ cho phép quá trình chọn lọc nhân tạo; cho sự hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp này trở nên khách quan và phù hợp cơ chế thị trường hơn (còn những doanh nghiệp khác mà chứng khoán của họ không hấp dẫn sẽ phải điều chỉnh lại định hướng và chất lượng quản trị kinh doanh, sáp nhập hoặc giải thể). Hệ thống luật pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận và cá nhân trong hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, nhất là đến đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải được hoàn thiện, kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc điểm của thị trường này, cũng như theo các cam kết hội nhập quốc tế. đồng thời, thông qua tác động vào thị trường tài chính, nhà nước sẽ đa dạng hóa các công cụ và thực hiện hiệu quả việc quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp. trên cơ sở đó, năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, thị trường tài chính nói riêng sẽ được cải thiện hơn. 2.2 Một số tác động tiêu cực: Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, việc gia tăng thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam có thể gây ra một số tác động tiêu cực sau: 2.2.1 Thứ nhất, làm tăng mức độ nhạy cảm và bất ổn về kinh tế có nhân tố nước ngoài. Khác với FDI là nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật chất (xây dựng nhà máy, mua sắm thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất), khó chuyển đổi hoặc thanh khoản, FII được thực hiện dưới dạng đầu tư tài chính thuần túy với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản cao trên thị trường tài chính, nên các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài dễ dàng và nhanh chóng mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước, hay chuyển sang đầu tư dưới
- dạng khác, ở địa phương khác tùy theo kế hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình. đặc trưng nổi bật này cũng chính là nguyên nhân hàng đầu gây nên nguy cơ tạo và khuyếch đại độ nhạy cảm và chấn động kinh tế ngoại nhập của dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Đặc biệt khi việc chuyển đổi và rút vốn đầu tư gián tiếp nói trên diễn ra theo kiểu tháo chạy đồng loạt trên phạm vi rộng và số lượng lớn… Cần nhấn mạnh rằng, sự nhạy cảm và bất ổn kinh tế có thể bắt nguồn từ các nguyên nhân bên trong, cũng có thể hoàn toàn do các nguyên nhân bên ngoài nước tiếp nhận đầu tư do phản ứng dây chuyền, làn sóng đô-mi-nô của các nhà đầu tư quốc tế như đã từng diễn ra trong cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Trong tình huống như vậy, một sự đổ vỡ, một cuộc khủng hoảng đầu tư - tài chính - tiền tệ, thậm chí là khủng hoảng kinh tế là hoàn toàn có thể xảy ra đối với nước tiếp nhận đầu tư nếu không có và triển khai tốt các phương án phòng ngừa hiệu quả 2.2.2 Thứ hai, làm gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán. Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ chứng khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần sáng lập, được biểu quyết của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đến một mức “vượt ngưỡng” nhất định nào đó sẽ cho phép họ tham dự trực tiếp vào chi phối và quyết định các hoạt động sản xuất, kinh doanh và các chủ quyền khác của doanh nghiệp, tổ chức phát hành chứng khoán, thậm chí lũng đoạn doanh nghiệp theo phương hướng, kế hoạch, mục tiêu riêng của mình, kể cả các hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là, tính chất gián tiếp của vốn đầu tư nước ngoài đã chuyển hóa thành tính trực tiếp. Nhà đầu tư gián tiếp sẽ chuyển hóa thành nhà đầu tư trực tiếp. Thậm chí, về lô-gíc, quá trình diễn biến hòa bình này đạt tới quy mô và mức độ nào đó còn có thể làm chuyển đổi về chất quyền sở hữu và tính chất kinh tế ban đầu của doanh nghiệp và quốc gia. 2.2.3 Thứ ba, làm tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng tội phạm kinh tế quốc tế. Đầu tư gián tiếp quốc tế không chỉ làm gia tăng các nguy cơ và tác hại của các hoạt động đầu cơ, lũng đoạn kinh tế vi phạm các quy định pháp lý của nước tiếp nhận đầu tư, mà còn là mảnh đất màu mỡ sinh sôi và phát triển các loại tội phạm kinh tế có yếu tố nước ngoài, thậm chí xuyên quốc gia, như hoạt động lừa đảo, hoạt động rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các kinh doanh phi pháp và hoạt động khủng bố,
- cùng các loại tội phạm và các đe dọa an ninh phi truyền thống khác. Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt trái của dòng FII kể trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách có tổ chức của giới đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng tính dễ tổn - thương của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Thậm chí trong một số trường hợp, chúng còn làm mất uy tín nhà nước và gây sụp đổ một nội các chính phủ… Ngoài ra, sự gia tăng FII vào Việt Nam còn đặt ra yêu cầu chính phủ và các cơ quan trung ương phải chủ động đổi mới và sử dụng hiệu quả các công cụ quản lý kinh tế của mình theo nguyên tắc thị trường hơn, trong đó có việc sử dụng bảo lãnh nhà nước, quy định tỷ lệ và sử dụng các công cụ dự phòng, dư nợ cũng như các công cụ khác của các định chế tài chính – tiền tệ quốc gia và địa phương… Tất cả những điều này là cần thiết để đảm bảo sự thu hút và khai thác có hiệu quả các tác động tích cực của dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. 3. Các kênh thu hút vốn chính tại Việt Nam Đến vào giữa năm 2007, lúc tổng vốn hóa thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam khoảng 20 tỉ đô la Mỹ (HOSE khoảng 15,5 tỉ, HASTC khoảng 4,5 tỉ), thì giá trị vốn hóa tính riêng cho đầu tư nước ngoài là gần 5 tỉ đô la M ỹ (khoảng 25% tổng thị trường). Cũng vào khoảng thời gian này, giới tài chính trong và ngoài nước đã đưa ra con số ước đoán nguồn vốn FII đầu tư vào TTCK Việt Nam trong năm 2007 có thể lên đến 2 tỉ đô la M ỹ. Đến năm 2007, số quỹ đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam là khoảng trên 60, với số vốn mai phục khoảng 6 tỉ đô la. Trong số đó, chỉ riêng ba quỹ là Dragon Capital, Vina Capital và Indochina Capital đã có số vốn tròm trèm 4 tỉ đô la Mỹ. Những thông tin vừa nêu cho thấy nguồn vốn đầu tư tài chính nước ngoài đã tăng nhanh đáng kể. Số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê cho rằng vốn đầu tư tài chính vào thị trường chứng khoán cả năm 2007 ước đạt 5,3 tỉ đô la Mỹ, tăng 3 - 4 lần so với năm 2006. Năm 2007 cũng chứng kiến nhiều thương vụ FII lớn. Nổi bật là việc Công ty Bảo hiểm tập đoàn Tài chính HSBC mua 10% cổ phần Bảo Việt với số tiền lên đến 225 triệu đô la M ỹ. Ta thấy, chỉ một thương vụ thôi đã gần bằng con số “300 triệu đô la M ỹ mơ ước” của hồi 2005! Nhiều quỹ đang theo đuổi các khoản đầu tư có quy mô khá cao. Indochina Capital chẳng hạn, đã đưa ra tiêu chí từ 5-15 triệu đô la Mỹ mỗi khoản.
- Có thể nói chưa bao giờ dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) chảy vào Việt Nam thông qua các quỹ đầu tư lại mạnh mẽ như trong năm 2007. Trong đó, thu hút nguồn vốn FII mạnh nhất là các lĩnh vực chứng khoán, bất động sản (BĐS) và cơ sở hạ tầng 3.1 S ức hút lớn của thị trường chứng khoán Với Tập đoàn quản lý quỹ đầu tư Indochina Capital, tính đến nay, đã giải ngân được 400 triệu USD (trong tổng vốn huy động của Quỹ Indochina Capital Vietnam Holdings Limited chuyên về chứng khoán là 600 triệu USD). Indochina Capital đang tìm cơ hội để tiếp tục giải ngân 200 triệu USD còn lại, trong đó, một phần vốn lớn được bỏ vào các doanh nghiệp (DN) tư nhân ở những lĩnh vực đầy tiềm năng như tiêu dùng, dịch vụ, xuất khẩu mà Việt Nam có thế mạnh... Chỉ trong một thời gian ngắn, Indochina Capital cũng như nhiều quỹ đầu tư nước ngoài khác đã thâu tóm hàng loạt DN trong nước thông qua hình thức mua bán cổ phần. Cụ thể, Tập đoàn này đã đầu tư chiến lược vào Công ty cổ phần Đầu tư và Sản xuất Việt - Hàn (Hội An) bằng việc mua lại 15% cổ phần, đầu tư 100 triệu USD để mua 20% cổ phần của Công ty cổ phần Địa ốc Hoàng Quân, đầu tư 60 triệu USD mua cổ phần của Hoàng Quân - M ê Kông (công ty thành viên trong hệ thống Hoàng Quân Corp.). Theo ông Thomas J. Ngô, Giám đốc danh mục đầu tư cấp cao của Indochina Capital, việc tìm kiếm một DN phù hợp với phương thức đầu tư chiến lược của Quỹ là rất quan trọng. Sau khi xem xét, nếu nhận thấy đối tác hoàn toàn phù hợp với chiến lược đầu tư của mình, Indochina Capital sẽ quyết định mua lại cổ phần. Trong đó, đội ngũ quản lý giàu kinh nghiệm, quá trình kinh doanh thành công, vị trí dẫn đầu trên thị trường... là những yếu tố mà Indochina Capital đặc biệt quan tâm. Về quy mô, Indochina Capital cho biết, sẽ linh hoạt trong việc phân bổ nguồn vốn, với mức bình quân khoảng 15 triệu USD cho một khoản đầu tư, tối thiểu là 5 triệu USD và tối đa là 65 triệu USD/khoản. Tỷ lệ sở hữu cổ phần khi chọn một khoản đầu tư bình quân là 5 - 20%, cổ phần trong công ty tư nhân là 20 - 49%, cổ phần trong công ty nhà nước và niêm yết là 1 - 10%. Sản phẩm đầu tư của Indochina chọn sẽ là các loại chứng khoán thông thường, chứng khoán chuyển đổi và nợ tư nhân. Dự kiến, trong năm 2008, Indochina
- Capital sẽ rót thêm 1 tỷ USD vào thị trường chứng khoán Việt Nam và tiếp tục huy động thêm vốn khi giải ngân hết số tiền đó. Vina Capital là một quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động rất thành công trên thị trường Việt Nam trong những năm gần đây. Trong đó, hai lĩnh vực mà VinaCapital bỏ vốn nhiều nhất là chứng khoán và BĐS. Đến nay, VinaCapital quản lý 4 quỹ đầu tư, bao gồm Vietnam Op portunity Fund (VOF), VinaLand, Vietnam Infrastructure Limited và DFJ Capital L.P. Trong đó, VOF là quỹ dạng đóng, niêm yết tại Thị trường chứng khoán London (AIM ), có vốn trên 1,1 tỷ USD. VOF đặt trọng tâm đầu tư vào các ngành kinh tế chính, có tốc độ phát triển cao, như dịch vụ tài chính, bán lẻ, hàng tiêu dùng, du lịch, BĐS, hạ tầng và công nghệ thông tin. Theo ông Don Lam, Tổng giám đốc VinaCapital, VOF đã giải ngân được 900 triệu USD. Trong đó, 50% vốn được giải ngân vào thị trường chứng khoán (cả niêm yết và OTC). VOF sẽ huy động thêm vốn trong từng giai đoạn (khoảng 9 - 12 tháng/đợt). VinaCapital đang xây dựng kế hoạch huy động thêm vốn cho cả 4 quỹ đang quản lý. Còn Dragon Capital cho biết, tính đến nay, tổng giá trị tài sản mà họ quản lý tại Việt Nam đã tăng lên trên 2 tỷ USD. Nhiều quỹ do Dragon Capital quản lý chuyên đầu tư vào chứng khoán. Dự kiến trong thời gian tới, Dragon Capital sẽ thành lập quỹ đầu tư chuyên về lĩnh vực BĐS và hạ tầng. Trong khi đó, Mekong Capital lại chọn hướng đầu tư vào khối DN tư nhân tiềm năng. M ekong Capital đang quản lý 3 quỹ đầu tư là M ekong Enterprise Fund I (tổng vốn 18,5 triệu USD và đã giải ngân hết), M ekong Enterprise Fund II (vốn 50 triệu USD đã và đang giải ngân) và Việt Nam Azalea (chuẩn bị ra mắt để thu hút khoản vốn đầu tư trị giá 100 triệu USD cho khối tư nhân chưa niêm yết, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thu hút đầu tư, xây dựng thương hiệu, quảng bá, phân phối sản phẩm và thu hồi vốn). Dòng vốn FII liên tục được đổ vào Việt Nam gần đây thông qua các quỹ mới. Trong tháng 11/2007, Quỹ đầu tư Blackhorse Enhanced Vietnam Inc (BEVI) do Blackhorse Asset M anagement Pte Ltd (“BAM ”) của Singapore đã chính thức đi vào hoạt động tại Việt Nam, với tổng vốn huy động ban đầu là 110 triệu USD. BEVI đầu tư vào các công ty đã niêm yết và chưa niêm yết trên TTCK. Trong đó, hai mảng đầu tư chính của BEVI là xây dựng (khách sạn, cao ốc) và ngành hàng gia dụng. Đến thời điểm này, BEVI đã giải ngân được 1/4 số vốn huy động ban đầu.
- 3.2 S ôi động lĩnh vực bất động sản (BĐS ) và hạ tầng Bên cạnh chứng khoán, dòng vốn giáp tiếp cũng ồ ạt đổ vào BĐS và hạ tầng. Indochina Capital là một trong những quỹ đầu tư nước ngoài đã đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực này. Tháng 12/2007, Indochina Capital đã ra mắt hai quỹ mới, với tổng vốn lên đến 1 tỷ USD và sẽ chính thức đi vào hoạt động trong năm 2008. Trong đó, Quỹ hạ tầng của Indochina Capital có tổng vốn 500 triệu USD, đầu tư vào các công trình và công ty hoạt động trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, công trình nghiên cứu sử dụng năng lượng hiệu quả hơn, các dự án phát triển... Dự kiến, công trình đầu tiên mà Quỹ hạ tầng của Indochina Capital đầu tư sẽ là Park City , tọa lạc tại Nam Sài Gòn, với tổng diện tích trên 100 ha Indochina Land Holdings Fund 3 có tổng vốn huy động 500 triệu USD, đầu tư vào các dự án tài chính và phát triển BĐS dân dụng, thương mại, bán lẻ, khách sạn và khu nghỉ dưỡng, khu công nghiệp tại Việt Nam. Trước đó, Tập đoàn này đã có hai quỹ chuyên đầu tư về BĐS, là Indochina Land Holdings và Indochina Land Holdings Fund 2. Đến nay, Indochina Capital đã giải ngân được 500 triệu USD vào lĩnh vực BĐS. Ông Peter Ryder, Giám đốc điều hành của Indochina Land (Indochina Capital) nhận định, với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam, nhu cầu về BĐS cao cấp của cá nhân và DN trong và ngoài nước cũng như nhu cầu về văn phòng cho thuê sẽ tăng cao trong thời gian tới. Đó chính là cơ hội cho Indochina Land Holdings Fund 3. Vina Capital cũng có quỹ đầu tư chuyên về BĐS và hạ tầng, đó là VinaLand (chuyên về BĐS) với tổng vốn 680 triệu USD và đã giải ngân được 500 triệu USD; Vietnam Infrastructure Limited (chuyên về hạ tầng) với vốn 402 triệu USD. Cả hai quỹ này của VinaCapital đã niêm yết tại AIM . Ngoài ra, VinaCapital còn quản lý một quỹ đầu tư mạo hiểm (DFJ) trị giá 30 triệu USD, chuyên đầu tư vào các công ty công nghệ thông tin có tốc độ phát triển cao tại Việt Nam... 4. Đánh giá: Khả năng hấp thụ vốn: Nguồn vốn FII cho đến nay ước đạt khoảng 6,2 tỉ USD (tính theo thị giá), được đầu tư chủ yếu trên thị trường chứng khoán (khoảng gần 5 tỉ USD), phần còn lại
- được đầu tư vào thị trường bất động sản Nói như Phó Viện trưởng Viện Kinh tế VN, ông Trần Đình Thiên, FDI, ODA và nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) tại VN đang “lập kỷ lục mới”, mà chỉ nhìn vào, người ta có thể nói rằng “VN sắp cất cánh đến nơi”. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, TTCK VN đang ở trong tình trạng không hấp thụ hết vốn, hoặc hấp thụ kém. Các công ty niêm yết cứ phát hành thêm cổ phiếu bằng tăng vốn điều lệ, mà chưa tiêu hóa kịp nguồn vốn huy động qua kênh này. Số liệu từ Ủy ban Chứng khoán cho thấy, tổng vốn hóa của TTCK hiện chiếm khoảng 36% GDP và xấp xỉ 50% nếu cộng cả trái phiếu. Nguồn vốn gián tiếp này đã tạo sức ép lên việc tăng giá tiền đồng VN, trong khi đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế khác đang tỏ ra kém hấp dẫn. Tiền lãi từ TTCK lại đổ vào chính thị trường này, hoặc gần đây là vào lĩnh vực bất động sản. Điều này đã làm phát sinh những cơn nóng lạnh khó kiểm soát. “Thị trường vốn tại VN không nên bị định đoạt bởi “tiền nóng”, mà nên do các nhà đầu tư với chiến lược lâu dài tại VN định đoạt”- ông Jeremy Amias, Giám đốc Điều hành khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Tập đoàn Citi Group, nói. 4.2 Biện pháp nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế Tổng thư ký Vafi, ông Nguyễn Hoàng Hải, cho rằng cần nhìn nhận tình trạng khan hiếm tiền đồng là biểu hiện tốt của nền kinh tế khi hấp thụ được nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII). FII sẽ ngày càng gia tăng hơn nhiều so với giai đoạn hiện nay vì kinh tế nước ta sẽ còn tiếp tục tăng trưởng trong một khoảng thời gian dài cộng với quy mô TTCK ngày càng tăng lên nhiều lần. Do vậy, cần phải có những giải pháp thích hợp hấp thụ những nguồn vốn này 4.2.1 Các doanh nghiệp chỉ nên thu hút vốn khi thực sự cần vốn Các doanh nghiệp chỉ nên thực hiện thu hút vốn khi thực sự cần vốn và có phương án sử dụng vốn có hiệu quả. Tránh tình trạng nương dựa vào sự bùng nổ của thị trường chứng khoán, phát hành cổ phiếu một cách không tính toán để thu về một lượng thặng dư lớn gấp nhiều lần vốn điều lệ nhưng sử dụng không hiệu quả. Các đợt phát hành gần đây của một số doanh nghiệp và tình trạng phát hành cổ phiếu trong các ngân hàng là những ví dụ. M ột khi đồng vốn sinh lời thấp sẽ dẫn tới hiệu quả đầu tư thấp. Hiệu quả đầu tư thấp nhưng lại cứ đổ vốn vào sẽ đi đến tăng trưởng nóng và lợi nhuận thấp. Từ đó, nền kinh tế lâm vào nợ nần và con đường đến với khủng hoảng tài chính sẽ chẳng bao xa. Để chứng minh cho nhận xét này, chuyên gia nói trên
- đưa ra một công cụ tính toán sự tăng trưởng bền vững thông qua chỉ số Icor: Giả định rằng, năm 2006, tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 41% GDP, tăng trưởng thực là 8% thì chỉ số Icor là 41 : 8 = 5,1. Năm 2007, tăng trưởng trên 8,5% và vốn đầu tư khoảng 43% GDP thì Icor của năm 2007 là cũng khoảng 5. Thông thường, Icor của các nước chỉ 3 - 4. Theo chuyên gia này thì hiện tại, chỉ số Icor của Việt Nam ở mức trên 5. Đây là sự cảnh báo lớn về tăng trưởng thiếu bền vững. Tuy nhiên, về dài hạn thì việc dừng hoặc hạn chế thu hút vốn từ kênh thị trường chứng khoán nhằm giảm tác động lên lạm phát là không khả thi bởi không một một nền kinh tế nào không mong muốn có được nguồn lực từ dòng vốn này, nhất là dòng vốn FII. TS. Cao Sĩ Kiêm, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn tài chính tiền tệ quốc gia nói: “Vốn vào thì quan trọng nhất là phải sử dụng đồng vốn đó một cách hiệu quả. Phải đầu tư vào sản xuất kinh doanh ra sản phẩm, để không chỉ tăng nguồn hàng phục vụ xuất khẩu mà còn làm cân đối quan hệ tiền - hàng, tránh lạm phát. 4.2.2 Cho phép DN huy động vốn ngoại tệ Khả năng ngân hàng nhà nước mua ngoại tệ sẽ là hạn chế trong tình hình chính sách hiện nay vì chủ trương không cho tiền đồng tăng giá nhiều để khuyến khích xuất khẩu, nếu mua ngoại tệ nhiều có thể xảy ra tình trạng bao cấp giá mua ngoại tệ. Vì sao Ngân hàng Nhà nước phải mua USD? TS. Vũ Đình Ánh, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính) phân tích: “Phải mua vì trên thị trường quá nhiều USD từ các nguồn đầu tư gián tiếp (FII) và kiều hối. M ặt khác, do quy định của Ngân hàng Nhà nước không cho phép đầu tư FII bằng USD nên các Ngân hàng Nhà nước buộc phải mua USD và chuyển VND cho họ”. Cũng theo TS. Ánh, một nguyên nhân khác cực kỳ quan trọng là tính đến nay, thâm hụt thương mại bị âm 9 tỷ USD nên phải có một khoản tương đương để bù vào đó. Trong khi đó, khả năng hấp thụ của hệ thống NHTM cũng bị hạn chế. Bởi NHTM chỉ mua ngoại tệ phù hợp với nhu cầu bán ngoại tệ, bị khống chế ở trạng thái ngoại hối 30% so với vốn chủ sở hữu. Chính vì vậy cần cho phép DN huy động vốn bằng ngoại tệ. Khi cho phép DN được huy động vốn bằng ngoại tệ thì DN rất dễ dàng chấp nhận thanh toán ngoại tệ với tỷ giá liên ngân hàng (tỷ giá này có thể gây thiệt một chút so với thực tế nhưng DN có được rất nhiều lợi ích lớn hơn từ việc huy động được vốn). Vấn
- đề này cần được cân nhắc kỹ, tham vấn ý kiến từ các NHTM trong nước và ngoài nước, từ ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). 4.2.3 Mặt khác đòi hỏi phải khắc phục tình trạng dư thừa ngoại tệ ở NHTM do ngân hàng Nhà nước có lúc mua vào dồn có lúc lại mua cầm chừng hoặc dừng mua, làm, ảnh hưởng đến việc thu hút lượng ngoại tệ đang đổ vào từ các nguồn (không chỉ là nguồn đầu tư mà còn cả kiều hối, du lịch,) . 4.2.4 Một vấn đề quan trọng là một mặt tăng dự trữ ngoại hối, mặt khác cần có quy chế làm cho lượng vốn này sinh lời. III. KIỂM S OÁT VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NHƯ THẾ NÀO? Nếu không hiểu thấu đáo thế nào là kiểm soát vốn, hẳn chúng ta sẽ không hiểu những phát biểu gần đây như “không có chủ trương ngăn chặn dòng vốn nước ngoài”. Thật ra không có quốc gia nào lại đi làm cái chuyện điên rồ như thế, thế nhưng kiểm soát vốn lại là điều mà bất kỳ quốc gia nào, nhất là các nước đang phát triển như VN, cần phải thực hiện. Vấn đề chỉ là cách thức như thế nào mà thôi. Những thông tin gần đây cho thấy có khả năng Chính phủ sẽ đưa ra các biện pháp kiểm soát vốn để kìm hãm đà tăng trưởng quá nóng trên thị trường chứng khoán (TTCK) trong vài tháng qua. Vậy kiểm soát vốn là gì mà có quá nhiều câu chuyện ồn ào về nó? 1. Kiểm soát vốn là gì? Kiểm soát vốn nếu chỉ nghe qua thuật ngữ đã được Việt hóa thì không có gì là ghê gớm, nhưng nếu đi vào nghĩa gốc của từ này (Capital control) thì có nhiều điều cần bàn, nhất là trong điều kiện VN đang trong giai đoạn mở cửa mạnh mẽ thị trường tài chính để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Kiểm soát vốn chính là thực hiện các biện pháp can thiệp của chính phủ dưới nhiều hình thức khác nhau để tác động (hạn chế) lên dòng vốn nước ngoài chảy vào và ra khỏi một quốc gia để nhằm đạt “mục tiêu nhất định” của chính phủ. Vậy hiện nay mục tiêu của kiểm soát vốn ở nước ta là gì? Có thể trả lời ngay rằng rất tiếc là chúng ta chưa bao giờ có một hệ thống chính sách và mục tiêu nhất quán trong việc kiểm soát dòng vốn, điều mà các nền kinh tế đang chuyển đổi đều phải quan
- tâm đặc biệt ngay từ khi mở cửa thị trường, chứ không phải đợi đến lúc nước đến chân mới nhảy. Những động thái về việc có khả năng áp đặt kiểm soát vốn trong thời gian tới chính là do những sức ép về việc TTCK phát triển quá nóng. Nói cách khác, kiểm soát vốn mà chúng ta dự định và đã thực hiện (như dừng lại việc mở room - tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài) chính là do yếu tố tình thế là chính, chứ không phải xuất p hát từ một chiến lược mang tính dài hạn. Như vậy điều quan trọng là trong thời gian sắp tới Chính phủ cần nghiên cứu các mục tiêu của kiểm soát vốn theo nghĩa hướng đến một “chiến lược tổng thể”, chứ không phải chỉ duy nhất là vì sự phát triển của TTCK. Với một thị trường tài chính còn non trẻ như VN, thì mục tiêu của kiểm soát vốn hiện nay không nằm ngoài mục đích hướng đến hệ thống tài chính - tiền tệ trong nước phát triển lành mạnh và ổn định. M à mục tiêu như thế lại đứng trước một thách thức là không thể hấp thụ ngay một lúc dòng vốn đầu tư gián tiếp chảy vào quá nhanh. Nguy cơ bong bóng chứng khoán là tất nhiên do dòng vốn ngoại quanh đi quẩn lại chỉ là mua bán lòng vòng mà không cung ứng hết toàn bộ vào các dự án sinh lợi. Như vậy, ngoài việc kiểm soát vốn, chúng ta còn phải chú ý đến việc tăng năng lực cho hệ thống tài chính, chẳng hạn như cần phải siết chặt lại qui chế thành lập ngân hàng, chỉ những ngân hàng nào có đủ tiềm lực nhất định mới được thành lập. Việc Chính phủ yêu cầu đến năm 2010 các ngân hàng phải có đủ vốn điều lệ 3.000 tỉ trở lên mới được cấp phép hoạt động, hay như việc cổ phần hóa các ngân hàng thương mại quốc doanh để tăng năng lực (ngoài nguồn vốn ra còn là các vấn đề liên quan đến quản trị và minh bạch thông tin...) cho hệ thống tài chính là một huớng đi cần phải được thực hiện quyết liệt, thay cho việc bơm tiền từ ngân sách. 2. Vì sao phải kiểm soát vốn: Nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam thì phải đem ngoại tệ để đổi lấy nội tệ (VNĐ). Kết thúc quá trình kinh doanh, nhà đầu tư nước ngoài sẽ đem cả vốn lẫn lời đổi lấy ngoại tệ và mang về nước nếu muốn. Tuy nhiên vấn đề không có gì đáng nói nếu không xảy ra cùng lúc các nhà đầu tư nước ngoài (thường là các nhà đầu tư ngắn hạn) đồng loạt đổi ngoại tệ mang về nước làm cho cầu ngoại tệ tăng đột biến gây áp
- lực lớn lên tỷ giá. Lịch sử thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng tiền tệ bắt nguồn từ những sự việc như vậy. Khủng hoảng tài chính Đông Á: bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan khi các nhà đầu tư gián tiếp bán tháo cổ phiếu và rút chạy khỏi thị trường chứng khoán Thái Lan. Sau nhiều nỗ lực cứu vãn đồng bản tệ bằng cách sử dụng quỹ dự trữ ngoại tệ để giữ giá đồng tiền, cuối cùng Chính phủ Thái phải thả nổi tỷ giá. Sự mất giá của đồng baht Thái đã gây phản ứng dây chuyền khắp khu vực tạo nên một cuộc khủng hoảng tồi tệ chưa từng thấy rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á". Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, M alaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình. M ặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ. Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái Lan đã vỡ. M ột số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.. 3. Giá phải trả của kiểm soát vốn? Có nhiều quan điểm lầm tưởng rằng nếu như áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn gián tiếp thì sẽ không phải trả giá. Trên thực tế, đã gọi là kiểm soát vốn thì cho dù là áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn như thế nào cũng phải trả một giá nhất định. Cái giá chung nhất chính là sẽ làm chậm lại các cơ hội thu hút vốn đầu tư khi mà các quốc gia ngày càng cạnh tranh quyết liệt để thu hút dòng vốn toàn cầu. Đi vào từng lĩnh vực cụ thể thì kiểm soát vốn sẽ có những tác động nhất định.
- Thứ nhất, kiểm soát vốn nếu không khéo sẽ mâu thuẫn với pháp lệnh ngoại hối mới vừa ban hành vào tháng 12-2005, mà tinh thần chung là tự do hóa các giao dịch ngoại hối. Chính phủ hiện có chỉ đạo sắp tới đây cần phải nghiên cứu bổ sung và sửa đổi các văn bản hướng dẫn pháp lệnh ngoại hối có liên quan đến việc gửi và rút vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Những thay đổi này có thể sẽ ảnh hưởng đến chiến lược của các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy các thay đổi trong qui chế ngoại hối sắp tới phải thực hiện nguyên tắc “bất hồi tố”. Nghĩa là chúng ta không được đụng chạm đến dòng vốn ngoại (khoảng 4 tỉ đôla) hiện nay. Chỉ có những dòng vốn gián tiếp kể từ sau các thay đổi này mới chịu sự chi phối của biện pháp kiểm soát vốn. Thứ hai, kiểm soát vốn làm chi phí giao dịch vốn (tính trên tổng qui mô dòng vốn) tăng cao và sẽ làm cho dòng vốn chuyển hướng sang các quốc gia khác. Theo nhiều khảo sát, chi phí giao dịch tại Trung Quốc hiện là 1,2%, VN là 2%; trong khi Hong Kong chỉ là 0,013%. Nếu áp đặt thêm các biện pháp kiểm soát vốn nặng về hành chính, có khả năng dòng vốn đang chảy vào VN sẽ chuyển huớng ngược trở về các nước có chi phí giao dịch vốn thấp hơn như Trung Quốc chẳng hạn. Đây là cái giá phải trả cần phải đuợc cân nhắc thấu đáo trước khi ban hành các biện pháp kiểm soát vốn chính thức. Thứ ba, những cái giá phải trả như trên, đến lượt nó, có khả năng làm cho TTCK nước ta vốn đang ở vào giai đoạn khởi sắc có khả năng bị chững lại, mà một khi TTCK rơi vào cảnh tiêu điều như năm 2001 thì lấy lại niềm tin từ các nhà đầu tư một lần nữa là vô cùng khó khăn. Vì sự phát triển ổn định và lành mạnh của hệ thống tài chính, kiểm soát vốn là cần thiết, tuy nhiên các biện pháp cần phải theo nguyên tắc bất hồi tố, rõ ràng và có thể dự đoán được 4. Kiểm soát vốn tại Việt Nam – nên hay không? Giữa tháng 2 năm 2007, Các hãng tin nước ngoài như Bloomberg và AFP đều đồng loạt trích nguồn tin từ Ngân hàng ANZ cho rằng Việt Nam đang chuẩn bị áp dụng một loạt biện pháp quản lý dòng vốn ra - vào tương tự như Thái Lan để giảm nhiệt thị trường chứng khoán. Tin này ngay lập tức khiến cho các nhà đầu tư lo lắng, thị trường chứng khoán Việt nam nghỉ tết mà không khí sôi sùng sục.
- Ngay sau đó, trong công văn ngày 27/2/08 , thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định chưa thực hiện các biện pháp kiểm soát ngoại hối. Vậy là yên lòng thị trường và các nhà đầu tư không phải lo sợ thị trường sụp đổ. Phải chăng khẳng định trên có nghĩa là sẽ không kiểm soát vốn hay chỉ là tạm thời chưa kiểm soát? Tạm thời thì có nghĩa là sớm muộn gì trong tương lai cũng sẽ kiểm soát , thị trường sẽ phản ứng thế nào? Liệu có lặp lại lịch sử ngày thứ ba đen tối của TTCK Thái Lan? Và gần đây nhất dư luận lại xôn xao về dự thảo quy chế quản lý các quỹ đầu tư nước ngoài, quy định nhà đầu tư nước ngoài muốn thành lập chi nhánh công ty quản lý quỹ tại Việt Nam phải là doanh nghiệp đã hoạt động ba năm, đồng thời đang quản lý tài sản trị giá 500 triệu USD trở lên. Dư luận phản ứng mạnh mẽ vì cho rằng hiện nay có 80% các tổ chức đầu tư nước ngoài ở Việt Nam không đáp ứng đủ yêu cầu và như thế sẽ là cản trở dòng vốn nước ngòai chảy vào kênh thị trường chứng khoán. Qua đó có thể thấy vấn đề kiểm soát vốn đối với TTCK là một vấn đề hết sức nhạy cảm và cần được cân nhắc thận trọng- Nên hay không? Và nếu nên thì nên dùng những biện pháp nào để vừa đảm bảo cho đảm bảo sự lành mạnh , bền vững của nền kinh tế , vừa không cản trở sự p hát triển của TTCK. TTCKVN hiện đang tăng trưởng nhanh chóng, kéo theo làn sóng các nhà đầu tư nước ngoài, đã đẩy giá tiền tệ trong nước và mức lạm phát lên, và kèm theo đó là nỗi sợ hãi về bong bóng chứng khoán. Nếu so với những gì đang xảy ra trên thế giới , ta có thể thấy việc sẵn sàng để ứng phó với sự đảo chiều của dòng vốn của TTCKVN là một đòi hỏi bức thiết và khá nhạy cảm hiện nay. 4.1 Bài học kinh nghiệm của Malaysia và Thái Lan Trước khi khẳng định nên hay không nên kiếm soát vốn ở VN , nếu nhìn sang các nước láng giềng của VN: Thái Lan và M alaysia. Hai bức tranh tương phản khi so sánh hiệu quả của kiểm soát vốn. Malaysia: sự kiếm soát khôn ngoan Trong những năm 1997-98, M alaysia cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng của khủng hoảng tài chính kinh tế, nhưng khác với một số nước Đông Á khác,Malaysia kiên quyết khước từ "liệu pháp IM F", thực thi một chế độ kiểm soát gắt gao việc chảy máu ngoại tệ - M ột biện pháp mà nhiều nhà kinh tế lúc đó cho rằng sẽ làm mất lòng tin của các nhà đầu tư và hậu quả sẽ là kéo M alaysia lún sâu hơn vào khủng hoảng và suy thoái.
- M ột Uỷ ban đặc biệt với sự chủ trì trực tiếp của Thủ tướng đã được thành lập và làm việc ngày đêm theo kiểu thời chiến để đối phó với khủng hoảng Kết quả thật bất ngờ, M alaysia vững vàng vượt qua được sóng gió không cần đến bất cứ viện trợ nào của các tổ chức tiền tệ quốc tế. Thái Lan: sự kiểm soát ‘bồng bột” Ngày thứ ba đen tối với chứng khoán Thái Lan Cuối chiều 18/12, Ngân hàng Trung ương Thái Lan yêu cầu các nhà băng tư nhân phong tỏa tối thiểu 30% trị giá các tài khoản tiền gửi ngoại tệ được lập để đầu tư tài chính. Việc phong tỏa này có hiệu lực từ 19/12 và kéo dài trong vòng một năm. Nếu nhà đầu tư muốn rút trước hạn quy định, chỉ được giải ngân tối đa 2/3 khoản tiền bị giữ lại đồng thời chịu phạt 10% tổng số tiền gửi ban đầu. Các biện pháp trên đây được đưa ra nhằm chặn đà tăng giá của đồng baht so với đôla M ỹ. Tuy nhiên, ngay trong ngày đầu tiên quy định kiểm soát tiện tệ có hiệu lực, thị trường chứng khoán Thái Lan rơi vào thế hoảng loạn. Chỉ số SET mở cửa với mức thấp hơn 20% so với thứ 2 và đến cuối phiên chốt 622,14 điểm, giảm 14,8%. 622,14 điểm là mức chốt thấp nhất kể từ 29/10/2004. M ức giảm gần 15% cũng được xem là lớn nhất kể từ 1975. Cú mất điểm này khiến giá trị thị trường chứng khóan Thái Lan sụt 23 tỷ USD. Và Tác nhân chính không gì khác là cơn tháo chạy hoảng loạn của các nhà đầu tư nước ngoài Kết luận: Có thể thấy, cùng là thực hiện kiểm soát vốn nhưng M alaysia lại đạt được những thành công kỳ diệu, trong khi Thái Lan lại vấp phải thất bại nặng nề. Do vậy, vấn đề kiểm soát vốn hay không là một bài toán không hề đơn giản. Và nếu kiểm soát vốn thì phải thực hiện như thế nào cho hiệu quả cũng là một bài toán đau đầu các nhà hoạch định chính sách. 4.2 Xét thực tế Việt Nam Vào những ngày cuối tháng 5 năm 2006, Ngân hàng Thế giới (WB) đã đưa ra cảnh báo đối với các nước đang phát triển về việc các nước này đang ở trong một tình trạng tương tự như thời kỳ ngay trước khi xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ như cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998. Đặc điểm quan trọng mà WB đưa ra là hiện nay các nước đang phát triển đang ngày càng phụ thuộc vào nguồn vốn tư nhân. Điều này tiềm tàng nguy cơ các nhà đầu tư
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận tài chính quốc tế: Khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
52 p | 1286 | 299
-
TIểu luận môn tài chính quốc tế: Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong 5 năm trở lại đây
64 p | 658 | 188
-
Tiểu luận môn tài chính quốc tế: Khủng hoảng tài chính Mỹ giai đoạn 2007-2009
28 p | 1185 | 105
-
Tiểu luận tài chính quốc tế: Chính sách quản lý ngoại hối của NHNN trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
24 p | 336 | 95
-
Tiểu luận tài chính quốc tế: Liên minh tiền tệ châu Âu
19 p | 509 | 74
-
Tiểu luận tài chính quốc tế: Tác động của việc định giá thấp đồng nhân dân tệ đến thương mại toàn cầu
27 p | 283 | 60
-
Tiểu luận tài chính quốc tế: Diễn biến khủng hoảng tài chính Argentina giai đoạn 1999-2002 và bài học cho Việt Nam
34 p | 246 | 48
-
Tiểu luận tài chính quốc tế: Phân tích tình hình kinh tế thế giới hậu khủng hoảng tài chính toàn cầu
27 p | 220 | 47
-
Bài tập nhóm Tài chính quốc tế: Sự khủng hoảng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đến đầu tư quốc tế vào Việt Nam
38 p | 199 | 42
-
Tiểu luận Tài chính quốc tế: Phân tích thực trạng quản lý thị trường ngoại tệ (Chợ đen) ở Việt Nam và trình bày các giải pháp để khắc phục hạn chế nêu trên
11 p | 221 | 31
-
Tiểu luận tài chính quốc tế: Vai trò của các ngân hàng đầu tư lớn trong nền tài chính toàn cầu
13 p | 192 | 29
-
Bài tập nhóm Tài chính quốc tế: Vị thế của đồng USD qua các giai đoạn
11 p | 155 | 26
-
Bài tập nhóm Tài chính quốc tế: Phân tích ảnh hưởng của các chính sách kinh tế đến tỷ giá hối đoái. Liên hệ với Việt Nam cho biết các chính sách kinh tế thời kỳ 2008-2011 ảnh hưởng như thế nào đến tỷ giá VND/USD
22 p | 243 | 21
-
Thuyết trình: Quản trị tài chính quốc tế
18 p | 131 | 14
-
Tiểu luận: Ngăn ngừa khủng hoảng tài chính quốc tế, một chương trình cải tổ chưa hoàn tất
21 p | 85 | 8
-
Bài thuyết trình nhóm: Trắc nghiệm tài chính quốc tế
35 p | 119 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Triển vọng để thành phố Hồ Chí Minh trở thành Trung tâm Tài chính Quốc tế
57 p | 18 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn